(url) An Phong
sóng trăng 06.12.2006 14:18:46 (permalink)
.
 
An Phong



 
Tiểu sử tác giả:
 
Tên họ: Nguyễn Văn Diễn.
Bút hiệu: An Phong Nguyễn Văn Diễn
Sinh năm 1936 tại Cổ Thành, Quảng Trị

Hoạt động xã hội:

- 1957-1975 Thành viên hoạt động Hội Hướng Đạo Việt Nam, Trưởng đơn vị cấp tỉnh, Huấn luyện viên Trại trường cấp Tỉnh và toàn quốc.
- 1960-1968: Tốt nghiệp khóa Quản đốc Đồn điền CHPI (Compagnie des Hauts Plateaux Indochinois) tại Banmêthuột; Quản đốc các đồn điền Ea Khit, Ea Tull, Bmt.
- 1964-1978: GS Sử địa các trường trung học Banmêthuột và Sàigòn.                           
- 1969-1975: Sáng lập viên Hội Hướng đạo Quân đội trực thuộc TC.CTCT. QL.VNCH, Ủy viên Kế hoạch kiêm UV. Ngành Thiếu và Ngành Kha Hội đồng Trung ương, Khóa trưởng Trại trường huynh trưởng ngành Thiếu và Kha Hướng Đạo Quân Đội.
- 1970-1975:Thường viết trên báo Tiền Tuyến, Cục Tâm Lý Chiến QLVNCH, mục Thanh niên, Hướng Đạo
- 1982-1983: Vượt biển, đến trại tỵ nạn Galang, Indonesia. Viết cho Nguyệt san Tự Do của Linh mục Dominici.
- 1983: Đến Mỹ, cư ngụ tại Houston, TX.
- 1983-1986: Huấn luyện viên Trại trường ngành Thiếu và Kha Hướng Đạo Việt Nam Hoa Kỳ (Boy Scout Of America) gốc VN.
- 1986- …:  Hội viên An Việt, nghiên cứu và phổ biến triết lý An Vi của cố triết gia Lương Kim Định
1985-1989:  Tổng thư ký Tòa soạn Houston Thời Báo   
1991-…: Hội viên Văn bút Việt Nam Hải Ngoại, Trung tâm Nam Hoa Kỳ đã từng giữ nhiệm vụ uv. Văn Hóa, uv. Tổng thư Ký, Phó Chủ tịch…

Tác phẩm đã xuất bản:

- Truyện dài dã sử : Thần Long Bách Việt, 1987
- Khảo luận văn chính sử : Đường Ta Đi, 2003
 
Tác phẩm đã đăng trên các báo, tuyển tập…

- Truyện dài dã sử: Nước Non Tiền Sử
- Biên khảo lịch sử: Việt Nam, 150 năm những bước đi mệt mỏi
- Sử Biên niên:  Việt Nam trong dòng lịch sử thế giới
- Hồi ký: Hướng Đạo Việt Nam, 20 ngày hấp hối
- Cùng một số tiểu luận bàn về văn hóa, lịch sử, kịch dã sử và truyện ngắn…
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2006 09:52:33 bởi TTL >
#1
    Ngọc Lý 27.07.2007 13:30:19 (permalink)
    .
     
    Chân thiện mỹ trong chuyện ÔNG BÀN CỔ
    An Phong Nguyễn Văn Diễn 
     
     


    I.- NGUỒN GỐC CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ 

     
    Chuyện Ông BÀN CỔ còn gọi là BÀN VŨ hay BÀN HỒ hay BÀNH TỔ xưa nay ai cũng nói là của Tàu, riết rồi thành nếp, hễ ai nói khác là sai. Sự thực là của người Dao* ở Quảng Tây đã được Từ Chỉnh sao chép (quá trể) vào khoảng năm 225/STL và ông nói rằng chuyện này đã được truyền tụng lâu đời trong xã hội người Dao. Chúng ta đã biết, từ thời Nhà Hán trở về trước, đất Quảng Ðông và Quảng Tây (Lưỡng Quảng còn gọi là Lưỡng Việt) lên tới Ðộng Ðình Hồ là đất của người Bách Việt. Người Dao là một dân tộc thuộc chủng Bách Việt mà người Trung Hoa cổ gọi chung là Man di, Nam man... 


        * Người Dao là một dân tộc khá đông dân, ngày nay họ sống rải rác từ các tỉnh phía Nam nước Tàu, suốt dọc biên giới Hoa Việt, vùng thượng du Bắc Việt xuống tới các tỉnh phía Bắc của miền Trung Việt Nam. Ðời sống và tổ chức xã hội của họ gần giống người Mường. Những năm 1961- 63, khi còn làm phụ tá Quản đốc các đồn điền chính phủ ở Banmêthuột, Darlac, Cao nguyên Trung phần, người viết có nhận một số người Dao, Mường, Mán... di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An vào làm việc cho đồn điền. Họ nói tiếng Việt với nhiều thổ ngữ rất khó nghe.


        Chính người Trung Hoa cổ khi chọn chuyện này làm thời điểm khai thiên lập địa và khởi nguyên của con người, cũng đã chủ tâm đặt trước nhiều chuyện cổ khác… cho đến khi vua Hoàng Ðế (Hiên Viên) lập quốc là năm 2.704/TCN. 

    Chẳng riêng gì chuyện BÀN CỔ, những chuyện khác như NỮ OA, PHỤC HI... đều phản ảnh tư tưởng nông nghiệp xuất phát từ các dân tộc ở miền Nam Trường Giang đã cho chúng ta một giải đáp khá rõ ràng về nguồn gốc của chúng. Toàn bản văn cổ chuyện Ông BÀN CỔ được viết thành từng câu 4 chữ như sau: 


        Hỗn mang chi sơ

        Vị phân Thiên Ðịa

        Bàn cổ thủ xuất

        Thủy phân âm dương

        Thiên khai ư Tý

        Ðịa tịch ư Sửu

        Nhân sinh ư Dần ...


    Bản dịch:

     
          Thái hoang ban sơ\

          Trời đất chưa phân

          Bàn Cổ ra tay

          Trước phân âm dương

          Khai Trời giờ Chuột

          Dựng Ðất giờ Trâu

          Sinh Nguời giờ Cọp *…


        * Tý, Sửu, Dần là 3 con thú đầu trong 12 con thú để tính thời gian của văn hóa BÁCH VIỆT từ thời đại PHỤC HI.


        Sách nói mỗi ngày Ông biến đổi chín lần, mỗi lần cao thêm 10 thước. Khi Ông lớn lên bao nhiêu thì Ðất dầy thêm bấy nhiêu, Trời cao thêm bấy nhiêu. Ông BÀN CỔ sống tới 18.000 năm nên Ðất cực dầy, Trời cực cao, còn thân hình Ông thì cực kỳ to lớn. Khi Ông khóc, nước mắt chảy ra làm thành hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử. Hơi thở của Ông là gió và khi Ông liếc mắt nhìn đây đó thì tạo ra sấm chớp. Lúc Ông vui tươi khỏe mạnh thì trời đất êm đềm, khí hậu tốt đẹp; lúc Ông buồn, đau ốm thì mây mù phủ kín, trời đất ảm đạm, lạnh giá; lúc Ông giận dữ, thì mưa gió, bão bùng, sấm sét, lụt lội tràn ngập khắp nơi. Ðầu đội Trời, chân đạp Ðất, Ông sống an nhiên tự tại và xữ dụng thiên nhiên để làm cho đời sống của Ông mỗi ngày một thêm tốt đẹp. 


        Khi Ông chết, xác Ông rã ra từng mảnh làm thành những vùng đất núi lớn trong thiên hạ. Máu, mỡ chảy ra thành biển cả, hồ, ao. Hai con mắt trở thành mặt trăng và mặt trời. Lông, tóc đâm rể xuống đất mọc thành cây cối. Những loài sâu bọ sống trên thân xác Ông trở thành loài người.

    II.- TƯ TƯỞNG ẨN DẤU TRONG CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ


    Câu chuyện thoạt nghe có vẻ hoang đường, phóng đại đến độ hài hước, tức cười. Tuy nhiên nếu chịu khó suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, tổ tiên người Dao chắc chắn không truyền tụng một câu chuyện hài hước cho vui. Người Trung Hoa cổ cũng không ngu dại gì khi vay mượn một chuyện tiếu lâm của “Man di” để tôn lên thành ông tổ của họ! Bởi đó mà người thời xưa đã quan tâm sâu xa đến chuyện này. Họ quan niệm rằng chuyện cổ, là những thông điệp quan trọng của người xưa, trong đó mang nhiều ẩn dụ mà người đời sau phải gia tâm nghiên cứu để thấy được cái giá trị của nó.

    Giáo sư kiêm triết gia Lương Kim Ðịnh trong sách Nhân Chủ đã nói về cái thông điệp lý thú đó, ông xác quyết, chuyện Ông BÀN CỔ là khởi nguyên của toàn bộ triết học Ðông Á mà đỉnh cao là mẫu người Nhân chủ, Quân tử cũng đã xuất phát từ đó.


    Có người đặt nghi vấn, con người làm sao lại có thể góp phần vào việc kiến tạo vũ trụ, thiên nhiên như mẫu chuyện viết về BÀN CỔ, để xưng là Nhân chủ? Vô lý và khoa ngôn chăng?


    Thưa, trước hết chúng ta không lấy con mắt khoa học kỹ thuật để nhìn về chuyện Ông Bàn Cổ mà hãy nhìn đấy là một ẩn dụ mang tính chất triết học thì câu chuyện sẽ trở nên sáng sủa và đơn giản đến độ một trẻ nhỏ cũng cảm nhận dễ dàng. Khởi thủy BÀN CỔ không kiến tạo vũ trụ từ không đến có, vì trước BÀN CỔ đã có trời, đất…hoang sơ, mà theo nghĩa con người nắm phần xếp đặt, cải sửa và xử dụng thiên nhiên theo ý mình. Chúng ta có thể nói, nhờ có Người mà thiên nhiên, vũ trụ được biết tới, được đặt tên và được xử dụng. Nếu không có Người, vũ trụ chỉ là khối vật chất vô danh, có cũng như không.


    Trang Tử diễn đạt ý trên bằng câu: 
     ”Thiên Ðịa dữ ngã tịnh sinh” 
     (Trời, Ðất cùng với Ta sinh ra).


    Khi chưa có Người tức là chưa có nhận xét thì tất cả là thái hoang. Ðâu có tên Hồng Hà, Hương Giang, Cửu long...; Ðâu có tên Kim Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh... Chỉ sau khi con Người sinh ra, thiên nhiên, vũ trụ mới được biết tới, được đặt tên, xữ dụng và cải sửa dần dần cùng với sự hiểu biết và bàn tay của Người mà thôi.


    Ðể sự diễn đạt được cụ thể hơn, xin đưa một tỉ dụ: Anh Y lúc chưa sinh ra thì vũ trụ chưa có đối với riêng anh. Khi Anh Y mới sinh thì vũ trụ của anh thật là nhỏø: chiếc vú của mẹ, vòng tay của cha, là tiếng ru ạ ời, là sáng, là tối... Lớn lên một tí, vũ trụ của anh Y là khuôn mặt của các anh, các chị, là ngôi nhà thân yêu, là tiếng nói của mỗi người thân trong gia đình... Cứ thế, anh Y lớn lên bao nhiêu anh, vũ trụ quanh anh càng lớn lên, rộng ra, dày đặc bấy nhiêu... Anh là thầy giáo thì vũ trụ của anh trong phạm trù thầy giáo với học sinh, trường học, tài liệu, bài vở, đồng nghiệp, kỷ luật, tác phong đạo đức… anh là nông dân thì vũ trụ của anh trong phạm trù nhà nông với đất đai, mùa màng, mưa nắng, thủy triều lên xuống, con trâu, cái cày, hạt giống… cao hơn nữa, anh là nhà thiên văn thì vũ trụ của anh trong phạm trù mặt trăng, mặt trời, các tinh tú với biết bao hệ lụy phức tạp của nó...

    Anh Y xử dụng và cải sửa vũ trụ cho thích hợp với cuộc sống của anh và của xã hội. Anh sống an nhiên tự tại trong khung cảnh an hoà với ý niệm anh là một Người Chủ (Nhân Chủ) có trách nhiệm đối với thiên nhiên và xã hội từ dĩ vãng cũng như trong tương lai.



    Khi nhắm mắt lìa trần anh Y để lại cho con cháu biết bao tài sản vô giá: Vật chất là những tài nguyên anh đã cãi sửa, xây dựng lên. Lý trí là tư tưởng, là kinh nghiệm thành bại trên đường đời; Tinh thần là nếp sống đạo đức, luân lý anh đã sống, đã khuyên dậy con cháu, đã dẫn dắt những người chung quanh; Tâm linh của anh, hiên ngang như mặt trời, dịu dàng như mặt trăng, soi sáng cho đời sau. Con cháu, hậu thế cứ theo đó mà dựng xây, sáng tạo… tiếp nối cuộc sống. 


    Bằng vào nền tảng đó, quan niệm nhân sinh Bách Việt mang tầm vóc một minh triết diệu kỳ, sinh động, soi sáng toàn bộ đời sống Con Người từ lúc chào đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.


    Từ chuyện Ông BÀN CỔ chúng ta thấy được quan niệm nhân sinh của người Bách Việt cổ đã thoát khỏi cái mặc cảm tự ti, hèn kém của kiếp người trước thiên nhiên, vũ trụ. Con Người Bách Việt đầu đôïi trời, chân đạp đất, sống an nhiên tự tại trong ý thức làm chủ. Lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín để làm phương châm hành xử chẳng riêng gì với tha nhân mà cả với chính mình.



    III.- NHÌN SƠ VỀ TÂY PHƯƠNG CỔ ÐẠI 



    Quay nhìn về thế giới Tây phương cổ đại để xem họ suy tư về con người như thế nào: Khởi đầu họ quan niệm con người là nô lệ của thần minh đến độ lấy cả mạng sống con người để tế lễ thần minh. Về sau họ lại chối bỏ thần minh mà đề cao Nhân bản. Khi triết gia Aristote và những người đồng thời như Socrate, Platoon… của Hi Lạp cổ đại, 600 năm TCN, định nghĩa: ”Người là con vật biết suy lý” (animal raisonable), là các ông đã đặt con người vào phạm trù sự vật. Do đó, trong gần 20 thế kỷ, tư tưởng Nhân bản Suy lý của Aristote được xem là một hảo ý nhằm giải phóng con người ra khỏi thần minh hầu trả lại độc lập cho con người. 

     Vào thế kỷ 17, 18 khi Âu châu thoát ra khỏi ảnh hưởng của giáo hội Công giáo La Mã, các bậc thầy như Voltaire, Descartes, Pascal, Képler, Leibnitz, Galilée, Newton… phục hưng nền Nhân bản Suy lý tạo thành ý thức mới trong việc xây đắp nền móng Khoa học thực dụng cận đại. Ðịa cầu nhờ đó phát triển rất nhanh trên nhiều lãnh vực đáp ứng được phần nào nhu cầu vật chất của con người. Xã hội dần dần chạy theo nguyên tắc suy lý và nhà nước pháp trị. Quán tính đã đẩy nó đi rất xa, từ Suy lý* tiến tới Duy lý**, rồi Duy vật***,Hiện sinh****… vô tình đưa con người ra khỏi khả năng kiểm soát giá trị thực tế của nó.

    Suy lý: Sự suy diễn theo căn bản lý luận, dựa vào lý lẽ phải, trái mà kết luận. Tỉ dụ: Mẹ thương con là do tình cảm chứ không do suy lý. Chủ tiêm buôn tặng quà cho khách hành là do suy lý chứ không do tình cảm. Thầy dạy học trò vừa do tình cảm vừa do suy lý...



    ** Duy lý: Chỉ có lý tính, luận thuyết cho rằng con người vốn sẵn có lý tính tự nhiên mà nhận thức tất cả sự việc trên đời, những kinh nghiệm, tín ngưỡng, huyền niệm... đều không đáng kể...


    *** Duy vật: Con đẻ của Duy lý, cháu nội của Suy lý. Duy vật thiên về vật chất hoàn toàn, tinh thần chỉ là phụ thuộc hoặc không đáng kể. Từ duy vật mà phát sinh ra Duy vật Biện chứng pháp, Duy vật sử quan, Duy vật chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa...


    **** Hiện sinh: một quan niệm sống chối bỏ mọi ràng buộc của xã hội, luân lý, văn hóa, truyền thống, tín ngưỡng, luật pháp... Họ cho đó là rác rến, cản trở tự do của con người.


    Triết gia Lương Kim Ðịnh viết:“Thế giới thế kỷ 20 là một cơn sốt duy lý, duy vật và hiện sinh vô cùng nghiệt ngã, tạo nên biết bao thảm cảnh trên địa cầu. Ðó là hậu quả của sự dẹp bỏ nền tảng đạo đức do tôn giáo xây dựng gần 2.000 năm để thay thế và phát triển tư tưởng Nhân bản Duy lý chưa được hoàn chỉnh”.


    Chúng ta dễ dàng nhận thấy nhân sinh và vũ trụ quan của người Tây Phương thời cổ là vong thân. Con người được sinh ra từ những loại thần cực kỳ hung dữ. Thân phận con người là những kẻ nô lệ thần minh, nếu lầm lỗi có thể bị thần minh tiêu diệt không thương xót.


    Nếu chàng PROMETHÉE tuổi trẻ (thần thoại Hy Lạp) phải lén lút lên núi Olympie ăn cắp lửa trời đem về soi sáng cho trần gian khỏi tăm tối để rồi bị thần Trời (ZEUS) trừng phạt, trả thù cực kỳ tàn nhẫn. Nếu Abraham, tổ phụ người Do Thái phải đem con trai độc nhất sát tế thần Gia Vê để chứng tỏ lòng tuân phục tuyệt đối của mình. Nếu mỗi năm người Babilon phải giết hàng trăm thiếu niên nam nữ đồng trinh để tế thần. Nếu người Aán Ðộ vì sợ dơ bẩn lời cầu kinh Bàlamôn mà phạt tội người Padi* phải bị đổ chì vào lỗ tai (một cách giết người cực kỳ tàn khốc). Nếu vua chúa Trung Hoa cổ giết hàng trăm sinh mạng con người để tế thần xã tắc trước khi ra trận hay tế Thái miếu để tạ ơn “thần” tổ tiên dòng họ sau một cuộc chiến thắng…


    Thì ÔNG BÀN CỔ, chỉ một cái liếc mắt là phát sinh ra sấm chớp, chỉ một hơi thở là gió nổi lên, bỏ ra chút mồ hôi, nước mắt là đầy ắp công ích như nước hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử!… Thì quả thực mẩu chuyện Ông Bàn Cổ khiến cho chúng ta thật sự kinh hoàng trước cái giá trị tuyệt vời của con Người Ðông Á đối với vũ trụ. Ðó là vị thế Nhân Bản Hoàn Mỹ hợp tình hợp lý ở chỗ Con Người đã nhận diện được mình là chủ của chính mình đồng thời là chủ của cái thiên nhiên bao la hùng vĩ chung quanh. 

    * Padi, có nghĩa là “không được phân loại”, gần giống với nô lệ, dùng để gọi người Dravidian, thổ dân rất cổ vốn là chủ đất Aán Ðộ cách đây khoảng 3200 năm. Họ bị tội đổ chì vào lổ tai nếu nghe lén tu sĩ Bàlamôn đọc kinh. Ngược về thời tiền sử Aán Ðộ, người Dravidian cổ dù chưa lập quốc nhưng đã có một nền văn hoá rất sâu sắc, hướng về Nhân bản Tâm linh (Purusa Ðại ngã) có tầm vóc vũ trụ. Khoảng năm 1.200 TCN, một nhánh thuộc giống Aán Aâu (Ariyan) từ Ba Tư xâm lăng Aán Ðộ. Họ lập ra cả ngàn Tiểu quốc. Họ đàn áp dân tộc Dravidian và hũy diệt văb hóa của dân tộc này. Người Ariyan lập đạo Bàlamôn làm quốc đạo, xã hội chia thành 4 giai cấp: quý tộc, tu sĩ, chiến sĩ, và nông-thương. Người Dravidian (thổ dân) không được kể tới nên gọi là vô loại (padi). Các chế độ Tiểu quốc ở Aán Ðộ và cách đối cực kỳ dã man với người Dravidian tồn tại mãi cho đến cuối thế kỷ 19 mới được người Anh bãi bỏ.



    Tuy nhiên văn hoá Dravidian vẫn được nhiều người ái mộ, kể cả những quý tộc Ariyan. Họ tu học “Ðạo kín” Dravidian trong rừng sâu. Năm 563/TCN, Ðức Thích Ca Mâu Ni cỡi bỏ giai cấp quý tộc của mình, vào rừng tu theo “đạo kín”này. Ngài cải sửa, hoàn chỉnh tư tưởng và nguyên tắc hành đạo của đạo này thành một triết lý uyên thâm. Ðạo Phật phát sinh từ đó.



    IV.- NHỮNG CHUYỂN HÓA CỦA TRIẾT LÝ ÐÔNG Á



    Kể từ thời điểm TRÁC LỘC (2704 TCN), chúng tôi tạm chia minh triết Ðông Á làm ba giai đoạn chuyển hóa: 



    IV/1.- GIAI ÐOẠN VIỆT NHO* NGUYÊN THỦY



        * Danh xưng Việt Nho do Triết gia Kim Ðịnh đặt và chính ông đã đề xướng triết lý An Vi.



    Từ TOẠI NHÂN (khoảng 4.000 TCN) đến ÐẾ LAI (2.704 TCN) và giai đoạn các vua Hùng với quốc gia Văn Lang. Ðây là giai đoạn Văn hóa Nông nghiệp Bách Việt thuần túy, xã hội Bách Việt được lãnh đạo bằng chế độ Nhân trị mà biểu tượng là mẫu người Nhân chủ. Giai đoạn này tương ứng với các nền văn minh nông nghiệp khác trên thế giới thời đó như các vùng châu thổ Lưỡng Hà ở I Raq, sông Nil ở Ai Cập, sông Hằng ở Ấn Ðộ ...
     
    IV/2.- GIAI ÐOẠN TIỀN KHỔNG NHO 



    Từ vua HOÀNG ÐẾ chiếm được nước Xích Thần của vua Ðế Lai (2.704 TCN) đến đức KHỔNG PHU TỬ (500 TCN). Ðây là giai đoạn hai nền văn hóa Du mục và Nông nghiệp tranh dành ảnh hưởng vào xã hội thái cổ. Một bên là các dân tộc du mục Hoa tộc (kẻ chiến thắng); Một bên là các dân tộc nông nghiệp (kẻ bị xâm lăng). Cho đến đầu thời nhà Chu thì xã hội Hoa tộc đã hoàn thành được một nền văn hóa khá ổn định: Chế độ Phụ hệ, Quân chủ Phong kiến với guồng máy triều đình, quan lại và đội quân chuyên nghiệp hội nhập với chế độ Mẫu hệ, Nhân chủ, Nhân trị của Nông nghiệp Bách Việt.


    Mẫu người Nhân Chủ vốn là biệt sắc mang tính giáo hóa của đại chúng Bách Việt bị vua chúa Hoa tộc chiếm lấy, biến thành mẫu người Quân tử (kế tự) của giai cấp quý tộc. Mất tính Nhân chủ, xã hội Bách Việt chỉ còn là những người hạ tiện; chế độ Nhân trị teo lại, rút vào hệ thống bộ tộc (về sau phía Việt gọi là Làng Xã) còn được gọi là “nước chư hầu” của thời thượng cổ . Bởi đó, ngày nay, nếu muốn biết giá trị văn hóa Việt cổ, người làm Văn hóa phải tìm học Làng Xã Việt Nam là vậy.


    * Các bộ tộc nước Xích Thần sau trận Trác Lộc 2704/TCN bị đồng hóa trong hệ thống Hậu của người du mục và gọi chung là chư hầu. Do đó, thời này có hàng vạn chư hầu. Mỗi chư hầu có những truyền thống văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo mà triều đình trung ương phải tôn trọng. Ðến khi các chư hầu thôn tính nhau từ một vạn còn lại vài ngàn, rồi vài trăm, vài chục... thì những biệt sắc của xã hội Bách Việt dần dần tràn ngập xã hội mới đồng thời cũng mang quốc tịch mới: Văn minh Trung Hoa với nền quân chủ chuyên chế và xã hội phụ hệ.


    Trong khi đó, nước Xích Quỷ non yếu ở phía Nam suýt tan rã (sau thảm bại Trác Lộc) vì bị mất lãnh đạo, đã được bà Âu Cơ giúp đỡ lập quốc trở lại với quốc hiệu mới là Văn Lang. Hệ thống làng xã Việt tộc (tiền thân là các bộ tộc, bộ lạc Bách Việt) về sau dù bị cường lực Hoa tộc đô hộ suốt một ngàn năm vẫn kiên trì giữ chặt truyền thống tự trị làng xã cho đến giữa thế kỷ 20 thì chế độ cộng sản làm cho tàn lụi (Tôi tin rằng, tinh thần tự trị của Làng Xã vẫn tiếp tục sống tiềm ẩn và chắc chắn sẽ có ngày hồi sinh khi có điều kiện). 



    IV/3.- GIAI ÐOẠN KHỔNG NHO 


    Từ KHỔNG TỬ trở về sau gọi là KHỔNG NHO hay là Nho giáo do đức Khổng Tử sưu tầm và san định (sắp xếp lại cho có hệ thống) khi mà nền văn hóa hợp chủng Hoa-Việt đang càng ngày càng sa sút vì xã hội nhà Chu đi vào li loạn. Chế độ Quân tử kế tự nhờ Khổng Tử mà chuyển thành kế Hiền*


    * Danh xưng Quân tử không còn là đặc quyền của giai cấp quý tộc mà dành cho bất cứ ai có đạo đức, luân lý. Một vài danh xưng khác có phần khiêm nhượng hơn: Hiền nhân, Sĩ Phu, Kẻ sĩ, Trí thức, Thức giả...


    Có người thắc mắc tại sao một nền văn hóa sáng chói như thế mà lịch sử Ðông Á trong suốt nhiều ngàn năm vẫn không xây dựng được một xã hội Thái hòa? Chẳng những thế lại còn đi vào suy thoái khi kề cận với văn minh Tây phương?  


    Ðúng là đã có những nghịch lý xã hội 
     
    IV/3A.- Những nghịch lý giữa 2 nền văn hóa dị biệt



    Khởi đầu, khi nhân loại sống theo phương thức hái lượm và trồng trọt gọi chung là nông nghiệp thì tất cả mọi dân tộc sống theo chế độ Mẫu hệ, gọi là Thị tộc (nữ cầm quyền trong gia đình). Khi một phần loài người chuyển qua phương thức chăn nuôi gia súc, thì họ đổi thành chế độ Phụ hệ (nam cầm quyền).


    Trong xã hội Mẫu hệ, người Mẹ là chính. Con cái theo họ Mẹ. Những hoạt động của cộng đồng xã hội cũng được phân định thành lệ. Chẳng hạn những người Mẹ cùng một Tộc cử ra một nam nhân có tài đức, sức khỏe đảm nhiệm chức vụ Tộc trưởng. Các Tộc trưởng trong cùng một khu vực bầu ra một Tù trưởng Bộ lạc hay Bộ tộc. Trong cơ chế chính quyền sơ khai như thế như thế, thông thường vị Tù trưởng Bộ tộc xã hội Mẫu hệ nhẹ về quyền uy và tài sản nhưng lại nặng về trách nhiệm dẫn dắt, giáo huấn và tư tế .


    Xã hội nông nghiệp Miêu Viêm, về sau gọi là Bách Việt có hàng ngàn, hàng vạn Bộ lạc như thế và gọi chung là Thiên hạ. Thiên hạ khai hoang lập ấp khắp nơi và hầu như không có biên giới. Các Tù trưởng trong Thiên hạ họp nhau công cử lên một vị vua gọi là Thiên tử.

    Thiên tử có nhiệm vụ vừa là Ðại tù trưởng, vừa là Ðại tư tế, Ðại phán quan... do vậy, những việc làm của Thiên tử gọi là vương hóa. Khi có loạn, Thiên tử kêu gọi các Bộ lạc góp dân quân, lương thực, vũ khí để thi hành công đạo. Xã hội đó gọi là Xã hội Nhân Chủ, Nhân Trị.

    Con của Thiên tử mang họ mẹ, do đó không có chuyện nhường ngôi cho con để duy trì dòng họ. Tuy nhiên, em và con cháu Thiên tử vẫn có ưu thế hơn người khác. Dù thế, liên hệ anh em, cha con chưa hẳn làm lệch cán cân tuyển chọn của Ðại hội các Tù trưởng thường căn cứ trên đức độ, tài năng... (Ðế Minh, cháu ba đời vua Ðế Viêm, sau vài triều đại thuộc họ khác, đã được công cử lại. Ðế Nghi có lẽ thiếu tài đức, đã không được công cử. Lộc Tục là em, lại được công cử nhưng không nhận. Cuối cùng, giải pháp chia làm hai nước Xích Thần (Ðế Nghi) và Xích Quỷ (Lộc Tục) đãû được chấp nhận. Con trưởng Lạc Long Quân thuộc họ Hồng Bàng phải thuyết phục 15 Bộ tộc và được bà Aâu Cơ ủng hộ mới được công cử lên ngôi Hùng vương).


    Làm Thiên tử là tiếp nhận trách nhiệm hơn là danh vọng, quyền uy và của cải vật chất của những vị vua thời thượng cổ. Do vậy, người được công cử thường nhún nhường, đề bạt lại người khác. Cuối cùng khi không thể từ chối mới lễ độ tiếp nhận chứ không dành dựt tàn khốc, đầy máu và nước mắt như các chế độ quân chủ chuyên chế sau này.

    Triết gia Lương Kim Ðịnh nhận định về hai xã hội Nông nghiệp và Du mục như sau: “Người Nông nghiệp hiền lành nhưng tư tưởng thâm trầm do phải sống thích nghi với thiên nhiên. Họ thường xuyên quan sát vũ trụ, khí hậu, sông nước, cỏ cây... rồi theo thời gian họ rút ra những kinh nghiệm sống: Hợp với thiên nhiên thì tốt mà nghịch lại thì xấu. Trời, Ðất, Vạn vật cùng một thể và những thứ đối chọi nhau như âm dương, sáng tối, nắng mưa, đực cái… phải nương nhau sinh tồn và tiến hóa tạo thành nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Nông nghiệp Ðông Nam Á. Người Du mục thì trái lại, họ thiên về cường lực, chuộng thực tiễn, mạnh được yếu thua... Truyền thống văn hóa người Du mục do đó hoàn toàn khác hẳn người Nông nghiệp” (Sách Nhân Chủ).

    Xã hội Nhân trị của Miêu tức Viêm mà về sau gọi là Bách Việt đã tồn tại nhiều ngàn năm trước công nguyên trên môït vùng đất rộng lớn gồm từ châu thổ sông Hoàng Hà vượt qua sông Dương Tử, sông Hồng Hà xuống đến sông Cả và sông Mã. Vị Thiên tử của chế độ Nhân trị này không ăn thuế khóa... Bù lại, hàng năm vua và triều đình được cung ứng “đồ tuế cống” của các bộ tộc, và được thụ hưởng hoa lợi từ những công điền cung cấp tùy theo từng nhiệm vụ. Ruộng đất riêng của vua và triều đình được người dân canh tác và phân chia theo phép Tỉnh điền (Ðiềân sản của mỗi vị được chia làm 9 phần bằng nhau, dân chúng chia nhau canh tác 8 phần để hưởng lợi đồng thời cùng nhau làm phần còn lại, 100% huê lợi phần còn lại đó sẽ nạp cho vua và triều đình).

    Luật lệ Bách Việt có 10 điều, chủ yếu khuyên răn dân chúng gìn giữ đạo đức, luân lý của một xã hội Nhân Chủ (Sách Hoài Nam Tử). Vua và dân cùng thờ cúng Trời, Ðất và Tổ tiên và những Anh hùng dân tộc có công với đất nước (đạo Tam Thông còn gọi là đạo thờ Ông Bà).

    Văn hóa truyền thống, nền tảng Nhân Chủ và chế độ Nhân Trị của người Miêu Viêm còn gọi là Bách Việt cổ hình thành một xã hội bình trị, thái hòa vững chãi kéo dài không dưới 5.000 năm kể từ năm 2704 tr.CN trở về trước (Thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn).

    Về sau, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên minh Xích Quỷ (2704 tr.CN) thất bại thảm hại, nền văn hóa Nông nghiệp tuyệt diệu này còn được duy trì thêm 2446 năm với 18 dòng họ nối nhau làm Hùng vương nước Văn Lang.

    Phải cho đến năm 111 tr.CN, khi Hoa tộc thôn tính nước Nam Việt (nhà Triệu) đặt ách nô lệ lên nước ta thì xã hội Mẫu hệ và truyền thống tốt đẹp Việt tộc dần dần đổi hướng qua chế độ Phụ hệ Hoa tộc. Tuy nhiên một điều cực kỳ may mắn cho dân tộc là nền văn hóa siêu việt này vẫn sống còn nhờ sự tồn tai của làng xã sau lũy tre làng. Khẩu hiệu “Luật Vua Thua Lệ Làng” là một niềm hãnh diện của làng xã mà hầu như không một thế lực quân chủ chuyên chế nào phá đồ nổi .

    * Triết gia Kim Ðịnh cho rằng dịch chữ làng xã Việt Nam qua tiếng Pháp là village thì không chính xác và người Pháp cũng không có từ ngữ nào khác để dịch chũ làng xã cho đúng nghĩa. Bởi vì village là đất của các lãnh chúa Tây phương và người dân sống trong đó là nông nô của họ. Mọi người ở trong village bị giai cấp lãnh chúa và quý tộc làm tình làm tội trăm chiều mà không thể chống đối . Chủ đất có thể bắt bỏ tù hoặc đuổi họ ra khỏi làng để lấy đất lại …

    Mặc dù khi người ta nhận ra được giá trị của làng xã Việt Nam thì nó đã không còn như nguyên thủy của 5.000 năm về trước. Rõ ràng làng xã Việt Nam đã phải thi thố khả năng tuyệt diệu của nó một cách vô cùng cam go trong những căn cứ nhỏ hẹp dưới những chế độ quân chủ chuyên chế luôn luôn tìm cách trấn áp, phá bỏ. Cuộc đấu tranh để sống còn này được thể hiện qua một khẩu hiệu cực kỳ “khi quân, phạm thượng” của người dân trong làng xã Việt Nam: “Phép vua thua lệ làng”. Nó mạnh mẽ đến độ trong suốt nhiều ngàn năm, quyền hành của vua chỉ về đến Quận, Huyện mà thôi . Tinh thần Nhân chủ, Nhân trị và ý niệm an nhiên tự tại của người dân trong làng xã Việt Nam thực đáng cho người đời sau suy gẫm!

    Làng xã Việt Nam như những bang tự trị trong một Liên bang mà Quận, Huyện chỉ là cơ chế điều hợp trong suốt 2000 năm kể cả những giai đoạn bị Tầu và Pháp đô hộ *.

    * Thực dân Pháp đô hộ Việt Nam gần 100 năm, khởi đầu họ cho rằng, để cho làng xã tự trị sẽ tạo ra sự chia rẽ giữa các địa phưong, nhờ đó họ sẽ dễ dàng cai trị một dân tộc có những dĩ vãng vô cùng hào hùng này. Tuy nhiên, về sau họ nhận thấy làng xã trở thành những căn cứ chống Pháp vô cùng hữu hiệu: Tinh thần yêu nước của người Việt không vì tính tự trị của Làng Xã mà suy giảm trái lại bùng lên rất mãnh liệt khi đất nước lâm nguy. Người Pháp liền tổ chức lại Làng xã bằng cách dành quyền bổ nhiệm những người thân Pháp vào chức Lý trưởng thay thế chức Xã trưởng do dân bầu, nhưng vẫn để Làng tự trị.


    Do sự thay đổi này, một số làng Việt Nam trở thành nơi chứa chấp bè nhóm, gian đảng, hối mại quyền thế, tham ô, hà hiếp dân chúng và Lý trưởng thì trở thành tai mắt của chính quyền thực dân Pháp… đã làm giảm sút rất nhiều tính cách Nhân trị, Nhân chủ trước đó.


    Trong sách “Làng xóm Việt Nam”, học giả Toan Ánh viết như sau: “…Hành chánh tại Làng xã Việt Nam được tổ chức theo chế độ tự trị, là một chế độ đặc biệt đã được áp dụng tại nước ta ngay từ thời Tiền cổ… Việc cai trị trong xã từ xưa vẫn do dân chúng cử ra theo những tục lệ cổ truyền của mỗi Làng xã… Triều đình không can thiệp tới việc đề cử này, và dẫu triều đình có muốn can thiệp chưa chắc đã được vì “phép vua thua lệ làng”.

    Thực ra, cho tới thế kỷ XVIII, các triều đại VN cũng đã nhiều lần muốn nhúng tay vào việc Làng xã, nhưng rút cuộc Làng xã vẫn là của dân và chính dân đã luôn luôn bầu lấy những người lo việc dân…” 
     Như thế, nghịch lý đã xẩy ra khi Hoa tộc pha trộn truyền thống Du mục của họ với nền văn hóa Nông nghiệp Bách Việt. Vì vậy trong nhiều ngàn năm, xã hội Hoa tộc dù được xây dựng ít nhất 80% trên nền tảng văn hóa Bách Việt đã không đạt được thành quả như xã hội Việt cổ nguyên thủy. Trái lại đã chất chứa đầy mâu thuẩn trên nhiều lãnh vực khiến đất nước chỉ tạo được thanh bình từng giai đoạn ngắn ngủi mà thôi .

    IV/3B.- NHỮNG NGHỊCH LÝ TỪ CHẾ ÐỘ QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ



    Truyền thống du mục Trung Hoa cổ từ giai đoạn phong kiến đến quân chủ chuyên chế với những dòng vua cha truyền con nối mà hầu hết các triều đình Việt Nam về sau cũng noi theo đã tỏ ra vô cùng gượng ép khi chung sống với nền văn hóa Tiền Nho lẫn Khổng Nho và đã làm giảm giá trị của nền văn hóa đặc thù Nông nghiệp Bách Việt. Bởi vì khi cố gán ghép cho mối tình du mục Trung Hoa cổ và nông nghiệp Bách Việt, Khổng Tử đã đưa ra thuyết Thiên mệnh để tránh đi cái tiếng “làm cách mạng” vô cùng nguy hiểm cho bản thân ông. Thuyết này vừa tôn quyền dòng vua cai trị vừa tìm cách ràng buộc kẻ làm vua phải chấp nhận ý Dân là ý Trời. Tuy nhiên, ngay vào thời đại của ông, vua chúa các nước chỉ khoái tôn quyền nhà vua mà thôi và rất ngán cái chuyện Dân Vi Quý, Quân Vi Khinh. Vì thế, chẳng những ông bị thất nghiệp dài dài mà có lúc còn bị giới này đối xử rất bạc bẽo, thô bạo .


    Chế độ quân chủ chuyên chế Ðông Á, nếu may mắn gặp được vị vua hiền đức, anh minh thì còn giữ được vài phần Nhân trị. Còn chẳng may gặp phải thứ hôn quân vô đạo thì Nhân trị chỉ có thể... ở trong tù.


    Xã hội Việt Nam trong suốt 10 thế kỷ độc lập (939-1945) dù tổ chức chính quyền theo đường hướng du mục Trung Hoa (Quân chủ chuyên chế), nhưng nhờ hệ thống hàng ngàn Làng Xã tiếp tục giữ vững cái gốc Nhân chủ, Nhân trị đã ảnh hưởng không ít đường lối trị quốc của chính quyền trung ương.

    Tỉ dụ: Khi nhà vua muốn làm một việc gì gây tồn hại cho dân, cho nước thì thường bị các quan cản trở, tìm cách bác đi; và rồi, khi lệnh xuống đến cấp làng xã lại bị phản ứng của dân nếu lệnh vua đụng đến lệ làng. Nếu chú ý, chúng ta tất thấy: nước Việt hùng mạnh hơn các nước trong vùng như Chiêm Thành, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Ðiện… nhưng cung điện, lăng miếu, đền đài, thành quách nước Việt không đồ sộ, nguy nga, tráng lệ bằng các nước kia. Trái lại, những việc ích quốc lợi dân như đắp đê chống lụt, đào kinh dẫn thủy nhập điền, giúp dân khao hoang lập ấp được triều đình quan tâm thực hiện . Hàng năm, trong Lễ hội đầu mùa vua Việt xắn quần lội xuống ruộng cầm cày thúc trâu vở luống đất đầu tiên hoặc tự tay nhà vua đánh trống cổ võ dân chúng đào sông, đắp đê… Hội nghị Bình Than, Hội nghị Diên Hồng, xây dựng Văn Miếu, lập bia Tiến sĩ… Tất cả những tỉ dụ trên đã ít nhiều để lại dấu ấn tư tưởng Nhân chủ và xã hội Nhân trị trong đó .


    Nhân đây cũng xin ghi lại một vài mẫu người đặc trưng của các nước trên thế giới :



    Thiên tài (Vĩ nhân): Có biệt tài về một ngành chuyên môn: mỹ thuật, khoa học, văn nghệ, quân sự, chính trị, xã hội... Triết gia Nietzsche nhận xét: “Thiên tài vị tất đã là nhân!”


    Người hùng : Có tài về quân sự, mưu lược hay vũ dũng, tung hoành ngang dọc để tranh đoạt chiến công, quyền lợi... Mẩu người này ít quan tâm tới nhân nghĩa .


    Chính nhân : Mẫu người Âu Châu TK 17, là kẻ biết xã giao, lịch thiệp, có uy tín cá nhân, được dân chúng yêu quý và giới quí tộc nể vì.


    Gentlemen : Người quí phái trong xã hội Anh quốc. Mẫu người này thuờng tỏ ra mình thông minh, trầm tĩnh, cương nghị hơn người nhằm đề cao đẳng cấp giới mình trong xã hội . Gentlemen như một loại hàm vị dành cho giới thượng lưu, quý tộc do đó họ cũng có những ưu đãi trước nhiều giới trong xã hội Anh.


    Cán bộ đảng viên .- Cán bộ, đảng viên trong chế độ Cọâng sản đa số vốn xuất thân từ giai cấp thợ thuyền và nông dân. Họ được nhồi nhét một số bài bản, kinh điển chủ nghĩa duy vật biện chứng . Họ cuồng tín phụng sự đảng hay tôn thờ lãnh tụ đảng đã được lý tưởng hóa một cách giả tạo . Ho thường tự xưng là đẳng cấp “siêu việt”, là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Mẩu người này hoàn toàn vong thân. Ðể đạt cứu cánh, họ bất chấp phương tiện .

    Người Quân tử .- Mẫu người có đạo đức, luân lý cao đẹp của các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật, Triều Tiên... trước đây. Họ là những người rất được xã hội tôn trọng, và coi đó là mẫu người lý tưởng .

    Bằng con mắt vô tư, chúng ta thấy những mẩu người nói trên đều được các xã hội Ðông, Tây tôn trọng ngoại trừ cán bộ đảng viên đảng cộng sản thì hoàn toàn ngược lại mặc dù họ được đảng và chính quyền cộng sản tôn họ lên hàng “ưu việt” và “đỉnh cao trí tuệ của loài người” và dành cho họ nhiều đặc quyền, đặc lợi.



    Theo Triết gia Lương Kim Ðịnh, khi xét vị thế của người Quân tử Ðông Á, ông cho rằng: người Quân tử mang một tầm vóc khác hẳn những vị kia một cách diệu kỳ:

    Chữ quân tử hay hiền nhân mang ý nghĩa tương tự chữ nhân chủ, tuy nhiên nhân chủ mang tính chất minh triết, chỉ ra đường lối xây dựng xã hội, giáo dục đại chúng; còn quân tử, hiền nhân mang tính cách hoàn thiện của kẻ sĩ. Theo nguyên lý Tam Tài (Thiên, Ðịa, Nhân) cũng gọi là Tam Hoàng thì Nhân (Người) là một trong Tam Tài hoặc Tam Hoàng, mà Hoàng đồng nghĩa với Quân, Vương nên Quân, Vương cũng chỉ vào Nhân .

    Chữ Vương biểu thị bằng 3 nét ngang chỉ Thiên, Ðịa, Nhân, còn một nét sổ dọc ở giữa là quán thông Tam Tài. Con Người vừa thông với Trời, với Ðất vừa nối kết giữa Người với Người. Cho nên Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín ®ĩng là những đức tính của con người Nhân chủ. 

     Nói rõ hơn, khi còn trong giai đoạn Văn hóa Nông nghiệp Bách Việt thuần túy, toàn dân đều cố gắng đặt mình trong ý thức làm chủ để xứng đáng là một trong ba ngôi: Trời là Chủ, Ðất là Chủ và Người là Chủ. Ðến khi nền văn hóa này bị du mục Trung Hoa cổ chiếm đoạt thì vua chúa Trung Hoa dành riêng ngôi vị Người là Chủ cho kẻ làm vua mà thôi . Ðó là truyền thống của chế độ quân chủ chuyên chế: Tất cả mọi thứ (kể cả người) trong thiên hạ đều là của nhà vua.

    Bàn về xây dựng con người Nhân chủ, học giả Nguyễn Việt An góp ý như sau:

    “Muốn xây dựng xã hội Nhân bản Toàn diện thì phải có Con Người Nhân Chủ. Con Người Nhân Chủ biết rõ mình ở đâu mà ra? Thành bởi gì? Ra đời để làm gì ? Rồi trở về đâu ? Nên sống sao cho ra sống, không quá lụy vào Trời (thần thánh) hay quá ỷ vào Ðất (vật chất), không vướng vào ý hệ này, chủ nghĩa kia. Ngửng cao đầu tham dự vào cuộc sinh sinh hóa hóa với Trời cùng Ðất.”

    Biểu tượng ÔNG BÀN CỔ vừa mang cái giản dị đến độ một thiếu niên cũng tiếp nhận dễ dàng, vừa mang cái thâm sâu, cao diệu mà những học giả uyên thâm cũng phải tìm học sảng khoái. Chuyện Ông BÀN CỔ không nhắc tới tâm linh, đạo đức, luân lý, không nói tới quan niệm nhân sinh, không đã động đến con người lý tưởng, không có những cái tên thực kêu như Nhân chủ, Quân tử, Nhân bản... của nhiều ngàn năm sau, nhưng mỗi người nghe, tùy mức độ tiếp nhận, đều có thể hiểu được mình, hiểu được người, thấu đáo đuợc vũ trụ chung quanh để từ đó, tùy vị thế trong cộng đồng của mình, nhìn ra một lối đi chân, thiện, mỹ cho ta, cho người, cho xã hội… như câu chuyện đã kể: 

     Ông càng lớn thì Trời càng cao, Ðất càng dầy... Khi Ông chết, mắt biến thành mặt trăng, mặt trời, máu mỡ chảy ra thành biển cả, thân xác rã ra thành những vùng đất, núi lớn trong thiên hạ, lông tóc đâm rể xuống đất mọc lên cây cối…

    Toàn bộ câu chuyện đi từ những điểm thật nhỏ như đếm từng ngày, như đo từng thước, như cái liếc mắt, như khi vui lúc buồn… để rồi lớn lên, cao thêm, dày thêm… thoát chốc 18.000 năm bùng lên, hùng vĩ đến vô cùng, hành động đến vô cùng và kết quả cũng vô cùng! Quả nhiên là một lối nói ẩn dụ, mới nghe thì có vẽ mộc mạc, tiếu lâm đến độ hoang đường mà thực sự mang một tư tưởng trùm lấp không giới hạn và sự uyên thâm vô lượng có giá trị đến muôn đời về sau.


    Tuy nhiên còn câu chót :
    “Những loài sâu bọ sống trên thân xác Ông trở thành loài Người”


    Thì quý độc giả nghĩ sao ?
    Tại sao loài sâu bọ lại biến thành người ?


    Ta thử ngưng lại vài phút, pha một tách trà thật ngon, thưởng thức cái mùi vị truyền thống… lắng nghe lòng ta nghĩ sao về loài sâu bọ này!… - Ừ nhỉ!… Tại sao chúng lại thành người ?


    - Nhất định đây là một câu kết cực kỳ quan trọng, nếu ta không thưởng thức được câu này thì coi như chuyện Ông BÀN CỔ hoàn toàn hỏng!! Và bài luận này phải “sổ toẹt”!!


    - Loài sâu bọ sống bám trên người ông Bàn Cổ chắc hẳn là những con chí, con rận… Nhưng mà! Lý do nào thúc đẩy bọn chí rận này biến thành người mà không phải một con gì khác?


    Trong truyện dài dã sử mang tựa đề “Nước Non Tiền Sử”, tôi có dành một đoạn viết về chuyện Ông BÀN CỔ . Nay xin trích phần chót của đoạn đó như một gợi ý của người viết để quý độc giả thử nghiệm lại xem, may ra chúng ta khám phá thêm những ý tưởng mới qua câu kết hài hước, hóm hỉnh, trầm mạc của người xưa!


    Một thanh niên đang đi ở vòng ngoài cùng, bỗng chen vào giữa câu chuyện:


    - Vậy ra người ta bắt nguồn từ loài chí rận chứ không phải từ Ông Bàn Cổ sinh ra hay sao?
    Nghe hỏi, một cô gái có mặt trong nhóm bật cười, cô hóm hỉnh góp ý:


    - Vô duyên không! Ông Bàn Cổ... là... đàn ông... làm sao sinh đẻ cơ chứ?
    Cô vừa dứt lời thì lập tức những tiếng kêu thét vang lên ồn ào như vỡ chợ của bọn thanh niên:


    - Ðúng lắm!


    - Chí lý!


    - Câu góp ý tuyệt vời 


    Cô gái thẹn, phân trần:


    - Này! Tôi nói thế không đúng hay sao!! 


    Thầy Lê Dực tươi cười góp ý:


    - Ông Bàn Cổ, ta gọi bằng Ông, nhưng theo tôi nghĩ thì vị tất đã là ông hay bà. Người xưa dùng câu chuyện Ông Bàn Cổ như một ẩn dụ, truyền đạt cho con cháu chứ thực tế làm gì có người nào kỳ lạ như Ông Bàn Cổ phải không


    - Dạ đúng vậy thầy!


    Thầy Dực đưa tay lên trán bóp nhẹ, nói tiếp:


    - Vậy thì việc những con chí, con rận biến thành người cũng là một lối nói ẩn dụ. Ông Bàn Cổ không sinh đẻ ra loài người, nhưng những con vật dù nhỏ nhất, chẳng ra gì, nhờ sống trên người ông, thừa hưởng khí huyết, tinh thần, đạo lý và tư tưởng của ông, chúng đã trở thành loài người.
    Một chiến sĩ đi bên cạnh nghe đến đó bất chợt thốt lên:


    - À! Tôi hiểu rồi... Con người, nếu không có tư tưởng, không có đạo đức, luân lý, không có ý niệm tâm linh để duy trì cuộc sống cao đẹp, thì có khác gì những con chí, con rận... phải không thầy?

    Mọi người nghe lời góp ý thì cùng ồ lên, bên cạnh cái ngạc nhiên hứng thú còn pha lẫn sự kính phục chân thành lời dậy của cha ông :


    - Phải rồi! Nếu không thoát ra được cái thú tính thấp hèn thì Con Người khác gì loài chí rận!!”  





    An Phong Nguyễn Văn Diễn  
    (Trích sách “Ðường Ta Ði” của cùng tác giả)
     __________________________________

    http://www.nguoiviet4phuong.com/anhduong/index.php?option=com_content&task=view&id=257&Itemid=1
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.08.2007 14:37:48 bởi Ngọc Lý >
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9