(Bài 6 tiếp theo)
Tạo ra diện mạo của văn hóa bằng cách giữ lại vẻ bề ngoài truyền thống nhưng thay đổi nội dung Sau khi ĐCSTQ thực hiện cải cách kinh tế và chính sách mở cửa, nó hồi phục lại nhiều nhà thờ cũng như là chùa Phật giáo và Đạo giáo. Nó cũng tổ chức một số hội lễ chùa ở Trung Quốc, cũng như là hội văn hóa ở hải ngoại. Điều này là nỗ lực cuối cùng của ĐCSTQ để tận dụng và phá hủy văn hóa truyền thống còn sót lại. Có hai lý do để ĐCSTQ làm như vậy. Một mặt, thiện lương trong nhân tính, mà Đảng Cộng Sản không có cách gì để trừ sạch, sẽ dẫn tới sự phá hủy “văn hóa Đảng”. Mặt khác, ĐCSTQ đã có ý định sử dụng văn hóa truyền thống để bôi mỹ phẩm trang điểm bộ mặt thật của chúng để che đậy bản tính tà “giả dối, tà ác và tranh đấu” của chúng.
Căn bản của văn hóa là các hàm nghĩa bên trong về đạo đức, còn các hình thức bề mặt chỉ có giá trị giải trí. ĐCSTQ đã hồi phục lại những nhân tố bề mặt của văn hóa, phục vụ giải trí, để che đậy mục đích phá hủy đạo đức. Cho dù có bao nhiêu cuộc triển lãm bức thư pháp và nghệ thuật mà ĐCSTQ đã tổ chức, bao nhiêu lễ hội văn hóa với rồng hổ nhảy múa trên sân khấu, Đảng chỉ đơn giản hồi phục lại vẻ bề ngoài, mà không phải là phần tinh hoa của văn hóa. Trong khi đó, ĐCSTQ cũng lợi dụng các phần trình diễn văn hóa của nó cả trong và ngoài Trung Quốc, thực chất còn vì một mục đích để duy trì quyền lực chính trị.
Một lần nữa, lấy các chùa làm ví dụ. Các chùa có ý nghĩa là các địa điểm để con người tu hành, nghe chuông chùa buổi sáng và tiếng gõ mõ lúc hoàng hôn, lễ bái đức Phật dưới ngọn đèn dầu. Người ta trong xã hội người thường cũng có thể sám hối tội lỗi và lễ bái ở đó. Tu hành đòi hỏi một tâm thanh tịnh, không theo đuổi bất cứ điều gì. Sám hối tội lỗi và lễ bái cũng đòi hỏi một hoàn cảnh kính cẩn và nghiêm trang. Tuy nhiên, các chùa đã bị biến thành các nơi du lịch vì mục đích lợi nhuận kinh tế. Trong số những người thực sự thăm viếng các chùa ở Trung Quốc ngày nay, bao nhiêu người đến để suy nghĩ về những lỗi lầm của mình với một trái tim thành thật và kính cẩn trước Phật ngay sau khi đã tắm rửa và thay quần áo?
Phục hồi lại vẻ bề ngoài nhưng phá hủy hàm nghĩa bên trong của văn hóa truyền thống là một thủ đoạn mà ĐCSTQ đã thực hiện để làm mê hoặc người đời. Dù đó là Phật giáo, các tôn giáo khác, hoặc các hình thức văn hóa xuất phát từ chúng, ĐCSTQ cố tình nhận chìm giá trị của văn hóa truyền thống trong cách này.
******************
III. Văn hóa Đảng Trong khi ĐCSTQ đang phá hủy văn hóa nửa-Thần truyền thống, nó cũng thầm lặng thiết lập “văn hóa Đảng” của chính nó thông qua các cuộc vận động chính trị liên tục. Văn hóa Đảng đã cải tạo thế hệ già, đầu độc thế hệ trẻ và cũng có ảnh hưởng lên trẻ con. Ảnh hưởng của nó là cực kỳ sâu và rộng . Ngay cả khi nhiều người cố gắng phơi bày sự tà ác của ĐCSTQ, họ không thể không sử dụng tiêu chuẩn tốt hay xấu, cách phân tích, và từ vựng đã được phát triển bởi ĐCSTQ, những thứ chắn chắn mang dấu ấn của văn hóa Đảng.
Văn hóa Đảng không chỉ thừa kế cái ‘tà’ trong tà thuyết Mácxít-Lêninnít sinh ra ở ngoại quốc, mà còn phối hợp một cách khéo léo tất cả các nhân tố của phương diện âm từ hàng ngàn năm văn hóa Trung Quốc với cách mạng bạo lực và triết lý đấu tranh từ sự tuyên truyền của Đảng Cộng Sản. Những thành phần mặt âm này bao gồm đấu tranh nội bộ để dành quyền lực bên trong các gia đình hoàng tộc, hình thành các phường hội để theo đuổi các lợi ích cá nhân, thủ đoạn gian trá chính trị để làm những người khác phải đau khổ, các mánh khóe và âm mưu bẩn thỉu. Trong suốt sự đấu tranh để sinh tồn của Đảng Cộng Sản trong các thập niên qua, đặc tính “giả dối, tà ác và tranh đấu” của nó đã được làm giàu thêm, nuôi dưỡng và chuyển sang trang mới.
Chuyên chế và độc tài là tính chất của văn hóa Đảng. Văn hóa này phục vụ Đảng trong các cuộc đấu tranh giai cấp và chính trị. Người ta có thể hiểu môi trường “nhân văn” khủng bố và chuyên chế của Đảng đã được nó lập ra như thế nào từ bốn khía cạnh:
Khía cạnh thống trị
A. Văn hoá bưng bít Văn hóa của Đảng cộng sản là một độc quyền riêng rẽ mà không có tự do tư tưởng, ngôn luận, hiệp hội hay tín ngưỡng. Cơ chế thống trị của Đảng là tương tự như một hệ thống ống dẫn nước, dựa trên áp lực cao và sự cách ly để duy trì tình trạng kiểm soát của nó. Thậm chí một lỗ rò nhỏ xíu có thể dẫn tới sự sụp đổ của toàn hệ thống. Ví dụ, Đảng từ chối đối thoại với sinh viên trong biến động sinh viên ngày mồng 4 tháng sáu [80], sợ rằng nếu lỗ rò này phun ra, công nhân, nông dân, trí thức và quân đội cũng có thể đòi đối thoại, và rồi, Trung Quốc sẽ thực sự tiến tới dân chủ và nền chuyên chính một đảng sẽ bị thay đổi. Do đó, họ đã chọn giết người hơn là thừa nhận đề nghị của sinh viên. Ngày nay ĐCSTQ sử dụng hàng chục ngàn “cảnh sát mạng lưới” để theo dõi mạng Internet và trực tiếp ngăn chặn bất kỳ mạng lưới điện tử ngoại quốc nào mà ĐCSTQ không thích.
B. Văn hóa khủng bố Trong 55 năm qua, ĐCSTQ đã sử dụng khủng bố để đàn áp tâm trí của người dân Trung Quốc. Họ đã cầm và sử dụng roi da và dao đồ tể - nhân dân không bao giờ biết khi nào những thảm họa không thấy trước được, sẽ xảy ra với họ - để bắt nhân dân tuân theo. Nhân dân, sống trong sợ hãi, trở nên ngoan ngoãn. Những người chủ trương dân chủ, những nhà tư tưởng độc lập, những người hoài nghi trong hệ thống (của ĐCSTQ) và những thành viên của những nhóm tinh thần khác nhau đã trở thành những mục tiêu để giết như là một cách để răn đe công chúng. Đảng muốn đập tan bất kỳ sự đối lập nào từ trong trứng nước.
C. Một văn hóa theo mạng lưới khống chế Sự khống chế xã hội của ĐCSTQ là bao gồm tất cả. Có hệ thống hộ khẩu hộ tịch, hệ thống ủy ban dân phố, và đủ loại uỷ ban của Đảng với tầng cấp cấu trúc khác nhau. “Các chi bộ Đảng được thiết lập tại tầng mức công ty.” “Mỗi một làng có chi bộ Đảng của mình.” Các thành viên của Đảng và Đội Thanh Niên Cộng Sản có những hoạt động đều đặn. ĐCSTQ cũng cổ võ một chuỗi các khẩu hiệu tương ứng. Một vài ví dụ: “Canh cửa nhà mình và theo dõi người của mình”. “Ngăn chặn người của mình không bị lôi cuốn”. “Kiên quyết thực thi chế độ để bắt nhận trách nhiệm, bảo đảm hoàn thành các trách nhiệm, và chắc chắn trách nhiệm chỗ nào. Canh gác và khống chế chặt chẽ. Nghiêm túc với kỷ luật và quy tắc và bảo đảm các biện pháp kiểm soát để duy trì và ngăn ngừa 24 giờ”. “Văn phòng 610[81] sẽ thành lập một ủy ban giám sát để kiểm tra và theo dõi các hoạt động trong mỗi vùng và đơn vị công tác vào những khoảng thời gian thất thường”.
D. Văn hóa vạ lây ĐCSTQ đã hoàn toàn lờ đi các nguyên tắc cai trị theo luật pháp trong xã hội hiện đại và thúc đẩy mạnh mẽ các chính sách “liên luỵ”. Nó đã sử dụng quyền lực tuyệt đối của mình để trừng phạt họ hàng của những người bị gán nhãn là “địa chủ”, “giàu”, “phản động”, “phần tử xấu” và “cánh hữu” (địa, phú, phản, hoại, hữu). Nó đã đề xuất ra lý luậnt “xuất thân”. [82]
Ngày nay, ĐCSTQ sẽ “gắn liền tránh nhiệm của những nhà lãnh đạo hàng đầu và công khai khiển trách họ, nếu họ thất bại trong vai trò lãnh đạo của họ đối với việc có những biện pháp thích hợp để ngăn chặn các học viên Pháp Luân Công đi tới Bắc Kinh khuấy động rắc rối. Đối với những trường hợp nghiêm trọng, hành động kỷ luật sẽ được thực hiện.” “Nếu một người luyện tập Pháp Luân Công, mọi người trong gia đình sẽ bị sa thải”. “Nếu một nhân viên luyện tập Pháp Luân Công, tiền thưởng của mọi người trong toàn bộ công ty sẽ bị giữ lại.” ĐCSTQ cũng ban hành những chính sách rõ ràng phân loại trẻ em thành “có thể được giáo dục và chuyển hóa” hoặc “năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu và cánh hữu). Đảng thúc đẩy việc tuân theo Đảng và “đặt đại nghĩa lên trên người thân thuộc.” Những hệ thống, như là hệ thống lưu trữ cá nhân và tổ chức, và hệ thống tạm trú, đã được thiết lập để bảo đảm sự thực thi các chính sách của nó. Người dân được khuyến khích tố cáo và vạch trần những người khác, và được thưởng cho những đóng góp với Đảng.
Khía cạnh tuyên truyền A. Văn hóa tuyên truyền một chiều Trong Cách mạng Văn Hóa, Trung Quốc đầy những khẩu hiệu như: “chỉ thị tối cao,” “Một câu (của Mao) nặng bằng mười ngàn câu, mỗi câu là một chân lý.” Tất cả các phương tiện truyền thông đều được khơi lên để phát những lời ca ngợi và tập thể ủng hộ Đảng. Khi cần, những lãnh đạo từ mọi tầng cấp của Đảng, chính phủ, quân đội, công nhân, đội thanh niên và các tổ chức phụ nữ sẽ được mang ra để bày tỏ sự ủng hộ của họ với Đảng. Mọi người đã phải đi qua thử thách đó.
B. Văn hóa khuyến khích bạo lực Mao Trạch Đông đã nói, “Với 800 triệu dân, không đấu tranh thì làm sao có thể hoạt động được?” Trong sự khủng bố Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đã nói, “Dẫu đánh những người luyện tập Pháp Luân Công tới chết thì cũng không bị trừng phạt.” ĐCSTQ chủ trương “chiến tranh toàn diện,” và “quả bom nguyên tử đơn giản chỉ là một con hổ giấy… thậm chí nếu một nửa dân số chết, nửa còn lại vẫn có thể xây dựng tổ quốc chúng ta từ đống đổ nát.”
C. Văn hóa kích động lòng căm thù “Không quên sự đau khổ của giai cấp người nghèo, và nhất định nhớ sự thù hằn trong nước mắt và máu” đã trở thành một chính sách quốc gia cơ bản. Sự tàn bạo đối với các kẻ thù giai cấp đã được ngợi ca như một đức hạnh. ĐCSTQ đã dạy “Cắn vào lòng căm thù của bạn, nhai nó và nuốt nó xuống. Gieo căm thù trong lòng để nó nảy mầm.” [83]
D. Văn hóa lừa gạt và dối trá Đây là một vài ví dụ về những lời dối trá của ĐCSTQ. “Thu hoạch trên mỗi mẫu [84] là quá mười ngàn cân” trong Đại Nhảy Vọt (1958). “Không một người nào bị giết trên Quảng Trường Thiên An Môn” trong cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 năm 1989. “Chúng ta đã khống chế vi trùng SARS” năm 2003, “Hiện tại là thời gian tốt nhất cho nhân quyền ở Trung Quốc”, và cái gọi là “Tam đại biểu” [85]
E. Văn hóa tẩy não Đây là một số khẩu hiệu mà ĐCSTQ đã chế tạo để tẩy não nhân dân: “Không có Đảng Cộng Sản, thì không có một Trung Quốc mới.” “Lực lượng nòng cốt dẫn dắt niềm tin của chúng ta tiến lên là ĐCSTQ và cơ sở lý thuyết dẫn đường tư tưởng chúng ta là Mácxít - Lêninnít”[86], “Duy trì sự liên kết tối đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thực hiện lệnh của Đảng nếu hiểu nó. Ngay cả khi không hiểu, cứ thực hiện nó và sự hiểu biết sẽ sâu sắc trong khi thực hiện các mệnh lệnh.”
F. Văn hóa nịnh hót “Thiên đường và trái đất là vĩ đại nhưng vĩ đại hơn vẫn là lòng tốt của Đảng;” “Chúng ta nợ Đảng tất cả những gì chúng ta đạt được;” “Tôi coi Đảng như mẹ của tôi;” “Dùng sinh mệnh mình để bảo vệ Ban Trung Ương Đảng.” “Đảng vĩ đại, vinh quang và chính xác.” “Đảng không thể thất bại”, và v. v.
G. Văn hóa giả dối để “qua cầu” Đảng đã thành lập các mô hình và tạo ra các ví dụ hết cái này đến cái khác, và đã phát động các chiến dịch “kiến thiết văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa” và “giáo dục tư tưởng”. Cuối cùng, người dân đã tiếp tục làm những gì họ đã làm trước khi có mỗi chiến dịch. Tất cả các bài giảng công khai, buổi học, và chia sẻ kinh nghiệm trở thành để “trưng bày nghiêm chỉnh trong tủ kính”, và tiêu chuẩn đạo đức xã hội tiếp tục có những bước nhảy lùi lớn.
Khía cạnh giữa cá nhân với nhau A. Văn hóa ganh ghét Đảng đã đẩy mạnh “chủ nghĩa quân bình tuyệt đối” để mà “bất cứ ai khác thường sẽ trở thành mục tiêu bị đả kích.” Người ta ghen tị với những ai có khả năng lớn hơn và những ai giàu có hơn - cái được gọi là “bệnh mắt Đỏ.” [87]
B. Văn hóa mọi người dẫm đạp lên nhau ĐCSTQ đã khuyến khích “mặt đối mặt đấu tranh và lưng tựa lưng báo cáo”. Chỉ điểm những đồng nghiệp, viết những tài liệu để vu khống họ, bịa đặt ra các sự kiện và thổi phồng các lỗi lầm của họ - những hành vi lệch lạc này đã được sử dụng để đo lường sự gần gũi với Đảng và mong muốn tiến bộ.
Những ảnh hưởng vô hình lên tinh thần bên trong và hành vi bên ngoài A. Một văn hóa chuyển con người thành máy móc Đảng muốn nngười dân là “những con ốc không bao giờ hoen rỉ trong guồng máy cách mạng,” là “công cụ được thuần hóa cho Đảng,” hoặc để “Tấn công vào bất cứ hướng gì mà Đảng chỉ chúng ta.” “Những người lính của chủ tịch Mao nghe theo Đảng nhất, họ đi bất cứ chỗ nào cần họ và làm ổn định bất cứ chỗ nào có thử thách gay go”.
B. Một văn hóa điên đảo thị phi Trong Cách Mạng Văn Hóa, ĐCSTQ muốn “có cỏ dại của chủ nghĩa xã hội hơn là vụ mùa của chủ nghĩa tư bản”. Quân đội bị ra lệnh bắn và giết trong cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 để “đổi lấy 20 năm ổn định”. ĐCSTQ cũng “Làm cho người khác những gì một người không muốn làm cho chính mình”
C. Một văn hóa tự mình tẩy não và tuyệt đối phục tùng “Cấp dưới tuân lệnh cấp trên và toàn bộ Đảng tuân theo Ban Trung Ương Đảng.” “Đánh không thương xót để nhổ rễ bất kỳ tư tưởng ích kỷ nào nổi lên trong tâm trí bạn.” “Nổ ra một cuộc cách mạng tận sâu trong tâm hồn bạn.” “Duy trì liên kết tối đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thống nhất tư tưởng, thống nhất bước chân, thống nhất mệnh lệnh, và thống nhất chỉ huy.”
D. Một văn hóa bảo vệ vị trí của kẻ nô tài “Trung Quốc sẽ bị hỗn loạn nếu không có Đảng Cộng Sản”; “Trung Quốc lớn như vậy. Ai có thể lãnh đạo Trung Quốc ngoạ trừ Đảng Cộng Sản?” “Nếu Trung Quốc sụp đổ, nó sẽ là một thảm hoạ trên toàn thế giới, vì vậy chúng ta phải giúp Đảng Cộng Sản duy trì sự lãnh đạo của nó”. Do từ sợ hãi và tự bảo vệ, những nhóm người liên tục bị đàn áp bởi ĐCSTQ thường thường có vẻ khuynh Tả hơn là ĐCSTQ.
******************
Những ví dụ quanh vấn đề này còn có rất nhiều. Mọi độc giả có thể tìm thấy những yếu tố khác nhau của văn hóa Đảng qua các kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người đã trải qua Cách Mạng Văn Hóa có thể vẫn nhớ một cách sống động “Vở Kịch Mẫu” của nhạc kịch hiện đại, các bài hát có lời của Mao, và Điệu Nhảy Trung Thành. Nhiều người vẫn nhắc lại các lời từ các cuộc hội thoại trong Bạch Mao Nữ [88], Chiến Tranh Địa Đạo [89], và Chiến Tranh Địa Lôi [90]. Qua những tác phẩm văn chương này, ĐCSTQ đã tẩy não người dân, nhồi nhét một cách bắt buộc vào tâm trí họ những thông điệp như Đảng “anh minh vĩ đại”; Đảng đã đấu tranh chống kẻ thù “gian khổ và dũng cảm” thế nào; những người lính của Đảng đã “hiến dâng tất cả cho Đảng” thế nào; họ đã vui sướng được hi sinh chính mình cho Đảng thế nào; và kẻ thù xấu xa và ngu ngốc thế nào. Ngày này qua ngày khác, sự tuyên truyền của bộ máy ĐCSTQ tiêm một cách bắt buộc vào mọi cá nhân sự tin tưởng mà Đảng Cộng Sản cần. Ngày nay, nếu người ta trở lại để xem bài thơ phổ nhạc thành màn khiêu vũ ca nhạc - “Phương Đông Màu Đỏ”, anh ta sẽ nhận ra rằng toàn bộ chủ đề và phong cách của màn trình diễn là về “giết, giết, và giết hơn nữa.”
Đồng thời, ĐCSTQ đã tạo ra hệ thống diễn văn và thuyết trình của nó, như là ngôn ngữ sỉ nhục trong sự phê bình số đông, những lời tâng bốc để hát những lời ca ngợi Đảng, và những quy phạm chính thức sáo rỗng tương tự như là “tiểu luận tám đoạn.” [91] Nhân dân bị làm cho nói một cách không ý thức theo các mô hình suy nghĩ mà khuyến khích khái niệm “đấu tranh giai cấp”, và để “ca tụng Đảng”, và sử dụng ngôn ngữ độc đoán thay vì lập luận bình tĩnh và lý trí.
Một bước đi quá chân lý là sai lầm. Văn hóa Đảng cũng lạm dụng đạo đức truyền thống tới một mức độ nhất định. Ví dụ, văn hóa truyền thống coi trọng “tín”, Đảng Cộng Sản cũng vậy. Tuy nhiên những gì nó đề xướng là “trung thành và trung thực với Đảng”. Văn hóa truyền thống nhấn mạnh “hiếu”. ĐCSTQ có thể bỏ người ta vào nhà tù nếu họ không chu cấp cho cha mẹ của họ, nhưng lý do thực sự là nếu không những người cha mẹ này sẽ trở thành “gánh nặng” cho chính phủ. Tuy nhiên, khi phù hợp với nhu cầu của Đảng, thì con cái đòi hỏi phải vạch ranh giới ngăn chia họ với cha mẹ mình. Văn hóa truyền thống nhấn mạnh vào “trung”. Hơn nữa, “dân là quan trọng bậc nhất, quốc gia theo sau, cuối cùng mới là những người cai trị” (quân khinh dân quý, xã tắc vi trọng). “Trung” mà ĐCSTQ ưa thích là “sự hiến dâng mù quáng” - hoàn toàn mù quáng tới mức dân bị đòi hỏi phải tin vào ĐCSTQ vô điều kiện và tuân theo nó mà không có một thắc mắc gì.
Những lời thường được sử dụng bởi ĐCSTQ là rất mê lạc. Ví dụ, nó đã gọi nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản là “Chiến Tranh Giải Phóng”, như thể là người dân đã được giải phóng khỏi sự áp bức. ĐCSTQ đã gọi thời kỳ sau 1949 là “sau khi thành lập quốc gia”, khi mà, trong thực tế, Trung Quốc đã tồn tại lâu trước đó. ĐCSTQ đơn giản chỉ là kẻ đảo chính thành lập một chế độ chính trị mới. Ba năm Đại Đói Kém [92] được gọi là “ba năm thảm họa thiên nhiên,” trong khi, thực tế là, nó không phải thảm họa thiên nhiên chút nào, mà hoàn toàn là tai họa do con người gây ra. Tuy nhiên, nghe những lời này mà được sử dụng trong cuộc sống thường ngày, và bị chúng ảnh hưởng một cách vô hình, người dân vô tình chấp nhận những khái niệm mà ĐCSTQ đã có ý định truyền cho họ.
Trong văn hóa truyền thống, nhạc được xem là một phương thức để kiềm nén dục vọng. Trong Lạc Thư (Nhạc Thư), Tập 24 của Sử Ký, Tư Mã Thiên (145-85 trước CN) [93] đã nói rằng bản tính của con người là hòa bình; cảm giác với những vật chất bên ngoài ảnh hưởng cảm xúc của người ta, và khuấy động tình cảm yêu và ghét dựa trên đặc tính và trí tuệ của con người. Nếu những tình cảm này không bị kiềm nén, một người sẽ bị cám dỗ bởi vô vàn các cám dỗ bên ngoài, và sẽ bị đồng hóa bởi những nội tâm xấu và phạm vào nhiều hành động xấu. Vì vậy Tư Mã Thiên đã nói, các hoàng đế trong quá khứ sử dụng sách dạy lễ nghi và nhạc để tiết chế dân. Các bài hát nên “vui vẻ nhưng không tục tĩu, buồn nhưng không quá đau đớn”. Người ta nên bày tỏ cảm giác và mong muốn, mà vẫn khống chế được những tình cảm này. Khổng Tử đã nói trong Luận Ngữ, “Ba trăm câu thơ của Kinh Thi (một trong sáu tác phẩm kinh điển được thu thập và diễn giải bởi Khổng Tử) có thể tóm tắt trong một câu, ‘không nghĩ tà’.
Một thứ đẹp như là nhạc, tuy nhiên, đã bị sử dụng bởi ĐCSTQ như là một phương thức để tẩy não người dân. Những bài hát như là “Chủ nghĩa xã hội là tốt,” “Sẽ không có Trung Quốc mới nếu không có Đảng Cộng Sản,” và nhiều bài khác, đã được hát từ lớp mẫu giáo cho đến đại học. Khi hát lên những bài hát này, người dân đã vô tình chấp nhận những ý nghĩa bên trong của lời hát. Hơn nữa, ĐCSTQ đã ăn trộm giai điệu của những bài dân ca du dương nhất và thay thế chúng bằng lời ca ngợi Đảng. Điều này đã phục vụ cả việc phá hủy văn hóa truyền thống và đề cao Đảng.
Một trong những tài liệu kinh điển của ĐCSTQ, “Diễn văn tại tọa đàm Duyên An về Văn học và Nghệ thuật” [94] đã đặt các nỗ lực văn hóa và quân đội như là “hai chiến tuyến”. Nó đã tuyên bố rằng chỉ có quân đội được trang bị là chưa đủ; một “quân đội của văn hoá” cũng cần. Nó đã quy định rằng “nghệ thuật văn học nên phục vụ chính trị” và “nghệ thuật văn học của tầng lớp giai cấp vô sản… là “các bánh xe và đinh ốc” của cỗ máy cách mạng.” Một hệ thống hoàn thiện “văn hóa Đảng” đã được phát triển từ điều này, với “thuyết vô thần” và “đấu tranh giai cấp” là tinh hoa của nó. Hệ thống này hoàn toàn đi ngược lại văn hóa truyền thống.
“Văn hóa Đảng” thực chất đã phục vụ xuất sắc trong việc giúp đỡ ĐCSTQ đạt được quyền lực và khống chế xã hội. Giống như quân đội, nhà tù và lực lượng cảnh sát của nó, văn hóa Đảng cũng là một bộ máy bạo lực, nó cung cấp một loại bạo lực khác - “bạo lực văn hóa”. Sự bạo lực văn hóa này, bằng cách phá hủy 5000 năm văn hóa truyền thống, đã làm thui chột ý chí của người dân, và phá hoại ngầm sự kết dính của quốc gia Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều người Trung Quốc hoàn toàn không biết tinh hoa của văn hóa truyền thống. Một số thậm chí còn đặt ngang hàng 50 năm “văn hóa Đảng” với 5000 năm văn hóa truyền thống Trung Quốc. Đây là một điều đau buồn cho người Trung Quốc. Nhiều người không nhận ra rằng khi đối chọi với cái gọi là văn hóa truyền thống thực tế họ đang đối lập với “văn hóa Đảng” của ĐCSTQ, không phải là văn hóa truyền thống của Trung Quốc.
Nhiều người hy vọng thay thế hệ thống của người Trung Quốc hiện tại bằng hệ thống dân chủ phương Tây. Thực tế, dân chủ phương Tây cũng đã được thành lập trên cơ sở văn hóa, đáng kể là Cơ Đốc giáo, cái mà, giữ quan điểm rằng “mọi người đều bình đẳng trong con mắt của Chúa”, tôn trọng nhân tính và các sự chọn lựa của con người. Làm sao mà một “văn hóa Đảng” vô nhân tính, bạo ngược của ĐCSTQ lại có thể được sử dụng như là nền tảng của một hệ thống dân chủ theo kiểu Phương Tây?
******************
Kết luận Trung Quốc đã bắt đầu đi lệch khỏi văn hóa truyền thống của nó trong triều đại nhà Tống (960-1279 sau CN), và văn hóa đó đã trải qua sự phá phách không ngớt kể từ đó. Sau Biến Động 4 tháng Năm năm 1919 [95], một số trí thức háo hức muốn có thành công nhanh và ích lợi ngay đã cố gắng tìm một con đường cho Trung Quốc bằng cách quay lưng lại với văn hóa truyền thống mà hướng về văn minh phương Tây. Tuy nhiên, các xung đột và thay đổi trong lĩnh vực văn hóa vẫn còn là một tiêu điểm của tranh cãi học thuật mà không có sự tham gia của các lực lượng mang tính quốc gia. Nhưng, khi ĐCSTQ xuất hiện, nó đã nâng tầm các xung đột văn hóa thành vấn đề đấu tranh sống và chết của Đảng. Vì vậy ĐCSTQ đã bắt đầu thực hiện một cuộc tấn công trực tiếp vào văn hóa truyền thống, sử dụng các phương tiện phá hủy cũng như là sự lạm dụng gián tiếp trong hình thức “chấp nhận cặn bã và loại bỏ tinh hoa”.
Sự phá hủy văn hóa quốc gia cũng là quá trình thành lập “văn hóa Đảng”. ĐCSTQ đã phá vỡ phán quyết đạo đức và lương tâm con người, vì vậy dẫn nhân dân quay lưng lại với văn hóa truyền thống. Nếu văn hóa quốc gia bị phá hủy hoàn toàn, tinh hoa của quốc gia sẽ biến mất cùng với nó, dẫn đến chỉ còn có cái tên của quốc gia. Đây không phải là một cảnh cáo phóng đại.
Cùng lúc, sự phá hủy văn hóa truyền thống đã đem đến cho chúng ta những thiệt hại vật chất không ngờ.
Văn hóa truyền thống coi trọng sự hợp nhất giữa người và trời và sự đồng tồn tại hài hòa giữa người và tự nhiên. ĐCSTQ đã tuyên bố niềm vui vô tận từ “đấu với trời và đất.” Văn hóa này của ĐCSTQ đã dẫn trực tiếp tới sự giảm giá trị trầm trọng của môi trường tự nhiên mà gây bệnh dịch cho Trung Quốc ngày nay. Lấy các nguồn nước làm ví dụ. Người dân Trung Quốc, đã từ bỏ giá trị truyền thống “một người quý tộc quý trọng sự giàu có, nhưng anh ta làm giầu một cách đúng khuôn phép,” đã cố tình tàn phá và làm ô nhiễm môi trường tự nhiên. Hiện tại, hơn 75 % của 50.000 kilômét (khoảng 30.000 dặm) sông của Trung Quốc là không phù hợp cho cá sinh sống. Hơn một phần ba nước ngầm đã bị ô nhiễm thậm chí là từ một thập niên trước, và bây giờ tình hình tiếp tục xấu hơn. Một “kỳ quan” thuộc loại lạ đã xảy ra ở dòng sông Hoài: Một trẻ em nhỏ đang chơi bên dòng sông phủ đầy dầu tạo một tia lửa mà, sau khi chạm bề mặt của dòng sông, đã cháy thành một ngọn lửa cao 5 mét. Khi ngọn lửa dâng lên không khí, hơn mười cây liễu trong vùng lân cận đã bị đốt khô [96]. Người ta có thể dễ dàng thấy rằng ai uống nước đó không thể không phát triển bệnh ung thư hay các bệnh tật lạ. Các vấn đề môi sinh khác, như là sự tạo thành sa mạc và muối hóa ở vùng Tây Bắc Trung Quốc, và ô nhiễm công nghiệp ở những vùng phát triển, tất cả có quan hệ tới việc xã hội mất sự tôn trọng với thiên nhiên.
Văn hóa truyền thống phản ảnh cuộc sống. ĐCSTQ đề xuất rằng “nổi loạn là có thể bào chữa được,” và “đấu tranh chống con người là đầy thích thú.” Dưới danh nghĩa cách mạng, Đảng có thể giết người và bỏ đói tới chết hàng chục triệu người. Điều này đã dẫn nhân dân tới chỗ giảm giá trị cuộc sống, mà sau đó khuyến khích sự gia tăng các sản phẩm giả và độc hại trên thị trường. Ví dụ, ở thành phố Phụ Dương của tỉnh An huy, nhiều trẻ sơ sinh khỏe mạnh đã phát triển thành có chân tay ngắn, thân thể yếu và gầy, và có cái đầu to trong thời kỳ bú sữa mẹ của chúng. Tám trẻ sơ sinh đã chết bởi vì căn bệnh lạ này. Sau khi nghiên cứu, người ta đã phát hiện ra rằng căn bệnh này gây ra bởi sữa bột có chất độc được sản xuất bởi một nhà sản xuất tham lam và có trái tim đen tối. Một số người nuôi cua, rắn và rùa mà cho ăn kích thích tố và thuốc kháng sinh, trộn cồn công nghiệp vào rượu vang để uống, đánh bóng gạo bằng cách sử dụng dầu công nghiệp, và làm trắng bột mì bằng tác nhân làm sáng của công nghiệp. Trong tám năm, một nhà sản xuất ở tỉnh Hà Nam đã sản xuất hàng ngàn tấn dầu ăn mỗi tháng sử dụng các chất liệu chứa chất gây ung thư như là dầu bị thải đi, dầu trích từ các bữa ăn bị bỏ lại, hoặc đất sét bị thải ra mà chứa dầu còn dư sau khi nó đã được sử dụng. Sản xuất thức ăn độc hại không phải là một hiện tượng giới hạn hay cục bộ, mà đã là phổ biến trên toàn Trung Quốc. Điều này tương quan với hậu quả của sự phá hoại văn hóa, nhân tâm không còn đạo đức ước thúc, chỉ còn truy cầu hưởng lạc vật chất.
Không giống như tính độc quyền tuyệt đối và độc nhất của văn hóa Đảng, văn hóa truyền thống có một khả năng bao dung rất lớn. Trong triều đại thịnh vượng nhà Đường, tư tưởng Phật gia, Cơ Đốc giáo, và các tôn giáo phương Tây khác đồng tồn tại một cách hài hòa với tư tưởng Nho gia, Đạo gia. Văn hóa truyền thống Trung Quốc đích thực sẽ giữ một thái độ khoan dung và rộng mở với văn minh phương Tây hiện đại. Bốn “con rồng” của Châu Á (Singapore, Đài Loan, Nam Hàn và Hồng Kông) đã tạo ra một đặc tính văn hóa “Tân Nho gia”. Nền kinh tế đang vút lên của họ đã chứng minh rằng văn hóa truyền thống không là một cản trở với sự phát triển xã hội.
Cùng lúc, văn hóa truyền thống đích thực đo lường chất lượng cuộc sống con người dựa trên cơ sở của sự hạnh phúc từ bên trong hơn là sự thoải mái vật chất từ bên ngoài. “Tôi mong không có ai khiển trách sau lưng tôi, hơn là có ai đó ca tụng tôi trước mặt; tôi mong có bình yên trong tâm trí, hơn là có sự thoải mái nơi thân thể.” [97] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN) [98] đã sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng ông đã giữ một tinh thần vui sướng và đã hưởng thời gian thư nhàn “hái hoa cúc tây ở hàng rào phía đông, lặng ngắm núi Phương Nam ở đằng xa”.
Văn hóa không đưa ra những câu trả lời cho các câu hỏi như là làm thế nào để mở rộng sản xuất công nghiệp hoặc đi theo hệ thống xã hội gì. Đúng hơn, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các chỉ dẫn và ước thúc đạo đức. Sự hồi phục thực sự văn hóa truyền thống sẽ là sự khôi phục của khiêm nhường với Trời, Đất và Tự nhiên, tôn trọng cuộc sống, và kính úy thần linh của con người. Nó sẽ cho phép nhân loại với trời, đất, và tự nhiên ở cùng trong một xứ sở hài hòa, và bảo dưỡng những năm trời cho.
Ghi chú: [1] Bàn Cổ (Bành Tổ) là sinh mệnh sống đầu tiên và là người sáng tạo ra tất cả trong thần thoại Trung Quốc.
[2] Nữ Oa là nữ thần mẹ người đã tạo ra nhân loại trong thần thoại Trung Quốc.
[3] Thần Nông là một nhân vật truyền thuyết trong thần thoại Trung Quốc người đã sống 5000 năm trước. Ông đã dạy dân làm nông. Ông cũng được công nhận là dành cuộc đời mình để tìm hàng trăm cây thuốc (và độc) và nhiều thực vật tự nhiên, những cây quan trọng cho sự phát triển y học Trung Quốc truyền thống.
[4] Thương Hiệt là một nhân vật truyền thuyết từ Trung Quốc cổ, là người sáng tạo ra chữ viết, công nghệ Trung Quốc. Phương pháp Thương Hiệt để đưa dữ liệu vào tính toán ký hiệu Trung Quốc được đặt tên theo tên ông.
[5] Từ Đạo Đức Kinh, một trong những văn bản quan trọng nhất của Đạo Lão, được viết bởi Lão Tử.
[6] Các lời bình ngỏ từ sách Đại Học của Khổng Tử.
[7] Từ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-85 sau CN), người là nhà sử học lớn đầu tiên của Trung Quốc. Nó ghi chép lịch sử của Trung Quốc và các quốc gia lân cận từ thời kỳ cổ đại tới thời gian của ông. Hình mẫu việc chép sử của Tư Mã Thiên là độc nhất vô nhị và được dùng như là một mô hình lịch sử chuẩn chính thức của các triều đại hoàng đế trong 2000 năm tiếp theo.
[8] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[9] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[10] Từ tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử.
[11] Khổng Tử đã nói trong sách Đại Học ông đã viết, “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ”.
[12] Đổng Chung Chu (ca. 179-104 trước CN), một nhà tư tưởng Khổng giáo trong thời nhà Hán, đã nói trong một chuyên luận Ba cách để hài hoà người với trời (Thiên Nhân Tam Sách) “trời còn tồn tại, Đạo không đổi.”
[13] Tây Du Ký, viết bởi Ngô Thừa Ân, là một trong những tiểu thuyết Trung Quốc kinh điển nổi tiếng nhất. Nó dựa trên một câu chuyện có thật về một nhà sư Trung Quốc nổi tiếng triều đại nhà Đường, Huyền Trang (602-664), người đã đi bộ tới vùng đất thuộc Ấn Độ ngày nay, là nơi sinh ra Phật Giáo, để tìm kinh. Trong tiểu thuyết, Ngộ Không, Bát Giới và Sa Tăng đã được Phật sắp xếp để trở thành các đệ tử của Huyền Trang và hộ tống ông tới Tây Trúc để lấy kinh. Họ đã trải qua 81 nạn trước khi tới được Tây Trúc và đắc Chính Quả.
[14] Hồng Lâu Mộng, viết bởi Tào Tuyết Cần (1715?-1763) vào triều đại nhà Thanh. Đó là một bộ truyện tình yêu buồn trên nền tảng sự suy tàn của một gia đình quý tộc. Lấy đó làm chủ đề trung tâm, tiểu thuyết đã mở ra một bức tranh toàn cảnh sống động và rộng lớn về lịch sử xã hội. Nó cũng mô tả các nhân vật chói lọi và đáng ghi nhớ mà trung tâm là Giả Bảo Ngọc và Lâm Bảo Thoa. Cấu trúc tỉ mỉ và trải rộng của nó cùng với giá trị văn chương của nó trong hình thức ngôn ngữ trang nhã đã làm cho nó được phổ biến rộng khắp như là hình ảnh thu nhỏ của nghệ thuật tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc.
[15] Thủy Hử, một trong những tiểu thuyết cổ điển lớn của Trung Quốc, được viết vào thế kỷ 14 bởi Thi Nại Am. Một trăm lẻ tám nam nữ đã tụ họp với nhau sống ngoài vòng pháp luật trên một đầm lầy. Mưu đồ, mạo hiểm, tàn sát, chiến tranh, và những câu chuyện lãng mạn được kể một cách hồi hộp bởi người kể chuyện truyền thống.
[16] Tam Quốc Diễn Nghĩa, một trong những tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nổi tiếng nhất viết bởi La Quán Trung (1330?-1400?) dựa trên lịch sử thời Tam Quốc (220-280 trước CN). Nó mô tả các cuộc đấu tranh rắc rối và phức tạp để giành ngai vàng giữa ba lực lượng chính trị hùng mạnh: Lưu Bị, Tào Tháo, và Tôn Quyền, và tập trung vào nhiều nhân tài lớn và những chiến lược sâu đậm trong thời kỳ đó.
[17] Đông Chu Liệt Quốc, một tiểu thuyết ban đầu được viết bởi Yu Shaoyu vào triều đại nhà Minh, được hiệu đính và viết lại bởi Feng Menglong vào cuối triều đại nhà Minh, và sau đó được tiếp tục hiệu đính bởi Cai Yuanfang vào triều đại nhà Thanh. Nó bao phủ một lích sử hơn 500 năm trong thời Xuân Thu (770-476 trước CN) và thời Chiến Quốc (475-221 trước CN).
[18] Thuyết Nhạc Toàn Truyện, được viết bởi Qian Cai vào triều đại nhà Thanh. Nó mô tả cuộc đời của Nhạc Phi (1103-1142) sống ở triều đại Bắc Tống, một trong những vị tướng và anh hùng yêu nước nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Nhạc Phi xuất sắc trong những trận chiến chống quân xâm lược miền bắc từ nước Yên. Ông đã bị đổ tội oan, tống vào tù và xử tử khi mà thừa tướng Tần Cối cố gắng loại bỏ phe chủ chiến. Sau đó Nhạc Phi giải oan và một ngôi đền đã được xây để tưởng nhớ ông. Bốn bức tượng bằng gang đã được đúc cho mộ của ông. Với những bộ ngực trần và tay bị trói sau lưng và quỳ trước nó [ngôi mộ], chúng đại diện cho những người chịu trách nhiệm cho cái chết của Nhạc Phi. Nhạc Phi đã trở thành một mẫu hình trong văn hóa Trung Quốc về lòng trung với nước.
[19] Đoạn trích này lấy từ Toát yếu của các kinh văn Đạo Giáo chọn lọc được biên soạn vào thời nhà Thanh.
[20] Xem [8].
[21] Từ diễn văn của Mao tại phiên họp thứ tám của Đại hội lần thứ 10 của ĐCSTQ.
[22] Những lời nguyên gốc của Mao trong tiếng Trung sử dụng một sự chơi chữ: Tôi thích một thày tu cầm một cái ô - không Đạo (hoặc Pháp, chơi chữ với “tóc”) hay trời (chơi chữ với “bầu trời”)
[23] Kiệt là tên của vua cuối cùng triều đại nhà Hạ (thế kỷ 21-16 trước CN), và Trụ là vua cuối cùng đời Thương (thế kỷ 16-11 trước CN). Cả hai đều là những bạo chúa.
[24] Văn Thiên Tường (1236-1283 sau CN), một tướng lĩnh chống lại quân Mông Cổ để bảo vệ lãnh thổ triềi đại nhà Nam Tống. Sau khi bị nhốt trong tù, ông đã bị giết vào ngày 9 tháng giêng năm 1283 sau khi đã từ chối không đầu hàng quân Mông Cổ.
[25] Từ Mạnh Tử.
[26] Từ một câu rất nổi tiếng trong Mạnh Tử, “Cuộc sống, ước muốn của tôi; công bằng, cũng là ước muốn của tôi. Khi tôi không thể có cả hai cùng một lúc, tôi sẽ duy trì công bằng với cái giá cuộc đời tôi.”
[27] Từ Cộng Sản Quốc Tế Ca. Dịch sang tiếng Trung Quốc thì nghĩa đen của nó là: “Không bao giờ có một đấng cứu rỗi, và chúng ta cũng không dựa vào Chúa; để tạo ra hạnh phúc cho con người, chúng ta dựa hoàn toàn vào chính chúng ta.”
[28] Hoàng Đế Thái Vũ đời Bắc Ngụy, (424-452 sau CN).
[29] Hoàng Đế Vũ Tông đời Đường, (840-846 sau CN).
[30] Hoàng Đế Vũ của triều đại Bắc Chu, (561-579 sau CN).
[31] Hoàng Đế Chu Thế Tông của triều đại Hậu Chu, (954-959 sau CN).
[32] Một biểu ngữ được sử dụng giữa những năm 1960 trong Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Quốc.
[33] Chùa Bạch Mã, chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, được xây dựng vào năm 68 sau CN, năm thứ 7 của Yong Ping của triều đại Đông Hán (25-220 sau CN).
[34] Bối Diệp trong tiếng Dai gọi là Talan. Bối Diệp là loại thực vật nhiệt đới thuộc họ cây cọ. Nó là một loại cây cao có lá mỏng, không bị con nhậy cắn và rất chậm bị khô hoàn toàn. Thời cổ khi giấy chưa được phát minh, người Dai cổ đã in thư hay các bài viết trên lá cây đó. Các bức thư được khắc trên lá cũng được gọi là Bối Diệp thư, và kinh trên đó, là Tanlan (Bối Diệp kinh).
[35] Xiangshan Park, cũng được gọi là Fragrant Hills Park, nằm cách Bắc Kinh 28 km về phía tây nam. Được khởi công vào năm 1186 dưới triều Jin, nó trở thành nơi nghỉ mùa hè của hoàng gia vào các triều Nguyên, Minh và Thanh.
[36] Từ Các di vật văn hóa đã bị đốt thế nào của Ding Shu.
[37] Hồng Quân là nói đến những người dân tiên phong của Đại Cách Mạng. Hầu hết là những người trẻ tuổi ở giữa tuổi thanh thiếu niên (13 đến 19 tuổi).
[38] Cung điện Mùa Hè, nằm cách Bắc Kinh 15 km, là vườn hoàng gia lớn nhất và được giữ gìn tốt nhất ở ở Trung Quốc, có lịch sử hơn 800 năm…
[39] Chùa Lạng Thiên là một điện thờ nổi tiếng ở Trung Quốc. Nó được tôn kính như là “vùng đất đầu tiên được ban phước dưới trời” Chùa ở bên sườn đồi phía bắc của nói Zhongnan, cách huyện Zhouzhi 15 km về phía đông bắc, và cáhc thành phố Tây An 70 km.
[40] dặm là một đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc (1 dặm bằng 0.5 km).
[41] Hoàng Đế Cao Tổ của triều đại nhà Đường, tên hiệu là Lý Uyên, (khoảng 618-626 sau CN), vị hoàng đế đầu tiên của nhà Đường.
[42] Các công xã Nhân Dân, trước đây là cao nhất trong ba cấp quản trị ở các khu vực nông thôn từ năm 1958 tới khoảng 1982 ở Cộng hòa nhân dân Trung Quốc. Các công xã có các chức năng quản lý, chính trị và kinh tế. Chúng là các đơn vị tập thể lớn nhất và được chia nhở hơn thành các đội sản xuất và đoàn sản xuất. Sau năm 1982, chúng đã được thay bằng các thành phố nhỏ.
[43] Xem [36].
[44] Nội dung của Đại Thừa Niết Bàn Kinh là kinh Đại thừa cuối cùng của Phật, được giảng trong những ngày cuối cùng của ông trên trái đất. Nó cho là cấu thành tinh túy của tất cả các kinh Đại Thừa.
[45] Từ Taisho Tripitaka tập. T01, số 7, Đại Thừa Đại Niết Bàn kinh. Dịch tạm thời sẽ được cải tiến.
[46] Từ Lý Thuyết và Thực Hành Đàn Áp Tôn Giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc của Bai Zhi. Website:
http://www.dajiyuan.com/gb/3/4/15/n300731.htm (tiếng Trung).
[47] Giải thoát biểu thị Niết bàn và cũng là tự do đạt được nhờ Định, nó cũng nhằm thoát khỏi sự luân hồi.
[48] Niết bàn, trong Đạo Phật hoặc Ấn độ giáo, là một trạng thái an lạc và hài hòa vượt khỏi đau khổ và tình; một trạng thái duy nhất linh hồn bất diệt.
[49] Một chiến dịch Đàn Áp Phản Cách Mạng đã xử lý các thành viên của xã hội tâm linh, hội tôn giáo, và Quốc Dân Đảng một cách bạo lực vào đầu năm 1951.
[50] “Cuộc chiến chống Mỹ bành chướng và giúp đỡ Triều Tiên”, như ĐCSTQ gọi nó, nổ ra vào năm 1950.
[51] Ngô Diệu Tông (1893-1975 sau CN) và những người khác đã xuất bản cái gọi là “Các phương tiện cho Cơ Đốc giáo Trung Quốc sử dụng các nỗ lực để xây dựng Trung Quốc mới” cũng được gọi là “Bản tuyên ngôn sáng tạo của Tam tự” vào năm 1950 và đã thành lập giáo hội “Tam Tự” sau đó.
[52] Đại Hội Trường Nhân Dân, xây vào năm 1959, tại phía tây của quảng trường Thiên An Môn. Là nơi hội họp của Quốc hội Trung Quốc.
[53] Xem [46].
[54] Áo cà sa, là áo choàng của thày tu.
[55] Chương Bá Quân (1895-1969 sau CN) là một trong những người sáng lập “Liên đoàn dân chủ Trung Quốc” một đảng dân chủ ở Trung Quốc. Ông đã bị Mao Trạch Đông liệt vào “cánh hữu số một” vào năm 1957, và là một trong những “người cánh hữu” đã không được khôi phục thanh danh sau Cách Mạng Văn Hóa.
[56] Hoàng Đế Huy Tông đời Tống, hiệu Zhao Ji (khoảng 1100-1126 sau CN).
[57] Tô Đông Pha, (1036-1101 sau CN), một nhà thơ, văn Trung Quốc nổi tiếng đời Tống. Một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống”.
[58] Văn Trưng Minh, (1470-1559 sau CN) họa sĩ Trung Quốc đời Minh.
[59] Đường Bá Hổ, (1470-1523) là một học giả, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng đời Minh.
[60] cân là một đơn vị trọng lượng sử dụng ở Trung Quốc.Một cân bằng 0.5 kg.
[61] Xem [36].
[62] Từ một bài thơ của Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740 sau CN) là một nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
[63] Vương Hi Chi (321-379 sau CN), là nhà thư pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử đời Đường.
[64] Lan Đình Tập Tự nguyên thủy, được cho là viết bởi Vương Hi Chi tại thời kỳ đầu sự nghiệp thư pháp của ông (51 tuổi, 353 sau CN), được công nhận chung như là phần quan trọng nhất trong lịch sử thư pháp Trung Quốc.
[65] Ngô Thừa Ân (1506?-1582? sau CN), Nhà thơ, nhà tiểu thuyết Trung Quốc đời Minh, tác giả của Tây Du Ký, một trong bốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất Trung Quốc.
[66] Ngô Kính Tử (1701-1754 sau CN), một nhà văn đời Thanh, tác giả của Học giả (Rulin Waishi, cũng được biết như là Lịch sử không chính thức của giới học giả).
[67] Văn xuôi viết bởi Ouyang Xiu (1007-1072 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống” Ouyang Xiu tự gọi mình là “túy ông”.
[68] Tên khác của Hồng Quân.
[69] The Yongle Encyclopedia or Yongle Dadian được ủy thác bởi Hoàng đế đời Minh Trung Quốc Yongle vào năm 1403. Nó được coi là cuốn bách khoa lớn nhất và sớm nhất thế. Hai ngàn học giả đã làm việc trong dự án, tích hợp 8000 văn bản từ thời cổ đại tới thời nhà Minh. Cuốn Bách khoa, hoàn thành vào năm 1408, bao gồm trên 22000 tập viết tay chiếm 40 mét khối.
[70] Lâm Bưu (1907-1971), một lãnh tụ cao cấp trong Đảng Cộng sản, dưới thời Mao Trạch Đông, đã là uỷ viên Bộ Chính trị, là Phó Chủ tịch nước (1958), và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1959). Lâm Bưu được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu từng được chọn là người kế nhiệm Mao Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó bị thất sủng vào năm 1970. Thấy bị xuống dốc, Lâm Bưu (theo một số báo cáo) đã định làm một vụ tầy đình và định đào tẩu sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi chạy trốn khỏi trừng phạt, máy bay đã nổ tại Mông Cô, kết thúc cuộc đời Lâm Bưu.
[71] “Lương Hiệu” đại biểu cho một nhóm cây bút đã được chỉ định.
[72] Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng (259-210 trước CN), hiệu Doanh Chính, là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước Trung Quốc thống nhất. Ông đã chuẩn hóa luật pháp, ngôn ngữ viết, tiền tệ, trọng lượng và đo lường, và đã cho xây Vạn Lý Tường Thành. Tất cả đều những thứ này ảnh hưởng sâu và lớn lên lịch sử và văn hóa Trung Quốc. Ông đã ra lệnh đốt sách của nhiều trường phái bao gồm cả Nho gia và Đạo gia, và một lần đã r a lệnh chôn sống 460 nhà Nho. Những sự kiện lịch sử này được gọi là “đốt sách và chôn Nho sĩ” Ông đã xây một lăng tẩm khổng lồ cho chính mình và Đội quân canh mồ bằng đất nung của Hoàng Đế Tần được biết đến như là kỳ quan thứ 8 của thế giới.
[73] Từ Các tác phẩm của Mao Trạch Đông 1949-1976 (tập 2)
[74] “Chỉnh lại phong cách làm việc của Đảng” (1942) của Mao.
[75] “Nói chuyện tại diễn đàn Diên An về văn học và nghệ thuật” (1942) của Mao.
[76] Vũ Huấn (1838-1896 sau CN), tên gốc là Wu Qi, sinh tại Tangyi thuộc tỉnh Sơn Đông. Mất cha từ thủa nhỏ, gia đình ông rất nghèo. Ông phải xin thức ăn để nuôi mẹ và được biết đến như là người ăn mày hiếu thảo. Sau khi mẹ ông mất, ăn xin trở thành phương tiện kiếm sống duy nhất của ông. Ông mở các trường học miễn phí bằng tiền tích lũy xin được.
[77] Hồ Phong (1902-1985), nhà phê bình văn chương và học giả, chống lại chính sách văn chương giáo điều của ĐCSTQ. Ông đã bị khai trừ khỏi Đảng năm 1955 và kết án 14 năm tù.
[78] Từ Các Tác phẩm chọn lọc của Mao Trạch Đông (Tập. 5), “Sự tình đang thay đổi” (1957)
[79] Qian Bocheng, Văn hóa phương Đông, ấn bản thứ tư (2000).
[80] Cuộc vận động Ngày mồng 4 tháng 6 của sinh viên được khởi xướng bởi các sinh viên đại học tán thành cải tạo dân chủ ở Trung Quốc giữa 15 tháng 4 và ngày 4 tháng 6 năm 1989. Sau đó nó đã bị đàn áp bởi Quân đội giải phóng nhân dân, và được cộng đồng thế giới gọi là cuộc tàn sát ngày mùng 4 tháng 6.
[81] “Phòng 610”: một tổ chức được tạo ra chuyên khủng bố Pháp Luân Công, có quyền lực tuyệt dối tại mỗi cấp quản lý trong đảng và tất cả các hệ thống pháp luật và chính trị khác.
[82] “Xuất thân luận” (or bloodline or pedigree) là một lý thuyết tuyên bố rằng bản tính của một người là do tầng lớp của gia đình mà anh ta sinh ra quyết định.
[83] Từ bài hát của nhạc kịch hiện đại “Huyền thoại đèn lồng đỏ”, một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời “Đại cách mạng văn hóa” (1966-76).
[84] Mẫu là một đơn vị đo diện tích ở Trung Quốc.
[85] Học thuyết tam đại biểu của Giang Trạch Dân được nhắc đến lần đầu trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000, đại ý là Đảng cộng sản Trung Quốc phải luôn luôn (1) đại biểu cho quyền lợi dân tộc Trung Hoa, (2) đại biểu cho sự phát triển hiện đại, (3) đại biểu cho nền văn hoá tiên tiến của Trung Quốc.
[86] Diễn văn mở đầu Phiên họp thứ nhất của Quốc hội nhân dân toàn quốc lần thứ nhất của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Tháng 9 năm 1954).
[87] “Bệnh mắt đỏ” được sử dụng ở đây để mô tả một người mà khi thấy người khác làm tốt hơn mình, anh ta liền cảm thấy bất bình và khó chịu, và nghĩ rằng anh ta đáng lẽ phải là người đang làm tốt hơn.
[88] Một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ biến được phát triển trong thời “Đại cách mạng văn hóa” (1966-76). Trong huyền thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là một câu chuyện về một tiên nữ sống trong một hang động có các khả năng siêu thường có thể thưởng cho những người làm việc tốt và phạt những kẻ làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ba-lê ở Trung Quốc hiện đại cô bị mô tả như một cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái hang sau khi bố cô bị đánh đến chết vì từ chối không gả cô cho một người địa chủ già. Cô bị bạc tóc vì thiếu dinh dưỡng. Dưới ngòi bút của các nhà văn theo ĐCSTQ, huyền thoại này đã bị biến thành một trong những vở kịch “hiện đại” nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm để kích động lòng hận thù giai cấp đối với những người chủ sở hữu đất đai.
[89] Địa Đạo Chiến, một phim đen trắng làm năm 1965 trong phim ĐCSTQ tuyên bố rằng quân du kích của mình ở Nội địa Trung Quốc đã đánh quân xâm lược Nhật qua nhiều đường hầm dưới lòng đát trong những năm 1940.
[90] Địa Lôi Chiến, một bộ phim đen trắng làm năm 1962 trong phim ĐCSTQ tuyên bố rằng quân du kích của mình ở tỉnh Hà Bắc đã đánh quân xâm lược Nhật Bản bằng mìn tự làm lấy trong những năm 1940.
[91] Một cách hành văn quy định trong các bài kiểm tra tuyển dụng công chức nhà nước. được biết là cứng nhắc về hình thức và nghèo nàn về nội dung.
[92] Đại Đói Kém 1959-1961 ở Trung Quốc là nạn đói lớn nhất trong lịch sử con người. Con số ước tính “người chết bất thường” trong nạn đói trải từ 18 tới 43 triệu.
[93] Xem [7].
[94] Của Mao Trạch Đông (1942).
[95] Biến Động 4 tháng Năm là biến động lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, bắt đầu từ mùng 4 tháng 5 năm 1919.
[96] Chen Guili, Cảnh báo của sông Hoài (1995).
[97] Từ “Mở đầu xem xét Li Yuan trở về Bàn Cổ” của Han Yu (768-824 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi đời Đường và Tống”.
[98] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN), cũng được biết là Tao Qian, một nhà thơ lớn trong văn hóa Trung Quốc.