Bài bình luận số 7: Lịch sử giết người của Đảng Cộng Sản Trung Quốc Lời Mở Đầu Lịch sử 55 năm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) được viết bằng máu và những lời dối trá. Những câu chuyện đằng sau lịch sử đầy máu này vừa cực kỳ bi đát vừa ít được biết đến. Dưới chế độ thống trị của ĐCSTQ khoảng 60 đến 80 triệu người dân Trung Quốc vô tội đã bị giết hại, để lại đằng sau những gia đình tan nát của họ. Nhiều người không hiểu tại sao ĐCSTQ lại giết người. Trong khi ĐCSTQ đang tiếp tục sự đàn áp tàn bạo của nó đối với các học viên Pháp Luân Công và gần đây áp bức các đám người biểu tình ở Hán Nguyên bằng súng đạn, nhiều người tự hỏi liệu họ có thể sẽ thấy một ngày mà ĐCSTQ sẽ học cách nói bằng lời thay vì bằng súng đạn.
Mao Trạch Đông tóm tắt mục tiêu của Cách Mạng Văn Hóa, “…sau khi thiên hạ đại loạn, thế giới sẽ tiến đến hòa bình, nhưng cứ khoảng 7 hoặc 8 năm, sự hỗn loạn lại cần phải xảy ra một lần.”[1]. Nói cách khác, nên có một cuộc cách mạng về chính trị cứ 7 hoặc 8 năm một lần và một đám người cần bị giết chết trong khoảng 7 hoặc 8 năm một lần.
Đảng Cộng Sản giết người là có những lý luận để căn cứ vào, và có các nhu cầu hiện thực.
Theo lý luận mà nói, thì Đảng Cộng Sản tin vào “chính quyền chuyên chế của giai cấp vô sản” và cần phải “cách mạng liên tục dưới sự chuyên chính của giai cấp vô sản”. Do đó sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền tại Trung Quốc, nó đã giết chết những người địa chủ để giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất ở các khu vực nông thôn. Nó đã giết hại các nhà tư bản để đạt mục đích cải cách công thương và giải quyết các mối quan hệ sản xuất ở khu vực thành thị. Sau khi hai giai cấp này bị loại trừ, các vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế đã được giải quyết trên căn bản. Tương tự vậy, để giải quyết các vấn đề liên quan đến kiến trúc thượng tầng cũng cần phải giết người. Việc đàn áp 'Nhóm Hồ Phong chống Đảng' và cuộc 'Vận động chống cánh Hữu' đã tiêu diệt các thành phần trí thức. Việc giết hại những tín đồ đạo Cơ đốc, những người theo Đạo giáo, những người theo Đạo Phật và các bang hội được dân ưa chuộng là để giải quyết vấn đề tôn giáo. Các cuộc tàn sát trên diện rộng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa đã giải quyết vấn đề quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng về chính trị và văn hóa. Vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 được dùng để ngăn chặn nguy cơ về chính trị và giải quyết các vấn đề đòi hỏi dân chủ. Chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công nhằm để giải quyết các vấn đề về tín ngưỡng và phương pháp truyền thống để làm thân khỏe mạnh. Tất cả những hành động này đều cần thiết để Đảng Cộng Sản củng cố quyền lực và duy trì sự thống trị, khi liên tục phải đối mặt với các nguy cơ về tài chính (giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng vọt sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền và nền kinh tế Trung Quốc gần như đã sụp đổ sau Cách mạng Văn hóa), nguy cơ chính trị (một số người không nghe theo lệnh của Đảng hoặc một số người muốn chia sẻ quyền lực chính trị với Đảng) hoặc nguy cơ về tín ngưỡng (sự tan rã của Liên Bang Sô Viết cũ, các biến động chính trị ở Đông Âu, và vấn đề Pháp Luân Công). Trừ vấn đề Pháp Luân Công ra, gần như tất cả các phong trào chính trị trước đó đều được dùng để làm sống lại bóng ma tà linh của ĐCSTQ và kích động tham vọng cách mạng của nó. Đảng cũng sử dụng những phong trào chính trị này để thử các đảng viên ĐCSTQ, tiêu diệt những người không đạt đủ đòi hỏi của Đảng.
Đồng thời việc giết người của Đảng Cộng Sản cũng do từ các nhu cầu hiện thực mà ra. Bởi vì Đảng Cộng sản xây dựng cơ nghiệp bởi những tên lưu manh vô lại mà đi giết người để giành quyền lực. Một khi tiền lệ này đã được đặt ra thì không có đường lui. Khủng bố liên miên đã được dùng để dọa nạt người dân và bắt buộc họ vì sợ hãi mà chấp nhận quyền thống trị tuyệt đối của Đảng Cộng Sản.
Nhìn bề ngoài, tưởng như là Đảng cộng sản "bị động phải giết người” và tưởng chừng như những sự kiện 'ngẫu nhiên' trong xã hội là "ngẫu nhiên" kích động tà linh Đảng cộng sản, và tình cờ châm ngòi cho cơ chế tổ chức giết người của Đảng cộng sản. Trên thực tế những sự kiện này được dùng để ngụy trang nhu cầu sát nhân của Đảng, và ĐCSTQ cần phải giết chóc định kỳ. Nếu không có những bài học đau đớn này, người ta có thể bắt đầu nghĩ rằng Đảng Cộng Sản đang tiến bộ và bắt đầu đòi hỏi dân chủ như những sinh viên lý tưởng hóa trong cuộc vận động dân chủ năm 1989 đã làm. Việc giết người cứ 7 hay 8 năm một lần là để gợi lại sự khủng bố trong tâm trí người dân, và có thể cảnh cáo thế hệ trẻ: bất cứ ai chống lại ĐCSTQ, muốn thách thức quyền lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSTQ, hoặc cố nói ra sự thực về lịch sử Trung Quốc, sẽ phải nếm mùi “nắm tay sắt của chính quyền chuyên chế của giai cấp vô sản”.
Giết người đã trở thành một trong những thủ đoạn cần thiết nhất để Đảng Cộng Sản duy trì sự thống trị. Với sự leo thang nợ máu của ĐCSTQ, thì việc buông lưỡi dao đồ tể của nó xuống sẽ khuyến khích người dân báo thù cho những tội ác đã làm. Do đó, ĐCSTQ không những chỉ giết hại nhiều người mà còn sử dụng thủ đoạn tàn nhẫn nhất để đe dọa người dân một cách hiệu lực, đặc biệt là vào thời kỳ đầu khi ĐCSTQ đang thiết lập sự thống trị của nó.
Bởi vì mục đích giết người là để tạo ra khủng bố tối đa, ĐCSTQ đã lựa chọn các mục tiêu để hủy diệt một cách tùy tiện và bừa bãi. Trong lịch sử của mỗi lần vận động chính trị, ĐCSTQ đều sử dụng chính sách diệt tuyệt. Hãy lấy việc “Đàn áp các phần tử phản Cách mạng” làm ví dụ. ĐCSTQ đã không thực sự đàn áp những "hành vi” phản Cách mạng mà chỉ đàn áp những “phần tử” mà họ gọi là phản Cách mạng. Nếu ai đã đầu quân và phục vụ vài ngày trong quân đội của Quốc Dân Đảng nhưng tuyệt đối không làm gì liên quan đến chính trị sau khi Đảng Cộng Sản giành được quyền lực, người này vẫn phải bị giết chết vì “lịch sử phản Cách Mạng” của mình. Trong quá trình cải cách ruộng đất, để gỡ bỏ “gốc rễ của vấn đề”, ĐCSTQ thường giết cả gia đình của người địa chủ.
Từ năm 1949 khi giành chính quyền đến nay, ĐCSTQ đã bức hại hơn một nửa nhân dân Trung Quốc. Ước tính khoảng 60 đến 80 triệu người đã chết vì các nguyên nhân không chính đáng. Con số này vượt trên cả tổng số người chết trong cả hai cuộc Chiến tranh Thế Giới cộng lại.
Giống như những nước Cộng Sản khác trên thế giới, việc giết người tùy tiện của ĐCSTQ cũng bao gồm thủ đoạn giết hại cực kỳ tàn bạo những đảng viên của chính nó để tiêu diệt những người bất đồng ý kiến, coi trọng ý thức về 'nhân tính' hơn 'Đảng tính'. Sự thống trị bằng khủng bố của ĐCSTQ nhắm đều vào người dân và các đảng viên của nó để duy trì một “pháo đài chiến đấu bất khả bại”.
Trong một xã hội của chính đảng, mọi người bày tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau, sống trong sự tôn kính và biết ơn Thượng Đế hay Thần linh. Ở phương Đông, mọi người nói, “Đừng bao giờ gây ra cho người khác điều gì mà chính bản thân mình không muốn nhận nó [2].” Ở phương Tây, mọi người nói, “Hãy yêu quý hàng xóm láng giềng như yêu chính bản thân mình” [3]. Ngược lại, Đảng Cộng Sản cho rằng “Lịch sử của tất cả xã hội cho đến ngày nay là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp” [4]. Để các cuộc "đấu tranh” được tồn tại trong xã hội thì phải sinh ra sự thù hận. Đảng Cộng Sản Trung Quốc(ĐCSTQ) không những chính nó phải giết người mà nó còn phải khuyến khích dân chúng giết hại lẫn nhau. Nó cố làm cho người ta trở nên thờ ơ lãnh đạm với nỗi đau khổ của người khác bằng cách bao vây người ta trong giết chóc liên miên. Nó muốn mọi người trở nên tê liệt do thường xuyên phải đối mặt với những hành động tàn nhẫn vô nhân đạo, và hình thành một tâm lý rằng “điều tốt nhất ta có thể hy vọng là tránh khỏi bị đàn áp”. Tất cả những bài học về sự đàn áp dã man này khiến cho ĐCSTQ duy trì được quyền thống trị của nó.
Cùng với việc hủy diệt vô số nhân mạng, ĐCSTQ cũng hủy diệt tinh thần của người dân Trung Hoa. Có rất nhiều người, ở trong cuộc đấu tranh tàn khốc, đã hình thành một loại phản xạ có điều kiện. Chỉ cần ĐCSTQ dơ con dao đồ tể lên, là họ hoàn toàn vứt bỏ tất cả nguyên tắc, vứt bỏ tất cả khả năng phán đoán. Về một khía cạnh ý nghĩa nào đó, tinh thần của những người này đã chết, đó là một điều còn đáng sợ hơn cả cái chết của thể xác.
******************
I. Những cuộc thảm sát khủng khiếp Trước khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lên nắm quyền, Mao Trạch Đông đã viết, “Chúng ta tuyệt đối không áp dụng chính sách nhân từ đối với các phần tử phản động và đối với các hành vi phản động của giai cấp phản động [5].” Nói cách khác, thậm chí trước khi ĐCSTQ chiếm được Bắc Kinh, nó đã quyết tâm thực hành "chính quyền bạo lực" dưới cách nói tránh của “Chính quyền chuyên chế Nhân dân Dân chủ” (People’s Democratic Dictatorship). Sau đây là một vài ví dụ.
1. Đàn áp những phần tử Phản động và Cải cách ruộng đất Vào tháng 3 năm 1950, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) công bố “Lệnh đàn áp nghiêm khắc các phần tử phản động”, được biết đến trong lịch sử như một phong trào “đàn áp các phần tử phản động”.
Không như các hoàng đế trong lịch sử thường ân xá cho thiên hạ sau khi họ lên ngôi, ĐCSTQ bắt đầu giết người ngay giây phút nó lên nắm quyền. Mao Trạch Đông nói trong một tài liệu, “Còn có rất nhiều nơi mà nhân dân bị đe dọa và không dám giết các phần tử phản Cách Mạng một cách công khai trên diện rộng [6].” Vào tháng 2/1951, Trung Ương Đảng của ĐCSTQ nói rằng ngoại trừ tỉnh Triết Giang và phía nam tỉnh An Huy, “các khu vực nào mà vẫn chưa giết đủ người, đặc biệt là ở các thành phố lớn và trung bình, thì nên tiếp tục bắt giữ và giết người với một số lượng lớn và không nên dừng sớm quá.” Mao thậm chí khuyến nghị rằng “ở các khu vực nông thôn, để giết các phần tử phản động, nên giết hơn 1/1000 tổng số dân… ở các thành phố, nên giết ít hơn 1/1000. [7]” Dân số Trung Quốc vào thời gian đó là khoảng 600 triệu người; “ mệnh lệnh hoàng gia” này của Mao sẽ giết chết ít nhất 600 ngàn người. Không một ai biết tỉ lệ 1/1000 này là ở đâu ra. Có thể là Mao chợt nảy ra ý nghĩ mà quyết định rằng 600 ngàn nhân mạng là đủ để đặt một nền tảng mà tạo nỗi sợ hãi trong dân chúng, nên đã ra lệnh thực hiện như thế.
Những người bị giết có thực sự đáng phải chết hay không, đó không phải là mối quan tâm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). “Quy định của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa về việc trừng phạt các phần tử phản động” công bố năm 1951 thậm chí nói rằng những người “phao tin đồn” có thể bị “tử hình ngay lập tức”.
Trong khi việc 'Đàn áp các phần tử phản động' đang được thực hiện mãnh liệt, thì cải cách ruộng đất cũng đang diễn ra trên diện rộng. Trên thực tế, ĐCSTQ đã bắt đầu cải cách ruộng đất trong các khu vực do nó chiếm đóng vào cuối thập kỷ 1920. Trên bề mặt, cải cách ruộng đất, trông có vẻ như ủng hộ một lý tưởng tương tự như ở Thái Bình Thiên Quốc [8], gọi là' tất cả mọi người đều sẽ có đất để trồng trọt' nhưng thực ra nó chỉ là một cái cớ để giết người. Đào Chú, đứng thứ tư trong hàng ngũ ĐCSTQ, sau đó có một khẩu hiệu cho cải cách ruộng đất là: “Làng nào cũng đổ máu, nhà nào cũng đánh nhau,” cho thấy rằng trong làng nào cũng có những người địa chủ phải chết.
'Cải cách ruộng đất' đã có thể được thực hiện mà không cần phải giết người. Nó đã có thể được thực hiện đúng theo cách mà chính phủ Đài Loan thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của mình, bằng cách mua lại đất từ các địa chủ. Tuy nhiên, bởi vì Đảng cộng sản bắt nguồn từ một nhóm những kẻ lưu manh côn đồ vô sản, nó chỉ biết cướp bóc. Sợ rằng nó có thể bị trả thù do cướp bóc, Đảng cộng sản đã giết các nạn nhân, để loại trừ nguồn gốc của các rắc rối có thể có sau này.
Cách giết người phổ biến nhất trong thời kỳ cải cách ruộng đất được biết đến là “đấu tố”. ĐCSTQ đưa ra các tội giả, rồi quy tội cho các địa chủ hoặc những phú nông. Sau đó dân làng được hỏi xem những người này nên bị trừng phạt như thế nào. Một số đảng viên hoặc những tên tay sai cho ĐCSTQ đã được gài trước vào trong những đám đông để la to “Chúng ta nên giết họ!”, rồi các địa chủ hoặc những phú nông sau đó bị xử tử ngay tại chỗ. Vào thời gian đó, bất kỳ ai làm chủ đất đai trong làng đều bị coi là “bá hộ”. Những người thường lợi dụng nông dân bị gọi là “cường hào ác bá”; những người thường giúp sửa chữa các tiện nghi công cộng và tặng tiền cho các trường học và để giảm nhẹ thiên tai thì gọi là “ thiện bá hộ”; những người không làm gì cả thì gọi là “ bất bá hộ”. Việc phân loại như thế này không có ý nghĩa gì cả, bởi vì tất cả các “bá hộ” cuối cùng đều bị xử tử ngay lập tức bất kể là họ thuộc vào loại “bá hộ” nào.
Vào khoảng cuối năm 1952, số "phần tử phản cách mạng" bị xử tử do ĐCSTQ công bố là khoảng 2.4 triệu người. Thực ra, tổng số người chết bao gồm các cựu viên chức của chính phủ Quốc Dân Đảng dưới cấp huyện và các địa chủ, là ít nhất 5 triệu người.
Việc "Đàn áp các phần tử phản động" và "Cải cách ruộng đất" có ba kết quả trực tiếp. Thứ nhất là, các cựu quan chức địa phương mà đã được lựa chọn thông qua sự tự trị dựa trên cơ sở thị tộc đã bị tiêu diệt. Thông qua việc đàn áp các phần tử phản cách mạng và cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã giết hại tất cả những nhân viên quản lý trong chế độ trước và thực hiện được sự khống chế toàn bộ đối với các khu vực nông thôn bằng cách thiết lập các chi bộ Đảng trong từng làng xã. Thứ hai là, chiếm được số lượng của cải khổng lồ bằng con đường trộm cướp trong việc đàn áp các phần tử phản cách mạng và cải cách ruộng đất. Thứ ba là, sự đàn áp tàn khốc các địa chủ và phú nông đã khủng bố tinh thần của người dân.
2. “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống” Việc 'Đàn áp các phần tử phản cách mạng và Cải cách ruộng đất' chủ yếu nhắm vào các khu vực nông thôn, còn “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống” theo sau đó có thể được coi là sự diệt tuyệt gốc tương ứng ở thành thị.
“Chiến dịch Ba chống” bắt đầu vào tháng 12/1951 và nhắm vào nạn tham nhũng, phí phạm và quan liêu trong nội bộ của những cán bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Một số viên chức tham nhũng của ĐCSTQ đã bị tử hình. Sau đó không lâu, ĐCSTQ cho rằng sự việc thối nát, tham nhũng của các viên chức chính quyền của nó là do sự cám dỗ của các nhà tư bản. Vì vậy “Chiến dịch Năm chống” nhằm để chống hối lộ, trốn thuế, trộm cắp tài sản quốc gia, xây cất dối trá cẩu thả bằng vật liệu xấu, và làm gián điệp thu thập các tin tức kinh tế quốc gia, được phát động vào tháng 1 năm 1952.
“Chiến dịch Năm chống” trên thực tế, chính là để ăn cắp tài sản của các nhà tư bản hay đúng hơn là giết hại các nhà tư bản để lấy tiền của họ. Trần Nghị, thị trưởng Thượng Hải lúc bấy giờ, được báo cáo vắn tắt tình hình trên ghế sô-fa với một cốc trà trong tay mỗi đêm. Ông ta hỏi một cách nhàn nhã, “Có bao nhiêu người nhảy dù hôm nay?”, có nghĩa là “Có bao nhiêu thương gia nhảy lầu tự tử hôm nay?” Không một nhà tư bản nào có thể trốn thoát “Chiến dịch Năm chống”. Họ bị đòi hỏi phải đóng thuế mà “đã trốn nợ” kể từ thời vua Quang Tự (1875-1908) của triều đại nhà Thanh (1644-1911), là khi thị trường thương mại Thượng Hải bắt đầu được thành lập. Các nhà tư bản đã không thể có cách nào để trả những thứ "thuế” như vậy, ngay cả với tất cả tài sản của họ. Họ không còn cách nào khác ngoài việc tự kết liễu cuộc đời của mình, nhưng họ không dám nhảy xuống sông Hoàng Phố tự tử. Nếu xác của họ không được tìm thấy, ĐCSTQ sẽ buộc tội họ là chạy sang Hong Kong, và người nhà của họ vẫn phải chịu trách nhiệm trả những khoản thuế đó. Các nhà tư bản đành phải nhảy lầu và để lại xác cho ĐCSTQ thấy bằng chứng cái chết của họ. Người ta nói rằng mọi người không dám đi bộ bên cạnh các tòa nhà cao tầng ở Thượng Hải thời bấy giờ vì sợ bị những người nhảy từ trên xuống sẽ rơi vào mình.
Theo tài liệu "Sự thực của các vận động chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" được đồng biên soạn bởi bốn cơ quan chính phủ bao gồm cả Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử của ĐCSTQ thì vào năm 1996, trong thời kỳ “Chiến dịch Ba chống” và “Chiến dịch Năm chống”, hơn 323.100 người đã bị bắt giữ và hơn 280 người đã tự tử hay mất tích. Trong “Chiến dịch chống Hồ Phong” năm 1955, hơn 5.000 người đã bị buộc tội, hơn 500 người đã bị bắt, hơn 60 người đã tự tử, và 12 người đã chết vì các nguyên nhân mờ ám. Trong cuộc 'đàn áp các phần tử phản cách mạng' theo sau đó, hơn 21.300 người đã bị tử hình, và hơn 4.300 người đã tự tử hoặc mất tích [9].
3. Nạn đói khủng khiếp Số người chết cao nhất được ghi lại trong Nạn đói khủng khiếp ( hoặc gọi là Đại mất mùa) của Trung Quốc ngay sau chiến dịch Đại Nhảy Vọt. Bài “Nạn đói khủng khiếp” trong quyển sách Hồ sơ lịch sử của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa báo cáo rằng “Số lượng người chết do những nguyên nhân không chính đáng và số lượng trẻ em sơ sinh bị giảm đi từ năm 1959 đến năm 1961 được ước tính là khoảng 40 triệu… sự giảm thiểu 40 triệu người của Trung Quốc rất có thể là nạn đói khủng khiếp nhất trên thế giới trong thế kỷ này.” [10]
"Nạn đói khủng khiếp" đã bị Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dán một cái nhãn hiệu sai lạc là “ 3 năm tai họa tự nhiên”. Trên thực tế, 3 năm đó có thời tiết tốt mà không có bất kể một tai họa tự nhiên lớn lao nào như lũ lụt, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, mưa đá, hay dịch châu chấu. “Tai họa” đó hoàn toàn do con người gây nên. Chiến dịch Đại Nhảy vọt đòi hỏi mọi người ở Trung Quốc phải tham gia vào việc luyện thép, bắt buộc nông dân phải bỏ hoa màu thối rữa ở ngoài đồng. Không kể điều này, các viên chức khu vực lại còn báo cáo giả tạo làm tăng số thu hoạch của sản lượng. Hạ Diệc Nhiên, Bí thư thứ nhất của Đảng bộ quận Liễu châu tự bịa đặt lượng sản xuất là “65.000 cân thóc trên một mẫu ruộng [11]” ở huyện Hoàn Giang. Đây là ngay sau Hội nghị toàn thể Lộc sơn khi phong trào chống cánh Hữu của ĐCSTQ lan ra toàn quốc. Để chứng tỏ rằng ĐCSTQ luôn luôn đúng, lúa gạo bị chính quyền sung công trong một hình thức đánh thuế theo sản lượng được thổi phồng lên này. Hậu quả là, khẩu phần lúa gạo, hạt giống và lương thực chủ yếu của nông dân tất cả đều bị sung công. Khi đòi hỏi vẫn chưa được đáp ứng đủ, thì nông dân bị buộc tội là đã giấu lúa gạo của mình.
Hạ Diệc Nhiên đã từng nói rằng họ phải tranh đấu giành giải nhất trong cuộc thi đua sản xuất lượng cao nhất, không kể bao nhiêu người ở Liễu Châu sẽ phải chết. Một số nông dân đã bị cướp đi tất cả, chỉ còn lại một chút gạo được giấu ở trong chậu nước tiểu. Đảng bộ quận Thuần Lạc, huyện Hoàn Giang thậm chí còn ra lệnh cấm nấu cơm, để ngăn nông dân không được ăn lúa gạo. Việc tuần tra được thực hiện bởi dân quân vào ban đêm. Nếu họ thấy ánh lửa họ sẽ tiến hành lục soát và vây bắt. Nhiều nông dân thậm chí không dám nấu thảo mộc dại hoặc vỏ cây ăn được, và bị chết đói.
Trong quá khứ, vào những lúc có nạn đói kém, quan phủ sẽ phát chẩn cháo và lúa gạo, và cho phép các nạn nhân di tản khỏi những khu vực có nạn đói. Còn ĐCSTQ coi việc chạy khỏi nơi có nạn đói là một điều ô nhục cho uy tín của Đảng, và ra lệnh cho dân quân chặn đường không cho các nạn nhân chạy thoát khỏi nạn đói. Khi các nông dân bị đói quá phải cướp ngũ cốc ở các kho lương thực, ĐCSTQ ra lệnh bắn vào đám đông để đàn áp việc cướp bóc và dán cái nhãn cho những người bị chết là các 'phần tử phản cách mạng'. Một số lớn nông dân bị chết đói ở nhiều tỉnh bao gồm Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ Xuyên, và Quảng Tây. Nông dân bị đói nhưng vẫn bị bắt buộc tham gia làm các việc tưới nước ruộng, xây đập và luyện thép. Nhiều người bị ngã xuống đất trong khi làm việc và không bao giờ đứng lên được nữa. Cuối cùng thì những người sống sót không có sức để chôn những người bị chết. Nhiều làng bị chết toàn bộ khi từng gia đình lần lượt bị chết đói.
Trong các nạn đói nghiêm trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc trước thời ĐCSTQ, có những trường hợp các gia đình phải trao đổi con cho nhau để ăn thịt nhưng không ai từng ăn thịt chính con của mình. Tuy nhiên dưới thời ĐCSTQ, mọi người buộc phải ăn thịt những người bị chết, ăn những người chạy trốn đến từ những khu vực khác, và thậm chí phải giết chết và ăn thịt con của chính mình. Nhà văn Sa Thanh đã mô tả cảnh này trong quyển sách của ông Y Hy Đại Địa Loan (Một vùng đất hoang vu nơi đầm lầy)[12] rằng: Trong một gia đình nông dân, người cha chỉ còn lại một người con trai và một người con gái trong vụ 'Nạn đói khủng khiếp'. Một hôm, người cha đuổi người con gái ra khỏi nhà. Khi cô trở về, cô không thể tìm thấy người em trai mà chỉ nhìn thấy mỡ trắng nổi ở trong chảo và một đống xương ở cạnh bếp. Vài ngày sau, người cha thêm nước vào chảo, và gọi người con gái đến gần. Cô gái sợ quá, và van xin cha cô từ ngoài cửa, “Xin ba đừng ăn thịt con. Con có thể nhặt củi và nấu cơm cho ba. Nếu ba ăn thịt con, thì sẽ không còn ai làm việc này cho ba nữa.”
Mức độ lan tràn cuối cùng và số lượng thảm kịch như thế này thì không được biết đến. Thế nhưng Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn xuyên tạc nó như là một vinh dự cao quý và tự cho rằng ĐCSTQ đã lãnh đạo nhân dân một cách dũng cảm chống lại “tai họa tự nhiên” và tiếp tục tự khen mình là “vĩ đại, quang vinh và chính xác”.
Sau Hội nghị toàn thể Lộc Sơn năm 1959, tướng Bành Đức Hoài đã bị tước quyền vì lên tiếng bênh vực nhân dân. Một nhóm viên chức và cán bộ chính quyền dám nói sự thực đã bị bãi chức, bị tống giam hoặc bị điều tra. Sau đó, không còn ai dám nói lên sự thực nữa. Vào thời gian của 'Nạn đói khủng khiếp', thay vì báo cáo sự thực, người ta lại che dấu sự kiện về số người chết đói để bảo vệ chức vụ của họ. Tỉnh Cam Túc thậm chí còn từ chối viện trợ lương thực của tỉnh Sơn Tây, nói rằng Cam Túc đã có dư lương thực rất nhiều.
"Nạn đói khủng khiếp" này cũng là một cuộc thi về khả năng cho các cán bộ mới gia nhập của ĐCSTQ. Theo tiêu chuẩn của ĐCSTQ, những cán bộ mà không nói lên sự thực về sự kiện hàng chục triệu người chết đói chắc chắn là “đạt tiêu chuẩn”. Với cuộc trắc nghiệm này, ĐCSTQ sau đó sẽ tin rằng không có gì như tình người hay đạo Trời mà có thể trở thành một gánh nặng tâm lý ngăn cản những cán bộ này đi theo Đảng. Sau "Nạn đói khủng khiếp", các viên chức chịu trách nhiệm cấp tỉnh chỉ phải tham gia vào thủ tục hình thức tự kiểm thảo. Lý Tỉnh Tuyền, Bí thư tỉnh ủy của ĐCSTQ ở Tứ xuyên nơi mà hàng triệu người bị chết đói, đã được thăng chức lên làm Bí thư thứ nhất Văn phòng khu vực tây nam của ĐCSTQ.
4. Từ Cách mạng văn hóa và Vụ thảm sát tại Thiên An Môn cho đến Pháp Luân Công Cách mạng văn hóa chính thức bắt đầu ngày 16/05/1966 và kéo dài cho đến tận năm 1976. Thậm chí chính bản thân Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng gọi thời kỳ này là “Thảm họa 10 năm”. Sau này trong một cuộc phỏng vấn với một phóng viên Nam-tư, Hồ Diệu Bang nguyên tổng bí thư ĐCSTQ đã nói rằng, “Vào thời gian đó, gần 100 triệu người bị liên can, tức là một phần mười dân số Trung Quốc.”
Tài liệu "Sự thực của các vận động chính trị sau khi thành lập Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa" báo cáo rằng, “Vào tháng 5/1984, sau 31 tháng tập trung điều tra, thẩm tra và tính toán lại bởi Ủy ban Trung Ương của ĐCSTQ, các con số liên quan đến Cách mạng Văn hóa là: hơn 4.2 triệu người bị giam giữ và điều tra; hơn 1.73 triệu người chết mờ ám; hơn 135.000 người bị dán nhãn 'phản cách mạng' và bị tử hình; hơn 237.000 người bị giết và hơn 7.03 triệu người bị tàn phế trong các cuộc tấn công vũ trang; và 71.200 gia đình bị tiêu diệt.” Thống kê tổng hợp từ các ghi chép lịch sử của các huyện cho thấy rằng 7.73 triệu người chết vì những nguyên nhân không chính đáng trong Cách mạng Văn hóa.
Bên cạnh việc đánh đập người ta đến chết, sự khởi đầu Cách mạng Văn hóa cũng gây ra một làn sóng tự tử. Nhiều nhà trí thức nổi tiếng, bao gồm Lão Xả, Phó Lôi, Tiễn Bá Tán, Vũ Hán và Trữ An Bình tất cả đều tự kết liễu cuộc đời của mình trong thời kỳ đầu của Cách mạng Văn hóa.
Cách mạng Văn hóa là thời kỳ cực Tả điên cuồng nhất ở Trung Quốc. Giết người đã trở thành một lối cạnh tranh để bày tỏ lập trường của cá nhân trong cuộc cách mạng, cho nên việc tàn sát các “kẻ thù giai cấp” là cực kỳ tàn bạo và độc ác.
Chính sách “cải cách và mở cửa” đã làm cho sự trao đổi thông tin được tiến triển khá nhiều, với nhiều phóng viên ngoại quốc đã có thể chứng kiến vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và được chiếu trên các chương trình truyền hình cho thấy xe tăng đuổi theo và cán chết các sinh viên.
Mười năm sau, vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân bắt đầu chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công của hắn. Khoảng cuối năm 2002, tin tức nội bộ từ các nguồn tin chính phủ ở Trung Quốc Đại lục đã xác nhận việc che dấu sự thật của hơn 7.000 người bị chết trong các trại giam, các trại lao động cưỡng bách, các nhà tù và các bệnh viện thần kinh, với trung bình khoảng 7 người bị giết mỗi ngày.
Ngày nay ĐCSTQ có khuynh hướng giết người rất ít hơn so với trong quá khứ khi mà hàng triệu hay hàng chục triệu người đã bị giết hại. Điều này có hai nguyên nhân quan trọng. Một mặt, Đảng đã làm biến dị đầu óc tư tưởng của nhân dân Trung Quốc bằng văn hóa Đảng để họ giờ đây dễ phục tùng hơn. Mặt khác, do các viên chức ĐCSTQ cực kỳ thối nát và tham nhũng, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế "theo kiểu truyền máu” và hầu hết dựa vào vốn đầu tư ngoại quốc để duy trì tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. ĐCSTQ nhớ như in sự trừng phạt kinh tế sau 'Vụ thảm sát tại Thiên An Môn', biết rõ rằng việc giết người công khai sẽ dẫn đến hậu quả là vốn đầu tư ngoại quốc sẽ bị rút ra khỏi Trung Quốc, mà sẽ gây nguy hiểm cho sự thống trị độc tài của nó.
Tuy nhiên, ĐCSTQ chưa hề từ bỏ việc giết chóc ở đằng sau. Có khác chăng là ĐCSTQ ngày nay cực lực che giấu các hành vi dơ bẩn đẫm máu.
******************
II. Các thủ đoạn giết người cực kỳ tàn nhẫn Tất cả mọi việc mà ĐCSTQ làm chỉ nhắm một mục đích: chiếm đoạt quyền lực và duy trì quyền lực. Mà giết người đã thành một thủ đoạn rất quan trọng để ĐCSTQ duy trì quyền lực của nó. Phương pháp càng độc ác tàn nhẫn, số người bị giết trong dân chúng càng nhiều, thì mới có thể tạo sự khủng bố trong nhân dân càng lớn. Mà sự khủng bố như thế đã bắt đầu từ trước thời kỳ chiến tranh kháng Nhật.
1. Thảm sát ở miền Bắc Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật Khi giới thiệu cuốn sách Kẻ Thù Bên Trong của Linh Mục Raymond J. De Jaegher [13], cựu tổng thống Mỹ Hoover bình luận rằng cuốn sách đã vạch trần bản chất khủng bố của các cuộc vận động cho chủ nghĩa Cộng Sản. Ông giới thiệu nó cho bất kỳ ai muốn hiểu rõ lực lượng tà ác đó trên thế giới này.
Trong quyển sách này, De Jaegher kể lại các câu chuyện về việc ĐCSTQ sử dụng bạo lực để khủng bố và khuất phục nhân dân như thế nào. Ví dụ như, một hôm ĐCSTQ yêu cầu tất cả mọi người đi ra một khu đất rộng trong làng. Các giáo viên dẫn các em nhỏ đi từ trường ra khu đất rộng. Mục đích của việc tập trung là để chứng kiến việc giết chết 13 thanh niên yêu nước. Sau khi đọc các tội danh giả tạo của các nạn nhân, ĐCSTQ ra lệnh cho một giáo viên đang khiếp sợ đánh nhịp cho các em nhỏ hát các bài hát yêu nước. Đứng trên sân khấu giữa các bài hát không phải là các vũ công, mà là một tên đao phủ đang cầm lăm lăm chiếc mã tấu sắc bén trong tay. Đao phủ là một tên lính cộng sản trẻ tuổi khỏe mạnh và hung tợn với đôi tay chắc khỏe. Tên lính đi đến đằng sau nạn nhân đầu tiên, nhanh chóng giơ cao thanh mã tấu sắc bén và chém xuống, và cái đầu thứ nhất rơi xuống đất. Máu phun ra như một cái vòi phun nước trong khi cái đầu lăn lông lốc trên mặt đất. Các em nhỏ đang ca hát một cách kích động liền gào khóc hoảng loạn. Người giáo viên vẫn giữ nhịp và cố giữ cho các em tiếp tục hát; cái chuông của cô vẫn tiếp tục rung lên trong hoảng loạn.
Tên đao phủ chém 13 lần và 13 cái đầu rơi xuống đất. Sau đó, nhiều tên lính cộng sản đi đến, mổ tung lồng ngực của các nạn nhân và moi tim họ ra để làm một bữa tiệc. Tất cả những cảnh dã man đó diễn ra trước mắt của các em nhỏ. Các em bị khủng bố tái xanh cả mặt và một số bắt đầu nôn ọe. Cô giáo la hét học trò và bảo các em xếp thành hàng trở về trường.
Sau đó, Linh Mục De Jaegher thường thấy các em nhỏ bị bắt buộc phải xem cảnh chém giết. Các trẻ em đã trở nên quen thuộc với các cảnh đổ máu và không phản ứng với việc giết người; một số thậm chí còn bắt đầu cảm thấy thích thú.
Khi ĐCSTQ cảm thấy rằng việc giết người đơn thuần là chưa đủ rùng rợn và kích động, chúng bắt đầu phát minh ra các kiểu tra tấn tàn bạo. Ví dụ như, bắt người ta nuốt một lượng muối lớn mà không cho họ uống một chút nước nào -- nạn nhân sẽ phải chịu đựng cho đến khi bị chết vì khát; hoặc lột trần truồng người ta và bắt họ phải lăn trên thủy tinh vỡ; hoặc là đào một lỗ trên mặt sông đóng băng trong mùa đông, rồi ném nạn nhân vào trong lỗ-- nạn nhân sẽ bị chết cóng hoặc bị chết đuối.
Linh Mục De Jaegher viết rằng, một đảng viên Cộng Sản ở tỉnh Sơn Tây phát minh ra một kiểu tra tấn khủng khiếp. Một hôm, khi hắn đang đi lang thang trong thành phố, hắn dừng lại trước cửa một nhà hàng và nhìn chằm chặp vào một thùng nước sôi lớn. Sau đó, hắn mua nhiều thùng lớn, và ngay lập tức bắt một số người chống lại Đảng cộng sản. Trong phiên tòa vội vã, các thùng được đổ đầy nước và đun sôi. Ba nạn nhân bị lột trần truồng và bị quăng vào thùng nước sôi, rồi bị đun sôi cho đến chết sau phiên tòa. Ở Bình Sơn, ông De Jaegher đã chứng kiến một người cha bị lột da khi vẫn còn sống. Các đảng viên bắt người con trai của nạn nhân xem và tham gia vào cảnh tra tấn vô nhân đạo đó, chứng kiến cha mình chết trong đau đớn tột cùng và phải nghe những tiếng gào thét của cha mình. Các đảng viên ĐCSTQ đổ giấm và át-xít lên thân thể người cha và sau đó toàn bộ da trên thân thể nạn nhân bị nhanh chóng lột ra. Chúng bắt đầu từ lưng rồi lên hai vai và chẳng mấy chốc da trên toàn thân thể của ông bị lột ra, chỉ còn lại da đầu là còn nguyên vẹn. Người cha đã chết trong vài phút.
2. Khủng bố Đỏ trong “Tháng Tám Đỏ” và ăn thịt người ở Quảng Tây Sau khi chiếm được quyền thống trị tuyệt đối trên toàn bộ đất nước, Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn không chấm dứt bạo lực. Trong thời Cách mạng Văn hóa, hành động bạo ngược như vậy còn trở nên tồi tệ hơn.
Ngày 18/8/1966, Mao Trạch Đông gặp các đại diện “Hồng vệ binh” trên vọng lâu của cổng thành Thiên An Môn. Tống Bân Bân, con gái của lãnh tụ Cộng Sản Tống Nhiệm Cùng, cài cho Mao một huy hiệu “Hồng vệ binh” trên tay áo. Khi Mao biết tên của Tống Bân Bân, cái tên có nghĩa là nho nhã lễ phép, Mao nói rằng “Chúng ta cần nhiều bạo lực hơn nữa.” Do đó cô Tống đổi tên của cô ta thành Tống Yếu Vũ (có nghĩa là “muốn bạo lực”.)
Các cuộc tấn công võ trang một cách bạo lực không lâu sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn bộ đất nước. Thế hệ trẻ bị sự giáo dục theo tư tưởng vô Thần của chủ nghĩa Cộng Sản không còn nể sợ hay quan tâm đến điều gì. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng Sản và hướng dẫn bởi các chỉ thị của Mao, “Hồng vệ binh” ngông cuồng và điên loạn tự đặt mình lên trên cả luật pháp, bắt đầu đánh đập nhân dân và lục soát nhà cửa trên toàn quốc. Ở nhiều khu vực, tất cả “năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phần tử phản Cách mạng, các phần tử xấu, và những người thuộc cánh Hữu) và các thành viên gia đình của họ đều bị tiêu diệt theo chính sách diệt chủng. Một ví dụ điển hình là Huyện Đại Hưng gần Bắc Kinh, nơi mà từ 27/8 đến 1/9 năm 1966, tổng số có 325 người bị giết trong 48 nhóm của 13 Công Xã. Người già nhất bị giết là 80 tuổi, và người trẻ nhất bị giết chỉ mới được 38 ngày. Hai mươi hai gia đình bị giết không còn ai sống sót.
“Đánh đập một người đến chết là một cảnh thường thấy. Trên đường phố Sa Than, một nhóm đàn ông thuộc lực lượng “Hồng vệ binh” tra tấn một bà già bằng xích sắt và thắt lưng da cho đến khi bà không thể cử động được nữa, nhưng một cô “Hồng vệ binh” vẫn nhảy lên người bà và dẫm đạp lên bụng bà ta. Bà già chết ngay tại chỗ… Gần Sùng Vân Môn, khi “Hồng vệ binh” lục soát nhà của vợ một địa chủ (một góa phụ sống một mình), chúng bắt buộc mỗi nhà hàng xóm phải mang một nồi nước sôi đến nơi và chúng đổ nước sôi lên người bà từ cổ trở xuống cho đến khi thân thể bà ta bị nấu chín. Nhiều ngày sau, người ta tìm thấy bà ta bị chết ở trong phòng, thân người bà ta bị giòi bâu kín… Lúc đó có nhiều phương pháp giết người khác nhau, bao gồm dùng gậy đánh đến chết, dùng liềm cắt và dùng dây thừng thắt cổ đến chết… Cách giết trẻ sơ sinh là tàn nhẫn nhất: kẻ giết người giẫm lên một chân của đứa bé và giật chân kia, xé thân thể ra làm đôi”. ("Điều tra về Thảm sát Đại Hưng" của Ngộ La Văn) [14]
Ăn thịt người ở Quảng Tây thậm chí còn vô nhân đạo hơn cả Vụ thảm sát ở Đại Hưng. Nhà văn Trịnh Nghĩa, tác giả của cuốn sách Kỷ niệm Đỏ mô tả việc ăn thịt người diễn ra trong ba giai đoạn [15].
Thứ nhất-- giai đoạn mở đầu: giai đoạn bắt đầu khi khủng bố vẫn còn diễn ra bí mật trong bóng tối. Biên niên sử của huyện ghi lại một cảnh điển hình: vào lúc nửa đêm, những tên giết người rón rén đi tìm nạn nhân của chúng và mổ bụng moi tim và gan. Bởi vì chúng chưa có kinh nghiệm và vẫn còn sợ, chúng cắt nhầm phải phổi, sau đó chúng phải quay lại. Một khi chúng nấu chín tim và gan rồi, một số mang rượu từ nhà đến, một số đem gia vị, rồi sau đó tất cả bọn giết người cùng ăn các cơ quan nội tạng của người ta một cách lặng lẽ trong ánh lửa từ trong lò hắt ra.
Thứ hai-- giai đoạn cao trào: giai đoạn hai là đỉnh điểm, khi khủng bố trở nên công khai. Trong giai đoạn này, những tên giết người lâu năm đã có kinh nghiệm làm sao moi tim gan khi nạn nhân vẫn còn sống, và chúng dạy lại cho những người khác, làm kỹ thuật của chúng được khéo léo hơn. Ví dụ, khi mổ bụng một người sống, bọn giết người chỉ cần cắt chéo trên bụng nạn nhân, dẫm lên người (nếu nạn nhân bị trói vào cây, bọn giết người sẽ lên gối vào bụng dưới nạn nhân) và tim và các cơ quan nội tạng khác sẽ tự động rơi ra. Tên trùm giết người sẽ được lấy tim, gan và các cơ quan sinh dục và những tên khác sẽ lấy các phần còn lại. Những cảnh tượng khủng khiếp này được trang hoàng bởi cờ bay và khẩu hiệu.
Thứ ba-- giai đoạn quần chúng với tánh điên cuồng: ăn thịt người đã trở thành một cuộc vận động quần chúng. Ở huyện Vũ Tuyên, như những con chó hoang ăn thịt những xác chết trong một bệnh dịch, người ta ăn thịt người khác một cách điên cuồng. Đầu tiên, các nạn nhân thường bị “phê bình công khai”, theo sau đó luôn luôn là bị giết, rồi bị ăn thịt. Ngay khi nạn nhân ngã xuống đất, bất kể là còn sống hay đã chết, mọi người lấy ra những con dao họ đã chuẩn bị trước và vây quanh nạn nhân, cắt bất kể bộ phận thân thể nào mà họ có thể túm lấy được. Ở giai đoạn này, những công dân bình thường đều tham gia vào việc ăn thịt người. Cơn bão lốc của “đấu tranh giai cấp” đã thổi khỏi đầu óc của người ta tất cả những ý thức về tội lỗi và nhân tính. Ăn thịt người lan ra như một bệnh dịch và người ta còn thích thú các buổi tiệc ăn thịt người. Bộ phận nào trong thân người cũng có thể ăn được, bao gồm cả tim, thịt, gan, thận, khuỷu tay, bàn chân, và gân. Cơ thể người được nấu chín bằng các cách khác nhau, bao gồm luộc, hấp, xào, nướng, chiên rán, và nướng trên lửa… Người ta uống rượu và chơi các trò chơi trong khi ăn thịt người. Trong đỉnh cao của phong trào này, thậm chí nhà ăn của cơ quan chính quyền cấp cao nhất, Ủy ban Cách mạng Huyện Vũ Tuyên cũng bán các món ăn làm từ thịt người.
Đọc giả không nên nhầm lẫn mà nghĩ rằng những buổi tiệc hội họp ăn thịt người đó chỉ đơn thuần là hành vi tự phát sinh giữa dân chúng. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là một tổ chức cực kỳ độc tài, khống chế từng mỗi tế bào của xã hội. Nếu không có sự khuyến khích và thao túng của ĐCSTQ thì phong trào ăn thịt người đã hoàn toàn không thể xảy ra.
Một bài hát biên soạn bởi ĐCSTQ để tự ca ngợi bọn chúng có đoạn, “xã hội cũ [16] đã biến người thành quỷ, xã hội mới biến quỷ thành người.” Tuy nhiên, những vụ giết người và các buổi tiệc ăn thịt người này cho chúng ta thấy rằng ĐCSTQ có thể khiến cho con người biến thành quỷ hoặc quái vật, bởi vì bản thân ĐCSTQ là tàn bạo hơn bất cứ con quỷ nào hay con quái vật nào.
3. Cuộc đàn áp Pháp Luân Công Khi nhân dân Trung Quốc bước vào kỷ nguyên của máy điện toán và du hành vũ trụ, và có thể nói chuyện riêng với nhau về nhân quyền, tự do và dân chủ, rất nhiều người còn mê ngủ nghĩ rằng những hành động bạo ngược với mức độ cực kỳ ác tâm và rùng rợn khủng khiếp đều đã trở thành quá khứ. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã khoác lên mình một bộ quần áo văn minh và sẵn sàng kết giao với thế giới.
Nhưng điều đó là quá xa với sự thật. Khi ĐCSTQ phát hiện ra rằng có một tập thể không sợ những hành động tra tấn và giết người tàn bạo như vậy của bọn chúng, thì bọn chúng càng trở nên điên cuồng hơn nữa, mà tập thể đang bị đàn áp này chính là những học viên Pháp Luân Công.
Nếu nói rằng những hành động bạo lực của “Hồng vệ binh” và phong trào ăn thịt người ở tỉnh Quảng Tây là nhắm tiêu diệt thân thể của đối phương, thì việc giết người chỉ kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ. Tuy nhiên, việc đàn áp các học viên Pháp Luân Công là để bắt buộc họ từ bỏ tín ngưỡng của mình vào “Chân, Thiện, Nhẫn”. Hơn nữa, sự tra tấn tàn nhẫn thường kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm. Ước tính khoảng hơn 10.000 học viên Pháp Luân Công đã chết vì bị tra tấn.
Những học viên Pháp Luân Công mà phải chịu đựng đủ loại tra tấn và đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần đã ghi lại hơn 100 thủ đoạn tra tấn tàn bạo; sau đây chỉ là vài ví dụ.
Đánh đập tàn nhẫn là thủ đoạn tra tấn được thường dùng nhất để làm hại các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát và các đầu sỏ trong tù trực tiếp đánh đập các học viên và cũng xúi giục những tù nhân khác đánh đập các học viên. Nhiều học viên đã trở nên điếc do bị đánh đập, tai của họ bị gẫy rời ra, con ngươi mắt của họ bị vỡ, răng cũng bị gãy, và xương sọ, xương sống, xương sườn, xương cổ, xương hông, tay và chân của họ bị gẫy rời; chân và tay họ đã bị cắt bỏ do bị đánh đập. Một số những tên tra tấn đã tàn nhẫn bóp nát tinh hoàn của các học viên nam và đá vào chỗ sinh dục của các học viên nữ. Nếu các học viên không chịu khuất phục, những kẻ tra tấn sẽ tiếp tục đánh đập cho đến khi các học viên bị rách da hở thịt.
Giật điện là một thủ đoạn khác mà thường được dùng ở các trại lao động cưỡng bách tại Trung Quốc để tra tấn các học viên Pháp Luân Công. Cảnh sát dùng dùi cui điện để cho điện giật các nơi nhạy cảm trên thân thể, bao gồm miệng, đỉnh đầu, ngực, cơ quan sinh dục, mông, đùi, gan bàn chân, nhũ hoa của các học viên nữ, và dương vật của các học viên nam. Một số cảnh sát còn dùng nhiều dùi cui điện cùng một lúc để cho điện giật các học viên cho đến khi có thể ngửi thấy mùi thịt cháy và các chỗ bị thương bị thâm tím. Có khi đầu và hậu môn cũng bị giật điện cùng một lúc. Cảnh sát thường dùng 10 hoặc hơn dùi cui điện cùng một lúc để đánh đập các học viên trong thời gian dài. Thông thường mỗi dùi cui điện có điện áp khoảng hàng chục ngàn vôn. Khi nó phát điện, nó phát ra ánh sáng xanh và tiếng kêu như tĩnh điện. Khi dòng điện đi qua cơ thể người, cảm giác như là bị bỏng hoặc bị rắn cắn. Mỗi lần giật rất là đau đớn. Da nạn nhân trở nên đỏ, nứt ra và bị cháy và vết thương bị rữa ra. Thậm chí còn có những dùi cui điện mạnh hơn có điện áp cao hơn làm cho nạn nhân cảm thấy như đầu bị búa bổ vào. Cơ thể của các học viên đã bị hoàn toàn dị dạng do bị tra tấn và dính be bét máu, vậy mà bọn cai ngục vẫn còn đổ nước muối lên người họ và tiếp tục dùng dùi cui điện để tra tấn họ. Mùi máu và thịt cháy trộn lẫn vào nhau và tiếng gào thét đau đớn nghe rất thương tâm. Trong khi đó, những kẻ tra tấn cũng dùng túi ny-lông trùm đầu các học viên để làm cho họ khuất phục vì sợ bị ngạt thở.
Cảnh sát cũng dùng thuốc lá đang cháy để đốt tay, mặt, gan bàn chân, ngực, lưng, núm vú của các học viên v.v… Chúng dùng bật lửa để đốt tay và cơ quan sinh dục của các học viên. Các thanh sắt được chế tạo đặc biệt được nung nóng trong lò điện cho đến khi chúng trở nên nóng đỏ. Sau đó chúng được dùng để đốt cháy chân của các học viên. Cảnh sát cũng dùng than nóng đỏ để đốt cháy mặt của các học viên. Cảnh sát đã đốt cháy đến chết một học viên sau khi học viên này đã phải chịu đựng các thủ đoạn tra tấn tàn khốc và vẫn còn thoi thóp thở và tim vẫn còn đập yếu ớt. Cảnh sát sau đó nói rằng cái chết của anh ta là do “tự thiêu”.
Cảnh sát đánh các học viên nữ vào ngực và khu vực cơ quan sinh dục. Chúng đã hãm hiếp và hãm hiếp tập thể các học viên nữ. Hơn nữa, cảnh sát còn lột trần truồng các học viên nữ và quẳng họ vào các xà-lim đầy các nam tù nhân để chúng sau đó hãm hiếp họ. Chúng dùng dùi cui điện để cho điện giật nhũ hoa và cơ quan sinh dục của họ. Chúng dùng bật lửa để đốt cháy núm vú của họ, và chọc dùi cui điện vào âm đạo của các nữ học viên để cho điện giật họ. Chúng còn buộc 4 cái bàn chải đánh răng lại và sau đó chọc vào âm đạo của các học viên nữ, rồi chà xát và ngoáy các bàn chải. Chúng dùng các móc sắt để móc các chỗ kín của các học viên nữ. Tay của các học viên nữ bị còng ở đằng sau lưng, và núm vú của họ bị móc vào dây điện và cho dòng điện chạy qua.
Chúng bắt các học viên Pháp Luân Công mặc “áo vét thẳng [17]”, và sau đó trói chéo hai tay họ ra đằng sau lưng. Chúng kéo cánh tay của họ lên qua vai đến trước ngực, trói hai chân họ lại và treo họ ra ngoài cửa sổ. Cùng lúc đó, chúng nhét rẻ vào miệng các học viên, đặt đồ nghe vào tai họ và liên tục bật các đoạn băng phỉ báng Pháp Luân Công. Theo mô tả của các nhân chứng, những người bị tra tấn theo cách này bị gãy tay, dây chằng, vai, cổ và khuỷu tay một cách nhanh chóng. Những người bị tra tấn lâu dài theo cách này đã bị gẫy xương sống hoàn toàn và chết trong đau đớn tột cùng.
Chúng cũng quẳng các học viên vào các hầm chứa đầy nước thải. Chúng dùng búa đóng que tre vào dưới móng tay của các học viên và bắt họ ở trong các phòng ẩm thấp đầy mốc meo xanh, đỏ, trắng, vàng, đủ loại ở trên trần, sàn và tường mà làm cho các vết thương của họ bị thối rữa. Chúng cũng cho chó, rắn và bò cạp cắn các học viên và chích vào người các học viên với các thuốc hủy hoại thần kinh. Trên đây chỉ là một vài trong số rất nhiều thủ đoạn tra tấn mà các học viên phải chịu trong các trại lao động.
******************
III. Đấu tranh tàn khốc trong nội bộ Đảng Vì Đảng Cộng Sản hợp nhất các đảng viên của nó dựa trên cơ sở của 'Đảng tính' thay vì dựa trên đạo đức và công lý, nên câu hỏi quan trọng là sự trung thành của các đảng viên, đặc biệt là các viên chức cao cấp, đối với người lãnh đạo cao nhất. Đảng cần tạo ra một bầu không khí khủng bố bằng cách giết chết các đảng viên của chính nó. Những người sống sót sau đó thấy rằng khi kẻ độc tài cấp cao nhất muốn ai phải chết, thì người đó sẽ chết một cách bi thảm.
Việc tranh đấu trong nội bộ các Đảng cộng sản là điều nổi tiếng. Tất cả các ủy viên của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Nga trong hai nhiệm kỳ đầu, ngoại trừ Lê-nin đã chết và bản thân Stalin, đều đã bị tử hình hoặc tự sát. Ba trong số năm nguyên soái đã bị tử hình, ba trong số năm Tổng tư lệnh đã bị tử hình, tất cả 10 Phó Tổng tư lệnh quân đội đã bị tử hình, 57 trong số 85 tư lệnh quân đoàn đã bị tử hình, và 110 trong số 195 tư lệnh sư đoàn đã bị tử hình.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) luôn luôn chủ trương “đấu tranh tàn bạo và tấn công không nương tay”. Những chiến thuật như thế không chỉ nhắm vào những người ở ngoài Đảng mà thôi. Ngay từ thời kỳ Cách mạng ở tỉnh Giang Tây, ĐCSTQ đã giết rất nhiều người trong Đoàn chống Bôn-sê-vích (Anti-Bolshvik Corps) đến mức chỉ còn lại một số rất ít người sống sót để chiến đấu trong cuộc chiến tranh. Ở thành phố Diên An, Đảng đã thực hành một chiến dịch “Chỉnh đốn”. Sau này khi đã trở nên vững chắc về mặt chính trị, nó đã diệt trừ Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch, Hồ Phong, và Bành Đức Hoài. Vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa, hầu hết tất cả các đảng viên cao cấp trong Đảng đã bị tiêu diệt. Không một cựu Tổng bí thư nào của ĐCSTQ gặp kết thúc tốt đẹp.
Lưu Thiếu Kỳ[18], một cựu chủ tịch nhà nước của Trung Quốc, người đã từng là nhân vật số 2 của quốc gia đã chết bi thảm. Vào ngày sinh nhật lần thứ 70 của ông ta, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đặc biệt căn dặn Uông Đông Hưng (vệ sỹ trưởng của Mao) đem cho Lưu Thiếu Kỳ một món quà sinh nhật, một cái radio, để cho ông ta nghe bản báo cáo chính thức của 'Phiên họp Toàn thể lần thứ 8' của Ủy ban Trung ương khóa 12 nói rằng, “vĩnh viễn khai trừ tên phản bội, gián điệp và nổi loạn Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi Đảng, rồi tiếp tục vạch trần và chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và các tội phản bội, mưu phản của những tay sai của hắn.”
Lưu Thiếu Kỳ bị suy sụp về mặt tinh thần và bệnh tình của ông ta càng tệ hại một cách nhanh chóng. Bởi vì ông ta đã phải nằm liệt giường trong một thời gian dài và không thể cử động, cho nên các dấu nằm trên cổ, lưng, mông, và gót chân của ông ta bị rữa ra đau đớn. Khi ông ta cảm thấy đau quá, ông ta phải nắm lấy chăn đệm, đồ vật hoặc tay người khác, mà không chịu buông ra, nên mọi người phải để các chai nhựa cứng vào tay ông ta. Khi ông ta chết, hai chai nhựa cứng đã có hình thù của chai 'đồng hồ cát' do ông ta nắm tay lại mà thành.
Khoảng tháng 10/1969, thân thể của Lưu Thiếu Kỳ đã bắt đầu thối rữa mọi chỗ và mủ nhiễm trùng có mùi rất mạnh. Ông ta gầy như một cái que và ở bên bờ cái chết. Nhưng một thanh tra đặc biệt của Ủy ban Trung ương Đảng không cho phép ông ta được tắm hay lật người để thay quần áo. Thay vào đó, chúng lột bỏ tất cả quần áo của ông ta, quấn ông ta trong một cái chăn, và đưa ông ta bằng máy bay từ Bắc Kinh đi thành phố Khai Phong, và khóa trái ông ta trong một tầng hầm của một lô-cốt kiên cố. Khi ông ta bị sốt cao, chúng không những không cho ông ta thuốc mà còn chuyển các nhân viên y tế đi chỗ khác. Khi Lưu Thiếu Kỳ chết, thân thể ông ta đã hoàn toàn bị huỷ hoại và mái tóc bạc của ông ta xõa ra dài 60 phân. Hai ngày sau, vào lúc nửa đêm, ông ta bị hỏa thiêu như một người bị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bộ giường nệm, gối và các thứ còn lại khác của ông ta đều bị đốt hết. Trên tấm phiếu khai tử của ông ta đọc là, 'Tên: Lưu Vệ Hoàng; Nghề nhiệp: thất nghiệp; Nguyên nhân bị chết: bị bệnh chết'. Đảng đã bức hại một vị chủ tịch nhà nước đến chết như vậy mà còn không đưa ra một lý do rõ ràng.
(Bài 7 còn tiếp)