PHAN KHÔI - các tác phẩm
.
Phan Khôi
(1887-1959)
Tiểu sử
theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Khôi (1887-1959) là một nhà thơ, nhà văn trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Ông còn là một nhà báo tài năng, một người cổ vũ cho tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Ông cũng là một trong số ít nhà báo tiếp thu nhiều tư tưởng mới lạ, đa văn hóa từ Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp...
Phan Khôi tại Đại hội Đảng năm 1956
Tiểu sử và hoạt động Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và là cháu của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu. Ông học giỏi Nho văn và đỗ tú tài năm 19 tuổi. Sau đó ông gặp cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh và bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của hai cụ. Năm 1907, ông ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo. Khi tờ tạp chí bị cấm ông về Nam Định rồi về Hải Phòng ẩn náu. Ít lâu sau ông lén về Quảng Nam hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng. Trong một cuộc biểu tình đòi giảm thuế, ông bị bắt và giam tại nhà tù Quảng Nam đến năm 1914 thì được ân xá. Ra khỏi tù, ông lại về Hà Nội viết cho báo Nam Phong. Vì bất bình với Phạm Quỳnh, ông bỏ Hà Nội vào Sài Gòn viết cho báo Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1920, ông lại trở ra Hà Nội viết cho báo Thực Nghiệp Dân Báo và báo Hữu Thanh. Năm 1928, Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh bị đóng cửa, ông lại trở vào nam viết cho báo Thần Chung và Phụ nữ tân văn. Năm 1931, Phan Khôi trở ra Hà Nội viết cho tờ Phụ nữ thời đàm. Năm 1936, ông vào Huế viết cho tờ Tràng An và xin được phép xuất bản báo Sông Hương. Năm 1939, Sông Hương đóng cửa, Phan Khôi lại trở vào Sài Gòn dạy học chữ Nho và viết tiểu thuyết. Sau năm 1945, tức sau Cách mạng tháng Tám, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh mời từ Quảng Nam ra Hà Nội tham gia kháng chiến với cương vị một nhà văn hóa. Ông ở Việt Bắc suốt 9 năm nhưng vì bị bệnh nên phải vào bệnh viện một thời gian. Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-57, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội. Tác phẩm Ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, ông từng làm giám khảo trong các giải văn học của hội nhà văn Việt Nam. Các tác phẩm chính của ông đã in thành sách: Chương Dân thi thoại (1936)
Trở vỏ lửa ra (1939)
Việt ngữ nghiên cứu (1955)
Tình già (thơ mới - 1932)
Bàn về tế giao (1918)
Ngẫu cảm (thơ chữ Hán)
Viếng mộ ông Lê Chấu (thơ chữ Hán)
Ông Năm chuột (truyện ngắn)
Liên kết ngoài
Tác giả Phan Khôi (talawas.org)
Thơ Phan Khôi trên Thi viện
Tìm lại tác giả Phan Khôi(BBC)
Phan Khôi trên trang Xứ Quảng
Tìm lại chân dung một nhà báo hàng đầu Việt Nam
Thanh niên với tổ quốc
Cái ác ý Bởi nghề Nghiệp
http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Kh%C3%B4i
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2007 23:19:51 bởi gương soi >
Cách mạng giả Thế giới bất cứ nước nào, hễ đã là nước bị đè nén, thì những người cách mạng tất được nhân dân yêu thương và kính mến.
Vì rằng những người cách mạng là những người đã hao tâm huyết, mòn trí não, chẳng quản đắng cay cực khổ, đặng tìm cách mà cứu dân ra khỏi vòng lửa nóng nước sôi. Như vậy, biểu nhân dân không hoan nghinh sao được?
Song ở trên đời, chẳng có vật chi mà không có thứ giả; mà càng những vật quý mắc, nhiều người ưa chuộng, thì thứ giả càng nhiều. Cũng vì nhân dân mấy nước bị áp bách hay hoan nghinh những nhà cách mạng, cho nên những kẻ gian ngoan quỷ quyệt thường hay mượn con đường cách mạng đặng làm cái thang làm giàu làm sang. Như ở nước Tàu, từ hồi có phong trào cách mạng đến nay, hạng cách mạng thiệt cũng nhiều, mà hạng cách mạng giả cũng chẳng ít.
Nhơn đọc báo Tàu thấy có bài "Ngụy cách mạng" nói về sự cách mạng giả nhiều chỗ lý thú, tuy rằng bài nầy cũng vì hồi nầy các nhà đại cách mạng của Tàu đánh lộn lung tung mà viết ra, nhưng mà rất nhằm với sự thiệt; bài đó đại ý như vầy:
"Bọn quân phiệt mới trước khi tội ác chưa tỏ, họ cũng mở miệng thì chê kẻ khác là cách mạng giả, tự nhận mình là cách mạng thiệt. Vì rằng nếu họ không dùng cái thủ đoạn ấy đặng bài trừ thế lực của phe phản đối với mình, thì không được dân chúng tin cậy. Cái vở tuồng đó đã diễn nhiều lần rồi, đó cũng như tiệm bán thuốc làm quảng cáo, thường thường hay nói "Mới có bọn vô sỉ, giả mạo dấu hiệu của bổn hiệu..." Kỳ thiệt thì chẳng có kẻ nào giả mạo, vì rằng kẻ nào cũng như kẻ nào.
Những kẻ cách mạng giả dối họ cũng khéo làm quảng cáo lắm, khéo hơn những tiệm bán thuốc kia nhiều. Vì thế mà trước khi cái dã tâm của họ chưa phát hiện ra thì nhân dân rất dễ bị gạt.
Muốn khỏi bị gạt thì nên xét rằng: Nếu là người cách mạng thiệt, thì tất nhiên quên hết sanh mạng, tài lợi, hạnh phước, danh dự và những việc riêng của mình, vì họ thương sanh mạng của dân cho nên họ phải quên sanh mạng của họ, vì họ trọng hạnh phúc của dân cho nên họ hy sanh hạnh phúc của họ; vì họ bị thời thế thúc giục, bị lương tâm bắt buộc, cho nên lúc nào cũng ra sức đánh nhau với hoàn cảnh. Như vậy là cách mạng thiệt, trái lại thì là cách mạng giả..."
Cách xét đoán như vầy tuy cũng có khi phân biệt được kẻ thiệt người giả. Song mà ở đời nhiều nỗi "chẳng dè" thường thường làm cho người ta không thể giữ sau như trước, cũng có người thiệt là cách mạng thiệt, nhưng hoặc vì công việc khổ cực mà ngã lòng, hoặc vì cái mồi giàu sang nó quyến dỗ mà phải đổi chí, rồi tự nhiên vui lòng mà làm người cách mạng giả.
Đối với thứ cách mạng nầy thì trong bài đó thí dụ như vầy:
“Xưa có một vị thầy chùa rất đắc đạo, ngày ngày ăn chay niệm phật, khuyên người chừa sát sanh. Một bữa vị thầy chùa đó cùng mấy đồ đệ dong ngoài chùa, thấy có con ếch nhỏ, thầy chắp tay niệm ‘A di đà phật’ và cung kính mà đi qua. Đi một quãng gặp con ếch lớn, thầy liền biểu đồ đệ mau mau bắt về hầm măng. Đồ đệ hỏi vì sao lúc nầy lại sát sanh, thì thầy đáp lại: ‘Tụng kinh phải cắt nghĩa cho thông hoạt. Ta chừa sát sanh, nghĩa là không sát những sanh vật không dùng gì được mà thôi. Con ếch này vừa béo vừa lớn, tha sao được mà chẳng sát’.
Ấy cái tâm lý của những nhà đại cách mạng gần nay, đại khái phần nhiều như thế.”
Những câu đó tuy họ nói riêng về nhân vật của Tàu, mà tuồng như cũng hạp với nhiều nhân vật Đại Việt Nam nhà ta.
Kể từ khi nổi lên phong trào cách mạng đến nay, Đại Việt Nam nhà ta đã có nhiều ông cách mạng về kiểu "thầy chùa bắt ếch", có người vì cách mạng mà chức trọng quyền cao, có người vì cách mạng mà lắm tiền nhiều ruộng; ngọc đã hỗn hào, vàng thau lộn xộn, nhân dân không biết tin ai ngờ ai?
Thiệt là sự đáng buồn mà đáng giận.
Thần chung, Sài Gòn, số 98 (17.5.1929)