Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
sóng trăng 14.01.2007 03:52:00 (permalink)
.
 
 
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ



TÔI PHẢI SỐNG

Bút Ký




Năm Quý Mùi 2003



Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam
Với tâm tình Vọng Cố Hương



Để Tưởng Nhớ


Hương Hồn Cha Má
Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục


Anh Linh các người anh
Đặng Văn Tiếp
Trịnh Tiếu
Lâm Thành Văn

Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm


Vong Linh người em
Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh)
Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù



Những người đã nằm xuống
trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương.

Để chia sẻ quãng đời bất hạnh





Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu.
Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”





 


TỰA



Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện.

Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương. Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm sự nhàm chán thường gặp.

Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than, cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi 20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ).

Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần.

Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của lịch sử.

Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những “holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai.

Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình minh dân tộc”.

"Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh.

Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003

Nguyễn Cao Quyền
 


*
 
Lời Cảm Tạ
 

Tập Bút Ký “Tôi Phải Sống” được thành hình do công sức và sự khuyến khích của nhiều người. Về phần tôi, khi dòng chữ cuối cùng trong sách được viết xong, tôi ngồi đọc lại và thấy mình thật liều lĩnh!

Trước tiên vì tôi chưa hề viết lách bao giờ! Nhớ lại lúc vừa lớn lên tôi rất thích viết văn. Có lần tôi đọc một câu chuyện tác giả viết về cảnh trên chuyến xe lam từ Sài Gòn lên Gò Vấp, đoạn đường quãng nửa giờ xe, nhưng tác giả viết gần 10 trang giấy. Tôi đọc phát mê và thán phục óc tưởng tượng phong phú của các văn sĩ. Tưởng viết văn không có gì khó, tôi chợt muốn làm văn sĩ nên lấy giấy bút ra và thử viết một đoạn văn tả cảnh ngồi xe. Tôi chọn đoạn đường dài hơn từ Vĩnh Long lên Sài Gòn với khoảng 3 tiếng đồng hồ. Sau bao nhiêu cố gắng, tôi chỉ viết được không đầy trang giấy. Muốn viết thêm cũng chẳng biết viết gì!

Khi ra khỏi tù tôi đã 46 tuổi và có nhiều chuyện trong đầu. Lúc qua New Zealand hai năm sau đó, tôi thử ngồi viết lại những gì đã xảy ra trong tù. Lần này tôi viết được. Không những dài hơn đoạn văn năm xưa mà còn hết trang này qua trang khác. Nhưng đây không phải là óc tưởng tượng của nhà văn, mà là công việc của trí nhớ. Bắt đầu từ năm 1996, tôi ngồi viết lại một phần trang sử đau thương của cuộc đời.

Tuy nhiên, thú thật mà nói, dù trí nhớ tôi nhả mực qua dòng chữ với trang này qua trang khác, tôi cũng cảm thấy mình làm công việc này một cách khó khăn và nặng nề như con bò kéo chiếc xe có bánh vuông đang lên dốc!

Trở ngại trước tiên vì tôi là người miền Nam, viết sai chính tả quá nhiều, dấu hỏi ra dấu ngã và dấu ngã thành dấu hỏi. Lúc đầu viết tay, vì chữ xấu nên nhiều lúc viết xong đọc lại có chỗ tôi không hiểu mình đã viết gì! Loay hoay làm sao cải thiện việc viết lách cho có hiệu quả, tôi bèn nghĩ tới loại máy đánh chữ có dấu tiếng Việt mà khi còn ở Việt Nam tôi thường dùng. Tiện dịp có người bạn về thăm quê hương, tôi nhờ mua. Anh bạn mang qua cái máy đánh chữ có dấu tiếng Việt đã cũ. Tôi dùng một thời gian và thấy khó khăn nặng nề quá, đành xếp xó và định lúc nào rảnh sẽ đưa tới tặng lại cho viện bảo tàng. Tôi biết họ sẽ rất mừng vì của này hiếm! Không còn lựa chọn nào khác tôi đành phải nghĩ tới computer. Của đáng tội! Từ thuở tấm bé cho tới khi qua định cư ở New Zealand lúc đã gần 50 tuổi đời, tôi chưa có dịp sờ qua cái computer, mặc dù đã thấy qua.

Cũng may cho tôi! Lúc bấy giờ tôi có người bạn đạo Tin Lành rất giỏi về computer là anh Nguyễn Văn Tư, tôi tới gặp và xin anh giúp làm quen với cách sử dụng máy. Anh Tư đã tận tình hướng dẫn tôi ngay buổi trưa hôm đó. Tôi ngồi xuống trước máy, anh đứng ngay sau lưng bảo tôi cầm “con chuột”, tôi đưa tay phải ra tóm lấy nó! Nhưng con chuột bằng nhựa màu trắng đục này lúc nào cũng chực vuột ra khỏi tay tôi để thoát thân! Tôi bặm môi ghì thật chặt làm anh Tư kêu:“ Ấy, ấy!Linh mục đừng ghì con chuột chặt quá, nhẹ tay thôi và từ từ đẩy cho mũi tên trên màn ảnh di chuyển theo!” Lúc đó tôi thầm nghĩ: “Bắt chuột vốn là nghề của mình, ngày còn nhỏ ở ruộng đồng mình đã bắt không biết bao nhiêu là chuột. Nhưng chuột thật hình như dễ bắt hơn con chuột nhựa này!” Trước lúc ra về, anh Tư có viết cho tôi một cẩm nang. Nhưng về nhà được mấy hôm lại quên ngay. Chữ của thầy tôi trả cho thầy.

Vì có nhu cầu viết lách, tôi bèn ghi tên học computer lớp đêm dành cho người lớn, mỗi tuần 2 lần. Tôi chăm chỉ học trong 2 tháng với ông thầy người Anh. Vào lớp nghe tiếng Anh còn vất vả, thì nói gì tới việc học computer bằng tiếng Anh! Nên sau hai tháng miệt mài, tôi chỉ còn nhớ được cái computer tôi học tên là “Apple”, nghĩa là “Quả táo”! Một lần nữa, chữ của thầy tôi trả lại cho thầy. Sau đó tôi quên đi computer một thời gian và tiếp tục viết tay phần đầu tập Bút Ký. Có hiểu được sự khó khăn của tôi mới biết sự đóng góp quý báu và hỗ trợ tích cực của một số người trong việc này.

Một dịp may khác lại đến với tôi. Số là có đôi vợ chồng trẻ là Hoàng-Tú dọn tới ở gần tôi, cả hai là chuyên viên điện toán. Tôi mua máy và đôi bạn trẻ tới nhà chỉ dẫn tận tình. Nhờ đó tôi bắt đầu biết sử dụng computer để viết. Cũng từ đó và sau này tôi được sự hướng dẫn về kỹ thuật computer, Internet của ông Lê Quang Long, chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland và của người bạn Phật Giáo ở Úc là anh Lê Thiện Phúc. Riêng hai người con tinh thần của tôi là vợ chồng Nguyễn Dương-Ngọc Yến, lúc đó ở San José, am tường trong ngành báo chí và phát thanh, hiện đang điều hành lớp Hán-Việt trên Internet đã giúp tôi về nhiều mặt trong tập sách này. Vừa rồi tôi rất vui khi Dương-Yến và con gái lớn là cháu Thùy Dương giúp dịch tập Bút ký này sang tiếng Anh.

Tôi đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của hai người bạn tù trại Thanh Cẩm là anh Nguyễn Cần (Lữ Giang) và anh Nguyễn Cao Quyền. Cả hai anh, cũng như nhiều bạn tù khác đã khuyến khích tôi lo hoàn thành tập Bút Ký. Anh Nguyễn Cần đã đọc và sửa giúp một phần bản thảo ngay từ lúc đầu và anh Nguyễn Cao Quyền nhận viết Lời Giới Thiệu cho tập sách.

Công việc bị gián đoạn trong mấy năm tôi làm việc ở Mỹ và các nước khác. Có một dạo, lúc tôi còn làm việc bên Mỹ, chị Trịnh Tiếu (Phi Nga) ở Sacramento đã chịu khó giúp tôi sắp xếp thứ tự các bài, các trang và sửa lỗi chính tả. Năm 2001 trước khi tôi trở lại New Zealand, cô em gái Như Lan ở Virginia giúp tôi đọc lại các bài mới viết, góp ý kiến và luôn nhắc tôi lo hoàn thành những gì tôi đã bắt đầu từ lâu. Khi tôi trở lại New Zealand, may mắn có sự tiếp tay của một người bạn Linh mục là cha Peter Hoàng. Nhờ đó cuốn sách này được hoàn thành.

Cha Hoàng, một Linh mục trẻ, đẹp trai, sống bên Úc đã lâu và mới chịu chức Linh mục được 3 năm. Cha qua làm việc tại một giáo xứ ở Auckland gần tôi. Ngoài đức tính hiền hòa, vui vẻ và tận tình được mọi người quý mến, cha Hoàng còn là người thông minh, giỏi văn chương, rành về ngôn ngữ Việt Nam và nhất là giỏi về computer, mặc dù chỉ tự “mò” thôi chứ không được “qua trường lớp” như tôi! Nói tóm lại, cái yếu của tôi lại là cái mạnh của cha Hoàng. Từ đó cha Hoàng giúp tôi sửa bản thảo, lời văn, câu cú và nhất là lỗi chính tả, trong khi ý trong sách vẫn được giữ nguyên. Vì ở gần nhau nên rất thuận tiện trao đổi ý kiến và chúng tôi làm việc tận lực trong vòng 2 tháng để kịp hoàn thành tập Bút Ký trong năm nay, vì năm sau cha Hoàng trở về Úc. Nếu không có công sức cha Hoàng, chắc chắn tập Bút Ký chưa có thể thành hình được lúc này. Cha Hoàng còn khuyến khích tôi rất nhiều trong việc xuất bản cuốn sách. Một hôm, trong buổi gặp gỡ nhiều người và có cả tôi, cha “phấn khởi” tuyên bố một câu làm mọi người cười nắc nẻ: “Các chuyện cha Lễ viết hay lắm, đọc xong chỉ muốn... ở tù!”

  Có lần cha Hoàng thúc giục tôi:
- Cha lo in cuốn sách đi, chắc chắn sẽ có nhiều người đọc. Con đọc từ đầu tới cuối thấy rất hay.

  Tôi cười đáp lại:
- Thế có cần ghi thêm hàng chữ “Money back guaranteed” ở bìa sau không?

   Cha Hoàng la lên:
-Ối giời ơi! Làm gì tệ thế hả cha!

Ngoài những đóng góp đó, còn có sự khuyến khích của rất nhiều người.  Trước tiên là trong gia đình của  anh Đặng Văn Tiếp, là người anh kết nghĩa của tôi đã chết trong tù. Đặc biệt nhất là sự khuyến khích và hỗ trợ của chị Hoàng Thị Huyền Thanh ở Pháp là hôn thê của anh Tiếp và anh Đặng Văn Thụ ở Maryland là em kế của anh Tiếp. Khi tìm gặp được nhau, chị Huyền Thanh và anh Thụ nhận tôi là người em. Sau đó là sự khuyến khích của anh chị em, bạn bè thân hữu thuộc nhiều giới khác nhau mà tôi chỉ có thể ghi lại một vài người ở đây. Ngay từ đầu có hai người em họ tôi là vợ chồng Phương-Dung ở Hershey, các bạn tù như Dương Văn Lợi và chị Germaine ở Paris, Nguyễn Tiến Đạt ở San Barnadino, Trần Nhật Kim ở Virginia, Nguyễn Tôn Tính ở San José, Phạm Hùng Thọ ở Sydney...và các người bạn như anh Đinh Hùng Cường ở Virginia, cô Hồ Bạch Lan ở Toronto, cô Trần Thị Kim Loan, và người bạn học từ nhỏ là Anh Nguyễn Hữu Trà ở Virginia... Các anh chị Phùng Văn Tuệ ở Santa Ana, chị Hoàng Thị Bích Đào và anh chị Bác sĩ Trần Văn Cảo ở San José...

Về sau này các người bạn như anh chị Võ Đại Tôn ở Santa Ana, Nguyễn Văn Tấn ở Toronto, Bác sĩ Đỗ Văn Hội ở Orlando, anh Châu Hoài ở Dallas... và nhiều bạn bè thân hữu khác. Riêng anh Trần Văn Ngà, chủ nhiệm báo Tiếng Vang ở Sacramento và chị Kiều Mỹ Duyên có chương trình phát thanh và truyền hình ở Santa Ana không ngừng khuyến khích và sẽ tiếp tay giới thiệu quảng bá tập Bút Ký. Ngoài ra hai người bạn là anh chị bác sĩ Nguyễn Huỳnh Anh ở Sacramento lúc nào cũng hỏi tôi: “Chừng nào Cậu bảy xong cuốn sách?” Lúc ở Mỹ cũng như khi về đây rồi tôi vẫn “bị” hỏi như thế! Anh chị Huỳnh Anh-Liễu luôn khuyến khích và giúp tôi về nhiều mặt. Hai người bạn nghệ sĩ là anh Vũ Hối ở Maryland và cô Tina Thanh Hương ở Sacramento đã làm sẵn con dấu tặng tôi dùng trong ngày... ra mắt sách! Mặc dù bản thảo còn đang dở dang!

Tuy nhiên còn một việc nặng nề cụ thể khác là in ấn và làm sao chuyển sách tới tay bạn đọc. Tôi nghĩ tới người bạn thân là anh Trần Quốc Bảo ở California, người đã khuyến khích tôi rất nhiều trong việc này. Tôi gọi anh Bảo trình bày khó khăn và nhờ anh giúp. Anh Bảo trả lời “Cha Lễ ơi! Vì cha ở xa quá, nên con sẽ giúp cha. Cha cứ yên tâm đi vì con coi việc của cha cũng như việc của con”. Chắc tôi không cần viết gì thêm về anh Bảo, vì câu nói ngắn gọn đó đã nói lên tất cả. Có điều tôi hơi ngắc ngứ là anh Bảo vẫn dùng lối xưng hô theo tước vị tôn giáo đó làm tôi thấy khó, vì anh là người bạn, vả lại anh là một tín đồ Phật giáo. Tôi tin chắc là anh chị Bảo và hai cháu Hương, Kiếm hiểu được lòng quý mến của tôi. Tôi ghi nhận sự tận tình của anh Võ Triều Sơn, Thầy Nguyễn Văn Chọn, anh Nguyễn Hữu Lợi, hai cháu Trí và Ngọc ở Sydney giúp rà soát từng hàng của bản thảo trước khi gởi tới nhà in và các người bạn là anh Trần Phong ở Colorado giúp trình bày bìa sách.

Đặc biệt tôi ghi nhận sự quan tâm, khuyến khích góp ý kiến để sửa bản thảo và giúp đỡ phương tiện in ấn của hai người con tinh thần tôi là vợ chồng Huỳnh Kim-Trầm Minh Phụng tại Auckland.

Có người hỏi tôi về tựa đề “Tôi Phải Sống” của tập Bút ký. Tôi trả lời, bạn sẽ hiểu khi đọc bài số 10 trong tập sách này.

Để giúp bạn đọc dễ dàng theo dõi, tôi chia tập Bút Ký này ra làm 3 phần.

Phần Một:  Cuộc Đời và Bóng Đen
Phần Hai :  Chiếc Lá Giữa Dòng
Phần Ba  :  Tự Do và Hy Vọng.

Ngoài hai bài Vào Chuyện và Cuối Chuyện sẽ có 12 bài gồm những câu chuyện liên kết nhau theo thứ tự thời gian, sau cùng là Phần Phụ Trương và hình ảnh. Mặc dù là từng bài riêng biệt nhưng được xếp theo thứ tự có chủ ý, vì vậy xin bạn đọc hãy khoan phê phán và chưa có ý kiến vội trước khi đọc xong hàng cuối cùng của phần Phụ Trương.

Cũng có mấy người bạn giúp tôi một vài chi tiết về con số, ngày, tháng, địa danh... mà đã quá lâu tôi không còn nhớ rõ. Dù sao sách này cũng còn nhiều thiếu sót, tôi mong sự cảm thông của bạn đọc và ước mong giúp tôi bổ túc. Đa số những người tôi nhắc tới trong tập Bút Ký này hiện đang sống tại Mỹ, Việt Nam, Pháp, Úc, Đan Mạch, Canada, New Caledonia, Anh Quốc, Đức ,Ý, Bỉ, Hòa Lan, New Zealand... Phần đông tôi đã có dịp gặp lại hoặc điện thoại thăm hỏi hay tiếp xúc qua thư từ, một số người có hình ảnh trong tập Bút Ký này. Dĩ nhiên, có một số người đã nằm xuống, xin bạn hãy dừng lại một phút để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ được siêu thoát.

Đôi lời chân tình tôi xin gởi tới các ân nhân, thân nhân, anh em bạn bè và thân hữu. Tôi nhớ từng người nhưng không thể nào kể hết ra đây, xin các bạn hiểu cho tôi điều đó. Chính vì sự đóng góp của quá nhiều người về nhiều mặt nên tôi xin gọi tập Bút Ký“Tôi Phải Sống” này là “cuốn sách của chúng ta.”

Với lòng quý mến và biết ơn sâu xa của tôi.

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
 
 
 


*



Thay Lời Tựa
 
 
 
Bạn đọc thân mến,

Tôi vui mừng biết bao khi được gửi tới bạn món quà mà bạn đang cầm trong tay. Đối với tôi, đây là một món quà rất quý vì là kết quả sự đóng góp công sức và sự khuyến khích của nhiều người. Từ nhiều năm qua tôi đã ngồi lựa chọn lại những chất liệu đa dạng cho cuốn sách. Trước tiên là hồi tưởng các sự kiện xảy ra và sau đó đã phải khổ tâm nhớ lại từng xác người chết, sự đánh đập tra tấn cùm kẹp dã man, sự hận thù, lòng dạ phản trắc hòa lẫn với lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự thân ái. Tôi nhớ tới màu đen ghê rợn trong đáy địa ngục, pha lẫn với màu hồng của tình người. Những yếu tố này và bao nhiêu điều tương phản khác đã xảy ra cho chính bản thân tôi và nhiều người khác mà tôi đã chứng kiến trong một thời gian khá dài kết tinh thành những dòng chữ trong các trang sách này.       

Những sự kiện và hình ảnh tôi ghi lại một cách trung thực trong Bút Ký này nhiều khi rất thương tâm. Tôi viết lên không phải để oán trách cuộc đời và con người, nhưng muốn dùng các sự việc đó như một bài học của lịch sử, để nhiều người nhất là thế hệ trẻ mai sau biết được quá khứ và tránh không trở lại vết xe cũ.

Mục đích tập Bút Ký này để làm món quà gửi tới toàn thể đồng bào Việt Nam. Số tiền tượng trưng nào đó được ghi ở bìa sách chẳng qua là để giúp phương tiện in ấn, chuyên chở, phân phối v.v... để trao tập Bút Ký này tận tay bạn đọc. Và đó cũng là phương tiện duy nhất giúp tôi làm lộ phí để từ New Zealand tôi có thể tới thăm bà con và đồng hương trong dịp ra mắt cuốn sách.

Một chuyện rất riêng tư nhưng tôi cũng xin được lạm dụng vài hàng ở đây. Tôi coi tập Bút Ký này là món quà trân quý mà tôi kính cẩn gửi tới bạn trong dịp tôi “thọ” 60 tuổi! Tôi tuổi Quý Mùi, tuổi con Dê. Ông bà mình thường nói: “Nam Nhâm Nữ Quý”. Vì câu nói đó nên có lúc tôi ngồi nghĩ quẩn:“Giá mà mình sinh sớm một năm, năm Nhâm Ngọ, hoặc năm Quý Mùi cũng được nhưng nếu là Nữ, chắc đời mình sẽ sướng hơn! Nhưng đã muộn rồi!” 

Thân ái chào và mời bạn theo dõi câu chuyện.

Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

 
*
 
 

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.01.2007 06:16:02 bởi sóng trăng >
#1
    sóng trăng 14.01.2007 03:58:24 (permalink)
    Phần Một

    Cuộc Đời và Bóng Đen
     
     
    Vào Chuyện


    Chiếc xe ca đông nghẹt hành khách dừng lại ở một trạm trên đường phố chánh của thủ đô Hà Nội bên cạnh một công viên. Nhiều hành khách chen nhau bước xuống xe. Nhóm chúng tôi gồm ba người tù vừa được tha sáng hôm nay từ trại Nam Hà, cũng bước xuống. Trong nhóm có thầy Kỳ, một chủng sinh ở miền Bắc làm hướng dẫn viên, còn anh Nguyễn Đức Khuân và tôi là dân miền Nam bị đưa ra Bắc ở tù, và cả hai mới đặt chân xuống đất Hà Nội lần đầu nên chỉ biết rảo bước theo sau thầy Kỳ.

    Khi vừa đi được một đoạn, tôi bị choáng ngộp bởi sự thay đổi khung cảnh quá nhanh. Mới sáng nay tôi còn ở trại tù Nam Hà vắng lặng và buồn thảm, thế mà xế trưa đã có mặt trên con đường chánh của thủ đô Hà Nội ồn ào náo nhiệt, đầy xe cộ và người đi lại. Tuy Hà Nội không có nhiều xe ô-tô như Sài Gòn trước kia, đa số là xe máy và xe đạp, nhưng cảnh xe cộ lưu thông tới lui tấp nập cũng làm tôi choáng ngợp. Trong 11 năm tù tại miền Bắc, có bốn lần tôi cũng có dịp đi ngang qua Hà Nội, nhưng toàn là về đêm và bị còng tay trên các chuyến xe di chuyển tù từ trại này tới trại khác. Lần đầu tiên khi tôi bị đưa ra Bắc vào tháng Tư năm 1977 trên tàu Sông Hương, lên bến Hải Phòng và từ đó đi xe ca ngang qua Hà Nội để vào trại Nam Hà. Lần thứ hai trong đêm Giáng Sinh 1977, khi nhóm 20 người chúng tôi từ trại Nam Hà bị đưa lên Cổng Trời cũng đi qua Hà Nội trong đêm. Tám tháng sau, từ trại Cổng Trời chuyển về trại Thanh Cẩm, chúng tôi ghé qua trại Văn Hòa ở ngoại thành Hà Nội để nghỉ qua đêm. Lần cuối cùng, khi nhóm tù chính trị miền Nam và mười người tù Trung Quốc còn sót lại ở trại Thanh Cẩm chuyển về trại Nam Hà cũng đi ngang qua Hà Nội khi phố đã lên đèn. Lần này tôi mới chính thức đặt chân tới Hà Nội giữa buổi xế trưa nắng ấm trong tâm trạng của một người tự do. Tôi dùng hai chữ “tự do” với một sự dè dặt, vì ít ra trong người tôi cũng có mảnh giấy ra trại được đóng dấu và ký tên hẳn hoi. Mảnh giấy, dấu ấn tự do của 13 năm tù đang được tôi cẩn thận nhét vào cái túi may bên trong áo phía trước ngực và cài lại bằng 2 lần kim băng. Tôi không thể nào để tờ giấy màu nâu bằng chất liệu giấy rất kém này mất đi được. Đó là tờ giấy duy nhất hợp pháp mà tôi có được sau một thời gian rất dài, ngoài ra tôi chẳng có một thứ giấy tờ gì trong người. Tờ giấy ra trại này để chứng minh cho mọi người biết tôi là ai, và dĩ nhiên là để tránh rắc rối trong lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi nhà tù và đang có ý định là sẽ lưu lại thăm viếng miền Bắc một thời gian chừng hai tuần lễ trước khi xuôi tàu về Nam.



    Chiếc Nôi Dân Tộc

    Tôi lên tiếng gọi và nói thầy Kỳ cho ngồi nghỉ một chút vì thấy trong người hơi mệt. Chúng tôi rẽ vào bên chiếc ghế công viên ngay đó ngồi chân, vừa nhìn cảnh nhộn nhịp của giao thông trên đường phố thủ đô. Lúc ngồi tựa lưng vào thành ghế đá công viên, tôi có dịp để ý quan sát người dân Hà Nội, người ngồi xe cũng như khách bộ hành trên đường phố. Điều tôi ghi nhận đầu tiên là dân chúng Hà Nội ăn mặc rất giản dị, không màu mè chải chuốt. Đa số mặc quần đen áo trắng, đàn ông cũng như đàn bà. Phần đông cúi đầu lầm lũi bước đi như những người mang tâm trạng chán chường, mệt mỏi. Họ thường đi lẻ loi một mình, có khi sánh bước từng nhóm vài ba người, nhưng rồi cũng mạnh ai người ấy đi, ít khi thấy họ cười nói đùa cợt như hình ảnh quen thuộc của hè phố Sài Gòn mà tôi đã xa lìa hơn chục năm qua. Tôi đoán hầu hết những người đang đi xe gắn máy hoặc xe đạp là giới công nhân qua cách ăn mặc giản dị của họ. Đàn ông phần nhiều đội mũ cối và phụ nữ đầu đội nón lá. Một chi tiết lý thú mà tôi thấy lúc bấy giờ là gần như tất cả các cô gái Hà Nội đều thon thả, mảnh mai và hơi nhỏ người. Tự nhiên tôi liên tưởng tới chiếc áo dài Việt Nam và nghĩ là trời sinh ra người con gái Việt Nam, nhất là gái Hà Nội là để mặc áo dài!

    Một lúc sau bắt đầu quen mắt, tôi cảm thấy dễ chịu, đứng dậy xốc ba-lô lên vai và theo thầy Kỳ dẫn lối tới Nhà Chung (Miền Bắc gọi Tòa Giám Mục là Nhà Chung) Hà Nội. Tôi đã nghe nói nhiều về Hà Nội với 36 Phố Phường. Những bài hát truyền cảm, những câu thơ trữ tình tả cảnh “nên thơ” của Hà Nội. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên tôi đang sống với Hà Nội bằng chính đôi mắt và con người tự do của tôi. Hà Nội đẹp lắm! Một nét đẹp cổ kính và chất phác nhưng thâm trầm. Ngay từ giây phút đầu thấy Hà Nội, tôi như bị “tiếng sét ái tình” làm mê mẩn hồn. Tôi say mê Hà Nội như chàng trai mới lớn lần đầu tiên nhìn thấy bóng dáng kiều diễm của người con gái trong mộng và rồi “yêu” nàng! Hà Nội không lộng lẫy kiêu sa, nhưng mang vẻ trinh nguyên của chiếc nôi dân tộc. Tôi yêu nét đẹp cổ kính của Hà Nội kể từ giây phút đầu tiên đó.

    Thầy Kỳ đi đầu, mặc bộ quần áo màu xanh trại phát với túi xách trên vai, Khuân mang ba-lô đội nón vải bước theo sau. Nhìn hai người bạn đang hăng hái bước đi trước mặt, tự nhiên tôi buồn cười khi nghĩ tới hình ảnh của nhóm bộ ba tướng sĩ tượng này. Hai anh bạn ăn mặc kỳ dị quá khiến tôi nghĩ có lẽ người khác nhìn tôi cũng nói như vậy. Chúng tôi thật chẳng giống ai, nhất là thầy Kỳ! Ai nào lại mặc bộ quần áo tù đi nghênh ngang giữa thủ đô văn hiến như thế nhỉ? Dường như ai nhìn vào cũng biết đây là ba anh tù vừa mới được tha về. Biết đâu có người còn nghĩ đây là ba anh tù vượt ngục khi thấy thầy Kỳ mặc bộ quần áo tù với chiếc áo trấn thủ che ngoài để lấp con dấu “Cải Tạo” đóng sau lưng không chừng! Tự nhiên tôi đâm ra băn khoăn xen lẫn một chút khó chịu. Cái ông thầy Kỳ này thật là “kỳ”! Ai lại đi ăn mặc như thế bao giờ! Không lẽ chẳng còn bộ đồ nào khác hơn hay sao? Ăn mặc như thế nhỡ có ai nghi ngờ thì lại rắc rối to. Mặc dù hơi khó chịu nhưng khi thấy thầy Kỳ bỗng dưng hớn hở và cho biết là sắp tới nơi, hồn tôi như hòa vào niềm vui và quên đi nỗi băn khoăn về thầy.

    Thầy Kỳ lúc đó đã ngoài 40, có lẽ cũng xấp xỉ tuổi tôi. Người nhỏ thó và nước da ngăm đen, mặt có nhiều tàn nhang và mụn trứng cá, cộng với mấy chiếc răng cửa bị gãy một phần trên trông thầy càng bệ rạc hơn! Tuy nhiên, thầy Kỳ là người tốt tính. Lối sống vui vẻ và đức tính khiêm tốn làm tăng thêm nét dễ thương nơi thầy. Vì lý tưởng đi tu mà thầy bị bắt vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Thầy Kỳ chung lớp với một số Linh mục ở miền Bắc. Số thầy lận đận tù mãi, bằng không cũng trở thành Linh mục từ lâu. Thầy Kỳ quen biết hầu hết các tu sĩ miền Bắc, từ đức Hồng Y trở xuống. Trong Nhà Chung Hà Nội này có hai bạn học cùng lớp với thầy Kỳ làm phòng bộ (quản gia) cho đức Hồng Y. Lúc này, khi rảo bước theo thầy Kỳ, tôi có cảm tưởng như đang bước theo sau một "Thiên thần" hộ mệnh.
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2007 12:39:57 bởi sóng trăng >
    #2
      sóng trăng 14.01.2007 04:00:30 (permalink)
      .
       
      Nhà Chung Hà Nội

      Vừa tới ngõ rẽ vào Nhà Chung, tôi cảm thấy hơi bồn chồn khi sắp sửa được gặp vị Hồng Y mà tôi chưa từng bao giờ gặp. Bất ngờ có một người đàn ông nhỏ thó quãng ngoài 50 xuất hiện. Ông từ một ngõ sát cạnh hàng rào Nhà Chung bước ra chặn chúng tôi lại và hỏi:

      - Cho tôi hỏi, có phải các anh mới đi tàu hỏa xuống à?

      Tôi rất nhạy trước cảnh này và biết ngay người đàn ông đó là ai. Thầy Kỳ chưa kịp trả lời, tôi bình thản lên tiếng:

      - Chúng tôi không đi tàu hỏa, nhưng tại sao bác hỏi thế?

      - Tôi đi đón người nhà từ miền Nam ra, và trông các anh có vẻ người miền Nam nên tôi hỏi thăm.

      Thấy người công-an chìm này có vẻ trâng tráo, tôi vặn hỏi ngay:

      - Có phải bác nghi chúng tôi là tù vượt ngục không?

      Người lạ mặt tỏ ra bối rối sau câu hỏi đó. Mặt ông ta khác đi và yên lặng. Thì ra tôi đoán đúng, người ngoài thấy chúng tôi biết ngay là tù. Hơn nữa, thấy cách ăn mặc của thầy Kỳ họ có quyền nghi thêm hai chữ “vượt ngục”. Tôi nói tiếp:

      - Bác lầm rồi, chúng tôi là tù nhưng không phải vượt ngục mà mới được tha về từ trại Nam Hà sáng hôm nay.

      Người công-an chìm này không chịu thua:

      - Thế các anh định về đâu?

      - Dĩ nhiên là tôi về Nam, nhưng chưa về ngay hôm nay.

      - Các anh định ở đâu trong lúc này?

      - Ở đây, trong Nhà Chung này!

      Vừa nói tôi vừa chỉ vào Tòa Giám Mục Hà Nội. Nói xong câu đó, chúng tôi bỏ đi vào, để mặc cho người đàn ông lạ mặt đứng trố mắt nhìn theo.

      Tòa Giám mục Hà Nội, hay thường được gọi là Nhà Chung Hà Nội, là một khu vực khá rộng với nhiều dãy nhà ngang dọc, nhưng tòa nhà chánh, là nhà hai tầng khá dài nằm thẳng góc với đường cái. Cách tòa nhà chánh này một đỗi là tháp của Nhà thờ Chính tòa có cây Thánh Giá vươn cao. Từ cổng đi vào là sân khá rộng và dài sâu mãi vào bên trong. Khu vực này với cây to bóng mát và các tòa nhà lâu năm trông thật cổ kính. Lúc vừa bước vào khuôn viên Nhà Chung Hà Nội, tôi tưởng như mình đang đi vào một khu bảo tàng, được gìn giữ cẩn thận và trang nghiêm.

      Thầy Kỳ dẫn chúng tôi đi sâu mãi vào gần cuối mới có bậc thềm bước vào khu nhà phía tay phải. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, có lẽ là giờ nghỉ nên cả khu nhà yên tịnh và vắng vẻ, chẳng thấy bóng dáng ai. Thầy Kỳ đã quen biết nơi này nên đi vào trong như người nhà. Anh Khuân và tôi đặt ba lô xuống bậc thềm xi măng ngồi nghỉ mệt. Một lúc sau thầy Kỳ trở ra với một người đàn ông cao lớn và trắng trẻo, tóc húi kiểu đầu đinh tức là có mái bằng trên đỉnh đầu. Người này mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần tây đen, áo bỏ ngoài quần và chân mang xăng-đan. Toàn diện con người anh toát ra sự sạch sẽ và gọn gàng của một con người làm việc văn phòng, ít khi có dịp tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình ảnh này tương phản với thầy Kỳ nhỏ thó, đen đủi và bệ rạc trong bộ đồ tù đang cười nói bước đi bên cạnh. Anh Khuân và tôi đứng lên khi hai người ra tới nơi.

      Thầy Kỳ giới thiệu:

      - Thưa cha, đây là thầy Trác, bạn cùng lớp của con và là người giúp phòng bộ của đức Hồng Y.

      Tôi đưa tay ra bắt tay thầy Trác, trong lúc thầy nói:

      - Con được thầy Kỳ cho biết có cha và anh ghé Nhà Chung. Con xin chào. Mời cha và anh vào.

      Thầy Trác đưa cả 3 vào phòng ăn, vừa đi vừa nói:

      - Giờ này đức Hồng Y chưa xuống văn phòng. Cha và hai anh ngồi uống nước và tạm nghỉ, chốc con lên trình với ngài. Nói xong thầy Trác bước ra.

      Phòng ăn này khá lớn có kê một bàn dài chính giữa và hai bàn tròn cách đó một quảng, có những chiếc ghế đai xếp chung quanh bàn. Trong một góc nhà và cạnh vách có bộ xa-lông và mấy chiếc bàn nhỏ để sách báo. Chỗ nào cũng sạch sẽ tươm tất. Một lúc sau thầy Trác trở lại, tôi vẫn ngồi yên đọc báo. Tôi ngạc nhiên khi thầy bước tới và chào tôi lần nữa:

      - Chào cha, có phải cha Lễ không ạ?

      Tôi ngạc nhiên vì lúc nãy đã giới thiệu rồi, sao thầy còn hỏi nữa?! Tôi ú ớ đáp lại:

      - Vâng... vâng...

      Chưa nói hết câu thì thầy Kỳ cười lên tiếng:

      - Thưa cha, đây là thầy Trạc, em sinh đôi của thầy Trác lúc nãy!

      - À, ra thế!

      Tôi chợt phá lên cười mà không dằn được, mặc dù biết cười như thế là không phải. Để khỏa lấp chỗ hớ của mình, tôi liền chống chế bằng một câu thân thiện:

      - Trời ơi! Hai anh em giống nhau quá, tôi nhận không ra!

      Thầy Trạc vui vẻ đáp:

      - Không phải một mình cha lầm đâu, có nhiều người lầm hai anh em con. Chúng con giống nhau quá hả cha?

      Chúng tôi lại được trận cười thoải mái sau câu nói đó. Hai anh em đã giống nhau mà lại ăn mặc như nhau nữa thì có trời mới biết ai là Trác và ai là Trạc! Lúc đó tự nhiên tôi liên tưởng tới hai nhân vật sinh đôi Dupond và Dupont trong bộ truyện bằng tranh “Tintin et Milou” của Paul Hergé, nhưng tôi không dám nói ra. Sau khi chúng tôi ngồi nói chuyện vui vẻ, chợt thầy hỏi:

      - Trước khi vào Nhà Chung, cha và các anh có gặp ai hỏi thăm gì không?

      Tôi nói có, và kể lại câu chuyện gặp người đàn ông ngoài cổng. Thầy chia sẻ:

      - Thế đó cha ơi! Ngoài này nó vậy đấy! Con kiến cũng chui không lọt đừng nói chi con người. Mà này cha và anh có giấy tờ gì đưa con đi trình. Đồn công an ngay cổng vào Nhà Chung đó cha!

      Chúng tôi móc túi lấy giấy tờ. Khi thấy tôi lần túi trong túi ngoài và qua hai lần kim băng móc mảnh giấy ra trại, thầy Trạc nhìn tôi mỉm cười làm tôi xấu hổ. Lúc ấy tôi có cảm tưởng mình giống như một bà nhà quê, giấu mấy đồng tiền lẻ sâu vào ruột tượng moi mãi không ra. Tôi cười và nói cho đỡ ngượng:

      - Cẩn tắc vô ưu thầy ạ!

      - Phải thế chứ cha! Bọn móc túi Hà Nội này nó ranh lắm!

      Nhất là lúc đi tàu hay đi xe, cha và các anh phải cẩn thận đấy. Bọn chúng nhanh như sóc ấy!

      Câu nói của thầy Trạc làm tôi đỡ ngượng. Thầy cầm lên đọc khá kỹ các mảnh giấy trong tay. Tôi biết là ngoài lý do để đi trình giấy, những người có trách nhiệm trong Nhà Chung cũng phải biết chắc những ai bước vào khu nhà này. Mặc dù có sự giới thiệu coi như bảo đảm của thầy Kỳ, nhưng người ngợm của tôi lúc bấy giờ rất dễ cho người lạ nghi là Linh mục “dỏm”!

      Sau đó thầy bước ra và dặn tôi ngồi nghỉ để thầy đi dọn phòng cho chúng tôi. Thầy nói thêm là giờ này đức Hồng Y còn trong nhà nguyện, tới ba giờ sẽ vào văn phòng làm việc và tiếp khách.

      Một lúc sau thầy trở lại bước vào nhà ăn, nhưng tôi không biết là Trác hay Trạc! Thầy mời tôi lên phòng, trong khi Kỳ và Khuân ngồi chờ thầy trở lại để đưa qua khu vực nhà khách dành cho các thầy. Tôi nghĩ giá mà ba anh em chúng tôi được ở chung một nhà thì vui hơn, nhưng nhập gia phải tùy tục. Lúc đi cạnh nhau tôi vẫn chưa biết người nầy là Trác hay Trạc! Tôi mỉm cười với ý nghĩ, giá mà một ông bị cận thị mang kính thì dễ phân biệt biết mấy!

      Tôi được đưa vào một phòng khách trên lầu rất sạch sẽ, rộng rãi và đủ tiện nghi. Giường trải chiếu hoa và có quạt trần. Phòng mở cửa nhìn xuống sân từ đường cái đi vào và đối diện bên kia là nhà Văn Hóa.

      Tôi đặt chiếc ba lô hành trang duy nhất xuống ghế và bước vào nhà tắm để rửa mặt. Sau khi lau người bằng chiếc khăn mặt trắng và thơm tho, tôi bước ra và tới ngả lưng nằm dài trên giường có chiếc gối trắng tinh, dang rộng tay chân trong tư thế thoải mái lần đầu sau 13 năm cuộc đời gió bụi. Vừa nằm xuống tôi buột miệng nói thành lời: “Ôi! Đời đáng sống làm sao!”. Cái cảm giác đang tự do và làm chủ hoàn toàn một căn phòng, cho dù chỉ là một phòng khách của Nhà Chung Hà Nội và chỉ ở tạm một vài ngày đã làm tôi lâng lâng hạnh phúc và nhận chân ra sự thay đổi đột ngột trong cuộc đời. Tôi nằm yên nhắm mắt và cố tận hưởng giây phút hiếm hoi này, chẳng suy nghĩ gì thêm. Một lúc sau có tiếng gõ cửa và thầy phòng bộ bước vào. Tôi vẫn không biết là Trác hay Trạc, chỉ lên tiếng “chào thầy!” Thầy nói đã trình đức Hồng Y, Ngài mừng lắm và hẹn ba giờ rưỡi thầy đưa chúng tôi lên gặp đức Hồng Y.


      nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
      dactrung.com
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2007 04:02:46 bởi sóng trăng >
      #3
        sóng trăng 14.01.2007 04:04:34 (permalink)
        .
         
        Hồng Y Trịnh Văn Căn


        Từ trước tới giờ tôi chỉ nghe tên và xem thấy hình, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp đức Hồng Y Trịnh Văn Căn. Do đó, tôi hơi bồn chồn khi cùng với hai người anh em kia bước theo thầy phòng bộ trong hành lang khá rộng dẫn tới phòng của vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Phòng này nằm ở khoảng giữa lầu hai trong tòa nhà chánh của Nhà Chung Hà Nội. Tới nơi, thầy phòng bộ bước lui để ba anh em tôi vào.

        Khi nghe tiếng gõ cửa, đức Hồng Y bước ra tận nơi đón chúng tôi. Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người khá cao lớn, tuổi ngoài 60, nước da hồng hào, tóc bạc trắng, trên môi nở nụ cười tươi và dáng vẻ rất phúc hậu. Ngài mặc áo dòng đen có viền đỏ như các Giám mục vẫn mặc, cổ “côn” trắng chỉnh tề và chân mang giày da đen. Vừa thấy ngài, tôi lên tiếng: “Thưa đức Hồng Y, con là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long, cùng với thầy Kỳ và anh Khuân, chúng con xin chào đức Hồng Y.” Ngài tươi cười đưa tay phải ra, tôi bắt tay vừa định quỳ gối hôn nhẫn thì Ngài đỡ tôi dậy, kéo vào lòng và quàng tay trái ôm tôi khá lâu vừa nói: “Cha Lễ! Nghe tin cha về tôi mừng lắm. Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa!” Thái độ của đức Hồng Y Trịnh Văn Căn làm tôi vô cùng cảm động. Sau đó ngài bắt tay Kỳ và Khuân, và để cho hai người quỳ hôn nhẫn. Tôi giới thiệu Khuân là một giáo dân, còn thầy Kỳ thì Ngài đã biết. Đức Hồng Y đưa tay mời ba anh em tôi vào phòng. Tôi đi đầu, theo sau là thầy Kỳ và anh Khuân. Ngài tiếp chúng tôi rất niềm nở, cùng chúng tôi ngồi ở bộ ghế xa-lông giữa căn phòng rất rộng, đơn sơ và ngăn nắp.

        Khi bắt đầu câu chuyện, tôi cám ơn đức Hồng Y đã gửi quà cho các Linh mục trong tù và khi các cha về hết thì gửi cho tôi. Ngài nói có nhờ cha Mai lo việc đó vì Ngài nghĩ là các cha trong miền Nam xa xôi quá. Ở đây Ngài làm được gì để an ủi các Linh mục trong lúc tù đày thì Ngài cố gắng làm. Trong câu chuyện Ngài cũng nhắc tới Đức cha Nguyễn Văn Thuận đang bị giam lỏng ở Giang Xá và Ngài vẫn nhờ cha Mai lo gửi quà, nhưng lần vừa rồi quà bị trả lại khiến Ngài lo lắng không biết tình trạng Đức cha Thuận bây giờ ra sao.

        Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn có giọng nói ấm, đơn sơ và truyền cảm. Ngài hỏi tôi về những Linh mục còn lại trong tù, cách thức thăm nuôi làm sao, đời sống tinh thần các Linh mục và giáo dân trong tù thế nào. Ngài hỏi chuyện cả ba người nhưng nhiều nhất là tôi. Tôi nói số Linh mục miền Nam ra Bắc từ hơn 10 năm qua thì tôi là người ra về cuối cùng. Nhưng Linh mục miền Bắc mới bị vào tù sau này thì còn lại ba người là cha Thi, cha Vĩnh thuộc Giáo phận Bùi Chu và cha Hiểu thuộc Giáo phận Bắc Ninh. Có trường hợp cha Nguyễn Văn Lý và cha Lê Văn Nghiêm thuộc Tổng Giáo phận Huế mới bị bắt hai năm cũng còn ở trại Nam Hà. Như vậy còn lại 5 Linh mục trong trại tù Nam Hà. Khi tôi nói các chi tiết này, đức Hồng Y đứng lên bước lại bàn lấy quyển sổ và bảo tôi nhắc lại để Ngài ghi.

        Sau đó Ngài hỏi chừng nào chúng tôi về Nam và chương trình những ngày tới ra sao. Tôi cho biết là anh Khuân sẽ về trước còn tôi sẽ lưu lại miền Bắc nửa tháng . Trước tiên tôi sẽ đi Bắc Ninh thăm Đức cha Phạm Đình Tụng là Giám mục Bắc Ninh và sẽ nhờ người hướng dẫn tới thăm gia đình cha Hiểu ở xứ Ngô Khê trong giáo phận này. Cha Hiểu sống chung một đội với tôi trong trại Nam Hà, khi tôi ra về thì cha Hiểu còn ở lại đó. Thời gian còn lại tôi sẽ đi một vài nơi để có dịp đi thăm viếng và ghi nhận tất cả những gì có thể ghi được, nhất là về tình trạng Giáo hội Công Giáo trong các giáo phận miền Bắc sau mấy chục năm dưới chế độ cộng-sản, để sau này nếu có dịp tôi sẽ viết lại những gì tôi đã thấy và tìm hiểu. Đức Hồng y rất tán thành ý định của tôi và ngài nói: “Cha cứ đi, nếu cần giới thiệu tới chỗ nào tôi sẽ giới thiệu. Hãy coi Nhà Chung này là nhà của cha. Bất cứ lúc nào cha trở lại cũng được, và nếu cần gì cứ bảo với hai thầy phòng bộ.” Ngài quay sang hỏi anh Khuân về gia đình, vợ con và việc làm ăn sinh sống trong thời gian chồng đi tù.

        Đức Hồng Y tiếp chúng tôi quãng nửa tiếng đồng hồ. Sau đó, chúng tôi đứng lên xin cáo lui để ngài làm việc. Trước lúc chúng tôi ra khỏi phòng, ngài dặn chúng tôi sang thăm và chào Đức cha phụ tá là Giám mục Nguyễn Văn Sang. Tôi trả lời là đã nhờ thầy phòng bộ thông báo và chúng tôi sẽ tới chào, ngay sau khi thăm đức Hồng Y.

        Tôi bước ra khỏi phòng đức Hồng Y Trịnh Văn Căn với sự cảm xúc và lòng kính mến sâu xa. Tôi rất mừng và hãnh diện về Giáo hội Công Giáo Việt Nam có được người lãnh đạo nhân từ, đầy lòng bác ái và quan tâm tới từng hoàn cảnh của mỗi người như thế.


        Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
        dactrung.com
        #4
          sóng trăng 14.01.2007 04:06:44 (permalink)
          .
          Vị Giám Mục Phụ Tá


          Chúng tôi đi xuống trở lại ngang nhà ăn và qua dãy nhà kế bên để tới phòng Giám mục Nguyễn Văn Sang nằm ngay ở đầu nhà. Tôi cũng chỉ nghe nói tới Giám mục Nguyễn Văn Sang, nhưng chưa gặp bao giờ. Lúc còn trong tù tôi nghe Linh mục Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng là người gốc Giáo phận Hà Nội kể chuyện. Năm 1954, Ngài đã di cư vào Nam rồi, nhưng sau đó lại trở lộn ra Bắc, không hiểu vì lý do gì. Nghe như thế tôi đã có sự khâm phục tinh thần của Giám mục Nguyễn Văn Sang chấp nhận trở lại miền Bắc dưới chế độ cộng-sản, trong khi một số đông giáo sĩ đã di cư vào Nam. Sau đó cha Sang được chọn làm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội một vài năm gì đó trước khi chúng tôi tới thăm.

          Chúng tôi gõ cửa khi Giám mục Sang đang ngồi tại bàn làm việc và lên tiếng mời chúng tôi vào. Ngài vẫn ngồi yên tại chỗ khi ba anh em chúng tôi bước vào. Tôi lên tiếng khi thấy ngài:

          - Chào Đức cha, con là cha Lễ ở Vĩnh Long cùng với hai anh em, thầy Kỳ và anh Khuân là một giáo dân ở miền Nam. Chúng con vừa mới ra khỏi tù hôm nay và tới chào Đức cha.

          Giám mục Sang vẫn ngồi yên sau bàn làm việc, ngẩng đầu lên và quay ngang nhìn nhóm chúng tôi:

          -Thế à, cám ơn, cám ơn! Mấy anh em ngồi đi.

          Vừa nói vị chức sắc tôn giáo ngoài 50 tuổi này chỉ tay về hàng ghế đai sát trong vách, đối diện với bàn làm việc rất bề bộn của Ngài. Tôi vừa ngồi xuống vừa quan sát rất nhanh Giám mục Sang. Giám mục Nguyễn Văn Sang đáng người hơi thấp, da mặt bóng láng, mập béo và trắng trẻo. Tướng mạo Ngài biểu hiện một sự sung mãn khá toàn diện. Ngài mặc áo dòng đen, không có cổ trắng, vì Ngài không đứng lên nên tôi không biết mang giày dép gì. Phòng làm việc của Giám mục Sang khá nhỏ, chỉ bằng phân nữa phòng Đức Hồng Y. Trong phòng bề bộn những sách vở và đồ đạc nằm vô trật tự, ngổn ngang. Sự tương phản quá bất ngờ trong thái độ đón tiếp giữa Hồng Y Trịnh Văn Căn và Giám mục Nguyễn Văn Sang tôi sượng sùng.

          Thấy bầu khí quá tẻ nhạt, tôi cố ý kéo dài việc xê dịch ghế và xoay đi sửa lại mấy lần trước khi ngồi yên, ra điều tôi chưa sẵn sàng để bắt đầu câu chuyện mà tôi đoán biết trước là sẽ rất nhạt nhẽo. Nhưng cuối cùng rồi tôi và hai anh bạn cũng đã ngồi yên đối diện với vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội. Ngài ngồi khoanh hai tay lại chống lên mặt bàn, cổ rụt xuống làm đôi vai nhô cao. Trong cách ngồi này tôi thấy hình dạng ngài trở nên thấp bé trong căn phòng bé nhỏ và bề bộn của ngài. Giám mục Sang ngồi yên nhìn chúng tôi không nói không rằng, gây cho tôi cảm tưởng là chúng tôi xuất hiện không đúng lúc. Trong giây phút đó tôi không biết tâm trạng thầy Kỳ và Khuân ra sao. Tôi đoán là họ cũng thấy đớ ra và thừa thãi như tâm trạng của tôi, nhưng dù sao họ cũng nhẹ nhàng hơn vì tôi là người phải đóng vai trò đại diện ăn nói. Trong một giây, tôi tự nói với mình:“Trời! Nếu biết như thế này thì vào đây để mà làm gì?!”

          Thấy tình thế kỳ dị quá, không lẽ cứ ngồi đây mà nhìn nhau cho tới giờ cơm chiều, tôi bèn hỏi một câu thừa thãi và rất ư là vô duyên:

          - Đức cha có khỏe không ạ?

          Vị chức sắc tôn giáo có thân hình tròn trịa ngồi yên một chút mới bắt đầu nói như rên:

          - Mới đi nghỉ mát ở Đồ Sơn về hôm qua, nghe sao trong người không được khỏe, có lẽ nắng ngoài đó to quá!

          Tôi không biết Giám mục Sang nói những lời nói giọng rè rè đó với chúng tôi hay tự than thở với chính mình. Dù vậy tôi buộc lòng phải hỏi thêm cho có chuyện nói:

          -Thế Đức cha mới đi tắm biển Đồ Sơn về à?

          - Mình mới về hôm qua.

          - Con nghe nói Địa phận Hải Phòng có nhà nghỉ mát ở Đồ Sơn, có phải Đức cha ra đó không?

          - Đâu có! Mình ở nhà nghỉ mát chính phủ. Mình đi là bên Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức mời mình đi mà!

          Sau đó Giám mục Sang độc thoại một thôi một hồi về cuộc du hí vừa rồi, ăn làm sao, ở làm sao trong nhà khách chính phủ. Ngài ngon đà kể dài dòng về việc đó mà không một chút thương hại cho 6 cái lỗ tai của 3 tên tù khốn khổ mới được tha ra khỏi nhà tù sáng nay và tới chào ngài. Chúng tôi tới đây không có ý để nghe chuyện du hí Đồ Sơn của vị Giám mục. Sau đó không biết tại sao và vào lúc nào ngài lại chuyển đề tài qua xe đạp Peugeot của Pháp. Vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội lại độc thoại một tràng về tính “ưu việt” của loại xe đạp này vì có người bên Pháp, hình như nói là cha Thiết, mới gởi về cho ngài 10 chiếc.

          Lúc đó tôi đã muốn kiếu từ nhưng không biết làm sao. Tôi mong cho có tiếng gõ cửa hay tiếng động gì để Giám mục Sang cắt đứt câu chuyện về xe đạp Peugeot, nhưng vẫn không có tiếng gõ cửa tôi mong đợi. Được một lúc, có thể vì nhận thấy chúng tôi không phải thuộc loại thính giả tốt, Giám mục Sang bèn ban cho chúng tôi một ân huệ. Đang nói nửa chừng, ngài vụt ngừng lại nhìn đồng hồ tay và nói: “Tôi phải có cái hẹn”. Câu nói ngắn gọn đó đã giải thoát cho cả hai phía. Phía ba anh em tôi khỏi phải tiếp tục ngồi nghe những chuyện chúng tôi không muốn nghe, và phía ngài cũng khỏi phải tiếp tục ngồi đối diện với 3 người khách bất đắc dĩ trên trời rơi xuống. Ba anh em tôi đứng lên rời khỏi phòng Giám mục Sang và đi nhanh như bị ma đuổi, trong lúc ngài vẫn ngồi tại bàn ngoái đầu ra cửa nhìn theo.

          Lúc đi ngang nhà ăn, tôi coi đồng hồ, thấy đã 4 giờ 15, như vậy Giám mục Sang đã mất cho chúng tôi 15 phút, và tôi cũng thấy mình đã đánh mất chừng ấy thời gian một cách vô nghĩa! Tôi cảm thấy một nỗi chán chường làm nặng trĩu tâm can khi cả ba anh em yên lặng bước đi bên nhau trong hành lang cổ kính của Nhà Chung Hà Nội, được coi là con tim của Giáo hội Miền Bắc này. Thấy còn sớm, vì mãi 6 giờ chiều mới tới giờ ăn, tôi muốn lên phòng nằm nghỉ chốc lát nên tạm chia tay anh em lên buồng. Thầy Kỳ dặn với theo: “Cha nhớ xuống nhà cơm trước năm mười phút, đừng để đức Hồng Y đợi, thầy Trạc dặn con như vậy, vì đức Hồng Y không bao giờ đọc kinh ăn cơm trước lúc có mặt đầy đủ mọi người.”

          Tôi lần theo cầu thang lên phòng. Vừa bước vào tôi thấy trên bàn có cái phong bì màu trắng đề tên tôi. Mở phong bì ra thấy có một số tiền, kèm theo mảnh giấy nhỏ với huy hiệu của Đức Hồng Y nằm bên góc trái, ghi mấy chữ: “Cha Lễ, cầm ít tiền tiêu. Sau cơm chiều, mời cha đi bách bộ trên sân thượng. TVC.” Đọc xong tôi đưa tờ giấy lên môi hôn. Ý tôi muốn hôn lên bàn tay của người viết mấy hàng chữ đó. Thì ra Đức Hồng Y đã chu đáo và quan tâm tới người khác hơn tôi tưởng. Số tiền ngài cho tương đương với một vé xe lửa từ Hà Nội vô Sài Gòn. Sau đó tôi được biết thầy Kỳ và Khuân cũng nhận được quà của đức Hồng Y.


          Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
          dactrung.com
          #5
            sóng trăng 14.01.2007 04:10:53 (permalink)
            .
             
            Nét Truyền Thống


            Còn 10 phút nữa tới 6 giờ, tôi đã có mặt ở phòng ăn. Lúc sắp bước vào phòng tôi cứ ngỡ là mình tới sớm, nhưng khi vào phòng đã thấy khá đông các cha các thầy, những người tôi chưa được gặp. Thầy Kỳ cũng đang đứng đó, cười cười nói nói với những người chung quanh. Khi thấy tôi bước vào, thầy Kỳ làm công việc giới thiệu tôi với những người khác. Có khoảng chừng 10 người vừa Linh mục vừa các thầy. Một vài Linh mục rất lớn tuổi. Đa số các cha đều mặc áo chùng thâm, các thầy mặc đồ bình thường. Tôi bắt tay và chào hỏi làm quen với từng người. Khi gần tới 6 giờ, có thêm mấy người nữa bước vào.

            Lúc đó tôi có ý tìm Khuân nhưng không thấy đâu. Tôi e ngại anh tới nhà cơm muộn sẽ rất bất tiện nên hỏi Kỳ, vì hai người ở chung khu nhà bên kia. Hỏi ra mới biết vì là giáo dân nên Khuân không được ngồi ăn chung với các Linh mục và các thầy, phải ngồi ăn riêng một mình một mâm dưới nhà bếp, mặc dù thức ăn y như nhau. Sự hiểu biết này làm tôi ngạc nhiên và nhận rõ hơn sự cổ kính của Nhà Chung Hà Nội ngay trong các chi tiết nhỏ như thế đó. Việc ba anh em chúng tôi được chia làm hai khu vực nhà khách khác nhau đã làm tôi ngạc nhiên rồi; bây giờ tới việc “giai cấp” trong phòng ăn lại càng làm tôi lạ lùng hơn, nhất là trong khi nhà ăn còn thừa rất nhiều chỗ.

            Chừng vài phút trước 6 giờ, tất cả đứng vào chỗ của mình chờ đợi. Có khoảng năm Linh mục đứng vào sau các ghế đai của chiếc bàn dài đủ chỗ cho mười người, còn các thầy đứng vào hai bàn tròn kế bên. Tôi được xếp ngồi trên, phía tay trái của đức Hồng Y, vì mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng tôi chịu chức trước, các cha khác tuy già nhưng chịu chức sau nên ngồi dưới. Đúng 6 giờ đức Hồng Y từ trên lầu đi xuống và bước thẳng vào chỗ của Ngài giữa đầu bàn phía trong cùng. Sau khi đứng vào chỗ, Ngài chưa bắt đầu đọc kinh ăn cơm vì còn một chỗ trống bên tay phải của ngài mà tôi biết là chỗ của Đức cha Sang. Tất cả đứng chờ, kể cả đức Hồng Y cũng đứng yên tại chỗ và cúi đầu chờ đợi trong yên lặng. Tôi có cảm tưởng thời gian lúc đó qua đi rất chậm.

            Chừng vài phút sau, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp trong hành lang từ đầu nhà phía bên cánh trái đi lại. Tiếng dép càng lúc càng rõ hơn. Khi gần tới, tôi nghe tiếng bước chân khá vội vã như của người đang cố đi nhanh kẻo nhỡ chuyến tàu. Mọi người đứng yên chờ đợi và chắc hẳn ai cũng biết chủ nhân của những tiếng dép lẹp xẹp đó là ai. Giám mục Sang bước vào nhà cơm với vẻ nhanh nhẹn khác thường, đầu hơi cúi xuống và đi thẳng tới và đứng vào chỗ bên tay phải của Đức Hồng Y. Vị Hồng Y nhân từ ngước mắt lên nhìn khắp lượt như để chắc chắn là không còn thiếu ai, lúc đó Ngài mới bắt đầu. Trước khi làm dấu đọc kinh, đức Hồng Y lên tiếng thay mặt cho tất cả mọi người trong Nhà Chung Hà Nội, chào mừng tôi và thầy Kỳ cùng với anh Khuân vừa được ra khỏi tù sáng hôm nay và Ngài nói Nhà Chung Hà Nội rất vui khi được chúng tôi ghé thăm. Thái độ này của vị Hồng Y càng làm tôi cảm động và biết ơn.

            Trong khi đọc kinh, đứng bên này nhìn qua người đối diện tôi thấy được toàn diện con người Giám mục Sang lần đầu tiên. Trông ngài thấp và bé nhỏ hơn tôi tưởng. Nhất là lúc đứng cạnh bên Hồng y Trịnh Văn Căn, trông giống như một đôi đũa lệch.


            Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
            dactrung.com
            #6
              sóng trăng 14.01.2007 04:13:02 (permalink)
              .
               
              Vết Tích Thời Gian


              Sau bữa ăn, tôi bước theo đức Hồng Y lên sân thượng của tòa nhà lớn. Sân thượng này rất rộng, có lẽ to hơn sân quần vợt, lát bằng gạch tàu, loại gạch màu đỏ, hình vuông mỗi cạnh chừng 4 tấc bằng đất nung. Trời mùa hè nên giờ đó còn sáng, đức Hồng Y và tôi sánh vai đi bách bộ. Trong lúc đi ngài kể tôi nghe hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc và hỏi thăm về gia đình, cha mẹ anh chị em tôi. Ngài quan tâm đặc biệt tới cuộc sống các Linh mục trong tù, và hỏi tôi nhiều điều về thời gian tôi các Linh mục bị cầm tù. Đang đi, bất chợt ngài quay lại hỏi:

              - Cha Lễ có để ý thấy cái gì khác lạ trên sân thượng này không?

              Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ đó, và đưa mắt nhìn quanh khắp lượt chẳng thấy gì lạ nên nói:

              - Con chẳng thấy gì lạ cả!

              Ngài mỉm cười, từ tốn :

              - Cha phải nhìn ra xa tới cuối sân mới nhận ra được. Nhìn xuống chân không thấy đâu!

              Theo sự gợi ý của ngài tôi nhìn ra xa tới cuối sân. Chợt tôi để ý thấy một đường vòng hình quả trám khổng lồ nằm giáp bề mặt sân thượng. Con đường này có màu vàng nhạt khác với màu gạch lát trên sân như có ai mài rửa chà xát lên đó. Tôi nheo mắt đáp:

              - Con thấy hình như có hình vòng tròn ai vẽ trên sân gạch.

              Đức Hồng Y mĩm cười một cách đau khổ, sau đó giọng Ngài trầm xuống:

              - Như thế là cha đã nhận ra rồi. Đó không phải là đường vẽ nhưng là đường mòn trên gạch. Đó cũng là dấu tích của đức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê còn lưu lại. Trong hơn hai mươi năm bị quản chế, đức cố Hồng Y đã đi bách bộ trên sân thượng này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước chân của Ngài đã tạo thành đường mòn hình quả trám như cha thấy.

              Nghe câu chuyện này tôi bồi hồi xúc động và quá thương cho hoàn cảnh đức Hồng Y tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo hội Công Giáo miền Bắc lúc bấy giờ. Lần đó tôi được có dịp nói chuyện tâm tình và thân mật với Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người mà tôi rất kính mến.

              Đêm đó, sau khi đọc kinh tối chung trong nhà nguyện, tôi ghé vào thăm cha Sinh là cha Bí thư Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Phòng cha Sinh cách văn phòng đức Hồng Y không xa. Cha Sinh lúc đó còn trẻ, quãng chừng vừa ngoài 30, trắng trẻo đẹp trai. Trong lúc đang ngồi chơi uống nước và quan sát nơi ăn chốn ở của vị Linh mục trẻ này, tôi lắc đầu nghĩ thầm: “Ngay cái thời cực thịnh của tôi và các Linh mục miền Nam trước kia, phòng ốc nơi tôi ở cũng không bằng một góc nhỏ của phòng cha Sinh”. Từ trước tôi vẫn có cảm nghĩ là các Linh mục miền Bắc sống nghèo nàn và thiếu thốn. Điều này có thể đúng đối với các Linh mục ở miền quê, nhưng không đúng chút nào với vị Linh mục trẻ giữ chức vụ quan trọng sống giữa Thủ đô Hà Nội này.


              Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
              dactrung.com
              #7
                sóng trăng 15.01.2007 01:48:37 (permalink)
                .
                 
                Cuốn Phim Quay Chậm


                Sau khi thăm cha Sinh, tôi trở lên phòng. Lúc đó tuy đã muộn nhưng tôi chưa thấy buồn ngủ. Một phần vì tâm trạng choáng ngộp trước khung cảnh mới, phần khác trưa nay trước giờ cơm chiều tôi có nằm nghỉ được chút ít.

                Trời về đêm nghe vắng lặng, tôi ra hành lang tựa vào lan can nhìn qua bên kia đường. Không biết hôm đó có dịp gì mà có đông người tụ họp trong khuôn viên nhà Văn Hóa, đa số là giới trẻ. Có ban nhạc sống và nhiều đôi ra khoảng sân trống khiêu vũ khi có tiếng nhạc. Lớp trẻ tụ tập khá đông nhưng không ồn ào. Khi nhạc trổi lên, từng cặp bước ra sân khiêu vũ, hết nhạc lại về chỗ ngồi yên chờ bản nhạc khác. Tôi đứng coi mà có cảm tưởng đây là những người máy đang giải trí. Tôi không cảm nhận được “sức sống” trong đám đông khiêu vũ và có cảm tưởng là tay chân họ nhịp bước theo điệu nhạc, nhưng sao chẳng có “hồn”! Tự nhiên tôi cảm thấy thương cho lớp trẻ này. Họ vui chơi nhảy nhót theo mốt thời trang, nhưng tâm hồn như đang mang một nỗi u hoài khó tả.

                Quay trở vào phòng, ngồi yên trên ghế một lúc như để xác định hiện tại và nhớ lại giờ này đêm qua diễn ra cảnh chia tay đầy nước mắt trong buồng giam ở trại Nam Hà. Tôi không muốn nghĩ tiếp, nên lấy giấy ngồi viết vài thư ngắn cho chị Hai tôi và những người thân ở miền Nam báo tin tôi được về, nhưng còn ở lại miền Bắc một thời gian. Nhìn đồng hồ trên tường đã gần 10 giờ đêm, tôi tắt đèn và lên giường nằm.

                Căn phòng vẫn mờ ánh sáng vàng nhẹ phản chiếu của đèn đường. Thỉnh thoảng cơn gió nhẹ làm cựa mình những nhành cây đang yên giấc. Tôi nhắm nghiền mắt lại và hồi tưởng những năm tháng qua. Đời người như một giấc chiêm bao. Mới đó mà đã mười mấy năm qua đi rồi, mười mấy năm buồn vui lẫn lộn trong kiếp sống của một Linh mục tù nhân. Tôi nhớ lại một buổi chiều nào, tôi từ giã mẹ già gạt nước mắt ra đi, nay má tôi đã chết mười một năm rồi nhưng chưa lần nào tôi được nhìn thấy mộ của má. Nhớ tới đây hai hàng nước mắt tôi chảy dài xuống gối và cổ họng tôi nghẹn cứng lại.

                Tôi nhớ lại chuyến xe lô Minh Chánh của một buổi chiều tắt nắng năm xưa trên quãng đường quốc lộ 4, từ Ngã Ba Trung Lương đi Sài Gòn. Chiếc xe đã đưa tôi vào ngã rẽ cuộc đời. Lúc đó, ngồi trên xe trong tâm trạng rối bời, tôi tự nhủ: “Từ đây, mình bước vào một tương lai vô định. Chẳng biết cuộc đời rồi sẽ ra sao. Nhưng nếu định mệnh an bài và mình còn sống, chắc hẳn mình sẽ viết lại vở kịch đường đời mà mình trải qua, và chiếc xe lô Minh Chánh hôm nay sẽ là màn đầu.”


                Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
                dactrung.com
                #8
                  sóng trăng 16.01.2007 02:07:01 (permalink)



                   
                  Chương 1
                  Bước Ngoặt Cuộc Đời



                  Từ giã Thạnh, anh bạn Linh mục thân nhất, tôi bước lên chiếc xe lô Minh Chánh tại ngã ba Trung Lương để lên Sài Gòn. Lúc bấy giờ trời đã về chiều.

                  Chiếc xe hôm đó chật như nêm. Hành khách phần đông là các chị em bạn hàng ngồi chen lẫn với các bao bị, túi cói căng phồng, cố nhét vào chỗ nào đó trong xe mà người ta có thể nhét được. Tôi được xếp ngồi chen vào giữa anh tài xế và một người đàn ông đứng tuổi, vì tôi chẳng có hành lý gì ngoài cái túi đeo vai chỉ nặng chừng hơn ký-lô. Trong vị trí đó, có lẽ tôi là hành khách chiếm ít khoảng trống nhất trên chuyến xe có giá vé đồng hạng này.

                  Chiếc xe tôi đang đi là loại xe Hoa Kỳ hình dáng rườm rà, to và dài như một con kình ngư bằng sắt. Hai cái đèn trước đầu xe như đôi mắt thật lớn và đuôi là cặp đèn lái rườm rà vểnh lên cao. Không kể băng tài xế, xe còn hai băng ngang phía sau, và một khoảng trống khá rộng dùng để chở hàng hóa và cuối xe là cái bửng cao độ 50 phân chặn ngang. Kiểu xe của thập niên 60 này được tung ra thị trường có lẽ để nhắm vào nhu cầu của các gia đình đông người. Tuy nhiên, khi qua tới Việt Nam xe đã được cải biến lại cho phù hợp để chuyên chở hành khách nên được gọi là xe 'lô', bởi chữ 'location' trong tiếng Pháp.

                  Loại xe lô này đưa rước khách trên những tuyến đường ngắn, trên dưới trăm cây số, để nhắm vào những người cần đi gấp. Xe chạy rất nhanh so với xe đò bình thường. Mặc dù giá vé đắt hơn xe lớn và trên xe phải chen lấn chật chội, nhưng xe lô rất tiện dụng và đúng giờ nên lúc nào cũng đông khách. Thông thường xe có đủ chỗ cho tám người, kể cả tài xế, nhưng khi biến thành xe lô, có thể “nhét” tới 15 người hoặc hơn nữa. Riêng khoảng trống phía sau, có thể chứa năm sáu người ngồi bệt xuống sàn xe quay mặt tứ phía. Khi cần, cái bửng ở cuối xe cũng được hạ xuống để có thể chở thêm vài ba người ngồi nhìn ngược về phía sau. Nói tóm lại, hễ còn chỗ trống là cứ nhét, càng nhiều người càng tốt, có khi người này ngồi lên đùi người khác cũng không ai lấy thế làm phiền. Có điều hay là, khi xe đã chật ních cả người lẫn hành lý, nhưng hễ có khách đón, xe vẫn ngừng và còn đủ chỗ cho khách mới. Tôi phục tài thu xếp và miệng mồm khéo nói của mấy anh tài xế xe lô. Hầu như anh nào cũng trẻ trung vui tính, lúc nào cũng cười tươi khi xếp chỗ kèm theo câu nói:“Chịu khó ngồi chật chút nghe bà con, sắp tới nơi rồi!” Và lúc nào câu nói ấy cũng có hiệu nghiệm. Đoàn xe lô Minh Chánh hoạt động song song với những hãng xe đò lớn khác trên tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho, và cách mười phút là có một chuyến rời bến, trong khi xe lớn phải đợi tới nửa giờ hoặc hơn.

                  Trên quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào buổi chiều tà này, đường bắt đầu vắng, xe cộ thưa thớt, nên xe tôi chạy rất nhanh. Ngồi yên trên xe một lúc, sự mệt nhọc và chán chường choáng ngộp, như biến tôi thành người mộng du. Tôi lặng nhìn về phía trước, cảnh vật vùn vụt chạy ngược chiều khi chiếc xe cứ ngon trớn nuốt ngắn đoạn đường. Tôi nhìn nhưng dường như chẳng thấy gì và cũng chẳng buồn để ý tới tiếng cười nói ồn ào từ phía sau. Bất thần, tôi có cảm giác lừ đừ như người vừa uống ly rượu mạnh, nên tựa đầu vào thành ghế, xoay người tìm tư thế thoải mái, trong cái hốc nhỏ xíu giữa hai con người. Tôi nhắm mắt và cố gạt những ý tưởng vụn vặt rối bời đang lẩn quẩn trong đầu, nhưng nào có quên được dễ dàng. Quá khứ lại vồ lấy tôi. Những tháng ngày về làm nhiệm vụ Linh mục trong tỉnh Bến Tre chưa được bao lâu, nhưng sao có quá nhiều việc xảy ra, và dường như từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ đều góp phần dẫn đưa tôi đến bước đường này.

                  Câu chuyện giữa anh tài xế và các cô các bà phía sau càng lúc càng náo nhiệt. Họ cười nói huyên thuyên, nhưng tôi chẳng chú ý nghe được chuyện gì ra chuyện gì. Người đàn ông ngồi cạnh tôi phía ngoài có dáng khắc khổ, gương mặt sạm nắng, ra dáng một người nông dân hơn là người làm việc trong bàn giấy. Nhận xét này làm tôi cảm thấy dễ chịu, vì thời buổi bấy giờ tôi rất dè dặt khi phải tiếp xúc với người lạ, nhất là những người nào có vẻ “cán bộ” thì càng phải giữ kẽ nhiều hơn. Người đàn ông này, không có vẻ gì là cán bộ và cũng tỏ ra không hào hứng góp chuyện với anh tài xế và bà con ở phía sau. Tôi ngồi lặng yên, mơ màng nhớ lại những ngày tháng qua...

                  Gần một năm trước đây, tôi được bổ nhiệm về làm cha sở họ đạo La Mã, thuộc huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre. Vùng này, trước kia có tên là Bàu Dơi, một nơi nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Tới đầu thập niên 50, ở đây có xảy ra hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, khiến nơi vắng vẻ này được nhiều người biết tới và dần dần trở nên một trung tâm hành hương khá sầm uất, sau đó được nâng lên thành giáo xứ. Theo lời kể lại, một hôm có người đàn bà đi mò cá dưới sông, nhặt được một khung ảnh cỡ lớn nhưng không còn thấy hình ảnh gì. Có lẽ khung ảnh này chìm dưới nước đã lâu. Người có được khung ảnh cũng chẳng biết làm gì với nó, nên đưa về nhà, chèn vào vách lá che mưa che gió.

                  Một hôm, tình cờ một người có đạo trong vùng tới chơi và thấy khung ảnh, nghĩ trước kia có thể là ảnh thờ phượng nên xin về để trên bàn thờ trong gia đình. Thời đó trong vùng có chiến tranh. Ngày nọ có cuộc hành quân trên sông của binh lính Pháp. Tàu Pháp bắn súng lớn, súng nhỏ, làm hư hại và sập nhiều nhà cửa của dân chúng. Trong cơn lửa đạn, gia đình có khung ảnh lo sợ vội chui xuống dưới bàn thờ nấp và cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ che chở. Điều rất ngạc nhiên, là sau khi êm tiếng súng, người nhà bò ra và nhìn lên bàn thờ thì thấy khung ảnh mờ đục trước kia đã lộ ra hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp một cách khá tỏ tường! Sự kiện đó được trình cho giáo quyền đến chứng nhận và lập biên bản. Tin lành đồn ra, và càng ngày càng có nhiều người tin tưởng tới kính viếng và cầu nguyện với Đức Mẹ.

                  Dĩ nhiên giáo quyền không chính thức công nhận, nhưng cũng không ngăn cấm lòng sùng kính của giáo dân. Có rất nhiều người tới đây kính viếng, cầu xin và được ơn. Chứng tích này còn lưu lại trong các bia đá “Tạ Ơn” gắn khá nhiều trong nhà thờ. Vùng Bàu Dơi hẻo lánh trước kia, nay đã trở thành một trung tâm hành hương thu hút nhiều người từ phương xa tới kính viếng. Đường sá được sửa sang và một số dân các nơi khác về đây sinh sống. Tới năm 1953, khách hành hương dâng cúng tiền xây một ngôi nhà thờ, tuy nhỏ nhưng rất khang trang, có cả các dãy nhà cho khách hành hương tạm trú. Nơi này được Giám mục Ngô Đình Thục nâng lên thành họ đạo, tiếng miền Bắc là giáo xứ, lấy tên là họ đạo La Mã để kính nhớ giáo đô Rôma.

                  Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ra đời, đã tạo nên một giai đoạn mới trong lịch sử chính trị Miền Nam. Tình trạng an ninh người dân được hưởng những năm đầu của Chánh quyền Ngô Đình Diệm dần dần giảm đi, theo nhịp độ hoạt động và sự lớn mạnh của MTGPMN. Riêng tỉnh Bến Tre, có tên là “Quê Hương Đồng Khởi”, nơi mà MTGPMN hoạt động mạnh mẽ, làm cho tình hình càng ngày càng căng thẳng hơn.

                  Những năm tiếp theo, cuộc giao tranh Quốc - Cộng càng lúc càng leo thang và bành trướng tới nhiều nơi, đặc biệt trong tỉnh Bến Tre nói chung và tại họ đạo La Mã này nói riêng. Trong tình thế đó, một số đông giáo dân trong họ đạo đã tản cư lánh nạn. Khách hành hương cũng thưa thớt, và họ đạo dần dần trở nên tiêu điều. Vì giáo dân tản cư lánh nạn gần hết, nên năm 1961 cha sở họ La Mã cũng rút đi, chỉ còn mấy Dì phước dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và một số rất ít giáo dân ở lại trông coi nhà thờ và vườn tược. Từ đó, cha sở họ đạo Cái Bông, cách đó 6 cây số, lên xuống dâng lễ và phụ trách mặt tinh thần cho giáo dân. Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mà giáo dân các nơi thường về kính viếng cũng được đưa về nhà thờ Cái Bông cho an toàn hơn. Chiến tranh càng ngày càng leo thang.

                  Trong thời chiến, Nhà thờ La Mã trở thành nơi trú ẩn và dung thân cho cán bộ cộng-sản trong vùng. Ai cũng biết phía quốc-gia không bắn phá hoặc giội bom các cơ sở tôn giáo, nên các nơi đó là điểm trú ẩn an toàn cho dân chúng và cán bộ khi có cuộc hành quân. Để cho danh chính ngôn thuận, một số cán bộ MTGPMN cỡ lớn trong vùng, đã xin chịu phép Rửa tội và nấp dưới bóng áo dòng của các Linh mục và các Dì phước, để che mắt cơ quan an ninh phía quốc-gia. Nếu không tránh được mà phải bị bắt, thì cũng chính các Linh mục và các Dì phước là những người họ chạy tới trước tiên. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã tạo nên sự gắn bó khá mật thiết giữa các Linh mục, các Dì phước với các cán bộ của MTGPMN trong vùng. Cho tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam rơi vào tay cộng-sản. Lúc bấy giờ, tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long.

                  Đối với rất nhiều người, ngày 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc đổi đời. Cá nhân tôi cũng nhận thấy rỏ điều đó. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến tranh bom đạn đã chấm dứt, nên ở khắp nơi, người dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh, bắt đầu thu xếp trở về sinh sống nơi quê xưa chốn cũ. Tại họ đạo La Mã cũng vậy, số giáo dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh nay cũng lần lượt quay về. Trong một thời gian ngắn, số giáo dân trở nên càng lúc càng đông, nên có nhu cầu cần một Linh mục phụ trách. Tôi được đức Giám mục Nguyễn Văn Mầu, Giám mục Vĩnh Long chỉ định vào nhiệm vụ cha sở họ đạo này.

                  Lúc bấy giờ, tình thế đã hoàn toàn thay đổi. Những cán bộ cộng sản nằm vùng đã từng núp bóng các Linh mục và các Dì phước trước đây, bây giờ là những kẻ chiến thắng và một vài người trong số đó đang nắm quyền ở địa phương này. Lúc tôi tới, họ đạo còn có hai Dì phước thuộc dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, và một Ban quí chức, tiếng miền Bắc gọi là Hội đồng Giáo xứ, mà đa số trong đó là những cán bộ hoặc gia đình cán bộ. Tôi là người từ tỉnh khác mới đổi về và là một gương mặt mới, hoàn toàn xa lạ với tất cả mọi người trong giáo xứ và trong vùng. Mặc dù cố gắng tối đa để sống hòa đồng với mọi người, nhưng dần dần tôi cũng trở thành người bị nghi kỵ và bị chú ý theo dõi, ngay cả trong số những người gần gũi nhất với tôi trong họ đạo.

                  Đàng khác, trong cương vị một cha sở, tôi không thể im lặng trước một thứ tà thuyết vô thần và thái độ chống báng tôn giáo một cách quá trắng trợn của một số người trong chánh quyền địa phương. Tôi cũng không thể làm ngơ trước sự can thiệp vào nội bộ tôn giáo và áp bức tôn giáo một cách ngang ngược của hạng người đang bị lên cơn sốt thời cuộc. Họ đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ và uất ức cho những người thất thế vì thời cuộc đổi thay. Những kinh nghiệm đau lòng của buổi giao thời này tôi không bao giờ quên. Trong bối cảnh đó, tôi có gặp khó khăn và áp lực từ nhiều phía và nhiều người cũng không phải là chuyện khó hiểu.
                   
                   
                  Vùng bóng đen
                   
                  Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trò một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần luôn chống báng và tìm hết mọi cách để triệt hạ tôn giáo gây nên. Trong tình thế đó, tôi đã cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi, để tôi có thể sống yên thân để phục vụ dân chúng trong vùng nói chung, và cách riêng là giáo dân trong họ đạo thuộc về trách nhiệm của tôi.

                  Trong cuộc sống bình dị của một Linh mục trong xứ đạo nhà quê,  thực ra chẳng bận rộn gì nhiều. Hàng ngày tôi làm lễ vào buổi chiều, vì sáng ngày dân chúng còn bận đi làm ruộng hay làm cá. Tôi dành phần lớn thời giờ trong ngày đi thăm viếng giáo dân và bà con trong vùng nói chung, không phân biệt tôn giáo. Tôi không thể tổ chức các lớp học giáo lý, vì nhà nước cấm, nhưng dạy giáo lý dưới hình thức những lần tập trung trẻ con và thanh niên tới giúp “tăng gia sản xuất”, bằng việc trồng rau, trồng khoai mì, trồng mía... chung quanh nhà thờ. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai cách: câu cá và học đàn Vọng Cổ.

                  Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cái “máu” câu cá nó đã nằm sẳn trong huyết quản tôi từ những năm còn thơ ấu, còn chạy nhảy tung tăng ở ruộng đồng nhà quê. Sau này khi lớn lên rồi cũng vậy. Ngay cả sau khi đã làm Linh mục rồi, mỗi khi có dịp cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông mà câu cá thì không còn gì thú vị hơn.

                  Vùng La Mã nơi tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, còn gọi là nước "pha chè”, không mặn mà cũng không ngọt hẳn, vì là nhánh sông sát gần ngay biển. Khúc sông này có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi đau nhức không chịu thấu và lên cơn sốt suốt một ngày. Cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi! Mặc dù vậy, khi cánh tay vừa hết sưng là tôi lại xuống sông câu cá. Có những lần câu được rất nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối to vì câu cá.

                  Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá. Bổng từ xa có một người lạ mặt, đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ, chèo chiếc xuồng nhỏ hướng về phía tôi. Cách ăn mặc “mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ” là cái mốt thời thượng lúc bấy giờ. Nhìn thấy hình ảnh đó thôi, cũng đủ cho tôi biết, hoặc đoán biết người đó là ai, và trong lòng tôi bắt đầu nghi ngại. Tới nơi anh ta cập ghe vào hỏi tôi:

                  - Anh là ai và ngồi làm gì ở đây?

                  Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng cũng trả lời:

                  - Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá.

                  Người lạ mặt hỏi tiếp, giọng thắc mắc:

                  - Anh câu cá, mà cần câu anh đâu?

                  Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi. Nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn. Tôi trả lời :

                  - Anh hỏi gì vậy, thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à?

                  Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi:

                  -Cái loại máy có cần ăn-ten và ''dây trời'' này, có kêu được máy bay B52 không?

                  Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên:

                  - Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này?

                  Anh ta đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ, làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là “cần câu máy”.  Gọi là “câu máy” nhưng thực ra nó chỉ là cái trục, để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài, bằng chất nhựa dẻo, để thả xuống sông câu cá. Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên, chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu, móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăn-ten của một loại máy truyền tin hiện đại với “dây trời” có thể gọi... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi!

                  Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và  dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội. Tôi rất thương người bạn chẳng may bị mù lòa này. Tôi nghe kể lại, lúc còn nhỏ cho tới lúc 3 tuổi, anh Tám Chánh là đứa trẻ bình thường như bao nhiêu trẻ con khác cho tới lúc anh bị đau mắt. Lúc đó sự hiểu biết về y học của dân chúng trong vùng này còn thô sơ. Không hiểu tại sao có người bày với gia đình anh lấy cựa gà trống mài ra hoà với nước và nhỏ vào mắt sẽ khỏi bệnh. Không ngờ sau khi nhỏ vào mắt, chẳng những không khỏi bệnh mà chất nước ấy còn làm nổ tung cả hai tròng con mắt của anh. Bây giờ trên mặt anh chỉ còn lại hai cái hố sâu hoắm, thay vì hai tròng con mắt, và mí mắt anh lúc nào cũng nháy liên hồi. Nghe qua chuyện đó tôi càng thương anh nhiều hơn.

                  Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng no, anh hỏi tôi:

                  - Chó His màu gì hả cha?

                  Tôi đáp:

                  - Màu trắng có đốm  màu vàng.

                  Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp

                  - Màu vàng là thế nào hả cha?

                  Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẽ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp.

                  - Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao hả cha?

                  Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất.

                  - Tôi không giải thích được anh Tám ạ!

                  Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt.

                  Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các “ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn Vọng Cổ. Có lần trong một buổi tật dượt, tôi hỏi anh:

                  -Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề, hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được?

                  Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng:

                  - Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi.

                  Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình. Anh có sáng tác ra 6 câu Vọng Cổ, có tên là “Chuyện đời tôi”, diển tả tâm trạng u buồn trong kiếp sống lặng lẽ âm thầm của anh. Mỗi lần ngồi nghe anh vừa đàn vừa hát bản Vọng Cổ đó, tôi xúc động vô cùng.
                   
                  Nhưng anh chỉ ca bản đó ở chỗ riêng tư và không bao giờ ca khi có đông người, cho dù yêu cầu cách mấy anh cũng không nhận lời.

                  Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình: "Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!”

                  Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn.  Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng phải đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang theo gạo để nấu cơm. Ban ngày đào đất, chiều lại, tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát cổ nhạc trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! Khổ nỗi, tôi thích Vọng Cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”, nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được.

                  Lúc tôi mới về họ đạo La Mã, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. Có những con người bị sơn sốt thời cuộc hành căng quá không chịu nổi, họ phải làm hết mọi cách để chứng tỏ mình là người "cách mạng”. Thậm chí có kẻ tìm cách triệt hạ người khác, mà họ cho là “không cách mạng”, để chứng tỏ mình là người “cách mạng”.  Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích “cách mạng”chặn lại trên đường. Một anh mặt mày đen đúa, mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát:

                  - Tới lúc này mà anh còn đội kết của thằng Kỳ à?

                  Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại:

                  - Anh nói gì tôi không hiểu, đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào?

                  Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa:

                  - Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả?

                  Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm và chịu trận cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy đi rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ thầm là mất cái kết đen, tôi vẫn còn may mắn. Nếu anh “cách mạng” lúc nãy nói cái quần tôi đang mặc là quần của...‘‘thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi  gặp chuyện ngượng ngùng chết người! 

                          Nhưng sự đời, hể cái gì lên quá cao rồi cũng có lúc cũng phải xẹp xuống. Cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã này cũng theo quy luật đó. Sau đó không lâu, trong xã phát động đợt học tập “đóng nghĩa vụ”, và tất cả mọi người ai có vườn có ruộng đều phải tới học tập. Họ đạo cũng có mấy công đất vườn trồng dừa, nên tôi cũng phải có mặt. Điều tôi ghi nhận rất rỏ là cơn sốt thời cuộc đã làm cho nhiều người trở thành điên lọan mấy tháng trước đây đột nhiên trở thành cơn giá băng sau đợt học tập đóng nghĩa vụ này.

                        Đợt học tập để bắt người dân đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vụ’’ này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Có mấy cán bộ cấp tỉnh xuống giúp cho chánh quyền địa phương, dạy cho người dân biết cách đóng “nghĩa vụ” thế nào cho nó tốt.

                       Sau đợt học tập, với nhiều bài thuyết giảng tràng giang đại hải, mỗi gia đình có ruộng có vườn được “cách mạng” ban chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Một chỉ tiêu đóng thuế nặng chưa từng thấy. Ngay cả trong chế độ mà người ta gọi là “Mỹ Ngụy” cũng chưa bao giờ bà con trong vùng này phải đóng thuế vườn thuế ruộng với chỉ tiêu cắt cổ như thế.

                       Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe bơm cứng, bị cán phải đinh. Nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng ưu ái ban cho. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, miệng nhai trầu bõm bẽm, ăn nói rất bạo mồm bạo miệng. Vì bực quá chịu không nỗi nên chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví:“trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn má đứng chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe:“Đéo mẹ chúng bây! Nếu tao biết nông nỗi này thì  ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao.”! Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ” thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó, cho dù là những “gia đình cách mạng”, hoặc những người vẫn nghĩ là mình có công với cách mạng!

                  Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi. Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ.  Hơn nữa, má tôi đang đau ốm nặng, nên tôi trình bày hoàn cảnh với Giám mục và được chấp thuận cho tôi được ra khỏi họ đạo. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà quê lo lắng cho mẹ già. Cha Quang đã từng phụ trách họ đạo này trước khi cộng sản chiếm miền Nam, cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi, lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre.

                  Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có Đại Chủng-viện riêng. Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này.

                  Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau độ 20 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973. Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó.

                  Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu:

                  “Bắt phong trần phải phong trần,
                  Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”

                  Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo cha cha Quang xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp cho tôi giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường chỉ có hiệu lực trong 3 ngày.

                  Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.
                   
                   
                  Vùng kỷ niệm
                   
                  Ngày tôi rời giáo xứ ra đi, sau khi từ giả mọi người, ngồi trên xe gắn máy trên con đường từ họ đạo La Mã lên tỉnh Bến Tre trong ánh nắng ban mai, lòng tôi buồn vô hạn. Lúc đó tôi tự hỏi không biết mình có còn có dịp trở lại con đường này nữa hay không. Mặc dù trước kia vùng này xa lạ đối với tôi nhưng trong gần một năm qua kể từ khi về làm cha sở họ La Mã, tôi đã đi lại nhiều lần trên con đường đá sỏi loang lổ này để về thăm quê hay ghé qua thăm Thạnh, và con đường đã trở nên quen thuộc lúc nào tôi cũng chẳng hay. Chừng từ giã ra đi mới thấy thương thấy nhớ.

                  Khi còn cách tỉnh chừng 6 cây số tôi phải đưa xe xuống chiếc xuồng máy chở qua sông Chẹt Sậy là một nhánh sông khá lớn nước chảy mạnh như thác vì chỗ này gần sông cái. Trước đây có cây cầu sắt bắt ngang qua sông, nhưng trong thời chiến tranh, những cây cầu được bắt ngang sông này ít khi nào thọ quá vài năm. Vừa bắt cầu lên đã bị Việt cộng phá hoại hoặc giật mìn cho sập đi. Có khi cầu bắt chưa xong cũng đã bị giật sập. Đây là cây cầu nằm trên con đường huyết mạch nối liền tỉnh Bến Tre và các quận Giồng Trôm, Ba Tri, Mõ Cày và Thạnh Phú nằm  phía sát bờ biển. Vì thế một bên cố gắng xây dựng trong lúc bên kia ra sức phá hoại thì không có gì là khó hiểu. Phía Quốc Gia cố gắng giữ cách gì cũng không lại. Việt cộng phá hoại cầu bằng nhiều cách khác nhau, có những cách rất tinh vi ngoạn mục như trong lần họ phá cây cầu này không lâu trước ngày mất miền Nam.

                  Tôi nghe kể lại, vì phía Quốc gia biết là cây cầu huyết mạch này trước sau gì rồi cũng sẽ bị giật sập nên vào những năm sau này đã tăng cường thêm lính canh gác bảo vệ cây cầu chiến lược này rất cẩn mật ngày đêm. Có cả biện pháp đề phòng người nhái lén đặt mìn dưới mặt nước và cả cách ngăn chặn thả mìn trôi theo các dề lục bình, bằng cách đóng hàng rào cản chung quanh chân cầu sắt. Nhờ có hàng rào cản này nên không một ghe thuyền, hoặc người nhái hay dề lục bình nào có thể đụng chạm được chân cầu. Nhờ đó một thời gian khá lâu cây cầu này được yên thân và dân chúng trong vùng đi lại thuận tiện thoải mái.
                   
                  Nhưng ở đời hễ vỏ quít dày thì có móng tay nhọn.

                  Những đầu óc linh hoạt của người cộng sản đã nghĩ ra kế sách phá cầu ngoạn mục làm phía Quốc gia bó tay, có thấy trước cũng không làm cách gì chặn được chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Số là vùng Bến Tre có rất nhiều dừa và khi nước ròng thì sông Chẹt Sậy chảy vun vút như thác đổ ra sông cái. Những kẻ phá hoại lợi dụng điều kiện đo và khai dụng sức mạnh của nước. Trước tiên họ đốn thật nhiều cây dừa to và dài, kết thành bè và cất giấu một nơi trong các vùng họ kiểm soát. Chờ đúng con nước ròng chảy xiết họ cắt dây neo bè. Một chiếc bè dừa khổng lồ đến hàng trăm cây bó lại xuôi dòng nước vùn vụt lao xuống càng lúc càng nhanh. Khi những người lính canh trông thấy cái bè dừa khổng lồ lù lù hiện ra vội la hoảng lên báo động. Nhưng lúc bấy giờ chỉ có trời mới có thể cứu được số phận của cây cầu đáng thương bằng thép lạnh đang đứng gồng mình chờ chết.

                  Tất cả lính canh nghe báo động túa ra xả súng lớn súng nhỏ bắn vào chiếc bè dừa. Nhưng chỉ bắn cho sướng tay vì lâu ngày không có dịp bắn, còn chiếc bè dừa khổng lồ vẫn cứ làm công việc của nó là đang âm thầm tiến tới mục tiêu với tốc độ khủng khiếp của... bè dừa! Khi chiếc bè dừa chạm hàng rào cản chung quanh chân cầu, phát ra một âm thanh êm dịu kéo dài giống như tiếng người ta bóp vụn mảnh bánh đa vừa nướng xong trong lòng bàn tay. Sau đó chiếc bè dừa cõng theo trên lưng, một phần thân thể của người bạn bằng thép dài ngoằn, lặng lờ tiến ra vùng nước mênh mông của dòng Cửu Long muôn đời vẫn chảy! Chiếc cầu sắt vô tri vô giác từ đó đã yên phận, có khổ chăng là cuộc sống của người dân trong vùng, trong đó có tôi.
                   
                   
                  Chuyến đò ngang
                   
                  Ra khỏi tỉnh Bến Tre tôi theo con đường ra bến bắc Rạch Miễu(tiếng miền Bắc gọi là “phà”), cách tỉnh lỵ chừng 10 cây số và vùng này có tên là Cầu Bắc. Khi dẫn xe gắn máy theo đoàn người lầm lũi bước lên bắc để qua tỉnh Mỷ Tho, cảm giác chia ly lại dâng lên trong lòng tôi mãnh liệt hơn. Bắc Rạch Miễu này tôi đã đi qua lại nhiều lần và ghi nhận khá nhiều hình ảnh khó quên. Nhớ lại lần đầu tiên tôi được qua bắc này khi còn nhỏ, tôi không nhớ năm nào, lúc đó họ đạo Mai Phốp có tổ chức cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Mã. Lần đó tôi theo chị tôi và một số đông giáo dân họ đạo nhà quê đi hành hương, tới một nơi mà không ngờ là sau này tôi về đó làm cha sở. 

                  Lần đó đoàn xe chúng tôi qua bắc Rạch Miễu lúc trời vừa sáng. Tôi không nhớ được gì nhiều vì tôi còn quá nhỏ, ngoại trừ hình ảnh mấy chiếc tàu chìm cách đó không xa. Có chiếc giơ ống khói, có chiếc giơ những chiếc cột lên cao khỏi mặt nước. Tôi chưa bao giờ được thấy qua chiếc tàu chìm, nên hình ảnh đó ghi thật đậm nét trong trí nhớ của tôi cho tới mãi về sau này. Lúc đó người lớn nói cho tôi biết là tàu Pháp bị Nhật bỏ bom chìm. Tôi nghe để mà nghe, nhưng tôi chẳng hề biết Pháp, Nhật là ai và tại sao họ lại bỏ bom nhau. Cho tới năm 1961, lúc đã 18 tuổi, tôi qua Mỹ Tho học trường Rạng Đông một thời gian. Chiều chiều tôi hay thả bộ ra bến tàu không xa bến bắc Mỹ Tho bao nhiêu, coi người ta câu cá và nhìn lại những chiếc tàu chìm vẫn còn nằm yên đưa ống khói lên trời đang thi gan cùng tuế nguyệt. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh này tôi lại nhớ chuyến bắc năm xưa đã đưa thằng bé nhà quê là chính tôi qua con sông  này, để đi hành hương kính Đức Mẹ La Mã.

                  Sau này lớn lên khi tôi trở lại vùng này với ý thức đầy đủ và nhìn sự việc ra sự việc, tôi ghi nhận thêm nhiều hình ảnh mới lạ về cái bắc Rạch Miễu này. Trước tiên, chiếc bắc đưa xe qua sông bây giờ là loại lớn và chạy nhanh hơn, có hai tầng, có ghế băng ngồi hẳn hoi, sạch sẽ và khang trang. Hình ảnh mới lạ thứ hai là cảnh người ta buôn bán rất nhộn nhịp, có người bán cà rem, trái cây, bánh mì dồn thịt, thức ăn đủ loại. Lại có nhiều nhiều người ăn xin hoạt động ráo riết kêu gọi sự hảo tâm của hành khách.

                  Phần nhiều những người ăn xin là những người mù, một ít người có tật chân hoặc cụt tay, cụt chân mà tôi đoán họ là những thương phế binh. Có người đi phải có đứa bé dẫn đường, nhưng cũng có người đi một mình. Phần nhiều họ ôm đàn và hát đủ loại nhạc, nhưng phần đông họ hát Vọng Cổ là thể loại âm nhạc phổ biến và dễ đi vào tâm hồn người dân miền Nam, nhất là những người ở vùng quê như tôi. Có người còn trang bị cả loại máy khuếch đại âm thanh loại cầm tay để cho tiếng hát vang xa và hay hơn. Hoạt động của họ tạo nên cảnh sinh hoạt tưng bừng náo nhiệt lúc chiếc bắc đang chạy ngang sông.

                  Vì có dịp qua lại nhiều nên tôi đã quen thuộc với cảnh này và nhất là tôi biết mặt hầu hết những người ăn xin và lần nào tôi cũng chuẩn bị một số tiền lẻ để giúp cho những người bất hạnh đó. Tuy số tiền không nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu sót mỗi khi có người tới xin mà tôi không có chút gì đặt vào tay họ. Mặc dù vậy tôi vẫn chú ý tới một người đàn ông mù mắt trạc ngoài 30 tuổi, có lẽ anh bị mù sau khi bị đậu mùa vì mặt anh có nhiều vết sẹo của chứng bệnh quái ác này.

                  Anh có lối ca Vọng Cổ rất hay và truyền cảm qua một máy khuếch đại âm thanh rất cũ kỹ nhưng tiếng kêu còn tốt.  Có một em bé gái độ chừng 9 hoặc10 tuổi, hay lớn hơn một chút đi trước cột sợi dây ngang người rồi cột vào thắt lưng cho anh đi theo vì lúc nào hai tay anh cũng bận đánh đàn ghi-ta. Cô bé này lúc nào cũng lạnh lùng và câm lặng như người bằng sáp, cứ lững thững bước đi dẫn người đàn ông theo sau, không bao giờ thấy em biểu lộ một nét gì khác biệt dù vui hay buồn trên khuôn mặt lọ lem mà tôi nghĩ là em cố ý để như vậy.

                  Tôi không biết em bé đó là gì của người đàn ông, nhưng cách cô bé lúc nào cũng thản nhiên và gương mặt không lúc nào bày tỏ cảm xúc đó tôi nghĩ chắc em đã chịu đựng cuộc sống bất hạnh này lâu ngày rồi nên trở thành chai lì. Nghĩ như vậy tôi càng thương em bé này nhiều hơn. Và dĩ nhiên lần nào tôi cũng dành một số tiền lẻ khá hơn cho người hành khất và em bé này. Ngoài sự thương cảm của tôi về hoàn cảnh hai người, tôi còn rất thích các bài ca Vọng Cổ của anh nữa. Có mấy lần đang nghe anh hát dở dang một bản Vọng Cổ thấm thía mà đã tới nơi, làm tôi tiếc rẻ và cảm thấy sao hôm nay chiếc bắc này chạy quá nhanh.

                  Lúc đó khung cảnh trên bắc rất ồn ào. Hình như hôm nay khách đi đường nhiều hơn mọi ngày, đa số là những người đàn bà tay xách túi cói căng phồng và nặng trĩu. Chung quanh tôi người ta cười nói huyên thuyên. Tiếng những người rao bán hàng rong nghe lanh lảnh, tiếng những người ăn xin ca hát có đệm nhạc điếc tai, cùng với tiếng máy của chiếc bắc đang chạy. Tất cả các loại âm thanh đó trộn lẫn vào nhau làm thành một bản hợp tấu quá ồn ào lấn át tiếng hát trong máy khuếch âm của người hành khất mù và em bé gái đang tiến dần tới chỗ tôi đang ngồi.

                  Nãy giờ, tôi chỉ mong anh tới, một phần vì tôi đã quen gặp anh trên bắc này, phần khác, hôm nay tâm trạng tôi quá buồn và muốn được thưởng thức một điệu Vọng Cổ của anh với làn hơi mà tôi rất mến chuộng. Tôi thủ sẵn số tiền lẻ nhiều gấp đôi cho anh vì tôi muốn giúp anh một lần cuối, không biết tôi còn có dịp quay lại trên chiếc bắc với người hành khất với em bé gái dẩn đường quen thuộc nầy nữa hay không.

                  Chợt tôi nghe từ xa vọng lại một giọng hát gì rất lạ và chói tai, không phải là những bài Vọng Cổ truyền cảm tôi vẫn nghe anh hát trước giờ. Tôi ngạc nhiên, lắng tai nghe và thất kinh khi nghe một giọng oang oang từ chiếc máy khuếch âm mở to hết cỡ của anh, một câu hát Vọng Cổ làm tôi sửng sốt: “Có phải cuộc chiến tranh... ơơ này, là do bọn Mỹ... ơ ngụy... ơ gây ra... ơờ ơ ờ ơ...”.  Tôi đột nhiên nổi giận khi nghe câu Vọng Cổ sặc mùi chính trị đó. Tôi thả tay ra bỏ lại hết số tiền vào túi, đứng bật dậy như một cái máy, vội bước ra xa để khỏi phải nghe thêm những gì mà người nghệ sĩ mù tiếp tục gân cổ lên gào thét. Vừa bước đi tôi vừa rủa tầm: “Cái anh chàng dại dột, ngu ơi là ngu, ăn xin không lo ăn xin còn ở đó mà cách mạng!”

                  Quá thất vọng và cảm thấy bực bội, tôi lần bước xuống tầng dưới và đi dần ra phía trước mũi chiếc bắc, nơi không có mái che. Tôi cúi người khoanh tay tì lên lan can và nhìn ra xa với tâm trạng buồn phiền và bực tức. Một nỗi bực bội đột nhiên chụp lấy tôi mà tôi không kịp có thì giờ suy nghĩ tại sao mình buồn phiền và bực tức như vậy.

                  Lúc này, chiếc bắc đang chạy ngang Cồn Phụng, chỗ Ông Đạo Dừa làm căn cứ Thánh Địa với nhiều hình thức kiến trúc lạ mắt, đủ các loại màu sắc mà một thời đã thu hút nhiều người hiếu kỳ tới đây. Bây giờ cơ ngơi vẫn còn đó nhưng nghe nói hình như Ông Đạo Dừa, tức kỹ sư Nguyễn Thành Nam, không còn ở đó nữa. Tôi nghe nói là cộng sản đã bắt ông, nhưng thực hư thế nào tôi không biết rõ, chỉ biết là từ ngày cộng sản chiếm miền Nam, Cồn Phụng trở nên hoang vắng.
                  Tôi buồn và có cảm giác người ta đã làm nhục nghệ thuật Vọng Cổ tinh hoa của một bộ môn nghệ thuật mà tôi yêu thích. Tôi nghe kể lại, loại âm nhạc này ra đời mấy chục năm về trước bắt đầu bằng bản nhạc có tên là “Dạ Cổ Hoài Lang” của nghệ sĩ Sáu Lầu. Bản nhạc theo thể loại âm nhạc đặc biệt này ngay lúc đầu đã được nhiều người ưa thích. Về sau điệu nhạc ấy được gọi trại đi là “Vọng Cổ “ chủ yếu là dùng diễn tả tâm trạng yêu thương chan chứa tình cảm của người dân miền Nam. Nhạc Vọng Cổ đã phát triển mạnh một thời ở miền Nam với những đoàn hát Cải Lương nổi tiếng, đã làm thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của miền Nam. Bộ môn Vọng Cổ cũng giúp cho một số nghệ sĩ có tên tuổi sống với thời gian như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Hùng Cường, Út Bạch Lan,  Hương Lan, Thành Được, Chí Tâm ...và nhiều tên tuổi khác. Bây giờ khi thời cuộc đổi thay, người ta bắt thể loại âm nhạc này phục vụ cho một thứ chính trị rẻ tiền, loại chính trị nay còn mai mất. Lối ca Vọng Cổ được ra đời không phải để làm công việc đó. Nó là loại âm nhạc mang lại tình yêu thương sưởi ấm tình dân tộc nhưng bây giờ người ta dùng nó để cổ võ cho sự hận thù giữa người với người. Tôi cảm thấy đau đớn khi một phần trong sự nghiệp văn hóa của dân tộc bị những kẻ mù quáng vì tham vọng chính trị lạm dụng và xúc phạm.
                   

                  Những giá trị tinh thần
                   
                  Trong cơn tức bực đó, tôi liên tưởng tới sự kiện khi cộng sản chiếm được miền Nam, họ đã vội áp đặt lên đầu lên cổ người dân miền Nam một cách thô bạo qua việc đổi tên thành phố Sài Gòn thân yêu trong tim người dân miền Nam bằng một cái tên sặc mùi chính trị, mà trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, có biết bao nhiêu người miền Nam phải giật nẩy người khi nghe tới cái tên đó! Những con người chính trị trong một cơn say chiến thắng nào đó, đã nhẫn tâm dày vò tâm tư thầm kín của người dân phía thua trận, bằng cách cướp đi những giá trị tinh thần mà họ yêu thương ấp ủ.

                  Có những thứ thuộc về giá trị tinh thần của dân tộc mà không một thể chế chính trị nào có thể cướp đi được. Tôi mường tượng ra, nếu trong một tương lai xa gần nào đó, khi chủ nghĩa cộng sản không còn ngự trị trên quê hương tôi, nếu chẳng may có một thể chế chính trị mê muội nào tiếp theo sau, lại đem đổi tên Hà Nội thân yêu trong lòng tôi thành ra thành phố Nguyễn Văn A hoặc thành phố Nguyễn Văn B... thì còn gì là giá trị tinh thần của Chiếc Nôi Dân Tộc? Lúc đó, sẽ có biết bao nhiêu người Việt Nam đau buồn và cảm thấy bị xúc phạm, và chắc chắn là có tôi trong số những người đó. Tôi vẫn luôn xác tín rằng thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.

                  Còn chuyện khác nữa, tôi nhớ khi người cộng sản vừa cướp được chính quyền ở miền Nam, họ lại cướp đi luôn... chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam! Tội nghiệp cho chiếc áo dài thướt tha là nét duyên dáng truyền thống của dân tộc. Nó được thành hình qua hàng ngàn năm của lịch sử và văn hóa để tô điểm cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam, bây giờ, lại bị những con người Việt Nam chỉ biết nhắm vào giá trị nhất thời của chính trị lôi nó ra hành quyết! Chiếc áo dài tha thướt, biểu tượng cho nét độc đáo của văn hóa Việt Nam, nói lên tính chất dịu hiền của người con gái Việt Nam đó, nó đâu có tội tình gì? Nó đâu có phản động? Nó đâu có là “tàn dư của Mỹ Ngụy”? Nó đâu có dự phần vào những hoạt động "phản cách mạng”?! Vậy tại sao người ta lại cố tình bức tử nó?

                  Tôi ước mong những người nào đã làm công việc phản văn hóa đó, đọc được những dòng này và cảm thương cho tâm trạng đau buồn của tôi khi phải nhìn các cô giáo, các nữ sinh, các nữ công chức từ sau tháng 4 năm 1975, mặc những chiếc áo ngắn cũn cỡn trên người lúc đi dạy, đi học, đi làm... Tôi thật đau lòng xót dạ khi nhìn cảnh đó và càng đau xót hơn nữa cho số phận dân tộc tôi bị những thế lực chính trị nhất thời làm khổ đủ mọi cách. Chừng nào dân tộc tôi mới thoát được cảnh này? Chừng nào dân tộc tôi mới có được những nhà chính trị có đủ tầm vóc và khôn ngoan để tiếp nối nhau xây đắp cho tinh thần và văn hóa của dân tộc?

                  Tôi đau lòng khi nhớ lại ngay trong miền Nam trước kia cũng đã xảy ra các chuyện như vậy. Lúc đó, ở miền Nam sau một cuộc đảo chánh, hoặc cuộc chỉnh lý và một chính phủ mới lên cầm quyền là vội phá bỏ hết những gì thuộc về ”chế độc cũ”! Bất cứ thứ gì thuộc về chế độ cũ cũng sai, cũng trái, chỉ có “chế độ mới”là đúng là đẹp! Nhưng điều buồn cười nhất là người ta lại quên đi bất cứ “chế độ mới” nào rồi cũng sẽ trở thành “chế độ cũ” trong tiến trình hướng về tương lai của dân tộc. Chế độ chính trị chỉ là chiếc áo mặc bên ngoài, còn thân thể dân tộc sẽ phát triển và tăng trưởng không ngừng! Vì thế, ở mỗi giai đoạn của lịch sử, thân thể dân tộc sẽ có một chiếc áo mới vừa tầm, vừa khổ. Những chiếc áo cũ và chật chội sẽ được cởi ra, xếp vào ngăn kéo của lịch sử.

                  Nhắc tới vấn đề này, tự nhiên tôi chực mỉm cười khi nhớ lại một khẩu hiệu, không hiểu con người nào đã có can đảm viết ra và cho phổ biến sau khi người cộng sản chiếm miền Nam: “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa !”. Câu này sai tự căn bản! Từ lâu nay, tôi không thấy ai có ý kiến gì về khẩu hiệu này, tôi nghĩ một phần người dân muốn được yên thân, phần khác, có lẽ ai cũng biết câu nói đó quá tồi, không đáng để bình phẩm. Trong cơn sốt thời cuộc, vì say men chiến thắng, có người đã “phát biểu” đại câu đó và không cần lý luận rằng, nếu khẩu hiệu đó là đúng thì trước khi có xã hội chủ nghĩa hẳn là người Việt Nam không có ai yêu nước? Và nhất là sau khi xã hội chủ nghĩa qua đi rồi thì người dân Việt Nam muốn yêu nước, phải yêu cái gì? Người nói lên câu đó, chẳng khác chi một anh thợ may tồi, vì thiếu vải đã may một chiếc áo quá chật. Để giải quyết vấn đề, anh ta đã xẻo thịt, cắt tay người mặc áo, làm sao nhét cho vừa chiếc áo anh đã may! Thật là hài hước! Thật là một thứ trò hề chính trị rẽ tiền.
                   
                   
                  Việt Nam đau thương
                   
                  Trong lúc đứng cúi người, khoanh tay đặt lên thành ống sắt làm rào cản trên chiếc bắc, nhìn xuống đám bọt nước dưới lườn bị hất tung lên rồi tan biến vào dòng nước đầy phù sa đỏ ngầu của dòng Tiền Giang. Hết đợt bọt sóng này tới đợt khác, nối tiếp nhau nhảy múa bên thành sắt của chiếc bắc làm tôi nhớ tới sự biến thiên của thời cuộc. Tôi tự hỏi, những bọt sóng bắn tung tóe nhảy chồm lên mặt nước trông thật đẹp mắt đó, khi chiếc bắc lướt qua rồi, nó sẽ đi về đâu? Nếu không có chiếc bắc này chạy qua, thì đời sống của những bọt nước đó sẽ là gì? Tự nhiên, tôi hình dung chiếc bắc này như con quái vật khổng lồ bằng thép lạnh, từ đâu chồm tới,  đang quấy động, cắt xén và làm xáo trộn cuộc sống yên hàn của những chiếc bọt nước đang bình thản ngủ yên trong lòng sông dịu hiền.
                  Từ suy nghĩ mông lung đó, tôi nhớ tới hoàn cảnh dân tộc Việt Nam của tôi. Với bản chất hiền hòa và siêng năng cần mẫn, một nhóm người khởi nguồn từ châu thổ sông Hồng ở miền Bắc, qua bao thế hệ nối tiếp, đã đổ mồ hôi và công sức lấn dần về phương Nam, trên dải đất hình cong chữ S, chạy dài hơn hai ngàn cây số, cặp theo bờ biển Đông. Đó là hình thể nước tôi, trên đó, dân tộc tôi quây quần bên nhau và đầy tràn sức sống. Mồ hôi do công sức cần cù của bao thế hệ dân tộc đi trước đã đổ ra, như dòng nước Cửu Long mang theo phù sa bồi đắp cho ruộng đồng trở nên phì nhiêu màu mỡ. Nhưng dân tộc hiếu hòa đó, qua bao nhiêu giai đoạn của lịch sử, đã nhiều lần bị xáo trộn, vỡ tung như con tàu sắt đang chà đạp, cắt xén, phá vỡ sự yên hàn của dòng nước chảy ngược dưới chân tôi lúc này.

                  Từ ngày vừa có trí khôn, tôi đã chứng kiến chiến tranh kéo theo biết bao nhiêu cảnh khổ nạn cho dân tộc tôi. Cho tới lúc này, sau hơn ba mươi năm, tôi chưa lúc nào thấy dân tộc tôi được hạnh phúc. Vừa Pháp đô hộ, vừa Nhật chiếm đóng, cộng thêm với sự hà khắc của các thế lực chính trị ở các phe, nạn cường hào ác bá và ngay cả một số giáo sĩ cũng lợi dụng uy quyền tôn giáo và dựa thế chính quyền để đè đầu, cỡi cổ dân chúng. Nhưng nặng nề nhất vẫn là chiến tranh, là bom đạn, là nhà tan cửa nát, là tản cư, là máu đổ thịt rơi... Những người trực tiếp tham gia cuộc chiến ở các phe đối nghịch không nói làm gì. Còn biết bao thường dân vô tội, người già cả và trẻ thơ cũng đã chết oan. Bom đạn vô tình không chừa, không tránh một ai.

                  Người nằm xuống đã yên phận hoàn thành kiếp sống, một số đông nạn nhân sống sót chịu cảnh tật nguyền, phải kéo lê cuộc sống bên lề xã hội cho đến mãn đời. Tôi thương biết bao cho những thương phế binh của cả hai phe lâm chiến. Cuộc chiến tương tàn đã cướp đi một phần thân thể và khả năng con người của họ. Vì sinh ra vào thời tao loạn, họ bị bắt buộc phải trở thành chiếc máy giết người mà một số đông trong họ không biết lý do tại sao. Rồi một viên đạn, một mảnh bom vô tình cắm vào thân thể, đã biến họ thành chiếc máy hư và bị vất vào xó của xã hội. Từ đó, họ bị mọi người lãng quên. Thậm chí còn bị khinh dể vì thân thể họ tật nguyền, mất khả năng về nhiều phương diện. Có người mất luôn khả năng tự nuôi sống mình, phải trông cậy vào lòng nhân đạo của người khác trong kiếp sống của một người hành khất ăn xin độ nhật, trên bắc, trên bến xe, trước cửa chợ và các nơi dễ tìm gặp lòng nhân đạo như cửa nhà chùa, nhà thờ!
                  Cũng giống như dòng sông, có những lúc bị tàu thuyền khuấy động, cá nhân tôi cũng như một bọt biển phù du. Từ ngày còn bé, lúc vừa có trí khôn, tôi đã sống với chiến tranh, với chém giết, với tiếng bom đạn, và đặc biệt là với những xác người chết. Có người bị chặt đầu, có xác bị mổ bụng thả trôi sông. Vừa biết nhận diện cuộc đời, tôi đã thấy người ngoại quốc, da trắng có, da đen có, họ đi rảo ruông một cách nghênh ngang và hách dịch trên quê hương tôi. Có điều tôi ghi nhận rất sớm là không hiểu tại làm sao người Việt Nam của tôi lại có những người lúc nào cũng rình mò tìm cách giết nhau, và họ giết nhau để làm gì? Họ giết nhau để được ích lợi gì? Những thắc mắc đó tôi không thể nào giải đáp được, cho tới khi lớn khôn, tôi hiểu là người Việt của tôi giết nhau, chủ yếu chỉ vì bất đồng tư tưởng chính trị, mỗi người theo một chủ thuyết khác nhau. Thậm chí, còn có thảm cảnh ngay trong một gia đình, anh em giết nhau, cha con tiêu diệt nhau, chỉ vì tôn thờ khác chủ nghĩa.

                  Nhưng phải đợi tới khi có đủ sự hiểu biết về thời cuộc, tôi mới ghi nhận được hết sự tác hại của những con tàu quái vật, quậy tung dòng nước êm đềm của dòng sông dân tộc Việt Nam. Lúc tôi hiểu biết cuộc đời là lúc đất nước và dân tộc tôi bị chia  cắt làm đôi ở vĩ tuyến 17 thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Miền Bắc tôn thờ chủ nghĩa cộng sản, miền Nam theo chủ nghĩa tự do, và cứ thế, người ta lao đầu vào giết nhau một cách điên cuồng, không khoan nhượng!

                  Điều vô cùng đau đớn hơn, là người Việt Nam tôi không ai đủ khả năng để nghĩ ra các loại chủ thuyết đó. Có người đi vay mượn được ở xứ nào rồi mang về nhà cho dân tộc dùng và coi đó như là một sự phát hiện vĩ đại. Tập đoàn những kẻ đi vay mượn này, sau khi cướp được chính quyền, có thế lực trong tay, họ bắt tất cả dân tộc Việt Nam phải chấp nhận và tôn thờ chủ thuyết có cái tên rất lạ tai. Ai cưỡng lại hoặc tỏ ra không phù hợp với chủ thuyết đó là đồng nghĩa với tội không yêu nước! Và kẻ nào không yêu nước, sẽ không đáng sống và không có quyền sống!

                  Điều đau lòng hơn nữa là những ông chủ cho vay mượn loại chủ thuyết đó lại rất đại lượng. Họ sẵn sàng cho mượn khá nhiều thứ. Trước tiên, họ cho mượn một cẩm nang nhì nhằng những lý luận khó hiểu để giải tích công dụng của chủ thuyết như là một thần dược vĩ đại nhất của trí tuệ con người có thể nghĩ ra để đưa nhân loại tới một  tương lai huy hoàng. Mặt đất sẽ trở thành một thứ thiên đường hạ giới khi chủ thuyết đó ngự trị hoàn toàn trên các dân tộc. Khi đó, con người sẽ sống trong thế giới đại đồng, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, không bao giờ có cảnh người bóc lột người. Cửa nhà không cần khóa, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Vì tính cách ưu việt của chủ thuyết đó, nên nhân loại bắt buộc phải đạt cho bằng được mục tiêu. Thế hệ này chưa được thì các thế hệ nối tiếp phải hoàn thành. Nếu cần thì hy sinh đời bố củng cố đời con. Và người ta đã làm như vậy.
                   
                   
                  Cuộc cờ người
                   
                  Đồng thời với phần chữ nghĩa và lý luận, các ông chủ hào hiệp kia còn cho mượn luôn bom, đạn, súng ống, đạn dược, xe tăng, máy bay, tàu chiến, hỏa tiễn, tiền bạc và tất cả những gì có thể cho mượn được, kể cả người,để dân tộc Việt Nam có đủ phương tiện giết nhau, giết càng nhiều càng tốt. Khi hai bên đã đồng cân, đồng sức thì cuộc cờ giao đấu bắt đầu.  Võ đài là mảnh đất hình cong chữ S quê hương tôi.

                  Những người có quyền thế chơi cờ không cần có mặt tại chiến trường. Họ ngồi ở tận đâu đâu để điều khiển những quân cờ người qua phương tiện thông tin hiện đại. Trong các tay chhoi cờ, có những người cao to, tóc hoe mũi nhọn, ngồi tận bên kia bờ đại dương, trong căn phòng có cờ nhiều sao và sọc, trong tòa nhà sơn màu trắng gọi là Bạch Cung. Có những người thấp lùn, mặc áo cổ cao, ngồi trong căn phòng đàng sau Thiên An Môn, cách Hà Nội không xa. Có những người ngồi tận xứ Moscow giá lạnh, trong căn phòng chưng đầy cờ đỏ búa liềm. Những tay chơi cờ người này vừa uống sâm-banh, miệng ngậm xì-gà, vừa đấu trí trong cuộc cờ người. Những năm tháng kéo dài trong cuộc chiến trên quê hương tôi đã chứng tỏ họ là những tay chơi cờ có máu lạnh. Họ thí quân không tiếc tay, một phần vì thích cảm giác mạnh, phần khác, vì họ biết dân tộc Việt Nam của tôi có tỷ lệ sinh sản khá cao!

                  Những năm đó cũng là cơ hội ngàn năm một thuở cho những kỹ sư chế tạo vũ khí ở các nước mang ra thí nghiệm trên mảnh đất quê hương của tôi. Đau đớn thay! Dân tộc tôi chưa có khả năng làm được một viên đạn, cho dù là viên đạn bằng chì để bắn chim. Thế mà thân thể Mẹ Việt Nam của tôi, từ mấy chục năm qua, đã hứng chịu không biết là bao nhiêu trăm ngàn, bao nhiêu triệu tấn bom đạn đủ loại và đủ các nhãn hiệu của ngoại bang!

                  Thực ra, các cường quốc có dại gì mà không mang ra dùng thử các loại vũ khí mới ở một đất nước xa xôi là vùng oanh kích tự do và vô tội vạ như xứ sở của tôi. Người ta đã dùng thịt, máu và mạng sống của đồng bào tôi để trắc nghiệm và đo lường tầm sát hại của các loại vũ khí mới. Bom đạn đó, chất độc hóa học màu da cam đó, cho dù có giết chết hàng ngàn, hoặc hàng chục, hàng trăm ngàn hoặc hàng triệu đồng bào tôi trong lúc này và gây hậu quả tàn khốc, tật nguyền dị dạng cho nhiều thế hệ dân tộc tôi về sau, chưa chắc đã làm họ quan tâm cho bằng sự kiện con chó trong nhà họ vô ý  ăn hóc phải xương! Tôi đau lòng chảy nước mắt ra và cổ họng tôi bị tắt nghẹn khi nhắc tới chuyện này.
                  Trong khi đó, về phía những người Việt Nam với nhau, tình cảnh cũng chẳng khá gì hơn. Bom đạn ngoại bang là những vật vô tri vô giác và rất vô tình đã giết hại đồng bào mình đã đành, nhưng đau đớn hơn nữa là nạn người Việt giết người Việt không gớm tay. Khi bị “con ma” chủ nghĩa ngoại lai ám, nhiều người Việt Nam đã trở thành những con ác thú cho đến đổi cắt cổ nhau, mổ bụng nhau, ăn gan, uống máu nhau, vợ chồng đấu tố nhau, con cái đấu tố cha mẹ!

                  Thậm chí, người ta dùng xác chết để làm quà tặng nhau trong dịp đặc biệt mỗi năm như ngày 19 tháng 5, là ngày sinh của ông Hồ Chí Minh. Ngày đó, ở miền Nam, không biết là bao nhiêu những vụ giật mìn xe đò, xe lam  giết hại thường dân vô tội để làm quà sinh nhật cho ông. Tôi không nghĩ là ông Hồ Chí Minh thực sự muốn những loại quà cáp đầy máu me và xác chết dân lành này, nhưng những kẻ điên cuồng dưới trướng ông đã làm như vậy. Tôi nhớ lại mà lợm giọng những lần đi xe ngang qua những đống sắt vụn cong queo còn lại của các xe đò hoặc xe lam bị Việt cộng giật mìn, còn nặng mùi thối tha của thịt người mấy ngày sau đó. Tôi phải lấy khăn tay bịt mũi vì mùi thối của xương thịt đồng bào tôi bị chính đồng bào tôi giết ngay trên quê hương của tôi.

                  Để đạt tới mục đích làm sao cho chủ nghĩa ngoại lai được toàn trị, người ta không từ chối một hành động ác nhân thất đức nào. Kể cả việc chà đạp lên truyền thống thiêng liêng nhất của dân tộc. Tôi phải đau lòng nhớ lại cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của Việt cộng nhằm chiếm các tỉnh miền Nam. Tôi không có can đảm nhắc lại những hậu quả ghê rợn, tan hoang của thảm cảnh Tết Mậu Thân. Tôi không dám nhớ lại hình ảnh của hàng chục ngàn thường dân vô tội bị trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại cố đô Huế. Hình ảnh đó quá sức chịu đựng của tôi. Ai cũng biết là làm gì có nhân đạo trong chiến tranh, nên việc chôn sống người và cảnh nhà tan cửa nát cũng là hậu quả tự nhiên của cuộc chiến tương tàn trên quê hương, tôi không muốn nói chuyện đó.
                  Tôi chỉ muốn nói rằng, những người Việt Nam chủ trương cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đó, đã chà đạp lên ngày thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam  là ngày TẾT, tôi xin được viết bằng chữ hoa in đậm. Họ đã biến ngày TẾT của Dân Tộc thành ra ngày ĐẠI TANG  của Dân Tộc. Trong lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc Việt Nam, ngày TẾT được người Việt Nam coi là ngày thiêng, ngày ĐẠI PHÚC của Dân Tộc. Chỉ có TẾT MẬU THÂN 1968, có những kẻ vô tâm đã biến nó thành ĐẠI HỌA của Dân Tộc.   Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ dành cho những con người nàyï sự  phán quyết cuối cùng.

                  Tôi muốn dùng chính máu trong tim tôi để viết lên câu này:

                  “TÔI CẦU MONG TẾT MẬU THÂN 1968 LÀ TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM. TÔI CẦU MONG TỪ NAY VÀ QUA MUÔN THẾ HỆ VỀ SAU, DÂN TỘC TÔI PHẢI TÔN TRỌNG NGÀY TẾT LÀ NGÀY THIÊNG LIÊNG, LÀ NGÀY ĐẠI PHÚC CỦA DÂN TỘC. TÔI MONG DÂN TỘC TÔI ĐỦ SÁNG SUỐT ĐỂ NHẬN BIẾT RẰNG , THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ NÀO RỒI CŨNG SẼ QUA ĐI, CHỈ CÓ DÂN TỘC LÀ TRƯỜNG TỒN"

                  Tôi khẳng định, bất cứ một chế độ nào chà đạp lên hồn thiêng sông núi và giá trị cổ truyền của Dân Tộc, thì không bao giờ có thể mang lại cái gì tốt đẹp cho Dân Tộc được. Loại chế độ đó là kẻ thù của Dân Tộc. Bao lâu loại chế độ phi dân tộc đó còn tồn tại là bấy lâu Dân Tộc còn điêu linh tan nát.

                         Từ suy nghĩ này tôi quay ra bực anh chàng ăn xin lúc nãy. Sao anh lại nhẹ dạ chạy theo sự phù du của chính trị để nhai lại những câu hát rẻ tiền mà đánh mất sự quý mến của bao nhiêu người đã từng nghe anh hát và giúp đỡ anh trên chiếc bắc này trong nhiều năm qua. Tôi đứng lặng yên, nhìn dòng nước mênh mong của dòng Tiền Giang, chép miệng nói một mình: “Cơn sốt thời cuộc lúc này đang dâng cao quá, không biết bao giờ nó mới giảm nhiệt độ.” Và cũng vì cơn sốt thời cuộc đó mà bây giờ tôi  phải đứng đây, và chưa biết chuyện gì đang chờ đợi tôi trước mắt.

                  Tỉnh cơn mê
                   
                  Đứng nhìn trời, nhìn nước một lúc, tôi cảm thấy đỡ căng thẳng, mùi nước sông và làn gió nhẹ mang theo hơi nước lạnh làm tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cho làn khí trong lành ngập tràn hai buồng phổi, và lui lại lần theo cầu thang leo lên từng trên và ngồi nơi một ghế ngay cạnh đó, định bụng là để chốc nữa xuống cho dễ. Lúc đó tôi tự nhủ: “Phải bình tĩnh trước những biến động, rồi cái gì cũng sẽ qua đi, nhưng phải có thời gian cho mỗi việc”. Tôi nhớ lại thời gian ở họ đạo La Mã, lúc đầu, cơn sốt thời cuộc cũng bốc lên như sóng cồn, nhưng sau một thời gian ngắn cũng xẹp đi. Nghĩ như vậy nên tôi thấy yên tâm và tự nhiên thương anh chàng ăn xin lúc nãy đã hát bài Vọng Cổ “cách mạng”. Tôi nghĩ rằng, chắc anh ta không cố ý chạy theo thời cuộc, nhưng biết đâu loại bài hát có lời lẽ như vậy sẽ giúp anh kiếm ăn dễ hơn trong lúc này.

                  Ngồi một chốc tôi đã thấy hàng quán phía cầu bắc Mỹ Tho dần dần hiện lên rõ nét.

                  Hành khách bắt đầu nhốn nháo và đứng lên khi chiếc bắc giảm tốc độ và chuẩn bị vào bến. Vừa định bước nhanh xuống tầng dưới để lấy xe Honda lên bờ, tôi chợt nhớ ra có điều gì mình chưa làm. Thì ra, tôi nhớ tới số tiền định cho người ăn xin có em bé gái dẩn dường, nhưng lúc nãy vì bực mình, tôi đã bỏ lại vào túi. Tôi phải đến cho anh trước khi lên bờ.

                  Lúc này, luồng hành khách đông đảo chen nhau đang nhốn nháo bắt đầu dồn về phía đầu cầu thang, trong khi tôi len ngược trở lại về phía người ăn xin và cô bé đang ngồi ủ rũ trên một chiếc băng trống ở gần đầu kia. Anh ta chỉ hát và xin tiền trong lúc bắc đang chạy, còn lúc này không còn ai để ý tới anh, tới giọng hát của anh cũng như hoàn cảnh của anh. Tôi bước tới nhìn hai người và cảm thấy thương tâm, nhất là khi nhìn vào chiếc rá nhỏ đan bằng mây cô bé đang cầm trong tay để xin tiền, tôi thấy nó rỗng tuếch, chỉ lèo tèo vài tiền lẻ. Tôi vội cho tay vào túi quần vơ hết số tiền lẻ lúc nãy đặt vào chiếc rá.

                  Cô bé lọ lem ngoái đầu lại trợn tròn đôi mắt to và đen ngước nhìn tôi thật lâu. Lần đầu tiên, tôi thấy cô bé biểu lộ thái độ ngạc nhiên trên mặt. Tôi biết không phải em ngạc nhiên về số tiền khá lớn mà tôi vừa đặt vào chiếc rá, mà có lẽ ngạc nhiên vì tại sao lại có ông khách phá lệ cho tiền trong lúc bắc đang cập bến như thế này. Tôi cảm thấy chưa yên tâm, và bằng một thái độ chuộc lỗi, tôi đứng lại, lần tay móc bóp ở túi quần sau, lấy ra một số tiền giấy khá lớn và đứng tại chỗ đếm. Tôi vô ý đứng chặn giữa lối đi hẹp của hành khách đang hối hả tiến tới cầu thang. Một bà khá lớn tuổi và mập mạp bị cản đường bất ngờ, dùng cùi chỏ hẩy tôi sang một bên, miệng càu nhàu: “Cái ông này vô duyên, tự dưng đứng cản đường người ta!”. Tôi vội né sang một bên, ném vội số tiền vào rá của em bé rồi bước theo đoàn người, vừa đi vừa cười thầm:“ Mình vô duyên thật, tự dưng lại đứng cản đường người ta!”
                   
                   
                  Thành phố Mỹ Tho
                   
                  Hành khách đi phà đông hơn tôi tưởng, lúc nãy tôi thấy họ ngồi đầy cả hai tầng của chiếc bắc, lúc này tôi thấy càng đông hơn. Đoàn người từ cầu bắc bước lên đông như trẩy hội. Tôi biết đa số trong đó là những người buôn bán vì trên tay người nào cũng có giỏ xách căng phồng mà tôi không biết họ đựng gì bên trong. Điều tôi biết rõ là lúc bấy giờ, có rất nhiều người đi buôn đủ các loại mặt hàng. Thứ gì cũng có thể bán và mua được. Nhất là thuốc tây, vải vóc và các loại đồ dùng trong nhà. Lúc tôi còn ở họ đạo La Mã, có mấy bà, mấy cô trong họ đạo cũng đi buôn bán kiểu này và họ kể tôi nghe một ngàn lẻ một chuyện về “mặt trận” đi buôn trong những tháng đầu sau khi cộng sản vào miền Nam. Họ kể về mánh khóe những con buôn qua mặt các trạm kiểm soát, rồi trạm kiểm soát gài bẫy bắt con buôn. Rồi con buôn tìm cách lòi tiền để được thả ra, rồi công an tìm “mánh” bắt họ lại để tiếp tục làm tiền. Thôi thì hàng trăm hàng ngàn loại mánh khóe, ai có ngón nào đưa ra sử dụng ngón đó.

                  Có lúc, tôi buồn cười nghĩ quẩn, có lẽ nhờ có thời thế này mà dân tộc Việt Nam tự nhiên lại ‘‘khôn’’ ra, vì lúc nào đầu óc cũng làm việc và làm việc không ngừng để tìm cách lừa đảo, mánh mung, dối gạt, phỉnh phờ và  nói dối. Không dối gạt nhau thì không có thể nào sống được! Nếu định luật về sự tiến hóa có cơ sở thì dân tộc Việt Nam, nếu không có sự thay đổi nào khác hơn, càng về lâu về dài, sẽ phát triển đến mức tối đa đầu óc gian manh lừa đảo do tích lũy di truyền của thế hệ này để lại cho con cháu. Càng nghĩ, tôi càng đau lòng cho số phận không may của dân tộc tôi đã phải rơi vào một giai đoạn lịch sử đen tối, trong đó, người ngay thẳng và lương thiện không có chỗ để sống.

                  Sau khi lên bờ, thấy còn sớm, tôi cỡi Honda đi một vòng thành phố Mỹ Tho, nơi mà tôi đã một thời đi học ở đây. Tôi lượn xe  xuống cầu tàu, ngang vườn hoa Lạc Hồng, bọc qua đường Trưng Trắc ở bờ sông, chạy  qua cầu sắt quay mà ngày còn đi học tôi hay đi qua. Thành phố Mỹ Tho cũng không đổi khác nhiều sau một năm dưới chế độ mới. Chỉ có khác là bộ mặt thành phố bây giờ đượm vẻ u buồn và dân chúng đang bước đi đầu cúi gầm âm thầm lặng lẽ. Khi rảo qua các phố, tôi để ý thấy một số tên đường và trường học đã được đổi tên mới, những cái tên rất lạ tai như  Trừ Văn Thố, Mai Thị Non, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi... Cái thiếu sót của tôi là lu bu nhiều chuyện quá nên chưa có giờ tìm đọc tiểu sử các vị anh hùng có tên lạ tai này để biết sự nghiệp họ đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam như thế nào hầu bày tỏ lòng tôn kính với họ cho đúng mức.

                  Khi chạy xe trên đường Hùng Vương ngang qua trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, tôi sực nhớ lại cũng nơi này, năm 1961 lúc tôi học ở Mỹ Tho, có lần tôi suýt bị mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến hốt lên xe bít bùng trong một buổi sáng tôi cùng anh bạn tới đây tìm một vị giáo sư. Không ngờ, hôm đó học sinh trong trường rải truyền đơn chống chính phủ Ngô Đình Diệm, và vị giáo sư mà người bạn tôi muốn tìm hình như có dính líu vào. Người bạn tôi bị bắt, tôi may mắn thoát được, vội về nhà cuốn gói chuồn ngay về Vĩnh Long.

                  Hơn một tháng sau, tôi mới dám trở lại Mỹ Tho, tìm gặp lại người bạn bị bắt lần đó. Tội nghiệp anh bạn, nước da anh xanh xao như tàu lá chuối và không đứng dậy nổi vì bị tra tấn quá nhiều sau 15 ngày bị nhốt ở Ty cảnh sát Định Tường. Thời đó, mật vụ của ông Ngô Đình Nhu do Bác sĩ Trần Kim Tuyến đứng đầu ra sức ruồng bắt và tra tấn những người chống chế độ gia đình trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hình ảnh những chiếc xe bít bùng cùng với những người công an chìm  đi lảng vảng trong các trường học, làm bọn học sinh chúng tôi khiếp đảm.
                   
                   
                  Đường xưa lối cũ
                   
                  Rời thành phố Mỹ Tho, tôi theo con đường tráng nhựa hai bên có những vườn mận sai trái dẫn ra ngã ba Trung Lương. Loại quả mộng nước, to cỡ như trứng gà, có vị vừa chua vừa ngọt, bên trong có mấy hạt bằng đầu ngón tay út, người Bắc gọi là quả roi, người Nam chúng tôi gọi là trái mận. Vùng này mận ngon có tiếng, chẳng những nhờ giống đặc biệt mà còn nhờ vào phong thổ của vùng đất bồi sông Tiền Giang nữa. Các hành khách trên xe, khi có dịp dừng lại một nơi nào gần đây, cũng thường mua một ít mận Trung Lương để thưởng thức hương vị của đặc sản vùng này.

                  Chạy không bao lâu đã tới ngã ba Trung Lương, nằm trên Quốc lộ 4, nối liền Sài Gòn với các tỉnh miền Tây trù phú của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi rẽ trái về hướng Vĩnh Long, gia đình tôi ở một làng quê thuộc quận Vũng Liêm trong tỉnh này.

                  Lúc này nắng đã lên cao, tôi đưa tay trái lên kéo quai chiếc nón ny-lon trên đầu cho thật chặt để khỏi bay. Đi xe gắn máy mà đội loại nón này khá bất tiện vì  rất dễ bị gió giật tung về phía sau, nhưng vì thời cuộc mà tôi phải dùng nó. Trước kia, khi đi xe gắn máy, tôi thường đội mũ lưỡi trai, rất gọn nhẹ, ôm sát vào đầu và không cần có quai dưới cằm. Mũ lưỡi trai vừa che được gió khỏi tạt vào mặt, vừa tránh được ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào mắt. Nhưng từ hôm tôi bị mấy anh du kích chận lại trên đường từ Bến Tre về giáo xứ La Mã, mạt sát tôi một hồi rồi giật cái kết “đồi trụy của thằng Kỳ” ném xuống đất, từ đó, tôi không còn đội loại kết "đồi trụy" nầy nữa, vì tôi không muốn những việc rắc rối không cần thiết xảy ra, trong khi cuộc đời tôi trong giai đoạn này tự nó đã có nhiều rắc rối với những người có quyền thế trong chế độ mới này.

                  Đoạn đường tráng nhựa trên Quốc lộ 4 này tôi đã đi lại nhiều lần, và đã ghi lại trong tôi rất nhiều kỷ niệm về nó. Nhớ lại mới vài năm trước đây, công binh Mỹ làm lại con đường nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây nầy, rất đẹp và rộng rãi. Một hãng thầu Mỹ có tên RMK-BRJ mà tôi cũng không biết viết tắt của những chữ gì, cũng đã xây dựng lại hai cây cầu quan trọng trên tuyến đường này là cầu Bến Lức và cầu Long An, trên đoạn đường từ Sài Gòn xuống ngã ba Trung Lương.

                  Từ một năm qua, khi về làm cha sở họ La Mã, tôi cũng có dịp đi lại trên đoạn đường này khá nhiều lần, nhưng không chú ý lắm về tình trạng của nó. Lần này, sau khi bánh xe bị sụp một ổ gà lớn, tôi giật mình và chợt nhận ra con đường bây giờ đã xuống cấp khá nặng. Thỉnh thoảng, có mấy ổ gà sâu trên mặt đường tráng nhựa, vài chỗ bị sụp lún xuống, tạo nên nhiều đường nứt, chỗ dài, chỗ ngắn, báo hiệu tình trạng hư hại nặng nề tiếp theo nếu không kịp thời tu bổ.  Sở dĩ con đường này bị sụp, một phần vì ở đây là vùng đất ruộng, được ủi lên để đắp làm móng làm đường, nên chân không chắc chắn như vùng đồi núi. Hơn nữa, trong thời chiến tranh, các loại xe tăng và xe có dây xích sắt chạy tự do trên lộ đã cày tróc nhựa trên mặt đường tại khá nhiều nơi. Theo tôi nhớ, từ ngày công binh Mỹ làm đường tới nay quảng 6 hay 7 năm rồi, nhưng chưa có lần nào con đường được tu bổ hoặc có dấu hiệu là sẽ được tu bổ.

                  Đoạn đường 150 cây số từ Sài Gòn tới Vĩnh Long có ba địa điểm đáng chú ý mà không một hành khách nào không biết qua, đó là cầu Bến Lức, cầu Long An và bắc Mỹ Thuận. Cũng từ các địa điểm đó lại có tình trạng “kẹt cầu” và “kẹt bắc”.
                  Việc kẹt bắc thì khỏi phải nói, vì đây là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long, xe cộ và người đi lại lúc nào cũng tấp nập, nên hệ thống bắc đưa xe qua con sông rất rộng là Mỹ Thuận, luôn luôn là một vấn đề nan giải và đầy trở ngại. Ngoài bắc Mỹ Thuận ra, còn những bắc khác sau khi qua khỏi tỉnh Vĩnh Long, như bắc Cần Thơ nối Vĩnh Long- Cần Thơ, bắc Vàm Cống nối Sa Đéc-Long Xuyên, và bắc Cao Lãnh đi từ Sa Đéc qua Kiến Phong, Cao Lãnh.

                  Riêng hai chữ “kẹt cầu”, có từ thời hai cây cầu sắt do người Pháp xây là cầu Bến Lức và cầu Long An. Hai cây cầu này có lối kiến trúc giống nhau, nhưng cầu Bến Lức dài hơn cầu Long An khá nhiều. Thời đó, cầu hẹp và yếu nên chỉ cho xe chạy một chiều. Vì xe bên nầy chạy thì bên kia phải dừng lại chờ, nên có tình trạng kẹt cầu. Kẹt cầu và kẹt bắc có nhiều bất tiện cho hành khách, nhưng lại có lợi cho nhiều người dân trong vùng, nhờ đó, họ có thể bán thức ăn, hoa quả... Những người ăn xin cũng kiếm sống được nhờ tình trạng ứ đọng giao thông này.

                  Riêng ở hai bên bờ của bắc Mỹ Thuận, cách Vĩnh Long 9 cây số, hàng quán rất sầm uất và nhiều người tới đây lập làng, làm ăn phát đạt, có người trở nên giàu có nhờ vào tình trạng kẹt bắc ở đó. Đây cũng là một triết lý về sự “tương đối” của cuộc đời, cái bất tiện của người này lại là cái may cho người khác! Cảnh kẹt cầu ở Long An và Bến Lức cũng giúp cho một số người buôn bán và ăn xin, nhưng không phát đạt lắm vì xe kẹt không lâu, chừng nửa tiếng là cùng, nên chỉ kịp buôn bán thổ sản gọn nhẹ như khóm, mận, mí ghim, hoặc thức ăn đơn giản như bánh mì thịt, cơm dĩa, nem chua....
                   
                   
                  Chuyện một chiếc cầu
                   
                  Vì lượng lưu thông quá lớn của xe cộ, hàng hóa và người trên Quốc lộ 4 này, nên mỗi khi gặp trở ngại lưu thông thì đúng là một thứ tai họa như thời gian cầu Bến Lức bị Việt cộng giật mìn phá sập. Trong những lần về quê, tôi phải đi qua đây và có dịp chứng kiến “tai họa” này của dân chúng đi đường. Lúc bình thường, khi cây cầu sắt dài nhất trên Quốc lộ 4 này còn đứng vững, đã có tình trạng kẹt cầu rồi, nói chi lúc nó bị giật sập xuống!

                  Cầu Bến Lức đứng vững để làm chức năng phục vụ xe cộ và hành khách đã lâu lắm rồi. Hình ảnh chiếc cầu sắt có lối kiến trúc chằng chịt và có hai móng cao thật hùng vĩ, từ xa người ta đã nhìn thấy hình ảnh oai hùng của nó vươn trên bầu trời xanh. Nhưng sau khi bị Việt cộng giật sập mất một nhịp ở đoạn giữa, từ xa nhìn tới, thấy cây cầu trở nên rất thảm hại!  Ngày trước nó đẹp đẽ bao nhiêu thì lúc này trông nó xấu xa, kỳ dị giống như hàm răng sún của một người khổng lồ đang nhe ra, mất đi hai chiếc răng cửa! Nhưng tôi không có ý bàn về thẩm mỹ ở đây, tôi muốn nói chuyện khác, chuyện về cảnh khốn nạn mà đồng bào tôi phải gánh chịu do hậu quả gây ra bởi cây cầu Bến Lức bị Việt cộng giật sập lúc đó.

                  Sau khi một bàn tay xương xẩu, có các móng tay dài bên trong đầy đất cát như những cái đầu người nhỏ tí đang đội nón đen đó, ấn nhẹ cái chốt. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ một nơi cách đó khá xa. Tiếng nổ này là kết quả của bao nhiêu chất xám của những cái đầu tuy nhỏ nhưng tinh ranh, đã mày mò nghiên cứu  trong một thời gian khá lâu. Tiếng nổ ấy đã gây ra hai hậu quả rất thảm hại. Tác hại thứ nhất và trước mắt về phần vật chất, là một nhịp của cây cầu sắt rơi xuống, chìm sâu dưới đáy sông Bến Lức nước đang chảy thật xiết.
                  Tác hại thứ hai là về con người, tuy lúc nổ chỉ thiệt hại vài nhân mạng một số nhỏ những người lính canh cầu, nhưng tiếng nổ đó đã gây ra một vết thương quá lớn trong đời sống của đồng bào, nhất là những đồng bào ở miền Tây. Từ sau tiếng nổ của Việt cộng phá cầu đó, cuộc sống người dân trong vùng và sinh hoạt của họ từ đó về sau đã trở thành những “tiếng nổ phụ” tiếp liền theo.
                  Cảnh tượng cầu Bến Lức sau đó, giống như cảnh một đám tang vĩ đại kéo dài hàng tháng trời. Ngày nào cũng có hàng mấy trăm chiếc xe đủ loại cùng với hàng chục ngàn người đứng lố nhố ở hai bên bờ sông như đưa đám tang chiếc cầu chôn xuống lòng sông sâu nước chảy. Cái khác ở đây là những người đưa đám ma này, không mặc đồ đen và âm thầm cúi đầu cầu kinh như  thường thấy ở các đám tang khác. Ngược lại, đám đông hàng chục ngàn người này lại ăn mặc đủ loại màu sắc, tay xách nách mang, bồng con, bế cháu và di chuyển không ngừng! Họ không yên lặng như các đám tang khác mà ồn ào, náo nhiệt như cảnh chợ trời. Tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng trẻ con kêu khóc, tiếng gà vịt kêu cạp cạp từ các giỏ đan sơ sài bằng những thanh tre họ mang trên vai, cộng với những tiếng kêu trời xen vào với loại ngôn ngữ họ dùng để bày tỏ sự bực tức những kẻ phá hoại chiếc cầu. Những ngôn ngữ đó, tôi nghĩ là tốt hơn không nên ghi lại ở đây!

                  Một lần nọ, tôi qua Bến Lức trong một cơn mưa lớn. Nước mưa làm cho con đường dẫn tới bờ sông trở nên bùn sình, ngập lên tới mắt cá chân. Có vài chiếc xe chở khách đang trở đầu bị lún bánh, cố rướn lên làm bùn non bắn tung tóe vào đoàn người rất đông đang tấp nập đi về hướng bờ sông. Dọc hai bên bờ sông Bến Lức nước đang chảy xiết, cây cỏ đã bị giẫm nát, lẫn vào với bùn sình lầy lội. Người ta chen lấn nhau, tranh giành nhau để leo lên những chiếc xuồng máy của dân chúng đang chờ sẵn để đưa qua bờ bên kia với giá cắt cổ. Cảnh tượng này trông như một đoàn quân chiến bại đang cố chen lấn để trèo lên những chiếc thuyền  chạy ra biển thoát thân.
                   
                   
                  Tuổi thơ thời chiến
                   
                   Trong cảnh nhốn nháo đó, tôi chợt nghe tiếng khóc thét của một em bé gái chừng 5,6 tuổi, đang ngồi bệt xuống trên một vũng bùn của con đường mòn còn cách bờ sông một quãng khá xa. Tôi không biết em bé đó mặc đồ gì, chỉ biết là em bị ướt như con chuột lội nước và bùn đất bám đầy từ đầu tới chân em, chỉ chừa ra hai con mắt cũng đang ướt đẫm. Em bé khóc thất thanh trong lúc người đàn bà còn trẻ mà tôi biết là mẹ em cũng mình ướt như chuột lột, trên tay đang bế một đứa bé trai chừng hai tuổi cũng đang khóc thét, một tay bà mẹ kéo cô bé đứng dậy đi. Nhưng có lẽ em không còn sức để bước đi nữa, nên đánh liều ngồi bệt xuống bùn rồi muốn ra sao thì ra.

                  Người đàn bà trẻ kéo con lên không được nên bực mình, cúi người đặt cái giỏ xách trên vai xuống mặt đất bùn sình. Trong giỏ có hai con vịt đang ló đầu ra cũng đang kêu thất thanh cạp... cạp... cạp... Người mẹ giận tát em bé gái đang ngồi bệt trong bùn một tát tai và giật mạnh cánh tay bé xíu của em bắt đứng dậy đi! Cô bé bị đòn càng khóc tợn hơn và nhất định ngồi lỳ không chịu đứng lên, làm người mẹ càng tức thêm, nên giật tay cô bé rất mạnh làm tôi tưởng cánh tay nhỏ xíu đó sẽ bị sứt ra và rời khỏi thân hình dính đầy bùn đất của em. Bên cạnh đó, đoàn người vẫn bước đi một cách vội vã hướng về bờ sông dưới cơn mưa tầm tã.

                  Tôi đang dẫn xe gắn máy đi lẫn lộn trong đoàn người. Nhờ có khoác áo mưa nên người tôi không bị ướt, nhưng nước mưa táp vào mặt làm mờ cả đôi kính và thỉnh thoảng tôi phải gỡ ra lau vào lần áo khô bên trong. Nhìn cảnh bé gái đang giằng co với mẹ, tự nhiên tôi thương em. Tôi biết là không phải em không muốn đi, nhưng vì đường sá lầy lội, mưa to quá và em đã bị té nhiều lần, nên không còn sức để bước nữa. Càng bị mẹ đánh và kéo lên, em càng bày tỏ sự phản kháng mãnh liệt và quyết tâm ngồi lỳ xuống đất đầy bùn sình như một vũng trâu nằm.

                  Theo hành động của trực giác, tôi vội chống chân xe xuống bên vệ đường, chỗ có đất cứng, và bước tới bên hai mẹ con cô bé lúc này đang giằng co nhau dữ dội, không ai chịu thua ai. Tôi vừa đi vừa lần cởi nút áo mưa trên cùng, để lộ chiếc cổ áo trắng của y phục giáo sĩ tôi đang mặc. Tôi bước tới, chuẩn bị cúi xuống bồng em bé lên, vừa nói với bà mẹ:

                  - Chắc là cháu mệt lắm, để tôi giúp chị một tay lo cho cháu.

                  Người đàn bà trẻ, mặt đầy nước nôi, tóc trết lại từng lọn nhỏ, bùn văng lấp tới đầu gối, chợt nhìn tôi, mở to mắt ngạc nhiên không nói gì. Tôi hiểu chị đang lo lắng, nên nói tiếp:

                  - Chị đừng lo, tôi là một Linh mục, thấy chị quá bận rộn với hai cháu bé  nên tôi muốn giúp chị một tay.

                  Nghe tôi tự giới thiệu là một Linh mục, chị bèn nhìn vào cổ áo tôi cố ý để hở. Nét mặt chị dịu lại sau cái nhìn đó, chị bày tỏ sự yên tâm qua câu nói:

                  - Con cám ơn cha! Cháu bé bước đi không nổi cha ạ!

                  Tôi vừa bồng cô bé lên, vừa nói lời trấn an:

                  - Nín đi con, đừng khóc nữa, chú giúp cho con.

                  Lúc đầu, cô bé tỏ vẻ sợ người lạ, nhưng nhìn thái độ của mẹ đang đứng kế bên, cô bé yên tâm để cho tôi bế lên. Tôi ôm lấy thân hình đầy bùn đất và đang run bần bật của cô bé. Tôi cố ý ôm sát vào lòng cho cháu đỡ lạnh và bước lại chiếc xe Honda đang dựng gần bên, trước cặp mắt quan sát chăm chú của người mẹ. Tôi đặt em ngồi trên bình xăng xe, bảo em nắm thật chặt tay lái xe kẻo ngã và tôi quàng tay qua bên kia, giữ em ngồi yên, rồi hạ chân xe xuống, dẫn đi bên cạnh người mẹ trẻ đang ẵm bé trai và đeo cái giỏ có hai con vịt đang kêu cạp cạp. Tôi không biết mấy tiếng kêu này của loài vật có bày tỏ sự bất mãn nào như tiếng rủa sả của loài người trước cảnh khổ cực này hay không!

                  Cô bé lúc này đã nín khóc, nhưng mặt em nước vẫn chảy dài, cả nước mưa lẫn nước mắt, tự nhiên tôi thương cô bé hết sức, thương cho số phận trẻ thơ sinh ra trong thời chiến. Chừng ấy tuổi đầu đã nếm mùi gian khổ của người dân trong đất nước đang có những người lớn gầm gừ chực giết nhau và tìm hết mọi cách để làm khổ nhau. Có lẽ em cũng cảm thấy yên tâm khi có linh cảm là tôi không làm gì hại em, nhưng giúp em vượt qua được quãng đường lầy lội dẫn xuống bờ sông. Quãng đường này, đối với người lớn đã là dài và khó khăn, nói gì tới đôi chân bé nhỏ của em bé 6 tuổi, nhất là giữa cơn mưa tầm tã như  thế này.

                  Tôi chợt mỉm cười, nhớ lại lúc nãy, người đàn bà trẻ gọi tôi bằng tiếng “cha", thực ra tôi chưa phải là Linh mục, tôi còn đang là một chủng sinh và phải một hoặc hai năm nữa, tôi mới có thể thụ phong Linh mục, nhưng chủng sinh đại chủng viện và Linh mục cùng có sắc phục như nhau, nên khi tôi tự giới thiệu là Linh mục, chị ta gọi tôi là cha. Tôi nghĩ cũng chẳng cần phải đính chánh làm gì trong hoàn cảnh này. Thì giờ đâu mà đứng đó giải thích thế nào là một chủng sinh Đại chủng viện, thế nào là một Linh mục và họ khác nhau ra sao! Điều cần nhất là chị tin tưởng để tôi có thể giúp chị và cháu bé là được rồi.

                  Vừa đun xe, tôi vừa cúi xuống sát bên tai cô bé hỏi:

                  - Con có lạnh không?

                  Cô bé quay lên nhìn tôi bằng đôi mắt thiên thần, không trả lời, nhưng gật đầu khá sâu.

                  Không hiểu tại sao, cái gật đầu của em làm nước mắt tôi tự nhiên tràn ra hòa lẫn với nước mưa chảy dài xuống ngực. Tôi để cho hai dòng nước mắt rơi tự nhiên và cúi đầu yên lặng đun xe trong lúc một em bé xa lạ đang ngồi trên bình xăng, thân hình bé nhỏ đầy bùn đất của em đang run nhẹ trong vòng tay che chở của tôi. Người mẹ trẻ bước đi kế bên tôi một cách vất vả với đứa bé trên tay và cái giỏ có 2 con vịt trên vai. Thỉnh thoảng chị xốc nách lại đứa con trai ẵm trên tay. Cháu bé lúc này đã hết khóc và cả hai con vịt cũng không còn kêu nữa. Có lẽ lúc nãy, em bé trên tay và hai con vịt cũng lên tiếng phụ họa với cô bé ngồi trên bùn, bây giờ cô nín thì  phía kia cũng yên, một phần chắc cũng nhờ cơn mưa lúc này đã nhẹ hạt dần.

                  Xuống tới bờ sông, vì chiếc ghe nhỏ đã có sẵn mấy người, chỉ có thể chở thêm vài người nữa, không còn chỗ cho xe gắn máy của tôi. Tôi dựng xe xuống để đưa em bé lên thuyền máy với mẹ em. Nhưng đất mềm quá không dựng chân xe được. Sau một vài lần không dựng được xe, tôi phải nhờ một người đàn ông giữ xe giùm, rồi ẵm cháu gái xuống ghe đặt ngồi bên mẹ em. Người đàn bà nở nụ cười thật tươi:“Con cám ơn cha!”. Tôi không đáp lại và cũng không đính chánh. Tôi đưa tay vuốt tóc cô bé và nói: “Con đi cho ngoan, đừng khóc nữa”. Vừa nói tôi vừa lùi trở lên bờ trong khi cô bé nhìn tôi, gật đầu, giống như lúc nãy khi tôi hỏi em “con có lạnh không?”.

                  Khi chiếc ghe có gắn máy đuôi tôm  tách ra khỏi bờ sông, người đàn bà và em bé gái vẫy tay chào tôi và chị cũng cầm tay cháu bé trai đưa lên vẫy theo trong tay chị. Tự nhiên, tôi cảm thấy một chút mất mát khi phải chia tay với những con người xa lạ này. Tôi đứng tần ngần trên bờ, đợi chuyến sau và nhớ lời chị nói: "con cám ơn cha." Thực ra, tôi phải cám ơn chị và cháu bé mới đúng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này cho tôi hiểu rõ hơn về hoàn cảnh đồng bào tôi trong thời chiến tranh và nhờ đó, tôi thương cho số phận đồng bào tôi nhiều hơn.
                  Từ đó, tôi không bao giờ gặp lại người đàn bà và hai em bé đó nữa. Thực ra, cho dù có gặp lại, chúng tôi cũng chẳng nhận ra nhau vì trong lần gặp nhau ở cầu Bến Lức đó, đâu có ai nhận rõ được gương mặt của ai! Riêng hai cháu bé lúc đó còn quá nhỏ và cô chị thì lại bùn đất bám đầy người, lại càng khó nhận ra hơn.
                  Ngồi trên xe gắn máy chạy ngon trớn, vừa suy nghĩ miên man, không mấy chốc tôi đã gần tới bắc Mỹ Thuận, cửa ngõ vào tỉnh Vĩnh Long. Tôi nhớ lại, con đường này trước khi người Mỹ tới Việt Nam là con đường nhỏ, hai bên toàn là cây cỏ và có nhiều đoạn dài không trải nhựa. Dù vậy, lúc đó nó cũng là “xa lộ công danh”, vì dưới thời ông Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, có biết bao nhiêu ông bà, tai to, mặt lớn, đã theo con đường này đổ dồn về Vĩnh Long để chầu Giám mục Ngô Đình Thục, là anh của Tổng Thống, và cả vị Linh mục trẻ, rất uy quyền, là Nguyễn Văn Tự, làm Giám Đốc Trung Tâm Nhân Vị lúc bấy giờ!

                     
                  Tình cảnh gia đình

                  Sau khi qua bắc Mỹ Thuận, nhìn đồng hồ hãy còn sớm nên tôi ghé vào nhà người bạn ở Vĩnh Long. Một phần để thăm gia đình người bạn, hơn nữa tôi cũng có việc khá quan trọng cần gặp anh để bàn qua. Lâu ngày bạn bè mới có dịp gặp lại nên ngồi chuyện trò khá lâu và gia đình người bạn mời tôi ở nán lại dùng cơm. Từ Vĩnh Long về nhà tôi chỉ còn hơn 30 cây số. Cơm nước xong tôi từ giã gia đình người bạn, chạy Honda theo tỉnh lộ về hướng Trà Vinh. Gia đình tôi nằm ở một làng quê tên là Hiếu Phụng trên con lộ này, giữa hai tỉnh Vĩnh Long và trà Vinh.
                  Tôi cố ý chạy xe chậm một chút để hưởng bầu khí mát lạnh trên con lộ vắng người trong buổi chiều tà. Khi tôi về tới nhà thì trời đã chạng vạng tối, lòng tôi se lại khi nhìn thấy tình cảnh gia đình thật bi đát. Cha tôi mới mất mấy tháng trước. Tôi bồi hồi xúc động khi đứng thắp nén hương trước di ảnh của cha tôi trên bàn thờ, và nhớ lại vài tháng trước đây, khi tôi vừa dọn qua họ đạo La Mã không bao lâu thì cha tôi trở bệnh nặng. Người nhà sang báo tin, tôi xin giấy đi đường về ngay trong đêm. Vì cha tôi đã đau yếu nhiều từ mấy tháng trước, nên trong nhà các anh chị tôi thay nhau canh thức để săn sóc.  Đêm đó tôi nằm trên chiếc võng cạnh giường cha tôi, để canh thức thay cho các anh chị đã mệt mõi vì thức đêm.

                  Tới gần sáng, chiếc mền của cha bị rơi xuống đất, tôi nhặt lên và nhẹ nhàng đắp cho cha, nhưng cha tôi giật mình thức giấc và hỏi tôi về hồi nào. Rồi trong một lúc rất tỉnh táo như người khỏe mạnh, cha bảo tôi đỡ cho ngồi dậy tựa lưng vào thành giường. Tôi vô cùng mừng rỡ vì tưởng là cha tôi đã hồi phục lại sau cơn bệnh nặng. Sau đó cha tôi hỏi tôi về các việc bên họ đạo và dạy bảo tôi:” Con Làm linh mục thì phải biết thương bổn đạo của mình và lo lắng cho họ. Con hãy nhớ, đừng bao giờ chúc dữ cho ai, nhưng luôn luôn phải chúc lành cho mọi người.” Tôi vâng dạ và hứa tuân giữ lời cha dạy. Sau đó cha muốn ăn một ít cháo, mà lâu lắm rồi cha tôi không ăn được.

                  Đêm sau cha tôi mất.

                  Thì ra vì thiếu kinh nghiệm nên tôi không biết hiện tượng gọi là “hồi dương”, là khi người bệnh lâu ngày tự nhiên có lúc trở nên bình thường như người khõe mạnh, là dấu hiệu sắp chết. Đêm qua thấy cha tỉnh táo tôi rất mừng, nhưng thật sựï dó là lúc hồi dương. Sau này mới biết trong lúc hồi dương ngắn ngủi đó, cha tôi đã dùng sự minh mẫn cuối cùng của cuộc đời, để trối lại cho tôi những lời dạy bảo mà tôi luôn ghi nhớ, và cố gắng gìn giữ suốt đời.

                  Từ ngày cha tôi mất đi, má tôi càng suy yếu hơn, thường là nằm  một chỗ,  lúc đi tới lui trong nhà phải chống gậy. Lúc này ruộng đất gia đình do công khó cha tôi khai khẩn đất hoang để lại, bị tịch thu gần hết, nhà cửa rách nát tiêu điều. Một anh tôi vừa mới trình diện đi “cải tạo” theo diện sĩ quan, một anh khác kế tôi trước kia là Thượng sĩ Hải Quân, có nhà cửa trong khu gia binh ở Thị Nghè, nay rã ngũ phải bỏ tất cả, ra đi mình không dẫn vợ con về quê cất chòi lá ở tạm ngay bên cạnh nhà tôi. Cộng-sản chiếm miền Nam chưa được bao lâu, nhưng họ đã ‘‘giải phóng” gia đình tôi gần như toàn diện!

                  Trong hoàn cảnh này tôi chỉ muốn ở lại phụng dưỡng mẹ già một thời gian, vì tôi biết là má tôi không còn sống được bao lâu nữa. Trong khi đó, tôi vẫn nghe ngóng theo dõi tin tức từ phía họ đạo ở Bến Tre. Tới ngày thứ tư, có người thân tín qua cho hay, chánh quyền xã Hiệp Hưng đã ra lệnh truy nã tôi vì rời xã quá thời hạn. Người này còn khuyên tôi đừng bao giờ quay trở lại, vì khi trở về sẽ bị bắt ngay. Tôi bắt đầu cảm thấy đang đi dần vào ngã rẽ và nghĩ là tôi phải ra đi. Dù chưa biết là sẽ đi về đâu, nhưng tôi phải đi khỏi nhà vì không muốn má tôi chứng kiến những tình huống tệ hại sẽ xảy ra.

                  Ngay hôm đó, tôi nhờ người liên lạc với cha Thạnh, lúc đó đang về thăm nhà tại họ đạo Mặc Bắc thuộc tỉnh Trà Vinh. Tôi dặn Thạnh ghé qua nhà gặp tôi, trên đường về giáo xứ Quới Sơn của anh. Vừa nhận được lời nhắn của tôi, Thạnh vội vàng lên ngay, mặc dù anh chưa định trở về Bến Tre hôm đó. Gia đình tôi tiếp Thạnh rất niềm nở vì Thạnh là người bạn thân của tôi và thường ghé thăm má tôi và chị Hai. Mọi người coi Thạnh như một thành phần trong gia đình và mỗi khi Thạnh ghé nhà là một dịp vui, trong những bữa cơm có Thạnh lúc nào trong nhà tôi cũng rân ran tiếng cười.

                  Trong lúc chị hai tôi giết gà làm cơm, tôi kéo Thạnh ra góc sân để nói cho anh biết về hoàn cảnh của tôi. Từ nhiều tháng qua, Thạnh là người duy nhất tôi giải bày hết mọi tình huống xảy ra ở họ đạo La Mã và cũng chính Thạnh đã rất nhiều lần tới chơi để hỗ trợ tinh thần tôi trong giai đoạn tôi gặp nhiều khó khăn đó.
                   
                  Hoàn cảnh tôi thì Thạnh không còn lạ gì nhưng hôm nay nghe tôi kể lại diễn tiến câu chuyện đã đi vào ngõ bí, Thạnh buồn rầu hỏi:

                  - Mầy định đi luôn không quay trở lại nữa à?

                  Chúng tôi vẫn gọi nhau “mầy tao” theo cách gọi thân mật của bạn bè người miền Nam. Tôi lắc đầu nói:

                  - Mầy tính coi, tao quay lại đâu nữa bây giờ? Họ đạo thì tao đã bàn giao cho ông Quang rồi, còn ở nhà này thì tao không có hộ khẩu, vài ngày nữa họ cũng sẽ qua tìm tao thôi. Ở sao được mà ở?

                  Thạnh nghe qua biết là câu chuyện nghiêm trọng lắm. Anh trầm ngâm không nói năng gì. Trong lúc suy tư, Thạnh lần túi móc bao thuốc lá “Sài Gòn Giải Phóng” ra, rút hờ cho tôi một điếu, anh gắn một điếu vào môi và bật lửa bao diêm. Lúc đang mồi thuốc cho tôi Thạnh hỏi:

                  - Bác Năm và chị hai biết chuyện này chưa?

                  Tôi rít một hơi thuốc thơm, ngước mặt lên nhả khói lắc đầu:

                  - Chưa, tao không dám nói với má và chị hai. Má thì đang đau yếu quá, còn chị hai, có nói thì chị cũng thêm lo, ích lợi gì! Tao chỉ nói chuyện này với mầy. Tao quên nói, hôm từ Bến Tre về tao có ghé qua nhà Khánh ở Vĩnh Long nhờ làm giúp tao tờ giấy đi đường giả, biết đâu có lúc sẽ dùng tới.

                  Thạnh vốn là người ít va chạm và không quen xoay xở trước nghịch cảnh, nên chỉ nghe tôi mà không có ý kiến gì. Thực ra tôi cũng không mong gì nơi Thạnh, tôi chỉ cần có người bạn hiểu hoàn cảnh tôi trong lúc này. Mọi việc sắp tới tôi đã tạm có kế hoạch trong đầu và tôi nhờ Thạnh một việc khác. Thạnh trầm ngâm hỏi:

                  - Việc này tao cũng chẳng biết tính sao. Mầy nghĩ tao có thể làm được gì để giúp mầy trong lúc này không?

                  Tôi cảm động vì câu hỏi của người bạn thân, mặc dù tôi biết là Thạnh không thể làm gì được để giúp tôi, nhưng tôi cố ý gặp Thạnh vì một chuyện khác. Tôi nói thẳng ý mình:

                  - Tao nghĩ là chưa cần mầy giúp gì trong lúc này, nhưng điều quan trọng tao muốn gặp mầy hôm nay là khi tao đi rồi, tao muốn nhờ mầy thay tao thỉnh thoảng về thăm má. Má đang yếu quá tao sợ má không sống lâu. Nếu khi má mãn phần mà không có tao thì mầy thay tao lo an táng và dâng Lễ cho má. Tao chỉ mong có vậy thôi, mầy hứa đi cho tao yên lòng.

                  Nghe tôi nói thế, Thạnh lộ vẽ xúc động trông thấy. Anh không lên tiếng nhưng quay mặt đi nhìn ra phía bờ lộ và khẻ gật đầu. Tôi nắm lấy bàn tay người bạn thân Linh mục bóp mạnh thay cho lời cám ơn. Cùng lúc đó có tiếng chị hai gọi từ hàng hiên nhà: “Hai chú Đực Mẫm vô ăn cơm nè! Làm gì mà đứng rù rì ngoài đó?”

                  Chi hai vẫn gọi tôi các trìu mến là “Đực Mẫm”, đó là tên con trâu đực trong bầy trâu của gia đình ngày tôi còn nhỏ đi chăn trâu. Hồi nhỏ tôi mập mạp tròn trịa giống như con trâu đực Mẫm, và chị hai cứ thế mà gọi tôi là “thằng Đực Mẫm”.  Lúc đầu tôi cự nự không chịu cái tên đó, nhưng dần dần rồi cũng quen. Về sau này lớn lên, khi tôi đã làm Linh mục rồi, chị vẫn gọi tôi bằng cái tên thân thương đó trong chỗ riêng tư ở gia đình. Vì Thạnh là bạn thân của tôi và chị coi Thạnh như người em nên chị cũng gọi Thạnh là “Đực Mẫm” luôn cho tiện, mặc dù Thạnh gầy ốm không giống con Đực Mẫm thật chút nào. Cả hai chúng tôi rất thích cái tên ấy. Có nhiều lần viết thư cho chị, tôi ký tên là “Đực Mẫm!”

                  Trong lúc ngồi ăn chúng tôi cố giữ vẻ tự nhiên như không có gì xảy ra, mặc dù trong lòng tôi nghĩ có thể đây là bữa ăn cuối cùng tôi còn ngồi ăn chung mâm với má tôi, và có thể là với tất cả mọi người trong gia đình.

                  Sau bữa ăn, tôi nhặt một ít đồ đạc cho vào cái túi xách bằng ny lon màu đỏ. Tôi từ giã mẹ già và chị ra đi, nói là đi Sài Gòn  ít hôm  rồi sẽ trở lại. Tôi ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, rời nhà ra đi thẳng, không dám quay đầu lại từ giã mẹ già. Lúc ấy mặt trời đã xế về Tây. Tôi cỡi xe Honda, Thạnh ngồi phía sau, chúng tôi yên lặng không ai nói câu gì trên đoạn đường hai cây số gồ ghề đá sỏi từ nhà tôi ra lộ cái. Ra tới ngã ba dẫn vào tỉnh lộ, tôi rẽ về phía trái và trực chỉ về hướng Vĩnh Long, để rồi từ đó sẽ lên Bắc Mỹ Thuận theo quốc lộ 4 đi Sài Gòn. Đó là lần cuối cùng mẹ con thấy nhau trên cõi đời.
                   

                  Xa rời điểm tựa
                   
                  Khi tới ngã ba Trung Lương thì trời đã xế chiều. Ngã ba Trung Lương với nhiều hàng quán, nơi tôi vừa đi qua mấy ngày trước, là nơi quốc lộ 4 rẽ vào hai tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre. Chúng tôi vào một quán nước ngồi nói chuyện một lúc. Sau khi rời quán và cùng đứng chờ xe trước giờ chia tay, gương mặt Thạnh lộ vẻ u buồn và cả hai không ai nói với ai một lời.  Khi có chiếc xe lô từ xa chạy tới, Thạnh một tay giơ lên đón xe, trong lúc tay kia cho vào túi quần vơ số tiền giấy, có tờ đã nhàu nát, ấn tất cả vào tay tôi và nói bằng giọng đứt quãng xúc động: “Mầy cầm lấy, tao biết mầy sẽ cần. Đi bình yên gặp nhiều may mắn, khi nào có dịp nhớ liên lạc về tao. Thôi mầy đi!”. Sau câu nói, Thạnh quay nhanh và đi lại chiếc xe gắn máy đang dựng trước cửa quán, quên cả bắt tay từ giã tôi và cũng chẳng cần nghe tôi nói. Tôi hiểu Thạnh quay đi để che giấu sự xúc động. Tôi nhét mớ tiền vào túi quần, bước vội lên xe vừa thắng gấp bên lề, tôi nhìn Thạnh nói lời từ giã: “Mầy ở lại mạnh giỏi, cầu nguyện cho tao. Nếu còn sống, sẽ có ngày gặp lại.” Tôi bước lên xe như một người máy!

                  Đây là lần đầu tiên tôi ra đi nhưng chẳng có một nơi đến cố định, thật ra lúc bấy giờ tôi cũng chẳng biết mình sẽ ở đâu và làm gì sau khi tới Sài Gòn. Tôi nghĩ thầm là mình đang cất bước vào ngả rẽ của cuộc đời. Tự nhiên tôi có cảm giác nhẹ nhàng và sảng khoái của người vừa trút bỏ một gánh nặng. Tôi hoàn toàn tự do, không còn bị ràng buộc bởi trách nhiệm như trước đây. Từ đây, tôi có thể đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ chuyện gì và có thể lăn xả vào bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Nhưng rõ rệt hơn vẫn là tâm trạng bất an. Tôi bỗng thấy mình giống như con thú bị săn đuổi phải chạy ra khỏi khu rừng âm u là nơi trú ẩn an toàn và đang phơi mình trên một quãng đồng trống có nhiều thợ săn và cạm bẫy vây quanh. Tôi cũng biết là mình có thể lãnh nhận cái chết bất cứ lúc nào và bằng kiểu gì! Nói tóm lại, tất cả đều có thể, kể từ lúc tôi bước chân lên xe và bỏ tất cả quá khứ lại phía sau, một quá khứ nhiều biến động của 33 năm cuộc đời, trong đó có sáu năm là Linh mục. Tôi bất giác tự nghĩ thầm: “Từ nay cuộc đời tôi đi vào nơi vô định! Hôm nay là ngày đầu tiên, hãy ghi nhớ lấy. Cuộc đời rồi sẽ ra sao trong thời gian tới? Hãy cố gắng ghi nhớ từng ngày, từng sự việc và nếu sau này còn sống, phải viết lại như một vở kịch mà đây là màn đầu”.
                   
                   
                  Bước thời gian
                   
                  Lúc tôi đang ngồi nhắm nghiền mắt tựa đầu vào thành ghế khá cao của xe lô Minh Chánh, bất chợt những hình ảnh xa xưa từ thủa ấu thơ lại hiện về và nhảy múa  trước mặt tôi.

                  Tôi sinh ra và lớn lên trong thời kỳ chiến tranh ở vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long, miền đồng bằng sông Cửu Long. Cha má tôi làm nghề nông và có năm người con, một gái đầu và bốn trai tiếp theo mà tôi là con út trong nhà. Chị cả tôi, trong Nam gọi là chị Hai, lớn hơn tôi mười lăm tuổi. Vì là con gái lớn trong gia đình nên chị tôi rất vất vả lo lắng việc nhà cửa và chăm lo cho các em, nhất là tôi. Do đó, tôi rất thương và gần gũi với chị mà tôi coi như một người mẹ thứ hai.

                        Gia đình tôi theo đạo Công giáo tới tôi là đời thứ ba và sống trong một khu vực đông người có đạo quây quần chung quanh ngôi thánh đường trong làng, có tên là Nhà thờ Bưng Trường. Lúc đó họ đạo Bưng Trường này chỉ là họ nhỏ nên không có Linh mục coi sóc và trực thuộc vào họ đạo Mai Phốp cách đó 4 cây số. Trung tâm thế giới tuổi ấu thơ của tôi là ngôi Nhà thờ này cùng với những buổi đọc kinh, những dịp lễ, những lần bọn trẻ con chúng tôi quét dọn và làm cỏ chung quanh Nhà thờ. Phía bên ngoài đầu nhà thờ có một đống đá xanh thật to nằm dưới gốc cây xoài lão trơ nhiều cành khô. Có lẽ đống đá xanh này còn dư lại sau khi xây nhà thờ và được chất vào đấy xem chừng đã lâu nên cỏ mọc um tùm chung quanh. Bên cạnh đó có đám ngải thật cao và nhiều hoa. Tôi thường cắt những hoa ngải to và rất thơm này đem chưng trên bàn thờ Đức Mẹ. Mùi thơm của hoa ngải làm tôi nhớ mãi. Sau này khi lớn lên, bất cứ nơi nào vô tình có mùi hoa ngải là tôi lại nhớ đến những bông hoa ngải tôi chưng trên bàn thờ Đức Mẹ năm xưa.

                  Trong thế giới của tuổi ấu thơ, tôi cũng còn ghi đậm nét hình ảnh của các Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn sống trong ngôi nhà nhỏ bên cạnh nhà thờ. Chúng tôi gọi các Nữ tu rất dễ thương và đầy hy sinh này là các Dì. Nếu lớn tuổi thì chúng tôi gọi là Bà. Lúc nào cũng chỉ có hai Dì ở trong ngôi nhà đó để coi sóc nhà thờ và dạy học cho bọn trẻ con chúng tôi. Vừa dạy đọc dạy viết, vừa dạy giáo lý và các việc đạo hạnh. Tôi thấy cha má tôi và những người lớn tuổi khác trong vùng rất thương và kính trọng các vị Nữ tu này. Còn bọn trẻ chúng tôi thì khỏi phải nói, vừa thương lại vừa sợ các Dì. Các Dì thương trẻ con, hay cho chúng tôi bánh kẹo, nhưng cũng hay cho ăn đòn. Nếu có lỗi, các Dì bắt xòe bàn tay ra và dùng thước kẻ khẻ vào đó. Con gái ít khi bị đòn nhưng bọn con trai, nhất là tôi thì gần như không ngày nào là không được “ăn” vài cây thước kẻ vào lòng bàn tay. Thật đúng với câu: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”

                  Khi vừa đủ trí khôn, tôi đã bắt đầu quen với tiếng súng tiếng bom và hình ảnh của chiến tranh. Những hình ảnh tôi ghi nhận đầu đời, trong đó có những người lính Pháp phần đông là da trắng, cũng có một số ít da đen mà người ta gọi là Tây trắng, Tây đen. Tiếng họ nói tôi không hiểu, tôi cũng chẳng biết họ là ai và tại sao lại có mặt ở đây. Nói tóm lại, tôi chẳng biết gì về người Pháp lúc bấy giờ, chỉ biết là họ cao lớn, mắt xanh, mũi nhọn và họ có uy quyền hơn người Việt Nam. Tôi rất sợ mỗi khi trông thấy họ, nhưng tôi sợ Tây đen hơn Tây trắng.

                  Tôi cũng có nghe biết rất sớm hai tiếng Việt Minh và tôi cũng sợ họ không kém gì sợ Tây trắng Tây đen. Lúc đó, tôi chưa đủ trí khôn nên không biết gì về tình hình đất nước, chỉ biết là đang có chiến tranh, có tiếng súng, có người chết. Tôi thấy có khá nhiều xác chết trôi sông nhưng không biết họ là ai, và ai đã giết chết họ. Bọn trẻ chúng tôi thường gọi nhau chạy xuống bến sông phía sau nhà thờ để coi những xác chết trôi qua mà chúng tôi gọi là “thằng chổng”. Tại sao gọi những xác chết trôi sông là “thằng chổng” thì tôi không biết. Có lẽ vì những xác người đó hầu hết  đều úp mặt xuống và chổng mông lên trời nên chúng tôi gọi là thằng chổng. Suốt tuổi ấu thơ tôi đã thấy rất nhiều “thằng chổng” trôi ra trôi vào theo con nước trên dòng sông, ruồi nhặng bu quanh hàng đàn. Có xác trôi riêng, có xác trôi lẫn lộn với những dề lục bình trên sông. Thỉnh thoảng lại có những xác chết trôi không đầu. Nhiều lần tôi thấy những xác bị trói hai tay về phía sau. Có xác mặc áo, có xác cởi trần. Đủ hình, đủ kiểu và đủ dạng xác chết trôi. Ánh nắng mặt trời làm những xác người chết này bị cháy nám đen.
                  Có lần “thằng chổng” tấp vào ngay dưới bến nhà thờ. Bọn trẻ con chúng tôi ùa chạy ra coi. Thậm chí có đứa lấy đất ném! Những lần như thế chỉ có bọn con trai ra bờ sông coi, còn con gái nhát đảm chẳng đứa nào dám ló mặt. Khi biết bọn tôi nghịch, Dì phước la rầy bắt chúng tôi trở vào và gọi những người lớn giúp đẩy xác chết ra xa cho trôi theo dòng sông. Sau đó Dì bắt chúng tôi vào nhà thờ và dạy cho biết là không được nghịch ngợm đối với các người đã chết như vậy, nhưng phải biết thương và cầu nguyện cho linh hồn những người bất hạnh đó.

                  Ngoài ngôi Nhà thờ ra, tôi chỉ còn thấy được hai thứ khác bằng gạch đá. Đó là cái cầu cống ngay sau nhà các Dì và cái ống bộng rất to, được đặt ngang dưới mặt đất của con lộ đá cách đó không xa. Ống bộng này, có lẽ tới hơn thước đường kính dùng để dẫn nước từ đập nhà thờ vào con kinh phía trong và đưa nước lên cánh đồng. Nó được đúc bằng loại đá trứng, tức là loại đá tròn nhẵn màu trắng đục và nhỏ như trứng chim cút. Sở dĩ tôi nhớ cái ống bộng này vì bọn trẻ con thường tới đó tắm và ngồi trên ống bộng chơi mỗi khi nước cạn. Khi nước đầy chúng tôi không dám xuống vì lúc nước ròng chảy ra sông rất mạnh. Nước rút vào ống bộng tạo thành một lỗ tròn xoay tít, kéo các dề lục bình chìm xuống và chui ngang qua ống cống ra phía bên kia. Có khi từ lỗ nước xoáy đó còn phát ra tiếng hú làm cho lũ trẻ nghe thấy mà kinh hồn.

                  Chị Hai tôi vẫn cấm tôi không được bén mảng tới cái cống đó lúc nước lên. Chị còn bảo là bên trong cái ống bộng đó có một vỉ sắt chặn ngay khoảng giữa, và đứa trẻ nào bị ống bộng hút vào sẽ bị kẹt chết ngộp trong đó. Điều chị nói làm lũ trẻ sợ. Để tìm hiểu, có những lần tôi ném những dề lục bình bên này thì thấy ống cống hút vào và nhả ra bên kia, như vậy làm sao có cái vỉ sắt chặn bên trong được! Mặc dù đã thí nghiệm như thế nhưng tôi vẫn tin vào lời chị tôi nói. Cho tới một hôm nước ròng cạn và cái ống bọng to tướng đó nằm bên trên mặt nước, tôi tò mò bước xuống nhìn vào và thấy bên trong cái ống bộng trống rỗng từ bên này qua bên kia. Lúc đó tôi mới biết là chị tôi nói vậy để dọa đám trẻ con đừng có bén mảng tới chỗ sông sâu nước chảy này.

                  Còn cái cầu cống sau nhà Dì phước là cây cầu bằng xi măng bắc qua mảnh vườn trồng rất nhiều xoài của nhà dòng. Cầu cống này được xây khá cao theo hình vòm cung để các xuồng ghe có thể chui qua được. Dưới chân cống có những vòng bằng sắt nhô ra và bọn trẻ con hay bám vào các thanh sắt đó khi tắm. Chỗ này lúc nào cũng đầy nước nhưng không chảy mạnh và không nguy hiểm như ở miệng ống bộng dưới lộ đá.

                  Con lộ đá rộng băng ngang trước cửa nhà thờ và chạy dài ra đường liên tỉnh cách đó hai cây số. Từ lộ đá xuống tới bờ sông chừng vài trăm thước là khu vực có nhà cửa. Bên kia lộ là cánh đồng. Có nơi đã được khai phá cấy lúa nhưng rất nhiều chỗ còn bỏ hoang, cỏ lát và lau sậy mọc um tùm. Tôi không nhớ thấy xe hơi chạy trên con lộ đó, mặc dù có thể chạy một lúc hai chiếc xe cũng được. Tuy nhiên tôi nhớ có lính Tây và lính ta đi từng tốp khá đông dọc theo lộ. Tôi nghe nói là họ đi “ba-trui”,  nhưng tôi không hiểu đi “ba-trui” là đi đâu và tại sao ở nhà không ở mà lại đi “ba-trui” làm gì! Những lần có người đi “ba-trui” như vậy, các Dì phước thường giữ trẻ con lại trong nhà thờ, không cho chạy chơi ngoài lộ đá như chúng tôi vẫn thường chơi lúc tan học hay trong giờ nghỉ xả hơi giữa các giờ học.

                  Dọc theo hai bên vệ đường có trồng nhiều cây cách quãng khá đều nhau,  mà người ta gọi là cây “dái ngựa”! Đây là loại cây to và cao, cành lá xum xuê, gốc cây cỡ bằng vòng tay ôm của người lớn. Cây có những trái màu xám to như cái bắp chuối, phình ở đầu và tóp lại phía cuối. Có lẽ vì cái hình dạng của trái cây trông giống như cái “dái ngựa” nên người ta dùng đặt tên cho cây đó, mặc dù tôi cũng chưa bao giờ thấy “dái ngựa” thực sự nó ra làm sao! Trái có vỏ rất cứng, đập ra bên trong có nhiều hạt to bằng hạt mít nhưng không ăn được. Bọn trẻ con  không đứa nào có thể trèo lên cây này, nhưng mấy anh lớn thì leo lên được và thỉnh thoảng bẻ trái ném xuống cho chúng tôi nghịch. Có những quả to gần bằng cái đầu của tôi lúc bấy giờ.
                   
                   
                  Ơn sinh thành dưỡng dục
                   
                  Trong những năm đầu đời này chỉ có hai nơi mà tôi còn nhớ được nhiều kỷ niệm. Đó là trong gia đình tôi và ngôi Nhà Thờ. Với các anh trai, tôi không nhớ được nhiều kỷ niệm, nhưng riêng chị Hai là người để lại trong tôi nhiều tình thương và kỷ niệm nhất. Cha tôi là người nghiêm nghị, rất đạo đức và có cuộc sống gương mẫu cho anh chị em chúng tôi. Má tôi ốm yếu và nghe nói là bị trận đau gần chết sau khi sanh tôi. Nghe như vậy tôi càng thương má nhiều hơn. Đối với cha má tôi, việc đọc kinh tối sớm trong gia đình là một quy luật và không bao giờ được bỏ qua. Mỗi tối trước khi đi ngủ cả nhà phải ngồi ngay ngắn trước bàn thờ để đọc kinh. Các tối ngày thường thì đọc kinh tắt, nhưng thứ Bảy và Chúa Nhật thì lần chuỗi, và như thế buổi kinh sẽ dài hơn. Không hiểu làm sao lúc đó tôi rất sợ các buổi đọc kinh này. Có lẽ đối với tuổi thơ, đọc kinh như thế quá dài và mệt nhọc, nhất là trẻ con thì hay buồn ngủ. Khi đọc kinh các anh chị tôi phải ngồi trên ghế ngay ngắn, còn tôi vì còn bé nên ngồi xếp bằng bên cạnh má trên bộ ván ngựa.

                  Chị Hai tôi là người quán xuyến việc nhà cửa và lo cho các em, nhất là cho tôi. Sau này lớn lên tôi biết là má tôi bị đau tim nặng nên không làm được việc nhà vì thế vai trò của chị Hai càng nặng nề hơn. Lúc nhỏ tôi hay bị ăn đòn và chị Hai là người đánh tôi nhiều nhất, nhưng chị đánh không đau, chỉ giơ thẳng bàn tay ra vả tôi nhẹ như đuổi muỗi. Dù vậy tôi cũng giả vờ kêu lên để chị vui và tưởng là cú đòn có hiệu quả. Tôi bị chị đánh nhiều nhất là tội ở dơ và thường tắm lội dưới ao bên hè nhà, chị gọi không chịu lên, hoặc lên mà lên trễ. Chị có thói quen vừa nắm cánh tay tôi vừa mắng: “Coi mặt mày mầy nè, mầy ở dơ như tù!” Miệng nói tay kia giơ lên cao và vảnh bàn tay lên dọa nạt. Thấy thế tôi lấy hai tay che mặt và cúi rụt người xuống né tránh. Trong mười lần dọa thì chín lần chị dừng tay. Trừ ra trường hợp nghiêm trọng thì chị vả cho mấy cái, nhưng toàn trúng vào hai bàn tay của tôi nên những cú đòn đó cũng chẳng có ép-phê gì! Thỉnh thoảng má cũng đánh đòn tôi, phần nhiều là đánh bằng roi. Má bắt nằm sấp cúi mặt xuống bộ ván ngựa. Và mỗi lần má đánh đòn đều có thủ tục khá lâu. Má cầm roi bằng một que tre nhỏ, nhịp nhịp hàng chục lần vào mông thằng bé và bắt đầu kể đủ mọi thứ tội của tôi ra, kể từ tội “tổ tông” trở xuống. Sau khi xong thủ tục, má tôi hỏi:

                  - Như vậy mầy muốn mấy roi?

                  Tôi nằm yên trả lời:

                  - Con muốn hai roi!

                  Má tôi cầm roi nói:

                  - Không được, tội này phải năm roi.

                  Có mấy lần tôi mặc cả xin bớt nhưng không mấy khi có kết quả, nên về sau tôi không xin bớt nữa và nằm yên chịu đòn. Má đánh không đau, vì roi là nhánh tre nhỏ như chiếc đũa và khi cảm thấy có triệu chứng ăn đòn thì tôi đã mặc thêm một lớp quần nữa rồi, nên tiếng roi nghe khá mạnh mà không đau nhiều. Dù vậy nhận đòn xong tôi cũng xoa mông, vừa khóc vừa quỳ xuống chắp tay: “Lạy má, con không dám vậy nữa!”  Má tha, nhưng cầm roi chỉ theo và nói: “Đánh cho mầy chừa tội!” Nhưng rồi mấy hôm sau, chứng nào vẫn tất ấy.

                  Thường thì má tôi chỉ đánh qua loa để dạy con, nhưng cái tội nặng nhất mà tôi phải ăn đòn đau là tội hỗn với chị Hai. Không phải chỉ riêng tôi mà mấy anh lớn của tôi cũng vậy, nếu hỗn với chị Hai là bị má tôi cho ăn đòn đau đến nơi đến chốn. Có lẽ má cũng gián tiếp xác định vị trí và uy quyền của chị Hai trên đám anh em chúng tôi. Cha tôi chẳng mấy khi đánh con. Trừ ra những khi chúng tôi có lổi gì rất nặng, như một lần tôi bị cha tôi đánh một trận đòn nhớ đời, vì hổn với chị Hai.

                  Lúc đó tôi chừng 9 hoặc 10 tuổi. Một buổi trưa tôi tắm sông trước nhà với mấy thằng bạn, chị Hai gọi mấy lần, tôi cũng không chịu lên. Lúc sau, chị cầm roi ra, gọi tôi lên bờ và quất vào mông mấy cái. Có lẽ vì xấu hỗ với bạn bè nên tôi dại dột, chụp lấy roi trong tay chị, bẽ gảy và quăng xuống đất. Má tôi ngồi trong nhàø nhìn ra chứng kiến cảnh này, nên gọi tôi vào và nói là tôi đã phạm tội rất nặng, phải để cha tôi xử.
                   
                  Chiều lại, khi cha tôi đi ruộng về, nghe má thuật lại câu chuyện. Cha tôi chưa kịp tắm rửa đã lấy cây roi tre, gọi tôi nằm dài dưới đất. Trước khi đánh đòn, cha tôi nói: "Bây giờ tao với má mầy còn sống mà mầy đã đối với chị Hai mầy như thế, sau này khi tao và má mầy chết đi rồi chắc là mầy không còn coi chị mầy ra gì.” Nói xong cha tôi quất thẳng tay vào mông tôi một trận đòn dữ dội. Má tôi thấy tôi bị đòn nhiều lên tiếng xin, nhưng cha tôi vẫn không ngừng tay. Chị Hai tôi thấy vậy, vội chạy lai giằng lấy tay cha tôi và kéo tôi đứng lên, lúc đó cha tôi mới chịu ngưng tay. Khi tôi vừa đứng lên, cha tôi bảo tôi quỳ gối lạy chị Hai xin lỗi. Khi tôi lạy, chị xoa đầu tôi và kéo tôi đứng lên, nắm cánh tay dẩn ra bờ sông rửa mặt cho tôi. Trong lúc tôi ngồi trên cầu ván khóc tức tưởi, tôi nghe tiếng khóc sụt sùi của chị Hai, và chị quàng tay ôm tôi vào lòng. Một cữ chỉ hiếm hoi để bày tỏ tình thương của chị, vì ít khi nào chị làm như vậy, mặc dù chị rất thương tôi.

                  Trong nhà anh chị em tôi sợ cha hơn là sợ má. Còn chị Hai thì khỏi phải nói, dù sợ hay không sợ thì ngày nào tôi cũng phải qua tay chị. Nhất là chiều tối lúc chị tắm kỳ cọ cho tôi, lần nào cũng mắng: “Coi nè, mầy ở dơ như tù!”  Không lần nào chị không nói câu đó.
                   
                   
                  Các Nữ Tu
                   
                  Ngoài gia đình với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ, còn có cái nhà “bánh ít”  phía sau nhà thờ là nơi tôi có nhiều kỷ niệm nhất trong sáu năm đầu cuộc đời. Sở dĩ gọi là “nhà bánh ít” vì nó trông giống như một cái bánh ít, nằm dính vào sau nhà thờ dùng làm nơi nghỉ ngơi cho cha sở khi lên thăm họ nhỏ và lúc khác thì kê bàn cho các Dì dạy trẻ con. Các Nữ tu này mặc áo dòng đen từ cổ tới gót chân, trên đầu lại có cái lúp đen phủ xuống tới lưng và bên trong có bọc vải trắng che cả đầu và tai. Như thế chỉ từ trán trở xuống tới cổ và hai bàn tay là không che kín. Khi các Dì đứng chúng tôi không thấy cả bàn chân, nhưng khi ngồi thì thấy bàn chân mang guốc. Việc dạy học chẳng có trường lớp gì, chỉ dạy nhìn mặt chữ trong cuốn vần có hình con rùa và con thỏ ngoài bìa.

                  Các Dì được sự tin cậy thương mến và kính nể của bà con trong vùng. Còn chúng tôi xem các Dì như những người mẹ trong gia đình. Các Dì dạy dỗ, sửa phạt và đánh đòn chúng tôi nhưng chẳng ai lấy thế làm phiền. Nói cho cùng, chúng tôi cũng đáng bị ăn đòn lắm! Tôi còn nhớ có lần tôi bị Dì Ba phạt vì tội ăn vụng cơm rượu, có nơi gọi là rượu nếp. Dì Ba có một hũ rượu nếp để trong nhà bếp. Tôi thèm quá, nhân lúc Bà lên nhà thờ, tôi bóc ăn gần một phần ba hũ, chẳng may bị cô em họ tên là Sương bắt gặp và “báo cáo”! Bà Ba không đánh nhưng trói tay tôi lại và cho ngồi chung với con gái trong “nhà bánh ít” cho tôi xấu hổ vì tội ăn vụng!

                  Ngoài giờ học, bọn trẻ con chúng tôi thường ở chơi trong nhà các Dì và được các Dì cho ăn bánh, ăn xoài... Lúc bấy giờ vườn các dì có rất nhiều xoài và những trái cấm này đã trở thành cơn cám dỗ triền miên. Nhiều đứa trong bọn trẻ bị ăn đòn cũng vì chọi xoài và lén bẻ xoài còn non. Các Dì lúc nào cũng bảo chúng tôi chờ cho xoài chín sẽ hái cho ăn, đừng ném đá rụng hết. Nhưng chúng tôi làm gì có đủ kiên nhẫn chờ cho xoài chín! Biết đời thuở nào nó mới chín trong khi mỗi ngày đi học băng qua vườn xoài, lúc nhìn lên những trái xoài treo tòn ten là đã thèm nhỏ dãi!
                   
                   
                  Chân trời mới
                   
                  Tôi sống với kỷ niệm êm đềm đó tới năm 1949. Năm đó tôi tròn 6 tuổi và cũng là năm gia đình tôi phải tản cư về gần họ đạo Mai Phốp nơi có cha sở cai quản, lúc bấy giờ là cha Lê Vĩnh Trình.

                  Dĩ nhiên, lúc đó tôi không biết tại sao phải tản cư. Cho tới nay, tôi chỉ còn nhớ được hai việc trong cuộc tản cư này. Việc thứ nhất, tôi được đặt ngồi trên chiếc bè mà cha tôi đã kết lại bằng gỗ, được tháo gỡ ra từ nhà cũ và thả trôi theo dòng sông 2 cây số ra tới Cầu Vĩ. Ở tạm tại đó một thời gian, rồi từ đó mới theo lộ xe hơi đi thêm 2 cây số để tới chỗ ở mới gọi là Cầu Đá, và từ đây còn cách nhà thờ Mai Phốp thêm 2 cây số nữa. Việc thứ hai là khi tới Cầu Vĩ, gia đình tôi ở nhờ một gia đình lạ trong một thời gian ngắn, tôi không còn nhớ bao lâu. Một hôm bà chủ nhà này làm bánh bò, tức là cho bột lỏng có đường vào trong các lon sữa bò hoặc lon cá mòi rồi cho vào nồi hấp cách thủy. Khi chín, bánh sẽ phồng lên rất thơm và hấp dẫn, bên trong có những lỗ trống nhỏ và dài thẳng lên gọi là “rễ tre” vì nó tua tủa giống như chùm rễ tre.

                  Hôm đó má tôi đi vắng và tôi ngồi cạnh nồi hấp chờ đợi và thèm thuồng. Nếu má tôi có ở nhà, chắc chắn bà chẳng đời nào cho tôi ngồi chực như vậy. Tôi vẫn nghĩ giống như những lần má tôi làm bánh, trước sau gì tôi cũng được ăn! Khi bánh chín, bà chủ nhà mở nắp vung ra, hơi bánh bốc lên thơm ngào ngạt, làm nước miếng tôi tuôn ra cuồn cuộn. Cặp mắt bé thơ của tôi nhìn gần như muốn thủng lỗ và làm thành “rễ tre” trên mặt mỗi cái bánh bò. Nhưng! Ôi chữ ‘nhưng’ thật quái ác. Bà chủ nhà vô tình chậm rãi lấy từng chiếc bánh ra khỏi nồi hấp, để cho nguội, xếp vào mẹt, đậy lại và... mang đi bán! Tôi ngẩn người tiếc rẻ vì chẳng được một chiếc bánh nào. Mấy chục năm sau, tôi vẫn còn nhớ kỷ niệm đau thương của tuổi thơ nghèo đói trong lúc tản cư này.

                  Trong đợt tản cư đó, gần như mọi gia đình Công giáo đều bỏ làng ra đi. Một số xuống Mai Phốp là một làng lớn, có khu vực người Pháp đóng, có chợ búa, nhà thờ, có cha sở, có trường học của nhà thờ và cả trường chính phủ mà lúc đó chúng tôi gọi là trường làng. Một số ít khác, trong đó có gia đình tôi thì tạm cư ở Cầu Đá, nằm cách Mai Phốp hai cây số cũng trên con đường liên tỉnh nối liền Vĩnh Long và Trà Vinh. Cầu Đá lúc bấy giờ là một ấp nhỏ, dân cư thưa thớt, không có trường học hay chợ búa gì. Tất cả mọi thứ sinh hoạt đều phải xuống Mai Phốp.

                  Sở dĩ có tên Cầu Đá vì trên tỉnh lộ có cây cầu bằng đá bắc ngang qua con sông nhỏ. Con sông này bề ngang chỉ độ mười thước, nối từ sông cái chạy dài vào cánh đồng ruộng bên trong. Dân chúng cất nhà dọc theo hai bên bờ sông rất đông. Con sông nhỏ này là nguồn cung cấp nước cho dân chúng sinh sống và trồng trọt, nhất là cho nhà nông làm mùa. Vì là sông đào nên nước lớn thì ngập cao đầu người, còn nước ròng thì cạn chỉ ngang đầu gối, có thể xắn quần lên cao và đi bộ qua bên kia được. Có những con nước rọt, đáy sông cạn queo, chỉ còn tới ngang mắt cá chân. Những lúc đó nhiều người thường be bờ tát nước bắt cá. Con sông này tuy nhỏ và cạn nhưng cá thì nhiều vô kể. Khi nước lớn, cá nước ngọt từ ngoài sông cái theo dòng lội vào sông nhỏ và lên ruộng kiếm ăn. Nước ròng lại trở ra sông cái, nhưng ra chưa tới nơi đã có đoàn người lội xuống xúc cá, nôm cá, lưới cá, mò cá... Mùa mưa nước ngập thì cá lên sống tràn lan trên cánh đồng bát ngát bao la và sinh sản ở đó. Đến mùa khô cá rút xuống sông hàng đàn hàng đống. Có những vùng đất hoang, nước ngập quanh năm và cá sống ở đó từ năm này qua năm khác sanh sôi nẩy nở.
                   
                   
                  Cái thú nhà quê
                   
                  Tuổi trẻ tôi lớn lên trong cánh đồng ruộng mênh mông về mùa nào cũng có cá, chỗ nào cũng có cá. Ban ngày thì bắt cá theo ban ngày, ban đêm thì cầm đèn ra ruộng đi soi bắt cá ban đêm. Nhất là về mùa khô, trên ruộng bắt đầu cạn nước, đàn cá sau một năm tung hoành và sinh sản trong ruộng lúa, bắt đầu tìm đường ra sông. Chính lúc này những người mê cá như tôi hoạt động hăng hái nhất. Cách bắt cá nhanh và đơn giản nhất là móc hầm chặn ngang đường cá đi. Ban đêm cá tới đó bị chặn ngang, bực mình lấy đà phóng và rơi ngay vào hầm. Sáng ngày anh em chúng tôi chỉ việc lấy bao tải hốt cá vào và è cổ gánh về nhà làm mắm. Lúc đó cả làng ai cũng kiếm được cá nên ăn không hết và cũng chẳng bán cho ai được. Do đó nhà nào cũng làm một hũ mắm cá để khi mùa khan hiếm cá thì có mà ăn.

                  Ngoài cá ra còn hai thứ khác cũng làm tôi chết mê chết mệt là chim và chuột đồng. Chuột sanh sôi nẩy nở rất nhiều và rất nhanh trên các cánh đồng lúa, nhất là sống trong vùng đất hoang vu chưa khai phá. Cái thú nhà quê của đứa trẻ con nhà nông như tôi biến quãng đời thơ ấu đó thành chuỗi ngày thần tiên. Dần dần tôi đã trở nên một “chuyên viên” trong việc đánh bắt cá, bắt chim và bắt chuột lúc nào tôi cũng không hay. Chẳng những tôi thích bắt chim bắt chuột mà còn phải làm sao tìm cách nào bắt cho hữu hiệu và nhiều hơn người khác. Kỹ thuật của tôi trong phạm vi này luôn được cải tiến.

                  Cha tôi cũng cất nhà trên bờ sông nằm cách đường lộ liên tỉnh chừng hai trăm thước. Bên cạnh đó cũng có vài gia đình bà con của tôi, còn lại hầu hết là những người đã làm ăn sinh sống ở đây từ lâu. Tôi bắt đầu giai đoạn mới của tuổi trẻ. Hàng xóm mới, bạn bè mới nên buổi ban đầu tôi rất bơ vơ lạc lõng ở xứ Cầu Đá xa lạ này. Cũng may là có gia đình Ông Tám ở cách nhà tôi không xa. Ông Tám là em của bà Nội tôi, cũng vừa tản cư trong đợt này. Ông Tám có người con út mà tôi gọi bằng chú tên là Hữu, chú út Hữu, chỉ lớn hơn tôi một tuổi nên hai chú cháu chơi với nhau từ nhỏ. Mặc dù hai chú cháu có nhiều lúc hục hặc nhau nhưng không thể nào thiếu nhau được.

                  Nếu những năm đầu đời ở Bưng Trường, tôi chỉ quanh quẩn trong khu vực nhà thờ và nhớ mãi về những xác chết trôi sông, thì về Cầu Đá này, thế giới của tôi mở rộng hơn. Một phần lúc này tôi đã lớn hơn một tuổi và ở đây dân chúng đông hơn, nhờ đó tôi có nhiều bạn trẻ con cùng trang lứa. Phần đông những đứa bạn này sống ngay cạnh nhà và thường rủ nhau bày ra đủ mọi thứ trò chơi của trẻ con như đánh đáo, bắn bi, làm nhà chòi... và nhiều thứ trò chơi khác mà trí tưởng tượng của chúng tôi lúc bấy giờ có thể nghĩ ra được.

                  Trong thời gian này nếu tôi say sưa với cá, chim, chuột và các trò chơi bao nhiêu, thì ngược lại tôi sợ đi học bấy nhiêu! Tôi đã phải ăn đòn không biết bao nhiêu vì sự tương phản quái ác này. Không biết là may mắn hay rủi ro, khi gia đình tôi vừa về Cầu Đá thì cha sở Lê Vĩnh Trình cho cất trường học ngay bên kia sông đối diện với nhà tôi bên này. Ngôi trường rộng rãi khang trang và lợp ngói này không phải cất bằng vật liệu mới, nhưng là mua lại một nhà cũ, có lẽ,  vì tản cư phải bán đi. Vì ngôi trường đối diện ngang nhà tôi và có cây cầu khỉ bắc ngang sông, nên tôi nhớ rất rõ, cảnh bà con trong làng đưa trâu tới kéo cộ đất đắp nền nhà trường, và ngày khánh thành thật tưng bừng. Ngày đó dân làng tới tham dự rất đông. Có nhiều đồ ăn thức uống và bọn trẻ con chúng tôi cũng được ăn xôi với thịt gà.

                  Từ đó đám trẻ con trong vùng, cả người có đạo lẫn người ngoài đạo đều đưa con tới đó học với hai Dì phước Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, từ nhà thờ Mai Phốp lên dạy học. Thời gian đầu bà con trong vùng phải cử các thanh niên sáng ngày đạp xe lôi chở các Dì lên dạy, chiều lại đưa về. Nhưng về sau, có lẽ, vì quá bất tiện nên nhà trường được ngăn ra một phòng riêng và hai Dì ở luôn trong trường Cầu Đá. Chương trình học chưa được quy định hẳn hoi. Bọn trẻ trong trường được chia làm hai lớp, gọi là Lớp Lớn và Lớp Nhỏ. Hai lớp ngồi chung trong một nhà chỉ ngăn ra bằng một vách ván cao vừa bằng đầu một người lớn. Bên Lớn thì học Sách Phần, tức là sách Giáo lý, còn bên Nhỏ thì học vần, cũng là vần con rùa và con thỏ. Tôi bắt đầu vào bên Nhỏ, và Dì dạy chúng tôi đánh vần. Ngoài cuốn vần con rùa và con thỏ, trong lớp cũng có những tấm bảng vuông chừng một thước tây bằng giấy thật cứng, có đóng nẹp tre và quai bằng dây kẽm để treo lên tường. Trên bảng có in các chữ cái theo thứ tự A B C D Đ E Ê... thật to để chúng tôi nhận diện và đọc tên.

                  Học Lớp Nhỏ một thời gian tôi được đưa qua bên Lớp Lớn. Lúc này chương trình cao cấp hơn là được học bản “cửu chương” tức là phép tính nhân và học sách phần, tức là sách Giáo lý. Lúc bấy giờ sách vở viết bằng chữ quốc ngữ, nhưng âm hưởng của chữ nho.

                  Mỗi buổi sáng sau khi đọc kinh và trước khi bắt đầu giờ học là Dì phước “kêu sổ”, mà sau này gọi là điểm danh. Khi Dì gọi tên ai có mặt thì lên tiếng “Dạ”. Những người vắng mặt nhưng có nhờ bạn xin phép thì người bạn đó phải nói lý do tại sao nghỉ học. Em nào nghỉ mà không xin phép là trốn học, khi vào trường lại sẽ bị phạt quỳ gối đội tập. Con gái không đứa nào trốn học, chỉ có bọn con trai chúng tôi là phạm vào tội này. Hình phạt quỳ gối đội tập tuy không nặng nề nhưng nhục nhã trước mặt bạn bè.
                   
                   
                  Sợ trường học

                  Hàng ngày tôi vẫn phải cắp sách lần theo cầu khỉ trước nhà qua bên kia sông đi học, trong khi có mấy đứa bạn cùng tuổi lại không đi học, được tự do chạy nhảy, rượt chuột, bắt chim, lưới cá trong cánh đồng ruộng sau nhà. Mấy đứa bạn này gia đình nghèo phải ở nhà làm ruộng giúp gia đình. Có mấy đứa bằng tuổi tôi đi ở đợ chăn trâu cho những gia đình khá giả trong làng. Tôi phải cặm cụi trên những hàng chữ, những con số, những bài học thuộc lòng trong sách Giáo lý dài dằng dặc mà tôi cũng chẳng biết học để rồi làm gì? Kèm theo việc học lại còn bị ăn đòn nữa. Hết ở trường bị Dì phước đánh vì nghịch ngợm và không thuộc bài, tới về nhà bị chị Hai đánh cũng chỉ loanh quanh từng ấy tội. Lúc đó việc đi học đối với tôi là một cực hình. Một tuần lễ tôi phải đi học 5 ngày cả sáng lẫn chiều. Thứ Năm và Chúa nhật được nghỉ. Các ngày trong tuần của tôi được chia ra làm ba loại và mang các màu khác nhau:

                  - Thứ Năm: màu hồng vì được nghỉ cả ngày.

                  - Chúa Nhật: màu xanh, được nghỉ nhưng phải đi nhà thờ.

                  - Các ngày còn lại: màu đen, không cần phải nói lý do!

                  Vì cái tội ham chơi và lười học, nên tình trạng sức khỏe của tôi cũng biến thiên theo chu kỳ thay đổi màu sắc trong tuần. Nếu các buổi chiều thứ Tư, sau giờ tan trường về, tôi thấy người mình đầy sinh lực, hăng hái và khỏe mạnh, thì ngược lại các buổi sáng thứ Hai làm tôi mệt nhọc như không còn chút nhựa sống nào sót lại trong người.

                  Vào những ngày “đen”, quãng 7 giờ rưỡi sáng là có một hồi trống từ trường học vang lên, gọi là trống học, báo hiệu cho học trò tới trường. Một giờ sau Dì phước rung chuông bắt đầu vào lớp. Không hiểu tại sao mỗi lần nghe tiếng trống học là người tôi nóng ran lên và bắt đầu triệu chứng như bị sốt. Ngày nào cũng như ngày nấy, nghe tiếng trống học là tôi bệnh! Có khi chưa nghe tiếng trống mà chỉ vừa nghe hai tiếng nhịp rất nhẹ “thùng, thùng” của dùi trống chạm vào mặt trống, trước khi bắt đầu hồi trống học là tôi đã bệnh rồi. Tôi sợ đi học vô cùng, nhưng lại không dám trốn học, vì đó là một trong những tội trọng, không có trường hợp giảm khinh trong “bộ luật gia đình” của tôi.

                  Mỗi tuần chỉ nghỉ được ngày thứ Năm, nhưng không hiểu tại sao ngày thứ Năm mặt trời lại lặn sớm hơn những ngày khác trong tuần. Hiện tượng này làm tôi cứ thắc mắc hoài. Mấy đứa bạn học của tôi cũng nói như vậy. Nhưng người lớn thì không thấy ai để ý điều đó.

                  Những ngày thứ Năm tôi được theo cha và anh tôi đi ruộng. Buổi trưa được lùa đàn trâu 7 con của gia đình nhập với bầy trâu mấy chục con trong làng vào đất hoang. Ở đó nhóm trẻ chăn trâu chúng tôi tha hồ bắt chim, tát cá, rượt chuột là một thứ hạnh phúc không gì sánh bằng. Lúc đó tôi nghĩ trời sanh tôi ra, là để chăn trâu bắt cá và rượt chuột! Nhưng một tuần lễ chỉ có một ngày thứ Năm.
                  Tôi cầu mong cho có những ngày nghỉ bất thường, nhưng khó quá.

                  Muốn nghỉ học mà không có can đảm để trốn học, tôi chỉ còn cách là cầu nguyện cho Dì phước dạy lớp tôi đau. Từ đó tôi bắt đầu cầu nguyện theo ý này trong những đêm ngồi đọc kinh trong gia đình, “Xin Chúa cho Dì Tư đau, đau càng lâu càng tốt, nhưng đừng chết, chỉ đau thôi!” Tôi kêu xin cả với Đức Mẹ giúp tôi trong việc này nữa. Nhưng khổ nỗi, tôi càng cầu thì Dì Tư càng khỏe mạnh, hồng hào và đẹp người ra! Có một lần hình như Chúa cũng nghe lời tôi kêu xin. Một hôm tôi thấy Y sĩ Bá Phước Đường là một đông y người Hoa ở chợ Mai Phốp lên trường tôi. Nghe nói Dì Tư đau nên rước thầy coi mạch hốt thuốc. Tôi mừng thầm trong lòng!

                  Chiều tối hôm đó tôi hỏi má vừa đi thăm Dì Tư về coi bệnh tình Dì ra sao. Má đâu có biết là tôi hỏi thăm không phải vì quan tâm tới sức khỏe của Dì Tư mà vì một ý đồ không lương thiện. Tôi gần như muốn nhảy cỡn lên khi nghe má nói Dì Tư đau khá nặng, người nóng ran đang nằm trùm mền sau khi uống thuốc bắc và cạo gió đỏ cả cổ và hai bên thái dương. Má tôi cũng nói có nhiều bà con trong làng tới thăm và cho nhiều cam và hột gà, vì trong vùng ai cũng thương quý các Dì phước.

                  Mặc dù má tôi không nói, nhưng tôi cũng đoán là ngày mai Dì Tư không dậy được và chúng tôi sẽ được nghỉ học. Viễn ảnh về một ngày màu hồng và được tung tăng trên cánh đồng phía sau nhà để bắn chim, câu cá, rượt chuột làm tôi vui sướng rộn ràng. Sáng hôm sau vẫn có tiếng trống học, nhưng tôi đoán là bên Nhỏ đi học còn bên Lớn tôi được nghỉ, mặc dù tôi chưa nghe nói tới chuyện này. Thấy gần tới giờ rồi nhưng tôi chưa chuẩn bị đi học, chị hai tôi giục:

                  - Còn thằng ‘quỉ nhỏ’, sao tới giờ rồi mà chưa thay đồ đi học còn ngồi đó?

                  Chị Hai vẫn thường gọi tôi là “thằng quỉ nhỏ” và anh kế tôi là “thằng quỉ lớn”! Chắc là lúc đó anh em  chúng tôi chẳng vừa gì. Tôi ngần ngừ trả lời:

                  - Bữa nay Dì Tư đau mà đi học gì!

                  - Thằng làm biếng! Ai nói cho mầy là được nghĩ?

                  - Thì Dì Tư đau làm sao dạy được?

                  Chị tôi chỉ tay ra lệnh:

                  - Đi, đi mau, qua đó chừng nào Dì cho nghỉ thì về, đồ làm biếng!

                  Chi Hai tôi vẫn thường mắng tôi là “đồ làm biếng”. Chị mắng như vậy cũng không sai chút nào. Tôi buộc lòng phải thay đồ đi học và cầm chắc là khi qua trường rồi Dì sẽ cho về. Dì Tư làm gì đã ngồi dậy nổi mà dạy học! Trong lúc lần bước trên cây cầu khỉ, tôi vẫn thầm mong cho mấy đứa kia cũng ở nhà hết để việc được nghỉ học càng có cơ sở hơn. Khi qua tới cửa trường tôi buồn bã thấy gần như ai nấy đều có mặt đủ hết và chẳng có dấu hiệu gì sẽ được nghỉ. Gần tới giờ rung chuông tôi vẫn hy vọng coi có một dấu hiệu gì mang lại tin vui không, nhưng không có gì bất thường.

                  Tới giờ vẫn rung chuông, vẫn đọc kinh như thường lệ, nhưng chỉ có Dì bên Nhỏ xuất hiện. Sau giờ đọc kinh, trước khi kêu sổ, Dì bên Nhỏ nói với chúng tôi là bữa nay Dì Tư không được khỏe, nên Dì sẽ dạy một mình hai lớp và dặn chúng tôi không được làm ồn ào để Dì Tư nằm nghỉ, có thể ngày mai Dì Tư sẽ hết bệnh và dạy được. Tôi nghe mà chán nản trong lòng, nhất là Dì bên Nhỏ này lại khó tánh và sử dụng cây roi thường xuyên hơn Dì Tư của lớp tôi. Kể từ đó tôi không cầu nguyện cho Dì Tư đau nữa, vì chỉ khi nào cả hai Dì cùng đau một lượt chúng tôi mới được nghỉ. Mà việc cho hai Dì phước cùng đau một lượt chắc là Chúa không mấy khi làm!
                   
                   
                  Nhận diện cuộc đời
                   
                  Sau hai năm học trường Cầu Đá, tôi đã hết lớp và phải đi xuống học dưới trường nhà thờ Mai Phốp, nơi mà anh kế tôi đã học ở đó một năm rồi. Cuộc sống tôi lại bắt đầu thay đổi và thế giới của tôi rộng hơn với một nơi có chợ búa, nhà thờ, cha sở, dân chúng đông đúc và nhất là căn cứ trú đóng khá lớn của người Pháp. Lúc bấy giờ tôi đã 11 tuổi và bắt đầu nhận thức được vài sự kiện trong vùng Mai Phốp. Tôi được nhập vào lớp nhì, còn anh kế tôi đang ở lớp nhất tức là lớp cuối cùng của bậc tiểu học. Ở đây trường ốc có quy củ hơn. Trường có từ lớp năm tới lớp nhất và cũng do các Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn dạy, dưới sự điều hành và quan tâm của cha sở.

                  Cha sở Lê Vĩnh Trình là một con người oai phong lẫm liệt mà lúc đó tôi nghĩ là trên đời này không ai sánh bằng. Lúc đó ngài quãng gần 50 tuổi, tóc bạc hoa râm, dáng người tầm thước, thân hình rắn chắc và tướng đi oai vệ. Sau giờ làm lễ, cha Trình thường mặc quần sọt xanh, áo sơ mi trắng ngắn tay cho vào quần, mang giày vải trắng và vớ trắng kéo lên tận đầu gối. Trông ngài rất khỏe mạnh. Tôi thấy tất cả mọi người đều sợ cha Trình. Không những chỉ riêng người Việt Nam mà cả những người Pháp cũng khép nép khi phải đối diện với ngài.

                  Cha Trình nói tiếng Tây như gió. Mặc dù không biết gì về tiếng Pháp nhưng có mấy lần thấy cha Trình quát nạt cả những sĩ quan Pháp làm tôi vô cùng ngạc nhiên, vì tôi thấy người Pháp bấy giờ uy quyền hơn người Việt Nam rất nhiều. Các vị thế trong tôn giáo, chính trị và xã hội lúc đó đã tạo cho cha Trình một con người đầy quyền thế về mọi mặt. Ngay từ lúc còn nhỏ tôi cũng nghe kể lại là cha Trình còn có thể xin tha mạng cho bất cứ ai bị người Pháp bắt giam mà lúc đó gọi là “tội”. Sáng nào tôi cũng thấy nhiều người bị lính dẫn đi thành hàng bốn, nói là đi làm “cỏ quê”â. Hồi nhỏ nghe như thế tôi tưởng là đi nhổ cỏ, nhưng không phải vậy. “Cỏ quê” là “corvée” trong tiếng Pháp được nói theo cách của tiếng Việt, nghĩa là đi làm tạp dịch.

                  Tôi có nghe nói tới một địa điểm nằm phía sau chợ Mai Phốp không xa, gọi là Gò Dương, vì nơi đó có trồng nhiều cây dương là nơi người Pháp bắn những người “tội” khi họ bị tử hình. Mặc dù tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cảnh bắn người này, nhưng sự kiện đó làm tôi nhớ lại những xác chết trôi sông mà tôi thấy hồi còn bé thơ ở Bưng Trường.

                  Cha Trình rất để tâm về việc học hành. Cha thường đi tới lui thăm các lớp học và cũng thẳng tay sửa trị những học sinh bướng bỉnh. Nhất là những đứa nào ăn cắp thì ngài đánh bằng roi mây lằn ngang lằn dọc. Tôi đã chứng kiến cảnh cha Trình đánh học sinh mà tôi hãi hùng. Trường tiểu học nhà thờ Mai Phốp này có quy củ và đi vào chương trình các môn học hẳn hoi, vì nơi đây chúng tôi được dạy để chuẩn bị thi bằng tiểu học. Nếu ai thi rớt sẽ không được lên ban trung học. Mặc dù trường đã đi vào nề nếp lớp lang, nhưng chưa hẳn là hoàn toàn. Có chuyện sau đây làm tôi nhớ mãi.

                  Lúc đó trong lớp nhì của tôi có hai anh vừa dốt lại vừa nghịch ngợm phá phách tên là Ngàn và Ca. Dì phụ trách lớp tôi chịu không nổi hai ông tướng này đành phải “tống” lên lớp nhất cho Dì lớp đó có tiếng là nghiêm khắc trị giùm. Tưởng là sau khi qua khóa “huấn nhục” để hai anh thuần thục rồi quay về lớp cũ. Không ngờ hai anh đầu bò đầu bứu này lên đó rồi ngồi lại luôn. Cuối năm lại đi thi tiểu học sớm hơn lớp chúng tôi một năm! Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật và chỉ có thể xảy ra vào thời buổi lúc bấy giờ.

                  Trong những năm phải xuống Mai Phốp học, tôi càng mệt nhọc và chán ngán hơn. Những ngày đi học, sáng nào tôi cũng phải thức dậy từ 4 giờ sáng cùng với cả nhà. Cha tôi và các anh lo đọc kinh sáng và ăn cơm để chuẩn bị ra đồng, còn tôi theo đoàn người quơ đuốc đi bộ 2 cây số dự Lễ sáng ở nhà thờ Mai Phốp. Lễ xong còn sớm, tôi qua chợ mua quà ăn sáng và ở lại học tới chiều mới đi bộ về Cầu Đá. Mỗi ngày má cho tôi 5 cắc , tiếng miền Bắc gọi là hào, ăn quà sáng, nhưng lúc nào tôi cũng đói và thèm thuồng nên một hôm do sự rủ rê của thằng em họ tên Long, bọn tôi bày trò lưu manh.

                  Lúc đó chính phủ sắp phát hành tờ giấy bạc 2 đồng loại mới, và in hình mẫu trong báo, hình in trong báo này rất giống với tiền thật nên hai đứa tôi cắt ra xếp làm tư và mang tiền... giấy báo đi mua quà lúc còn tranh tối tranh sáng khi vừa đi Lễ ra. Khi đứng chờ bà bán hàng gói xôi bắp, tôi run quá là run vì chưa bao giờ tôi làm chuyện gian dối đó. Lúc nhận gói xôi bắp từ tay bà bán hàng, tay tôi run như cầy sấy. Vừa nhận xong gói xôi, tôi ném tờ hai đồng giả xuống và cắm đầu chạy. Bà bán hàng quá ngạc nhiên vội cầm tờ giấy bạc lên coi và la lên "Bắt nó! bắt nó!” Tôi bị tóm lại. Thấy tôi run rẩy và sợ quá, bà bán hàng thương cho gói xôi, vì bà biết là tôi đói quá làm liều chứ không phải là lưu manh chuyên nghiệp. Nếu lưu manh chuyên nghiệp thì đâu có run như vậy! Cũng may là bà không biết nhà tôi ở đâu, nếu việc này tới tai cha má và chị Hai chắc là tôi phải no đòn. Tôi biết cha tôi rất nghiêm khắc trong các tội như thế này, vì có lần tôi hái trộm  quả đu đủ của Ông Tám mà cha tôi đánh tôi một trận đòn nên thân.

                  Nhớ lại lúc bấy giờ tôi bị ăn đòn của nhiều người vì cái tội ăn cắp trái cây. Trước tiên là những trận đòn ra đòn  của cha sở Lê Vĩnh Trình vì tội chọi me. Chung quanh nhà thờ và nhà cha sở có mấy cây me rất to và cao, cao còn hơn nóc nhà thờ, và tới mùa thì trái nhiều vô kể. Loại “trái cấm” to bằng ngón tay có những mắc nối liền nhau dài chừng 10 phân và có hình cong như cái sừng trâu này là cơn cám dỗ mãnh liệt và triền miên của bọn trẻ con học trò chúng tôi. Trái me khi còn sống rất chua phải ăn với muối ớt, khi đã gần chín gọi là “me giốt” thì vừa chua lại vừa ngọt! Người lớn, nhất là mấy bà mấy cô, mà nghe nói tới me giốt còn chảy nước dãi đầy miệng, huống gì bọn trẻ con chúng tôi? Mặc dù cha Trình bắt gặp chọi me, hoặc leo lên cây hái trộm me thì bị đòn đến nơi đến chốn, nhưng không một ngày nào trong “mùa me” mà cha Trình lại không có thân chủ. Lúc đó tôi nghĩ, trong các thứ tội thì tội gì cũng có thể chừa bỏ sau khi đã làm việc đền tội, riêng cái tội ăn cắp me thì không! Đánh chết cũng không chừa!

                  Không phải chỉ những trái me giốt trên cành làm khổ chúng tôi mà thôi, nhưng còn những thứ hoa quả ăn được ngay trên mặt đất nữa. Nhớ lại năm tôi đang học lớp đệ lục tại Mai Phốp, có lần bà chủ của vườn mía trồng cạnh sân trường bắt gặp bọn học trò chui vào giữa đám mía bẻ trộm. Tôi không nhớ tên đứa nào nhưng trong số đó có trò Lễ! Bà chủ vườn vào “mắng vốn”( mét) với thầy giáo. Thầy bắt chúng tôi đứng lên, giảng một bài mô-ran và bắt xin lỗi bà chủ vườn mía. Lần đó tôi nhớ mãi và rất thích câu kết luận của thầy nói với người đàn bà mặt mày đang đỏ gay vì giận dữ: "Tôi đã rầy các em, nhưng sao bà lại trồng mía ngay cạnh trường học? Hàng ngày các em nhìn đám mía của bà như mèo thấy mỡ heo làm sao nhịn được?”. Bà chủ nhà nghe nói vậy quày quả bỏ đi ra,  sau khi đã liếc ông thầy giáo “dễ thương” của tôi bằng cặp mắt sắc còn hơn dao cạo râu!

                  Từ những việc của trẻ con đó, sau này lớn lên tôi nghĩ, cách tốt nhất để “trị” cái tội trẻ con ăn cắp trái cây là... đừng bao giờ trồng cây ăn trái! Cả những cây mà thân ăn được như mía, vỏ cây ăn được như quế, rễ cây ăn được như khoai mì, củ ăn được như khoai lang, đậu lạc, hoa ăn được như gương sen, lá ăn được như cây gừa, cây chiếc... cũng không nên trồng. Ngược lại nên trồng nhiều hoa hồng vì thân cây có gai, trẻ không dám sờ tới và hoa hồng khoe sắc sẽ tô điểm thêm cho cuộc đời mà có người gọi là “thung lũng nước mắt" này!
                  Chiều lại sau khi cả nhà cơm nước xong, cha tôi mang kính vào nằm lên ghế xích đu, tay cầm cuốn sách Giáo lý, gọi anh tôi và tôi tới để trả bài một chương nào đó mà cha tôi đã giao từ ngày hôm qua. Nếu không thuộc bài sẽ bị cha tôi bắt cúi nằm dài và đánh thẳng tay. Tôi nhớ chỉ bị ăn đòn của cha tôi trong trường hợp này và tội hái trộm trái cây mà thôi. Vì thế, làm gì thì làm tôi cũng phải học một chương sách giáo lý một ngày, và điều này càng làm cho tôi ngán việc học hơn.

                  Trong khi đó có thằng bạn trong xóm hơn tôi vài tuổi, nhưng không phải đi học mà đi làm lơ xe. Tên nó là Chín, mà chúng tôi gọi là “Chín ghẻ” vì có một dạo, người nó đầy ghẻ.  Nhìn nó tôi thèm thuồng và cảm thấy cuộc sống của nó hạnh phúc biết bao. Chẳng những không phải đi học, không phải thức khuya dậy sớm, không phải ăn đòn, còn được chửi thề nói tục thả giàn, lại được tung tăng bay nhảy như con chim tung cánh trên bầu trời bao la! Có những hôm nhìn thấy thằng Chín ghẻ đầu đội nón vải có quai dưới cằm, mặc bộ quần áo màu cháo lòng, tay áo xắn lên đang đánh đu phía sau chiếc xe đò chạy đường Vũng Liêm -Vĩnh Long. Hình ảnh nó thật ngon lành, tôi đâm ra ước mơ sau này lớn lên tôi sẽ chọn con đường đi làm lơ xe. Nếu được làm lơ xe chạy lên Sài Gòn thì không còn gì hạnh phúc bằng, vì lúc đó thủ đô Sài Gòn là một cái gì quá với sự tưởng tượng của tôi.
                   
                   
                  Thảm cảnh gia đình
                   
                  Năm 1953, khi vừa tròn 10 tuổi, một thảm kịch gia đình xảy ra đã làm tôi lớn hơn trước tuổi. Đúng ra chuyện này không xảy ra trong gia đình tôi mà là gia đình Ông Tám tôi.

                  Ông Tám là em của Bà Nội tôi. Ông có nhiều người con, và người cuối cùng là Chú út Hữu mà tôi đã nói tới. Câu chuyện này liên quan tới người con thứ tư và thứ sáu mà tôi gọi bằng Cô Tư và Chú Sáu.

                  Cô Tư có chồng và 3 con, đứa con gái nhỏ nhất tên Huệ, bằng tuổi tôi. Khi tản cư xuống Cầu Đá thì Chú Sáu tôi đi lính cho Pháp. Còn Dượng Tư, chồng của Cô Tư ít khi thấy có mặt ở nhà. Lúc đó tôi còn nhỏ quá nên cũng chẳng biết là Dượng Tư tôi ở đâu và làm gì. Một ngày kia Chú Sáu đi trong toán tuần phòng và một người Việt Minh bị sa vào ổ phục kích. Khi bị động, người đó chạy thoát thân nhưng Chú Sáu và đám lính rượt theo bắn anh ta té xuống. Chú chạy tới định bắn tiếp theo thì bất thần nghe người đó gọi tên mình “Cậu Sáu Vinh”! Chú tôi kịp thời nhận ra đó là tiếng người anh rể của mình, Dượng Tư Bình, chồng của Cô Tư tôi. Chú tôi kinh hoàng chạy lại bồng người anh lên, nhưng vết thương quá nặng và Dượng Tư chết trên tay chú tôi sau khi trối lại: “Cậu Sáu! Anh không sống được, cậu hãy giúp chị Tư lo nuôi 3 cháu!” Không phải nói, ai cũng có thể đoán biết tâm trạng Chú Sáu tôi lúc bấy giờ như thế nào. 

                  Khi đưa xác Dượng Tư về, bà con và hàng xóm tới đầy nhà tràn ra cả ngoài sân. Nhà tôi kế bên nên chạy qua trước tiên. Người lớn vào nhà trước, trẻ con chúng tôi đứng đầy ngoài sân. Tôi thấy mọi người đều khóc, riêng Cô Tư lúc đó khóc té lên té xuống và có mấy bà kè hai bên tay cô tôi. Bất ngờ trong tiếng than khóc rầm rĩ đó, tôi nghe một tiếng khóc rống lên thật to: “Anh Tư ơi! Chính em đã giết anh! Tha thứ cho em anh Tư ơi!” Tôi chen vào nhà thì thấy Chú Sáu tôi đang ôm xác Dượng Tư còn ướt đẫm máu và dính đầy bùn đất mà khóc lóc kêu gào! Nghe tiếng khóc rống của Chú Sáu, mọi người khóc lóc thảm thiết. Lúc đó có lẽ tôi đã đổ tới giọt nước mắt cuối cùng!

                  Thảm cảnh này đã làm tôi quá đau khổ và từ đó tôi thắc mắc nhiều chuyện mà không thể nào trả lời được. Người Pháp là ai? Lính Pháp là ai? Việt Minh là ai? Ai là người tốt? Ai là người xấu? Tại sao có cảnh anh em trong một gia đình giết nhau như vậy? Sau này khi biết những xác chết trôi sông mà trong tuổi ấu thơ tôi thấy ở Bưng Trường là những người bị Việt Minh giết, tôi kết luận Việt Minh xấu vì họ giết người, và tôi tưởng người Pháp tốt. Nhưng khi tôi xuống Mai Phốp lại nghe nói có rất nhiều người “tội” bị người Pháp bắn ở Gò Dương, như vậy người Pháp cũng xấu. Vả lại lúc bấy giờ tôi vẫn không thể hiểu được những người Pháp từ đâu tới và ở đây để làm cái gì? Tôi không thể trả lời các thắc mắc đó, nhưng có một điều tôi nhận ra rất sớm, có lẽ sớm hơn rất nhiều đứa trẻ cùng tuổi với tôi lúc bấy giờ, đó là dân tộc Việt Nam là một dân tộc đau khổ.

                  Chính trong thời gian này có vài sự việc tôi còn nhớ mãi, đó là hiện tượng “tờ giấy bạc xé đôi”. Tôi không còn nhớ rõ năm nào, không biết tại sao, khi xài tiền mà không có tiền thối người ta chỉ việc xé tờ giấy bạc làm đôi và có giá trị phân nữa, và tôi đã từng xé nhiều lần! Thí dụ tờ 10 đồng, xé đôi thành 2 tờ 5 đồng. Một đồng xé đôi thành 2 tờ 5 cắc! Hiện tượng này kéo dài mấy năm trời. Tôi cũng còn nhớ ngày người Pháp cuốn cờ rời khỏi Mai Phốp, và nghe nói là rời khỏi Việt Nam luôn. Sáng hôm đó có một nghi lễ tại cột cờ trước sân nhà thờ, có rất đông người dự, cả tây lẫn ta, đa số mặc đồ trắng. Khi biết là người Pháp rút đi, lúc đó tôi cảm thấy buồn, mặc dù cũng chẳng hiểu làm sao tôi lại buồn. Cũng trong thời gian này làng tôi có trận dịch bệnh đậu mùa hoành hành, lúc đó người ta còn gọi là “trái giống”, là chứng bệnh rất dễ lây, làm chết người rất nhanh và nếu bệnh nhân  may mắn còn sống sót sẽ bị những nốt sẹo tên mặt.

                  Nhớ tới những năm bệnh đậu mùa hoành hành, tôi thấy phải viết lại một câu chuyện buồn. Một câu chuyện mỗi lần nhớ lại tôi vẫn còn thấy hối hận, và nước mắt tôi lúc nào cũng chảy ra. Ngay lúc tôi đang đánh máy những dòng này nước mắt tôi cũng đang chảy ra làm mờ màn ảnh.
                   
                   
                  “Thầy bảng mới”
                   
                  Năm 1955, lúc tôi 12 tuổi và đang học lớp nhì tại Mai Phốp, dì phước dạy tôi lúc đó là Dì Tư Loan. Một buổi sáng, có người đàn bà trẻ dẫn đứa con trai vào lớp tôi, người học trò mới này tên là Quỳ. Dì Tư gọi anh là trò Quỳ, lúc bấy giờ chúng tôi có chữ “trò”đứng trước tên của mình. Quỳ cũng bằng tuổi với tôi, nhưng dáng rất hiền từ như con gái. Người gầy ốm và cao dong dỏng, cổ cao đầu tròn húi cua. Mới nhìn qua trông Quỳ giống như con cò con đang nằm trong tổ, vì đầu trọc và cổ anh khá dài. Người học trò lạ mặt ngỡ ngàng và ít nói đứng xớ rớ kế bàn của Dì Tư, tay mân mê viền áo bà ba trắng đang mặc trên người. Cái cách Quỳ cài cúc áo làm tôi chú ý vì anh cài cả nút ở cổ, trông có vẽ quê mùa chất phác trong khi bọn“ma cũ” chúng tôi cũng mặc áo bà ba nhưng không cài nút sát cổ, như vậy trông oai và hợp thời trang hơn. Nói tóm lại, Quỳ gây cho tôi một ấn tượng khi anh vừa theo mẹ bước chân vào lớp.

                  Những ngày tiếp theo Quỳ trở thành một hiện tượng của lớp, anh là người hiền từ hiếm có và giỏi toán một cách đặc biệt, giỏi quá là giỏi! Cho đến đỗi Dì Tư phải ngạc nhiên. Những bài toán Dì Tư cho trong lớp, Quỳ làm một cách dễ dàng trong khi bọn chúng tôi phải è ạch một cách khổ sở, nhất là tôi, là người dốt toán nhất lớp. Từ đó, mỗi khi làm toán, Dì Tư gọi Quỳ lên bảng và sau khi giải đáp nhẹ nhàng lanh lẹ, Dì kêu anh “dạy” lại cho cả lớp chúng tôi nghe. Vô tình trí thông minh của người học trò mới này đã hại anh ta. Đám con trai chúng tôi bắt đầu ghét Quỳ, vì anh ta càng giỏi bao nhiêu thì càng lòi ra sự dốt nát của chúng tôi bấy nhiêu, nhất là tôi là người có lúc nghĩ không biết trên thế gian này còn ai khác dốt toán như tôi hay không! Mỗi lần Dì Tư khen Quỳ là y như chúng tôi bị một trận đay nghiến càng làm cho chúng tôi bực tức anh ta. Cả bọn con trai chúng tôi hè nhau gọi Quỳ cái tên đầy mỉa mai là “Thầy Bảng mới” và bày tỏ thái độ tẩy chay anh ta thấy rõ. Phải nói tôi là tên đứng đầu trong nhóm “quân dữ” tẩy chay Quỳ, vì anh ta đã “hại” tôi nhiều nhất.

                  Trong lớp, tôi kéo bè kéo cánh, không cho đứa nào nói chuyện với Quỳ, giờ ra sân chơi chúng tôi không cho Quỳ nhập bọn đá banh bằng trái banh tennis. Có những lúc tôi thấy Quỳ âm thầm đứng trơ trọi một mình ở góc sân trong giờ ra chơi. Có hôm thấy Quỳ xin chơi đánh đũa với bọn con gái. Nhìn thấy cảnh đó tôi rất hả dạ và nghĩ: “Mầy làm khổ tao trong lớp thì tao làm khổ mầy ngoài sân!”.  Lúc đó tôi biết là Quỳ rất khổ tâm chịu đựng trong một thời gian khá lâu nhưng không dám nói ra vì bọn ma cũ chúng tôi rất đông.

                  Rồi một hôm Quỳ vắng mặt trong lớp.

                  Tôi cảm thấy dễ chịu vì sự vắng mặt của “Thầy Bảng mới” nhưng cũng chẳng thắc mắc gì. Qua hôm sau, trước giờ đọc kinh, Dì Tư bảo cả lớp cầu nguyện cho trò Quỳ bị lên bệnh đậu mùa. Tôi nghe giật mình, tự nhiên cảm thấy hối hận vì đã ngược đãi người bạn hiền lành do sự ghen tức, và thương Quỳ chẳng may bị chứng bệnh nguy hiểm làm chết rất nhiều người lúc đó. Tôi quyết tâm sẽ xin lỗi và đối xử thân ái và bảo vệ Quỳ khi anh trở lại lớp.

                  Một tuần lễ sau vẫn vắng bóng người học trò hiền từ, tôi càng lo lắng và thong anh nhiều hơn. Tôi nhớ Quỳ nhưng chúng tôi không được phép tới thăm vì bệnh này rất hay lây. Hàng ngày trong giờ ra chơi tôi vô nhà thờ đọc kinh cầu nguyện cho Quỳ được mạnh. Sự hối hận vì đã ngược đãi Quỳ cách vô lý đang hành hạ tôi.

                  Một buổi sáng, đang giờ học, tôi thấy mẹ Quỳ vào lớp. Tôi đâm ra lo sợ trong lòng. Mẹ Quỳ vào báo tin Quỳ vừa chết đêm qua! Tôi gục đầu xuống ghế ngồi khóc lên thành tiếng khi nghe tin đó. Và tôi vẫn khóc về sau này mỗi khi nhớ tới Quỳ, mặc dù đã mấy chục năm trôi qua.
                   
                   
                  Thời kỳ phá ngu
                   
                  Tôi thi đậu bằng tiểu học năm 1956, lúc đã 13 tuổi. Đó cũng là năm tôi chụp bức hình đầu tiên trong đời để làm thẻ báo danh lúc vào phòng thi ở quận Vũng Liêm, cách Mai Phốp 6 cây số trên đường xuống tỉnh Trà Vinh. Tôi còn nhớ khi chụp hình, ông chủ tiệm chụp hình Tân Tân ở chợ Mai Phốp đặt tôi ngồi trên cái ghế đẩu trước cái máy thật to màu đen có chân đứng. Ông bước tới sửa thế ngồi cho tôi xong trở lại máy và trùm đầu và vai bằng tấm vải đen,  bảo tôi ngồi yên dừng chớp mắt và bấm máy. Chụp hình xong về nhà mấy ngày sau tôi ăn ngủ không được, vì nôn nóng chờ ngày lấy hình. Khi nhận hình và thấy “bộ mặt”mình trong hình lần đầu tôi thích thú lắm và mang vào lớp kêu mấy đứa bạn cũng vừa chụp hình trong đợt này mang hình ra so sánh coi hình đứa nào đẹp. Có đứa  khen tôi chụp hình ăn ảnh làm tôi cười híp mắt. Năm đó người anh kế của tôi tên là Ngãi cũng đậu tiểu học một lượt, vì năm trước anh thi rớt nên phải học lại chung với tôi.

                  Năm tôi vừa thi đậu tiểu học thì cha Trình mở trường trung học đầu tiên tại Mai Phốp, lấy tên là trường Minh Đức, một điều tôi coi là rất may mắn.Trường bắt đầu bằng hai lớp đệ thất B1 và B2. Việc cha Lê Vĩnh Trình mở trường trung học đầu tiên tại Mai Phốp là sự thay đổi lớn đầu tiên của cuộc đời tôi. Cha Trình  xây một nhà trường dài nằm ngang sau nhà thờ có ba phòng. Hai phòng làm lớp học và một phòng ở đầu kia làm chỗ ở cho hai thầy giáo người Bắc từ Sài Gòn cha mời xuống dạy học. Một thầy lớn tuổi chừng gần 40 là thầy Bùi Sinh Quý và thầy kia nhỏ tuổi hơn là thầy Huấn. Trung học là lớp đầu tiên tại xứ này nên đối với tôi lúc đó cái gì cũng mới, trường học mới, thầy giáo cũng mới vì lần đầu tiên tôi học với thầy giáo đàn ông và lại là người Bắc, bạn bè mới,chương trình học cũng mới.

                  Có rất nhiều học sinh tại Mai Phốp và các làng lân cận tới học, vì lúc đó không có mấy người có khả năng gởi con đi tỉnh. Có nhiều học sinh từ quận Vũng Liêm cũng đạp xe tới học. Từ đó lên tỉnh Vĩnh Long hoặc xuống tỉnh Trà Vinh cũng đều cách chừng 40 cây số. Lên tỉnh học đã xa xôi lại còn tốn kém rất nhiều thứ, không phải như ở làng chỉ phải đóng học phí và ít tiền sách vở.  Lạ một điều, khi lên tới trung học tôi bắt đầu phá ngu và trở nên thích học và học khá. Tôi không phải là học sinh giỏi, nhưng về sinh ngữ Anh và Pháp thì bao giờ tôi cũng nằm trong số ba người giỏi nhất. Khi cha Trình mở cửa trường trung học tại Mai Phốp cũng đồng thời ngài giúp tôi mở cánh cửa cho tương lai đời tôi. Nhờ có ngôi trường Minh Đức nhỏ bé ở miền quê đó mà tôi được tiếp tục con đường học vấn và càng về sau càng được học lên cao hơn. Trong khi rất nhiều người trong thế hệ tôi thi đậu tiểu học trước tôi vài năm đã phải bỏ học.

                  Từ ngày còn bé ở Bưng Trường,  rồi tản cư xuống Cầu Đá và sau này đi học ở Mai Phốp tôi chỉ được học với các nữ tu. Sau này lớn lên tôi vẫn nhớ ơn các Dì đã giúp tôi khai tâm về việc học, đồng thời dạy bảo các việc đạo hạnh. Hệ thống giáo dục trong các xứ đạo lúc bấy giờ mặc dù chưa được tổ chức hoàn hảo nhưng sự đóng góp của các trường học công giáo và sự hy sinh tận tụy của các nữ tu tại những vùng quê xa xôi hẻo lánh để lo việc giáo dục cho trẻ con là điều  tôi muốn nhắc lại và ghi ơn. Việc giáo dục và hệ thống tổ chức trường ốc vào thời buổi chiến tranh và trong tình trạng đất nước còn lạc hậu, phương tiện giao thông rất thô sơ như lúc tôi vừa lớn lên là một việc rất khó. Trong tình thế đó một số rất đông trẻ con ở nhà quê phải bỏ học ngay từ bé và lớn lên mù chữ. Cũng có một số được đi học một thời gian để biết đọc biết viết rồi vì hoàn cảnh cũng phải dở dang việc học hành khi ở địa phương không còn lớp.

                  Gia đình tôi cũng ở trong tình trạng đó, khi còn ở các lớp trong bậc tiểu học, tôi vẫn nghĩ là học hết lớp nhất, hoặc sau khi thi được bằng tiểu học rồi thôi, sẽ ở nhà giúp gia đình trong công việc đồng áng như  mấy người anh tôi và một số rất đông trẻ con trong làng. Hơn nữa những sinh hoạt thông thường của một làng quê và sự thu hút rất mãnh liệt của cánh đồng bao la bát ngát với những thú vui của ruộng đồng khiến tôi không biết gì khác hơn, và dĩ nhiên là chẳng bao giờ có chuyện đặt vấn đề con đường tương lai mình rồi sẽ ra sao. Nhưng sự ra đời của trường trung học Minh Đức đã cho tôi cơ hội lựa chọn.
                   
                   
                  Tuổi trẻ ngô nghê
                   
                  Những năm đó tầm mắt tôi có dịp mở rộng hơn nhờ những lần tôi được chị Hai cho theo đi chợ trên tỉnh Vĩnh Long, cách nhà 33 cây số. Những lần được đi tỉnh này đối với tôi rất đáng ghi nhớ vì đó là dịp mở mắt để được biết cuộc sống ở tỉnh như thế nào. Thường là mỗi năm một lần chị tôi đi chợ tỉnh trong dịp mua sắm Tết, chị dẫn tôi theo chỉ với nhiệm vụ đứng tại chỗ coi chừng cái cần xé đựng các thứ đã mua để chị còn đi mua tiếp theo.  Sau khi mua đủ các thứ cần thiết chị gọi xe lôi tới chở ra bến xe đò gần đó để về Cầu Đá. Khi lên Vĩnh Long, cảnh sinh hoạt, nhà cửa xe cộ và sự tấp nập của người dân ở tỉnh làm tôi choáng ngộp và thích thú. Cái gì đối với tôi cũng mới, cái gì cũng lạ, cái gì cũng sang trọng cũng đẹp đẽ và ngay lúc đó tôi có cảm nghĩ rằng cuộc sống ở tỉnh là một đặc quyền dành cho một lớp người nào đó, còn gia đình tôi và cá nhân tôi không bao giờ có thể có cuộc sống như thế được. Có ra tỉnh mới lòi ra sự ngô nghê của tuổi trẻ, nhất là đứa trẻ từ quê mới ra tỉnh lần đầu như tôi thì thật là khờ khạo một cách đáng thương.

                  Tôi còn nhớ trong lần đầu lên tỉnh, tôi đi với Long là em họ tôi lên thăm cha của Long đi lính ở đó. Trong trại lính có một dãy cầu tiêu máy nằm gần ngoài cổng, và Long dặn tôi sau khi đi cầu xong phải giật nước và chỉ cho tôi cách thức giật nước như thế nào. Đó là lần đầu tiên tôi sử dụng cầu tiêu máy, vì ở nhà quê chỉ có cầu tiêu trên hồ cá tra hoặc là bên bờ sông nước chảy. Khi tôi nắm quả nắm bằng sứ lòng thòng xuống ở đầu sợi dây xích sắt nối với cái “máy” bên trên, giật mạnh một phát như lời Long dặn, tự nhiên nước ở đâu tống ra cái ống sắt  quá mạnh và chảy ù ù một lúc làm tôi giật mình nghĩ thầm: “Chết cha rồi, mình làm hư máy của người ta rồi, làm sao đây!” Tôi lính quýnh không biết làm sao, chỉ cầu trời cho nước ngừng chảy vì với lượng nước tống ra mạnh như thác đổ vậy mà chảy... cả ngày chắc là tôi phải bị rắc rối to. Tôi đứng đó mặt mày tái mét, tim đập mạnh nhưng chẳng biết cầu cứu với ai. Nhưng may làm sao, từ miệng ống nước phát ra một tiếng “ù” rất lớn rồi nước ngưng chảy. Hú vía! Tôi mừng  thoát nạn. Lúc đó tôi đâu có biết là cầu tiêu máy nó là như vậy, và hỏi lại cũng có nhiều người cũng bị hú vía khi sử dụng cầu tiêu máy lần đầu như tôi.

                  Trong lần khác tôi theo chị đi Vĩnh Long vào một tiệm buôn là tiệm Xuân Phát Lợi, tôi thấy trên trần nhà ngay trên đầu ông chủ tiệm người tàu mập mạp và trắng trẻo có cái gì  quay tít rất nhanh và cứ quay hoài. Tôi đứng nhìn say sưa mà cũng chẳng hiểu tại sao nó quay và quay như thế để làm gì. Tôi cứ thắc mắc nhưng chẳng hỏi ai, rồi không biết lúc nào về sau này tôi mới biết đó là quạt máy.

                  Từ những kinh nghiệm ngô nghê đó sau này lớn lên tôi thương sự dại khờ của trẻ con, nhiều khi sự khờ khạo đó rất buồn cười, thí dụ như trên con đường tôi đi học từ Cầu Đá xuống Mai Phốp có 2 cây trụ bằng xi măng cao quảng 70 phân giống như cây kem khổng lồ gọi là “thẻ số ngàn”, bọn học trò chúng tôi thường trèo lên ngồi trên trốc như ngồi trên chiếc ghế. Trong một thời gian rất lâu tôi thắc mắc mãi không biết “thẻ số ngàn” đứng đó để làm gì? Có lần tôi hỏi ai đó, họ nói cái thẻ đó là một ngàn thước làm tôi càng thắc mắc hơn, nghĩ thầm:”ù Làm sao chứa được một ngàn cây thước bên trong bụng cái thẻ chỉ to hơn cái mộ bia một chút này?” Không hiểu cho tới một lúc nào đó tôi mới biết là những “thẻ số ngàn” đó, là cột mốc cái này cách cái khác là một ngàn thước!

                  Lúc nhỏ tôi cũng thường nghe người lớn nói tới việc đi “gõ dây thép gió” mỗi khi có tin tức gì khẩn cấp muốn báo tin cho người khác. Lúc bấy giờ tôi hiểu một cách đơn sơ rằng, chỉ cần gõ vào những cột dây thép gió(cột điện) dọc theo lộ đá là người khác sẽ nghe và biết tin. Có mấy lần tôi dùng hòn đá to thử gõ vào các trụ điện bằng sắt nhưng chỉ nghe phát ra tiếng tiếng “bon..bon.” ngoài ra chẳng thấy có gì khác lạ, điều đó càng làm cho tôi thắc mắc. Sau này lớn lên tôi mới biết “gõ dây thép gió” tức là đánh điện tín! Thậm chí lúc đó tôi ngô nghê cho đến nỗi thấy cha Trình mặc áo chùng từ cổ xuống gót chân, tôi tưởng là ngài không hề có chuyện đi tiêu đi tiểu như người thường. Cho tới một hôm, lúc đó tôi đã 10 tuổi, tôi đứng gần cây trứng cá kế bên nhà bếp cha sở, tôi thấy cha Trình mở cửa bước vào cầu tiêu trên hồ cá tra và tôi thấy... nước chảy nghe ton tỏn xuống mặt hồ. Tôi bàng hoàng vỡ lẽ ra là cha Trình cũng đi tiểu. Tôi cảm thấy không vui khi biết điều đó vì từ trước tôi vẫn nghĩ cha Trình như một  bậc siêu nhân thì làm gì có chuyện... đó như người phàm!
                   
                   
                  Biến cố vĩ đại
                   
                  Cũng trong năm 1957 này, trong đời tôi có một biến cố thật vĩ đại mà tôi nghĩ cả đời tôi chỉ có một không hai, đó là việc tôi đi Sài Gòn!

                  Với một đưa trẻ sanh ra trong gia đình nông dân và lớn lên ở miền quê trong thời lửa đạn như tôi mà được đi Sài Gòn lúc 14 tuổi là một việc nằm mơ cũng không thấy! Một cơ hội may mắn ngoài sự mong ước nó đến quá bất ngờ làm tôi vui mừng cuống cuồng và háo hức chờ đợi không thể nào diễn tả được. Thật vậy, Sài Gòn đối với tôi lúc bấy giờ là một hình ảnh tôi không có thể nào tưởng tượng ra được và chuyến đi Sài Gòn đầu tiên này là chuyến đi làm tôi háo hức đến tột cùng. Mỗi lần nhớ lại tôi đều cám ơn hoàn cảnh và cám ơn người đã cho tôi cơ hội độc nhất vô nhị này.

                  Sự việc bắt đầu từ  khi cha tôi xin thầy Bùi Sinh Quý làm Bõ đỡ đầu khi tôi chịu phép Thêm Sức. Từ đó thầy Quý thương tôi như một người con. Những ngày nghĩ học tôi hay tới nhà thầy chơi, giúp thầy trong các việc lặt vặt và thầy Quý thường cho tôi quà, phần nhiều là sách vở và tranh ảnh.  Một hôm tôi tới chơi khi thầy chuẩn bị về Sài Gòn nghỉ  một thời gian trong dịp lễ Quốc Khánh vào     ngày 26 tháng 10 năm 1957, năm đó là lễ Quốc Khánh đầu tiên nền đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong lúc ngồi chơi tôi nói với thầy là không biết đến bao giờ tôi mới có dịp đi Sài Gòn một lần cho biết. Tôi chỉ nói lên sự ước mơ thôi nhưng không dám xin thầy cho đi, nhưng thầy Quý tự nhiên nói lên :

                  - Vậy Lễ về xin phép cha má, nếu cha má cho thì tối nay xuống đây thầy cho đi Sài Gòn, sáng sớm mai sẽ đi.

                  Tôi không dám tin vào tai tôi, nên đã bước lại gần hỏi lại cho chắc

                  - Thầy tính cho con đi thiệt hả thầy?

                  Thầy Quý đang thu xếp sách vở quay lại nhìn tôi mỉm cười:

                  - Ừ! thì về xin phép cha má trước đã. Nếu cha má đồng ý thì thầy cho đi!
                  Tôi đâu có bao giờ nghĩ là trong đời mình có được giây phút quá bất ngờ như vậy. Lúc đó quảng gần trưa. Tôi vội ra ngoài nhảy thót lên xe đạp chạy như bay về Cầu Đá. Con đường này tôi đi quen rồi, chỉ có 2 cây số thôi mà sao đạp hoài không tới! Trong lúc gò lưng đạp xe trên con đường đá sỏi gồ ghề trong lòng tôi lo lắng hằng trăm chuyện. Tôi lo không biết cha má tôi có cho phép đi hay không, nếu cho thì có đủ thì giờ chuẩn bị cho chuyến đi lịch sử này không, áo quần gì để mặc đi Sài Gòn, còn giày nữa, trong đời tôi chưa có một đôi giày đôi dép nào, chỉ có guốc bằng gỗ thôi. Mà đi Sài Gòn phải là giày, không thể mang guốc được, rồi tóc chưa cắt.. rồi... và rồi!

                  Thật không ngờ trong đoạn đường đạp xe đó tôi có quá nhiều chuyện phải lo trong đầu cùng một lúc. Về tới nhà,  tôi hỏi má trước, vì má bao giờ cũng dễ hơn cha. Má nghe cũng quá ngạc nhiên bảo tôi: “Con phải hỏi cha con, nếu cha cho thì con  đi”! Khổ nỗi, cha tôi đi ruộng chưa về, mà từ nhà vô tới ruộng phải băng cánh đồng gần 2 cây số. Má vừa nói xong tôi vụt như bay ra ruộng phía sau nhà và cứ theo bờ đê chạy thẳng vô ruộng, nơi cha và anh tôi đang làm.  Vừa chạy vừa cầu nguyện xin Chúa giúp cho cha tôi cũng đồng ý.

                  Cha và anh tôi tấy tôi chạy  cách bất thường như thế này chắc hẳn là ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì. Khi tới nơi và sau khi nghe tôi nói, cha tôi ngừng tay, lên bờ ruộng ngồi vấn điếu thuốc rê trong cử chỉ chậm rãi và đĩnh đạc như thường ngày, đâu có biết là tôi vô cùng sốt ruột chờ đợi câu trả lời quyết định. Trong gia đình tôi, những sinh hoạt thường nhật thì má lo liệu, nhưng các việc quan trọng bao giờ cha tôi cũng là người quyết định. Dù vậy ý kiến của chị Hai rất có ảnh hưởng. Có mấy lần má đồng ý rồi nhưng chị Hai bảo không được là không được. Và tôi đã phải ngậm đắng nuốt cay với chị Hai không biết bao nhiêu lần. Sau khi bật quẹt đốt thuốc cha tôi phà khói lên trời và  quay sang hỏi:

                  - Con có hỏi má chưa?

                  Nghe cha tôi hỏi tôi đã mừng trong lòng vì kinh nghiệm cho tôi biết là sau câu hỏi theo nguyên tắc đó, tiếp theo sẽ là cái dấu "Thuận” đóng bằng chữ đỏ.

                  - Con hỏi má rồi, má cho nhưng bảo con hỏi nếu cha cho thì đi!

                  Cha tôi nghe thế ngồi trầm ngâm rồi hỏi:

                  - Thầy Quý nói đi bao lâu?

                  - Con không nghe thầy nói nhưng  chắc là một tuần vì trường nghỉ học 10 ngày.

                  Cha tôi gật đầu:

                  - Ừ! Nếu má cho thì đi!

                  Chúa Rất thánh ơi! Đời tôi sao mà hạnh phúc! Tôi có cảm tưởng như vừa được bay lên 9 tầng mây và đang nhìn xuống con người trần gian khổ ải bên dưới. Một cảm giác hạnh phúc quá lớn vồ lấy tôi một cách bất ngờ làm tôi choáng váng. Mới có mấy tiếng đồng hồ mà tôi nhận mấy tin động trời liền nhau, từ lời nói của thầy Quý, tới câu nói của má, bây giờ tới câu "Ừ! nếu má cho thì đi!” của cha tôi. Câu nói ngắn gọn 5 chữ này có sức mạnh của một phép mầu biến thằng bé ngô nghê như tôi trong phút chốc trở thành con người hạnh phúc nhất trần gian. Tôi vội thưa “Con cám ơn cha” và định bốc chạy về nhà nhưng anh Năm Nhơn  của tôi lúc bấy giờ 19 tuổi, đang làm ruộng với cha tôi, vác cuốc mò tới hỏi:

                  - Mầy đi đâu đó hả Lễ?

                  - Em vô hỏi cha cho em đi Sài Gòn!

                  Anh Năm ngạc nhiên kêu lên:

                  - Trời! Thiệt à? mầy đi Sài Gòn thiệt à, mà mày đi với ai?

                  - Thầy Quý cho em đi.

                  - Mầy đi bao lâu?

                  - Em không biết nhưng chắc một tuần.

                  Anh Năm nhe răng cười trêu tôi:

                  - Chuyến này thì “Tư Ếch” đi Sài Gòn!”

                  Tôi không trả lời nhưng bắt đầu chạy về nhà vừa nghe anh Năm nói với theo:  “Nhớ coi chừng xe cộ nghe mậy!”.

                  Tôi chạy, đúng hơn là tôi bay về nhà. Nhưng tôi không trở lại con đường cũ mà lại “bay” vòng xuống bờ kinh, hai bên là nhà dân chúng có con đường đất chạy cặp theo sông, đường này cũng về nhà tôi được. Tôi đã có ý định trong đầu khi đi lối đi này. Như vậy là giấc mộng đã thành sự thật. Tôi được đi Sài Gòn. Một sự thực quá sức tưởng tượng của tôi. Vừa cắm đầu cắm cổ chạy, tôi thầm nghĩ không biết trên cõi đời này có ai sung sướng như tôi hay không? Tôi nhớ tới còn quá nhiều việc phải làm, phải chạy về nhà càng nhanh càng tốt. Nhớ lại lúc nãy anh Năm trêu tôi “Tư Ếch đi Sài Gòn” là trong một vở tuồng trong dĩa hát máy kể chuyện ông Tư Ếch quê mùa đi Sài Gòn lần đầu. Chúng tôi nghe mà cười muốn bể bụng vì sư quê mùa của ông Tư Ếch. Tôi nghĩ là chắc mình không đến nỗi như ông Tư Ếch, dù gì thì tôi cũng đã được đi tỉnh Vĩnh Long mấy lần rồi. Còn ông Tư Ếch thì từ nhỏ tới lớn toàn ở nhà quê chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng.

                  Hết cánh đồng, tôi xuống tới bờ kinh, nơi có nhà cửa dân chúng ở cập theo hai bên con sông đào. Sở dĩ tôi chọn con đường này tuy có xa hơn một chút nhưng vì đám bạn tôi ở đây. Mặc dù rất gắp về nhà chuẩn bị cho kịp đi xuống nhà thầy Quý tối nay, nhưng tôi không thể không khoe với đám bạn về tin động trời này. Tôi ghé vào nhà nhà từng thằng bạn và chỉ nói 6 tiếng “Ngày mai tao đi Sài Gòn” rồi lại chạy qua nhà khác. Nếu nó không có ở nhà tôi nói với người lớn:“Thưa bác, làm ơn nói lại với thằng Inh là ngày mai con đi Sài Gòn”. Có khi tôi còn nhờ đứa này thông tin giùm đứa khác vì tôi không đủ thì giờ ghé nhà từng đứa, vả lại có đứa bạn bên kia sông nữa, tôi nói:” Mầy nói giùm với thằng Bầu, tao đi Sài Gòn”!

                  Cứ thế tôi làm như người phát thư ghé từng nhà mấy thằng bạn và ghé càng nhiều nhà càng tốt, nên khi tôi về tới nhà thì cả xóm trong ấp An Thành biết là tôi sắp đi Sài Gòn. Tuy nhiên, tôi đi với ai và bao giờ đi và ở Sài Gòn  trong bao lâu thì họ không biết. Thật ra điều đó không quan trọng, quan trọng là chuyện “ Thằng Lễ đi Sài Gòn”. Một điều tôi biết chắc là mấy đứa bạn tôi  và cả rất nhiều người lớn ở xóm Cầu Đá nữa, chưa ai biết Sài Gòn là gì và chắc là họ sẽ thèm cái hạnh phúc mà tôi đang có.

                  Tôi “bay” vô nhà mồ hôi nhễ nhại, thấy má và chị Hai đang nhặt rau chuẩn bị làm cơm chiều, tôi nói ngay:”Má ơi má! Cha cho con đi rồi”. Tự nhiên chị Hai tôi làm mặt “ngầu” quay ra phán một câu chết người:“Không đi đâu hết! Ở nhà”! Tôi chựng lại và đứng chết trân khi nghe câu đó. Xưa nay chị Hai vẫn là người có uy quyền. Mặc dù tôi không nghĩ là chị vượt qua được quyết định của cha tôi, nhưng ý kiến của chị bao giờ cũng nặng ký, tôi đâm ra lo vì không biết tôi có tội gì nặng đến nỗi chị Hai phạt không cho tôi đi Sài Gòn. Tôi rất lo lắng vì chị Hai là người biết những “tội” của tôi rõ nhất. Tôi nhìn má cầu cứu nhưng má quay mặt qua phía khác, tôi chới với nói: “Nhưng...” Chị Hai cướp lời tôi:”Không nhưng không nhị gì hết, mầy làm biếng và ở dơ  lắm không đi đâu hết. Ở nhà!” Nghe nói thế tôi mừng và đoán là má và chị Hai bàn nhau dọa tôi chứ cái tội làm biếng và ở dơ đâu có là yếu tố cản trở tôi đi Sài Gòn. Không lẽ tất cả mọi người đi Sài Gòn đều siêng học và trắng trẻo sạch sẽ cả hay sao? Có lẽ thấy hù tôi như vậy đã đủ nên má lên tiếng: "Đi cắt tóc đi con, rồi về chị Hai tắm cho để còn ăn cơm rồi đi!” Tôi thở phào nhẹ nhõm! Thì ra má và chị Hai thấy tôi mừng quá nên hè nhau trêu tôi cho vui!

                  Tôi chạy qua chú Sáu Vinh nhờ cắt tóc, trong lúc ngồi trên ghế tôi nói:

                  - Chú nhớ cắt cho đẹp giùm nhé, ngày mai con đi Sài Gòn đó chú!

                  Tôi rất sung sướng và hãnh diện khi nghe chú Sáu tôi hỏi:

                  - Con nói gì? Ngày mai con đi Sài Gòn à, mà đi với ai?

                  - Con đi với thầy Quý, thầy cho con theo lên Sài Gòn coi lễ Quốc Khánh!

                  Chú Sáu Vinh trầm trồ:  

                  - Con có phước quá, chú còn chưa biết Sài Gòn là gì, mà chắc cho tới chết chú cũng không có dịp đi Sài Gòn, nói chi mấy đứa nhỏ!

                  Sau đó chú cháu tôi nói chuyện về đề tài Sài gòn cho tới khi chú cắt tóc cho tôi xong. Tôi ngồi chỉ mong chú cắt cho nhanh một chút, nhưng chú vẫn rề rà với cái tông-đơ rỉ sét ngâm trong dầu lửa của chú. Cái tông-đơ già nua này mỗi khi chú bóp một đường tóc trên đầu tôi, hất tóc ra thì lần nào nó cũng “ngoạm” thêm  dăm ba sợi tóc, có khi hàng chùm giật bung cả gốc rễ lên. Nhiều lần tôi ngồi cắt tóc phải cắn răng chịu trận mà nước mắt chảy dài vì chú vừa cắt vừa nhổ tóc đau không chịu thấu. Mặc dù vậy tôi vẫn phải nhờ chú cắt tóc vì chú không lấy tiền, trong khi tới tiệm phải tốn mấy đồng.  Sau khi hớt bằng tông-đơ xong, tới màn cạo chân tóc bằng con dao thật bén chú liếc vào miếng da nghe sột sạt trước khi cạo. Tôi sợ cái đoạn này vô cùng vì có lần không hiểu vì chú lơ đễnh hay vì tôi ngồi không vững mà chú thẻo một mãng tai tôi, máu me lênh láng! Vì thế lúc còn trẻ tôi rất ngán việc đi cắt tóc.

                  Trong lúc tôi cắt tóc thì ở nhà chị Hai chuẩn bị mấy cái xơ dừa để kỳ cọ cho tôi. Lần đó chị vì chuẩn bi cho tôi đi Sài Gòn nên chị kỳ cọ kỹ hơn bằng những cái xơ dừa mới rất cứng làm tôi gần bật máu ra, đau chịu không thấu nhưng không dám kêu vì mỗi lần kêu là ăn một cái vã vào má kèm theo câu nói nghề nghiệp của chị. "Mầy còn la hả? Coi nè, hờm hố nè! đồ ở dơ như tù!” Trong lúc tôi đang tắm, có vài thằng bạn kế bên nhà tới chơi và tỏ vẻ thán phục về việc tôi đi Sài Gòn. Đứa nào cũng dặn lên đó thấy gì về kể lại cho tụi nó nghe. Tôi khoái chí vênh mặt lên đáp: "Tụi mầy khỏi phải lo, tao sẽ nhớ hết và kể lại tụi bây nghe!” Tôi quên nói là trong lúc chị Hai đang kỳ cọ cho tôi dưới cầu bến, có hai bà từ xóm trong đi ngang đứng lại nói chuyện với chị Hai và họ nói có nghe mấy đứa nhỏ cho biết ngày mai tôi đi Sài Gòn, và các bà nhìn tôi đầy vẻ thán phục và thèm thuồng, vì con của các bà là bạn tôi. Lúc đó tôi nghĩ biết đâu trong lòng các bà ước mơ:“Giá mà con mình được như thằng Lễ!” Nghĩ như vậy làm tôi thích thú và nhất là qua các bà này, tôi được biết cái tin tôi đi Sài Gòn được đồn đi rất nhanh, không phải xóm ngoài thôi mà cả xóm An Thành Tây cũng đã biết! Tôi thích vô cùng.

                  Kỳ cọ xong, anh Sáu Ngãi chở xe đạp xuống chợ Mai Phốp cho tôi lựa mua đôi săn-đan. Đây là đôi săn-đan đầ tiên trong đời. Từ nhỏ tới lớn tôi vẫn đi chân đất. Tối thì rửa chân và đi guốc vào cho khỏi dơ bẩn mền chiếu. Tôi lựa đôi màu đỏ, đế bằng cao-su trong, đôi săn-đan thơm phưng phức mùi da mới. Tôi không biết nó có phải bằng da hay không nhưng cái mùi đó là cái mùi tôi mới ngửi thấy lần đầu tiên và mùi thơm dễ chịu lạ lùng!

                  Về nhà, tôi lo xếp đồ đạc vào cái cặp da tôi dùng đi học. Việc đầu tiên là xếp bộ quần áo “ăn nói” gồm có một áo sơ mi trắng dài tay và một quần tây dài màu xanh, một cái khăn rằn, bàn chải răng và  thuốc đánh răng là cục tròn như đá vôi, khi dùng thì thắm nước và mài bàn chải vào. Khi mua săn-đan ve,à tôi cũng nhét vào cặp đợi sáng mai lên xe mới mang vì ở nhà quê này có ai mang giày bao giờ. Quãng 5 giờ chiều, má dọn cơm cho tôi ăn để anh Sáu còn chở tôi xuống nhà thầy Quý. Tôi lên ngồi nhưng có ăn được gì đâu, chừng chị Hai nói không ăn cơm thì: "Không đi đâu hết”, buộc lòng tôi phải cố nuốt một chén cơm cho xong chuyện.

                  Trên đường xuống nhà thầy Quý, tôi chỉ mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần sọt lưng thun đi chân đất, tay xách cặp da và sau khi má cho một ít tiền tiêu, tôi khoanh tay chào má và chị Hai và từ giã ra đi. Từ chiều tới giờ má và chị Hai thay nhau dặn dò tôi không biết là bao nhiêu chuyện, nào là đi đường cho cẩn thận, nào là coi chừng xe cộ, nào là phải lễ phép với gia đình thầy Quý, nào là...Nhưng thật tình, tôi không nhớ một điều nào cả. Khi xuống tới Mai Phốp trời đã nhá nhem tối, anh Sáu quay về còn tôi xách cặp bước vô nhà lúc thầy Quý đang sắp xếp quần áo vào valise , tôi lên tiếng:

                  - Chào thầy, cha má con cho con đi Sài Gòn rồi, con xuống nè!

                  Thầy Quý có vẽ ngạc nhiên, yên lặng quay ra nhìn làm tôi nổi da gà, một lúc thầy mới hỏi:

                  - Thế Lễ đi thật à?

                  Quỷ thần thiên địa ơi! Sao thầy Quý lại hỏi tôi câu đó? Mới hồi trưa này thầy nói cho tôi đi sao bây giờ lại hỏi như thế? Có gì trục trặc không? Thầy có cho tôi đi Sài Gòn không?Tôi bàng hoàng đến điếng cả người, miệng mồm há hốc, người nóng ran như lên cơn sốt, nghe như các lỗ chân lông hở ra! Tôi gần như té xỉu nên bước tới vịn tay vào thành kệ sách. Trong phút chốc tôi thấy trời như sụp đổ vì nếu tôi không được đi Sài Gòn chắc tôi có thể chết mất vì thất vọng và nhục nhã sau khi đã chạy khoe hết làng trên xóm dưới! Tôi không biết là thầy Quý có hiểu được chút nào tâm trạng tôi lúc đó hay không. Tôi gượng nói mấy lời, giọng nghe như khóc:

                  - Thầy! Sáng nay thầy nói cho con đi Sài Gòn với thầy!

                  Sau câu nói đó tôi đứng nhìn thầy Quý trong lúc thầy đứng yên suy nghĩ. Nếu có người dùng lối so sánh: ‘‘Một phút dài hơn thế kỷ” thì chính là phút này. Giây phút đó tôi hồi hộp không có thể tưởng tượng được vì hậu quả sẽ khác nhau một trời một vực giữa cái gật đầu và cái lắc đầu của thầy Quý . Cuối cùng thầy nói:

                  - Thôi được! Lễ nằm ở ghế bố đó ngủ để sáng mai dậy sớm đi, xe tài nhất lúc 4 giờ. Mà Lễ ăn cơm chưa?

                  -Dạ, con ăn rồi thầy.

                  Nếu chưa ăn tôi cũng nói ăn rồi, thực tình lúc đó tôi chẳng còn mừng gì hơn. Vả lại sau giây phút căng thẳng đó thì còn bụng dạ nào mà ăn với uống.
                   
                   
                  Nôn nao cùng cực
                   
                  Lúc này thầy Quý ở trọ nhà ông Mười Tươi, không còn ở bên trường học như lúc đầu. Căn nhà này khá rộng, thầy ở bên trong còn bên ngoài phía trước là văn phòng, có mấy kệ sách và ít bàn ghế, nơi đây cũng có kê sẵn một ghế bố nhà binh chỉ vừa đủ một người nằm. Tôi để chiếc cặp da lên ghế và lên nằm trên ghế bố theo lời thầy nói. Suốt đêm đó tôi không tài nào chợp mắt được lấy một phút. Cái cảm giác kích thích và bồn chồn vì sáng mai được đi Sài Gòn lần đầu tiên trong đời, tôi không biết phải diễn tả làm sao cho người khác hiểu được. Tôi nằm trằn trọc, thao thức và trăn trở một lúc rất lâu, có lẽ gần nửa đêm, thỉnh thoảng bước ra ngoài đi tiểu rồi lại vô nằm. Khi biết là không thể ngủ được, tôi ngồi lên thắp đèn bóng và tìm sách đọc chờ sáng. Tôi lựa trong kệ sách của thầy và cầm lên quyển sách khá to, bìa màu đen, giấy trắng tinh và láng“Thành tích 3 năm chấp chánh của Tổng thống Ngô Đình Diệm”. Sách có khá nhiều hình ảnh. Cũng trong sách đó có tấm hình gia đình Tổng Thống và lần đầu tiên tôi biết hai người con của ông Ngô Đình Nhu, là Ngô Đình Trác và Ngô Đình Lệ Thủy. Tôi nằm đọc và đọc mãi vừa nghe tiếng gõ cách quãng 15 phút của chiếc đồng hồ ODO trên tường. Trước khi gõ có mấy nốt nhạc “tính tịnh tinh tình...” phát ra trước rồi tiếng gõ sau. Tôi có cảm tưởng đồng hồ này đi quá chậm, tôi nằm mãi mà chưa sáng.

                  Thầy Quý dậy lúc 3 giờ sáng định ra đánh thức tôi, nhưng ra tới nơi đã thấy tôi dậy từ lâu. Thầy bảo tôi rửa mặt thay đồ để ra đi cho kịp chuyến xe tài nhất chạy từ Trà Vinh lên ngang qua đây lúc 4 giờ sáng. Tôi bật dậy như  cái lò xo. Giây phút tôi chờ đợi đã tới. Tôi lấy chiếc cặp da ra, mò tìm bàn chải và thuốc đánh răng bước ra sàn nước bên ngoài nhà. Lạ lùng quá, khi tôi đứng lên lại bị chao đảo tí nữa ngã xuống. Thì ra tôi thức và đọc sách suốt đêm làm đầu óc nóng ran lên, chao đảo và mất thăng bằng khi vừa đứng dậy bước đi những bước đầu tiên. Rửa mặt đánh răng xong tôi cảm thấy dễ chịu và tỉnh táo ra, vội bước vào nhà thay quần áo. Tôi cởi bộ đồ đang mặc trên người xếp lại và thay vào bộ đồ "đi Sài Gòn“ tôi vừa lôi trong cặp ra. Bộ đồ duy nhất này tôi chỉ mặc khi đi lễ ngày Chúa nhật mà thôi nên lúc nào cũng mới và thơm.

                  Tôi mặc vào người áo trắng dài tay xong, khi mặc quần ‘‘ăn nói” vào thì mới hay là có tai nạn! Không phải là quần của tôi mà là của anh Năm tôi! Thì ra chiều hôm qua trong lúc mừng quá, tôi đã vô ý lấy nhầm cái quần của anh Năm tôi cho vào cặp da .

                  Sở dĩ có chuyện chết người này vì má may cho ba anh em tôi mỗi đứa một cái  cái quần dài xanh bằng vải “sạc kinh” (shark skin) màu xanh y như nhau, chỉ khác nhau kích thước.  Anh Năm tôi thì cao, và to hơn tôi nhiều. Anh Sáu tôi còn cao hơn nữa! Khi tôi xỏ chiếc quần của anh Năm vào, nó rộng thùng thình. Tôi kéo lưng quần lên gần tới vú mà hai ống quần cũng còn lòng thòng một đoạn dài như hai cái vòi voi phủ cả hai bàn chân!

                  Tôi điếng người trước cảnh này vội cúi xuống xắn ống lên, nhưng loại vải shark skin mình có hột này lại mềm nhũn, bóng láng lại dầy và nặng, không làm sao có thể xắn lên cho được. Cứ xắn lên rồi lại rơi xuống! Tôi làm thử mấy lần nhưng vô hiệu. Chết tôi rồi! Xe Sài Gòn sắp sửa chạy, còn nhà tôi thì cách đó 2 cây số làm sao về lấy quần khác cho kịp.

                  Tôi đang loay hoay mặt mày nóng bừng, lại bất ngờ mắc tiểu, mặc dù tôi vừa đi tiểu xong lúc đánh răng. Tôi càng lính quýnh hơn khi nghe tiếng thầy Quý giục: “Xong chưa Lễ ơi, thôi nhanh lên đi, kẻo nhỡ xe!”  Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng thầy gọi. Không còn cách nào khác hơn tôi đánh nước liều “Con xong rồi thầy.” và mang vội đôi săn-đan mới, cài khuy lại cẩn thận. Khi tôi đứng lên với lấy cái cặp da thì hai ống quần phủ mất đôi săn-đan và đùn lại một đống trên mặt đất! Thầy Quý tắt đèn bước ra, tôi vội vàng theo sau, tay phải xách chiếc cặp da bước đi trong đêm tối. Mặc dù là sáng tinh sương bên ngoài trời khá lạnh nhưng mặt tôi vẫn nóng bừng.
                   
                   
                  Khổ vì cái quần
                   
                  Vừa đi được mấy bước tôi bị vướng víu lạ lùng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi mang giày săn-đan nên đôi bàn chân như có đeo hai dề đất sét cứng, có quay cột vào chân, trong khi đó hai cái ống quần “ăn nói” lùng nhà lùng nhùng dư ra hàng tấc, phủ cả đôi săn-đan làm tôi không thể nào bước đi được. Tôi cố bước theo cho kịp thầy Quý đang rảo bước đi trước thì chân nọ lại đạp lên ống quần chân kia! Lúc đó tôi ngầm than thở: “Trời ơi! sao đời mình khổ! Đáng lẽ ra lúc này trong lòng phơi phới hân hoan thì bị hai cái ống quần mắc dịch này nó hành hạ mình!” Lúc đó tôi phải gù người xuống dùng tay trái thò xuống trước đùi túm lấy hai ống quần kéo lên, trong khi tay phải đang cầm chiếc cập da. Trong tư thế đó, tôi không thể nào bước nhanh được mặc dù thầy Quý đã bỏ tôi một đoạn đường khá xa.

                  Thấy tôi còn lò mò phía sau, thầy quay lại giục: ‘‘Lễ, đi nhanh lên, muộn rồi sợ nhỡ xe đấy, nhanh lên tí đi nào!”. Nghe tiếng gọi, tôi cố chạy theo thầy, nhưng cũng không làm sao chạy nhanh được trong tư thế vừa đi vừa khòm và hai tay đang bận cả hai. Chắc lúc bấy giờ thầy Quý cũng ngạc nhiên tại sao tôi đi quá chậm. Trong đêm thầy không thấy gì cả, nhưng nếu thấy được cảnh đó chắc thầy sẽ cười vỡ bụng và thương hại cho thằng bé nhà quê đang khổ vì cái quần.

                  Từ nhà thầy ở ra lộ đá quãng 300 thước và phải đi qua nhà thờ Mai Phốp. Khi tới nhà thờ, thầy đứng lại đợi tôi rồi mới tiếp tục đi. Từ nhà thờ ra đường cái chỉ một quãng ngắn nữa thôi, bất thần tôi thấy ánh đèn xe hơi chiếu sáng rất gần, như thế là chiếc xe tài nhất đang trờ tới, và ngay sau đó xe chạy qua. Lúc đó thầy  Quý vừa chạy theo vừa cầm đèn bấm dọi ngay xe và nâng lên hạ xuống mấy lần chủ ý gọi xe dừng lại, nhưng đã trễ, xe chạy qua luôn trong khi thầy trò tôi cũng vừa trờ ra tới lộ.

                  Chúng tôi tới muộn chừng 30 giây đồng hồ! Tôi đoán là thầy Quý không vui, rõ ràng là tại vì tôi là nhỡ chuyến xe tài nhất. Nhưng ở đời, có khi cái rủi ro của người này lại là cái may của người khác. Thầy Quý bị nhỡ xe là chuyện rủi nhưng may cho tôi, nhờ đó tôi được cứu thoát. Lúc đó thầy có vẻ tiếc, nói với tôi: "Thôi nhỡ xe tài nhất rồi, tiếc quá vừa ra đến nơi xe đã chạy qua. Thôi mình về nhà nghỉ vì xe tài nhì mãi tới 6 giờ mới lên.”  Nói xong thầy trò tôi quay trở lại.
                  Vô tới nhà, việc đầu tiên là tôi tụt ngay cái của nợ có hai cái vòi voi ra, vất lên ghế bố! Trông nó nằm một đống dài nhằng và vô duyên như cái bao tải! Bề dài của nó gần bằng chiều cao của tôi. Nó đang nằm ngửa nhìn tôi trong tư thế giễu cợt và thách thức. Tôi bực quá, cầm chiếc cặp da nện lên cái quần ‘‘ăn nói” mấy cái kêu phình phịch, miệng mắng:‘‘Tổ cha mầy, mầy đã làm khổ tao!”Trong cơn tức bực tôi “đánh" cái quần mạnh quá phát ra tiếng động khá to khiến  thầy Quý hỏi vọng ra:

                  - Làm gì ồn thế hở Lễ?

                  Tôi vội nói tránh:

                  - Chẳng có gì đâu thầy, con giũ bụi trên ghế bố ấy mà!

                  Thầy có vẻ ngạc nhiên nói:   

                  - Đầu hôm sao không giũ, bây giờ sắp đi rồi giũ gì? Chừng về lại đầy bụi thôi!

                  Nghe thầy nói tôi ngồi lặng thinh lè lưỡi !

                  Cởi được của nợ ra xong, tôi mặc lại chiếc quần sọt lưng thun duy nhất vừa thay ra lúc nãy. Mặc vào tôi thấy thoải mái, dễ chịu, mặc dù đi Sài Gòn mà ăn mặc như thế chẳng ra làm sao nhưng không còn cách nào khác hơn. Lúc đó tôi lại nghĩ, đời tôi thật may mắn vì được... nhỡ chuyến xe vừa rồi. Nếu không, tôi đã phải mặc cái quần mà tôi có thể bơi trong đó được để lên xe đi Sài Gòn. Không biết  là sẽ ăn làm sao nói làm sao khi ban ngày trời sáng tỏ và lúc tôi phải bước ra khỏi xe! Tôi đành phải xếp cái quần vô tích sự đó cho vào cặp da mang theo đi Sài Gòn, vì dù sao tôi cũng phải mang về trả nó lại cho anh Năm, hơn nữa tôi cũng phải có cái gì nhét vào cặp da, không lẽ lại mang cặp da rỗng đi Sài Gòn.

                  Gần tới 6 giờ sáng thầy gọi tôi ra đi. Lần này tôi bước ra đường nhẹ nhàng thơi thới trong chiếc quần sọt lưng thun, mang săn-đan. Thấy tôi ăn mặc đơn sơ quá thầy hỏi:

                  - Ủa Lễ, sao ăn mặc thế? Còn quần dài đâu?

                  Tôi nói tránh đi:

                  - Con mặc quần dài không quen sợ ngồi xe nóng thầy à!

                  Nghe tôi nói thế thầy có vẽ ngạc nhiên, nhưng cuối cùng nói:

                  - Thôi mặc thế cũng được!

                  Hai thầy trò tiếp tục rảo bước. Lần này thì thầy Quý chẳng cần phải giục và cũng chẳng phải dừng lại chờ tôi. Lúc dang đi tôi nghĩ, nếu thầy tinh ý ra sẽ tìm hiểu tại sao lần trước tôi đi chậm mà lần này lại bước đi nhanh quá, có lúc còn vượt qua  thầy!

                  Xe tài nhì là xe Tân Hòa tới đúng giờ. Lần đầu tiên tôi được ngồi trên xe Sài Gòn mà từ trước tới giờ tôi ước ao làm sao có dịp được ngồi trên xe đó. Nhớ lại lúc cùng bọn trẻ chăn trâu, thả trâu ăn gần lộ đá, chúng tôi hay lên lộ chơi và hay nghịch ngợm bày trò chọi xe khi xe chạy qua. Nhưng đặc biệt là bọn tôi không bao giờ chọi xe Sài Gòn vì thấy nó đẹp, nó sang quá làm tôi tiếc không muốn chọi sợ nó hư. Bây giờ tôi đang là một hành khách trên chiếc xe đi Sài Gòn. Sau khi xe qua thành phố Vĩnh Long thì trời đã tờ mờ sáng, tôi giương to cặp mắt quan sát cảnh vật. Trước tới giờ tôi chỉ tới chợ Vĩnh Long, trừ ra một lần, lúc còn bé tôi được đi qua họ đạo La Mã viếng Đức Mẹ. Nhưng sáng hôm nay tôi sẽ còn ra khỏi Vĩnh Long, qua bắc Mỹ Thuận và ngồi xe thêm 150 cây số nữa mới tới Sài Gòn! Còn hạnh phúc nào hơn!

                  Xe qua khỏi Vĩnh Long 9 cây số tới bắc Mỹ Thuận. Từ trước tới giờ nghe nói bắc Mỹ Thuận.Vì kẹt xe nên thầy trò tôi đi bắc qua bờ bên kia trước, rồi xe sẽ qua sau. Lúc này trời vừa mới sáng, thầy Quý bảo tôi vào quán ăn điểm tâm trong khi chờ xe tôi qua. Khi bước vô quán kéo ghế ngồi xuống, thầy hỏi tôi

                  - Lễ muốn ăn gì?

                  Tôi có biết gì đâu mà nói nên trả lời:

                  - Con đâu có biết, thầy ăn gì con ăn nấy.

                  Thầy cười đáp lại:

                  - Thế ăn bánh bao nhé?

                  - Dạ

                  - Uống cà phê sữa nhé?

                  - Dạ.

                  Tôi ăn cái bánh bao nóng rất ngon, quá là ngon! Ăn xong tôi còn thèm nhưng ngại không xin cái nữa. Chừng đưa cà phê sữa ra, tôi để ý coi thầy làm sao tôi bắt chước, vì từ nhỏ tới giờ tôi chưa uống cà phê bao giờ. Thầy Quý uống cà phê coi rất ngon, thấy vậy tôi cũng bưng ly hớp một hớp. Vừa nuốt qua khỏi cổ tự nhiên tôi không chịu được, sao cà phê đắng quá như uống thuốc bắc, làm tôi buồn nôn. Không dằn được tôi phải chạy ra ngoài đường ngồi nôn xuống đất. Thầy Quý thấy vậy thương tôi, bảo không quen uống thì bỏ đi. Tôi xin lỗi thầy thì thầy nói có gì mà xin lỗi tại vì tôi chưa quen đó thôi.
                   
                   
                  Thế giới mới
                   
                  Con đường từ bắc Mỹ thuận lên Sài Gòn ngang qua ngã ba Trung Lương, qua cầu Long An, cầu Bến Lức... cảnh nào đối với tôi cũng lạ mắt. Sau khi qua ngã ba Trung Lương tôi thấy đoàn xe lửa thật dài chạy cặp theo đường lộ xe hơi, đây là xe lửa đầu tiên tôi được trông thấy. Khi tới cầu Bến Lức, bị kẹt xe khá lâu vì phải chờ xe bên kia qua cầu. Lúc dừng xe có rất nhiều cô gái bán khóm đã gọt sẵn và bổ thành từng miếng, có chén muối ớt bên cạnh. Khi có người mua thì cô gái dùng cái que nhỏ cũng làm bằng cùi khóm để quét muối ớt lên miếng khóm rồi trao cho khách. Bà khách ngồi kế bên tôi cắn miếng khóm có xát muối ớt làm nước từ miếng khóm chảy ra ướt xuống tới cầm, bên này nước dãi tôi cũng tuôn ra cuồn cuộn Tôi quay đi nhìn ra hướng khác vừa nghĩ giá mà thầy Quý mua cho tôi một miếng khóm chắc tôi thích không còn gì bằng, nhưng tôi không hỏi xin thầy!

                  Khi xe chạy vào Chợ Lớn và sau cùng vô Sài Gòn ngừng tại bến xe Petrus Ký, tôi thực sự bị choáng ngộp. Tôi không thể nào tưởng tượng Sài Gòn lớn lao, tưng bừng náo nhiệt đến như thế. Nào người, nào xe, nào hàng quán. Lúc nhìn thấy thế tôi tự hỏi không biết còn có nơi nào trên mặt đất này to lớn và đẹp như Sài Gòn hay không. Khi chuẩn bị xuống xe, thầy Quý dặn tôi lúc nào cũng phải đi bên thầy vì sợ tôi bị lạc. Vừa bước xuống, tôi thấy có người tới mang valise của thầy lên xe nhỏ đậu gần đó, tôi tưởng đó là người nhà mang xe đón và đó là xe của thầy, tôi nghĩ: "Thì ra thầy của mình giàu quá mà mình không biết”.

                  Trong lúc ngồi xe, thầy chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn, cầu Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân tới thủ đô Sài Gòn mà người ta gọi là Hòn ngọc Viễn Đông này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị Nghè, xe rẽ trái vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe, thầy móc bóp trả tiền và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi. Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi từ lúc đó.

                  Sau khi thầy Quý lo một vài công việc, gần trưa chúng tôi về nhà người chị của thầy ở Xóm Mới, quận Gò Vấp. Vô tới nhà và được nghỉ ngơi, tôi mừng vô hạn vì khi đi được một đoạn đường thì hai bàn chân tôi bị quay giày săn-đan cọ rách da, chảy máu . Hai bên ngón chân út cũng bị mềm nhũn như hai trái chối chín và chảy máu đau đớn quá chừng. Thật không gì khổ cho bằng mang giày lần đầu. Nếu hồi sáng, lúc cởi được cái quần “vòi voi’’ ra  coi như bỏ được của nợ thì lúc này cởi được đôi săn-đan ra tôi coi như cởi được hai cái gông cùm.

                  Chiều hôm đó trong nhà làm cơm có món ốc bưu xào với chuối xanh và lá tía tô. Lần đầu tiên tôi mới biết món người Bắc này và ăn rất ngon miệng. Lối sống  của  người Bắc có những cái rất hay. Năm 1954 khi người Bắc di cư vô Nam có một số khá đông về tạm cư trong họ Bưng Trường và cũng có mấy gia đình ở trọ nhà tôi, nhưng lúc bấy giờ tôi còn nho,Ư chưa biết nhiều về người Bắc, lúc đó nghe giọng nói hơi khác lạ, tôi lại tưởng họ là người nước nào tới không phải là người Việt Nam. Thầy Quý có người cháu trai tên là Hán, anh lớn hơn tôi 3 tuổi và đang học lớp đệ tứ. Hán sang chơi với tôi và suốt trong thời gian tôi ở Sài Gòn anh đưa tôi đi đây đó. Có điều buồn cười là người Nam chúng tôi đọc chữ ‘‘Hán” ra chữ “Háng”, nên tôi không dám gọi tên anh, chỉ gọi là anh Ba, theo cách gọi của người Nam. Lúc đó tôi lại nghĩ thầm: “Sao anh Ba có cái tên kỳ quá! người miền Nam chúng tôi chẳng bao giờ có người tên là Hán cả!”

                  Đêm đó tôi ngủ ngon vì thức trọn đêm trước và đi đường xa mệt, cộng với bàn chân bị đau như dần. Sáng ngày thức dậy đã thấy anh Ba ngồi đợi để đưa tôi đi chơi. Thức dậy, tôi nghe hai bàn chân ê ẩm và đau nhức mặc dù mấy chỗ rách da chảy máu hôm qua đã đóng mày đen. Tôi biết không thể nào mang săn-đan được, nên cúi xuống sàn giường định tìm đôi giày gói giấy cất đi, đợi khi nào chân hết đau sẽ mang. Chừng cầm đôi san-đan lên thì hỡi ôi! Đêm qua con chuột chết tiệt  nào đã đánh mùi máu tới cắn đứt hết các chỗ có dính máu trên quay săn-dan. Tôi nhìn đôi giày mới toanh bị đứt hết các quay nằm há mồm dưới đất nhìn lên cách đau khổ khiến tôi vừa tiếc của, vừa buồn cười lại vừa giận con chuột ‘‘rủa thầm:” “Mẹ, con chuột khốn kiếp!Ông mà rớ được mầy, ông bẻ cho mầy gãy không còn cái răng!”Từ đó Hán cho tôi mượn đôi guốc và tôi mang guốc suốt những ngày tôi đi dạo phố ở thủ đô Sài Gòn.

                  Nhờ có Hán dẫn đi chơi, tôi được vào thăm  khá nhiều nơi như sở thú, chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bến Bạch Đằng, trường đua Phú Thọ, hội chợ Thị Nghè... và nhiều nơi khác nữa.  Trong dịp đó tôi được trông thấy Tổng thống Ngô Đình Diệm đi duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và cũng chứng kiến cảnh người ta chen nhau chạy sau khi cây cầu nổi bắt ngang sông Thị Nghè trong dịp hội chợ bị sập trong đêm làm khá nhiều người bị chết đuối. Tôi cũng ghi nhớ cảnh sở thú Sài Gòn và những giống thú mà từ xưa giờ chỉ được coi trong hình. Điều này làm tôi vô cùng thích thú vì ngoại trừ con voi là tôi đã có dịp thấy qua trong lần những người bán thuốc cao đơn hoàn tán cỡi voi tới chợ Mai Phốp quảng cáo thuốc, ngoài ra tôi chưa bao giờ thấy qua các giống thú lạ và to như sư tử, cọp, gấu, beo, cá sấu... 
                   
                   
                  Tô phở đầu đời
                   
                  Cũng trong dịp đi Sài Gòn đó, tôi được Hán dẫn đi ăn tô phở lần đầu tiên trong đời. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm đó Hán chở tôi trên xe đạp tới nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng. Sau khi viếng nhà thờ, chúng tôi ra bên ngoài rào nhà thờ, nơi có một xe bán phở bên lề đường, gần bên có mấy cái bàn nhỏ và thấp  với mấy cái ghế  gỗ nhỏ xíu cao hơn mặt đất chừng 10 phân mà miền Nam chúng tôi gọi là ghế bán cá, tức là các bà bán cá ngoài chợ thường dùng. Hán gọi hai tô phở tái. Khi tô phở mang ra cùng với đĩa rau có ít ngò gai, húng quế và chanh, ớt... tôi nghe mùi thơm rất lạ và hấp dẫn mà lần đầu tôi mới được biết. Vừa ngửi mùi là nước miếng tôi bắt đầu ứa ra, trong khi Hán giúp tôi các thủ tục trước khi ăn phở. Anh biểu diễn một cách thành thạo nhưng chậm rãi các động tác như nhặt  gò gai, húng quế, vài cọng giá sống phủ lên mặt tô phở đang nghi ngút khói, không quên vắt miếng chanh vào.

                  Tôi tưởng như thế đã xong vì lúc này nước miếng tôi đã gần đầy trong miệng và tay phải tôi đã cầm sẵn đôi đũa tre như một kiếm sĩ  cầm giáo nơi tay sẵn sàng chiến đấu. Đôi mắt tôi mở to đang theo dõi từng động tác nhỏ nhất của đôi tay Hán. Tôi đã mất hết kiên nhẫn của một thằng bé nhà quê lần đầu tiên được ngửi  hương thơm của một món ăn đầy hương vị mà cả đời chưa bao giờ được nếm qua, nhưng Hán lại quá vô tình không hiểu được tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đang chờ đợi anh ban hiệu lệnh: "Rồi đó Lễ, ăn đi em” thì ngược lại anh ta dừng tay ngước lên bắt gặp đôi mắt của tôi đang mở to gần bằng... tô phở đang nhìn … tô phở, anh hỏi:

                  - Lễ có ăn được ớt không?

                  Tôi chẳng để ý nghe câu hỏi của anh vì lúc bấy giờ tất cả tâm trí tôi đang vướng bận về chuyện khác. Tôi vội trả lời một câu mà sau này mỗi lần nhớ lại tôi vẫn còn cảm thấy xấu hổ:

                  - Xong chưa anh? Em không cần gì đâu, em ăn như vậy được rồi!

                  Tôi ấp úng câu nói đó trong khi cố giữ không  cho nước miếng tràn ra khỏi miệng nhưng Hán vẫn vô tình không hiểu điều đó. Có lẽ vì Hán nghĩ là ai cũng như anh đều có thể “bình thản” trước một tô phở tái mới vừa bưng ra đang bốc mùi tỏa hương thơm ngào ngạt.

                  Sau câu trả lời lạc đề đó của tôi, tôi tưởng là cuộc tra tấn đã chấm dứt, nào ngờ Hán vừa từ tốn đặt miếng võ chanh lên mặt bàn, vừa cho tay vào túi quần tây lôi ra chiếc khăn tay màu cháo lòng đã nhàu nát và cẩn thận chùi đi chùi lại các ngón tay còn dính mấy tép chanh chỉ to bằng con kiến, vừa rề rà giải thích cho tôi biết là ăn phở phải có tí ớt mới “sướng!”. Trong khi anh đang say sưa với bài giáo khoa nhập đề khá dài về cách ăn một tô phở, nhưng không một tiếng nào lọt được vào tai tôi, tôi liếc nhìn qua chiếc bàn con bên cạnh thấy một cô gái trạc bằng tuổi tôi ngồi một mình đang xì xụp chiến đấu với tô phở bốc khói, mặc dù cô bé gọi phở sau chúng tôi. Thỉnh thoảng cô bé đưa khăn tay lên xì mũi có lẽ vì ăn phải ớt. Cảnh này càng làm tôi thêm sốt ruột!

                  Lúc này tô phở của tôi vẫn còn bị Hán giam giữ trước mặt anh và nằm sóng đôi với tô phở của anh chưa qua “thủ tục” ngò gai, húng quế.... Tôi bực mình nhìn vào mặt của Hán, thấy anh ta thật đáng ghét vì tật nói dai. Lúc bình thường đi chơi với tôi, khi cần giải thích về khung cảnh Sài Gòn cho tôi nghe thì anh lại câm như hến, không hiểu mắc chứng gì mà lúc này anh lại nói, và còn nói dai nữa. Rồi cuối cùng Hán cũng ban cho tôi một ân huệ khi anh đẩy tôi phở qua trước mặt tôi sau khi cẩn thận nhét chiếc khăn tay phải gió của anh vào túi quần.

                  Tôi đưa cả hai tay ra, run run đón lấy tô phở có phủ lớp rau bên trên mà tôi biết là sẽ rất ngon mặc dù tôi chưa nếm qua. Lúc này tôi chẳng còn để ý tới những gì chung quanh, thế giới của tôi bây giờ bị thu nhỏ lại chỉ to bằng ... tô phở tái.  Tôi kéo dịch cái ghế bán cá lại gần chiếc bàn cho đúng tầm, và không kịp đưa tay làm dấu thánh giá như thói quen từ nhỏ tôi được dạy là bao giờ cũng phải làm dấu trước khi ăn, tôi cúi xuống kề miệng vào thành tô húp một chút nước súp của tôi phở. Một cảm giác đê mê chạy rần vào thân thể sau khi đầu lưỡi tôi chạm với loại nước súp ngon một cách lạ lùng này. Nếu có ai nhìn sẽ cười tôi về cử chỉ kề môi húp phở đó. Thật ra không phải vì tôi quá thèm mà ăn uống cách bất lịch sự như vậy, nhưng vì lúc đó trong miệng tôi đã đầy nước miếng nếu tôi mở miệng sẽ tràn ra ngoài nên lý do tại sao tôi kê môi vào húp  thẳng vào tô phở đó chỉ có một mình tôi biết và tự tha thứ cho chính mình. Ngụm nước súp là tôi hừng chí! Vừa định cho đũa vào tô phở chợt tôi lại nghe cái giọng đáng ghét của Hán từ bên kia bàn:

                  - Ấy! Lễ, anh chưa cho tương, từ từ đã! Đợi anh cho tương vào. Ăn phở mà không có tương, mất hết vị.

                  Tôi bị chặn lại trong giây phút bất ngờ nhất nên vừa bực mình vừa xấu hổ nhưng đành phải rụt tay lại ngồi chờ trong khi Hán đưa tay với lấy cái ống bằng nhựa to bằng cổ tay, đen sì sì và đầy cáu ghét nằm ở góc bàn. Trên miệng ống có cái vòi rỗng ruột như cây đinh ở đầu được cắt bằng, lộ ra một cái lỗ nhỏ bằng cây tăm mà tôi biết đó là cái lọ đựng tương. Hán với tay ngang bàn cầm dốc ngược lọ xuống chỉa cái vòi vào tô phở của tôi và bóp phần trên cái lọ nhựa trong sự chờ đợi đã mất hết kiên nhẫn của tôi.

                  Hán cứ bóp… bóp… và bóp mãi nhưng không có mộ thứ gì chui ra khỏi cái lỗ ở đầu chiếc vòi. Cuối cùng chỉ có tiếng gió xì xì vọt ra , thì ra lọ tương đã rỗng tự bao giờ. Hán có vẻ thất vọng, lộ chút bực mình và có lẽ cũng vì mất mặt với tôi nên trút cơn giận lên bà chủ đang lúi húi ở chiếc xe phở , đang có mấy người khách bao vây. Hán cao giọng:

                  - Bà chủ này! Tương đã hết thì còn để lọ đây làm gì? Dẹp đi! Cho lọ tương khác đi.

                  Giọng của Hán rõ ràng là mất lịch sự,  như muốn ra lệnh. Nhưng người đàn bà dường như không nghe hoặc là cố ý không nghe, trong khi đôi tay của bà hết chụp cái này bốc cái khác liên hồi trên chiếc xe bán phở nhỏ nhưng đông khách. Không thấy hồi âm, giọng Hán chuyển sang một cung cao hơn:

                  - Bà chủ! Còn tương không? Cho một lọ đi chứ, tôi gọi bà không nghe à?

                  Bà chủ vẫn cúi đầu và bận rộn với số khách đang đứng gần nhìn hau háu vào đôi tay thành thạo của bà đang chuẩn bị các tô phở cho họ. Thấy tình thế có vẽ căng tôi nói với Hán:

                  - Thôi kệ đi anh, ăn phở không có tương cũng được mà! Mất vị chút có sao đâu.
                  Vừa nói tôi vừa xỏ đũa vào tô phở đang nằm trước... miệng, trong tư thế mời gọi gọi vô cùng hấp dẫn. Hán vội đưa tay chận tay cầm đũa của tôi lại:

                  - Không, chờ tí nữa, có ngay ấy mà. Ăn phở mà không có tương còn ra gì!
                  Một lần nữa tôi bị khựng lại. Lúc này tôi nghĩ không phải vì Hán câu nệ vào tô phở có tương hay không, nhưng có lẽ vì anh muốn ăn thua đủ với bà chủ hàng phở không để ý lời anh gọi xin tương đã hai lần. Có lẽ thấy ngồi tại chỗ không ăn  thua, Hán đứng lên bước thẳng lại xe và xẵng giọng nói với bà chủ:

                  - Bà chủ cho tương đi. Tôi gọi hai lần rồi bà không nghe à!

                  Người đàn bà trẻ đang bận tay không quay lại nhưng nói nhẹ nhàng:

                  - Cậu làm ơn coi bàn nào có lấy hộ tôi. Tôi đang bận tay quá, cậu thông cảm.
                  Mấy người khách đang đứng bên quay lại nhìn Hán. Nghe nói thế Hán nhìn quanh và bước lại bàn có cô bé ngồi một mình lúc nãy. Anh làm hiệu xin mượn lọ tương, cô bé đang ngồi xỉa răng mỉm cười và gật đầu.

                  Vừa gắp miếng phở đầu tiên vào miệng tôi nghĩ trong lòng: “Lạy chúa tôi ơi! trên đời này còn có món gì ngon như thế này nữa hay không”? Lúc đó tôi chợt nghĩ chắc là ngày xưa các vua chúa và những người giàu sang quyền quý nhất trên đời lúc nào cũng ăn phở. Ăn phở 365 ngày trong năm! Và lạ lùng thay, tô phở mà tôi ăn khi ngồi bệt xuống trên chiếc ghế bán cá sát mặt đất bên lề đường Kỳ Đồng đó là tô phở ngon nhất mà sau này dù có ăn phở ở đâu tôi cũng không bao giờ có lại  được cái cảm giác tuyệt vời như thế.
                   
                   
                  Những cuộc  ‘‘họp báo’’
                   
                  Sau một tuần lễ ở Sài Gòn, tôi trở về quê một mình trong khi Thầy Quý  ở nán lại thêm mấy hôm.  Trên chuyến xe về tôi vẫn mặc chiếc quần sọt duy nhất đó, chân mang guốc vì đôi săn-đan mới mua và mang chỉ có một lần đã “bỏ xác’ ở Sài Gòn. Tôi cũng tiếc cho đôi giày mới nhưng khi nghĩ là chuyến đi Sài Gòn đó đối với tôi thật quý báu không gì sánh bằng, nên dù có mất đôi giày cũng chẳng có gì là thiệt thòi. Vả lại tôi chỉ cần mang giày cho chuyến đi, còn chuyến về này thì cần gì, mang gì chẳng được, có đi chân đất cũng không sao vì về tới quê là tôi lại bắt đầu đi giày da, nhưng là da của hai bàn chân mình!

                  Khỏi phải nói, khi nhập học lại sau kỳ nghỉ Quốc Khánh năm đó, tôi tự nhiên trở thành “trung tâm của Mai Phốp!” Đám bạn trong lớp cả trai lẫn gái vây quanh tôi hỏi chuyện. Tôi đã ‘‘họp báo’’ hàng tháng trời nhưng vẫn còn chuyện nói về chuyến đi Sài Gòn và đám bạn cứ há hốc mồm ra ngồi nghe, thái độ của các bạn càng làm tôi hừng chí nói hăng hơn. Những cuộc ‘‘họp báo’’ như vậy tôi đã dợt trước với nhóm bạn chăn trâu với tôi ở Cầu Đá rồi. Tôi cố gắng kể lại thật chi tiết và trung thực những gì tôi nghe và thấy trong chuyến đi lịch sử. Chỉ có chỗ nói về sở thú Sài Gòn và mấy con thú  như sư tử, cọp, gấu thì tôi cố ý nói nó...to hơn một chút  cho tụi bạn ngán chơi. Thí dụ như con sư tử to bằng con bê thì tôi nói bằng con... bò nhỏ! Mặc dù con bò nhỏ và con bê cũng là một nhưng tôi có cảm tưởng khi nói con bò nhỏ nghe như to hơn con bê! Tôi cũng kể với nhóm bạn học là tôi có coi chiếc tàu chiến rất lớn là tàu "Saint Paul” của Mỹ cặp bến Bạch Đằng trong dịp lễ Quốc Khánh, và khi Tổng thống Ngô Đình Diệm xuống thăm thì tàu có bắn 21 phát đại bác chào mừng. Có đứa con gái chen vào hỏi:

                  - Chiếc tàu chiến lớn như thế nào hả Lễ?

                  Thật tình tôi cũng chẳng biết nó lớn như thế nào, nhìn qua ngó lại tôi nói: 

                  - Nó lớn như cái nhà thờ kia kìa!

                  Đứa con gái nghe vậy lè lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc, trong khi tôi tự hỏi là tôi so sánh như vậy có thực sự đúng không. Một chiếc tàu chiến của Mỹ thì  lớn hay nhỏ hơn cái nhà thờ, tôi cũng không biết nhưng lúc đó chỉ có cái nhà thờ là lớn nhất trong làng nên tôi dùng nó để so sánh. Có vậy thôi!
                   
                   
                  Hai vị Linh mục
                   
                  Cuối năm 1957, cha Lê Vĩnh Trình, sau 17 năm ở họ đạo Mai Phốp được đổi đi về coi xứ đạo Cái Bông trong tỉnh Bến Tre và cha Nguyễn Văn Tỏ từ Trà Ôn về thay. Sự thay đổi này vô tình cũng đã ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều, cả về mặt tôn giáo lẫn việc học hành.

                  Cha Trình và cha Tỏ khác nhau về nhiều phương diện. Sự tương phản quá nhiều về con người và lối sống của hai vị Linh mục mà tôi biết đầu tiên trong đời này đã để lại trong tôi những ấn tượng rất sâu xa. Cha Lê Vĩnh Trình như tôi đã nói là con người oai phong lẫm liệt, thân hình chắc nịch, thích chơi bóng đá, dáng đi đường bệ, lối sống thượng lưu quý phái theo kiểu tây.  Lúc đó cha Trình  tóc bạc hoa râm và húi cao, đầu chải rẻ ba và tôi thấy chú Út Thông ở gần nhà thờ tới cắt tóc cho cha Trình mỗi tuần một lần đúng vào chiều thứ Bảy. Vì lớp học của tôi nằm ngay sau nhà bếp của cha Trình nên tôi thấy và nhớ rất rỏ việc đó. Vả lại lúc bấy giờ mỗi lần thấy như vậy tôi còn thầm nghĩ: “Ông này có phước thật, được vò đầu cha Trình là người tôi sợ như ông trời!” Những lúc không mặc áo chùng đen thì ngài vận đồ sọt, nhìn vào đã thấy khỏe mạnh và oai vệ.
                  Ngược lại cha Nguyễn Văn Tỏ gầy còm, ốm yếu như một người đàn bà không đẹp, có thân hình mỏng, tóc đen và dài chải ngược về sau nhìn từ xa như lúc nào cũng đội bê rê đen! Chẳng những thế, ngài còn bị chứng bệnh thịt dư trong mũi, và cách quãng chừng 5 phút một lần phát ra âm thanh rất lạ 4 tiếng đi liền nhau từng đôi một“khẹt khẹt... khẹt khẹt”, sau đó đưa khăn tay lên xì mũi một thôi một hồi! Ngay từ lúc đó tôi đã nghe  người ta gọi ngài là “cha Tỏ khẹt!”, dĩ nhiên là chỉ gọi sau lưng ngài. Cha Tỏ bước đi nhanh nhẹn và nhẹ nhàng thư thái như một dáng đi con mèo. Lúc nào không vận áo chùng thâm thì là chiếc áo khẩu đen và quần lãnh theo kiểu các Mệ người Huế. Cha Trình ra khỏi giáo xứ bằng một đoàn xe hơi và rất nhiều người đưa tiễn, cha Tỏ cỡi xe máy dầu tới nhận xứ. Khi tới họ đạo Mai Phốp này, cha Tỏ mang theo gia đình ông từ Quan với mấy đứa con trai trạc bằng tuổi tôi. Ông từ Quan và những đứa con của ông cũng bệ rạc không kém gì ông chủ của họ. Nói tóm lại, hai vị linh mục này là biểu tượng điển hình của sự oai vệ và sự yếu đuối. Chính vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy sự tương phản về lối sống và tư cách và lối hành xữ công việc của hai con người nắm quyền uy tôn giáo trong họ đạo tôi sống lúc bấy giờ. Việc này có ảnh hưởng tai hại tới đầu óc của một chú bé 14 tuổi như tôi.

                  Điều làm tôi ngạc nhiên tới sửng sốt là ngay trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau khi về nhận họ đạo, tôi đã nghe cha Tỏ lên tòa giảng đả kích cha Trình một cách thậm tệ và công khai không cần úp mở! Cha Tỏ nói cha Trình ra đi đã vơ vét hết của cải trong họ và cả bàn ghế trong nhà xứ! Giọng cha Tỏ rất bực tức, càng bực tứ thì càng "khẹt khẹt... khẹt khẹt.” nhiều hơn. Đó là một bài giảng rất hùng hồn của cha Tỏ để cổ vũ cho sự... lỗi đức bác ái!

                  Mấy ngày sau tôi thấy xuất hiện những chiếc ghế đai vô cùng quái dị được ghép bằng những tấm ván sù sì của các thùng đựng sữa, đóng đinh vào rồi đưa ra ngồi! Những chiếc ghế “dã chiến” này được thay thế hết những chiếc ghế đẹp trong nhà cha sở và hàng ghế giữa trong nhà thờ dành cho Ban Quới Chức. Có nhiều người khách khi tới thăm cha Tỏ ra về bị rách quần vì những cây đinh lởm chởm còn sót lại trên mặt “ghế” trong nhà cha.  Lúc đó, tôi chưa biết được các việc của Linh mục với nhau nhưng cách cha Tỏ hành động có ý hạ bệ cha Trình đó tôi thấy nó tác hại cho chính cha Tỏ trước tiên, kế đó nó tác hại cho tôi và tôi nghĩ là cho rất nhiều người.

                  Kế đến là việc có liên quan trực tiếp tới tôi trong lần cha Tỏ xuống thăm học sinh của trường trung học Minh Đức chúng tôi mấy ngày sau khi về làm cha sở. Vì biết trước cha Tỏ rất hận cha Trình, mà trường trung học này là công sức của cha Trình gầy dựng nên thầy Quý đã cẩn thận căn dặn chúng tôi phải tỏ ra lễ phép và kính trọng cha Tỏ đúng mức để cha còn thương và lo cho trường học. Thầy cũng nói cho những học sinh nào chưa biết cha Tỏ là ngài có tật khẹt khẹt vì có thịt dư trong mũi, đừng có lấy làm lạ vì chuyện đó và nhất là đừng có cười!

                  Quãng 3 giờ chiều, học sinh cả hai lớp đệ thất và đệ lục chừng hơn một trăm,  chen chúc đầy trong phòng học lớn và nôn nao đợi thầy Quý và thầy Công hướng dẫn cha sở mới vào. (Lúc này thày Công xuống dạy thay cho thầy Huấn đã về lại Sài Gòn) Nhìn ra, tôi thấy cha Tỏ mặc áo khẩu đen, quần lãnh, chân mang dép, có hai thầy đi bên cạnh trong cung cách khép nép và cố gắng bày tỏ sự kính nể cha sở mới.  Khi cha Tỏ bước vào lớp, chúng tôi vỗ tay chào mừng. Thầy Quý mời cha hiệu tưởng bước lên bục, hai thầy đứng bên dưới. Thầy Quý thay mặt học sinh toàn trường chào mừng cha hiệu trưởng mới và xin cha thương, lo lắng cho học sinh. Thầy Quý nói ngắn gọn và thành khẩn. Khi cha Tỏ vừa đáp lời thì tai nạn xảy ra! Khi ngài vừa nói được mấy lời thì  "khẹt khẹt...khẹt khẹt...!" Trong khung cảnh trang nghiêm đó bọn học sinh chúng tôi không đứa nào nhịn cười được! Tôi đưa tay lên bụm miệng cố gắng nín cười, ngó qua thấy nhiều đứa cũng làm như tôi, có đứa còn dùng răng cắn môi dưới thật chặt trong khi đôi vai đang run mạnh vì sự dồn nén của cơn buồn cười.

                  Lúc đó thầy Quý tái mặt đi và nhìn chúng tôi trừng trừng mặc dù môi thầy cũng đang chúm chím cười nhưng cố nén xuống. Từ thầy tới trò ai cũng biết lúc bấy giờ cười là tự sát nên bằng mọi giá phải... nuốt xuống. Nhưng khổ nỗi, con vi trùng cười rất thích tấn công vào khung cảnh trang nghiêm. Hình như lúc đó con vi trùng cười đã xâm nhập và làm chủ toàn bộ hệ thống thần kinh của hơn trăm học sinh và 2 thầy giáo của chúng rồi, nên sau đợt “khẹt khẹt...khẹt khẹt” thứ hai, cả đám chúng tôi vụt phá lên cười ầm ĩ.  Cả thầy Quý là người đã căn dặn chúng tôi đừng cười, bây giờ cũng cười, thầy Công cũng cười mà có vẻ còn cười dữ dội hơn bọn học sinh chúng tôi. Cha Tỏ phẫn nộ quát: “Thôi! Đủ rồi!” và bước xuống bệ ra khỏi lớp đi thẳng trở lên nhà xứ!

                  Cha Tỏ vừa ra tới sân, trong này chúng tôi tự nhiên im bặt. Thầy trò tái mặt đứng chết trân nhìn nhau một giây rồi lại... phá lên cười! Lần này thì trận cười càng dữ dội hơn, thoải mái hơn to tiếng hơn và hình như ai cũng nghĩ là đàng nào thì tai nạn cũng đã xảy ra nên cười một trận cho nó đã để tống ra hết những con vi trùng cười tự nãy giờ đang gậm nhấm tâm can và làm chúng tôi tức ruột không chịu được. Thầy Quý mặt mày méo xệch, đưa tay gỡ kiếng ra lau nước mắt vì cười, thầy Công cũng làm vậy và trong bọn học sinh chúng tôi cũng nhiều đứa đưa tay quệt nước mắt vì hậu quả của trận cười muốn vỡ cả bụng vừa rồi.

                  Phải mất chừng 15 phút sau, trong lớp mới chấm dứt  tiếng cười cuối cùng. Thật là một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra nhưng thầy Quý không trách chúng tôi được vì chính thầy cũng cười. Sau khi được trận cười no nê, thầy Quý kêu chúng tôi ngồi yên để nhận định tình thế và tìm phương cứu chữa. Tôi thấy thương cho thầy Quý lúc bấy giờ bị lâm vào tình trạng quá khó khăn khi thầy chọn ra 5 em trong đám học sinh để cùng với thầy làm thành một “phái đoàn” lên xin lỗi cha sở! Tôi cũng được thầy chọn vào thành phần phái đoàn, có lẽ vì tôi cười hăng nhất.

                  Khi phái đoàn sứ giả ra đi, tự nhiên tôi liên tưởng tới phái bộ ... Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử đi qua Pháp xin chuộc lại 6 tỉnh miền Tây hay miền Đông Nam Phần gì đó trong bài học lịch sử mà lúc đó tôi còn nhớ lõm bõm chỗ đặng chỗ mất.  Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại nghĩ sứ mệnh của phái bộ Phan Thanh Giản lại dễ dàng hơn công việc của phái bộ... Bùi Sinh Quý! Khi “phái bộ” chúng tôi lên gần tới nhà xứ, trống ngực tôi đánh liên hồi, vì ngoài nhiệm vụ khó khăn trước mắt, tôi còn rất hồi hộp khi sắp được bước vào một ngôi nhà mà suốt thời cha Trình còn ở đây tôi chưa được bước chân vào bao giờ mặc dù chính tay tôi, cùng với các học trò,  đã ôm không biết bao nhiêu gạch đá để xây ngôi nhà đó. Ngôi nhà cha sở được xây trên một nền bằng đá xanh khá cao và chúng  tôi bước lần theo các bậc tam cấp lên tiền đường.

                  Sau khi hàng ngũ chỉnh tề, thầy Quý cầm cái chuông nhỏ lắc ba tiếng rồi bỏ chuông xuống đứng chờ. Lúc bấy giờ con muỗi bay ngang cũng nghe được và trong lòng tôi nghĩ  lần này thì cha Tỏ “khẹt khẹt” như lúc nãy hoặc hơn thế nữa chúng tôi cũng không cười, hay đúng hơn là không còn có sức để cười nữa. Một lúc sau cha Tỏ từ trong nhà bước ra trên mặt vẫn còn phảng phất cơn tức bực. Thầy Quý nói lời xin lỗi, cha nói: “Được rồi, chúng con về đi, cha đang mệt muốn nghỉ một chút. Khẹt khẹt!”. Thế là phái đoàn chúng tôi ra về tay không.
                   
                   
                  Cảnh chợ chiều
                   
                  Từ sau biến cố đó không bao giờ cha Tỏ bước chân xuống trường chúng tôi nữa, mặc dù ngài vẫn là hiệu trưởng ký tên trong giấy tờ nhà trường. Mấy tháng sau, Thầy Quý từ giã chúng tôi ra đi và trở về Sài Gòn, mặc dù thầy không nói nhưng tôi hiểu được lý do sự ra đi của thầy. Lòng tôi buồn vô hạn khi phải chia tay với con người có mặt từ đầu và có công rất nhiều với ngôi trường Minh Đức. Ngoài ra thầy Quý còn là bõ đở đầu của tôi, thầy rất thương tôi và để lại trong lòng tôi một kỷ niệm nhớ đời, đó là việc thầy dẫn tôi đi Sài Gòn lần đầu tiên.

                  Công ơn thầy Quý, tôi ghi nhớ mãi vì chính thầy đã đưa tay dìu tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, và là người đầu tiên cho tôi cơ hội nhìn ra chân trời rộng hơn cái thế giới nhỏ hẹp của một làng quê mà cho tới năm 14 tuổi tôi vẫn còn vị đóng khung trong đó. Khi cha Trình đổi đi, tương lai của ngôi trường Minh Đức trở nên u tối. Sau biến cố “cười”, ngôi trường  trở nên buồn thảm. Khi Thầy Quý ra đi, ngôi trường bắt đầu tê liệt vì vài tháng sau thì số học sinh đã rút lui gần phân nửa, một số bỏ học, về quê làm ruộng, một vài người lên tỉnh tiếp tục học. Riêng trong gia đình tôi, lúc đó người anh kế tôi phải bỏ học, tôi được gởi lên tỉnh Vĩnh Long tiếp tục nửa năm sau của lớp đệ lục tại trường trung học tư thục Nguyễn Trường Tộ do cha Nguyễn Ngọc Quang, cha sở Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long làm hiệu trưởng.

                  Về số phận trường Minh Đức, thời gian sau khi thầy Quý ra đi, trường hoạt động vá víu và ảm đạm như cảnh chợ chiều. Cuối cùng chuyện phải tới đã tới, trường đã phải chính thức khai tử sau hai niên khóa 56-57 và 57-58, lúc đó tôi đang học tại Vĩnh Long. Mặc dù ngôi trường Minh Đức yểu mạng, chỉ thọ được 2 tuổi  nhưng cũng đã giúp cho một số trẻ con trong làng bước lên ban trung học là ngưỡng cửa của tương lai. Một trường trung học ở tỉnh hay ở thành phố, tự nó đã có giá trị huống gì một trường trung học ở nhà quê lúc đó phải coi đó là một ân huệ. Sau này lớn lên, làm gì và ở đâu tôi cũng nhớ mãi hình ảnh thân yêu của ngôi trường Minh Đức, công ơn của cha Lê Vĩnh Trình, của thầy Quý và các thầy và các bạn học trong thời trẻ đó.

                        Hai vị Linh mục Lê Vĩnh Trình và Nguyễn Văn Tỏ để lại trong tâm trí tuổi trẻ tôi những ấn tượng khó quên. Bên ngoài tất cả những việc làm và cá tính của hai người, điều tôi thấy rõ nhất là cả hai vị đầy uy quyền và khiến dân chúng khiếp sợ. Nhất là với đám trẻ con như tôi lúc đó. Điều đáng nói hơn là cả hai vị hay đánh trẻ con và điều này càng làm tôi khiếp đảm và sợ phải đi nhà thờ nhiều hơn! Cha Trình đánh trẻ con khi “có tội” như ăn cắp trái cây, chọi me, trốn học, đánh nhau hoặc có lỗi gì nặng... còn cha Tỏ đánh trẻ vì tâm tính bất thường mang tính cách bệnh hoạn và điều này ngay từ nhỏ làm tôi sợ nhưng không phục ngài. Thí dụ như đánh trẻ con khi tập giúp lễ, hoặc khi trẻ con quay ngang quay ngửa trong nhà thờ. Cha Tỏ cấm trẻ con vào nhà thờ quay mặt ra sau khi có tiếng động, và có mấy lần khi bọn học trò chúng tôi ngồi đầy nhà thờ thì cha Tỏ từ phía sau đập bàn đập ghế la hét ... Đứa nào quay lại nhìn thì bị tát tai!
                  Riêng về cha Lê Vĩnh Trình, phải nói là tôi sợ không có thể nào tưởng tượng được. Với cặp mắt ngô nghê của một đứa trẻ nhà quê như tôi nhìn lên hình ảnh như một vị thần của cha Trình  đã là một điều kinh hãi. Thấy ngài đi từ xa đã né tránh đừng nói chi tới sự việc như tôi nhớ lại dưới đây.

                  Lúc bấy giờ tôi 11 tuổi và đang đi học ở Mai Phốp. Những buổi sáng sớm theo đoàn người đi Lễ và sau đó ở lại học tới chiều mới về nhà ở Cầu Đá. Cha Trình có thói quen ngồi tòa giải tội những buổi sáng sớm trước giờ làm lễ và đợi chờ giáo dân tới. Lúc đó trong nhà thờ yên lặng, yên lặng hoàn toàn.  Một buổi sáng nọ, tôi ngồi chung với mấy học trò bên nam trong lúc cha Trình đang ngồi tòa phía bên nữ. Ngồi lâu buồn ngủ và lúc gió chẳng nghĩ ngợi gì, tôi ngáp. Nhưng khổ nỗi không phải là cái ngáp thông thường và lịch sự  nhưng là cái ngáp thoải mái  và đầy vẻ khoái cảm! Tôi ngửa đầu ra sau, đưa hai tay lên trời ngoác mồm to hết cỡ và phát ra tiếng ngáp kéo thật dài vang dội cả nhà thờ: “Oooààààmmm”!!. Vừa  ngáp xong tôi mới giật mình biết là tai họa sắp xảy ra khi tôi nhìn qua thấy cha Trình bật đứng dậy như cái lò xo và bước nhanh hết tốc lực đi ngang giữa nhà thờ và hướng về phía ‘‘có tiếng động’’! Tôi nghe người bị điện giật một tiếng  “bưng!” mặt nóng rần, các lỗ chân lông hở ra to như  tàn ong, một chút nước tiểu rỉ ra quần!

                  Bình thường tướng đi cha trình tôi đã khiếp vía thì nói gì tới dáng đi của ngài đến xử tội của tôi lúc đó. Vì ở cách khá xa bên kia và học trò ngồi khá đông nên ngài không biết đứa nào nên dừng lại trên tôi 4 dãy ghế và quát to  như tiếng sấm gầm:

                  - Thằng nào?

                  Tôi thấy mấy đứa chỉ xuống chỗ tôi.  Cha Trình đi lần xuống ghế tôi. Ngồi bên ngoài là chú Út Hữu của tôi, sau đó là tôi và mấy đứa khác. Lúc đó tôi chẳng còn biết mình là ai, mặt tôi không còn chút máu, người run bần bật như cầy sấy vì lần đầu tiên trong đời tôi mới được chứng kiến cơn thịnh nộ của cha Trình đối với... tôi! Ngài dừng lại ngay đầu hàng điểm mặt chú Út Hữu quát:

                  - Thằng nào?

                  Chú Út Hữu quay ngang dùng ngón tay trỏ của bàn tay phải chỉ vào tôi nói:

                  - Thằng này!

                  Vừa nghe thế tôi vội ngã ngửa người ra nằm dài trên ghế vung cả 4 vó lên trời như con ếch mắc vào lưỡi câu la lên một tiếng to còn hơn tiếng ngáp lúc nãy ầm lên cả nhà thờ:

                  - Hổng phải con Ông Cố ơi!

                  Tôi vừa la vừa tống ra quần tất cả chỗ nước tiểu nãy giờ tôi cố giữ lại trong người. Cha trình hỏi tiếp theo:

                  - Vậy thằng nào?

                  Tôi mếu máo đáp vừa chỉ lên trên:

                  - Mấy đứa trên con không biết Ông Cố ơi.

                  Nghe thế, cha Trình lại đi về phía trên và điểm mặt cả đám nghiến răng nói:

                  - Chúng con chết nghe chưa!

                  Nói xong cha bỏ đi. Tôi mừng như người vừa chết đi sống lại. Tôi lảo đảo đứng dậy bước ra khỏi nhà thờ như người vừa qua cơn trúng gió nặng. Quần cụt đen của tôi ướt đẫm, nhưng vũng nước tiểu trong nhà thờ chắc không ai thấy vì lúc đó chỉ có một chiếc đèn măn-xong gần trên cung thánh, không đủ soi chỗ chúng tôi ngồi.

                  Sau này, tôi trách chú Út Hữu:

                  - Sao lúc đó chú lại chỉ con?

                  Chú cười hề hề trả lời:

                  - Thì mầy ngáp tao nói mầy ngáp chớ sao?

                  Tôi bực mình nói:

                  - Con oán chú cả đời về cái vụ này!

                  Chú lại cười và nói:

                  - Mầy oán rồi làm gì được tao?!

                  Thiệt tình tôi giận cái ông chú này kinh khủng!
                   
                   
                  Bước đầu lên tỉnh

                  Cuộc đời tôi một lần nữa lại biến đổi với môi trường xa lạ ở tỉnh. Thời gian đầu tôi ở trọ chung với mấy bạn từ Mai Phốp lên Vĩnh Long học trước tôi vài tháng. Sau đó tôi ở trọ với anh thứ Ba của tôi đi lính và ở trong trại gia binh của Tỉnh đoàn Bảo An Vĩnh Long, thời Đại úy Phạm Ngọc Thảo làm Tỉnh đoàn trưởng Bảo an đoàn. Tôi còn nhớ khá nhiều chi tiết về hình dạng và lối sống của vị sĩ quan này.  Đại úy Phạm Ngọc Thảo lúc bấy giờ có lẽ ngoài 30 tuổi, dáng người cao nhưng gọn và đẹp trai. Tướng ông lý tưởng cho một cầu thủ bóng đá hoặc bóng chuyền vì chiều cao của ông. Tóc ông lúc nào cũng húi ngắn đúùng phong cách nhà binh. Ông đi đứng chậm rãi và trang nghiêm. Tôi không nhớ được nụ cười của ông vì hình như tôi chưa hề thấy ông cười bao giờ.

                  Điểm đáng chú ý nhất nơi Đại úy Phạm Ngọc Thảo là ông có một mắt lé rất nặng (tiếng miền Bắc là “lác mắt”) , và đây là điểm phá tướng của ông. Khi nhớ về ông, tôi vẫn thầm tiếc cho ông và nghĩ thầm giá mà ông Thảo không bị lé mắt chắc ông sẽ là người đàn ông đẹp trai lý tưởng. Nói về uy quyền thì lúc đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh sau Giám mục Ngô Đình Thục và Tỉnh trưởng Khưu Văn Ba. Lúc bấy giờ tôi có nghe nói ông Phạm Ngọc Thảo là người phía “bên kia” ra đầu hàng với chánh quyền Ngô Đình Diệm, qua trung gian của Linh mục Nguyễn Ngọc Quang, lúc bấy giờ là cha sở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long để nhờ giới thiệu với Giám mục Ngô Đình Thục để xin đầu hàng.

                  Ông Phạm Ngọc Thảo đã dò đúng mạch và tôi tin là đã được nghiên cứu rất kỷ. Giám mục Ngô Đình Thục tin dùng Thảo và cho ông dạy học một thời gian trong trường trung học Nguyễn Trường Tộ của nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long. Sau đó một thời gian ông được đồng hóa vào cấp bậc Đại úy trong quân đội và làm Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An Vĩnh Long. Tôi không biết gì về vai trò Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An của ông Thảo nhưng đời sống tôn giáo của ông làm tôi chú ý. Đại úy Phạm Ngọc Thảo là người đạo đức hiếm có và tất cả những gia đình quân nhân trong trại gia binh này đều ca tụng và truyền miệng  nhau về lòng đạo đức của ông mà người ta gọi cách thân thương là "Đại úy mình”

                  Lúc bấy giờ chính tôi cũng ngạc nhiên về vị sĩ quan có lòng đạo quá sốt sắng này. Có nhiều đêm tôi thấy “Đại úy mình“ xuống từng gia đình công giáo hỏi đã lo đọc kinh tối chưa? Nếu gia đình nào chểnh mảng việc này bị ông khiển trách và bắt ngồi đọc kinh trong khi ông cũng ngồi lại trong giây lát rồi ra đi qua nhà khác. Anh quân nhân công giáo nào mà Chúa Nhật không đi nhà thờ, chẳng may Đại úy Phạm Ngọc Thảo biết được, thì đừng hòng cầu mong bất cứ ân huệ gì nơi ông.

                  Về phần bà Đại úy cũng vậy. Bà có mặt ở tất cả các hội đoàn công giáo như Đạo Binh Đức Mẹ, hội Các Bà Mẹ Công Giáo... Dĩ nhiên là bà Đại úy được bầu làm trưởng trong các hội đoàn đó và bà hoạt động rất hăng. Nói chung vào thời Đại úy Phạm Ngọc Thảo làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long, cả trại gia binh tôi ở lúc bấy giờ đạo đức như một ... nhà thờ.

                  Nhưng điều làm tôi không bao giờ quên được, là cách thức Đại úy Phạm Ngọc Thảo đi lễ ngày Chúa Nhật ở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long. Lúc bấy giờ còn là nhà thờ  cũ, nằm cặp bờ sông Tiền Giang. Về sau mé sông bị lở nên Nhà thờ phải dời về ngã ba Cần Thơ. Vì mỗi ngày Chúa Nhật tôi cũng đi lễ ở đó nên thường xuyên chứng kiến cảnh nhân vật số hai và số ba của tỉnh đi lễ, ý tôi muốn nói tới Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba và Đại úy Phạm Ngọc Thảo.

                  Đốc Phủ Sứ Khưu Văn Ba lúc bấy giờ đã ngoài 50 là vị tỉnh trưởng dân sự cuối cùng của tỉnh Vĩnh Long. Ông là một người cao to trắng trẻo và oai vệ theo cách thức của một quan chức dân sự. Mỗi sáng Chúa Nhật ông bà Tỉnh Trưởng và hai con trai là Khưu Văn Phước và Khưu Văn Lộc lúc đó đã 18, 20 đi lễ trên chiếc xe “Traction 15” màu đen bóng lộn, có tài xế lái. Tôi thường đứng dựa gốc cây me từ đàng xa nhìn gia đình quý phái này đi lễ.

                  Hai ông bà Tỉnh Trưởng đã đẹp mà cặp con tai của ông bà càng đẹp hơn! Thường thì ông Tỉnh Trưởng mặc com-lê trắng, bà mặc áo dài màu, còn hai cậu ấm mặc đồ tây trắng ủi thẳng tắp. Tài xế đổ xe ngay cửa nhà thờ xong, vội ra sau mở cửa xe. Gia đình Tỉnh Trưởng xuống xe và đi thẳng  vào nhà thờ trong sự trang nghiêm và hơi mất tự nhiên vì họ biết là có bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về họ. Đoàn người quý phái tiến thẳng vào cửa nhà Chúa đang mở rộng, và đi hàng một thẳng lên hàng ghế đầu dành riêng cho gia đình Tỉnh Trưởng ngay trước cung thánh. Mọi người đang có mặt trong nhà thờ quay vào giữa lối đi nhìn!

                  Trong khi đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh cũng đi lễ tại nhà thờ này, nhưng cung cách hoàn toàn khác với gia đình ông tỉnh trưởng. Thường thì ông tới trước gia đình tỉnh trưởng một chút. “Đại úy mình" lúc đi nhà thờ chỉ mặc áo dài đen kiểu như cha tôi và mấy bác nông dân ở quê vẫn mặc, chân ông mang giày săn-đan. Thay vì xe hơi thì Đại úy Phạm Ngọc Thảo đạp chiếc xe đạp cọc cạch. Xe đạp của ông là loại xe cuộc, nhưng tay lái vểnh lên chứ không cong xuống như các xe đua, và trơn trụi không có vè chắn bùn, chỉ có hai cái thắng ở tay.

                  Khi tới nhà thờ Đại úy Phạm Ngọc Thảo dựng xe đạp nơi gốc cây me và cẩn thận móc túi lấy chìa khóa để khóa xe đạp cho yên tâm trước khi bước vào nhà Chúa. Lúc đứng nhìn ông lui cui khóa cái xe đạp, tôi đoán chắc là ông biểu diễn cho người ta nhìn, chứ có thằng ăn cắp mạt số nào mà lại đi “chọt” chiếc xe đạp của vị sĩ  quan chỉ huy toàn thể quân nhân trong tỉnh này! Bố bảo cũng không dám! Sau khi thử lại lần chót là khóa xe không bị bung ra vì vô ý, Đại úy Phạm Ngọc Thảo bước đi bằng những bước chân nhẹ nhàng như con mèo, tiến vào nhà thờ và quỳ lẫn lộn giữa đám đông trong một hàng ghế nào đó gần cuối nhà thờ để cầu nguyện. Nếu không để ý chẳng ai biết sự có mặt của nhân vật số ba của tỉnh đang có mặt trong nhà thờ.

                  Một hôm tôi vô tình nghe được một câu chuyện do một chú trong ban Quân Nhạc kể lại. Chú ấy nói có nghe Thượng sĩ Trưởng ban Quân Nhạc là Biện Công Tước thuật lại trong lần Tổng Thống về thăm tỉnh Vĩnh Long vừa rồi, có Đức cha Ngô Đình Thục, và phái đoàn của tỉnh, trong đó có Tỉnh Trưởng và Đại úy Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An  Phạm Ngọc Thảo,  lên bắc Mỹ Thuận đón Tổng Thống. Khi Đức cha và Tổng Thống đi ngang sau lưng, Thượng sĩ Tước có nghe Đức cha nói với Tổng Thống một câu: “Thằng Thảo nó được lắm”.  Thượng sĩ Tước về thuật lại cho anh em nghe và nói thêm: “Chắc là chuyến này Đại úy mình sẽ được lên lon” !

                  Đúng như vậy! Không bao lâu sau đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo được thăng lên Thiếu tá và được bổ nhiệm là Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) và Đại úy Trần Văn Năm về thay ông làm Tỉng Đoàn Trưởng Bảo An ở Vĩnh Long.

                  Lần cuối cùng tôi còn được thấy Phạm Ngọc Thảo là năm 1962, khi đó tôi đã vào học trong Chủng Viện Vĩnh Long, một buổi xế trưa, Thiếu tá Tỉnh Trưởng Kiến Hòa ghé vào chủng viện thăm Linh mục Giám Đốc Trung Tâm Nhân Vị Nguyễn Văn Tự. Lúc đó cha Tự dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp trong chủng viện Vĩnh Long. Trong lần đó Thiếu tá Phạm Ngọc Thảo rất oai vệ trong chiếc Mercedes màu đen có tài xế lái. Anh tài xế này tên là Cứ, là người tài xế trước kia của Phạm Ngọc Thảo khi còn ở Vĩnh Long. Không ai có thể ngờ vị Tỉnh Trưởng oai vệ đó chính là “Đại úy mình” người đã từng đạp chiếc xe đạp cọc cạch đi lễ Nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long khi còn làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An.

                  Con đường hoạn lộ của Phạm Ngọc Thảo từ đó lên như diều gặp gió. Không bao lâu sau, ông được thăng lên Trung tá rồi Đại tá. Nhưng khi ông Diệm bị phe đảo chánh sát hại năm 1963,  ông Phạm Ngọc Thảo bị thất sủng và đi làm Tùy Viên Quân Sự tòa Đại sứ Việt Nam bên Hoa Thịnh Đốn. Không bao lâu sau, Phạm Ngọc Thảo lộn về và cùng với một vài chính khách dân sự làm cuộc đảo chánh ở Sài Gòn. Cuộc đảo chánh bất thành, ông trốn chạy và về sau bị bắt và giết chết. Tôi không chú ý lắm các chi tiết này nhưng điều tôi ngỡ ngàng là lúc đó người ta nói Phạm Ngọc Thảo là một tên Việt cộng gộc, có anh hay em gì đó là Phạm Ngọc Thuần làm đại sứ của Bắc Việt tại một nước cộng sản. Thảo đóng vai gián điệp nhị trùng, giả vờ đầu hàng phía Quốc Gia, nấp bóng Giám mục Ngô Đình Thục, để len lỏi vào chánh quyền miền Nam.

                  Sự thật như thế nào về con người của Phạm Ngọc Thảo tôi không rõ, nhưng về sau này, khi nghe biết về các hoạt động “không bình thường” của Phạm Ngọc Thảo tôi đâm ra nghi ngờ thái độ đạo đức quá đáng của ông ta lúc ở Vĩnh Long. Tôi hồ nghi rằng, lòng đạo đức đó không chân thật nhưng là loại đạo đức “có hậu ý ”! Thực ra  nếu tôi xét đoán sai về lòng đạo đức của ông, tôi sẽ mắc tội. Xin vong linh ông tha tội cho tôi! Nhưng cái cách Phạm Ngọc Thảo bày tỏ lòng đạo đức một cách quá lộ liễu trước mặt Đức cha Ngô Đình Thục lúc đó, cộng với những vụ rửa tội tập thể và tràn lan lúc bấy giờ, và nhất là các vụ bỏ đạo tập thể và tràn lan sau khi ông Diệm bị lật đổ đã cho tôi lý do để hoài nghi về sự chân thật của ông!

                  Riêng việc ông có rong ruổi trên “xa lộ công danh” lúc bấy giờ theo cái kiểu  "con đường nào cũng tới... Vĩnh Long”, tôi không lấy làm lạ. Vì lúc ông Ngô Đình Diệm còn là tổng thống đã có biết bao nhiêu người tai to mặt lớn khác cũng chen lấn nhau trên con đường Quốc lộ 4 gồ ghề và hay kẹt cầu, kẹt bắc đó, từ Sài Gòn đổ dồn về Vĩnh Long để mong được chầu Giám mục ngô Đình Thục. Không riêng gì ông Phạm Ngọc Thảo.

                  Về phần ông Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba, sau đó không lâu xe ông bị Việt cộng phục kích và ông bị giết chết trên con đường Vĩnh Long-Cần Thơ. Khi ông chết tôi đang học ở trường trung học Nguyễn Trường Tộ, nơi mà ông Phạm Ngọc Thảo có thời gian dạy học khi ông vừa mới ra "đầu hàng".  Sau khi ông Khưu Văn Ba chết, Thiếu tá Phước về làm tỉnh trưởng Vĩnh Long. Từ đó Vĩnh Long bắt đầu chế độ Tỉnh trưởng quân nhân. Về sau này có một con đường mới mở trong tỉnh Vĩnh Long mang tên con đường Khưu Văn Ba và tôi tin chắc là khi cộng sản chiếm miền Nam họ đã đổi tên con đường này rồi. 
                   
                   
                  Ý hướng làm Linh mục
                   
                   Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp năm 1960, tôi qua Mỹ Tho học trường tư thục Rạng Đông vì anh tôi đổi qua đó. Tôi học nhảy lớp đệ tam  để thi tú tài một và năm sau tôi xong ban tú tài lúc 19 tuổi. Bắt đầu từ đó tương lai cuộc đời rộng mở trước mắt tôi và tôi là người đậu bằng tú tài đầu tiên trong làng. Tôi làm đơn thi vào đại học y khoa.

                  Nhưng cũng chính trong thời gian này tôi suy nghĩ rất nhiều về một hướng đi cho tương lai. Tôi nghĩ tới việc muốn làm Linh mục, vì tôi nghĩ là trong cương vị một Linh mục, tôi sẽ có dịp phục vụ số người cùng khổ hữu hiệu hơn. Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, trong đó có kiếp sống lầm than của người dân quê thấp cổ bé miệng bị đủ mọi thứ thế lực đè nén, đã ảnh hưởng rất nhiều tới sự lựa chọn của tôi. Tôi đã nhìn thấy và cảm thương cảnh người dân, nhất là nông dân bị thiệt thòi về nhiều phương diện. Họ bị đè nén bởi nhiều thế lực khác nhau. Từ phía thực dân Pháp tới giới chức cầm quyền và ngay cả một số giới lãnh đạo tôn giáo nữa. Người dân ở thôn quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng mà chẳng biết kêu ai, chỉ biết cúi đầu cam chịu để tránh hậu quả tệ hại hơn.
                  Việc huấn luyện những người lớn tuổi như tôi để trở thành Linh mục lúc đó là một ngoại lệ vì những người muốn đi tu phải bắt đầu từ nhỏ khi vừa lên ban trung học. Tôi tìm tới cha giám đốc chủng viện trình bày ý nguyện của tôi và cha giám đốc chủng viện Vĩnh Long lúc bấy giờ là cha Trương Thành Thắng thu xếp cho tôi vào học tiếng La Tinh và tìm hiểu thêm về chí hướng làm Linh mục tại tiểu Chủng viện Vĩnh Long, nằm không xa trường Nguyễn Trường Tộ bao nhiêu.  Khi tôi thưa với cha má về ước muốn làm Linh mục, cha tôi sửng sốt nhưng rất vui mừng nói với tôi: "Bây giờ con lớn khôn rồi, hãy tự quyết định về phần con,  cha rất mừng khi con có ý định đó, nhưng đã theo tiếng Chúa gọi thì hãy đi cho tới cùng”. Từ đó tôi bắt đầu giai đoạn mới trong cuộc đời, với môi trường xa lạ của Chủng viện Vĩnh Long.

                  Tháng 8 năm 1963 tôi chính thức được nhận vào tu học theo học một chương trình 7 năm  nội trú trong đại Chủng viện Sài Gòn, lúc bấy giờ cha Phạm Văn Thiên làm giám đốc. Năm đó cũng là kỷ niệm giáp 100 năm thành lập Chủng viện Thánh Giuse này. Tôi vào nhập học hơn hai tháng thì xảy ra biến cố đảo chánh 1-11-1963
                   
                   
                  Cuộc đảo chánh
                   
                  Tôi còn nhớ trưa ngày lễ Các Thánh 1-11, lúc đứng trên lầu 3 của Đại Chủng viện nhìn xuống, thấy một số khá đông binh sĩ, có người chạy, có người leo rào, có người cởi bỏ quân phục dọc theo căn cứ hải quân ở bến Bạch Đằng. Lúc đó chúng tôi biết có biến động nhưng chưa biết là sự gì. Khi chúng tôi vào nhà nguyện trong giờ kinh chiều, bắt đầu có nhiều tiếng đại bác nổ rất gần. Tiếp theo là tiếng súng đủ loại nổ rân ran làm chúng tôi phải bỏ dở buổi kinh chiều và xuống trú ẩn trong nhà kho kiên cố dưới hầm nhà nguyện. Lúc đó, đài phát thanh lập đi lập lại lời kêu gọi tham gia đảo chánh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh cầm đầu, xen vào giữa các bản nhạc hùng.  Ông Dương Văn Minh này, tôi không biết có phải là một thứ khắc tinh của dân tộc Việt Nam hay không, mà mỗi lần tên ông được nhắc đi nhắc lại trên đài phát thanh thì y như rằng có chuyện xui xẻo xảy ra cho đất nước. Lần đầu vào ngày 1-11-1963, tên ông được gắn liền với bao nhiêu sự xáo trộn trong nước tiếp theo sau cuộc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 30-4-1975, tên ông lại được vang trên làn sóng điện một lần nữa và trở thành tiếng kèn đưa ma chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

                  Đêm đó, chúng tôi thức dưới hầm và theo dõi cuộc binh biến qua chiếc máy thu thanh đặt giữa phòng. Các tiếng nổ của đạn pháo binh và tiếng súng nhỏ, khi thưa khi nhặt. Khoảng gần nửa đêm, khi nghe tiếng súng nổ giòn như pháo Tết gần sát ngay bên chủng-viện, chúng tôi biết là phe đảo chánh đang tấn công thành Cộng Hòa chỉ nằm cách chúng tôi bằng con đường Thống Nhất. Đến gần sáng ngày 2-11, tiếng súng thưa dần rồi im bặt, tôi biết là phe đảo chánh đã thành công. Lúc bấy giờ, mặc dù không liên can gì về chuyện chính trị, nhưng tôi vẫn cầu mong cho tổng thống được bình yên.

                  Sáng ngày 2-11, chúng tôi ra khỏi nơi trú ẩn và đi nhặt miểng đạn pháo binh nằm rải rác khắp nơi trong khuôn viên của chủng viện. Con đường Cường Để lúc đó tấp nập những quân nhân súng ống đạn dược đầy người di chuyển tới lui, tạo nên cảnh nặng nề chết chóc. Một số đông thường dân cũng e dè nấp theo các vách tường nhìn ngó ra đường theo dõi sự việc. Nhìn xa hơn, tôi thấy thành Cộng Hòa bị hư hại khá nặng.

                  Sau khi biết là cuộc đảo chánh đã thành công, tôi càng nóng lòng muốn biết về số phận của tổng thống. Tôi không phải đợi chờ lâu, vì mấy ngày sau có tờ báo được dán lên bảng trong phòng đọc sáchncủa Chủng viện, có bức hình nhòe nhoẹt và đầy máu me của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong hình, ông Diệm mặc áo đen, đầu được kê lên cái chậu hứng máu. Một hàng chữ lớn chạy hết bề ngang trên trang nhất: “Anh em Diệm - Nhu đã tự sát!” Lúc ấy, mặc dù chưa có một nguồn tin nào khác để kiểm chứng nhưng tôi cũng không tin là Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã tự sát như tờ báo đã đăng. Thực ra, hai ông đã bị sát hại vào sáng ngày 2-11-1963 trên chiếc xe thiết giáp chạy từ Nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu, như các tài liệu về sau này đã tiết lộ.

                  Có nhiều sách vở, báo chí viết về cuộc đảo chánh năm 1963, kể cả hồi ký của một vài người trực tiếp nhúng tay trong biến cố đó. Các tác giả ngoại quốc, khi viết về các vấn đề Việt Nam cũng có đề cập tới cuộc đảo chánh này. Tôi có đọc qua một số các sách đó và nhận thấy phần đông các tác giả tường thuật diễn tiến cuộc đảo chánh đều giống như nhau, chỉ khác ở chi tiết. Có một điều không thấy ai nói tới, hoặc cố tình không nói lên, hoặc không nhận thấy được: Tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát?

                  Các tài liệu liên quan tới cuộc đảo chánh cho thấy kế hoạch đảo chánh được soạn thảo và nghiên cứu rất kỹ, cả về phía những kẻ chủ mưu trong chánh quyền Kennedy tại Hoa Thịnh Đốn, lẫn nhóm tướng tá thừa hành tại Sài Gòn. Tuy nhiên có một điều ai cũng thấy là người Mỹ không hề dự trù sau khi lật đổ xong sẽ giết chết ông Diệm. Điều này không phải vì họ có lòng nhân đạo, nhưng vì sợ tai tiếng và phản ứng bất lợi trong dư luận.

                  Chánh quyền Kennedy lúc bấy giờ cũng thừa biết rằng, cho dù cố gắng ném đá giấu tay nhưng trước sau rồi ai cũng biết chính người Mỹ giật dây cuộc đảo chánh này. Như vậy nếu ông Diệm bị giết chết, Chính quyền Mỹ sẽ bị kết án và gặp nhiều phản ứng bất lợi. Về nhóm tướng tá âm mưu đảo chánh, họ không thể tự quyết định việc gì ngoài sự chỉ đạo của người Mỹ, mà đại diện thường trực để theo dõi, ra lệnh và thưởng công bằng tiền mặt cho họ là Trung tá mật vụ Lucien Conein. Như vậy, sinh mạng của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không phải do nhóm sĩ quan đảo chánh có quyền quyết định. Vậy tại sao ông Diệm lại bị giết chết?

                  Cho đến nay, chưa có ai lên tiếng công khai nhận mình đã giết ông Diệm. Phần nhiều các tài liệu đều quy tội cho Trung tướng Dương Văn Minh, vì ông này ra lệnh cho Đại úy Nhung bằng cách giơ lên hai ngón tay ở bàn tay phải, dấu hiệu giết cả hai, khi viên sĩ quan cận vệ này theo đoàn xe đi đón ông Diệm tại Nhà thờ Cha Tam. Đoàn xe do Tướng Mai Hữu Xuân dẫn đầu và chính Đại úy Nhung là người đã giết hai anh em ông Diệm - Nhu trên chiếc xe thiết giáp.  Về chi tiết vụ sát hại này, các tài liệu có nhiều điểm khác nhau. Đại úy Nhung, người được nhắc tới nhiều nhất và được coi là người đã cầm súng bắn chết hai ông Diệm - Nhu, sau cuộc đảo chánh được lên cấp thiếu tá, nhưng đã bị thủ tiêu sau đó ít lâu trong lúc ông Nguyễn Khánh đang cầm quyền. Những người còn sống, thì hoặc giữ thinh lặng, hoặc đổ lỗi qua lại theo cái kiểu “cối đổ cho chày, chày đổ cho cối”, tạo cho cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho tới nay vẫn còn nhiều mờ ám.

                  Ai trong số các tướng đảo chánh ra lệnh giết ông Diệm trong buổi sáng ngày 2-11-1963? Chuyện đó tôi không bàn ở đây, nhưng theo tôi nhận xét, đây là một quyết định thật vội vã. Sau khi ông Diệm gọi điện thoại cho nhóm tướng lãnh đảo chánh ở Bộ Tổng Tham Mưu xin đầu hàng, số phận hai anh em Diệm-Nhu được định đoạt kể từ lúc đó. Cú điện thoại bất ngờ này đã đặt nhóm tướng tá đảo chánh vào một tình thế khó xử và bắt buộc họ phải có một quyết định. Nói cách khác, chính ông Diệm tự tuyên án tử hình cho ông và người em là Ngô Đình Nhu qua cú điện thoại này.

                  Tình thế lúc bấy giờ thật đặc biệt, không phải nhóm đảo chánh sợ ông Diệm dùng kế hoãn binh để gọi quân trung thành về lật ngược thế cờ như trong cuộc đảo chánh bất thành hồi năm 1960 do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Điều mà họ lo sợ nhất là lúc họ phải đối diện với Tổng thống Ngô Đình Diệm khi họ dẫn ông về tới Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đó, họ sẽ phải ăn nói xử sự xưng hô làm sao với ông? Họ không thể chịu đựng được cái mặc cảm tội lỗi khi phải trực diện với con người đã ban cho họ tất cả mọi thứ trên đời, kể cả binh quyền mà họ đã dùng để phản bội lại ông.

                  Trong bọn họ, có người xuất thân hèn mạt, chỉ là lính khố xanh, khố đỏ; nhờ theo hầu ông, nịnh nọt với ông, mà được quân hàm cao để có quyền hành sai khiến binh lính phản bội lại ông. Họ không biết phải xử sự thế nào với một  ‘‘tù nhân’’ mà ngày hôm qua họ vẫn còn run sợ khi phải đứng trước mặt ông. Họ không biết xưng hô thế nào với con người mà hôm qua đây họ dùng lối xưng hô kính cẩn nhất trong ngôn ngữ Việt Nam: Gọi ông bằng “Cụ” và xưng mình là “con”.

                  Hơn nữa, có thể Dương Văn Minh và nhóm tướng tá đảo chánh cũng lo sợ con người uy nghi đó. Khi bị dẫn về và đối mặt với những kẻ phản bội, rất có thể ông Ngô Đình Diệm sẽ điểm mặt gọi tên từng người trong bọn họ,“ Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Đỗ Mậu... Ta đã lầm. Ta không ngờ bọn mi là lũ phản loạn, bọn mi đã dùng chính ân huệ ta ban cho để ám hại ta!” Từ nhận xét trên, tôi kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm chết vì chính cái uy nghi cao cả của ông. Có thể về sau này, con người ra lệnh giết ông Diệm cũng bị lương tâm cắn rứt, nhưng rồi đã âm thầm cầu nguyện, “Thưa cụ, xin cụ hiểu và tha thứ cho con. Không phải con muốn giết cụ, nhưng chính cụ đã đặt con vào tình thế lúc bấy giờ không thể nào có quyết định khác hơn”. 
                   
                   
                  Xáo trộn chính trị
                   
                  Sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm , miền Nam bị rơi vào một lỗ hổng chính trị thật lớn, nặng nề nhất là tình trạng khủng hoảng uy quyền Quốc Gia. Các chính phủ tiếp theo sau, chẳng qua là những tổ chức cần thiết phải có để giữ giềng mối cho đất nước khỏi rơi vào cảnh hỗn loạn. Các khuôn mặt xuất hiện trên sân khấu chính trị sau ông Diệm đã không đủ sức lôi cuốn và thuyết phục dân chúng tin tưởng và ủng hộ.

                  Phần đông họ thuộc giới võ biền, nhờ có quân lính trong tay nên cướp thời cơ nhảy ra nắm quyền bằng các cuộc binh biến, được gọi bằng các tên như cách mạng, đảo chánh, chỉnh lý, biểu dương lực lượng v.v... Có người lại quá kém về phẩm chất và đời sống cá nhân, dốt nát về chính trị, nhưng nhờ thời cơ cũng mang râu đội mão, nhảy lên sân khấu chính trị để làm tuồng! Từ trước tới nay, có nhiều người nhận xét khác nhau về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Có kẻ bênh, người bỏ. Ông Diệm là người có công hay có tội với đất nước, tôi không nói ở đây, việc này chúng ta hãy dành cho lịch sử có tiếng nói sau cùng. Một điều không ai chối cãi được là cố Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có uy tín cá nhân đáng nể phục, trong cương vị lãnh đạo Quốc Gia. Cái uy tín mà những người đứng đầu chính phủ về sau này không thể có được.

                  Khi các tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh chưa uống cạn hết chai rượu mừng và các Bộ trưởng của nội các Nguyễn Ngọc Thơ chưa kê xong bàn ghế trong văn phòng thì tướng Nguyễn Khánh từ miền Trung bay vô Sài Gòn làm cuộc “chỉnh lý” bắt giam 4 tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính tại Đà Lạt, trừ Quốc trưởng Dương Văn Minh được cho ở ngoài, từ đó chánh quyền về tay tướng Nguyễn Khánh. Thời gian đó tôi đang học ở Đại Chủng viện Sài Gòn và hàng ngày thấy xe có còi hụ của Thủ tướng Nguyễn Khánh chạy trên đường Cường Để đi về từ tư dinh của ông ở bến Bạch Đằng tới phủ Thủ Tướng nằm trên đường Thống Nhất, sát vách với Tiểu Chủng viện.

                  Có một sự kiện xảy ra trong thời Tướng Khánh cầm quyền, lúc đó có mấy ngày vô chính phủ và Sài Gòn rơi vào cảnh hỗn loạn thực sự. Điều tôi ghi nhớ một cách đau đớn là lúc đó có sự va chạm nhau một cách nặng nề giữa hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Công giáo. Sài Gòn trong thời gian đó bị lên cơn sốt gây ra bởi tình thế hỗn loạn và dân chúng càng bấn loạn hơn nữa bởi những tin đồn gây hoang mang. Khi thì có tin  Phật tử sẽ tấn công Tòa Giám mục Sài Gòn, hoặc tòa soạn báo Xây Dựng. Lúc khác lại có tin thanh niên công giáo trong các trại di cư sẽ tấn công Viện Hóa Đạo, chùa Xá Lợi...! Những loại tin đồn đó tạo cho tình thế vốn đã hoang mang càng ngày càng căng thẳng nhiều hơn.

                  Có những đêm chúng tôi đã bị ảnh hưởng bởi những tin đồn đó và đã mang lên lầu 3 của Chủng viện những loại gạch đá, gậy gộc vì có tin thanh niên Phật Tử sẽ tấn công Chủng viện Sài Gòn trong đêm! Trong khi đó các cơ sở tôn giáo của cả hai bên đều lo tổ chức những biện pháp phòng vệ riêng tư, tạo cho bầu không khí Sài Gòn trở thành khó thở như sắp có cuộc chiến tranh tôn giáo xảy ra! Tôi không biết thực tế đã có những những va chạm tôn giáo như thế nào và ở đâu, nhưng mỗi lần nhớ tới tình cảnh lúc đó tôi cảm thấy đau đớn cho số phận dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tôn giáo. Đại đa số người Việt Nam nếu không thuộc về tôn giáo này cũng thuộc về tôn giáo khác, vì thế lực lượng dân tộc trong các tôn giáo chính là sức mạnh tổng hợp ý chí của toàn dân. Nếu có những va chạm và tình trạng bất hòa xảy ra giữa tín đồ các tôn giáo, nhất là giữa hai tôn giáo lớn thì thật là một đại họa cho dân tộc.
                   
                   
                  Khủng hoảng uy quyền
                   
                  Trong hoàn cảnh chiến tranh lúc bấy giờ, miền Nam rất cần một thứ uy quyền lãnh đạo để đương đầu với một Hồ Chí Minh vừa có uy tín ở miền Bắc, lại vừa mưu mô quỷ quyệt. Tiếc thay, thứ uy quyền cần thiết đó thì miền Nam lại không có. Chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra đời năm 1967 được coi là khá nhất trong số các chính phủ vá víu tiếp theo cuộc đảo chánh 1-11-1963. Dù vậy cũng chỉ tạo được một sự ổn định tạm bợ về chính trị, nhưng tuyệt nhiên không gây được tác dụng tinh thần nào nơi dân chúng, và nhất là nơi các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ chống cộng. Sức mạnh thực sự của miền Nam lúc bấy giờ không phải là sự quyết tâm tranh đấu của toàn dân, mà là kỹ thuật tân tiến của vũ khí do Mỹ viện trợ, cộng với sự lo sợ về một cuộc sống lầm than nếu để miền Nam rơi vào tay cộng-sản. Hai yếu tố đó hợp lại đã tạo được những trang quân sử lẫy lừng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).

                  Tiếc thay, những chiến sĩ kiêu hùng của QLVNCH lúc bấy giờ lại là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất. Họ chiến đấu anh dũng nơi chiến trường để giữ yên bờ cõi cho những kẻ vô trách nhiệm ung dung thụ hưởng ở hậu phương! Họ đã đổ xương máu ra ngăn chặn quân thù cho những kẻ quyền thế lo làm giàu, mua quan bán chức! Họ đem thân mình đỡ đạn thay cho những thanh niên con nhà giàu đút lót tiền bạc cho các cấp chỉ huy để làm “lính ma, lính kiểng!” Tinh thần đâu để chiến đấu khi các chiến sĩ oai hùng ngoài mặt trận nghe tiếng bom đạn của kẻ thù, hòa với tiếng la hét của đồng bào biểu tình tố cáo đích danh Tổng Tư Lệnh của họ là một tên tham nhũng. Chắc là họ cũng biết rằng, một chiếc máy bay lúc nào cũng chực sẵn để khi cần là Tổng Tư Lệnh của họ sẽ đào tẩu cùng với vợ con và của cải vơ vét được! Trong bối cảnh như vậy, việc mất miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
                   
                   
                  Bước chân vào đời
                   
                  Tôi thụ phong Linh mục năm 1970, lúc vừa 27 tuổi. Một tháng sau, tôi về làm cha phó tại xứ đạo Hòa Khánh, ngay trong thị xã Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc tương đối nhỏ với khoảng hai trăm ngàn dân, đa số là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Thị xã Sa Đéc nằm bên bờ sông Cửu Long, cách bắc Mỹ Thuận gần 30 cây số. Nhờ sự giao thông thuận tiện, cả đường thủy lẫn đường bộ, nên Sa Đéc là một trong những tỉnh trù phú của miền đồng bằng sông Cửu Long.

                  Đa số dân chúng sống dọc hai bên bờ sông và trồng cây ăn trái trên những khu đất bồi màu mỡ. Một số khác làm ruộng trong các vùng sâu hơn về phía trong, nhưng phát đạt nhất vẫn là về thương mại. Người dân Sa Đéc hiền hòa và hiếu khách, một phần do bản chất của người dân miền quê, phần khác cũng do ảnh hưởng phong thổ cây xanh bóng mát, tạo cho người dân vùng này cảnh sống an nhàn, gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên.

                  Tôi còn nhớ mãi những hình ảnh nhẹ nhàng dễ thương trong những lần đi thuyền máy trên nhánh sông nhỏ vào các buổi trưa hè để vô làm việc trong xứ đạo nhỏ tại xã Tân Phú Trung, cách tỉnh lỵ 12 cây số. Thuyền máy lướt nhẹ trên dòng sông nước trong veo, hai bên bờ rợp bóng mát dưới những tàn cây to đủ loại, nhiều nhất là cây cà-na, loại cây có trái to bằng ngón tay cái, hai đầu nhọn túm lại như hình dáng con thoi. Hai bên bờ sông là con đường đất khá rộng mà xe hơi loại nhỏ có thể đi được. Nấp sau khoảng sân rộng là những ngôi nhà ngói, phần nhiều là cổ xưa, nằm hướng ra bờ sông. Trước mỗi nhà có cầu bến để  lên, xuống ghe thuyền và làm nơi tắm giặt.

                  Cầu bến thường là đúc bằng xi-măng cốt sắt, có khi bằng hai tấm vỉ sắt có lỗ tròn, loại vỉ sắt dùng làm sân bay dã chiến. Có khi cầu bến làm bằng những tấm ván ghép lại, bên trên có đóng mấy “con lươn” to bằng ngón chân cái, cách quãng nằm ngang cho đỡ trơn trợt, một đầu cầu gác lên bờ, đầu kia dốc sâu xuống mí nước. Vào những trưa hè êm ả, các cô thôn nữ thường ngồi trên cầu bến giặt giũ. Một vài cô khác tươi cười đứng chải tóc dưới tàn cây cà-na rợp bóng mát. Các nàng ăn mặc thật đơn giản, chiếc áo bà ba trắng ôm sát lấy người, làm nổi bật mái tóc đen óng ả được vén qua một bên vai ra trước ngực phủ dài xuống thân. Nàng thôn nữ, một tay nắm trọn lọn tóc ghì vào dưới cằm, tay kia chải nhẹ phần tóc còn lại ở dưới, vừa nghiêng nghiêng đầu, lơ đễnh đưa mắt nhìn chiếc thuyền máy đang chậm chậm lướt qua. Hình ảnh đó tô đậm thêm cho nét đẹp của một vùng quê an bình, mà dân chúng được thừa hưởng của thiên nhiên ở miền nước ngọt cây lành. Hình như tôi đã được nhìn thấy ở đâu một bức tranh thủy mạc vẽ cảnh tương tự như thế.

                  Khi tôi bắt đầu cuộc đời Linh mục năm 1970 cũng là lúc chiến cuộc miền Nam tới hồi ác liệt. Hình ảnh và tin tức chiến tranh nhan nhãn khắp nơi. Báo chí và đài phát thanh ngày nào cũng đầy dẫy tin chiến sự. Miền Nam lúc bấy giờ bắt đầu co cụm lại trong các thành phố, vì các vùng quê phần nhiều mất an ninh, nhưng thủ đô Sài Gòn và các thành phố lớn vẫn ồn ào náo nhiệt như không có gì xảy ra. Người dân đô thị chỉ nghe nói tới chiến tranh, nhưng phần đông không tận mắt chứng kiến hoặc chưa thấy sự đe dọa trực tiếp tới mạng sống và tài sản, nên mọi người cứ vui sống an nhàn.

                  Tin tức chiến sự trên báo chí dần dà trở thành quá quen thuộc. Những con số thương vong trong các trận đánh của hai phe lâm chiến dần trở thành những con số thống kê vô nghĩa, không còn gây chú ý đối với những người sống trong các vùng an toàn ở hậu phương. Thỉnh thoảng có xảy ra các vụ Việt cộng đặt mìn hay pháo kích vào thủ đô Sài Gòn hoặc vào các thành phố, trường học, gây kinh hoàng trong một thời gian rồi đâu lại vào đấy. Ai có nhiệm vụ phải đánh giặc thì lo đánh giặc, người nào may mắn không phải ra trận và đang sống ở các khu vực an toàn thì cứ vui sống, hưởng thụ và lo làm giàu. Sự hiện diện của nửa triệu lính Mỹ và một số khá đông quân đội các nước đồng minh tại miền Nam lúc bấy giờ đã tạo nên một hình thái xã hội thật đặc biệt, một xã hội sống thác loạn, ồn ào và đầy mánh mung của thời buổi chiến tranh.  

                  Trong khi đó, tình hình an ninh tại những nơi xa thành thị hoặc ở vùng quê càng ngày càng sa sút. Người dân quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng, ban ngày lúc còn mặt trời thì thuộc sự kiểm soát của Quốc gia, bóng đêm về nằm trong tay Việt cộng. Người dân quê đóng thuế cho Quốc gia một, thì đóng thuế cho Việt cộng mười. Ai trốn thuế Quốc-gia nếu bị bắt có thể đi tù, còn ai trốn thuế “đảm phụ quốc phòng” của Việt cộng, thì bị chặt đầu mổ bụng, để răn đe kẻ khác. Chính mắt tôi đã chứng kiến cảnh tượng dã man một cách hãi hùng này tại quê nhà tôi. Việt cộng trà trộn trong dân, ẩn nấp trong nhà dân, ăn cơm của dân, dùng tiền thuế của dân và dùng dân làm bia đỡ đạn trong trong các cuộc biểu tình chống đối chánh quyền Quốc gia. Thậm chí, có trường hợp chánh quyền địa phương bắt giam những người dân đóng thuế cho Việt cộng, trong khi chánh quyền không thể bảo vệ được cho người dân khỏi bàn tay sắt máu của họ. Người dân ở nông thôn xa xôi khốn khổ không biết kêu ai, chỉ còn biết kêu trời, mà trời thì cao quá làm sao nghe thấy!

                  Trong bối cảnh miền Nam chiến tranh khói lửa và hỗn tạp như vậy, cộng với một chánh quyền mang nhiều tai tiếng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã dẫn đưa xã hội miền Nam vào một cuộc sống mất phương hướng. Uy quyền Quốc gia là yếu tố tinh thần cần thiết nhất cho một nước, nhất là trong thời chiến, nhưng miền Nam lại thiếu hẳn yếu tố đó. Người ta phanh phui rất nhiều về vụ tham nhũng thối nát của Chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu, về tệ nạn mua quan bán chức, về những ông bà lớn lợi dụng quyền uy để buôn lậu đủ các loại hàng, kể cả hàng quốc cấm.

                  Có “vị” còn dám bán cả súng đạn cho Việt cộng lấy tiền bỏ túi! Thiên hạ lúc bấy giờ còn nói chính ông Nguyễn Văn Thiệu là một tay tham nhũng gộc, một thứ “hạm” nuốt trôi tài sản Quốc Gia và tiền viện trợ Mỹ. Phong trào chống tham nhũng do cha Trần Hữu Thanh, một Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế phát động, tung ra những bản cáo trạng tố cáo đích danh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh, đã được nhiều người hưởng ứng. Có người còn tỏ ra hiểu chuyện, nói vanh vách ra cái ghế tỉnh trưởng giá bao nhiêu tiền, muốn làm quận trưởng phải “chạy” bao nhiêu và còn cho biết cái “bót” quận trưởng quận Năm trong Chợ Lớn được đấu giá cao nhất, vì đây là một chức vụ béo bở! Các ông quận trưởng trong vùng Chợ Lớn, tuy lúc mới về khá gầy ốm hom hem, nhưng được mấy chú Ba Tàu “tốt bụng” vỗ béo cho, chẳng mấy chốc mà trở nên mập béo, phát tài, phát tướng!

                  Sự thật về tệ nạn tham nhũng đúng tới mức nào tôi không rõ, điều tôi biết một cách chắc chắn là ở miền Nam lúc bấy giờ, ai may mắn nắm giữ được chức vụ tốt trong chánh quyền thì làm giàu nhanh, mà chức Tổng Thống dĩ nhiên là tốt nhất! Tôi còn nhớ có lần ông Trần Văn Hương khi còn làm Thủ tướng đã than: “Nếu diệt hết tham nhũng lấy ai làm việc nước!” Vì những người làm việc nước, đồng thời cũng đang bận vơ vét tiền của như vậy nên miền Nam lúc bấy giờ tuy có chánh quyền nhưng không có uy quyền, có Tổng Thống nhưng không có người lãnh đạo quốc gia.

                  Khi bắt đầu cuộc đời Linh mục cũng là lúc tôi phải va chạm với thực tế về sự bất công của xã hội mà trước đây tôi chỉ thấy và nghe. Thực tế cho tôi biết nạn người bóc lột người, người đè nén người trong đất nước tôi nặng nề và ác độc hơn tôi tưởng. Giới chức trong chánh quyền các cấp, ít nhất là ở cấp mà tôi có dịp tiếp xúc, thì họ thực sự là “cha mẹ của dân”. Họ đè nén người dân, bóc lột và vơ vét của công, của tư một cách vô tội vạ.

                  Trong hai năm đầu phục vụ tại Sa Đéc, tôi đã phải đương đầu và đụng chạm nặng nề với giới chức đứng đầu hành chánh của tỉnh, khi ông cùng với viên chức Ty Xã Hội nuốt trôi hết vật liệu cất nhà mà Bộ Xã Hội cấp cho mấy ngàn Việt Kiều hồi hương từ Cam Bốt chạy về các tỉnh biên giới phía Nam. Lúc đó tôi là thành viên trong Ủy Ban Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương của tỉnh Sa Đéc.

                  Ngoài ra còn có những vị chức sắc tôn giáo đã làm lu mờ giáo lý cao cả của tôn giáo mà họ là người rao giảng. Sự nhập nhằng giữa tôn giáo và chính quyền lúc bấy giờ đã tạo ra những “lãnh chúa áo đen”. Họ lợi dụng chức vị tôn giáo để mưu cầu danh lợi riêng tư, và con người của họ, làm dân chúng khiếp sợ.
                  Năm 1972, tôi được đổi về làm phó xứ Cái Đôi tại quận Long Toàn, tỉnh Trà Vinh, một giáo xứ xa xôi và lẻ loi nằm tận bờ biển Ba Động. Tại đây tôi mới thực sự chia sẻ nỗi đau của bà con trong vùng như chính nỗi đau của riêng tôi. Nhiều người dân trong vùng chạy đến với tôi khóc lóc kêu van vì ông quận trưởng hà hiếp, bóc lột, tham nhũng, hãm hiếp gái tơ và đè đầu cỡi cổ người dân đen trong quận một cách tàn nhẫn. Người dân, nhất là những người không thuộc về xứ đạo chỉ biết khóc mà không biết kêu ai. Tệ hơn nữa, ngài quận trưởng lại là bạn thân của cha sở.

                  Trong hoàn cảnh ấy tôi đã công khai đứng về phía dân chúng và thách thức quyền lực của viên chức chính quyền bất nhân này. Cuối cùng tiếng nói người dân đã thắng. Viên quận trưởng phải rời chức vụ và bị giam vào quân lao Cần Thơ. Phần tôi đã phải trả cái giá khá đắt cho việc làm này, là bị thất sủng trong hàng ngũ các Linh mục thuộc Giáo phận Vĩnh Long, nhưng tôi không coi đó là điều đáng buồn. Ngược lại, tôi thấy vui và hạnh phúc vì đã có dịp sống với lý tưởng mà tôi đã lựa chọn khi tôi muốn trở thành một Linh mục.
                   
                   
                  Kết thúc ván cờ
                   
                  Qua những năm đầu trong thập niên 70, chiến tranh càng leo thang ác liệt làm cho tình cảnh người dân Việt Nam càng khốn khổ hơn. Đồng bào miền Bắc phải lo chống chọi với những đợt mưa bom của Mỹ, người dân miền Nam bị đe dọa nặng nề hơn bởi những cuộc pháo kích của Việt cộng vào thành phố và khủng bố của họ ở miền quê. Cuộc sống lầm than của người dân hai miền nói sao cho siết!
                  Chiến cuộc càng leo thang thì máu xương dân tộc Việt Nam càng chồng chất. Nếu có ai đem máu của người Việt Nam bị máy bay Mỹ giội bom giết chết ở miền Bắc, hòa với máu người dân vô tội bị Việt cộng pháo kích chết ở miền Nam sẽ ngạc nhiên khi thấy hai dòng máu đó hòa hợp một cách lạ lùng. Điều này rất dễ hiểu vì cả hai loại máu đó đều có chung một huyết thống. Vì đó là Dòng Máu Việt Nam.

                  Nhưng số phận của dân tộc tôi dù sao cũng chỉ là một con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Vì thế khi bánh máy bay chở ông ngoại trưởng Hoa Kỳ, Henry Kissinger chạm mặt đất của phi trường Bắc Kinh năm 1972 thì thế cờ chính trị thế giới bắt đầu thay đổi. Hơi gió mạnh của máy phản lực trên chiếc máy bay đó cũng thổi gập cuốn lịch sử Việt Nam sang qua một trang mới.

                  Những ngày tháng tiếp theo, thế giới có dịp mỉm cười trước cảnh một số những anh điếc ngồi bàn chuyện với nhau về tương lai của Việt Nam tại cuộc hội đàm Paris. Trong lúc đó bom đạn vẫn gào thét trên đất nước Việt nam, và dĩ nhiên Thần Chết phụ trách khu vực Việt Nam lúc nào cũng bận rộn như đã từng bận rộn trong mấy chục năm qua.

                  Tháng Giêng năm 1973, Hiệp Định Paris được ký kết với những điều khoản trở thành dấu ấn đóng trên số phận u tối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.  Cho tới cuối tháng tư năm 1975, miền Nam đi vào cơn hấp hối, khi những người cộng sản từ miền Bắc ồ ạt ùa vào miền Nam. Lúc bấy giờ chánh quyền và quân đội miền Nam đang rối loạn hàng ngũ. Mỗi ngày qua đi là một bước tới ngỏ đường cùng của chế độ.

                  Và cuối cùng, ngày định mệnh dành cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam đã xảy ra vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Một thời điểm được ghi thật đậm nét trong cuốn lịch sử của Dân Tộc Việt Nam.

                  Tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long khi cộng-sản chiếm miền Nam.  Một tháng sau tôi được chỉ định qua làm cha sở họ đạo La Mã trong tỉnh Bến Tre. Tính đến lúc đang ngồi thẫn thờ trên chuyến xe Minh Chánh buổi chiều tà này, tôi đã làm Linh mục được sáu năm.  Sáu năm qua mau, sáu năm tôi chứng kiến nhiều cuộc đổi thay trong nhân tình thế sự.
                   
                   
                  Trở về thực tại
                   
                              Đang thả hồn theo dòng suy tư, chợt tôi nghe tiếng anh tài xế hỏi bên tai:

                  - Ông anh ngồi có chật lắm không? Nhích qua phía tôi một chút đi. Chịu khó chật một chút, không bao lâu nữa tới nơi rồi!

                  Câu hỏi bất ngờ của anh tài xế kéo tôi về thực tại. Có lẽ thấy tôi ngồi yên đã lâu, nên anh tài xế muốn gạ chuyện cho vui. Tôi mỉm cười trả lời:

                  - Không sao đâu anh! Tôi ngồi thoải mái lắm, anh chạy rất cừ, sắp tới Sài Gòn rồi.

                  Người tài xế tuổi trung niên vui tính nhe răng cười như đáp lại lời khen của tôi, xong quay sang trả lời câu hỏi gì đó của một bà ngồi phía sau. Lúc xe đang chạy, anh cười nói huyên thuyên với hết người này tới người khác từ phía sau. Lúc nói chuyện, anh có thói quen hay chửi thề hai tiếng ĐM. Mười câu thì có chín tiếng ĐM vì quen miệng. Tôi ngồi yên, nghe tiếng chửi thề của anh lại rất có duyên. Có lúc tôi lẩn thẩn nghĩ rằng, nếu anh tài xế nói chuyện mà không chêm hai tiếng ĐM đệm vào thì câu chuyện xem ra nhạt nhẽo, mất hào hứng.

                  Ngồi yên một mình khiến tôi suy nghĩ vẩn vơ. Có lúc tôi quay sang nhìn bộ dạng anh tài xế và theo dõi từng động tác của anh. Anh có bộ ria mép rậm dài và đen nhánh, như hai con sâu róm nằm chấu đầu vào nhau. Mỗi khi anh nói cười, bộ ria mép cũng giật giật như hai con sâu róm đang giỡn trững, đùa cợt nhảy vào tấn công nhau, rồi lại nhảy lùi ra né tránh, trông thật ngộ nghĩnh! Mỗi khi có chiếc xe lô nào ngược đường qua mặt, anh đều chào bạn tài xế xe kia bằng cách nhấc mấy đầu ngón tay của bàn tay trái như cái quạt được xòe ra, trong khi bàn tay phải vẫn để gá nhẹ trên tay lái, miệng cười nói vui vẻ. Tôi ngồi kế bên, theo dõi một cách thích thú cách hai anh tài xế chào nhau. Khi thấy có xe lô ngược chiều từ xa, tôi lại để ý các ngón tay anh. Khi hai xe giáp nhau, các ngón tay anh tự động dương lên, rồi lại hạ xuống, như cửa các tiệm buôn được điều khiển tự động bằng “mắt thần”. Hình ảnh vui vui này đã giúp tôi quên thực tại trên một đoạn đường dài.

                  Hành khách ngồi phía sau đa số là những người bình dân. Nghe họ nói chuyện, tôi biết họ đã quen nhau và đi lại thường xuyên để buôn bán trên tuyến đường này. Cách họ đùa cợt với anh tài xế cũng chứng tỏ họ là những hành khách thường xuyên của anh. Tôi ngồi yên lặng suốt từ lúc bước lên xe, một phần vì chẳng quen ai và cũng không có chuyện gì để nói, vả lại lòng tôi đang rối như tơ vò. Câu hỏi cứ lập đi lập lại trong đầu, tới bến xe Phú Lâm rồi đi đâu nữa? Tự nhiên tôi đâm ra lo lắng và cầu mong cho xe chạy chậm lại, chạy thật chậm lại, càng chậm càng tốt, để nếu có thể thì không bao giờ tới bến. Anh tài xế vui tánh nãy giờ nói năng đùa cợt với các bà ngồi sau, lại quay sang hỏi tôi khi vừa qua khỏi cầu Long An một đỗi.

                  - Ông anh xuống Xa Cảng hả?

                  - Vâng, tôi xuống Xa Cảng. 

                  Người ta gọi xa cảng miền Tây ở Phú Lâm bằng cái tên gọn là Xa Cảng. Thấy tôi trả lời không có vẻ hào hứng, anh tài xế yên lặng một chút rồi vẫn nhìn thẳng phía trước nói:

                  - Buổi chiều vắng xe mình đi lẹ, chút nữa tới rồi. Ông anh ở Sài Gòn à?

                  Bình thường có lẽ tôi cũng vui vẻ tiếp chuyện anh tài xế, nhưng lúc đó tôi chỉ đối đáp hững hờ cho qua chuyện:

                  - Không, lên thăm bà con.

                  Anh ta gạ chuyện tiếp theo:

                  - Vậy ông anh ở Mỹ Tho à?

                  - Không! Tôi ở Bến Tre... tôi làm việc ở Bến Tre, nhưng gia đình ở Vĩnh Long.

                  Nghe hai tiếng Vĩnh Long, anh ta quay sang tôi vui vẻ như gặp được đồng hương:

                  - Vĩnh Long à? Tôi cũng có thằng bạn ở Vĩnh Long, nó có tiệm bán máy đuôi tôm ở ngã ba Cần Thơ tên là... tên là... tên là gì tôi quên rồi, trong dãy phố của Đức cha Thục đó. Hồi trước giải phóng nó khá lắm, bây giờ hổng biết nó ra sao, lâu rồi tôi cũng không gặp nó.

                  Tôi bị dị ứng khá nặng khi nghe ai dùng hai tiếng “giải phóng” để nói về biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ngày cộng-sản chiếm miền Nam, nhưng anh tài xế dùng hai tiếng “giải phóng” cũng vô thức và đầy thói quen như hai tiếng “ĐM” trong câu chuyện. Hiểu như vậy nên tôi không cảm thấy khó chịu nên vui vẻ trả lời.

                  - Tôi có biết dãy phố của Đức cha Ngô Đình Thục.

                  Yên lặng một lúc, nhìn thẳng về phía trước, như để ôn lại kỷ niệm của thời xa xưa, anh nghiêng đầu qua tôi:

                  - Thành phố Vĩnh Long cũng đẹp, lúc trước giải phóng tôi hay xuống đó chơi, có lần tôi xuống tới quận Chợ Lách nữa. Vô mấy vườn trái cây ở đó mặc sức mà ăn! Còn gái Vĩnh Long thì khỏi phải nói, nhất là gái Nha Mân đẹp có tiếng! Ông anh có đồng ý không?

                  Vừa hỏi anh ta vừa nheo mắt nhìn tôi một cách hóm hỉnh, tôi đính chánh và tránh né đề tài:

                  - Nha Mân thuộc về Sa Đéc rồi!

                  Lúc đó xe đang ngon trớn phóng nhanh và tôi thấy mấy chiếc xe khá xa về phía trước đang chạy chậm lại nhưng anh tài xế đang vui câu chuyện hình như không chú ý, anh vội quay qua tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:

                  - Ủa, tôi tưởng là Nha Mân thuộc về Vĩnh Long chớ! Tôi nhớ hồi trước có lần... có lần…ĐM! Lại trạm kiểm soát! Tối rồi mà còn nút chặn!

                  Anh ta vội ngắt ngang câu chuyện với tôi, ngoái đầu lại phía sau như cái máy, báo động:

                  -Trạm kiểm soát đó nghe bà con, có giấy tờ gì lo móc sẵn ra, để chạy cho nó lẹ! Tối rồi....

                  Chiếc xe ngừng lại khá gấp. Vì mải lo nói chuyện và không để ý mấy xe trước đã dừng, nên anh vội đạp thắng, làm hành khách ngả nghiêng. Tiếng la, tiếng cười nói, tiếng rủa sả lại rộn cả lên từ đám bạn hàng quen thuộc từ phía sau.

                  Lúc bấy giờ là cuối tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày cộng-sản chiếm miền Nam. Tôi không hiểu chính quyền cộng-sản thời đó áp dụng chính sách kinh tế kiểu gì, chỉ biết là đi tới đâu, cũng nghe dân chúng rên rỉ, than phiền về tình trạng ngăn sông cấm chợ. Trên các trục giao thông đường bộ cũng như đường thủy, có quá nhiều trạm kiểm soát. Thời kỳ đầu, các trạm kiểm soát đủ loại mọc lên khắp nơi, cách một đoạn chừng mươi cây số lại có một trạm, về sau này có thưa đi một chút nhưng vẫn còn quá nhiều. Lúc đầu kiểm soát giấy đi đường, kiểm soát thẻ đăng bộ xe gắn máy, kiểm soát giấy tờ hóa đơn đồng hồ, cà rá v.v... Ai không có hóa đơn thì tịch thu chờ “cứu xét”.

                  Về sau này, kiểm soát hàng hóa như đậu lạc, dừa khô, thịt heo, hoa quả vải vóc và các thứ khác. Nhưng ở đời, vỏ quít dày có móng tay nhọn. Chánh quyền càng tăng cường kiểm soát thì các con buôn càng có nhiều mánh khóe tinh vi hơn để qua mặt chánh quyền. Khi có nhiều kẻ qua mặt thì chánh quyền lại tăng cường thêm các trại kiểm soát và cứ thế cả hai đàng cùng leo thang chơi trò “cút bắt kinh tế”.

                  Tôi có nghe được khá nhiều câu chuyện về mánh lới con buôn dùng để vượt qua các trạm kiểm soát, trong đó có chuyện sau đây làm tôi nhớ mãi. Có một người đàn bà bụng mang dạ chửa, nhưng vì quá nghèo nên phải tảo tần mua bán độ nhật qua ngày. Chị lén “buôn lậu” vài loại hoa quả như chuối, dừa khô v.v... Có hôm bị nhân viên kiểm soát kinh tế bắt tịch thu mất vốn, cũng có khi chị năn nỉ họ thương tình tha cho vì xét ra dăm ba trái dừa khô, một ít nải chuối cũng chẳng đáng là bao. Nếu gặp phải thịt heo thì không thể tha được, vì món hàng này bị cấm ngặt, do đó nếu ai giấu được vài ký thịt qua trạm kiểm soát sẽ lời bằng mấy lần người khác buôn hoa quả. Chị đàn bà có mang này cứ tiếp tục buôn bán hoa quả thời gian khá lâu.

                  Một ngày nọ chị cũng đi buôn dừa khô như thường lệ, nhưng hôm đó bất ngờ chị phải đứng chờ trước trạm kiểm soát khá lâu. Một lúc sau, nhân viên kiểm soát ngạc nhiên thấy máu chảy ướt cả hai bàn chân của chị, tưởng là chị đã tới lúc sanh con, nên nhân viên kiểm soát vội vàng gọi y tá tới giúp. Mặc dù chị quyết liệt từ chối, nhưng ai lại để chị sanh con giữa đường giữa sá bao giờ! Khi tới nơi mới vỡ lẽ ra, chị ta chẳng bầu bì gì cả. Thì ra từ bao lâu nay chị đã buôn lậu hàng tạ thịt heo bằng cách bó thật chặt vào bụng khi qua các trạm kiểm soát, và dĩ nhiên là chị ta chỉ “có bầu” để qua mặt nhân viên kiểm soát. Mặc dù lục soát rất kỹ nhưng có ai sờ nắn bụng đàn bà có mang bao giờ. 

                  Hôm ngày chị “ở cữ ” vì kẹt trước trạm quá lâu, và thịt heo gói trong bọc nhựa loại xấu vỡ ra, làm máu chảy dọc theo hai bên chân dài xuống ướt cả bàn chân mới ra cớ sự. Hàng trăm thứ tội chỉ tại vì cái bọc nhựa kém chất lượng! Loại bọc nhựa đen ngòm làm bằng chất nhựa nấu lại, vì thời buổi ấy tìm đâu ra túi loại trắng làm bằng thứ nhựa nguyên chất?

                  Chiếc xe của tôi bò từ từ, nối đuôi theo sau đoàn xe khá dài đang đi ngang qua trạm kiểm soát. Tôi e ngại mỗi khi xe ngừng lại các trạm, vì kinh nghiệm cho biết bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra tại các nút chặn như thế này. Mỗi lần qua trạm, tôi đều nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà tôi đã chứng kiến, cũng xảy ra trên tuyến đường này một năm về trước.

                  Hôm đó, mới 5 ngày sau khi cộng-sản chiếm miền Nam, tôi đang ở Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long và có việc phải đi Sài Gòn cùng với một vài người trên chiếc xe Wolksvagen của cơ quan bác ái Caritas. Trên quốc lộ 4 ngày hôm đó thật hỗn loạn khác thường, nào xe lớn xe nhỏ, nào người dân, nào du kích mang súng ống đạn được... đông nghẹt cả đường lộ như cảnh bán chợ trời. Cách quãng vài trăm thước lại có một nhóm vài ba anh du kích mặc đồ đen, đội nón tai bèo, mang dép râu, khăn rằn quấn cổ mang súng AK hoặc M16, đưa tay chận xe lại và xét! Tôi cũng chẳng biết họ xét cái gì, vũ khí thì chúng tôi không có, giấy tờ thì chúng tôi có nhưng họ lại không biết đọc. Cuối cùng họ xét ... hóa đơn!  Bất cứ thứ gì, nhất là đồng hồ đeo tay mà không có hóa đơn đều bị giữ lại để chờ mang hóa đơn tới chuộc về. Tôi nghe rất nhiều khổ chủ của những xe gắn máy, của các chiếc đồng hồ đang cố gắng giải thích cho các anh du kích trong rừng vừa mới ra này hiểu rằng, không bao giờ họ cần phải mang theo hóa đơn khi đi đường. Nhưng giải thích thì cứ giải thích còn việc “cách mạng” làm thì họ cứ làm.

                  Xe tôi rời nhà từ sáng sớm, cho tới xế chiều thì bò gần tới Cái Bè, tức là gần nửa đoạn đường 130 cây số Vĩnh Long - Sài Gòn. Tính ra chúng tôi đi được 50 cây số trong 7 tiếng đồng hồ.  Xe cứ bò đi, lại bị chận kiểm soát rồi lại bò đi, lâu lâu xe dừng lại cho mấy anh du kích quá giang. Khi tới Cái Bè lại kiểm soát và lần này thì một anh du kích có sáng kiến rất lạ lùng, anh cầm ngửa một cái nón lá của phụ nữ, leo lên xe tôi và ra lệnh tất cả hành khách ai có bất cứ một thứ giấy tờ gì thì ném hết vào. Chúng tôi nhìn nhau e ngại trước cái lệnh quái đản này, vì nếu không còn giấy tờ tùy thân nữa thì chúng tôi sẽ ra sao trong tình thế hỗn độn này? Tôi lên tiếng hỏi:

                  - Anh à, nếu anh giữ giấy tờ chúng tôi ở đây, các trạm tới hỏi chúng tôi làm sao?

                  Anh du kích điềm nhiên trả lời:

                  - Bà con nói là anh Tư Lớn ở Cái Bè đã giữ!

                  Trời ơi, giấy tờ tùy thân của chúng tôi trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này mà anh “Tư Lớn” coi như... lá khoai! Nhưng chúng tôi không thể giải thích hoặc cưỡng lệnh anh “Tư Lớn”, nhất là khi nhìn thấy cái nòng súng AK đen ngòm và bóng láng trên vai anh. Tôi biết tốt nhất là ném giấy tờ vào cái nón lá.

                  Đó cũng là lần cuối cùng tôi còn nhìn thấy cái thẻ căn cước của tôi thời Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi trở thành mình trần thân trụi, tôi cảm thấy vô cùng ngao ngán. Đi hay về?  Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau, cuối cùng chúng tôi quyết định tiếp tục đi Sài Gòn, vì đàng nào thì giấy tờ cũng đã mất.
                   
                   
                  Cảnh tượng hãi hùng
                   
                  Chiếc Wolkswagen tiếp tục bò tới ngã ba Trung Lương thì lại gặp nút chặn. Cả một đoàn xe đang dừng lại, và người ta trên quốc lộ 4 đông như trấu. Chúng tôi lại bị hỏi giấy tờ, nhưng chẳng ai còn một thứ gì trong tay và nói là anh “Tư Lớn” ở Cái Bè giữ lại tất cả. Nhưng khổ nỗi, giữa cảnh hỗn quân hỗn quan người đông như kiến cỏ thế này, có ai biết anh “Tư Lớn” là ai! Thế là chúng tôi bị đuổi quay xe về. Không còn cách nào hơn, chúng tôi phải quay trở về sau gần một ngày lê lết trên quốc lộ 4.

                  Khi xe trở đầu xong và dừng nối đuôi sau một đoàn xe chờ đường trống để “bò” đi thì một cảnh tượng hãi hùng diễn ra ngay bên cạnh. Nhìn qua cửa kính, tôi thấy một anh du kích trẻ tuổi đội mũ tai bèo, mặc đồ đen có khăn rằn quấn cổ, vai mang súng AK đang lục soát một người chạy chiếc Mobilette xanh từ hướng Sài Gòn chạy xuống. Chiếc xe được dựng chân đứng lên. Người chủ xe là một thanh niên trạc chừng 30, mặc quần đen và áo sơ-mi màu sậm có sọc dài đang đứng kế bên. Anh du kích cúi người, lục lọi những món đồ trong 2 túi phía sau yên xe ra để xuống mặt đường. Tôi thấy mấy trái khóm (dứa) và một ít đồ lỉnh kỉnh.

                  Cảnh lục soát này đã quá quen thuộc, nên tôi không mấy gì để ý. Nhưng bất thình lình, không biết xét gặp thứ gì, anh du kích vội bước lùi lại, tay lên cò súng thật vội vã, miệng quát to, tiếng quát như tiếng sĩ quan đang gào thét binh sĩ ngoài mặt trận: “Nằm xuống! Nằm xuống.” Anh du kích vừa la hét vừa nhảy lùi lại mấy bước nữa. Cây AK trong tay anh đang ở thế chiến đấu và mũi súng đen ngòm đang chỉa về phía người đàn ông đáng thương đang vội vàng nằm sấp xuống mặt đường. “Đưa 2 tay về phía trước!” Anh du kích lại hét lên ra lệnh, và người đàn ông luống cuống làm theo. Tôi thấy anh du kích xê dịch khẩu súng khi sửa lại thế đứng, nhưng họng súng không rời khỏi thân hình con người đang nằm sấp trên lộ. Sau khi họng súng đã hướng chính xác về phía nạn nhân, thì “Bằng! Bằng! Bằng! Bằng!...” Một tràng súng nổ vang, những người ở xa vội nằm xuống né đạn theo phản xạ tự nhiên.

                  Thân hình người đàn ông nằm dưới đất bị giật nẩy lên mấy lần theo từng tiếng súng nổ. Máu anh văng tung tóe và cơ thể anh co giật thật dữ dội rồi nằm yên bất động. Cảnh tượng xảy ra quá gần, nên từ trong xe tôi còn ngửi được mùi thuốc súng! Sự việc diễn ra quá nhanh làm tôi không có giờ để sợ hãi. Tôi nhắm mắt quay mặt đi, vừa âm thầm đọc một câu kinh cho nạn nhân. Mặc dù trong thời chiến, tôi đã từng thấy những thân thể con người bị Việt-cộng chặt đầu mổ bụng vì ghép vào tội Việt gian hoặc trốn thuế, nhưng cảnh anh du kích bắn người một cách quá dã man như thế này, tôi mới chứng kiến lần đầu sau khi miền Nam được “giải phóng!” 

                  Trở về thực tại, lúc này chiếc xe tôi dừng hẳn lại ngay trước mặt mấy anh công-an vai mang súng kè kè. Tôi cố giữ vẻ mặt thật bình thản, trong khi mấy anh công-an mặt mày đen đúa áp sát mặt nhìn chằm chằm vào bên trong xe, chẳng nói chẳng rằng. Thực tình tôi cũng chẳng biết họ muốn kiểm soát cái gì, kiểm soát người hay đón bắt mấy bà bạn hàng chở đồ lậu tôi cũng không biết. Xe nào cũng phải dừng lại, nhưng một chốc lại được đi. Xe tôi cũng vậy, họ chẳng hỏi người nào, nhưng cặp mắt láo liên của họ nhìn chằm chằm vào mặt từng hành khách làm tôi có cảm tưởng họ đang nhận diện một người nào họ đã biết mặt, hoặc đã được coi qua hình. Sau khi thấy chẳng có gì khả nghi, anh công-an phía ngoài vẫy tay cho đi. Người tài xế vừa gài số định chạy, thì anh bên phía trong lề chợt giơ tay ra lệnh dừng lại. Tôi hơi lo ngại.

                  - Ngừng lại đã! Cái túi đỏ này của ai?

                  Vừa hỏi anh ta vừa chỉ vào cái túi xách của tôi để dưới chân. Tôi hơi chột dạ, nhưng cố làm ra vẻ bình thản, vừa trả lời vừa cầm túi lên mở dây kéo.

                  - Gì trong đó?

                  Tôi cho tay vào lôi bộ đồ bà ba đen ra khỏi miệng túi:

                  - Mấy bộ quần áo thôi, chẳng có gì!

                  Anh công-an có vẻ không chú ý lắm vào việc xét hỏi này, chỉ nhìn qua loa chiếu lệ. Lúc bấy giờ tôi chỉ ngại anh ta bảo đưa túi ra cho anh ta lục soát. Trong túi xách của tôi, ngoài bộ đồ bà ba đen nằm trên mặt, còn có một khăn tắm khá to màu cứt ngựa, một cái võng bằng vải nylon dầu màu đen, ở hai đầu có đoạn dây dù khá dài quấn quanh cái võng cuộn tròn lại như đòn bánh tét, một cái đèn pin, một con dao bấm loại các phi công vẫn dùng và một túi nhỏ của học sinh đựng bút mực được tôi dùng đựng kem đánh răng, bàn chải và một ít thuốc trị sốt rét. Những thứ này, nếu bị xét thấy cũng có thể gây nghi ngờ và phải trả lời lôi thôi, nhưng cũng không đáng ngại lắm vì nó phù hợp với giấy tờ tùy thân tôi đang có: nhân viên của Công ty khai thác Lâm sản bằng máy ủi của tỉnh Lâm Đồng. Đây là bản photocopy mà một anh bạn đã thay tên tôi vào. Lúc đó chẳng cần biết giấy tờ thực hay giả, miễn có chữ in và con dấu là hữu dụng. Người công-an xem xét cho có lệ rồi khoát tay cho đi.

                  Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng người mừng nhất lúc này không phải là tôi mà là anh tài xế, vì từ lúc bị giữ lại lần sau trông bộ dạng anh tài xế bứt rứt và khó chịu thấy rõ! Chiếc xe cài số sẵn, nhưng không được chạy, nó cứ rướn tới thụt lui, tiếng máy gầm gừ như hai con chó đang chực cắn nhau nhưng có dây cột cổ ghì lại.  Lần này, khi anh công-an vừa khoát tay, người tài xế thả ngay chân đạp thắng và nhấn ga làm chiếc xe chồm tới như con tuấn mã lấy đà phóng nhanh. Các chị em bạn hàng phía sau bị mất đà ngả nghiêng, họ lại la ó, lại rủa sả anh tài xế, anh chỉ nhe răng cười đáp lại.

                  Bà con lại tiếp tục nói cười một cách hồn nhiên như trước, vì hình như cảnh lục soát quá này đã quá quen thuộc nên chẳng ai buồn để ý. Tôi lại ngồi yên nhắm mắt, một phần cũng muốn nghỉ ngơi sau một ngày khá mệt, phần khác tôi cũng không muốn tiếp tục câu chuyện với người tài xế vui tính, đầu óc tôi đang rối bời về chuyện khác: Sắp tới nơi rồi!
                   
                   
                  Chặng cuối đoạn đường
                   
                  Khi xe ngừng lại ở xa cảng Phú Lâm thì trời đã nhá nhem tối. Tôi bước xuống xe, nói vài câu cám ơn người tài xế, mang túi trên vai và tản bộ ra phía đường cái. Khung cảnh Xa Cảng miền Tây buổi chiều tà lúc bấy giờ thật buồn và lạnh. Tôi dừng lại bên lề đường, mò túi tìm bao thuốc lá. Mùi khói thuốc làm tôi dễ chịu và tự nhiên cảm thấy bình thản hơn.  Những lần trước khi tới Xa Cảng, tôi ra đây để đón xe lam hoặc xích lô máy vô Sài Gòn, nhưng chiều nay tôi bước đi vì thói quen hơn là để tìm xe đi tiếp đoạn đường. Lúc đó, một chiếc xích lô máy ngừng lại trước mặt tôi, người lái xe hỏi:

                  - Ông đi đâu?

                  Tôi yên lặng một lúc, khiến người lái xe hơi ngạc nhiên hỏi tiếp:

                  - Ông vô Sài Gòn hay Chợ Lớn?

                  Tôi đáp vội:

                  - Anh cho tôi về Chánh Hưng. Tôi vừa nói vừa leo lên xe.

                  Tôi có gia đình người bạn ở Chánh Hưng. Lúc trước, mỗi khi có dịp lên Sài Gòn tôi thường ghé thăm và có khi ở chơi vài ngày, nhưng lần này tôi đến vì bất đắc dĩ. Tôi biết rằng tình cảnh tôi lúc bấy giờ không thuận tiện ghé một nơi nào, những người bạn thân lại càng không nên tới.
                   


                  Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
                  dactrung.com

                  (đang hiệu đính)
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.01.2007 06:39:54 bởi sóng trăng >
                  #9
                    sóng trăng 23.01.2007 12:38:31 (permalink)
                    .

                    2

                    “Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên


                    Tôi còn nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt trên chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt ngày hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người bạn tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược chiều với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và đủ điều lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác, tôi quay sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh ngộ. Anh bạn cũng trạc tuổi tôi, vừa ngoài 30. Nước da sạm nắng, gương mặt rắn rỏi và khắc khổ, làm anh trông già đi trước tuổi. Sáng nay, khi tập trung tại đồn công-an Đức Lập để làm thủ tục trước lúc lên xe giải giao lên Ban Mê Thuột, tình cờ anh đứng gần tôi thành hàng đôi, và cán bộ cứ thế mà còng tay hai người dính vào nhau. Đây là sự “ráp nối” thật ngẫu nhiên, cũng như sự gặp gỡ với bao nhiêu con người xa lạ khác trong suốt cuộc đời của mỗi người, phần nhiều là do sự tình cờ đưa đẩy, để rồi trước lạ sau quen.

                    Lợi dụng lúc đứng chờ lên xe, chúng tôi chào hỏi nhau và trao đổi vài câu ngắn gọn. Qua đó tôi được biết, anh là một cựu sĩ quan trốn trình diện, nhà ở Sài Gòn, có vợ và hai con thơ, một trai, một gái. Anh tham gia tổ chức Dân Quân Phục Quốc và bị bắt cách đây năm ngày. Anh cũng bi bắt trong vùng biên giới âm u giáp ranh Campuchia như tôi. Anh còn cho biết, nhóm của anh có sáu người, bị bắn chết hai, một anh trốn thoát và ba người bị bắt cũng có mặt trong chuyến xe này.
                     

                    Người bạn đồng hành

                    Anh bạn ngồi sát thành xe phía trái, yên lặng hướng cặp mắt lờ đờ vô định nhìn ra ngoài. Có lúc trông anh bất động và câm nín như một pho tượng đá được đặt ngay ngắn trên ghế xe, hướng về phía trước, nhưng cổ và đầu quay hẳn sang một góc 45 độ nhìn ra đường. Liếc mắt nhìn sang, tôi thấy mái tóc anh phủ dài cuốn úp vào gáy che kín cổ áo, tạo nên nét đẹp hào hùng của những con người dày dạn gió sương. Tay trái anh co lại, gác cùi chỏ lên thành xe, trong khi tay phải của anh để lên đùi vì bị còng dính vào tay trái tôi. Nhìn tư thế của anh, tôi có thể đoán biết hệ thống thần kinh của anh lúc này đang làm việc bận rộn hơn bao giờ hết. Tự nhiên, tôi đâm ra tò mò và thử cố gắng hội nhập vào dòng suy tư của người bạn đường không hẹn mà gặp này.

                    Có lẽ tâm trạng anh cũng giống như tôi lúc bấy giờ, đang nghĩ xem làm cách nào vượt thoát ra khỏi cảnh này, và cũng thử đoán coi sự gì đang chờ đợi ở phía trước, và tương lai cuộc đời rồi đây sẽ ra sao? Phần chắc hơn, tôi nghĩ là anh đang bị dày vò bởi tình cảm riêng tư và thiêng liêng của gia đình. Có lẽ giờ này, trong hình hài tượng đá của anh, tất cả tâm trí đang quay về mái ấm gia đình có hình ảnh thân yêu của người vợ hiền, và gương mặt ngây thơ của đứa con nhỏ vừa lên bốn lên năm đang hỏi mẹ: “Sao bố chưa về hả mẹ?”

                    Chiếc xe đang ngon trớn, bất ngờ bị sụp ổ gà xốc thật mạnh đã kéo tôi quay về với thực tại. Cùng lúc đó, anh bạn ngồi bên cũng quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn. Có lẽ hai người chúng tôi chợt tỉnh cơn mơ cùng một lúc. Tôi tự nghĩ: “Hay là anh bạn biết mình đang lẻn vào đời tư của gia đình anh, nên quay sang nhìn tôi!” Tôi tự nhiên đâm ra ngượng và có cảm giác xấu hổ như đang lúc lom khom cúi mình nhòm qua lỗ khóa, bị kẻ khác bắt gặp! Tôi nở một nụ cười gượng gạo và quay đi tránh cái nhìn của anh, trong một thứ mặc cảm tội lỗi, được hiểu theo một nghĩa rất nhẹ. Nhưng ngay sau đó tôi tự an ủi: “Biết đâu từ nãy giờ anh bạn có vẻ mặt lầm lì này cũng đã ‘nhảy xổm’ vào đời tư của mình không chừng, vì trước khi lên xe, mình có kể với anh hoàn cảnh gia đình, mẹ già đang ốm nặng và không biết chết lúc nào”. Thực tình tôi mong anh ta đã làm chuyện đó để coi như hòa, vì cả hai đều có lỗi.

                    Sau khi bị sụp ổ gà, chiếc xe khựng lại và bắt đầu đi chậm, vì tới đoạn đường đất đỏ gồ ghề và đầy cát bụi. Chiếc xe đang cố trườn mình trên con đường ngoằn ngoèo giữa khu rừng tối tăm u ám, giống như một con rắn khổng lồ đang bị săn đuổi, cố lủi trốn thoát thân vào khu rừng già của miền Cao Nguyên huyền bí. Đây chính là chuyến xe định mệnh đưa tôi vào một tương lai mờ mịt. Mặc dù chưa biết tương lai đó sẽ ra sao, nhưng hiểu là nó u ám chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Nguyên đang bao trùm lấy nhóm tù nhân chúng tôi.
                     

                    Đi về đâu?

                    “Cuộc đời mình rồi sẽ ra sao?” Câu hỏi khó trả lời ấy và nhiều câu hỏi khác đang thi nhau nhảy múa trong đầu tôi. Chúng giống như những đốm sáng khi ẩn khi hiện của đàn đom đóm trên những lùm cây dại mọc hai bên bờ sông rạch của miền đồng bằng sông Cửu Long, mà thời tuổi trẻ tôi thường trông thấy khi cùng với anh tôi chống xuồng giăng câu, thả lưới về đêm. Tôi cố xua đuổi những câu hỏi ấy ra khỏi đầu óc mình, nhưng rồi chúng cũng trở lại, như một bầy muỗi đói đang kêu vo ve tranh nhau rúc đầu vào chiếc mùng lưới, cố chui vào hút máu con người đang nằm bên trong. Lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mất an toàn khi nhìn về tương lai, chẳng biết cuộc đời tôi sẽ trôi giạt về phương nào! Mặc dù tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, nhưng qua những gì tôi biết, những người khi phải sa chân vào con đường tôi đang đi trong lúc này, không mấy khi được nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.

                    Với 33 tuổi đời và bước qua năm thứ sáu của đời Linh mục, tôi đang đi vào ngã rẽ mà tôi đoán biết là đầy nghiệt ngã và trắc trở. Nhớ lại tuần trước, lúc từ giã nhà người bạn tại Hưng Phú để ra đi. Tôi cần phải ra đi để tránh cho gia đình người bạn khỏi bị rắc rối vì có người khách lạ mặt trong nhà trong thời gian khá lâu. Trong hoàn cảnh lúc đó không ai muốn trở thành mục tiêu chú ý của hàng xóm, và của những cặp mắt lúc nào cũng muốn tìm dịp lập công trong cơn sốt thời cuộc đang dâng cao. Trong thời gian một tháng qua, sau khi từ giả xứ đạo La Mã ra đi, tôi sống lẩn lút ở Sài Gòn. Thời gian đó, tôi đã phải di chuyển hết nơi này tới nơi khác, không dám ở lại nơi nào quá vài ba ngày. Mặc dù lúc đó trong mình  tôi có giấy  chứng minh là nhân viên  lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng, do người bạn tôi trốn trình diện và đang mai danh ẩn tích ở Sài Gòn làm giúp cho.
                    Tờ giấy photocopy như lá bùa hộ mệnh này đã chứng tỏ có công hiệu trong một lần tôi đi xe gắn máy bị chặn lại để kiểm tra giấy tờ. Khi người bộ đội cầm tờ giấy bằng chữ in và có đóng dấu,  tôi thấy gương mặt anh ta rất thoải mái và mỉm cười trả lại cho tôi đang đứng bên. Lúc đó  trong lòng tôi hồi hộp, cầu mong cho anh ta đừng hỏi gì thêm về tờ giấy chứng minh này. Mặc dù biết là trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng đó, chẳng ai có công sức đâu để truy nguyên các loại giấy tờ. Bất cứ loại giấy gì bằng chữ in và có đóng dấu,  được coi như “cứng” khi bước ra đường. Nhưng khổ nỗi vì không quen dùng giấy tờ giả nên lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy. Biết đâu sẽ có lúc nào đó lại gặp phải anh bộ đội hiểu chuyện hơn, dẫn tôi về đồn và đòi coi bản chánh thì sao? Mặc dù lá bùa dỏm này đã giúp tôi sống yên thân tạm gần một tháng ở Sài Gòn nhưng tôi biết không thể kéo dài tình trạng này lâu hơn được.

                    Lúc bấy giờ tôi có lập trường dứt khoát đối với chế độ cộng sản, nhất là sau kinh nghiệm cay đắng của thời gian tôi sống tại họ đạo La Mã ở Bến Tre. Tôi không chấp nhận và không bao giờ sống trong chế độ cộng sản. Tôi không chấp nhận chế độ đó không phải vì cái tên “cộng sản” của nó, nhưng vì chủ trương vô thần và sự cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của người dân. Nếu có điều kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn tôi sẽ trốn chạy nhưng dứt khoát không đầu hàng chế độ này. Sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm mà tôi đã trải qua khi phải sống trong sự kềm chế tàn bạo của chế độ, càng giúp tôi  xác tín chế độ cộng sản không thể mang lại lợi ích và hạnh phúc cho dân tộc.

                    Lúc đó tôi vô cùng hoang mang, thứ hoang mang của con người bé nhỏ yếu đuối dứng trước ngã ba đường. Tâm trạng tôi là tâm trạng của con người tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Một chế độ ở miền Nam vừa sụp đổ vì thiếu phương hướng, dựa vào sức mạnh của ngoại bang để tồn tại và mang nhiều tai tiếng vì nạn tham nhũng bất công, vừa được thay thế bằng một chế độ càng tệ hại hơn, gây kinh hoàng cho dân chúng ngay khi họ vừa cướp được quyền bính. Tôi trở thành người bơ vơ! Trong lòng tôi lúc bấy giờ không thương tiếc gì về chế độ vừa sụp đổ, lại vừa kinh hãi chế độ mới ! Tôi quyết tâm dấn thân vào con đường chống lại sự tàn ác của chế độ bất công đang nắm quyền,  không phải để khôi phục lại chế độ vừa sụp đổ, nhưng muốn cùng với toàn thể dân tộc xây dựng thể chế  tốt đẹp hơn, có thể mang lại phúc lợi cho dân tộc. Mặc dù trong hoàn cảnh đó, thân phận tôi chỉ giống như loài côn trùng bé nhỏ đứng trước vấn đề bao la vĩ đại của dân tộc. Nhưng loài côn trùng bé nhỏ đó vẫn có bộ óc biết suy tư và cảm giác biết rung động của nó.

                    Trong bầu khí hoang mang và đầy bất mãn đó, lại có những tin đồn tung ra. Nào là ông Thiệu đang mộ quân kéo về biên giới, nào là ông Kỳ đang ém quân trong rừng lá. Lúc bấy giờ có nhiều người lại tin vào các chuyện nhảm nhí đó, và sự nhẹ dạ của họ làm tôi ngạc nhiên. Tôi tự hỏi sao lại có người ngây thơ tới độ tin tưởng là những con người có thời giữ chức vụ chóp bu trong chánh quyền, nhưng khi hoạn nạn tới thì đào tẩu một cách hèn nhát. Họ dẫn vợ con và ôm theo tài sản tích trữ được trong những năm cầm quyền thoát thân. Họ bỏ mặc cho số phận dân tộc muốn ra sao thì ra. Bây giờ những con người đó biết “thương dân ” và từ bỏ vùng đất yên hàn ở một phương trời nào đó quay trở về cứu dân độ thế! Lúc đầu tôi rất thắc mắc nhưng về sau này hiểu ra. Lý do là dân chúng lúc bấy giờ rơi vào tình trạng tuyệt vọng như hành khách của con tàu chìm. Họ cố bám vào bất cứ vật gì trôi ngang, để hy vọng khỏi chết đuối, cho dù vật họ cố bám vào chỉ là cái bọt biển.

                    Về phần tôi, ngay sau khi lên Sài Gòn, tôi đã gặp lại người bạn thân trốn trình diện và đang sống lẩn lút bằng giấy tờ giả.  Sau khi gặp lại nhau, chúng tôi tìm cách liên lạc với mấy người bạn cũng trong tình trạng bất an toàn như chúng tôi để tìm hiểu về các nhóm phản kháng đang hoạt động chung quanh khu vực Sài Gòn mà chúng tôi nghe tin đồn. Sau thời gian cố bắt liên lạc, tôi biết phần nhiều chỉ toàn là tin đồn truyền miệng,  Trong thực tế chẳng có gì, hoặc nếu có thì không có gì đáng kể. Trong khi đó tôi được giới thiệu với vị mục sư người Thượng và qua vị mục sư này, tôi tìm hiểu sâu hơn về lực lượng Fulro mà theo lời vị mục sư là đang hoạt động tích cực và hữu hiệu trong vùng núi rừng tây nguyên. Từ thời chế độ Cộng Hòa, tôi đã biết về phong trào Fulro là phong trào của đồng bào sắc tộc tranh đấu đòi quyền tự trị. Chủ yếu là những đồng bào sắc tộc chống lại người Kinh đòi tự trị. Khi  cộng sản chiếm miền Nam thì phong trào Fulro càng hoạt động tích cực hơn để chống lại những người cộng sản.

                    Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ nhóm chúng tôi cố gắng bắt liên lạc với những người lãnh đạo Fulro tại Gia Nghĩa thuộc quận Đức Lập tỉnh  Quảng Đức, để tìm hiểu và nếu có thể cùng phối hợp hoạt động trong khi chúng tôi không thể sống mãi ở Sài Gòn. Chúng tôi đã rời Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 5 năm 1976, đi vào khu vực núi rừng vùng biên giới Việt - Campuchia với tư cách nhân viên lâm sản tỉnh Lâm Đồng. Chúng tôi cũng dự trù nếu công việc không thành sẽ tìm đường vượt biên qua biên giới Campuchia  để tới Thái Lan.

                    Một buổi sáng cuối tháng 5 năm 1976, nhóm chúng tôi bị lực lượng công an biên phòng khá đông bao vây trong phần đất Campuchia. Tôi không bao giờ quên cảm giác kinh hoàng khi những người công an tay cầm súng AK, đầu đội mũ cối đang la hét vang dội cả núi rừng Tây nguyên trong buổi sáng có nhiều sương và lạnh buốt của núi rừng. Khi nhìn cảnh 4 người công an chỉa thẳng mũi súng đen ngòm vào, tôi thấy hiện ra trước mặt cái hố to và đen ngòm. Kể từ giây phút đó đời tôi đi vào phần số mà định mệnh đã dành cho tôi trong kiếp sống lao tù.

                    Lúc đang ngồi trên xe chạy lên Ban Mê Thuột, tôi nhớ tới số phần của nhân vật chánh trong cuốn truyện “Giờ thứ hai mươi lăm” của tác giả Virgil Gheorghiu mà tôi đọc từ ngày còn ở trung học. Vì đọc đã lâu, tôi không còn nhớ rõ chi tiết đầu đuôi câu chuyện. Nhưng điều tôi nhớ mãi, đó là về số phận bi đát của nhân vật chánh trong truyện, anh chàng Iohann Moritz, người Roumanie bị ngộ nhận là Do Thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh chàng trai trẻ này là người chân chất, đang làm ăn sinh sống yên hàn với vợ con thì một ngày nọ, anh nhận được giấy báo của chính quyền đòi lên cơ quan vì một vấn đề chính trị gì đó. Đây là một sự lầm lẫn, cũng như bao nhiêu thứ lầm lẫn khác trong thời kỳ chiến tranh. Tự cảm thấy mình vô tội nên anh nghĩ một cách đơn giản là chỉ cần ra cơ quan điều chỉnh giấy tờ để xác nhận lý lịch của anh là xong.

                    Nhưng rồi từ lúc anh bước ra khỏi nhà, định mệnh đen tối đã vồ lấy anh. Gặp hết trở ngại này tới trở ngại khác, và nhiều chuyện rắc rối xảy ra đẩy anh vào cuộc đời tù tội một cách oan uổng. Khi vô tù anh bị giải giao hết trại khổ sai này tới trại tập trung khác. Người Hung Gia Lợi hành hạ anh chán chê lại bán cho người Đức. Anh trải qua sự tra tấn dã man của bọn lính Đức Quốc Xã, cứ thế mà đưa đẩy trong suốt 13 năm trời. Số phần anh chàng Iohann Moritz như một thứ côn trùng bé nhỏ bị vướng mắc vào mạng nhện khổng lồ, càng cố gắng vùng vẫy lại càng bị dính chặt hơn. Rồi không hiểu tại sao, người Đức lại ngộ nhận anh là người trong bọn họ, nên anh được “phục hồi danh dự” và được mặc sắc phục của SS trong lực lượng an ninh của họ.

                    Khi gần tàn cuộc chiến, Iohann Moritz bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh, anh bị đưa ra xét xử trước Tòa án quốc tế Nurumberg và bị kết án là tội phạm chiến tranh. Nhưng sau cùng anh được minh oan và được sum họp với vợ con. Lúc anh sắp ra về, viên sĩ quan Mỹ Lewis muốn chụp một tấm hình cả gia đình Iohann Moritz. Trước khi bấm máy, Lewis luôn miệng bảo Moritz: “Cười lên đi, cười đi, cười đi...!”. Tác giả Virgil Gheorghiu dùng câu đó để chấm đứt câu chuyện, nhưng anh chàng Moritz đáng thương vẫn cứ trơ ra không thể cười được. Thực ra anh ta rất muốn nở một nụ cười, nhưng không làm được vì anh đã quên không còn biết cười ra làm sao nữa!

                    Tôi không chắc mình có nhớ đúng chi tiết câu chuyện hay không, nhưng về số phận đen tối của nhân vật chánh Iohann Moritz như cánh bèo trôi giữa vùng nước xoáy, lăn lộn trong ngục tù và câu cuối cùng trong cuốn truyện thì tôi nhớ rất rõ.

                    Ngày đó, ở cái tuổi vừa lớn lên, khi đọc truyện này tôi bị xúc cảm mạnh và thương cho kiếp sống đọa đày của anh chàng Moritz. Quay về thực tại, lúc này tôi đang bị còng tay trên chuyến xe chở tù của cộng-sản. Lúc đó tôi tự hỏi, số phận tôi rồi đây sẽ ra sao, có thể giống như anh chàng Iohann Moritz trong “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” hay không? Đó là một câu hỏi thật ngán ngẩm, nhưng nó cứ lởn vởn trong đầu, mặc dù tôi cố gắng xua đuổi nó ra khỏi dòng suy tư.
                     

                    Người bạn bất đắc dĩ

                    Tôi thở dài ngao ngán khi nhìn xuống cổ tay đang bị chiếc còng số 8 ngoạm chặt. Chiếc còng làm bằng inox, tuy mỏng manh nhưng chắc cứng mà lần đầu tiên trong đời tôi phải mang nó vào cổ tay. Tôi đã nhiều lần trông thấy loại còng này, nhưng chưa sờ đụng nó bao giờ vì tôi nghĩ là có cái gì “xúi quẩy” trong món đồ vật mà người ta thường gọi cách bóng gió là “đồng hồ Omega”. Chiếc còng còn mới nguyên, nước xi bóng láng, có lẽ vừa được lấy trong kho ra và biết đâu tôi được “hân hạnh” là người dùng nó đầu tiên (dĩ nhiên là tôi phải chia sẻ 50% cái vinh dự này với anh bạn ngồi bên!).

                    Tôi tò mò, lấy tay phải sờ nhẹ chiếc còng và thấy nó thật lạnh. Tôi biết cảm giác lạnh lúc bấy giờ phần lớn là do yếu tố tâm lý tạo nên. Tôi mân mê chiếc còng trên cổ tay, xoay đi xoay lại và thấy có hàng chữ “Made in USA” và tên của hãng sản xuất  “Smith & Wesson”. Cái tên này tôi đã thấy qua và hãng này cũng sản xuất súng lục mà có một thời tôi rất thích sưu tầm. Công dụng của chiếc còng không có gì là thích thú, nhưng hình dạng của nó trắng trẻo, đường nét tinh xảo, mảnh mai và xinh xắn trông rất dễ thương! Tôi nghĩ thầm: “Đúng là đồ Mỹ có khác!” Lúc mới tra tay vào còng, tôi cảm thấy vướng víu và bực dọc khó chịu. Nhưng một lúc sau tôi cố làm quen với chiếc còng và không thèm để ý tới cảm giác khó chịu nữa. Tôi chấp nhận thực tại, là từ nay chiếc còng trở thành bạn đường của tôi. Một thứ bạn đường hoàn toàn bất đắc dĩ.

                    Từ cái ý nghĩ có chiếc còng làm người bạn đường này, tự nhiên tôi thấy tình cảnh mình giống như thân phận người con gái lỡ bước sang ngang, “gái có chồng như gông đeo cổ!” Tôi chợt nhớ lại mấy câu ca dao mà tôi thuộc nằm lòng, từ ngày còn học lớp đệ thất tại trường trung học Minh Đức ở xứ đạo quê tôi. Ngày ấy, khi mới bước vào tuổi mộng mơ, tôi rất thích mấy câu ca dao đồng quê trữ tình, thật nhẹ nhàng duyên dáng nhưng đượm vẻ u buồn man mác:

                    Lời người con trai:

                    “Trèo lên cây bưởi hái hoa,
                    Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
                    Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
                    Em có chồng, anh tiếc lắm thay!”
                    Người con gái buồn bã đáp lời:
                    “Ba đồng một mớ trầu cay,
                    Sao anh không hỏi những ngày còn không?
                    Bây giờ em đã có chồng
                    Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
                    Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
                    Chim vào lồng biết thủa nào ra?”

                    Tôi ngồi yên và nhẩm đi nhẩm lại bài ca dao này, nhất là bốn câu cuối cùng, vì thấy có một sự trùng hợp nào đó giữa hoàn cảnh của cô thôn nữ ngày xưa (chắc là nàng phải xinh đẹp!) và thân phận của tôi trong lúc này. Tự nhiên tôi thấy gần gũi và thương “nàng” hết sức.
                     

                    Chiều cao nguyên

                    Chiếc xe chạy vào khu dân cư của thị xã Ban Mê Thuột, nơi phần đông dân chúng là người Thượng. Rất dễ phân biệt họ với người Kinh, vì nước da họ đen sạm, và cách ăn mặc trang sức cũng rất khác biệt. Trời đã bắt đầu về chiều, cảnh vật hai bên đường trông thê lương buồn thảm của một tỉnh nhỏ cao nguyên, cộng với tâm trạng ngổn ngang trăm mối, khiến tôi có cảm tưởng mình đang băng qua một thành phố chết.

                    Trước mắt tôi, cảnh một số người đội nón cối đi xe đạp. Đó đây mấy người Thượng đóng khố, tay cầm dao rựa, vai mang gùi đầy củi, đang yên lặng cúi đầu đi thành hàng dọc hai bên đường. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mình đang bị lạc vào một thế giới khác, một thế giới hoàn toàn xa lạ. Mặc dù tôi cố gắng tự thuyết phục mình rằng những con người mang dép râu, đội nón cối và những người Thượng đóng khố, nước da đen sạm kia, chính là những đồng bào của tôi.

                    Các hành khách tù nhân bắt đầu nhốn nháo khi xe chạy qua phố , khiến các anh lính mang súng dài áp tải trên xe quát tháo, bắt ai nấy ngồi yên. Anh bạn bị còng chung với tôi quay sang nhìn tôi với cặp mắt lộ một chút lo âu. Anh đánh tan bầu không khí yên lặng tự nãy giờ bằng vài câu nói bâng quơ cho có lệ, những câu đối đáp hiếm hoi từ lúc chúng tôi bị cùm dính tay nhau.

                       - Hình như sắp đến nơi rồi thì phải?

                        Tôi hướng mắt nhìn ra ngoài đáp lại:

                       - Vâng, hình như sắp đến rồi.

                    Đáp xong, tôi ngồi yên, anh bạn lại quay cổ nhìn ra ngoài như trước. Lúc sau, cảm thấy câu đối đáp quá ngắn, tôi bèn gợi chuyện đáp lễ. Phần khác, tôi cũng cảm thấy phải nói một câu gì đó trong lúc này để đánh tan nỗi băn khoăn trong lòng:

                       - Anh đã tới Ban Mê Thuột bao giờ chưa?

                       - Chưa, đây là lần đầu tiên tôi tới xứ này.

                       - Tôi cũng vậy, trông cảnh vật xơ xác quá!

                        Anh bạn khẽ gật đầu và đáp lại bằng một lời giải thích:

                       - Trước lúc tụi nó vô Sài Gòn, có trận đánh lớn ở đây mà!

                    Tôi lại ngồi yên và qua câu nói của anh bạn. Tôi hồi tưởng lại hơn một năm trước đây, chiến cuộc vùng cao nguyên thật ác liệt, sau đó quân đội có lệnh “rút lui chiến thuật” khiến đồng bào hoảng sợ chạy tán loạn lánh nạn, tràn ngập xuống các tỉnh phía Nam. Thời gian đó, tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long và đã cùng với cha Phạm Hồng Sơn, Tuyên úy Tiểu Khu, tổ chức cuộc lạc quyên để cứu trợ làn sóng người trốn chạy giặc cộng từ vùng ngoài đổ về.

                    Vừa ra khỏi thị xã một đỗi, chiếc xe chạy giữa con đường mà hai bên là rừng cao su, một số cây lớn gãy đổ vì chiến tranh tàn phá và một số khá nhiều cây nhỏ đang được trồng lại, mới cao chừng quá đầu người. Qua rừng cao su, tới một khoảng đất trống khá rộng với một số nhà cửa thưa thớt. Nhìn về bên trái ở xa phía trước, tôi thấy mấy dãy nhà dài bằng gỗ lợp tôn nằm san sát bên nhau và đoán là khu trại giam, nơi mà chúng tôi sẽ tới. Sở dĩ tôi đoán như vậy vì hình thù các dãy nhà này trông khác hẳn với số nhà nằm rải rác hai bên đường cái.
                     

                    Điểm hẹn

                    Tôi đoán không lầm, chiếc xe đang ngon trớn từ từ giảm tốc độ, ra hiệu rẽ trái và bò vào con đường đất đỏ đầy cát bụi, nằm giữa hai ao nước to và đục ngầu. Cuối cùng dừng lại giữa cái sân khá rộng.

                    Bên một góc sân về phía trong, có vài căn nhà thấp lè tè bằng gỗ lợp tôn mà tôi đoán là khu văn phòng. Kế bên là cái chòi canh nằm phía dưới chiếc cổng bằng gỗ được dựng lên một cách sơ sài. Một anh lính Thượng, mặt mày đen đúa, đội mũ tai bèo, ôm súng ngồi trong chòi gác đang nhìn chòng chọc vào xe chúng tôi đậu cách đó không xa. Chừng mươi anh công-an, cả Thượng lẫn Kinh, đứng lố nhố trước cửa khu nhà, nói năng chỉ trỏ trong một tư thế sẵn sàng bắt tay vào việc.

                    Tôi cảm thấy tim mình đập nhanh từ lúc xe rẽ vào trại. Mặc dù tôi đã từng tập cho mình sự bình tĩnh trước mọi trường hợp, nhưng lúc này tim vẫn đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi có thói tự trấn an bằng câu nói: “Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo lắng làm gì khi không thể xoay chuyển được tình thế!” Dù vậy, trong lúc này tôi vẫn thấy hồi hộp, lo lắng. Sau khi xe tắt máy, chúng tôi được lệnh ngồi yên trong khi mấy anh công-an áp tải bước xuống mang giấy tờ vào văn phòng.  Một lúc sau, họ trở ra với hai người lạ mặt khác, một Kinh và một Thượng. Anh người Kinh khá đứng tuổi, chỉ huy toán công-an trong sân. Anh ta mặt xương, dáng gầy và cao, nói rặt giọng Bắc, mặc đồ công-an màu cứt ngựa cài cả nút cổ, đầu đội mũ có lưỡi trai nhỏ y như kiểu cách của Mao Trạch Đông mà tôi thấy hình trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Chính anh này ra lệnh chúng tôi xuống xe và ngồi vào một góc sân.

                    Bầu không khí lúc bấy giờ thật căng thẳng, nhất là khi nhìn thấy những cặp mắt trắng dã và láo liên của những anh lính Thượng mặt mày còn non choẹt, đứng bồng súng AK ngang trên tay trong tư thế chiến đấu. Nòng súng đang chĩa thẳng vào đám người chúng tôi một cách đầy ác cảm và đe dọa. Bộ dạng mấy anh Thượng cộng này toát ra một thứ gì đầy vẻ chết chóc. Khi nhìn họ, tôi chợt nhớ lại mấy cuốn phim cao bồi Mỹ nói về các tay mạo hiểm da trắng đi khai phá vùng viễn tây Hoa Kỳ, bị rơi vào tay thổ dân da đỏ. Đám thổ dân này mình quấn lá cây, đầu đội mũ có vắt lông chim, tay cầm cung lắp sẵn những mũi tên tẩm thuốc độc lúc nào cũng chực bay ra khỏi dây cung đang căng. Thật ra, những mũi tên tẩm thuốc độc của dân da đỏ không có vẻ “lạnh người” như những họng súng AK đen ngòm đang chỉa thẳng vào nhóm chúng tôi.

                    Sau khi tất cả đã xuống xe, họ ra lệnh cho chúng tôi để yên đồ đoàn tại một góc sân và “tay trong tay” bước ra ngồi thành hàng đôi cách đó vài ba thước. Cuộc khám xét bắt đầu. Lúc ấy vào quãng năm giờ chiều và trời cao nguyên đã bắt đầu xám xịt và có gió lạnh. Tôi hướng mắt nhìn vào trại, không thấy ai nhưng có tiếng hát tập thể thật to vọng ra từ các dãy nhà: “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng, vùng lên xông pha vượt qua bão bùng, thề cứu lấy nước nhà, thề...”. Về sau này tôi biết lúc đó là giờ sinh hoạt ban chiều của các tù nhân trong trại, và họ đang hát bài “Giải phóng miền Nam” mà lần đầu tôi được nghe.

                    Thêm một số cán bộ trong trại kéo ra. Đa số là người Thượng, có vài ba cán bộ nữ, tiếp tay với số công-an có sẵn trong sân kiểm tra đồ đoàn của chúng tôi. Khi một cán bộ tới bên túi xách của ai, người đó được tháo cùm bước tới đứng kế bên để làm thủ tục khám xét. Trong lúc ngồi chờ tới lượt mình, tôi nhìn trời nhìn đất chán rồi quay ra quan sát mấy chú Thượng cộng mặt mày búng còn ra sữa đang bồng súng đứng vây quanh.

                    Tên đứng gần tôi nhất coi bộ ngứa ngáy tay chân. Thỉnh thoảng anh ta di động ngón tay trỏ nhỏ xíu, và đen mốc như con giun đất, sờ vào cò súng, rà lên rà xuống theo chiều cong phía trong một cách nghịch ngợm quái ác. Tay trái anh nắm chặt cổ cây AK quét qua quét lại hết dãy tù nhân đang ngồi chồm hổm thành hai hàng dài trước mặt. Có lẽ trong cái đầu xẹp lép như trái dừa điếc của anh ta, giờ này đang ôn lại bài học tác xạ “chiến thuật chống biển người” và đang mong có ai trong chúng tôi tỏ một vẻ gì khác lạ để anh ta có dịp “thực tập” bài học đó. Nhìn thái độ đó, tôi đâm ra ngán, và nghĩ thầm:“Cái thằng ôn con này, không biết nó sử dụng súng ống có rành không đây? Không khéo rồi súng bị cướp cò mình lại chết oan lãng xẹt!” Nghĩ bụng như vậy, nên mỗi lần anh ta rà họng súng đúng tầm, tôi tìm cách nghiêng người né tránh.

                    Mặc dù tôi và mấy người chung vụ đã bị khám xét tả tơi chiều hôm qua, khi vừa mới bị bắt trên phần đất Campuchia và dẫn về quận Đức Lập để tạm giam. Nhưng cuộc khám xét hôm nay cũng gắt gao không kém, và họ tịch thu thêm một số đồ đạc, mà cuộc khám xét hôm qua còn chừa lại.
                     

                    Quận lỵ biên giới

                    Đức Lập là một quận nhỏ của tỉnh Quảng Đức, nằm cách biên giới Campuchia 30 cây số, và cách thị xã Ban Mê Thuột quảng 50 cây số. Từ sau ngày cộng-sản chiếm miền Nam, có nhiều người lên Đức Lập tìm đường vượt biên. Các nhóm nổi lên chống đối chế độ và lực lượng Fulro cũng dùng nơi này ẩn nấp để hoạt động.  Nhóm anh em chúng tôi cũng bị bắt trong trường hợp này khi chúng tôi đang ở trên phần đất của Campuchia. Do đó số người bị công-an, bộ đội bắt giữ tại đây mang nhiều thứ tội danh khác nhau như vượt biên, phản động, chống phá cách mạng, tàn dư Fulro. Cũng có một số tù hình sự, lưu manh trộm cắp và vài anh cán bộ hủ hóa cũng đang bị giam giữ nơi này. Đồn công-an biên phòng ở quận này biến thành một trại tạm giam và khi đủ một chuyến xe thì giải giao về tỉnh Ban Mê Thuột.

                    Thủ tục đầu tiên khi mới bị đưa về đồn công-an Đức Lập là khai lý lịch và khám xét đồ đạc. Tôi khai đúng lý lịch của mình và cho biết lý do tôi vào rừng là có ý định vượt biên, mặc dù tôi biết với những bằng chứng khi bắt giữ chúng tôi, họ không tin lời khai này. Sau lần khám xét sơ khởi, chúng tôi chỉ còn được giữ lại áo quần và một ít đồ dùng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải, thuốc lá... còn tiền bạc và các thứ có giá trị như vàng, đồng hồ, nữ trang, thuốc men đều phải gửi lưu ký:“Không phải lo, khi nào được tha về, cách mạng sẽ hoàn trả lại cho các anh”, nhóm công-an biên phòng phụ trách việc khám xét họ nói như thế.

                    Khách quan nhìn vào, ở Đức Lập họ làm ăn cũng cẩn thận và minh bạch, các đồ vật gửi lưu ký cũng có biên nhận hẳn hoi và được đọc lại cho đương sự nghe trước khi ký tên, nhưng nội dung của các tờ biên nhận đó mới là điều đáng nói. Trong số tù nhân bị khám xét chiều hôm qua tại Đức Lập, có một số người vượt biên bị bắt lại. Họ có khá nhiều đô-la, kim cương, vàng lá, nữ trang, đồng hồ, tất cả đều bị giữ lại và được ghi vào biên nhận như sau:

                    - Kim cương, trong giấy biên nhận ghi: “Có nhận (bao nhiêu) viên đá nhỏ màu trắng, chiếu sáng, có nhiều góc cạnh, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ”.

                    - Vàng lá, họ viết: “Có nhận (bao nhiêu) miếng kim loại màu vàng, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ.”

                    - Đồng hồ: “Có nhận một đồng hồ đeo tay hiệu..., màu..., bộ máy bên trong tốt xấu ra sao không rõ.”

                    - Tiền đô-la: “Có nhận (bao nhiêu) tiền giấy của Mỹ, thật giả không rõ.”

                    Các thứ khác cũng có đầy đủ biên nhận với lời lẽ như vậy. Riêng tôi cũng nhận được một tờ biên nhận cho cái đồng hồ Citizen với hàng chữ ghi:“Bộ máy bên trong tốt xấu ra sao không rõ!” Tôi giữ giấy đó và coi như một “vật kỷ niệm”, vì từ lúc tháo đồng hồ ra khỏi cổ tay để trao cho anh công-an, tôi chẳng hề mong có ngày gặp lại nó.

                    Lúc lên Ban Mê Thuột chúng tôi cũng bị khám xét, phần tôi đã xong và chỉ còn vài người nữa. Trời thật lạnh. Cái lạnh căm căm của núi rừng cao nguyên buổi chiều tà thấu vào da thịt! Tôi kéo cao cổ chiếc áo 'treillis' đang mặc trên người, móc bao thuốc lá 'President' nhèo nát trong túi ra mời anh bạn chung còng một điếu và tôi rút ra điếu cuối cùng. Tôi vò bao thuốc rỗng trong tay thành một viên bi tròn, búng về phía bờ ao, đánh diêm hút thuốc trong khi chờ đợi những màn tiếp theo.

                    Hơi thuốc lá làm tôi ấm và dễ chịu. Tôi rít thêm một hơi thuốc thật dài, ngửa mặt nhả khói lên bầu trời bao la và tự nhiên tôi mỉm cười. Cho tới lúc này tôi cũng không có dịp tìm hiểu xem lúc bấy giờ tại sao tôi lại nở một nụ cười thật tươi. Có lẽ một phần khói thuốc giúp tôi cảm thấy thư thái sau gần một ngày đi đường mệt nhọc và đầu óc căng thẳng, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là một nụ cười tự tin, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và quyết tâm lợi dụng tất cả mọi trường hợp thuận tiện để hoán cải số phận của mình.

                    Hút chưa tàn điếu thuốc, chúng tôi được lệnh xếp hàng đôi đi vào trại. Tôi búng mẫu thuốc còn cháy dở ra xa, cúi xuống nhặt chiếc ba-lô nhẹ hẫng chỉ có một áo len, một bộ quần áo, chút ít đồ dùng cá nhân và vài bao thuốc lá. Mang ba-lô lên vai, tôi bước theo đoàn người và đi ở gần cuối hàng. Nhìn bóng dáng ẩn hiện của số người trước mặt đang mệt nhọc lê bước trong màn đêm vừa chụp xuống, lòng tôi dâng lên một thứ cảm giác thật khó diễn tả bằng lời. Trong số tù nhân đang lầm lũi tiến bước này có cả đàn bà và trẻ con bị bắt vì tội vượt biên. Họ bị bắt trước tôi và hôm nay cùng tôi di chuyển chung trên chuyến xe. Thấy cảnh trẻ con kêu khóc đang bám vào tay mẹ lần bước vô tù, tôi đau xót nghĩ thầm:“Thế là tai họa giặc cộng vồ lấy dân tộc Việt như chiếc lưới khổng lồ được bổ xuống biển, chụp bắt cá lớn cá bé, không chừa loại nào.”
                     

                    Chim rẽ đàn

                    Vừa qua khỏi cổng trại được mấy bước, đoàn người bị chặn lại và được lệnh ngồi xuống chờ đợi trong khi một cán bộ nữ cầm quyển vở học trò ghi chép cái gì đó mà tôi đoán là họ phân chia chúng tôi vào các buồng. Trong khi chờ đợi, tôi nhìn vào trại trong bóng đêm chập chờn và một khung cảnh quái lạ hiện ra trước mắt, một khung cảnh chẳng có gì là hấp dẫn để diễn tả lại, nhưng là một hình ảnh tôi không sao quên được.

                    Trong bóng đêm, các dãy nhà giam đen lù lù nằm chấu đầu vào khoảng sân khá rộng chính giữa, trông như những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm ngay hàng thẳng lối trong một nghĩa trang thật rộng, có hàng rào kẽm gai vây quanh. Xa xa ở các góc nhà, một vài bóng điện tròn leo lét đang tỏa ánh sáng mờ nhạt trong màn sương đêm của núi rừng, trông như những nén hương được ai đó thắp lên để tưởng nhớ những con người xấu số đang nằm trong nhà mồ tập thể trải dài trước mắt tôi.

                    Một lúc sau, khi cô cán bộ đã ghi chép xong, chúng tôi được lệnh đứng lên và vẫn giữ hàng đôi tiếp tục đi dần vào trại. Thời tiết lạnh lúc bấy giờ làm tôi cảm thấy đói và mệt. Cả ngày nay chúng tôi chỉ được phát cho mỗi người một vắt cơm có rắc muối sẵn. Từ lúc lên xe cho tới giờ trời đã tối và chưa được ăn uống nghỉ ngơi gì, tôi chỉ mong vô trại cho nhanh để ngả lưng một chút và tìm gì ăn cho đỡ đói, và nếu được thì ngủ một giấc cho lại sức rồi mọi chuyện muốn ra sao thì ra.

                    Chỉ mới có mấy ngày qua mà bao nhiêu biến cố đã xảy ra làm thay đổi dòng đời và đưa dẫn tôi vào một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đời tôi đang bắt đầu một khúc quanh quan trọng. Tôi tự nhủ :“Chuyện gì phải đến, nó đã đến”, và tôi chuẩn bị tinh thần để sống quãng đời trước mắt, kiếp sống của một người tù. Tôi quyết tâm và tự hứa với lòng:“Mặc dù dòng đời đang thay đổi, môi trường sống thay đổi, nhưng con người Linh mục của tôi thì không.” Sáu năm qua trong chức vụ Linh mục, năm năm tôi làm bổn phận trong chế độ Cộng-hòa và một năm dưới chế độ Cộng-sản, dù hoàn cảnh hay thể chế nào, tôi cũng hết lòng làm tròn nhiệm vụ. Kể từ hôm nay tôi có dịp sống đời Linh mục trong ngục tù cộng-sản.
                    Tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc, mặc dù suốt hơn mười năm được huấn luyện trong chủng viện, tôi chưa bao giờ có được loại hành trang cho môi trường lao lý này. Biết rằng những thử thách lớn đang chờ đợi, nhưng tôi không lo lắng nhiều vì vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tin vào sự nâng đỡ và soi sáng của Đấng Thánh Linh. Ngài chính là sức mạnh của tôi.

                    Trong lúc đang lầm lũi bước vào trại giam, tôi âm thầm cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin nâng đỡ sự yếu hèn của con và dạy cho con biết phải sống như thế nào để xứng đáng là một chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em trong cuộc sống tù đày”. Lúc ấy tôi nhớ lại một câu trong Kinh Thánh: “Ơn Cha đủ cho con!” (2 Cor 12: 9). Tự nhiên tôi cảm thấy vững tin và hăng hái như tâm trạng của một nhà thám hiểm đang dấn thân vào một chân trời xa lạ và đầy bất trắc.
                    Tôi ngẩng đầu lên cao nhìn trời, hít một hơi thật dài và lạ lùng thay, lúc này làn khí mát lạnh lùa vào buồng phổi lại làm tôi khoan khoái dễ chịu. Màn đêm không còn mang vẻ u ám nặng nề như tôi thấy khi vừa bước qua cổng trại. Tôi lắc đôi vai, xốc lại chiếc ba-lô trên lưng và mạnh dạn bước đi bằng những bước đầy tự tin. Thình lình, tôi nghe một giọng nói khá to từ phía sau:

                       - Anh mang kính đó đứng lại!

                    Không biết chắc có phải gọi mình, vì tôi cũng không biết trong nhóm còn có ai mang kính ngoài tôi ra hay không. Dù vậy tôi cũng dừng bước quay lại hỏi:

                       - Anh muốn gọi tôi?

                        Anh công-an mặc đồ kiểu ‘Mao Trạch Đông’ lúc nãy, tay đang cầm quyển sổ trả lời:

                    - Phải, anh đứng lại, vào đây.

                    Vừa nói, anh ta vừa chỉ vào trại mộc ngổn ngang những gỗ lạt, nằm bên cánh trái sát ngay trong cổng trại, kế bên chòi gác. Tôi dừng chân, bước ra khỏi hàng và dưới ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện ở góc nhà, tôi còn kịp thấy nét mặt đầy lo lắng của các anh em chung vụ đang ngoái lại nhìn tôi một cách ái ngại. Theo lệnh anh công-an, tôi vào trại mộc và ngồi hờ trên một cái ghế bào. Anh ta đến bên bảo tôi:

                       - Anh ngồi đây đợi, không được ra khỏi nơi này, có cần gì thì báo cáo với cán bộ gác.

                        Nói xong anh ta bước ra theo đoàn người đi vào trại.
                     

                    Hạnh ngộ bất ngờ

                    Tôi ngồi trong láng mộc chờ khá lâu, có khi hàng tiếng đồng hồ rồi cũng nên. Cảm thấy lạnh, tôi mở ba-lô lấy áo len ra mặc vào người, móc bao thuốc lá mới ra, rút một điếu và liếc nhìn sang anh lính gác, thấy anh ta cũng đang theo dõi quan sát từng cử chỉ của tôi. Khi cho tay vào túi tìm bao diêm, tôi chợt nhớ lúc nãy tôi đã dùng que diêm cuối cùng. Ngậm điếu thuốc trên môi, tôi nhìn anh Thượng đang ngồi trong chòi gác, ra hiệu xin mồi lửa, anh ta ra hiệu trở lại là không có. Tôi đành kẹp điếu thuốc trong tay và chờ coi có ai đi qua để xin lửa. Cũng may, có anh cán bộ người Kinh đi vào, tôi bước ra xin mồi thuốc, sẵn dịp nói là tôi đang đói vì cả ngày nay chưa được ăn gì. Nghe vậy, anh hơi ngạc nhiên và dẫn tôi vào một dãy nhà giam nằm khá sâu về bên trong.

                    Khi anh ta mở cửa buồng giam, một cảnh tượng thật ồn ào hiện ra trước mắt tôi. Một số chừng năm, sáu chục tù nhân, người ngồi, người đứng, kẻ đi lại trong hành lang dài giữa buồng, hai bên là sạp nằm bằng gỗ có hai tầng. Người cán bộ hỏi buồng trưởng phần ăn của tôi, sau đó anh ta bỏ đi và bảo sau khi tôi ăn xong anh sẽ trở lại. Khi thấy có phần ăn để dành sẵn (một chén cơm và một bát nước canh), tôi hiểu ngay là đáng lẽ tôi vào buồng này, nhưng không hiểu vì lý do gì họ lại giữ tôi riêng, bảo chờ bên ngoài.

                    Lúc tôi đang ăn, các anh em tù vây quanh hỏi thăm và tôi không biết phải trả lời ai trước ai sau vì mọi người thi nhau hỏi! Sau khi trao đổi câu chuyện, tôi được biết đây là số sĩ quan cấp Úy trong tỉnh Ban Mê Thuột trình diện học tập. Họ hỏi tôi đủ mọi thứ chuyện, nhất là tin tức bên ngoài về các lực lượng chống chế độ, về phong trào vượt biên, về việc đánh tư sản v.v... Sau khi biết tôi là Linh mục, các anh em càng vui vẻ và ăn nói tự nhiên hơn, một số anh em Công giáo trong buồng tới ôm lấy tôi và xin chúc lành. Lợi dụng lúc cán bộ chưa trở lại, tôi nói mấy lời khích lệ tinh thần anh em và ý thức rằng tôi đang bắt đầu thi hành sứ mạng Linh mục trong tù. Cuộc gặp gỡ bất ngờ thật ngắn ngủi nhưng cảm động và nhiều ý nghĩa.

                    Một lúc sau, cán bộ trở lại buồng tìm tôi, nhưng không phải người lúc nãy dẫn tôi vào mà là anh mặc đồ “Mao Trạch Đông”. Anh ta đưa tôi trở lại trại mộc ngồi chờ một lúc nữa, có lẽ còn chờ đợi một người nào khác. Ngồi một mình buồn, tôi huýt sáo miệng theo điệu nhạc của bản thánh ca “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con...” Lời cầu nguyện trong bài thánh ca này làm tôi thấy an bình và tin tưởng. Tôi cứ nghiền ngẫm bài hát này một lúc thì thấy anh cán bộ dẫn tôi vào buồng cho ăn lúc nãy trở lại, có hai anh võ trang ôm súng AK theo sau. Chợt trông thấy họ tôi hơi lo ngại.

                    Anh cán bộ ra hiệu bảo tôi trở ra ngoài cổng trại. Ra tới nơi thấy có chiếc Land Rover chờ sẵn giữa sân, nơi mà chúng tôi bị lục soát ban chiều. Trên xe có chị đàn bà ngồi sẵn ở băng sau, tay ôm một sọt rau muống khá to. Tôi được lệnh lên xe ngồi chung băng với chị đàn bà, nhưng về phía trong, hai anh võ trang mang súng AK cũng lên xe, ngồi vào băng đối diện. Khi đã ổn định phía sau, anh “Mao Trạch Đông” đi vòng ra trước, lên ngồi cạnh tài xế và chiếc xe chuyển bánh chạy trở ra đường cái. Tới đầu đường xe rẽ phải hướng về thị xã, lúc đó tôi nhìn đồng hồ anh lính ngồi đối diện thấy đã mười giờ đêm. Đang lúc xe chạy, tôi sốt ruột nghĩ thầm:“Đêm hôm mà họ đưa mình đi đâu đây? Hay muốn thịt mình chăng?” Nhưng rồi nghĩ lại, nếu họ mang tôi đi bắn, sao lại có chị đàn bà và sọt rau muống trên xe làm gì?!
                     

                    Cái đêm hôm ấy đêm gì

                    Khi chiếc Land Rover rẽ vào thị xã, tôi cảm thấy an tâm. Nếu giờ này mà xe rẽ phải và chạy vào rừng cao su, có lẽ tôi phải ăn năn tội thêm một lần nữa! Chạy quanh co trong phố vắng một hồi, xe rẽ vào một con đường nhỏ, hai bên là bờ tường đá cao, cuối cùng quẹo trái và dừng lại trong sân một ngôi nhà gạch. Tôi biết đây là nhà tù của tỉnh Ban Mê Thuột vì phía sau là một bờ tường cao có hàng rào dây kẽm gai bên trên và hai cách cửa sắt đen lù lù chận lối ra vào. Anh “Mao Trạch Đông” xuống xe vào nhà.

                    Một lúc sau có người khác, mặc thường phục, vẻ mặt lầm lì, xách một chùm chìa khóa khổng lồ có tới mấy chục chiếc, bước ra. Anh ta gọi tôi xuống xe và ra lệnh theo tới bên cánh cửa sắt. Anh mở cổng bằng chiếc chìa khóa to tướng, đẩy tôi vào trước và bước theo sau. Anh ta khóa cửa lại và dẫn tôi đi vào một sân rộng và dài có hàng cây trồng chính giữa. Hai bên sân là những dãy nhà gạch thật kiên cố, nhà nọ nối đầu với nhà kia. Sau khi qua hai dãy nhà thì tới một phòng khá sâu vào trong, anh bảo tôi đứng đợi trước một phòng có cửa sắt được khóa bằng dây lòi tói thật to, bên ngoài có hai ống khóa đồng nằm cạnh nhau. Anh ta soi đèn bấm, lựa chìa khóa và bắt đầu mở cửa trong lúc tôi đang đứng bên cạnh, hơi dịch về phía sau. Lòng tôi lúc bấy giờ hồi hộp lo âu, không biết cái gì đang chờ đợi tôi đàng sau cánh cửa sắt đen sì ghê rợn này.

                    Anh cai ngục mở khóa bằng cử chỉ thật mạnh bạo, hung hãn. Dây lòi tói to tướng chạm vào cánh cửa sắt trong đêm tạo nên một thứ âm thanh ghê rợn, chói tai. Xong khóa thứ nhất, tới cái thứ hai, cuối cùng cánh cửa sắt được mở hé ra.

                    Nhìn nhanh vô trong, dưới ánh sáng đèn điện lờ mơ,ø tôi thấy một dãy màn mắc chằng chịt ngay trên sàn, kín cả căn buồng. Tôi còn đang do dự chưa biết phải làm gì, bất ngờ anh cai ngục quay lại túm cổ áo tôi, đẩy mạnh một phát chúi nhủi vào buồng. Bị mất đà và không kịp phản ứng, tôi té sấp, làm đứt dây sập cái màn ngay lối vào, tay tôi ôm chầm lấy con người đang nằm bên trong. Lúc ấy không biết nước ở đâu lại văng lên tung tóe làm ướt cả mặt mày tôi, đồng thời có tiếng cánh cửa sắt dập lại đánh “rầm” ngay sau lưng!

                    Bao nhiêu chuyện xảy ra cùng một lúc, quá nhanh và quá bất ngờ, khiến tôi không thể định thần được mình đang ở trong tư thế nào, làm đổ xô nước gì, của ai? Tiếng cánh cửa sắt bị xô mạnh kêu ầm trong đêm khuya thanh vắng, vang to đến nỗi tôi nghĩ rằng tù nhân ở các buồng bên cũng phải giật mình chớ đừng nói chi các anh đang ở buồng này. Đấy, bước chân đầu tiên của tôi vô nhà tù cộng-sản tại tỉnh lẻ cao nguyên Ban Mê Thuột nó “vang lừng” như thế đó!

                    Tôi lồm cồm bò dậy. Mặt mũi và một bên người bị ướt đẫm. Mắt kiếng bị dính nước làm cảnh vật trước mắt trở nên nhòe nhẹt. Tôi vội gỡ mắt kiếng ra và lau vào áo len đang mặc trên người. Cảm giác đầu tiên và rõ rệt nhất là mùi khai của nước tiểu xông lên nồng nặc. Thì ra tôi ngã làm đổ cái xô nước tiểu, ướt đẫm mình mẩy và làm nhầy nhụa mùng mền chiếu gối của anh em nằm gần cửa. Vì buồng này không có sạp nằm, các tù nhân phải trải chiếu xuống sàn, mắc màn nằm ngủ và tôi đã bị xô té, làm sập cái màn ngay cửa.

                    Nhờ trên trần có một bóng đèn điện tròn leo lét, tôi thấy đây là một buồng rất nhỏ, có hơn chục cái màn đủ màu đang mắc chen chúc nhau một cách vô trật tự, ra đến tận cửa sắt. Chỗ tôi đang đứng là vị trí của cái xô nước tiểu vừa bị tôi chụp đổ tung tóe. Cái xô nhựa màu xanh đầy cáu ghét đang nằm há mồm một cách giễu cợt, trên trốc cái màn tôi vừa đè bẹp.

                    Lạ một điều là tôi không thấy bóng dáng một anh tù nào, cũng chẳng nghe ai nói tiếng gì! Không lẽ họ ngủ mê tới nỗi những “sự cố” như sấm sét vừa xảy ra ngay bên tai mà họ không hay! Cả anh tù mà tôi ngã té sấp đè lên người mà cũng không hay biết gì ư? Rồi còn cái mùi a-mô-nhắc khai nồng nặc của nước tiểu đang chảy lênh láng trên sàn nhà? Không lẽ thần kinh khứu giác của mấy anh tù trong buồng này liệt hết rồi sao?

                    Một phút trôi qua, nhưng sao chẳng nghe động tĩnh gì! Dường như có cái gì bất thường đáng lo ngại trong cái sự yên lặng giả tạo này, hay đây là thứ yên lặng chết người của vùng trung tâm bão tố? Tôi đã từng nghe nói, và đọc thấy trong sách nữa, về việc mấy anh tù mới, khi vừa bước vô buồng phải “làm lễ ra mắt” với đại ca như thế nào, cảnh ma cũ bắt nạt ma mới trong tù ra sao! Riêng tôi lúc này chẳng những là “ma mới”, mà còn là một “ma-mới-làm-đổ-xô-nước-tiểu”, như vậy cầm chắc cái “lễ ra mắt” của tôi sẽ diễn ra một cách long trọng hơn! Tôi đang chờ đợi hậu quả tiếp theo, nhưng lạ quá, hơn một phút qua rồi mà mọi sự vẫn yên tĩnh, tự nhiên tôi cảm thấy mình phải làm một cái gì đó trong lúc này.

                    Tôi nhẹ nhàng cúi xuống, nhặt cái xô đặt vào sát góc phòng và lên tiếng nói to để cả buồng nghe:“Xin chào các bạn trong buồng, tôi mới bị bắt vô, có gì sai sót xin các bạn bỏ qua cho!” Nói xong tôi đứng chờ, vẫn không thấy động tĩnh gì, nhưng khi nhìn xuống, tôi để ý thấy con người nằm trong màn bị tôi đè lúc nãy bắt đầu cử động. Anh ta khẽ vén mí màn nhìn ra ngoài, nhưng không nhìn tôi mà lại nhìn lên phía trên cánh cửa sắt, nơi có hàng chấn song thẳng đứng. Tôi chợt hiểu ngay là tự nãy giờ anh ta giả vờ nằm yên đợi cán bộ đi rồi mới ra tay! Tôi định bụng lên tiếng xin lỗi vì đã làm sập cái màn và đổ nước tiểu tung tóe trên người anh ta. Nhưng chưa kịp mở miệng thì bất thần anh ta tung màn đứng bật dậy như cái lò xo, đôi cánh tay khuỳnh ra, hai bàn tay nắm chặt, quát to:

                       - ĐM! Cởi giày ra!

                    Tôi giật mình khi bất ngờ chạm trán với cái hình hài vạm vỡ, mình trần trùng trục, đầu cạo trọc nhẵn thín, có xâm trổ hình con rồng thật to trước ngực. Khi quát tôii:“ĐM! Cởi giày ra!”, anh ta nhăn mặt nghiến răng, để lộ hàm răng có một chiếc răng cửa bị gãy, làm cho bộ mặt anh ta trông thật “cô hồn”. Tôi biết mình đang lâm nguy với anh chàng này, nên nhẹ nhàng trả lời:

                       - Xin lỗi anh, tôi mới vô nên không biết.

                    Nói xong tôi cúi xuống cởi đôi giày thể thao đang mang, vừa nghĩ thầm:“Cái số mình thật mạt kiếp, chẳng ra gì! Té không đè ai khác, lại đè ngay tên cốt đột này cho nó to chuyện ra!”

                    Cởi giày xong, tôi ngước lên đã thấy mấy người nữa, phần nhiều trẻ tuổi, vạch màn chui ra đứng vây quanh, tất cả đều cởi trần, mặc quần đùi. Một anh lớn tuổi bò xuống chùi chỗ nước tiểu nhòe nhoẹt dưới sàn. Nhìn các anh em này, tôi không thấy vẻ gì hắc ám như tên trọc đầu, sún răng. Có lẽ họ vây quanh tôi vì hiếu kỳ muốn biết mặt một bạn tù mới hơn là có ý gì khác. Tên trọc đầu lúc này có vẽ bực dọc. Hắn sửa lại thế đứng, thành chân trước chân sau. Một tay gác sau mông, bàn tay kia nắm lại, giương ngón tay trỏ ra điểm mặt tôi, và bắt đầu đầu hạch hỏi bằng một giọng điệu đàn anh:

                       -Tội gì mà vào đây?

                        Tôi biết là “lễ ra mắt” đã tới giờ khai mạc! 

                        Vì không biết anh chàng cốt đột này thuộc dạng gì. Nếu hắn là một cán bộ hủ hóa bị tù,  mà tôi nói tội “chống chế độ” sẽ bị no đòn với hắn. Tôi chọn một tội danh vô thưởng vô phạt, nhưng rất phổ thông lúc bấy giờ:

                       - Tôi vượt biên bị bắt.

                       - Bị bắt bao lâu rồi?

                       - Mới ngày hôm qua.

                       - Bị bắt ở đâu?

                       - Ở quận Đức Lập và mới bị giải lên đây chiều nay.

                        Một anh khác, khá đứng tuổi hỏi chen vào:

                       - Anh quê quán ở đâu?

                        Thấy anh này hỏi thăm cách nhẹ nhàng và có cảm tình, tôi mừng thầm đáp lại:
                       - Tôi người miền Tây, tỉnh Vĩnh Long anh ạ.

                        Anh chàng trọc đầu nghe tôi nói thế, vội chen vào, hai tay chống nạnh ngang hông:

                       - Ở miền Tây mà lên tận đây vượt biên! Hay anh lên đây làm việc gì khác, nói thiệt đi? Ở đây không có gì phải sợ! Nói thiệt đi, anh lên đây làm gì?
                    Cái giọng anh chàng này y như của bọn công-an biên phòng Đức Lập ngày hôm qua, làm tôi phát nghi. Tôi tự nhủ hay là anh chàng này cũng là gốc cán bộ, phải cẩn thận mới được. Tôi liền đáp:

                       - Tôi lên đây vượt biên, chẳng làm gì khác.

                        Anh ta hỏi tiếp, giọng thắc mắc:

                       - Anh đi một mình à, còn vợ con anh đâu?

                       - Tôi không có vợ con.

                        Nghe câu này, anh ta lộ vẽ bất bình. Anh ta sửa lại thế đứng, trợn mắt, trề môi, nhe hàm răng sún ra, kề sát mặt tôi. Ngón tay trỏ anh ta chỉ vào mặt , gần đụng trán tôi. Anh ta gằn giọng, nói từng tiếng:

                       - Anh nói cái gì? Từng tuổi này mà chưa có vợ con?! Vậy ngoài xã hội anh làm nghề gì?

                       - Tôi là Linh mục Công giáo.

                        Vừa đáp xong câu ấy, tôi chợt thấy anh ta há hốc mồm, trợn tròn mắt đầy vẻ ngạc nhiên và bước lùi lại một chút. Anh đưa cả hai tay ra vội chụp lấy hai vai tôi và nói nhanh:

                       - Vậy, đây...đây... là cha hả?

                       - Vâng, tôi là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long.

                        Anh ta vội ôm lấy tôi, kêu lớn:

                       - Trời ơi! Cha, con xin lỗi cha, con không biết! Con là người Công giáo đây, con tên là Long, giáo dân xứ Hà Lan, cha có biết cha xứ Hà Lan không?

                       - Không, tôi không biết cha xứ Hà Lan, nhưng tôi biết Đức cha Nguyễn Huy Mai. Ở giáo phận Ban Mê Thuột này tôi chỉ biết mỗi cha Nguyễn Tiến Khẩu, vì ngài học chung với tôi mấy năm ở Đại chủng-viện Sài Gòn, cha Khẩu học sau tôi ba lớp.

                    Anh chàng vừa xưng tên là Long vui mừng ra mặt, quay vô phía trong gọi lớn:“Có cha Lễ ở Vĩnh Long mới vô tụi bây ơi”. Xong quay lại vui vẻ nói:

                       - Con biết cha Khẩu lắm, đám vinh qui cha Khẩu con có đi dự mà!

                    Chỉ trong giây lát mà tình thế đã thay đổi 180 độ! Chính tôi cũng không ngờ được sự việc lại xảy ra một cách may mắn như vậy! Các anh em khác bắt đầu xúm lại thăm tôi. Có vài anh nãy giờ nằm im, lúc này cũng vạch màn chui ra.
                    Long trọc đầu nhe răng sún cười khì khì, đỡ lấy cái ba lô trên vai tôi vừa nói:“Tối nay cha ngủ chung với con”. Nói xong anh ta lo thu xếp chỗ cho tôi và lấy nùi giẻ lau chỗ nước tiểu trên chiếu, trên sàn. Tôi còn mấy bao thuốc lá trong ba-lô, lấy ra xé mời các anh em trong buồng. Gặp ngày cuối tháng, cả buồng khô cạn thuốc lá vì ở đây mỗi tháng được thăm nuôi tiếp tế vào ngày đầu tháng, rớ được mấy bao thuốc lá lúc này chẳng khác chi trời đang hạn hán, gặp cơn mưa rào.

                    Gần chục anh em ngồi nấp sau màn, quây quần bên tôi vừa hút thuốc vừa rù rì nói chuyện, hỏi thăm tôi đủ thứ, vui như một ngày hội. Hỏi ra tôi biết trong buồng có 12 người, trong số đó bảy anh là Công giáo. Họ bị giam về đủ mọi thứ tội, chính trị cũng như hình sự. Long trọc đầu tội uống rượu say đánh bộ đội, đã ở tù gần sáu tháng rồi. Nằm sát vách bên trong còn có hai người Thượng chức vụ cao trong lực lượng Fulro: anh Y Tư là Tổng Trưởng Quốc Phòng, lúc ấy đang bị liệt nằm một chỗ và người kia trẻ hơn là Y Toái, Tham Mưu Trưởng Quân Đội của lực lượng Fulro. Hai người này không nói rành tiếng Việt.

                    Anh em kể, phòng này trước kia là thư viện, nên không có sạp nằm và không có nhà cầu. Mỗi ngày hai lần, sáng và chiều có mở cửa cho tù nhân ra bể cạn ở đầu nhà để tắm giặt, rửa chén bát và lo việc vệ sinh tại cầu tiêu tập thể gần nhà tắm. Ban đêm phải giải quyết tất cả mọi chuyện vệ sinh trong cái xô nhựa mà tôi làm đổ tung tóe lúc nãy! Cũng may, lúc đó chưa có ai đi đại tiện trong cái xô nhựa, chỉ có nước tiểu thôi. Chúng tôi quây quần hút thuốc, ai nấy vui vẻ quên cả sự đời. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất mà tôi có thể khẳng định:“Hút thuốc lá có lợi cho sức khỏe”!

                    Chúng tôi đang vui câu chuyện, chợt có tiếng cán bộ bên ngoài quát to bắt đi ngủ vì đã quá nửa đêm. Nghe tiếng quát, mọi người nín thinh và khẽ bò về chỗ của mình. Long nhẹ nhàng nằm xuống, tôi cũng nằm kế bên, chung trong một cái màn nhỏ và ướt đẫm nước tiểu đã được Long vắt đi và lau chùi. Chúng tôi nằm yên và chờ lúc cán bộ đi khỏi, tôi khẽ gọi Long ngồi lên đọc bài kinh ngắn trước khi ngủ. Đọc chung với tôi vài câu kinh xong, Long ghé tai tôi nói nhỏ có vẻ bẽn lẽn:“Đêm nay ngủ chung với cha, con đọc kinh, trước giờ con có kinh sách gì đâu!” Nói xong nhe răng cười và ngã người nằm xuống, nhưng không quên sửa lại cái ba-lô được cuộn tròn làm thành cái gối cho tôi gối đầu và hỏi tôi nằm như vậy có thoải mái không.

                    Một lúc sau  tôi đã nghe tiếng thở đều của Long. Phần tôi, cũng muốn dỗ giấc ngủ sau một ngày quá mệt nhọc và nhiều biến cố, nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Bên tai tôi tiếng thở của Long càng lúc càng mạnh, và sau cùng là tiếng ngáy đều đều. Tôi trở người, quay sang nhìn Long, tự nhiên tôi thương nó hết sức và nhớ lại lúc nãy trước khi cha con ngồi lên đọc mấy câu kinh, nó cứ luôn miệng xin lỗi tôi về thái độ của nó lúc chưa nhận biết tôi.
                     

                    Cơn sốt thời cuộc

                    Trong đêm khuya thanh vắng, tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến động của cuộc đời như đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng-sản, mặc dù mới một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước ngoặt quá lớn. Kể từ cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống trong một thứ nhà tù lớn, có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi vào một nhà tù nhỏ tại một tỉnh lẻ Cao Nguyên. Giờ này nằm đây, tôi nghĩ ngợi miên man và để mặc cho dòng tư tưởng quay về quá khứ.

                    Bất giác, tôi nhớ má tôi hết sức, đôi dòng nước mắt tôi chảy ra khi nhớ lại hơn tháng trước đây tôi rời nhà, ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, và cùng với anh bạn thân Linh mục này ra đi, trong lúc má tôi đang bệnh nặng. Nhưng lúc bấy giờ tôi không đủ can đảm quay lại nói lời từ giã. Bây giờ má tôi ra sao, nếu biết tôi lâm vào cảnh này liệu má tôi có chịu đựng nổi hay không.

                    Tôi hồi tưởng lại giai đoạn tôi được chỉ định qua làm cha sở tại Nhà thờ La Mã, đúng một tháng sau khi cộng-sản chiếm miền Nam. Mặc dù chỉ ở họ đạo này một năm, nhưng tôi cũng đã là chứng nhân và đồng thời cũng là nạn nhân của cơn sốt thời cuộc. Tôi đã chứng kiến và chịu đựng bao nhiêu cảnh nhố nhăng, gây ra bởi những hạng người mà dân chúng lúc bấy giờ gọi là “sâu bọ hóa kiếp làm người”.

                    Những con “sâu bọ hóa kiếp làm người” này đang ngất ngây vì say men chiến thắng. Sẵn có quyền lực trong tay, họ làm mưa làm gió, hết trò này tới trò khác. Họ đã hành xử quyền lực một cách thái quá, gây bao nhiêu thán oán trong dân chúng. Tôi còn nhớ lúc đó, mỗi buổi sáng tôi thấy cô trưởng ấp của tôi, người nhỏ thó, ốm tong teo như con nhái mén, tay cầm roi tre đang “lùa” một tốp chừng 10 nghĩa quân chế độ cũ đi tới từng nhà của “cách mạng”, bắt quỳ gối trước cửa lạy từng người trong nhà để xin lỗi. Anh nào ương ngạnh không chịu quỳ, là roi tre từ sau bổ tới! Màn kịch này được diễn đi diễn lại khá thường xuyên.

                    Bản thân tôi cũng hứng chịu bao cảnh uất ức nói không nên lời. Tôi còn nhớ một buổi trưa nọ, có một tốp du kích đi ngang qua nhà thờ xứ đạo của tôi. Vài tên dừng chân trước núi Đức Mẹ trước nhà thờ, chế giễu và nói những lời lộng ngôn phạm thượng. Sau khi tôi ngăn can, bọn chúng tức khí vào nhà thờ lật các ảnh tượng xuống, đặt ghế lên đầu các tượng thờ phượng. Tôi bảo thầy Đảm là thầy giúp xứ của tôi xuống xã trình báo sự việc, nhưng bọn du kích đã rượt đánh và thầy giúp xứ phải trốn chạy thoát thân. Hôm sau tôi làm đơn khiếu nại lên huyện và được trả lời: “Vì các đồng chí ấy say rượu!” Thế là hết chuyện!

                    Thời điểm đó, cơn sốt cách mạng dâng lên quá cao khiến cho nhiều người tự thấy mình cũng phải “cách mạng”. Cách mạng trong lối ăn nói, bằng cách dùng thật nhiều từ cách mạng như “Mỹ-ngụy, đảng ta, khẩn trương, phản ảnh, tự giác, ý đồ...” Cách mạng trong lối ăn mặc, bằng việc mua vội chiếc mũ tai bèo, một đôi dép râu, một bộ quần áo đen bằng vải nylon dầu, một khăn rằn quấn cổ, một cái xà-cột đeo vai. Cách mạng văn hóa bằng cách hát rỉ rả như dế kêu các bản nhạc thời thượng như bài “Chiếc mũ tai bèo”: “Chiếc mũ tai bèo em gửi đến tay, khuya sớm em lo máy may càng nhanh, mối chỉ đường kim theo anh đi giết thù. Anh bộ đội ơi, em ngồi em may mà lòng miền Nam trong tim lửa cháy, có cả tình quê trong chiếc mũ tai bèo!” Hoặc “cao cấp” hơn một chút thì rên rỉ bài “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”: “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Trường Sơn Tây anh đi, thương em bên ấy mưa nhiều, con đường mà gánh gạo...”Vì nghe đi nghe lại nhiều lần nên tôi cũng thuộc các bài hát này, mặc dù không chắc là thuộc đúng từng lời.

                    Tình cảnh càng tệ hại hơn do thái độ gièm pha của những kẻ xu nịnh, đã lợi dụng thời cơ để nương gió phất cờ. Chúng đã hiện nguyên hình là những quái thai của thời cuộc. Dân chúng gọi bọn này bằng cái tên đầy mỉa mai là “Cách mạng ba mươi”! Ý muốn nói là bọn này  chỉ “cách mạng” từ ngày 30 tháng 4.  Chính bọn cách mạng “ ba mươi” này đôi khi còn ác ôn hơn đám Việt cộng có “môn bài”! Chúng lợi dụng thời cơ gây ra không biết bao nhiêu uất ức trong dân chúng. Để chứng tỏ thái độ cách mạng của mình, chúng đã biểu diễn nhiều trò quá đáng gây bao đau thương, phẫn uất cho người dân vô tội. Từ đó nỗi bực tức của người dân, đã phát ra thành câu ca dao đen của thời cuộc:

                    “Việt cộng đứa giết đứa chừa,
                    “ Ba mươi” giết sạch cho vừa lòng dân”!

                    Điều đáng buồn hơn nữa, là ngay trong hàng ngũ các Linh mục lúc bấy giờ cũng có người nhi nha nhi nhô với cái “tước vị” trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo của Việt cộng dựng lên. Họ đâu có biết rằng, đây là thứ con đẻ của chế độ mới, một chế độ theo chủ thuyết vô thần, muốn lợi dụng chính những người trong hàng ngũ các tôn giáo để gây chia rẽ rồi đi đến khống chế và làm tê liệt hoạt động của các tôn giáo. Các đại diện trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo được ban phát cho một vài đặc quyền đặc lợi, và có người đã cảm thấy hãnh diện để khoe khoang về điều này. Tôi còn nhớ câu chuyện đã xảy ra cho chính bản thân tôi và khó quên được.

                    Lúc đó vào khoảng trước lễ Giáng Sinh 1975, và tôi vừa qua làm việc ở tỉnh Bến Tre được sáu tháng. Ngày kia, một cha bạn xứ đạo gần bên mời tôi tới dự tiệc cưới của cô cháu gái được tổ chức ngay tại nhà xứ. Mặc dù hai xứ đạo chỉ cách nhau có sáu cây số, nhưng vì khác xã và ở lại qua đêm nên tôi phải làm đơn xin phép đi đường. Đơn phải có trưởng ấp chứng trước rồi xã mới ký sau. Khổ nỗi, ngày đó cô trưởng ấp của tôi đi bán dừa khô mãi xế chiều mới về, tôi chờ chực mãi rồi cuối cùng cũng xin được chữ ký của cô. Lúc đó đã bốn giờ chiều, tôi vội vàng chạy xuống xã vì sợ trễ giờ công sở đóng cửa. Cũng may là gặp ngay được ông chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã kịp lúc nên xin đóng dấu ký tên vào đơn không khó khăn gì lắm.

                    Cầm được giấy phép đi đường trong tay thì đã gần năm giờ chiều, mà tiệc cưới thì bắt đầu lúc bảy giờ tối hôm đó, như vậy tôi còn được hai tiếng đồng hồ. Nhưng trong hai tiếng đồng hồ đó, tôi còn hai việc phải làm, là cuốc bộ sáu cây số và khi tới nơi, phải trình giấy đi đường cho chính quyền địa phương sở tại đóng dấu ký tên vào, rồi mới có thể an tâm vô nhà xứ dự tiệc cưới. Tôi phải làm cho đủ mọi thủ tục này vì ngày hôm sau, khi về nhà tôi lại phải trình diện một lần nữa với chánh quyền xã với đầy đủ bằng chứng là đêm qua tôi đã ở đâu, có đúng địa điểm như tôi đã ghi trong đơn xin đi đường hay không.

                    Sở dĩ tôi phải lội bộ vì trước đó mấy hôm chiếc Honda 70 của tôi hết xăng và không thể tìm mua được xăng. Sẵn có dầu lửa, tôi đổ vào xe chạy thử vì có người nói xe Honda chạy “tạm” bằng dầu lửa cũng được, chỉ tội là ra nhiều khói đen và 'bu-dzi' hay bị đóng chấu. Tuy không an tâm, nhưng mua không được xăng thì phải đổ dầu lửa vào chạy chớ biết làm gì hơn? Đổ dầu vào, đạp xe máy nổ ngon lành, có lẽ nhờ chỗ xăng còn sót lại. Tôi chạy được vài cây số, nhưng xe bắn khói đen mù mịt và cứ cà giựt, cà giựt với tiếng máy rống ò ò như tiếng bò bị cắt tiết! Lúc ấy tôi nghĩ bụng:“Mầy muốn gào muốn thét kiểu gì cũng được, miễn cứ chạy cho tao là được rồi!” Một lúc sau, bất thần tôi nghe khịt khịt mấy tiếng và xe yếu dần. Tôi cố vặn tay ga, làm chiếc xe nẩy lên nẩy xuống mấy phát như người trúng phong đòn gánh, rồi im lìm bất động.

                    Tôi dựng xe lên và cố lôi hết bao nhiêu kiến thức tôi biết về xe Honda như chùi 'bu-dzi', đóng mở chắn gió. Tôi hì hục hàng giờ mà máy vẫn không nổ, chỉ còn nước đẩy xe về nhà dựng vào một xó sau khi đã cẩn thận rút hết dầu lửa ra. Ngày hôm sau, tôi mượn được một xị xăng đổ vào và cùng với một thanh niên đệ tử, hai cha con thay nhau đạp toát cả mồ hôi. Chiếc xe tội nghiệp vẫn cứ trơ ra, nằm yên bất động, tôi bảo:“Thôi cứ tạm thời đi bộ đã con ạ, chờ có dịp mua được xăng hãy sửa xe luôn thể.”Từ ngày đó tôi bắt đầu cuốc bộ!

                    Sau một tiếng rưỡi đồng hồ rảo bước, tôi tới nơi thì trời đã chạng vạng tối. Tôi vội vào nhà ông Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã địa phương để trình giấy đi đường. Mặc dù biết rằng ông không có con dấu ở nhà nhưng chỉ cần ông ký tên, hoặc biết là tôi có tới trình diện là đủ vì tôi không muốn để một sự rắc rối nào xảy ra, sau khi tôi đã gặp quá nhiều khó khăn với địa phương nơi tôi sinh sống. Trước đó bốn tháng có người em từ Vĩnh Long qua thăm tôi, vì quá hạn giấy phép đi đường trễ một ngày mà bị bắt và còn đang bị giam tại huyện Giồng Trôm vì bị tình nghi là CIA. Tôi cũng biết rất rõ là tôi đang bị canh chừng và theo dõi từng bước đi.

                    Tôi vào tới nhà xứ su khi tiệc đã bắt đầu được một lúc. Có khoảng 50 khách đang ngồi kín căn phòng chánh của nhà xứ. Vị Linh mục chủ nhà và những người quen mừng rỡ đón tiếp tôi. Sau khi bắt tay chào hỏi, tôi ngồi vào bàn với một số các Linh mục trẻ cùng trang lứa và vài ba giáo dân mà tôi quen biết. Những giáo dân này là những tay chịu chơi, uống rượu đế như hũ chìm. Cha  sở chủ nhà ngồi chung với vài ba người trong chánh quyền địa phương ở bàn giữa, cách bàn tôi khá xa.

                    Ngồi chung bàn với tôi có linh mục NVL, một thời học chung với tôi ở Tiểu chủng-viện Vĩnh Long, lúc đó là cha sở của một họ đạo nhỏ cách đấy vài ba cây số.  Linh mục NVL là con người thích khoa trương, hay khoác lác về tất cả mọi vấn đề. Tôi chưa hề thấy bất cứ một phạm vi nào khi có ai đề cập tới mà anh chịu đứng thứ nhì hoặc thứ ba bao giờ. Cứ phải là nhất! Bởi đó, tuy dù là bạn học nhưng sau này không mấy khi tôi tiếp xúc, gần gũi, nói rõ hơn là tôi không chịu được tính nết khoa trương của anh ta.

                    Anh về làm việc trong tỉnh Bến Tre từ năm 1973, còn tôi mới đổi về đó sau ngày  mất miền Nam, nên vị trí thế đứng và sự quen lớn với người dân trong vùng có khác nhau. Hầu hết những người làm việc trong chánh quyền mới ở địa phương này đều quen biết NVL, trong khi đó tôi mới chân ướt chân ráo tới nhận họ đạo, chưa quen biết nhiều, lại còn bị tình nghi là CIA và bị chính quyền địa phương tìm cách gây khó dễ, cho người rình rập theo dõi ngày đêm.

                    Lúc bấy giờ trong tỉnh Bến Tre có một số Linh mục và tu sĩ Công giáo được mời vào Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo. Linh mục NVL cũng được mời tham gia, nhưng anh không giữ chức vụ gì quan trọng, chỉ là một thành viên tầm thường. Dù vậy Linh mục NVL cũng lấy làm hãnh diện và thích khoe khoang về những lần đi họp ở tỉnh được ở khách sạn loại sang, được ăn ngon, thức ăn đặt từ nhà hàng mang tới. Anh ta lộ vẻ hân hoan ra mặt vì có được một chỗ đứng trong chánh quyền mới, trong khi tại một vài nơi khác,  cộng sản đang lùng bắt, áp chế, làm khó làm dễ đủ điều các Linh mục “phản động” và những giáo dân ương ngạnh, chống đối hoặc bất hợp tác với chế độ. Tối hôm ấy Linh mục NVL đang ngồi đối diện với tôi trong bàn tiệc.

                    Thức ăn ngon và bầu khí vui vẻ làm tôi quên mệt nhọc. Vừa ăn được một chập thì cha Thạnh, ngồi bên cạnh, hỏi tôi tại sao tới muộn. Tôi gác đũa, vui vẻ kể lại diễn tiến thủ tục xin phép đi đường, vụ chiếc Honda “ngộ độc” đang nằm nhà khiến tôi phải cuốc bộ và khi tới đây còn phải ghé vô nhà ông chủ tịch trình giấy tờ để tránh mọi chuyện phiền hà rắc rối v.v... Tất cả mọi người trong bàn tỏ ra hào hứng vui vẻ lắng nghe và lộ vẻ cảm thông với hoàn cảnh tôi đang bị “đì” trên họ đạo La Mã.

                    Lúc tôi đang nói nửa chừng, NVL vội khoa tay “cướp diễn đàn” bằng một giọng mỉa mai châm chọc:“Trời! Ông La Mã sướng thiệt! Đi đâu cũng có giấy đi đường đóng dấu ký tên đàng hoàng! Còn mình á hả? (quơ tay) Hổng ai chịu cho mình miếng giấy nào. Mỗi lần mình muốn xin giấy đi đường thì mấy anh em trong Ủy Ban nói, (khoác tay) ‘Thôi đi cha ơi, cha đi đâu thì đi, ở đây ai không biết cha mà phải giấy với tờ, giấy tờ là những người khác kìa!’

                         Anh ta có vẻ cao hứng, chỉ mặt tôi nói tiếp:

                    - Này, tôi ghen với ông La Mã đấy nhé! Hì...hì...

                    Những người cùng bàn nhếch mép cười gượng gạo trước câu nói khoa trương có tính cách châm biếm này. Còn tôi, vốn rất nhạy cảm với tánh khoác lác của anh ta, nên lúc đầu nghe nóng ở gáy, sau đó thấy nóng mặt và hình như biết mình muốn phản ứng một cách quyết liệt. Nhưng tôi vội kềm hãm, bình tĩnh và nghiêm nét mặt trả lời:

                    - Anh L. à! Hoàn cảnh anh khác, tôi khác. Anh nói lên những lời đó ở đây làm gì?

                    Cha Thạnh ngồi kế bên tôi, dùng đầu gối thúc nhẹ vào chân tôi, ý bảo đừng thèm để ý, cứ nhịn đi cho xong chuyện. Tôi hiểu ý Thạnh, (và cũng nhớ có mấy người trong chánh quyền đang có mặt!), tôi cầm đũa vừa gắp thức ăn vừa nói một cách vui vẻ:“Thôi xin lỗi quý vị, phỏng vấn để lúc khác, giờ cho ăn cái đã, vừa lội bộ hơn tiếng đồng hồ, đang đói mềm người đây!”

                    Anh em ngồi chung bàn cười ồ sau câu nói giải thoát của tôi và mọi người cầm ly, cầm đũa lên. Nhưng Linh mục NVL chưa chịu buông tha. Khi nghe tôi nhắc tới đi bộ, dây thần kinh “khoác lác” của anh ta lại bị chạm lần nữa, bèn vung tay nói lớn: “Còn xăng ấy hả, trong nhà mình không đủ thùng mà chứa! Tiêu chuẩn mì ăn liền, bột ngọt, xà bông bột cũng vậy, mình xài không hết còn cho người khác! Chiếc Honda 90 phân khối của mình chạy không biết tới bao giờ mới hết xăng. Mấy anh trên Ủy ban nói mình chứa xăng làm gì cho nguy hiểm, coi chừng có ngày cháy nhà thờ, lúc nào cần thì lên cơ quan mà đổ. Mình cũng mong cho nó hết xăng, có dịp đi bộ cho nó khỏe người! Hì...hì...”

                    Đến đây, tôi không còn kềm chế được nữa! Bằng một phản ứng tự nhiên và nhanh như đòng điện, tôi buông vội đũa xuống, trợn mắt và hai tay nắm khăn trải bàn ăn giật mạnh một phát làm đổ vài ly rượu. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, nói rít qua hai hàm răng cắn chặt, vì ngại những người ở các bàn bên nghe thấy:“Câm mẹ cái giọng khốn nạn của anh lại đi!” Thạnh vội vàng ghì lấy tay tôi trong khi thực khách trên bàn lo chụp mấy cái ly ngã nghiêng. Có vài ly rượu đổ tung tóe.

                    Tôi cảm thấy choáng váng và mệt lả người sau câu nói đó. Tôi vội kéo ghế đứng lên, xin lỗi các người trong bàn ăn và bước ra ngoài. Có người nào bên cạnh cầm tay giữ tôi ở lại, nhưng tôi quyết định ra ngoài. Vừa xoay người bước đi tôi còn nghe tiếng cha Thạnh ở phía sau trách NVL: “L., mầy không thấy thằng Lễ nó đã quá khổ rồi sao mà còn hành hạ nó nữa?” Tôi cho rằng đây cũng là một hiện tượng quái thai của thời cuộc, và nếu trong tiệc cưới đó không có mặt mấy người trong chánh quyền , có lẽ câu chuyện còn đi xa hơn.
                     

                    Trò hề thế sự

                    Tôi không thể nhớ hết được cảnh chướng tai gai mắt của thời buổi nhiễu nhương lúc bấy giờ. Tuy nhiên một vài sự việc gây ấn tượng mạnh thì tôi không thể quên được, như câu chuyện về cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu tiên vào tháng Tư năm 1976 sau đây.

                    Trước ngày bầu cử, ai từ 18 tuổi trở lên được cấp phát thẻ cử tri như các cuộc bầu cử thông thường khác. Điều bất thường là các cử tri được chia ra thành từng tổ, mỗi tổ 12 người và có một tổ trưởng đứng đầu để lo việc điều hành và kiểm soát các tổ viên. Tiếp theo là giai đoạn học tập bầu cử. Các tổ trưởng phải lo điểm danh và bảo đảm đủ số 12 người đến dự các buổi học tập được tổ chức trong trường học nằm ngay trước nhà thờ xứ đạo của tôi. Cán bộ ở tỉnh về lo tổ chức các lớp học tập bầu cử. Nội dung bài học cũng ngắn gọn và dễ hiểu. Sau khi giảng giải về tầm quan trọng của cuộc bầu cử Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu tiên, cán bộ viết lên bảng tên của các ứng cử viên trong tỉnh Bến Tre.
                    Nếu tôi nhớ không lầm thì có cả thảy trên dưới 10 ứng cử viên và trước các tên có đánh số thứ tự 1,2,3,4... Cán bộ giảng dạy cho biết sẽ loại bỏ 2 người “đúng theo thể thức bầu cử dân chủ”. Cán bộ giải thích như thế. Sau đó cán bộ bầu cử tay cầm lá phiếu mẫu giơ lên cao cho mọi người thấy và lớn tiếng “dạy” tiếp: “Trước khi bước vô buồng kín để bầu, bà con ta sẽ được phát lá phiếu y như lá phiếu này (cầm hai tay đưa lên cao và xoay qua xoay lại). Trong buồng kín có sẵn bút bi và thước kẻ, bà con chỉ việc gạch ngang tên hai người cuối cùng như thế này (làm thử), xong gập lá phiếu làm đôi như thế này (làm thử), sau đó bước ra khỏi buồng, đến bên thùng phiếu, giơ cao lá phiếu của mình lên và bỏ vào thùng như thế này (làm thử). Đơn giản chỉ có vậy thôi, bà con nắm cả chưa? Có ai còn muốn hỏi gì không?"

                        Từ cuối lớp có tiếng người đàn bà:

                       - Tôi có thắc mắc xin hỏi. Gạch bỏ số nào cũng được hay phải bỏ hai số cuối cùng?

                        Cán bộ bầu cử trợn mắt đáp vội:

                       - Tôi đã bảo là bà con gạch bỏ tên hai người cuối cùng như tôi đã biểu diễn, chị không nghe kịp hay là chị có ý đồ gì?

                        Tuy bị chụp mũ là “có ý đồ” một cách bất ngờ, nhưng chị đàn bà này cũng không phải tay vừa, chắc cũng là hạng “mẹ chiến sĩ”, bà ta phản pháo:

                       - Ý đồ gì? Không hiểu thì tôi hỏi, tại sao phải gạch bỏ tên hai người cuối cùng mà không thể gạch tên người khác?

                        Anh cán bộ lộ vẻ bất bình:

                       - Đó là chỉ thị của “trên”, bà con cứ thế mà thi hành, không phải thắc mắc lôi thôi. Bà con ta hãy tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đầy sáng tạo của đảng.

                    Nghe tới tiếng “đảng”, người đàn bà từ từ ngồi xuống. Cả lớp trở nên yên lặng như tờ, con ruồi bay ngang cũng nghe được. Cuối cùng anh cán bộ đánh tan bầu khí nặng nề bằng câu nói dõng dạc:“Bây giờ tới phần thực tập, bà con từng người một lên cầm phấn và thước kẻ đây thực tập bầu phiếu”. Mấy chục cử tri trong lớp lần lượt tiến lên “thực tập” bầu cử. Từng người một cầm thước kẻ và phấn gạch ngang tên hai người cuối cùng đúng như lời “dạy” của anh cán bộ, xong trở về chỗ ngồi.

                    Tôi ngồi giữa lớp lặng yên theo dõi màn hài kịch này ngay từ đầu, trong lòng đầy ngao ngán và uất hận cho cái trò hề của chế độ. Nhưng đó là một thực tế của thời cuộc, còn biết bao nhiêu thứ trò hề khác mà dù muốn dù không, trong hoàn cảnh đó người dân cũng phải chấp nhận. Tới lượt tôi lên thực tập, khi cầm lấy cây thước và cục phấn vào tay, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình và với những người đang có mặt, cũng như xót xa cho hoàn cảnh của đất nước. Dưới chế độ này, người dân bị tước hết mọi thứ quyền, kể cả quyền được “thắc mắc”. Chế độ cộng-sản cố biến toàn dân trở thành một thứ ngựa kéo xe bị che hai bên mắt, cứ phải đường thẳng mà đi theo sự điều khiển của người đánh xe đang cầm roi ngồi phía sau. Và đừng quên là tên xà-ích ác ôn này, cũng rất nhuần nhuyễn trong việc sửa trị các con ngựa chứng bất kham!

                    Cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6 diễn ra vào sáng Chủ nhật 25-4-1976. Từ lúc tờ mờ sáng, tiếng loa đã kêu gọi inh ỏi để thúc giục đồng bào lo đi bầu. Các cử tri có mang thẻ trước ngực ghi tên, số thứ tự của mình và tên của tổ, đứng xếp thành hàng một dọc theo con đường đất bên hông nhà thờ cho tổ trưởng điểm danh. Có đội múa lân đứng đầu, theo sau là đội thiếu nhi “Cháu Ngoan Bác Hồ” cầm cờ xanh cờ đỏ, một số khác khua trống gióng chiêng, tạo nên bầu khí tưng bừng của một ngày hội lớn. Sau khi các tổ điểm danh xong và bảo đảm không còn sót người nào, chúng tôi được lệnh tiến bước, vẫn giữ hàng một theo thứ tự từng tổ. Các tổ trưởng tay cầm một bảng con dẫn đầu. Lúc này mặt trời đã lên khỏi ngọn cây.

                    Đoàn người chậm rãi tiến bước theo sau đám múa lân, trông như một con rắn khổng lồ, đầu có sừng, đang bò ngoằn ngoèo dọc theo con đê dài hàng mấy cây số để tới địa điểm bầu phiếu. Sau khi đi gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tới nơi. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy phòng phiếu được tổ chức ngay bên trong nhà thờ họ lẻ của tôi mà tôi không hề hay biết gì!

                    Trước khi bước vào “nhà thờ”, các tổ phải chỉnh đốn hàng ngũ lại một lần nữa cho tổ trưởng điểm danh bảo đảm đủ số 12 người. Sau đó tổ trưởng lần lượt gọi tên từng người theo số thứ tự 1,2,3,4,... tiến tới các bàn trình thẻ cử tri, lãnh phiếu bầu và bước vào buồng kín bên cạnh.

                    Tôi bước vào buồng kín như một cái máy, tay cầm lá phiếu bầu có tên của các ứng cử viên được xếp theo thứ tự mà tôi đã được “học tập” phải làm như thế nào. Vô buồng kín, đặt lá phiếu xuống mặt bàn cạnh bên cái thước kẻ và cây bút bi, tôi bỗng thấy cơn bực tức dâng lên ngùn ngụt, và muốn nhân cơ hội này bày tỏ một thái độ phản kháng bằng một hình thức nào đó với lá phiếu đang nằm trước mặt.

                    Trong lá phiếu, các con số đứng trước những cái tên hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Duy chỉ có tên của Thiếu tướng Đồng Văn Cống, nằm ở số 5 hay số 6 gì đó là tôi có nghe qua, vì ông xuất thân từ xã Hiệp Hưng này. Có vài người biết chuyện về ông kể lại. Lúc còn nhỏ con nhà nghèo, Cống đi ở đợ chăn trâu cho người trong làng, nhờ to con lớn xác và đá banh giỏi nên đám trẻ chăn trâu nể nang và coi như đại ca. Lớn lên Đồng Văn Cống theo Việt Minh, tập kết ra Bắc và trở về miền Nam vào năm 1975 với cấp bậc thiếu tướng và được bổ làm Tư Lệnh Quân Khu 7. Từ đó Đồng Văn Cống trở thành niềm vinh dự cho bà con dòng họ còn đang sống tại đây và cả dân chúng xã Hiệp Hưng này nữa.

                    Ngoài ông Cống, mà tôi nghe biết chút ít, còn các người kia tôi hoàn toàn mù tịt, nhưng tôi biết tất cả đều là người của đảng Cộng-sản đưa ra. Lúc đầu vì quá phẫn uất, tôi định bụng là viết chữ “trò hề” và gạch chéo trên lá phiếu rồi cho vào thùng, nhưng biết là không ổn vì bọn họ sẽ điều tra ra ngay lá phiếu của ai. Một cách phản kháng khác là gạch một số tên nào đó không phải tên hai người cuối cùng như tên cán bộ đã bảo, hoặc bỏ phiếu trắng vào thùng.

                    Nhưng cuối cùng tôi bỏ ý định, vì biết rằng lúc bấy giờ tôi là cái đích cho họ theo dõi và quan sát, vả lại cho dù tôi có bỏ phiếu cách gì đi nữa thì kết quả cuộc bầu cử này cũng đã được ấn định trước rồi, chống đối trong chuyện nhỏ mọn này chỉ tội thiệt thân.  Nghĩ như vậy, nên tôi cúi xuống gạch ngang hai tên cuối cùng rồi gập đôi lá phiếu bước ra khỏi buồng bỏ vào thùng phiếu bên ngoài, tự nhiên cảm thấy con người mình hèn đi vì cử chỉ này. Khi cho lá phiếu vào thùng, tôi tự an ủi và tha thứ cho mình với ý nghĩ:“Tên nào có đắc cử thì cũng là một lũ Việt cộng, suy nghĩ làm gì”.

                    Lần đó ấp 6 trong xã Hiệp Hưng của tôi được tuyên dương là ấp bầu cử gương mẫu với 100% cử tri đi bầu. Các tân Đại Biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre đắc cử với 99% số phiếu. Thật là một cuộc bầu phiếu “dân chủ” thành công tốt đẹp chưa từng có! Nhưng chuyện bầu cử chưa chấm dứt ở đây.

                    Tuần lễ sau, trong ấp tôi có 13 cử tri bị gọi lên cơ quan làm việc, trong số đó có anh thanh niên đệ tử của tôi. Lúc trở về anh ta thuật lại, 13 người này bị ông chủ tịch xã hạch hỏi tại sao đã được học tập kỹ lưỡng rồi mà còn bầu cử sai qui cách, không chấp hành chỉ thị của “trên”? Không gạch tên hai người cuối cùng mà lại gạch càn qua các tên khác? Muốn phá hoại cuộc bầu cử hay có ý đồ gì? Sau khi nạt nộ quát tháo một hồi, ông ra hình phạt mỗi người ba ngày công, mang gạo theo đi đào thủy lợi. Vị đại diện chánh quyền kết luận: “Vì đây là vi phạm lần đầu nên Đảng và Cách Mạng khoan hồng chỉ phạt cảnh cáo chừng ấy. Bà con biết không, trong thời ngụy ấy hả, mỗi lần bầu cử nó bắt bỏ phiếu cho ai là phải bỏ cho người đó. Trong phòng phiếu nó lên trần nhà khoét lỗ dùng kiếng hiển vi (nguyên văn!) nhìn xuống để theo dõi, ai mà bỏ phiếu không đúng ý nó, sẽ bị bắt đi không có ngày về, các anh chị đừng có tưởng...”
                    Về phần tôi, ít lâu sau một chị giáo dân làm tổ trưởng tổ Phụ Nữ trong ấp tới nhà chơi và cho biết:“Cha biết không, hôm bầu cử, khi cha bước vô buồng kín đã có sẵn ba người được gài phía sau để theo dõi xem cha làm gì trong ấy, và họ khen là cha bỏ phiếu tốt”. Nghe qua câu này tôi chỉ mỉm cười không nói năng gì, nhưng nghe có cảm giác ớn lạnh ở lưng, cái cảm giác mà chúng ta thường có khi vừa may mắn thoát được một tai nạn trong đường tơ kẽ tóc! 

                    Cuối tháng Tư 1976, vì không thể sống được trong họ đạo dưới áp lực quá nặng nề đến từ nhiều phía, tôi buộc lòng phải từ giã họ đạo La Mã, trở về quê ít ngày rồi lại ra đi, lần này đi vào một tương lai vô định. Cũng như bao nhiêu anh em cùng chí hướng, tôi không thể ngồi yên nhìn cảnh quê hương và dân tộc đang bị một thứ chất độc tai hại tàn phá. Dù biết là tài hèn sức mọn, có thể không làm nên việc gì, nhưng tôi vẫn nghĩ, thà không làm nên việc gì còn hơn là không làm gì cả. Và từ lúc đó cuộc đời tôi đi vào ngả rẽ, dẫn đưa tôi vào nhà tù ở tỉnh lẻ cao nguyên này.
                     

                    Quay về thực tại

                    Giờ này đã quá khuya, buồng giam yên lặng, mờ ảo dưới ánh sáng leo lét của bóng điện nhỏ duy nhất trên trần nhà. Tiếng ngáy của Long càng lúc càng to. Chung quanh tôi, các anh em bạn tù đều đang ngon giấc. Bên ngoài cũng không nghe một tiếng động nào, chỉ lâu lâu có tiếng bước chân thật nhẹ nhàng, dừng lại bên ngoài cửa sắt buồng giam rồi lại bước đi. Tiếng bước chân nhẹ nhàng đến độ tôi phải chú ý lắng nghe mới nhận ra được như tiếng bước chân âm thầm của loài hổ báo, đang nhẹ bước rình mồi. Tôi biết ngay đó là cán bộ võ trang đang tuần tra về đêm.

                    Tôi cảm thấy lạnh nên nằm dịch người sát vào Long trọc đầu đang ngủ say. Tôi nhè nhẹ kéo mí tấm chăn Long đang đắp để phủ lên người cho đỡ lạnh. Long giật mình, phát ra mấy tiếng ự ự trong cổ họng, trong khi mắt vẫn đang nhắm nghiền, vặn người mấy cái, chép miệng và nằm yên thở đều. Long nằm ngửa, đôi môi hở ra để lộ hàm răng có chiếc răng cửa bị gãy. Lúc này tôi không còn thấy Long xấu xí và đáng sợ như lúc mới chạm mặt lần đầu. Trái lại, tôi thấy một tâm tình yêu mến dâng lên đối với Long, một thanh niên xa lạ tự phương trời nào, mà tự nhiên đêm nay lại trở thành kẻ “chung chăn chung gối” trong đêm đầu tiên tôi sống trong tù. Bất giác tôi cười thầm với cái ý nghĩ rằng đây là một “Đêm Tân Hôn”! Một đêm tân hôn thật lạ kỳ, vì “tân giai nhân” nằm cạnh tôi trọc đầu, sún răng, hình hài vạm vỡ như một võ sĩ đô vật và mình trần để lộ hình con rồng xâm trổ to tướng trên ngực. Con rồng lại đang nhe răng khè ra lửa! Tôi tiếp tục mỉm cười trong bóng đêm!Những ý nghĩ miên man vụn vặt ấy từ từ ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Một giấc ngủ thật nhiều mộng mị.

                    Sáng ngày, lúc nghe tiếng kẻng báo thức, tôi giật mình tỉnh giấc và bàng hoàng không biết mình đang ở đâu! Tôi nằm yên dụi mắt. Một hồi lâu mới nhận ra được hoàn cảnh thực tại. Tôi đang ở tù.

                    Sau khi ngồi lên đọc kinh dâng ngày, tôi cố nhớ lại các giấc mơ đêm qua. Trong cơn mơ, tôi thấy trở về thăm lại Đại chủng-viện Sài-Gòn, nơi tôi xa rời đã sáu năm qua, gặp lại một vài cha giáo sư và một số bạn cũ. Tôi thấy mặt mày ai nấy đều ủ rũ buồn rầu, nhưng không hiểu tại sao. Trong một giấc mơ khác, tôi mơ thấy bóng dáng người con gái trong bài ca-dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa...” Tôi thấy nàng mặc chiếc áo bà ba trắng ôm sát thân người, tóc bỏ đuôi gà, gương mặt trái xoan trắng ngần và đẹp thanh tú. Nhưng trong vẻ đẹp ấy có ẩn hiện một nỗi u buồn khó diễn tả. Hình như tôi thấy nàng đang đứng giữa ruộng cà để nói chuyện với tôi và vài người khác hay sao đó. Giấc mơ này tôi nhớ không rõ, nhưng giấc mơ trước tôi còn nhớ rõ như in.


                    nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
                    dactrung.com
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2007 13:00:59 bởi sóng trăng >
                    #10
                      sóng trăng 26.01.2007 09:55:26 (permalink)
                      .
                       
                      3

                      Tàu Sông Hương
                       
                       

                                                                                              
                      Trong mấy ngày qua, các tù nhân trong trại Gia-Ray tỉnh Xuân Lộc bàn ra tán vào về một đồ vật có hình dạng lạ lùng, đang nằm trong lán mộc gần bên cổng trại. Mạnh ai nấy cố thử đoán xem “nó” là cái gì. Nhưng cuối cùng, xem ra chẳng một ai dám chắc về lý đoán của mình. Cũng có một vài cuộc cãi vã xảy ra vì bất đồng ý kiến về tên gọi của nó. Đó là một đồ vật bằng ván gỗ, nếu dựng đứng lên trông giống như cái kệ sách có bề ngang sáu tấc và cao năm thước. Tuy nhiên có điểm khác là các miếng ván nằm ngang không bằng mà lại hơi chênh chếch cao, nên chỉ trông giống kệ sách thôi nhưng không thể là kệ sách được. Có ai lại đóng một kệ sách với khích thước chướng đời như thế! Có người bảo nó là cây thang, nhưng nấc lại cách nhau quá ngắn, và hai bên là hai mảnh ván rất to bản. Nếu nó thực sự là cây thang thì đây là một cây thang lạ lùng nhất mà tôi được thấy.

                      Chính tôi cũng thắc mắc về nó. Khi đi lao động ra vô cổng trại, ngày nào cũng thấy nó nhưng không thể biết được dùng vào việc gì. Một hôm gặp anh đội trưởng đội mộc, tôi hỏi về nó, anh cũng chẳng biết là cái gì, chỉ biết đóng đúng theo kích thước của cán bộ giao cho đội thực hiện.

                      “Nó” nằm dài trong lán mộc một thời gian. Rồi một hôm, vào thượng tuần tháng Tư năm 1977, chúng tôi đi ngang lán mộc để xuất trại lao động, nhìn vào không còn thấy nó nữa. Như vậy là nó được chở đi ban đêm và không một ai trong chúng tôi được biết. Điều này cũng hơi khác thường vì các sản phẩm do anh em tù đóng như bàn, tủ, ghế, hòm v.v... đều được chở đi ban ngày và các anh tù phải khiêng vác ra xe. Nhưng rồi mấy ngày sau, chúng tôi quên khuấy nó đi, chẳng thấy ai còn thắc mắc gì về nó. Trong khi còn biết bao nhiêu chuyện khác phải bận tâm lo nghĩ trong kiếp sống tù đày ở trại Gia Ray đông nghẹt tù nhân, và thiếu thốn tất cả tiện nghi tối thiểu này.

                      Trại Gia Ray, còn gọi là Z 30D, trước kia là hậu cứ của trung đoàn 54, nằm trên một đồi cao có cái tên khá thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”. Trại nằm quay cổng ra núi Chứa Chan cao to sừng sững mà anh em tù thích gọi đùa là núi “Chán Chưa"! Sở dĩ tôi biết về lai lịch trại này vì có một số người tù trước kia là quân nhân đã từng đóng quân ở đây. Sau khi đổi đời, họ lại cũng vào đây ở tù tiếp theo.

                      Vì trước kia là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước. Hàng ngày có xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan và hơn một ngàn tù nhân trong trại. Vì số lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz ( lon bằng nhôm, đựng sữa bột Guigoz của Hoà Lan, sức chứa chừng ¾ lít), trong hai bữa ăn trưa và chiều.

                      Vì phần nước quá ít so với nhu cầu, nên hầu như không có ngày nào trong buồng, là không có cãi nhau về “việc nước”. Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để... “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng để ẩu đả nhau. Cả hai phe tù có nhiều kẻ lỗ đầu sứt trán máu me đầm đìa y như cảnh chiến tranh Quốc - Cộng trước kia giành nhau đất “nước”!
                       

                      Trại Gia Ray

                      Nhóm chúng tôi từ trại Phan Đăng Lưu trong tỉnh Gia Định chuyển lên đây vài ngày trước Tết Đinh Tỵ năm 1977. Trong nhóm còn một Linh mục khác là cha Vũ Đức Khâm, người đã một thời làm việc với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh thời Công giáo tự trị chống Việt Minh tại chiến khu Phát Diệm trước năm 1954. Vào Nam, cha Khâm được nhiều người biết đến qua các hoạt động xã hội của ngài tại Sài Gòn trong những năm đầu thập niên 70. Phần đông tù nhân trại Gia Ray lúc bấy giờ là nhân viên công chức của chế độ cũ và một số người trong Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc, hầu hết là trẻ tuổi. Số khác can tội vượt biên hay phản động, chống chế độ cách này cách khác. Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số anh em quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng con số tù lên 1200 người. Trong số đó có khá nhiều anh em Công giáo.

                      Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người. Tôi vào chung đội với cha Vũ Đức Khâm và một số anh em tôi còn nhớ được như các anh Nguyễn Tôn Tính, Nguyễn Tiến Đạt, Trần Nhật Kim, Mai Văn An, Phạm Văn Thông…Hai ngày đầu tiên chúng tôi bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm. Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ, ở giữa là lối đi chạy dài. Trong buồng không có cầu tiêu, và để thay thế vào đó là 3 cái ống sắt vỏ đạn pháo binh 155 ly, mỗi ống đường kính chừng hơn gang tay và cao khoảng một thước, được dựng trong một phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái ống đó. Tới sáng ngày mở cửa mới được mang đi đổ ở cầu tiêu công cộng.

                      Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy sự việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao có thể quên được. Trước hết là chuyện về cái cầu tiêu công cộng. Như tôi đã nói, lúc bấy giờ trong trại có hơn một ngàn người, sống chen chúc nhau trong một cái trại lính cũ mèm và trơ trọi. Nước uống thì mỗi ngày có xe bồn chở tới, củi đuốc thì có sẵn trong rừng, rau cỏ thì các đội rau xanh trồng cho cả trại ăn, về khoảng tắm giặt thì... khắc phục! Nước uống còn không đủ lấy đâu ra nước để tắm giặt? Nhưng còn vấn đề ‘đại tiện’ thì sao, việc này không thể nào “khắc phục” được. Giải quyết khâu này cho hơn một ngàn con người sống tập trung đâu phải là chuyện nhỏ!
                       

                      “Đại hội” Ruồi Xanh

                      Sau hai ngày đầu bị nhốt kín trong buồng, qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài đi lại tự do như những người khác. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được mở cửa, tôi có nhu cầu ra khu cầu tiêu công cộng lần đầu tiên sau khi đã 'khắc phục' suốt đêm trong buồng, vì 3 cái ống vỏ đạn pháo binh làm cầu tiêu dã chiến không đáp ứng được nhu cầu của 60 con người. Muốn ra tới cầu tiêu công cộng tôi phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp. Sau khi qua nhà bếp một đỗi, có con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dẫn ra phía bờ rào trại bằng nhiều lớp kẽm gai cuộn tròn bao bọc chung quanh trại. Khu vực cầu tiêu công cộng nằm sát bờ rào trại.

                      Khi vừa tới đầu nhà bếp, mặc dù chưa thấy hình dạng nhưng tôi đã “đánh mùi” được vị trí tôi muốn tìm tới. Ngay lúc tôi vừa nghe mùi cũng là lúc tôi nghe một âm thanh lạ kỳ của đám ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa đang được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp. Trời ơi, ruồi xanh ở đau mà lắm thế! Mùi dưa cải muối chua, mùi của nhà bếp, mùi của đường cống lộ thiên rộng gần 2 thước bên hông nhà bếp, cộng với mùi thối từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Chúng đang giành ăn giữa những đám cải khô trên nóc nhà. Chúng bay vo ve trên miệng đường cống. Chúng đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh náo nhiệt khác thường.

                      Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy ruồi xanh nhiều như thế, nhiều không có thể tưởng tượng được. Tôi thầm nghĩ có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập trung về đây để họp bạn, hoặc có đại hội đặc biệt gì đó của ruồi xanh! Về số lượng đông khủng khiếp của muỗi thì tôi đã có dịp thấy tại rừng Năm Căn trong tỉnh Cà Mau. Khi còn làm thầy giúp xứ, tôi đã có dịp xuống làm việc với cha Nguyễn Lạc Hóa, một Linh mục người Tàu tại biệt khu Hải Yến vào năm 1967. Lúc đó tôi nghĩ chắc là trên đời này không còn nơi nào nhiều muỗi như ở Hải Yến trong tỉnh Cà Mau và lúc này tôi có thể nói không chỗ nào nhiều ruồi xanh như trại tù Gia Ray, tỉnh Xuân Lộc!

                      Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng dọc chờ từ trước, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Tôi đến nơi ráp vào hàng. Đứng vô hàng xong, tôi ngoái lại sau lưng thì đã thấy độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục kéo ra đứng tiếp theo. Một lúc sau, hàng người bất đắc dĩ phải tới đây như tôi, càng lúc càng dài hơn. Lúc đó chẳng biết làm gì hơn, tôi đành đứng yên quan sát. Vì mới tới trại mấy ngày, và hôm nay được ra đây lần đầu nên cái gì đối với tôi lúc bấy giờ cũng lạ. Những người bạn tù bất đắc dĩ phải đứng xếp hàng trước và sau tôi, đại đa số cũng xa lạ nên tôi cũng chẳng có dịp nói chuyện với ai. Vả lại trông người nào cũng lầm lì câm lặng. Có người mặt mày nhăn nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bi ‘đuổi’ rất gấp, như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?

                      Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật rất to, chiều dài phải có tới 15 thước, chiều ngang quãng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy nhà cầu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa, cao khoảng 50 phân, phía trước có lá chắn bằng nứa cao chừng một gang tay, trên nóc có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài vội vã. Dãy nhà cầu nằm cách bờ đất khá xa và trước mỗi ô có một cầu bằng ván bìa bắt từ mép bờ đất đi ra.

                      Nhìn từ xa, tôi thấy trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi. Mới nhìn thoáng qua, trông giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong đang ló đầu ra ngoài. Tấm phên phía trước chỉ che được những nơi cần che của con người đang ngồi chồm hổm, đối diện với một hàng người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ hố chờ tới phiên mình. Hàng người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi và đang kiên nhẫn chờ đợi.
                       

                      Đợi chờ trong đau khổ

                      Một lúc tôi mới chợt để ý là hầu hết mọi người đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Điều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi ‘diện’ khá chỉnh tề. Có nghĩa là tôi mặc cái áo sơ mi và quần dài. Nhìn lại tôi thấy mình thật chẳng giống ai trong hàng. Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là lính mới trong nhóm tôi mới nhập trại mấy ngày qua. Một số người đang khoanh tay cúi mình hoặc xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ lạnh. Lúc đó tôi nghĩ bụng:“Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm thế này!”

                      Hàng người nhích tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng “khẩn trương”, trông mặt mày nhăn nhó, bứt rứt. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương những cặp mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái nhẹ nhàng thoải mái.

                      Có một tay ngay sau lưng tôi coi bộ “rất khẩn trương”, chắc là đang bị Tào Tháo đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước không thể làm gì hơn nên tức khí quát to, chửi đại, trúng ai thì trúng:“ĐM, ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con còn nhờ với chớ!" Cả đám cười ồ sau câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa theo pha trò thêm vài câu gì đó cho vui hơn, để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng con người. Chẳng ai buồn trả lời câu chửi lãng xẹt của anh ta, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân thiết:“Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà ở đó la với hét?" Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên sầu trong giây lát.

                      Có mấy người xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước, y như cái cảnh xếp hàng mua vé trước rạp Rex mỗi khi có chiếu phim hay! Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói:

                        - Cậu Bảy có mặc quần đùi không? Cởi quần áo dài ra đi, mặc quần đùi thôi.

                         Tôi ngạc niên hỏi:

                        - Sao vậy?

                        - Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng cho!

                      Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Tôi nghe lời anh bạn, cởi đồ dài ra đưa anh cầm về giúp. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi phải ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.

                      Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên tới bên bờ hố và dàn thành hàng ngang đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi bên trong. Hai người chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng chúng tôi tránh ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ. Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống bên dưới và cảnh tượng thật là kinh khủng.

                      Hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu là một thùng chứa phân có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng phân tràn be bét ra ngoài và lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân là của đội rau xanh. Mỗi ngày có mấy anh vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải được trồng rất nhiều bên ngoài cổng trại. Vườn rau này là nguồn cung cấp thức ăn chính cho tù nhân trong trại. Khi đứng bên miệng hố, mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Đám ruồi nhặng đông như trấu đang quần thảo, cào cấu, nhào lộn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh rào rào như đàn ong vỡ tổ. Mặc dù chúng đã chia ra một tốp khác đang làm chủ tình hình ở khu nhà bếp, số ruồi xanh ở đây còn dầy đặc mấy lần hơn. Trên lớp mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng.

                      Tôi không dám nhìn lâu cảnh này và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa. Có một anh công-an ngồi gác trên chòi, yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tôi tự nhiên đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm:“Mình mới đứng một chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.

                      Và tôi đã nghĩ đúng! Cái gì rồi cũng quen đi. Về sau này mỗi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại xếp hàng, lại đối diện với hai người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ và một người khác đứng chờ tôi! Cái hố vẫn là cái hố cũ với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh khủng như lần đầu nhìn thấy.

                      Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ thể này trở nên khổ nhọc hơn. Chúng tôi phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lõng bõng những nước nhầy nhụa. Đám dòi bọ bị ngập lụt trôi lều bều, giãy giụa như người trong cơn chết đuối đang vẫy vùng cầu cứu. Cảnh tượng này trông càng khủng khiếp hơn. Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi nhặng cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh. Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này nhưng cố gắng coi đó là chuyện tự nhiên. Tôi tự nhủ, đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời.
                       

                      Người bạn tù Linh mục

                      Lúc đó cha Vũ Đức Khâm sống chung buồng với tôi và ngài đã để lại trong lòng tôi kỷ niệm sâu xa. Vì lớn tuổi nên ngài được cho làm việc nhẹ trong trại gọi là “trực sinh”, còn tôi phải vào toán lao động bên ngoài trại. Lúc bấy giờ trong trại có nhiều loại công việc khác nhau và mỗi đội làm các việc đó có tên riêng như đội cấp dưỡng (nhà bếp), đội mộc, đội rèn, đội rau xanh. Tôi được sung vào đội khai hoang dọn đất, tức là đốn cây, khai phá lùm bụi, cuốc dọn đất cho các đội khác trồng trọt rau cải cung cấp cho trại.

                      Công việc của đội tôi cũng không vất vả lắm, nhưng phải phơi nắng cả ngày và là một công việc đầy nguy hiểm. Điều làm chúng tôi lo sợ nhất là khi khai hoang cuốc đất, thỉnh thoảng lại có anh cuốc nhằm mìn, lựu đạn hoặc đầu đạn M79. Đã có người bị nổ banh thây, có người cụt giò hoặc bị thương tật. Ngoài ra còn một điều ngán nữa là đội chúng tôi lao động quần quật cả ngày dưới trời nắng chang chang, mình mẩy đầy cát bụi, mà chiều lại không có một giọt nước để lau người.

                      Có những hôm chúng tôi năn nỉ quá, cán bộ võ trang dẫn đi “tắm” ở một cái hố nước gần đó. Hố nước chừng bằng căn phòng, nước đục ngầu và chỉ cao vừa tới đầu gối. Khi đội chúng tôi tới nơi, đã có hàng mấy trăm con người ở các đội khác tới trước. Họ đứng tràn chung quanh miệng hố. Cảnh này nhìn từ xa giống như có đám ma của một nhân vật quan trọng, lúc hạ huyệt ai cũng muốn bu lại để cố nhìn thấy quan tài lần cuối cùng. Chừng ấy con người mà lội xuống ao, làm bùn non nổi lên nhào trộn với nước, đặc quánh lại như vữa xây nhà, chúng tôi đành bỏ cuộc. Làm sao mà tắm cho được?

                      Có những ngày nóng nực quá không thể chịu nổi. Sau giờ lao động ban chiều, cán bộ cho chúng tôi đến “tắm” nhờ bên đội rau xanh. Nơi đó có dòng suối nhỏ mà đội dùng để tưới vườn rau cải. Chúng tôi dùng lon múc một ít nước lau người. Nước này đã tưới các luống rau và chảy xuống suối, mang theo từng tảng phân người trôi lều bều trên mặt nước! 

                      Trong trại lúc đó, có một số đông anh em Công giáo. Những ngày Chúa Nhật hoặc ngày không đi lao động, anh em hay đến thăm cha Vũ Đức Khâm và tôi. Để tránh mọi phiền phức trong lối xưng hô, tôi bảo các anh em gọi cha Khâm là Cậu Hai, còn tôi là Cậu Bảy. Tôi mang cái tên “Cậu Bảy” từ lúc đó. Các anh em Công giáo không những chỉ đến thăm viếng chuyện trò mà còn giúp nhau lo dọn mình xưng tội. Các anh em bạn bè cũng mang tới cho chúng tôi ít thức ăn, đồ dùng.

                      Trong số những anh em thường tới chơi và giúp đỡ, tôi đặc biệt nhớ tới anh Phạm Hùng Thọ. Anh là một sĩ quan trước kia vào trại Gia Ray chúng tôi mới biết nhau. Người Thọ cao lớn, nước da ngăm đen, tính nết hiền hòa, nói năng chậm rãi. Lúc đó anh ở đội rau xanh là đội có cơ hội được tiếp xúc với “nước” nhiều hơn các đội khác. Mỗi buổi đi lao động, Thọ gánh một đôi thùng thiếc lấy nước sạch mang về, chia cho tôi và cha Khâm một thùng. Một thùng nước trong trại Gia Ray lúc đó thật là quý, nhất là nếu biết công của Thọ đã phải gánh từ xa mấy cây số về thì mới hiểu hết được giá trị của thùng nước đó như câu người ta thường nói: “Của một đồng công một lạng”. Tôi nhớ mãi về người bạn tốt này vì thường chọc đùa anh. Biết tên anh là Phạm Hùng Thọ mà lúc đó Phạm Hùng là Bộ Trưởng bộ Nội vụ, còn Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch nước nên một hôm tôi nói đùa với anh:“Anh Thọ này, giá mà tên anh chỉ lấy mỗi hai chữ đầu là Phạm Hùng, anh em cũng được nhờ, hoặc chỉ lấy một chữ sau cùng là Thọ và cho đứng sau chữ Nguyễn Hữu, có phải anh em mình trúng mánh không? Tiếc là tên hai ông lớn gộp lại mới bằng tên anh mà chúng tôi chẳng được nhờ vả gì!” Thọ nghe tôi nói bật cười thật tươi. Tôi vẫn nhớ nụ cười hồn nhiên đó của anh.

                      Tết năm đó, phần đông các anh em được gia đình vào thăm nuôi tiếp tế, trong khi chúng tôi vừa mới từ trại Phan Đăng Lưu chuyển tới rất đột ngột nên gia đình và thân nhân không hay biết chúng tôi hiện đang ở đâu. Mặc dù lúc đó chúng tôi được quyền đi lại từ buồng này qua buồng khác và giao tiếp tự do, nhưng phần cha Khâm và tôi lúc nào cũng phải dè dặt với anh chàng Bùi Định. Vừa đặt chân lên trại này, chúng tôi đã được các anh em thông báo phải cẩn thận dè chừng với anh này.

                      Vì mới tới, tôi chưa biết ai là ai, chỉ biết là anh Bùi Định được trại chỉ định làm đại diện cho tất cả tù nhân. Anh ta cũng lo việc phát thư, sách báo, gọi và dẫn tù ra nhà khách thăm gặp gia đình. Khi từ nhà khách trở vô, anh ta cũng phụ giúp cán bộ khám xét hàng họ, quà cáp. Trong buồng tôi cũng có một anh tên là Đặng Báu, nghe nói là giáo dân ở nhà thờ Kỳ Đồng. Anh này chuyên rình mò báo cáo anh em để lập công.

                      Tôi đã phải nhiều phen khốn đốn vì anh chàng Đặng Báu này. Khi lên tới trại này sau hơn 9 tháng bị bắt, lần đầu tiên tôi mới va chạm với hệ thống dùng tù rình mò và tố cáo tù, mà về sau chúng tôi gọi là “ăn-ten”. Lúc còn bị giam ở trại Phan Đăng Lưu cũng đã có hiện tượng này, nhưng chưa được tổ chức quy mô thành “mạng lưới” như khi sống chung đông đúc như ở trại này.

                      Chuyện năm xưa

                      Chúng tôi sống yên ổn được gần một tháng thì có chuyện buồn xảy tới. Ngày nọ, có một anh Công giáo kể tôi nghe câu chuyện về cha Vũ Đức Khâm và dặn tôi về nói lại với ngài. Anh ta nói, một hôm có một cán bộ người miền Bắc quen biết với cán bộ quản giáo đội của anh, nên tới đội chơi. Vì biết anh là người Công giáo nên cán bô miền Bắc này hỏi anh có có biết “tên Vũ Đức Khâm” không. Sau khi anh trả lời là biết, cán bộ này nói:“Chính thằng Vũ Đức Khâm nó giết bố tôi". Nghe kể lại chuyện đó, trong lòng tôi bất an. Tôi rất lo sợ cho sự an toàn của cha Khâm, nhưng tôi không kể lại với cha, sợ ngài lo lắng vì lúc đó tinh thần ngài rất sa sút.

                      Mặc dù không kể lại với cha Khâm, nhưng tôi hay tìm dịp hỏi riêng ngài về các việc làm lúc còn ở Phát Diệm. Cha Khâm cho tôi biết, có làm việc với Đức cha Lê Hữu Từ trong chiến khu Phát Diệm tự trị, chống Việt Minh. Ngài cũng cho biết, sau này người ta thêu dệt nhiều điều mà ngài không hề làm. Có lần tôi hỏi về vết sẹo khá lớn trên mặt ngài, phía dưới cằm, cha Khâm cho biết là có lần ngài bị ám sát ngay trong nhà thờ vào một buổi sáng sớm khi ngài vào nhà thờ dâng lễ. Ngài bị bắn hụt chỉ bị thương và còn lại vết sẹo đó. Ngài nói sau lần đó, ngài không còn dính líu tới Tự Vệ Quân nữa cho tới khi di cư vô Nam vào năm 1954.

                      Khi vô Nam, cha Khâm đi du học ở Mỹ và có bằng tiến sĩ xã hội. Trở về Sài Gòn, ngài hoạt động mạnh trong phong trào Thanh Sinh Công và mở những khóa phụ nữ cắt tóc đầu tiên tại Sài Gòn. Lúc trước tôi không biết gì về cha Khâm, vì ngài là lớp đàn anh, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi. Nhưng tôi nghe tên và biết về việc xã hội ngài làm tại Sài Gòn. Vào tù chúng tôi mới gặp nhau khi cùng bị giam chung trong dãy xà-lim ở An ninh Nội Chính ((Nha Cảnh sát Đô thành cũ). Có 20 người trong 20 phòng liền nhau. Trong số những người nằm xà-lim lúc bấy giờ tôi còn nhớ các ông Vũ Quốc Thông, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, ông Tống Đình Bắc, Phan Văn Song... Trong thời gian đó, cha Khâm là người bị gọi đi hỏi cung nhiều nhất, có khi gọi cả ngày lẫn đêm.

                      Cách mấy ngày sau, tôi nghĩ là nên cho cha Khâm biết câu chuyện mà tôi đã được nghe để ngài chuẩn bị tinh thần, hơn là có cái gì xảy ra quá đột ngột cho ngài. Trong một đêm tôi kể lại câu chuyện mà tôi được nghe và ngài rất lo lắng, mặc dù ngài khẳng định là không bao giờ có chuyện đó. Ngài cho biết là không bao giờ giết người lúc còn làm việc ở Phát Diệm.

                      Vì cả hai chúng tôi đều có linh tính về chuyện chẳng lành có thể xảy ra, nên chúng tôi dành nhiều thời giờ lo giúp nhau chuẩn bị các việc về phần hồn. Lúc này cha Khâm coi tôi là người bạn tinh thần và là chỗ nương tựa trong lúc sầu khổ. Tôi nhận thấy rất rõ là ngài lo lắng và thương tôi hơn. Ngài luôn dặn dò tôi, cho dù bất cứ vì hoàn cảnh gì mà phải xa nhau, cũng hãy luôn sống xứng đáng với chức vụ Linh mục và giúp đỡ anh em, nhất là về phần tinh thần.

                      Có lần tôi nói với cha Khâm là ngài dịch cuốn “Một tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất hay. Cuốn sách đó có ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều. Nghe nói thế ngài cảm động lắm. Tôi còn hỏi tại sao ngài lấy bút hiệu là Kim Thiếu khi dịch sách đó? Cha Khâm cười trả lời:“Tại Cậu Bảy mày không biết chữ Nho đó thôi. Đây là lối chiết tự: chữ Khâm được kết hợp bởi chữ Kim và chữ Khiếm, mà Khiếm tức là thiếu, vậy thay vì Kim Khiếm thì là Kim Thiếu, tức là Khâm!” Có một đêm nằm gần nhau trên sàn ván trong buồng, tôi nắm lấy bàn tay cha Khâm và hỏi thẳng vào vấn đề:

                        - Cậu Hai, giả sử như cậu có Cậu mệnh hệ nào, cậu có muốn con làm gì không?

                         Cha Khâm trầm ngâm một lúc mới trả lời:

                        - Cậu Bảy mầy hãy nói lại với mọi người là tôi đã dọn mình ra đi bằng yên, và tôi không bao giờ làm điều mà họ gán cho tôi.

                      Cha Khâm vẫn có thói quen gọi tôi là ‘Cậu Bảy mầy’, nói xong ngài quay mặt đi với vẻ mặt rất buồn. Tôi hứa là tôi sẽ làm như lời ngài dặn.
                       

                      Vĩnh biệt Cha Khâm

                      Và chuyện gì sẽ tới nó phải tới. Một buổi chiều kia, vào khoảng cuối tháng ba năm 1977, sau hồi kẻng điểm danh, anh em buồng tôi đứng xếp thành 4 hàng như thường lệ bên ngoài, chờ cán bộ tới điểm danh vào buồng. Nhìn ra, tôi chợt thấy một chuyện bất thường. Có một nhóm cán bộ lạ mặt từ xa đi tới. Thay vì các cán bộ có trách nhiệm điểm danh hàng ngày mà chúng tôi biết mặt, lần này là Thiếu úy Xuân, Sĩ quan An ninh của trại, và 2 cán bộ võ trang mang súng dài theo sau đang tiến thẳng về phía chúng tôi.

                      Thiếu úy Xuân từ miền Bắc vào, thuộc diện “cùng hung cực ác”. Da mặt anh nám đen và đầy mụn trứng cá như dề cơm cháy, môi thâm sì, cặp mắt trắng dã, khi nhìn ai, không bao giờ chớp mắt. Tôi còn nhớ mãi  hình ảnh ghê gớm đúng vào đêm giao thừa Tết Đinh Tỵ năm đó, ngày 19-2-1977. Trong lúc anh em tù nhân chúng tôi trong buồng chờ đón giao thừa và nói chuyện ồn ào vui vẻ.
                       
                      Thình lình có nhiều tiếng súng to, súng nhỏ nổ vang bên ngoài. Có mấy anh lạc quan hảo vội nhảy nhót vui mừng tưởng là phen này “tới rồi”! Lúc đó cộng-sản vừa chiếm miền Nam, có nhiều phong trào nổi lên chống trả. Và có tin đồn nào là “phe ta” đang nằm sẵn sàng trong mé rừng Long Khánh, chờ cơ hội thuận tiện đánh úp bất ngờ.

                      Đêm nay khi nghe tiếng súng rền trời, nhiều người phấn khởi vỗ tay. Có anh cố khom người nhìn qua khe vách ván coi bên ngoài động tĩnh ra sao! Một phần khác, có lẽ vì đa số anh em trong buồng, không nhiều thì ít đều có dính dáng tới súng đạn trong một cuộc chiến ác liệt vừa tàn, rồi hàng năm trời không có dịp nghe tiếng súng, đêm nay nghe lại tiếng súng nổ rền vang, tự nhiên cảm thấy nổi hứng như lân nghe pháo.

                      Trong khi anh em trong buồng đang nhốn nháo vui mừng, thình lình cánh cửa duy nhất của buồng ngay đầu hồi nhà bật mở tung ra! Cánh cửa mở rất mạnh như có một cơn bão lớn làm bật tung khóa. Tất cả chúng tôi đột nhiên yên lặng nhìn ra phía cửa, miệng há hốc.

                      Thiếu úy Xuân hiện ra đứng ngay cửa buồng. Anh ta đứng sừng sững như một Thiên Lôi từ trời rơi xuống, đứng chết lặng như trời trồng, không nói một lời. Trên mặt nhiều người trong buồng còn lộ vẻ sững sờ và bẽn lẽn như đứa trẻ ăn vụng, bị mẹ bắt gặp tại trận! Thiếu úy Xuân “hiện ra” đúng giây phút đầu Xuân, nhưng không mang lại cho chúng tôi một chút “Xuân” nào! Mặc bộ đồ công-an màu vàng, đầu đội nón cối che gần hết trán. Cặp mắt trắng dã của anh ta mở to hết cỡ, đang quét qua quét lại đám tù nhân đang đứng ngỡ ngàng, lúng túng. Ai đang ở tư thế nào thì giữ nguyên tư thế đó!

                      Một lúc sau, có vài người khẽ cúi xuống, tránh cặp mắt đằng đằng sát khí của vị đại diện toàn quyền cho Hung Thần! Anh ta giữ cho bầu khí nặng nề thêm một lúc, bằng cách đứng yên, hai tay chống nạnh, hai chận dạng ra như trong tư thế xuống tấn của người đang múa võ. Cuối cùng anh ta độc thoại:“Các anh hồ hởi cái gì, hả? Anh nào lúc nãy vỗ tay, hả? Bố láo! Các anh đừng có tưởng bở!” Cả buồng vẫn yên lặng, một lúc sau có vài người bắt đầu cử động nhè nhẹ và quay đi có ý như muốn nói “không phải tôi”.

                      Có lẽ thấy màn biểu diễn uy quyền đã tạm đủ, anh ta to giọng: “Cả buồng đi ngủ! Nếu còn tiếp tục làm ồn thì đừng có trách!”. “Phán” lời đó xong, anh ta bước lui ra biến dạng vào bóng đêm cũng nhanh như lúc anh ta “hiện ra”. Cánh cửa buồng giam tự nhiên đập “ầm” một tiếng, giống y như các cảnh trong phim thần thoại diễn tả lúc Hung Thần vụt biến. Có cái khác là Thiếu úy Xuân “biến” mà không để lại một vầng khói trắng như thường thấy trong phim! Sáng ngày chúng tôi được biết, đêm qua cán bộ bắn súng mừng giao thừa  thay cho tiếng pháo Tết!

                      Chiều nay, lúc đang đứng trong hàng tôi lại thấy “Hung Thần” xuất hiện. Lần này thì xuất hiện giữa ban ngày, có hai cán bộ võ trang xách súng dài theo sau. Thấy Thiếu úy Xuân đang xăm xăm đi tới, linh tính báo cho tôi biết là có chuyện chẳng lành. Khi anh ta tới nơi và dừng lại, đội trưởng của chúng tôi (lúc bấy giờ là ông già Lưu), hô to mệnh lệnh: “Nghiiêêmm!” Cái ông già Lưu này, người thì bé con con mà tiếng hô “nghiêm” của ông ngon lành nhất trại. Hô xong ông đứng cứng đơ người, hai bàn tay úp vào, kẹp sát hai bên đùi, gót chân nhún lên nhún xuống. Vì cái tật này mà ông ta có biệt danh là “ông già lò xo”!

                      Sau khi hô khẩu hiệu xong, "ông già lò xo" định báo cáo số người như thường lệ, nhưng Xuân khoác tay, vì việc này thuộc nhiệm vụ của cán bộ trực trại chớ không phải của anh ta. Anh ta đến đây vì một việc khác. Thiếu úy Xuân đứng đó, giương cặp mắt lừ đừ trắng dã nhìn thẳng vào chúng tôi, nói thật gọn nhẹ: “Anh Vũ Đức Khâm, vào buồng mang tất cả nội vụ ra ngoài!" 

                      Trước giờ chia tay

                      Tôi nhìn cha Khâm thấy ngài giật mình một phát thật mạnh và lảo đảo bước ra khỏi hàng. Những gì tôi lo sợ đã đến. Lúc đó tôi nghe đau nhói trong tim khi nhìn thấy thân hình cao to của cha Khâm, lúc bấy giờ khoảng 65 tuổi, lưng hơi còng, mình mặc áo đen, quần ngắn đen, mặt tái nhợt và hai bàn tay run nhẹ, đang bước vội vào buồng. Vào tù ngài để râu nên trông càng già hơn. Tôi có thể đoán biết số phần của ngài sẽ ra sao! Các anh em khác cũng đứng yên nhìn cha Khâm với vẻ ái ngại, mặc dù họ chưa biết tính cách nghiêm trọng của sự việc như tôi biết.

                      Thiếu úy Xuân vẫn còn đứng đó, trong khi hai cán bộ võ trang xách súng theo sau cha Khâm tới cửa buồng. Tôi đứng suy nghĩ một giây, và bước ra khỏi hàng tới trước mặt Thiếu úy Xuân:

                        - Báo cáo anh!

                         Thiếu úy Xuân ngạc nhiên nhìn tôi hỏi:

                        - Có việc gì?

                        - Tôi sinh hoạt chung với anh Khâm và quản lý tất cả đồ đạc. Anh cho tôi vào buồng trả lại cho anh ấy.

                      Lúc đó tôi sinh hoạt ăn uống chung với cha Khâm và anh Trần Đình Ngành, một giáo dân xứ Tân Việt. Thật ra đó chỉ là cái cớ. Tôi còn một ý khác mạnh hơn và quan trọng hơn rất nhiều để xin vào buồng trong lúc này. Thiếu úy Xuân suy nghĩ một chốc, gật đầu: 

                        - Được! Khẩn trương lên!   

                         Tôi đi như bay về phía buồng, nhưng hai tên võ trang đứng ngoài cửa chận tôi lại hỏi: 

                        - Còn anh vào đây làm gì?

                        - Tôi đã báo cáo xin anh bên ngoài cho vào soạn đồ đạc của anh Khâm, vì chúng tôi sinh hoạt chung.  

                         - Khẩn trương lên nhé!

                         - Vâng, tôi khẩn trương! 

                      Thấy hai anh này không có gì khó khăn lắm tôi cũng mừng, đi vội lại với cha Khâm lúc đó ở khoảng giữa buồng về bên trái. Lúc đó ngài đang lúng túng vội vàng lục tung đồ đạc ra, vất lộn xộn trên sàn gỗ. Thấy tôi bước vào, cha Khâm mừng rỡ ra mặt, hai bàn tay run rẩy của ngài chụp lấy tay tôi, nói bằng giọng đứt quãng: 

                         - Cậu Bảy mày ở lại mạnh giỏi, xin Chúa chúc lành. Gửi lời chào Ngành và các anh em, nhớ cầu nguyện cho nhau. Cậu giữ tất cả thức ăn lại đi, tôi không mang gì đâu.

                      Lúc đó cha Khâm đã mất bình tĩnh, lụp chụp và cố nói với tôi thật nhiều trong khi còn có thể nói được. Tôi nhìn Ngài hết sức thương tâm, cố kềm hãm cơn xúc động và nói nhanh:  

                      - Cậu Hai dọn mình ăn năn tội đi, con giải tội cho. Con xin vào đây vì lý do đó.
                      Nói xong tôi ngước mắt nhìn ra cửa thấy Thiếu úy Xuân đang từ từ đi vào. Lúc này cha Khâm đang ngồi quay lưng ra cửa, mắt nhắm nghiền, đôi môi mấp máy. Tôi biết là ngài đang dọn mình ăn năn tội. Tôi bắt đầu đọc công thức giải tội bằng tiếng La-tinh, đọc thật nhỏ vừa đủ cho hai người nghe:“Dominus noster Jesus Christus te absolvat....” Tôi vừa đọc xong thì Thiếu úy Xuân cũng vừa tới nơi. Anh ra lệnh bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát:“Anh Khâm khẩn trương! Mang nội vụ ra ngoài!”   Tôi đứng nhìn theo bóng dáng to cao của cha Vũ Đức Khâm đang vội vã tay xách nách mang trở ra cửa, theo sau là Thiếu úy Xuân, trông như cảnh tội nhân bước ra pháp trường, có tên lý hình theo sau. Có lẽ lúc đó cha Khâm cũng đã biết một phần nào số phận của ngài nên trông ngài mất bình tĩnh một cách rất đáng thương.
                       

                      Nỗi buồn chia ly

                      Tối đêm hôm đó sau khi đã vào buồng đóng cửa, một số anh em, nhất là các anh em Công giáo, lộ vẻ u buồn trông thấy. Phần tôi, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy thật lẻ loi và cô đơn. Tôi nằm nhớ cha Khâm và hai hàng nước mắt tràn ra. Lúc nãy khi thu dọn lại đồ đạc tôi thấy chiếc dây thắt lưng bằng da, có bảng khá to mà tôi thấy ngài vẫn thường mang. Có lẽ trong lúc vội vã ngài đã bỏ quên lại. Nhìn thấy vật này tôi càng nhớ cha Khâm nhiều hơn.

                             Khi đi ngủ, nhìn sang chỗ trống bên cạnh, tôi bồi hồi nhớ lại hơn một tháng qua, hai anh em Linh mục chúng tôi nằm gần nhau, an ủi nâng đỡ nhau, cùng nhau dâng Thánh Lễ trong mùng cách âm thầm. Tôi coi cha Khâm như một người cha hơn là một bạn tù. Ngược lại ngài cũng rất quý mến tôi. Sự có mặt của cha Khâm và tôi trong trại tù hơn một ngàn người ở đây cũng là một niềm vui và là nguồn an ủi cho một số đông các anh em Công giáo. Giờ đây cha Khâm đi rồi, chỉ còn lại một mình, và tôi cảm thấy trách nhiệm mình trở nên nặng nề hơn.

                                Thời gian này cũng là lúc tôi thấy rõ vai trò một Linh mục trong nhà tù cộng-sản, là một chỗ dựa tinh thần cho nhiều người. Điều này tôi đã bắt đầu cảm nhận ngay trong thời gian gần hai tháng tù đầu tiên tại Ban Mê Thuột và sau đó là tám tháng ở An Ninh Nội chính và trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. 

                      Đêm đó tôi nằm trăn trở không ngủ được. Việc cha Khâm bị đưa đi làm tôi sốc nặng, vì tôi đã hình dung được những gì đang chờ đợi ngài qua câu chuyện mà tôi được nghe. Trong đêm thanh vắng tôi nằm nhớ lại những ngày tháng qua, từ lúc tôi bị bắt trong vùng rừng núi ở Campuchia, giáp ranh tỉnh Ban Mê Thuột. Nhớ lại những ngày đầu tiên tôi bước vào nhà giam tỉnh Ban Mê Thuột, sau đó chuyển về An Ninh Nội Chính và bị giam chung với cha Khâm ở dãy xà-lim, cha Khâm buồng 15, tôi buồng 20. Sau đó cả hai được chuyển qua trại Phan Đang Lưu tỉnh Gia Định, nhưng cũng ở khác buồng. Lúc lên trại Gia Ray này, chúng tôi mới sống chung một đội với nhau.
                       

                      Những bước đầu

                      Nhớ lại kỷ niệm của những ngày đầu, lúc tôi còn quá ngỡ ngàng với nếp sống trong tù, cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ như chuyện buồn cười sau đây. Hai tháng sau ngày bị bắt, tôi được chuyển về trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định.

                      Phòng giam là một căn phòng trống trơn, các tù nhân nằm trên nền xi-măng xây lên cao khoảng ba tấc cập theo vách tường. Ở giữa có khoảng trống trũng xuống, mà chúng tôi gọi là “phi đạo” chạy thẳng ra cửa. Ngay gần cửa về phía trái có một bể cạn cao chừng thước hai, có thể chứa được hai khối nước, có vòi nước máy chảy vào. Từ thành bể trở vô sát với bờ tường là một khoảng trống làm chỗ tắm giặt và trong cùng là cầu tiêu. Khu vực này được ngăn ra với “phòng ngủ” bằng một bờ tường cao tám mươi phân. Như vậy phải hiểu là vách chỉ che được người đứng bên trong kín được tới trên đầu gối một chút. Thật ra, công dụng của vách ngăn này chỉ để nước khỏi bắn tung tóe ra ngoài, chứ không có ý che kín con người tắm bên trong.

                      Buồng giam có mái nhà lợp tôn, không cửa sổ và bên trên thay vì trần nhà, là một vỉ sắt ô vuông đề phòng tù trổ nóc nhà vượt ngục. Mỗi buồng như vậy nhốt 60 người, có khi hơn, trong khi sức chứa thực sự chừng 30. Tù nhân trong buồng thật hỗn tạp, đủ mọi thành phần như phản cách mạng, phục quốc, vượt biên, văn nghệ sĩ, công chức chế độ cũ v.v  và có vài anh cán bộ hủ hóa cũng bị nhốt vào đây.

                      Trong buồng tôi lúc đó gần phân nửa là số anh em Công giáo, nhiều nhất là thanh niên các xứ đạo trong đô thành như Tân Việt, Tân Sa Châu, Bùi Phát. Đa số bị bắt vì tham gia phong trào Dân Quân Phục Quốc. Vì phòng quá đông nên rất nóng nực, mọi người đều cởi trần và mặc mỗi chiếc quần đùi cả ngày lẫn đêm. Ban ngày chúng tôi thay phiên nhau giội nước tắm trong giờ được cả buồng ấn định. Khi tắm, mỗi người được giội ba “mũ” nước.  Người này tắm xong tới người kia, cứ xoay vòng theo chiều kim đồng hồ căn cứ vào vị trí chỗ nằm trong buồng.

                      Tất cả mọi người, khi tắm đều cởi truồng. Đây mới là cái khó cho tôi! Tôi để ý gần như ai khi tắm cũng làm những động tác giống nhau. Họ tới bên bể nước, bước vào “nhà tắm”, tuột nhanh cái quần đùi, giũ phành phạch hai lần và vắt nằm lên trốc vách ngăn. Hầu hết đều quay mặt vô vách khi làm các động tác này, nhưng cũng có người cứ bình thản quay mặt ra “khán giả”, vì còn mải mê tiếp tục câu chuyện dở dang. Có mấy anh chàng quá mê cờ tướng, chẳng còn biết trời đất là gì, tuột quần xuống quá đầu gối rồi mà còn đứng quay lại, tay trái giữ cạp quần, tay kia khua khoắng chỉ trỏ và gân cổ lên cãi về một nước cờ còn chưa ai chịu ai. Trong lúc miệng nói, các ngón tay hạ xuống co tròn lại, gãi sồn sột chỗ vòng đai thắt lưng có một đường viền lồi ra vì cạp quần thun quá chật. Nhiều khi đứng lâu quá, làm người kế sau chờ sốt ruột phải lên tiếng giục mới chịu giở chân lấy quần ra. Xong động tác cởi quần là bước vô “nhà tắm”, cúi xuống cầm nón nhựa múc thật đầy nước và giội lên đỉnh đầu.

                      Mỗi người chỉ được ba nón, ai giội quá bị cảnh cáo và khấu trừ lại chuyến sau. Tắm xong, chẳng lau người gì cả, chỉ vuốt mặt vuốt mày cho đỡ ướt. Sau đó với tay lấy cái quần đùi, lại giũ phành phạch hai cái và cúi rùn người xuống xỏ chân mặc vào. Thế là xong một lần tắm. Chiếc quần đùi bị dính nước ướt lỗ chỗ một vài nơi, nhưng rồi một chốc lại khô ngay và lại chờ cho hết vòng rồi tiếp tục những động tác y như thế cho tới khi hết giờ quy định, thường là trước giờ ăn chiều. Mỗi ngày được chừng 4 hoặc 5 vòng, ai không cần tắm thì nhường cho người tiếp theo, và như thế vòng tua lại được rút ngắn đôi chút. Tôi vô buồng 6 Khu C2 trại Phan Đăng Lưu này vào một ngày cuối tháng 8 năm 1976. Mùa này nắng rất to, trong phòng nóng nực làm mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại trên người. Ngày đầu tôi không tắm vì ngại. Qua ngày sau nóng nực không chịu nổi, nên khi trong buồng bắt đầu xoay vòng đi tắm, tôi cũng vào phiên.

                      Khi nhìn những anh tắm trước, tự nhiên tôi đâm ra e ngại vì tôi không quen tắm cởi truồng trước mặt người khác. Vòng tua càng nhích gần tới phiên mình, tôi càng bối rối, có nên hay không nên tắm, và khi tắm có nên làm cách tự nhiên như những người khác không? Thật là tấn thối lưỡng nan! Không tắm thì nóng nực không chịu nổi, mà tắm trần truồng trước gần 120 con mắt, thật ngại chết người vì tôi chưa ở trong hoàn cảnh như thế bao giờ. Nhất là đa số các bạn tù trong buồng lúc bấy giờ là các anh em Công giáo! (không hiểu tại sao tôi lại có cái ý nghĩ là trần truồng trước mặt các anh em Công giáo mình sẽ ngại ngùng hơn!) Nhưng nếu tôi mặc quần đùi tắm thì làm gì có đủ quần để mặc và chỗ đâu để phơi.

                      Lúc đó tôi chỉ có hai chiếc quần đùi để thay đổi nhau, mà tắm xoay tua kiểu này, dù có tới hàng chục chiếc cũng không kịp để thay, không lẽ cả ngày phải mặc quần ướt? Nhớ lại hồi còn đi học, khi ở trọ với anh tôi trong trại gia binh ở Vĩnh Long, tôi cũng đã có dịp va chạm với cảnh tắm truồng tập thể. Những người lính đều tắm truồng, tôi vào phòng tắm chung với họ nhưng tôi chỉ đóng vai khán giả mà không bao giờ “nhập cuộc”.

                      Lúc này, anh bạn trước tôi đã tắm xong và đang vuốt mặt, vuốt mày. Cùng một động tác giống mọi người, anh với lấy cái quần đùi đang nằm chơi vơi trên trốc tường, căng ra, giũ phành phạch 2 cái, xong cúi xuống mặc vội vào và bước ra nhường chỗ cho tôi. Anh ta làm những động tác ấy nhanh như một người máy, có lẽ không muốn để tôi phải chờ lâu. Anh ta đâu có biết là cho tới giây phút cuối cùng, tôi cũng chưa dứt khoát được tư tưởng. Lúc nãy, trong khi đứng chờ, tôi ngoái đầu lại đảo mắt quan sát thật nhanh các bạn trong buồng. Tôi làm như vô tình, nhưng thật ra là có ý dò xét xem có ai chú ý tới việc tôi sắp sửa tắm hay không. Những gì tôi ghi nhận thật đáng khích lệ!

                      Trong góc đàng xa, một nhóm khá đông mải mê cờ tướng, đang cúi gầm trên bàn cờ được kẻ vạch ngay trên bệ nằm bằng xi-măng. Nhóm khác ngồi kế bên, đang tranh luận rất gay cấn, khua tay múa chân, mạnh ai người ấy nói như một đám ứng cử viên đang cố gắng trình bày kế sách cùng một lúc với cử tri! Có vài người đang lúi húi với cái bị cói đựng đồ thăm nuôi đang bị lũ kiến đói tấn công! Có người đang ngồi đọc báo Nhân Dân. Có người trịnh trọng nắn nót que diêm trước khi đánh lửa hút thuốc lào. Các nhóm này mang lại cho tôi thật nhiều sự an ủi và dễ chịu.

                      Nếu cả 60 con người trong buồng này ai cũng đang bận rộn về một việc như vậy thì việc tắm truồng của tôi đâu còn là một vấn đề. Ngặt một nỗi, có mấy anh chàng ngồi trong các góc đối diện kia đang trầm ngâm như những triết gia. Họ đưa cặp mắt lờ đờ rảo qua hết nơi này tới nơi khác. Tôi không thể đoán  được trong đầu óc họ lúc đó đang suy nghĩ gì. Họ nhìn bốn phương tám hướng, nhưng thực sự họ chỉ nhìn để mà nhìn, hay có ý muốn quan sát một điều gì không, ai biết được? Chính những anh chàng này làm khổ tôi, chính họ tạo cho tôi sự bất ổn vì không thể đoán biết được gì trong cái nhìn vu vơ của họ.

                      Tận trong một góc đàng xa, tôi thấy Bác sĩ Lý Trung Dung đang ngồi một mình, cởi trần mặc quần đùi trắng, vóc người nhỏ thó, đầu tóc bạc phơ. Ông đang dựa lưng vào tường, đôi mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm đọc kinh, đây là thói quen thường ngày của ông. Bác sĩ Lý Trung Dung có lần kể với tôi ông là tác giả công trình Hội Chợ Thị Nghè trong dịp Quốc Khánh năm 1957 thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lần đó cây cầu phụ bắt qua sông Thị Nghè bị sập trong đêm làm chết khá nhiều người. Tôi cũng có mặt gần bên, trong dịp tôi Sài Gòn lần đầu tiên khi tôi vừa 14 tuổi.

                      Sau khi đảo mắt một vòng, tôi kết luận thật nhanh:“Không đến nỗi nào, không có mấy người chú ý đâu, cứ tự nhiên thôi!”Tôi mạnh dạn bước vào”buồng tắm” và làm những động tác như các bạn tù. Tôi cố gắng làm một cách thật tự nhiên và nhẹ nhàng, trong khi liếc mắt nhìn, chẳng ai thèm để ý tới tôi. Từ đó tôi nhập cuộc vào sinh hoạt thông thường với anh em trong buồng. Việc đi tắm một cách tự nhiên đó không còn là vấn đề đối với tôi, vì đó là thực tế của cuộc đời tôi đang sống. Cuộc đời của một người tù.

                      Khi cha Khâm bị đưa đi rồi, nhờ có anh tù mang thức ăn cho khu kỷ luật mà tôi quen, nên tôi biết tin về cha Khâm và có thể gởi cho ngài ít thứ cần thiết. Cha Khâm bị đưa xuống cùm chân trong hầm kỷ luật. Hầm này trước kia là hầm truyền tin của trung đoàn, nằm giữa sân trại, ngay lối ra vào. Hôm sau tôi nhờ anh mang vào cho ngài nải chuối và dây thắt lưng da to bản mà ngài vẫn dùng. Những ngày sau chúng tôi cũng tiếp tục gửi thức ăn cho ngài, nhưng cũng có lần ngài nhắn lại là không cần thức ăn nữa, chỉ xin anh em Công giáo giúp lời cầu nguyện cho ngài.

                      Khi cha Khâm bị đưa đi rồi, chỉ còn lại anh Trần Đình Ngành và tôi sinh hoạt chung với nhau. Anh Ngành là người rất tốt và nhân hậu. Anh rất thương cha Khâm và tôi. Trong đêm đầu tiên cha Khâm bị dẫn đi, anh Ngành vô mùng nằm khóc nức nở và những ngày sau lúc nào cũng tìm cách gửi một thứ gì đó cho “Cậu Hai”. Anh Ngành và tôi gặp nhau trong khu xà-lim trại Phan Đăng Lưu, từ đó chúng tôi quý mến nhau. Anh vẫn gọi tôi là “3 ngã” và tôi gọi anh là “3 huyền” theo các dấu trong tên của hai người là Trần Đình Nghành và Nguyễn Hữu Lễ. Một tuần sau, trong khi chúng tôi đi lao động về, thấy có một xe nhỏ bít bùng chạy từ trong trại ra. Hôm sau tôi được anh tù lo việc liên lạc cho biết Cậu Hai đã được đưa vào nhà tù Chí Hòa. Kể từ đó không bao giờ tôi gặp lại cha Vũ Đức Khâm nữa.
                       

                      Tin chuyển trại

                      Sau khi cha Vũ Đức Khâm bị đưa đi một thời gian, có tin đồn là chúng tôi sẽ được di chuyển về Đồng Tháp. Tin này được loan truyền đi rất nhanh trong trại. Có một điểm tâm lý dễ hiểu là trong tù lúc nào chúng tôi cũng mong có sự thay đổi. Ai cũng hy vọng là chỗ mới sẽ khá hơn nơi chúng tôi đang sống. Vả lại, trại Gia Ray là một nơi rất tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi thứ, ngay cả những nhu cầu tối thiểu của con người, nên chúng tôi càng mong được chuyển đi nơi khác hơn.

                      Lúc đầu không ai biết tại sao có tin đồn đó, nhưng khi tìm hiểu cặn kẽ mới biết là những người bà con vào thăm nuôi đã báo tin. Trước khi vào thăm nuôi, thân nhân của tù thường dừng lại các hàng quán bên ngoài mua hoa quả, bánh trái và đã được một cô bán hàng cho biết tin đó với tính cách “bí mật”. Số là cô bán hàng có quen một anh công-an cai tù trong trại. Ngày kia anh ta ra từ giã cô gái và nói là anh sẽ vắng mặt một thời gian. Cô gái vặn hỏi mãi lý do nhưng anh ta không nói, chỉ trả lời úp mở càng làm cho cô gái sốt ruột và sinh nghi sắp có chuyện gì liên quan tới số phận các tù nhân trong trại.

                      Cũng nên biết là lúc bấy giờ đồng bào trong Nam rất thương các người tù như chúng tôi, nếu có thể làm gì để giúp cho các tù nhân, họ không bao giờ từ chối. Cô gái bán quán này cũng trong tâm trạng đó. Mặc dù không làm gì được để giúp chúng tôi nhưng cô đã lợi dụng sự quen biết với cán bộ để “moi” tin tức, và tìm cách đưa vào trong trại. Vì cô nghĩ đó là cách cô giúp cho những người tù mà cô thương mến. Lần này, sau mấy ngày úp mở về sự vắng mặt sắp tới của anh cán bộ, cô gái phải làm hết cách để hỏi cho bằng được. Cuối cùng anh cán bộ đành phải tiết lộ với câu dặn dò rất nghiêm trọng:“Đừng bao giờ nói lại với ai là anh sẽ áp tải một số tù về Đồng Tháp!” Chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau, không một người tù nào trong trại Gia Ray mà không biết tin “bí mật” là sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp!
                       

                      Tung hỏa mù

                      Tù nhân trong trại Gia Ray bắt đầu xôn xao, bàn ra tán vào về nguồn tin đó. Các “nhà bình luận thời cuộc” lại có dịp bày tỏ sự hiểu biết của mình về lý do tại sao phải chuyển trại. Tại sao lại đưa về Đồng Tháp mà không thể đưa đi nơi khác? Và ở đó sẽ ra sao? Sau khi bàn đi tán lại đủ điều, họ đưa ra câu kết luận là:“Rất tốt!”

                      Lúc mới vừa bị dồn lên trong trại này, chúng tôi ai cũng lo ngại sẽ bị đưa ra Bắc. Hai tiếng “ra Bắc” là hai tiếng cấm kỵ. Trong tù ai cũng sợ, cũng kiêng, không ai dám nhắc tới nó. Hai tiếng “ra Bắc” đồng nghĩa với ba tiếng “đến tử địa” nên không ai dám nghĩ là mình sẽ rơi vào trường hợp ra Bắc. Chúng tôi không muốn nhắc tới hai tiếng đó, mặc dù lúc nào nó cũng tiềm ẩn ở một nơi nào đó trong lòng của từng người tù chúng tôi.

                      Bây giờ có tin đi Đồng Tháp, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nỗi lo canh cánh bên lòng bây giờ được giải tỏa, như vừa trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Ở Đồng Tháp có điều gì hay thì chưa biết nhưng mọi người đều hân hoan với viễn ảnh là đến đó thì được tha hồ mà dùng nước! Vì Đồng Tháp là vùng sông ngòi, trong khi ở Gia Ray này, một giọt nước quý như một giọt máu. Chúng tôi vui mừng hớn hở và yên tâm chờ đợi ngày được đi Đồng Tháp. Một viễn ảnh tốt đẹp cho kiếp tù đang le lói trong lòng của hơn ngàn tù nhân trong trại lúc bấy giờ.

                      Vào một buổi trưa Chúa Nhật của tuần lễ đầu tháng Tư, có một anh Công giáo trong đội nhà bếp tới gặp tôi để xưng tội. Sau đó anh kéo tôi ra gần bờ rào trại để nói chuyện riêng. Anh nói với tôi:“Con báo cho Cậu Bảy biết, qua tuần tới, tức là sau lễ Phục Sinh sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, trong số đó có tên Cậu Bảy. Xin cậu hãy giữ kín chuyện này vì nếu tiết lộ con sẽ bị nguy hiểm. Con xin cậu cũng đừng hỏi tại sao con biết việc này, cậu chỉ biết là không phải con làm việc cho tụi nó đâu.” Anh bạn nói với tôi với tất cả sự xác tín. Tôi biết đây là một hung tin, nhưng tôi vẫn hy vọng biết đâu tin này không chính xác. Trong lúc đó, hàng ngày anh em vẫn bàn tán sôi nổi về việc đi Đồng Tháp. Riêng tôi được biết tin bí mật này, nhưng vì tính cách nghiêm trọng của nó và vì lời hứa, tôi phải giữ kín, không hề hở môi ra cho bất cứ ai. Lúc đó đội tôi vẫn đi làm lao động bên ngoài, khai hoang, dọn đất cho các đội trồng rau xanh.

                      Những ngày sau đó đầu óc tôi lúc nào cũng hoang mang lo lắng về tin ra Bắc mà tôi được biết. Bắt đầu từ Thứ Hai sau lễ Phục Sinh, ngày nào tôi cũng hồi hộp và chờ đợi coi có động tĩnh gì không. Nỗi khổ tâm của tôi lúc bấy giờ là không thể tiết lộ với ai. Trong khi đó hàng đêm, sau khi vào buồng, anh em ngồi tụm năm tụm ba bàn tán về cuộc chuyển trại về Đồng Tháp sắp tới. Điều này càng làm cho tôi khốn khổ hơn, vì biết được một việc có liên quan tới số phận của quá nhiều người, nhưng vì lời hứa, tôi không thể nào tiết lộ được.

                      Ngày thứ Hai trôi qua, không có gì xảy ra, rồi ngày thứ Ba... và các ngày tiếp theo trong tuần, ngày nào tôi cũng hồi hộp chờ đợi nhưng vẫn không thấy gì. Tới sáng ngày thứ Bảy vẫn lặng yên như tờ. Tôi rất vui trong lòng vì biết là nguồn tin anh bạn nhà bếp nói không đúng sự thật. Tôi không trách anh ấy, vì trong tù các tin đồn, tù nói tội nghe vẫn là chuyện thường xảy ra. Vả lại tin anh ta báo “ra Bắc” mà không đúng sự thật là một hồng ân đối với tôi rồi. Xế trưa thứ Bảy, chúng tôi cũng xếp hàng, báo số đi lao động buổi chiều như thường lệ. Trong lúc lao động, tôi cảm thấy thật hân hoan vì anh bạn nói chắc chắn là nội trong tuần này sẽ có đợt chuyển tù ra Bắc, mà lại có tên tôi trong danh sách, thế mà bây giờ là chiều thứ Bảy rồi, tôi còn gì phải lo nữa?

                      Sau giờ lao động, lúc đó quãng 5 giờ chiều, đội chúng tôi xếp thành hàng 4 trở về trại như thường lệ. Trên đường về trại, tôi thở phào nhẹ nhõm. Một nỗi vui xâm chiếm lấy tôi, một nỗi vui rất lớn mà ít khi nào tôi có được tâm trạng đó. Lòng tôi sung sướng hân hoan trong lúc chân đang đều bước trong hàng trên đường về trại. Tôi nhớ tới ngày mai với một viễn ảnh tươi đẹp. Ngày Chủ Nhật sẽ nghỉ ngơi và thăm viếng, tiếp xúc với anh em, bạn bè.

                      Suốt tuần qua tôi bị tin “ra Bắc” ám ảnh và dày vò. Lúc nào tôi cũng mệt nhọc như đang đeo gánh nặng hàng trăm cân trên người. Cũng may thời gian lo lắng chỉ có một tuần, nếu tình trạng này kéo dài hơn, chắc tôi sẽ ra nghĩa địa trước khi ra Bắc (nếu có!). Chiều nay tôi mới thực sự thoải mái! Tôi ngước đầu lên nhìn bầu trời xanh và hít một hơi thật dài trong tư thế của một người vừa có niềm vui lớn. Niềm vui của người vừa thoát qua một tai nạn, một tai nạn có thể kết liễu đời mình.

                      Khi cúi đầu xuống, chợt tôi thấy từ đàng xa, trên con đường vào trại từ hướng ngã ba Ông Đồn có một cái gì rất lạ! Sau khi định thần nhìn kỹ, tôi thấy một đoàn xe tải quân đội đang chạy nối đuôi nhau làm tung lên đám bụi mịt mù trên con đường đất đỏ hướng vào trại. Tôi chới với gần như ngộp thở khi thấy cảnh này! Thì ra những gì tôi đã hồi hộp lo lắng cả tuần nay, bây giờ đã tới. Nó tới vào lúc tôi không ngờ nhất.

                      Trong khi đó, thật vô cùng trớ trêu, một số người trong đội tôi vỗ tay vui mừng, vì nghĩ rằng đoàn xe mà họ chờ đợi từ lâu để đưa họ đi Đồng Tháp, bây giờ mới tới!

                      Khi chúng tôi vừa nhập trại, chưa kịp lấy thức ăn, nước uống thì có tiếng kẻng tập họp bất thường. Toàn thể tù nhân tập trung ra giữa sân trại cho ban giám thị nói chuyện. Chỉ cần thấy đoàn xe tải đang đậu dọc theo sân, ai cũng đoán biết là sắp có cuộc chuyển trại, và phải là đi Đồng Tháp! Sau khi tập trung chỉnh tề, ông trại trưởng cho biết, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và vì trại này quá đông, do đó không thể lo lắng đầy đủ được cho tất cả mọi người, nên một số sẽ được chuyển đến một nơi mà điều kiện nước nôi rất thoải mái. Cuộc chuyển trại chia làm nhiều đợt và đợt đầu sẽ là các anh có tên trong danh sách. Sau đó cán bộ đọc một danh sách 350 người, trong đó có tên tôi.

                      Lúc giải tán về các buồng, ai cũng nghĩ là sẽ đi Đồng Tháp nên rất vui mừng. Cả trại nhốn nháo và lộn xộn không tả được. Anh em từ giã nhau, các nhóm sinh hoạt chung thì chia chác đồ ăn, thức uống hoặc đồ dùng. Một số người cảm thấy thiệt thòi vì chưa được đi “Đồng Tháp” trong đợt đầu, vì ở đó có nước máy theo lời cán bộ trại trưởng nói.

                      Lúc bấy giờ sự việc đã tới và không cần giữ bí mật nữa, tôi nói với anh em là số tù này bị chuyển ra Bắc, nhưng không mấy người tin vào lời tôi nói. Có người còn cho là tôi cố ý hù dọa anh em, họ gọi tôi la người nằm mơ giữa ban ngày. Đêm hôm đó, cán bộ võ trang tuần canh bên ngoài nghiêm nhặt bằng mấy lần ngày thường. Sở dĩ tôi biết, vì suốt đêm đó anh bạn thân của tôi là Phạm Thế Khải và tôi thức trắng đêm, chờ một cơ hội thuận tiện.
                       

                      Con đường vô định

                      Qua ngày Chủ Nhật hôm sau, những người trong danh sách chuyển trại được cấp phát mỗi người một bao tải loại lớn nhất để chứa đồ đạc, áo quần, chăn màn nhưng không được đựng thức ăn và chai lọ. Sau khi cho đồ vào bao và cột miệng thật chặt, mỗi người được phát hai cái thẻ có mang số giống nhau. Một thẻ cột vào miệng bao và thẻ kia giữ trong người. Lúc đi đường mỗi người được mang theo một túi xách nhỏ đựng những thứ lặt vặt cần dùng. Suốt ngày Chủ Nhật hôm ấy, chúng tôi bận rộn thu dọn đồ đạc. Ai vô bao xong, mang để trên hội trường.

                      Tới chiều tối chúng tôi được lệnh lên mấy chục xe đang đợi sẵn. Sau khi lên xe, chúng tôi bị còng tay từng đôi một, các tấm bạt che hai bên hông xe được hạ xuống, cài lại cẩn thận và chúng tôi không còn thấy được gì bên ngoài. Khi xe chuyển bánh rời trại thì trời đã tối hẳn, tôi đoán phải là mười giờ đêm, bên ngoài tối đen như mực.

                      Mặc dù bị nhốt trong xe bít bùng, nhưng theo hướng xe chạy chúng tôi cũng biết là đang đi về hướng Sài Gòn. Một số người trên xe vui mừng hí hửng, luôn mồm phát biểu:“Rõ ràng là xe đang hướng về Đồng Tháp, mình nói có sai đâu!” Xe chạy một thời gian khá lâu thì dừng lại. Chúng tôi vẫn được lệnh ngồi yên trên xe và các tấm bạt vẫn che kín hai bên nên chúng tôi không biết xe đang dừng lại ở địa điểm nào. Một hồi lâu sau, chúng tôi được lệnh xuống xe và lúc bấy giờ mới biết là chúng tôi được chở tới bến Tân Cảng, ngay đầu cầu xa lộ Sài Gòn.

                      Trên bến tàu rất đông công-an, cảnh-sát mặc sắc phục và trang bị súng ống đạn dược đầy người. Nhìn xuống sông, một chiếc tàu biển loại lớn có tên SÔNG HƯƠNG đang đậu cập cầu tàu. Dưới ánh đèn điện chập chờn, tôi thấy thân hình nó to lù lù trong đêm như một con quái vật dưới lòng sông vừa trồi lên mặt nước. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy lại cái “vật lạ” bằng gỗ trong láng mộc trước kia mà chúng tôi thắc mắc không biết là cái gì, bây giờ được dựng đứng bên thành tàu. Thì ra nó là cây thang bắc lên tàu Sông Hương!

                      Chúng tôi được lệnh xuống xe, vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một, xếp thành hàng ngay ngắn trên bến cảng, chờ cán bộ làm thủ tục bàn giao. Một điều rất buồn cười là đến lúc đó, vẫn còn có người khẳng định là tàu Sông Hương sẽ đưa chúng tôi đi Đồng Tháp!

                      Có lẽ tôi cũng nên dừng lại ở đây để giải thích tại sao “hiện tượng Đồng Tháp” ám ảnh quá mãnh liệt một số trong nhóm tù chúng tôi như thế. Một lần nữa, chúng tôi phải ngả mũ trước thủ đoạn dùng mẹo vặt của người cộng-sản. Người cộng-sản biết rằng các tù nhân rất sợ bị đưa ra Bắc. Nếu để chúng tôi biết có dấu hiệu ra Bắc, chắc chắn sẽ có hậu quả không hay. Ít nhất là sẽ có một số người tìm cách vượt ngục ngay từ trong miền Nam. Yếu tố tâm lý thứ hai là lúc ở trại Gia Ray quá đông người và thiếu thốn đủ các thứ, nhất là nước uống, ai cũng mong được tới một trại nào có đủ nước để dùng thì Đồng Tháp có nhiều sông ngòi là địa điểm lý tưởng để lường gạt. Nhưng cái mẹo vặt của họ là cho một anh cán bộ hạng bét ra tỉ tê với cô gái bán hàng có cảm tình với tù nhân trong trại. Anh ta cho biết là sẽ vắng mặt một thời gian để áp tải một số tù về Đồng Tháp, và cẩn thận dặn cô gái: “đừng tiết lộ với ai tin này”! Chính nhờ lời căn dặn này mà tin đó loan vào trại nhanh hơn và rộng rãi hơn.

                      Thật đúng như họ mong muốn, chỉ một ngày sau cả trại đều biết và tin là sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp. Tin được đưa về Đồng Tháp làm nhiều người vô cùng phấn khởi và hy vọng. Ngay cả lúc bị đưa tới bến Tân Cảng và sắp sửa bước lên chiếc tàu biển thật to đang chờ sẵn, họ vẫn nghĩ là “phải” đi Đồng Tháp, không thể là một nơi nào khác hơn được! Sự nhẹ dạ và khờ khạo của con người đôi lúc làm chúng ta phải kinh ngạc.
                       

                      Giã biệt miền Nam

                      Chúng tôi phải đứng chờ khá lâu trong tâm trạng hoang mang lo lắng. Phần tôi, vì đã biết rõ số phận mình, nên khi đứng trên bến tàu tôi cố gắng mở to đôi mắt như muốn ghi nhận tất cả những hình ảnh của miền Nam thân yêu, mà tôi biết là sẽ rất lâu hoặc chẳng bao giờ tôi còn nhìn thấy lại được. Sau khi chờ đợi chán chê, chúng tôi được lệnh bước lên tàu. Từng đôi một lần theo những nấc của chiếc thang kỳ dị do tù nhân trại Gia Ray đóng và đã có một thời chúng tôi thắc mắc về nó. Sau khi lên tới boong tàu, chúng tôi băng qua một đoạn đường ngắn dẫn tới một ô cửa. Bên trong có cầu thang bằng sắt dẫn xuống phía dưới. Tại đây, chúng tôi được tháo còng, sau đó từng người một lần bước theo cầu thang hình trôn ốc, chỉ vừa đủ cho một người, lần mò đi xuống. Sau khi được mở còng, tôi quay lại nhìn toàn bộ khung cảnh bến Tân Cảng. Mặc dù trong đêm tôi không thấy được nhiều, nhưng tôi cố gắng ghi nhận khung cảnh cuối cùng của miền Nam thân yêu, nơi tôi được sinh ra và lớn lên.

                      Tôi biết mình sẽ bị đưa ra Bắc, mở màn cho kiếp sống của người tù biệt xứ và tương lai không biết rồi sẽ ra sao? Tôi tự hỏi, không biết mình còn có dịp trở lại miền Nam thân yêu này nữa hay không? Tự nhiên một cơn cảm xúc mạnh vồ lấy tôi, nước mắt tôi dâng tràn khi tôi sắp sửa phải từ giã một giá trị tinh thần vô cùng  quý yêu. Cho tới phút đó tôi mới nhận ra hết ý nghĩa thiêng liêng của những chữ “nơi chôn nhau cắt rốn”. Nước mắt vẫn lưng tròng, tôi quay lại với thực tế, lần bước theo cầu thang bằng sắt có hình trôn ốc lần mò đi xuống bên dưới. Cuối cầu thang là một hầm tàu rộng và đen ngòm, được soi sáng bằng một vài bóng điện nhỏ từ trên cao chiếu xuống. Vách thành tàu bám toàn là bụi than đá và trên sàn cũng vương vãi than vụn.

                      Thì ra đây là hầm chở than của tàu Sông Hương. Trong góc phía xa có một số thùng làm bằng các tấm ván ghép lại, có quai bằng dây sắt, dùng để các tù nhân tiêu tiểu vào đó. Lúc mới bước xuống, tôi có cảm tưởng là hầm tàu rất lớn, nhưng khi số tù nhân xuống hết, khoang tàu lại trở nên chật chội. Sau khi chúng tôi xuống hết dưới hầm, cánh cửa sắt ngay cuối cầu thang sát với hầm tàu được đóng lại và có dây lòi tói quấn chung quanh, hai đầu được khóa lại bằng ống khóa đồng to tướng.

                      Cảnh tượng trong hầm tàu thật hỗn độn. Ai nấy lo di chuyển tìm chiếm một góc nào đó làm cơ ngơi riêng. Những nhóm anh em từng sinh hoạt chung trong trại thì tìm nhau để kéo về một góc. Mọi người lúc đó đều bận rộn, kẻ lo lau chùi sàn tàu, người quét tước, dọn dẹp chỗ nằm, tạo ra cảnh rộn ràng như một tổ ong. Lúc này chúng tôi trở thành đám đông hỗn tạp, vô tổ chức. Không còn những “sĩ quan” do ban giám thị trại chỉ định, không còn đội trưởng đội phó, và mọi người trở nên bình đẳng trong thân phận một người tù trong hầm tàu u ám và dơ bẩn này.

                      Tàu rời bến vào khoảng sau nửa đêm. Sở dĩ chúng tôi biết tàu chạy là nhờ khi nhìn lên bầu trời thấy các vì sao đang di chuyển ngược chiều. Lúc mới vừa xuống hầm, chúng tôi cứ ngỡ là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi nhận được tín hiệu đáp lại của “phe ta” từ các khoang khác. Như thế, tàu Sông Hương vào Nam “bốc hàng” của nhiều trại tù khác nhau cung cấp. Tổng số tù trên tàu bao nhiêu chúng tôi không thể biết được, nhưng căn cứ vào tầm vóc con tàu, chúng tôi nghĩ là phải hơn 1000 tù nhân trong chuyến đi này.
                       

                      Hy vọng và Hy vọng

                      Trong khung cảnh một đám tù nhân láo nháo hỗn độn dưới hầm tàu tối đen như đàn vịt vừa mới bị lùa vào chuồng như vậy, không hiểu từ đâu lại có nguồn tin nói là chúng tôi nằm trong diện trao đổi tù binh và con tàu này đưa tới địa điểm trao trả!

                      Có mấy anh em có vẻ đạo mạo và tỏ ra am hiểu thời cuộc, đang lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người khi họ “xì” ra tin này. Họ cho biết, theo nguồn tin đáng tin cậy, thì hiện nay bên ngoài đang diễn ra cuộc thương lượng giữa Mỹ và chánh phủ Việt Nam về vấn đề Mỹ bồi thường chiến tranh 3 tỷ đô-la cho Việt Nam. Ngược lại phía Việt Nam phải trao cho Mỹ tất cả số tù nhân hiện đang có mặt trong các “trại cải tạo”! Như thế không có nghĩa là quân nhân mà thôi, mà tất cả những ai đang nằm trong các nhà tù cộng sản đều sẽ được trao cho Mỹ. Và địa điểm trao trả sẽ được hai bên thỏa thuận.

                      Những nhà bình luận thời cuộc trong tù cũng nghiêm túc cho biết, số tù nhân sau khi được trao trả sẽ được đưa thẳng sang Hoa Kỳ. Nghe thế có nhiều anh vỗ tay và reo lên:“ Thế thì nhất! Không ngờ mình đi tù lại hóa ra may, bên ngoài xã hội bao nhiêu người mong đi Mỹ mà không đi được”. Tôi thấy có nhiều người phụ họa để bàn thêm tin này cho tới nơi tới chốn.

                      Trong khi tôi ngồi ủ rũ nhìn cảnh này, tôi nhớ lại câu nói của người bạn tù làm nhà bếp đã nói với tôi tuần trước:“Tuần tới sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, và trong đó có tên Cậu Bảy”. Tôi không biết gì về xuất xứ của nguồn tin “ trao trả tù binh” này, nhưng tôi hồ nghi là nó cũng bắt nguồn từ hãng thông tấn “ Đồng Tháp” mà hiện thời có rất nhiều người đang có mặt trên chuyến tàu định mệnh này bám vào đó như một nguồn hy vọng để sống.

                      Theo tôi nghĩ, tâm trạng của hầu hết anh em tù nhân trong khoang tàu tối om và dơ bẩn lúc này ai cũng nghĩ mình sẽ đi Đồng Tháp, hoặc đi đến dị điểm trao trả tù binh, hoặc đến nơi nào tốt đẹp hơn theo ý họ muốn.  Nhất định không thể nào có chuyện ra Bắc được, mặc dù đã có những dấu hiệu quá rỏ về sự chuẩn bị cho cuộc Bắc du như những chiếc bao tải đựng“nội vụ”, chiếc tàu biển đen sì như con thủy quái khổng lồ và những cán bộ nhận bàn giao lúc nãy trên bến Tân Cảng nói rặt giọng miền Bắc.

                      Xét cho cùng, tôi không chê trách các anh em, vì hoàn cảnh chúng tôi lúc bấy giờ còn gì khác hơn là niềm hy vọng để mà sống. Hơn nữa hy vọng lại không mất tiền mua, thì tội gì mà không nuôi hy vọng?
                       

                      Biển vẫn đợi chờ

                      Đêm đó, vì quá mệt nhọc nên đa số lăn ra sàn tàu ngủ say như chết. Tôi cũng cuộn tròn lại như con chó con, nằm trong một góc sàn tàu bằng sắt lạnh buốt và cố dỗ giấc ngủ. Thật lạ lùng, đêm đó tôi ngủ được một giấc rất ngon với một ý định đã được thành hình trong đầu. Ý định này phát sinh ngay từ lúc tôi bước lên nấc chiếc thang gỗ, để leo dần lên tàu Sông Hương.

                      Sáng ngày, khi tôi giật mình thức giấc thì mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói chang ban mai giữa biển, dọi vào bên phải thành tàu đang ngon trớn trực chỉ về hướng Bắc. Điều buồn cười và đáng nhắc lại ở đây là, mặc dù từ dưới hầm tàu, chúng tôi không được nhìn thấy mặt trời và cảnh vật chung quanh, nhưng căn cứ vào bóng nắng dọi vào thành tàu, thì cho dù một đứa trẻ con vừa có ý niệm phương hướng cũng biết tàu đang đi về hướng Bắc. Thế mà có một số người tù vẫn nhất quyết là tàu đang đi về hướng Nam của vùng “Đồng Tháp”! Thì ra cái mẹo vặt của cán bộ cộng-sản đánh lừa các tù nhân, cộng với sự hy vọng hão huyền về một xứ Đồng Tháp có nhiều sông rạch, cùng với nỗi lo sợ phải bị đưa ra Bắc đã có tác dụng làm lú lẫn tâm trí của một số người, mà tôi nghĩ là trước kia họ cũng có trí khôn rất bình thường! Nhưng số người lú lẫn này khá ít, so với đa số người khác đã biết được thực trạng thân phận của mình.

                      Từ dưới hầm nhìn lên, tôi thấy cán bộ đứng trên boong tàu, tựa vào hàng rào sắt ngó xuống. Tôi chợt nhớ lại ngày trước, những lần vào thăm sở thú Sài Gòn, khi tới chuồng gấu chó, những khách thăm sở thú đứng tựa vào hàng rào sắt bên trên nhìn xuống đàn gấu đang đi lại bên dưới như thế. Tới giờ rửa chuồng và cho thú ăn, có người cầm vòi xịt nước xuống và ném thức ăn xuống cho bầy thú đang đứng dưới hầm chồm lên chờ đợi đón lấy thức ăn.

                      Bây giờ chúng tôi cũng vậy, tới giờ dọn vệ sinh, cán bộ đứng bên thòng dây có móc sắt xuống và bảo chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu, để họ kéo lên. Tới giờ cho ăn, người từ bên trên ném thức ăn xuống, phần nhiều là mì gói, đám tù chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Cán bộ tuần tra bên trên cúi đầu nhìn xuống để ra lệnh và quát tháo khi thấy chúng tôi quá ồn ào mất trật tự. Có lúc họ còn dọa nạt và lên cò súng đòi bắn xuống vì có chuyện lôi thôi bên dưới. Nhưng tôi biết họ chỉ dọa thôi, vì số lượng “hàng” đã được bàn giao và ký nhận, nếu anh cán bộ nào lỡ dại bắn chết một “đơn vị hàng”, chắc là anh ta sẽ phải vào thay thế cho đủ số.

                      Sau giờ quét “chuồng” và giờ cho ăn của buổi sáng đầu tiên xong, các tù nhân chúng tôi ngồi thành từng nhóm nhỏ rải rác trong hầm tàu. Trên gương mặt mỗi người hiện lên nét mệt nhọc chán chường và ngồi yên lặng nhìn nhau. Thấy bầu khí trong tàu có vẻ căng thẳng, tôi đi tới lui thăm một vài nhóm để tìm hiểu, nhờ đó tôi đoán biết có chuyện sắp xảy ra.

                      Một vài nhóm đang kéo bè kéo cánh và bàn tính chuyện hỏi tội các tay làm ăng-ten đang có mặt trên tàu. Lúc này đúng là cơ hội lý tưởng để làm chuyện đó, vì trong đám đông hỗn tạp và vô tổ chức này, ai có anh em đông, người đó có sức mạnh. Lúc đó tôi là Linh mục duy nhất trong một hầm tàu đầy người mà quá phân nửa là người Công giáo, nên tiếng nói của tôi được nhiều người lắng nghe cũng không có gì là khó hiểu. Những tay làm ăng-ten trong trại trước kia bây giờ trở nên hoàn toàn thất thế. Họ biết rõ số phận của họ hơn ai hết, nhất là sau khi “đánh hơi” được bầu khí hận thù đang dâng cao, họ lại càng lo sợ hơn.

                      Tôi thấy mấy anh có tên trong sổ đen đang ngồi co ro một góc, mặt mày tái mét. Mỗi khi có nhóm người hung hăng đi gần tới, mấy anh chàng trước kia từng gây tai họa cho anh em trong trại lại phải cúi đầu né tránh. Hình ảnh này càng làm cho hạng người trước kia, khi có uy quyền đã thẳng tay làm khổ anh em, bây giờ trông càng đáng kinh tởm hơn. Lúc bấy giờ tự nhiên có mấy người tự động di chuyển tới nằm gần bên chỗ tôi. Có vài người bắt đầu bày tỏ thái độ lễ phép và thân ái với tôi với một dụng ý thấy rõ, làm tôi ngượng.
                       

                      Trù tính kế hoạch

                      Trong hoàn cảnh đó, tôi đã lên tiếng thuyết phục các nhóm bỏ ý định trả thù các tay ăng-ten. Tuy nhiên, công việc không dễ dàng, vì không phải nhóm nào tôi cũng có ảnh hưởng đối với ho. Dù vậy, sau khi tôi nói còn một việc quan trọng chúng ta phải làm trong lúc này, anh em mới chịu từ bỏ ý định. Liền ngay sau đó, tôi âm thầm quy tụ một số đông, hầu hết là người trẻ, để trình bày một kế hoạch mà tôi đã ấp ủ trong đầu. Việc này tôi cũng đã bàn kỹ với Kỹ sư Dương Văn Lợi. Lúc ở trại Gia Ray, anh Lợi là đội trưởng đội nhà bếp, một người lanh lợi và khẳng khái. Đặc biệt anh có nhiều bạn bè và đàn em hiện đang có mặt trên tàu. Tôi mời anh Lợi cùng ngồi bàn việc.

                      Ngồi giữa số đông anh em, tôi nói rõ ý mình và xin anh em mỗi người cho biết ý kiến. Tôi vẫn quan niệm rằng, một khi đã bước chân vào tù cộng-sản, thì sẽ không còn biết tương lai vận mệnh đời mình sẽ ra sao. Nhất là với kiểu tù mang danh tập trung cải tạo như thế này, làm gì có thời điểm để hy vọng! Tốt nhất là mình phải tự cứu lấy chính mình.

                      Tôi đã từng biết dưới chế độ cộng-sản ở Nga ở Tàu và các nước cộng sản khác, những người không đồng ý với chế độ sẽ bị thanh trừng, hoặc đưa lên các trại tập trung và rất nhiều người không bao giờ trở lại. Ở Việt Nam cũng thế. Vì vậy, từ lúc bị bắt vào tù, tôi coi việc vượt ngục là con đường sống. Việc giải thoát những tù nhân khác khỏi sự giam giữ bất công là một bổn phận. Không lúc nào ý định vượt ngục rời khỏi tâm trí tôi, và tôi luôn để ý tìm cơ hội thực hiện ý định này, mặc dù tôi biết đó là việc làm nguy hiểm và phải trả giá cao, có khi là giá của mạng sống mình.

                      Trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray, trước khi bị đưa xuống tàu ra Bắc là lúc tôi quyết tâm nhất. Nhưng đêm đó cán bộ bên ngoài tuần canh nghiêm ngặt hơn bất cứ lúc nào trước đó, làm tôi và người bạn thân là anh Phạm Thế Khải đành phải bỏ ý định, sau khi đã thức gần suốt đêm rình chờ cơ hội. Khi bước chân lên tàu Sông Hương và biết là sẽ bị đưa ra miền Bắc, tôi càng quyết tâm phải tự giải cứu mình và các bạn tù. Sau khi trình bày lý do và nguyện vọng, tôi đề nghị với anh em kế hoạch đánh cướp chiếc tàu này. Tôi cũng cho anh em biết là kế hoạch này tôi đã bàn thật kỹ với với anh Dương Văn Lợi và một số anh em tín cẩn khác rồi.

                      Khi tôi trình bày xong, cả nhóm ngồi thinh lặng suy nghĩ trong một lúc. Sau đó tất cả mọi người đều tán thành, và sự nhiệt tình hưởng ứng của họ làm tôi phải ngạc nhiên. Kế hoạch được trù tính như sau: lợi dụng sự sơ hở của cán bộ trên tàu và áp dụng yếu tố bất ngờ, chúng tôi sẽ uy hiếp và cướp quyền điều khiển con tàu. Tôi chủ trương tuyệt đối không giết người, nhưng tất cả cán bộ và hành khách trên tàu sẽ bị giữ làm con tin. Sau đó lái tàu tới một nước tự do gần nhất để thương thuyết, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế, để trao đổi tất cả số tù nhân trên tàu với những con tin bị bắt giữ.

                      Chúng tôi biết đây là một ý định táo bạo đầy nguy hiểm. Nhưng lúc bấy giờ hình ảnh của sự chết dần chết mòn trong một nhà tù nào đó ở miền Bắc khiến chúng tôi nghĩ là nếu phải chết do việc cướp tàu giải cứu tù nhân, vẫn còn nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn cái chết rũ tù ở miền Bắc.
                       

                      Đi vào chi tiết

                      Trên nguyên tắc, kế hoạch đã được chấp thuận. Còn lại là phần nghiên cứu các chi tiết, nhưng phải làm cho thật nhanh vì thời gian rất giới hạn. Những chi tiết dự trù, phần lớn tôi và anh Dương Văn Lợi cũng đã bàn và có cách giải quyết. Có những việc phải giải quyết như cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, vấn đề thang dây, vũ khí cầm tay v.v. Ngay sau đó, tôi cho mời những sĩ quan Hải quân và những người hiểu biết về tàu biển tới để hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan tới việc cấu trúc chiếc tàu biển, vị trí các nơi quan trọng, cách thức điều khiển, truyền tin và tốc độ.

                      Sau khi có được ý niệm căn bản và những yếu tố khả thi, tôi chọn ngay một ban tham mưu và phân công nghiên cứu từng vấn đề. Tôi mời anh Dương Văn Lợi làm phụ tá và lo về mặt nhân sự. Anh Lợi có người đàn em là Hồ Hoàng Khánh, trước là người nhái,rất khỏe mạnh và tháo vát lo phụ giúp cho anh.

                      Kế hoạch sẽ thực hiện như sau: khoảng 6 tiếng đồng hồ trước giờ G của ngày N (sẽ do tôi ấn định), sẽ cưa đứt dây lòi tói khóa cửa cầu thang. Đúng giờ G, nhóm cảm tử 25 người, trong đó có mấy anh võ sĩ, sẽ bò lên trước theo ngả cầu thang. Khi lên trên sẽ ẩn nấp vào các hốc hẻm trên boong tàu, chờ cơ hội vô hiệu hóa thật nhẹ nhàng lính canh, trói tay chân nhét giẻ vào mồm, băng miệng lại. Sau đó tức tốc thả những thang dây xuống. Liền đó, nhóm tham gia, quãng 100 người, bám thang leo lên, lợi dụng yếu tố bất ngờ ban đêm, chia nhau uy hiếp và chiếm giữ những nơi trọng yếu.

                      Chủ trương: tuyệt đối không giết người, nếu giết người chúng tôi sẽ thất thế về sau. Nhưng phải uy hiếp cho được quyền làm chủ con tàu và bắt giữ con tin càng đông càng tốt. Sau khi cướp được tàu, các sĩ quan Hải quân sẽ lái qua Phi Luật Tân là quốc gia tự do gần nhất. Chấp nhận chuyện bại lộ. Nhưng tàu sẽ không bị bắn chìm vì có một số rất đông cán bộ, hành khách và cả viên chức cao cấp của bộ Nội Vụ từ Bắc vào Nam lãnh tù. Khi tới Phi, chúng tôi sẽ đặt vấn đề trao đổi người, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế có thẩm quyền.

                      Các vật liệu cần thiết đã có: một nửa lưỡi cưa sắt của một bạn tù dấu được trong đôi dép râu. Một số quần dài của nhiều người để nối lại làm thang dây. Một số khá nhiều những đoạn mía thả xuống cho tù ăn, chúng tôi còn để lại dùng làm vũ khí cầm tay. Trong khung cảnh lúc bấy giờ, việc chuẩn bị và bàn tán không thể nào lọt qua cặp mắt và lỗ tai vốn rất thính của mấy tên ăng-ten đang ngồi co ro, im thin thít, mặt mày tái nhợt, quây quần chỗ tôi nằm. Lúc này bọn chúng hoàn toàn thất thế, đành phải ngồi im, và dù có muốn báo cáo lập công, chúng cũng không dám và cũng không có cách nào liên lạc với cán bộ bên trên. Mọi cử động, sự đi lại của đám này đều được chúng tôi canh chừng theo dõi cẩn thận. Tôi biết họ cũng đang theo dõi chúng tôi từng chi tiết một.

                      Qua hôm sau, ngày 19 tháng Tư, có 2 việc quan trọng phải làm. Trước nhất là thực tập việc cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, thứ nhì là làm sao cho cán bộ khinh thường và đánh giá thấp đám tù nhân trong khoang tàu chúng tôi. Với chủ trương đánh lạc hướng cán bộ canh gác và tạo tiếng động trong khoang tàu, tôi tổ chức cho anh em hát thật to những bài hát “Giải phóng miền Nam”, “Trường Sơn đông Trường Sơn tây.” Vừa hát, anh em vừa vỗ tay vang rền. Trong lúc đó, người lo việc cưa dây lòi tói khóa cửa tha hồ mà thực tập, không sợ ai nghe được tiếng cưa sắt.

                      Ngoài ra, để cán bộ khinh thường và đánh giá bọn tù chúng tôi không ra gì, mỗi khi thức ăn được ném xuống, tôi tổ chức cho anh em trong nhóm giành giật, đánh lộn rượt nhau tưng bừng. Trong khi đó người của chúng tôi lên tiếng bẩm báo xin cán bộ giải quyết. Dĩ nhiên là chẳng anh cán bộ nào dại dột mò xuống đây, nhưng họ đứng trên miệng hầm, thò đầu ra chửi bới và dọa nạt. Có lần tôi nghe họ nói vọng xuống:“Bọn các người chỉ có biết giành ăn! Đúng là một lũ vô tích sự, cho chúng mày giết nhau!” Tôi cười thầm:“Những con mồi của tôi đã vào bẫy!” Càng lúc càng có nhiều vụ đánh nhau, giành ăn và rượt chạy tưng bừng trong khoang tàu. Lại có tiếng gọi vọng lên báo cáo, nhưng mãi rồi cán bộ cũng chán, không thèm can thiệp chỉ để “cho bọn mày giết nhau!”

                      Loại chiến tranh tâm lý này tỏ ra rất công hiệu. Suốt ngày hôm ấy, nhóm chúng tôi hết hát rồi lại vỗ tay tưng bừng, rồi lại đến các vụ giành ăn đánh nhau và báo cáo cán bộ inh ỏi. Có lúc tôi thấy cán bộ bên trên nhìn xuống lắc đầu, và tôi đoán được trong thâm tâm là họ coi nhóm tù trong hầm tàu này chỉ là loại người vô tích sự, chỉ biết giành ăn.  Lúc đó tôi mới thấy yên tâm về yếu tố bất ngờ. Chính yếu tố này sẽ quyết định cho sự thành bại của kế hoạch sắp tới.
                       

                      Tế sống dũng

                      Trong đêm 18, trước lúc đi ngủ, tôi mời tất cả anh em sẽ tham gia kế hoạch ngồi lại với nhau. Sau khi bày tỏ tâm tình và nói lên tính chất nghiêm trọng của việc làm có thể dẫn tới cái chết. Tôi xin anh em, mỗi người tùy theo tín ngưỡng mình, cầu nguyện cho việc sắp thực hành. Xin Đấng Bề Trên phù hộ cho việc làm. Nhưng nếu thấy việc này không thể thi hành được thì xin Đấng Bề Trên can thiệp một cách nào đó để tránh sự nguy hiểm và chết chóc cho nhiều người. Nghe tôi nói, anh em ngồi thinh lặng nhìn nhau trong bầu khí trang nghiêm, nặng nề. Sau khi cho biết việc chuẩn bị tiến hành thuận lợi và kế hoạch có thể tiến hành được. Tôi ấn định ngày N là ngày khởi hành +2, tức là ngày 20, và giờ G là đúng 1 giờ sáng, như thế còn 27 tiếng đồng hồ nữa để chuẩn bị thêm.

                      Sau khi công bố ngày giờ hành động, tôi thay mặt cả nhóm cử hành nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, là những người sẽ xung phong lên trước tiên. Trong bầu khí trang nghiêm, tôi nói:“Chúng ta sắp làm một việc sẽ ảnh hưởng tới mạng sống mình và nhiều người khác. Nhưng chúng ta phải làm vì đó là cách để tự giải thoát mình và nhiều người khỏi sự tiêu diệt thật phi lý của chế độ cộng-sản. Trong số 25 anh em sẽ đương đầu với sự nguy hiểm đầu tiên, có thể các anh sẽ là những người hy sinh trước hết. Vậy, thay mặt cho tất cả anh em cùng quyết tâm tham gia, tôi xin anh em nhận một lạy của tôi như một nghi thức tế sống anh em. Nếu nhờ trời, chúng ta hoàn toàn thành công, các anh sẽ là những người lập công đầu. Nếu thành công nhưng các anh đã hy sinh rồi, chúng tôi sẽ vận động dựng tượng các anh. Nhưng nếu rủi ro thất bại, chúng ta sẽ cùng chết với nhau trong một cái chết có ý nghĩa, chết vì lý tưởng tự do. Cái giá của tự do rất cao, và lúc này chúng ta phải trả cái giá đó bằng chính mạng sống mình.” Nói xong, tôi quỳ xuống chắp tay và lạy một lạy để tế sống 25 dũng sĩ đang có mặt. Tất cả mọi người đều cảm động, ngồi yên cúi đầu, có người rơi nước mắt. Một lúc sau cả nhóm giải tán trong sự căng thẳng để về chỗ nghỉ ngơi lấy sức. Riêng tôi và ban tham mưu còn ngồi lại bàn tính những chi tiết. Mặc dù đã trù tính hết mọi thứ, nhưng tôi vẫn thấy những điều phải bàn dường như nằm trong danh sách dài vô tận.

                      Trong ngày đầu tiên trên biển, thời tiết thật tuyệt vời. Gió nhẹ, bầu trời trong xanh. Lâu lâu mới thấy có một áng mây trắng nhẹ nhàng lướt qua cửa hầm tàu. Gió hiu hiu thổi. Con tàu đi rất êm, êm đến nỗi nếu không thấy mây bay ngược chiều từ hầm tàu nhìn lên, chúng tôi sẽ không biết là tàu đang di chuyển. Thật đúng như câu nói: “Tháng ba, bà già đi biển”. Đêm 18, sau nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, chúng tôi bảo nhau cố gắng ngủ thật ngon để lấy sức cho những việc làm quan trọng sắp tới. Qua sáng ngày 19, thời tiết vẫn đẹp, chỉ hơi khác một điều là ánh nắng ban mai có vẻ gay gắt hơn và trên bầu trời có khá nhiều mây. Nhưng biển vẫn yên và tàu đi êm ái nhẹ nhàng.

                      Chúng tôi vẫn sinh hoạt dưới hầm tàu theo kiểu bầy gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Tới giờ “dọn chuồng”, cán bộ bên trên thòng dây có móc xuống, chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu cho họ kéo lên. Sau đó các thùng không lại được thả dây xuống để chúng tôi lấy đặt vào chỗ của nó. Tới giờ cho ăn, cán bộ từ trên ném những gói mì ăn liền xuống, chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Thức ăn lúc đó chỉ có mì gói, không còn gì khác. Trưa ngày đầu tiên được ném cho một ít mía và dưa hấu. Nước uống thì rất hạn chế, đựng trong thùng sắt và được thòng dây xuống.

                      Sau gần 2 ngày đi đường, hầm tàu dơ bẩn, nước nôi be bét. Tại góc dùng làm cầu tiêu dã chiến, mùi hôi thối từ các thùng phân, thùng nước tiểu không có nắp đậy, xông lên nồng nặc. Hơn ba trăm người tù chen chúc nhau trong cái hầm tàu đen ngòm và dơ bẩn, tự nó đã là cảnh ghê rợn. Cộng với những vụ dàn cảnh đánh nhau, giành ăn và la hét có chủ ý của chúng tôi, khoang tàu lúc đó càng trở nên quái đản và dị dạng hơn.

                      Càng gần tới lúc thực hiện, tôi càng cảm thấy ruột gan cồn cào và có cảm tưởng thời giờ qua đi quá nhanh. Mới đó mà đã tới trưa ngày 19, chỉ còn hơn 10 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ phút quyết liệt. Thần kinh tôi trở nên càng lúc càng căng thẳng mỗi khi nhìn thấy thấy bóng nắng trên  thành tàu càng lúc càng nhích dần lên cao, theo nhịp độ của mặt trời ngã dần về phía Tây. Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi mỏi mệt và thần kinh căng thẳng, nhưng thỉnh thoảng lại hát thật to, có tiếng vỗ tay kèm theo làm náo động cả khoang tàu. Chúng tôi phải giữ thói quen này, vì theo kế hoạch, đêm hôm đó phải cưa dây lòi tói khóa hầm tàu trong tiếng ca hát vỗ tay để lấn át tiếng cưa sắt.

                      Tôi đi một vòng để tiếp xúc và khích lệ tinh thần các anh em, đồng thời kiểm điểm các thứ cần thiết. Những chiếc thang dây bằng những quần dài nối lại đã được chuẩn bị. Những đoạn mía ngắn chừng 50 phân đã được cẩn thận thu xếp và sẽ được cột vào người trong lúc hành động. Một chi tiết mà tôi không bao giờ quên được, đó là trong giờ phút quyết liệt đó, tôi hay đưa tay lên sờ trán và mạch máu ở thái dương bên phải tôi lúc đó căn phồng lên to như một chiếc đũa. Chứng tỏ là tôi đang trong tình trạng căng thẳng đến tột độ.
                       

                      Ý trời

                      Khoảng 3 giờ chiều, tự nhiên thời tiết có dấu hiệu thay đổi. Khi nhìn lên, tôi không còn thấy bóng nắng trên thành tàu. Bầu trời có nhiều mây, những đám mây đen nghịt. Một dấu hiệu thay đổi thời tiết thật bất ngờ và thật nhanh. Có cơn gió nhè nhẹ nổi lên và thời tiết bắt đầu lạnh khi vài hạt mưa lất phất rơi. Lúc đầu, khi nhìn thấy cảnh này tôi mừng thầm vì có thể là yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch đêm nay. Nếu trời đêm nay có mưa nhẹ, sẽ làm chúng tôi dễ ẩn nấp. Cơn mưa sẽ che giấu tiếng động và các lính canh tuần sẽ chểnh mảng hơn.

                      Tới khoảng 4, 5 giờ chiều, gió càng lúc càng mạnh, mưa nặng hạt hơn và tàu bắt đầu lắc nhẹ. Mặc dù độ tàu lắc rất chậm nhưng cũng làm cho một số người khó chịu, xây xẩm và tìm chỗ nằm. Khi  mưa bắt đầu nặng hạt, thì một sự việc làm tôi ngạc nhiên đến độ kinh hãi khi thấy một cái nắp bằng sắt khổng lo,à được điều khiển bằng điện, từ từ bò ra trở thành cái mái che bên trên hầm tàu. Chỉ chừa một khoảng độ chừng vài thước cho chúng tôi có khí để thở. Từ lúc lên tàu và khi có ý định cướp tàu, tôi chưa biết yếu tố này. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, nếu có biến động, bên trên họ sẽ bấm nút đóng kín hầm tàu, chúng tôi sẽ ra sao? Điều này khiến anh em chúng tôi thực sự lo lắng. Một lúc sau, cơn mưa tạnh dần và tôi thấy cái nắp hầm bên trên lại được thụt vào để lộ một bầu trời xám xịt có nhiều mây đen. Những người biết về thời tiết trên biển nói đây là triệu chứng của một cơn bão nhiệt đới. Một loại bão trái mùa thường xảy ra trên vùng biển Đông.

                      Một lúc về sau, gió bỗng trở mạnh, gào thét, xô đi quật lại vào thành tàu làm con tàu lắc lư chao đảo nhiều hơn. Đám tù chúng tôi trở nên uể oải, mệt nhọc và quá phân nửa số người đã phải nằm dài xuống sàn. Một số người đã bị say sóng và nôn thốc nôn tháo ra sàn tàu. Điều tệ hại xảy ra là lúc “rửa chuồng” chiều hôm đó, khi cán bộ trên thành tàu kéo thùng phân từ hầm tàu lên trong cơn gió mạnh làm tàu tròng trành. Khi kéo thùng phân lên gần tới nơi, bất ngờ anh bị ngã làm thùng phân rơi xuống, bắn tung tóe vào trong hầm tàu! Thật là một thứ tai nạn mà tôi không biết diễn tả làm sao. Chỉ xin dành cho độc giả dùng trí tưởng tượng của mình để cảm thông cho tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ. Nhất là dưới hầm tàu lại không có nước để rửa và không có gì để lau chùi.

                      Trong giờ cho ăn chiều hôm đó, chỉ có một số ít ngồi lên nổi để lấy phần ăn, còn đa số nằm sóng sượt như những xác chết chưa chôn. Càng về đêm, gió càng gào thét dữ dội hơn, tàu tròng trành nghiêng ngả và mưa bắt đầu rơi. Nắp hầm tàu lại được trồi ra để che mưa như lúc ban chiều. Nhìn thấy cảnh này, tôi mất hết hy vọng! Tàu đang đi vào cơn bão bất ngờ và cơn bão đã đánh gục gần hết số người trong hầm tàu chúng tôi.

                      Quãng chừng 10 giờ đêm, khoang tàu trở nên vắng lặng, những người say sóng nằm lăn lộn ói mửa, có người đang ngủ say. Chỉ còn 3 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, nhưng những người cố gắng đi lại như tôi và anh Dương Văn Lợi cùng vài anh em trong ban tham mưu cũng bị chao đảo, đứng không vững vì tàu lắc quá mạnh. Tôi nghĩ thầm “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người muốn không bằng trời muốn!  Sau khi hội ý với một vài người còn lại, tôi tuyên bố bãi bỏ kế hoạch.

                      Phần tôi, mặc dù rất mệt nhọc và căng thẳng trong 2 ngày qua, nhưng không tài nào chợp mắt được. Tôi thức trắng đêm hôm ấy, nằm nghe gió thét mưa gào, trong lúc con tàu đáng thương chao đảo như một quả trứng nằm trong chậu nước đang có người cầm hai bên bờ thành chậu đong đưa.

                      Một điều làm tôi vô cùng kinh ngạc và suy nghĩ mãi cho tới ngày hôm nay: gần sáng hôm sau gió bắt đầu giảm. Càng về sáng gió càng nhẹ và tàu bớt lắc lư. Tới rạng ngày thì gió ngừng hẳn, mặt biển lại trở nên yên lặng như  tờ. Cái nắp che trên miệng hầm lại được thụt vào để lộ nền trời cao xanh biếc. Mặt trời lại chiếu ánh sáng êm dịu của ban mai vào thành tàu như trong hai ngày đầu.

                      Không ai có thể giải thích hiện tượng bão táp ngắn ngủi đêm qua. Nhưng tôi hiểu ý nghĩa của nó. Từ biến cố đó tôi càng tin mãnh liệt vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa. Vì trong những ngày đó tôi đã cầu nguyện thật tha thiết. Tôi cầu xin Thiên Chúa, nếu điều chúng tôi dự tính không thể thực hiện được thì xin Ngài can thiệp, đừng để hậu quả tai hại xảy ra. Tôi cho rằng cơn bão trái mùa hôm đó là một phép lạ riêng tư cho cá nhân tôi. Phép lạ này đã xảy ra do lòng tin và lời cầu khẩn của tôi, để chặn đứng một việc nguy hiểm có thể làm cho máu đổ ngập khoang tàu.
                       

                      Ân oán giang hồ

                      Sáng ngày, những người bị say sóng nằm lăn lóc đêm qua bây giờ tỉnh lại. Sinh hoạt trong hầm tàu trở lại bình thường. Chỉ có một thay đổi lớn là chúng tôi đã bãi bỏ kế hoạch cướp tàu, điều này khiến những người quyết tâm tham gia kế hoạch, nhất là những anh em trẻ tuổi cảm thấy tiếc rẻ. Từ tâm trạng tiếc rẻ, họ trở nên bứt rứt, ngứa ngáy tay chân và biến thành những con người hung hãn. Họ như những võ sĩ tập luyện rất công phu và sẵn sàng thi đấu, nhưng cuộc tỉ thí vì một lý do bất khả kháng phải bị bãi bỏ vào phút chót. Họ chẳng còn biết làm gì nên đã quay sang mục tiêu khác để xả cơn bực tức và sức lực của họ. Mục tiêu đó chính là bọn ăng- ten đang có mặt trong khoang tàu lúc bấy giờ!

                      Tôi muốn nói rõ hơn về việc này. Ngay từ lúc cả nhóm bước xuống hầm tàu hai ngày trước, đã có làn sóng phẫn nộ dâng cao định hỏi tội bọn ăn-ten trong trại Gia Ray. Lúc đó, những người đã hãm hại anh em trước kia, không còn đường nào thoát thân, chỉ còn cách đến với tôi tìm sự che chở như tôi đã nói ở trên. Trong tình thế đó, tôi đã can thiệp và ngăn cản anh em. Vì nếu không, sẽ có tình trạng đi thái quá và báo thù nhau vì các việc không đâu. Làn sóng phẫn nộ đã tạm thời lắng dịu từ lúc chúng tôi dồn hết tâm trí vào một vấn đề khác. Tôi dùng chữ tạm thời lắng dịu để nói lên rằng, việc ân oán giang hồ đối với hạng người làm mật báo hãm hại anh em trong tù là vấn đề làm nhức nhối nhiều người và không dễ gì có thể bỏ qua được.

                      Tôi còn nhớ, ngay trong lúc chúng tôi họp bàn về kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân, cũng có người đến bên tôi xin, khi thành công sẽ cho thiết lập tòa án ngay trên tàu để xử bọn ăng-ten. Người này còn đưa ra một danh sách thành phần “ác ôn” trong trại Gia Ray mà theo anh, những tên này phải đền tội. Tôi đã gạt ngang ngay ý nghĩ đó và cho biết rằng đó không phải là mục đích của chúng ta, và nó lại càng không phải là việc của tôi.

                      Tôi nói lên điều này để những độc giả nào chưa bao giờ phải bước chân vào nhà tù cộng-sản, cảm thông được sự đau khổ và phẫn nộ của những người bị bọn ăng-ten hãm hại như thế nào. Trong một bài khác, tôi có nói đến hành động phản bội và làm tay sai cho cán bộ, để hãm hại anh em của một số tù chính trị miền Nam. Đó là điều làm tôi cảm thấy nhục nhã và đau đớn nhất trong 13 năm tôi sống trong tù cộng-sản.

                      Buổi sáng hôm đó, không ai có việc gì để làm, không còn vấn đề gì phải bận tâm nên làn sóng “diệt” ăn-ten tự nhiên lại nổi là điều cũng dễ hiểu. Lúc đó không còn cách gì có thể kềm hãm được cơn phẫn nộ của một sống đông đang dâng lên quá cao. Mặc dù tôi đã ngăn cản được một số người, nhất là những anh em Công giáo, nhưng tôi không thể nào ngăn chặn được tất cả. Bắt đầu vào khoảng 9 giờ sáng có vài cuộc cãi vã, sau đó rượt đánh nhau gây rối loạn tại nhiều nơi.

                      Phong trào diệt ăng-ten như một cơn dịch, càng lúc càng lan rộng ra và cường độ càng lúc càng dữ dội hơn. Những người bị rượt đánh chỉ còn nước chạy vòng quanh lẩn trốn. Nhưng chạy đâu cho thoát được ra khỏi cái khoang tàu đông nghẹt những người này? Có mấy người bị đánh tơi bời, máu me lênh láng. Họ bị đánh bằng đủ các kiểu, bằng tay chân, bằng ống điếu thuốc lào và bất cứ vật gì có thể dùng làm vũ khí. Tôi còn nhớ lúc đó trong khoang tàu có 2 anh đau chân phải đi chống gậy là anh Tô Tứ Hướng và anh Hùng “Si-cà-que”. Vô tình mấy cây gậy của 2 anh đã trở thành vũ khí đắc dụng cho những người chủ trương diệt ăng-ten.

                      Tôi không biết hết những ân oán giang hồ giữa họ với nhau trong trại Gia Ray, vì tôi mới chuyển lên đó một thời gian ngắn. Thường là những người bị rượt đánh đều chạy tới tôi để xin che chở. Trong hoàn cảnh ‘chẳng ai bảo ai’ được đó, tôi đã đứng ra công khai giải thích và xin tất cả các anh em dừng tay lại. Sau khi tôi lên tiếng, làn sóng phẫn nộ lắng dịu dần, dĩ nhiên là máu đã chảy ra khá nhiều. Nhưng cũng chính vì sự lên tiếng đó mà về sau này, khi ra tới miền Bắc, tôi đã bị chính những người tôi che chở tố cáo là tôi chủ trương đánh đập họ trên tàu. Tôi đã trả một giá rất đắt về việc này.
                       

                      Cảng Hải Phòng

                      Khoảng 5 giờ chiều ngày 20 tháng Tư năm 1977, tàu Sông Hương dừng lại. Chúng tôi biết là mình đã tới một nơi nào đó ở miền Bắc, nhưng vì đang ở dưới hầm tàu nên không định thần được là mình đang ở đâu. Tàu đã bỏ neo khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn chưa được lên bờ. Một lúc sau thấy có đoàn người ở các khoang khác bắt đầu lên bến. Từ lòng hầm tàu nhìn lên, tôi nhận ra một số người tôi quen vì cùng ở chung với tôi trong trại Phan Đăng Lưu, nhưng khi tôi chuyển lên Gia Ray, họ còn ở lại và bây giờ cũng có mặt trên chuyến tàu này. Mãi tới chạng vạng tối tù nhân ở khoang tàu chúng tôi mới được lên bờ, và khi lên tới nơi mới biết đó là bến cảng Hải Phòng.

                      Khi vừa lớn lên và bước vào tuổi mộng mơ, tôi luôn ôm ấp giấc mộng hải hồ. Tôi mong ước khi lớn lên sẽ trở thành một sĩ quan hàng hải hoặc một thủy thủ của một chiếc tàu biển để có dịp băng mình trên sóng nước đại dương. Nhưng điều tôi mong muốn nhiều hơn là được dừng chân nơi những bến bờ xa lạ. Mặc dù khi lớn lên tôi không thực hiện được giấc mộng hải hồ, nhưng không vì thế mà tôi mất đi tình yêu biển cả, yêu những con tàu vượt sóng nước đại dương và ham thích khi được tới những bến bờ xa lạ.

                      Hôm nay, vô tình mong ước của cuộc đời tôi trở thành hiện thực, nhưng được thành tựu một cách thật trớ trêu. Trong lần đi tàu biển đầu tiên này, tôi không phải như một thủy thủ mà bị nhốt dưới hầm như thân phận của loài gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Giờ đây tôi đang được đặt chân lên một bến cảng xa lạ, nhưng không phải để thỏa chí tang bồng mà là để bắt đầu kiếp sống vô vọng trong thân phận người tù biệt xứ.

                       
                      nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.01.2007 10:23:02 bởi sóng trăng >
                      #11
                        sóng trăng 28.01.2007 12:46:18 (permalink)
                        .
                         
                        4
                         
                           Lần Ra Đất Bắc
                         
                         

                        Chúng tôi, những tù nhân miền Nam bị đày ra Bắc trên chiếc tàu Sông Hương vào tháng 4 năm 1977. Nhóm chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần và mọi lứa tuổi, nhưng đa số là những người trẻ. Số tù tập thể này được gọi tên chung là “tù phản động”, nghĩa là những người bị bắt sau năm 1975 vì các hoạt động liên quan tới việc chống chế độ cộng-sản dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Trong đó cũng có những người bị bắt vì trốn trình diện.

                        Tàu Sông Hương, mà chúng tôi gọi là chuyến tàu vét, là chuyến tàu cuối cùng chở tù ra Bắc. Tàu khởi hành từ bến Tân Cảng gần cầu xa lộ Sài Gòn vào sáng sớm ngày 18 tháng 4 năm 1977, chở theo khoảng 1200 tù nhân chính trị được chọn ra từ nhiều trại ở miền Nam, trong đó nhóm chúng tôi 350 người từ trại Gia-Ray, tỉnh Xuân Lộc, còn gọi là Z30 D. Trại này trước kia là hậu cứ của Trung đoàn 54. Khu trại nằm trên đồi cao có tên rất thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”, vì nghe nói trên đồi này trước đây có trồng nhiều hoa phượng. Thực ra ai đã ở đó rồi thì mới biết đồi Phượng Vĩ chẳng thơ mộng tí nào!

                        Trước mặt trại là núi Chứa Chan, nằm sừng sững trong tư thế lười biếng và thách thức. Có mấy anh sầu đời vì tù lâu quá, bực mình nổi cáu gọi nó là núi Chán Chưa! Những anh tù trẻ còn hăng máu phản bác lại, gọi nó là núi Chưa Chán! Người có chút máu nghệ sĩ gọi là núi Chan Chứa...tình yêu! Tội nghiệp cho quả núi đất vô tri, nằm một đống ở đó làm gì để bọn người bất mãn vì thời cuộc này đem ra hành tội, cho thay danh đổi họ liên hồi như các cô ca sĩ thay áo khi trình diễn trên sân khấu.

                        Khi rời trại Z30 D, chúng tôi bị còng tay dính nhau từng đôi một, đi xe ca xuống bến Tân Cảng và leo lên tàu vào nửa đêm, khi xuống tới hầm tàu mới được mở còng ra. Lúc mới lên tàu, tưởng là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi liền nhận được tín hiệu của “phe ta” ở các khoang khác đáp lại, nhưng lúc đó có bao nhiêu người trên tàu thì không rõ. Tàu Sông Hương chạy khá nhanh, chỉ sau 2 ngày 3 đêm đã tới bến Hải Phòng. Trong mấy ngày lênh đênh trên biển, có nhiều chuyện xảy ra trong hầm tàu chở nhóm chúng tôi. 


                        Bến cảng Hải Phòng

                        Tàu Sông Hương thả chúng tôi lên bến cảng Hải Phòng vào một buổi chiều ảm đạm. Từ dưới hầm tàu nhìn tốp lên trước, tôi thấy có một vài người ở trại Phan Đăng Lưu với tôi trước kia, trong số đó có cha Phạm Hữu Nam, còn được gọi là cha Bosco Thiện, một Linh mục dòng Chúa Cứu Thế. Sau khi lên bờ, nhóm lên trước được phân phối đi đâu tôi không rõ. Khi nhóm trong khoang tàu chúng tôi lên bờ thì trời đã nhá nhem tối.

                        Cảm giác đầu tiên của tôi khi đặt chân lên bến cảng Hải Phòng là tưởng chừng mình đang ở một đất nước nào khác, với cảnh vật tiêu sơ, buồn thảm và đầy đe dọa. Cả những con người ở đây cũng không tạo cho tôi một chút ấn tượng nào cho biết là tôi đang đứng trên phần đất của quê hương, và họ là những đồng bào với tôi. Từ cảnh vật tới con người đều mang vẻ nặng nề ảm đạm và chết chóc. Tôi đảo mắt nhìn quanh khung cảnh của bến cảng Hải Phòng mà tôi đã được nghe nói tới rất nhiều, có cả một bản nhạc để ca tụng mang tên “Hải Phòng thành phố quê tôi”! Đó đây nhà cửa cũ kỹ đen đủi nằm rải rác một cách vô tổ chức; có nhà còn nguyên, có cái đã thủng lỗ hoặc sụp một góc. Những thùng chứa hàng, đường sắt cũ, xe hư nằm rải rác chỗ này một chiếc, chỗ kia một cái.

                        Người dân ở đây sao hơi khác với những hình ảnh quen thuộc mà tôi đã từng thấy nơi người miền Nam. Nhưng sự khác biệt đó là gì tôi không thể nói được. Hình như đồng bào của tôi ở đây hơi nhỏ con và nước da đen hơn. Tôi nghĩ có lẽ là do lối ăn mặc, vì đa số mang dép râu và đội nón cối. Có thể vì thế làm cho người ta trông luộm thuộm và lùn ra chăng? Ngoài màu áo vàng của một số khá đông công-an có mang súng, đa số những người có mặt trên bến cảng lúc đó mặc đồ bộ-đội màu cứt ngựa, đầu đội nón cối, chân mang dép râu. Lúc mới nhìn qua, tôi tưởng họ là bộ-đội nhưng sau này tôi mới biết ai cũng có thể mặc đồ bộ-đội, đội nón cối và mang dép râu.

                        Lúc bấy giờ có một hình ảnh đập mạnh vào mắt tôi và không biết tại sao nó cứ ám ảnh tôi mãi, cho dù cố quên cũng không thể nào quên được. Đó là hình ảnh của một nữ công-an mặc đồng phục màu vàng, đầu đội nón cối, chân đi dép gì tôi không để ý, có lẽ cũng là dép râu. Điểm đặc biệt là người nữ công-an đó tóc thật dài và bện thành cái đuôi sam thả thõng xuống gần đụng gót chân. Hình ảnh này tôi mới thấy lần đầu tiên và cảm thấy rờn rợn khi nhìn cái đuôi sam đó. Khi nhìn cái đuôi sam, tôi liên tưởng tới những tấm hình trong cuốn sách nói về loạn Quyền Phỉ (Boxers) vào thời Mãn Thanh ở Trung Hoa, diễn tả thời kỳ hỗn loạn chém giết nhau như ngóe.

                        Tôi đọc quyển sách này không bao lâu trước khi bị bắt. Trong sách có các tấm hình những người đàn ông bị chặt đầu đều có đuôi sam! Có bức hình người ta cột hai ba cái đầu người lại với nhau bằng đuôi sam kiểu như nhà quê người ta cột dừa khô, dùng các cọng râu của trái dừa cột lại để có thể xách được nhiều quả cùng một lúc. Cái đuôi sam quá dài của cô cán bộ trên bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó làm tôi nhớ lại các tấm hình gớm ghê này. Tôi nghĩ, giá mà cô ta không đội nón cối có lẽ tôi ít sợ hơn. Nếu có ai hỏi tại sao, tôi cũng không trả lời được, chỉ biết rằng một người phụ nữ đầu trần thắt đuôi sam thì tôi không sợ, nhưng thắt đuôi sam mà đội nón cối làm tôi sợ, nhất là cái đuôi sam đó lại quá dài.

                        Bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó trở nên nhộn nhịp khác thường, vì tàu Sông Hương vừa cất lên bến rất nhiều “hàng hóa biết đi.” Một đám đông người lớn và trẻ con hiếu kỳ đứng hai bên đường nhìn ngó, chỉ trỏ và nói năng loạn xạ bằng một giọng nói hơi lạ tai đối với tôi lúc bấy giờ. Tôi cũng chẳng biết họ nói với nhau những gì, nhưng nhìn gương mặt và điệu bộ của họ, tôi nghĩ có lẽ tôi không nghe và không hiểu thì tốt hơn.

                        Mọi việc đã được chuẩn bị từ trước, nên khi chúng tôi vừa lên bờ, liền bị còng tay lại từng đôi một và leo lên những chiếc xe ca nằm chờ sẵn. Sau khi ổn định vị trí trên xe, mỗi người được phát một chiếc bánh mì nướng làm thức ăn đi đường. Cán bộ áp tải phổ biến nội quy đi đường xong thì đoàn xe chuyển bánh.

                        Trời bắt đầu tối.

                        Thình lình, đá sỏi từ hai bên đường bay lên xe như mưa! Tôi vội vàng dùng tay tự do còn lại che mặt trước cơn “mưa đá” trái mùa này. Bằng mọi giá tôi phải bảo vệ đôi mắt vì nhỡ có hòn sỏi vô tình nào bay đúng vào kính đeo mắt tôi thì khốn nạn, có thể mù mắt như chơi. Anh em tù nhân trên xe cũng vội vàng lo chống đỡ theo phản ứng tự nhiên. Trong cơn hỗn loạn bất ngờ đó, tôi nghe loáng thoáng tiếng trẻ con la hét từ bên vệ đường: “ĐM chúng mày, lũ ngụy, lũ uống máu ăn gan người!” Tiếng chửi bới này càng lúc càng nhiều và to hơn. Một giọng nói khác, tiếng của cán bộ, vang lên trong xe:“Các anh thấy chưa? Nếu đảng không đưa các anh vào đây để bảo vệ các anh thì nhân dân đã giết chết các anh!” Lúc xe chạy ra khỏi vùng bão tố, tôi mới biết có vài anh tù trên xe bị thương nhẹ. Riêng tôi bị hòn đá ném đúng vào đầu u lên một cục khá to. Tôi cảm thấy đau, nhưng đau cho thân thể tôi thì ít mà đau cho số phận dân tộc tôi thì nhiều.

                        Đoàn xe chạy trong đêm trên đoạn đường khá dài từ Hải Phòng qua Hải Dương, Hà Nội, Phủ Lý... Sở dĩ tôi biết được các địa danh ấy nhờ trên xe có anh Đào Anh Tuấn, mà anh em gọi là Tuấn Phở, vì anh có tiệm phở ở Sài Gòn, nguyên quán ở Hải Dương ngoài Bắc, di cư vào Nam năm 1954. Khi xe qua nơi nào, anh giới thiệu nơi đó một cách rành mạch, như vai trò của các hướng dẫn viên du lịch!

                        Lúc ngồi trên xe, tôi cảm thấy mệt nhọc và ngao ngán, chẳng biết và cũng không thắc mắc họ sẽ đưa chúng tôi về đâu. Những cảm giác lúc ban đầu khi vừa đặt chân lên đất Bắc trong kiếp người tù biệt xứ đã để lại trong tôi ấn tượng khó quên được. Tôi muốn dành cho người đọc tưởng tượng ra cảnh thân phận một tù nhân trên đường đi đày, vừa bước chân lên vùng đất xa lạ là gặp ngay những con người chất chứa đầy hận thù. Nói cho đúng hơn là được huấn luyện để bày tỏ sự hận thù, như đám trẻ con “chào đón” chúng tôi tại bến cảng Hải Phòng.  Tôi nhớ mà thương cho số trẻ con đã chửi bới và ném đá vào chúng tôi đó. Người tù biệt xứ này cũng chẳng biết mình sẽ bị đưa về đâu, những gì chờ đợi trước mắt và còn có ngày trở về hay không? Nếu còn có hy vọng đó thì bao lâu nữa sẽ được về, vì đây là loại tù... “mù”, tức là đi tù nhưng không có kêu án, được gọi cái tên thật đẹp nhưng đầy gian trá là “Tập Trung Cải Tạo”.

                        Lúc đó tôi biết những gì xảy ra trên bến cảng Hải Phòng chỉ là màn mở đầu, màn đầu của sự hận thù đang trói buộc thân thể dân tộc tôi, và người ta đang tận tình khai thác lòng hận thù đó đối với những người bại trận miền Nam.

                        Quãng nửa đêm đoàn xe qua phà Phủ Lý, sau đó chạy vào con đường ngoằn ngoèo chật hẹp, hai bên là vách núi, như đang đi vào một hang động. Đến gần sáng, chúng tôi tiến vào một khu vực có hàng rào kẽm gai bao bọc chung quanh. Dưới ánh sáng của những bóng điện lờ mờ, tôi thấy có nhiều dãy nhà thấp nằm ngay hàng thẳng lối chấu đầu vào nhau. Đoàn xe dừng lại giữa cái sân khá rộng. Đó là trại Nam Hà, còn được gọi là trại Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Chúng tôi được lệnh xuống xe trong một đêm khuya lạnh buốt và có sương mù dày đặc.


                        Giai đoạn mới

                        Tôi chẳng ghi nhận được nhiều khung cảnh trại Nam Hà trong đêm vừa mới tới, nhưng cảm giác đầu tiên của tôi lúc bấy giờ là đang bước vào một trại tù lâu đời, gọn sạch và được tổ chức hẳn hoi; hoàn toàn khác với sự bề bộn của trại giam Gia Ray, tỉnh Long Khánh trong Nam mà chúng tôi vừa từ bỏ ra đi. Dưới ánh đèn điện lờ mờ trong đêm, tôi thấy những dãy nhà lợp ngói thấp lè tè, có tường gạch bao quanh và trên tường có hàng rào kẽm gai. Các dãy nhà này được xếp đều hai bên một sân trại khá rộng nằm ngay chính giữa, chia trại ra làm hai khu riêng biệt.

                        Khi vừa bước vào cổng trại, nhìn về phía tay phải, tôi thấy có một cái giếng cạn tròn thật to, có lẽ đường kính tới 10 thước, trên miệng giếng có bờ tường cao chừng 80 phân bao bọc chung quanh, bên cạnh có dãy nhà tắm thấp, tôi biết đây là khu vực tắm giặt của trại.

                        Vì tới muộn, nên chúng tôi được chia tạm thời ra từng nhóm và vào một số buồng nghỉ qua đêm. Khung cảnh trại mới này đối với tôi thật xa lạ và làm tôi ngỡ ngàng. Hình dạng trại cũng lạ, nhà cửa lạ, thời tiết lạ, giọng nói của các cán bộ cũng lạ tai. Đêm đó, mặc dù rất lạnh và không có chăn mền, nhưng vì đi đường quá mệt và đã muộn, nên tôi ngủ một giấc ngon nhưng nhiều mộng mị.

                        Sáng hôm sau, chúng tôi thức đậy trong một thời tiết lạnh cóng và có sương mù. Vì vừa ở miền Nam ra, chúng tôi chưa quen với cái lạnh giá buốt của miền Bắc nên nhiều người co ro trông rất thảm hại. Lúc trời đã sáng, ngồi trong buồng nhìn qua song sắt cửa sổ và đám sương mù, tôi vô cùng ngạc nhiên về khung cảnh trước mắt. Chung quanh trại Ba Sao là một vùng nước mênh mông bao bọc. Điểm đặc biệt là trên mặt nước có rất nhiều trái núi nhỏ và tròn, mọc nhô lên như những cây nấm khổng lồ, nằm rải rác trong cánh đồng.

                        Chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú trước hình ảnh này và tưởng chừng như các trái núi nhỏ, tròn và đồng dạng đó là những quân cờ trong một bàn cờ của người khổng lồ đã chơi và bỏ lại sau khi họ về trời! Cũng có thể so sánh hình dạng các núi nhỏ đó như những quả trứng của loài chim khổng lồ đã tuyệt chủng. Các quả trứng này chôn nửa phần dưới nước và nửa phần trên nhô lên trên không. Nhìn xa hơn nữa, tận chân trời là dãy núi thật dài, trùng trùng điệp điệp, bao bọc lấy khu trại nằm trên vùng núi đá vôi mà chúng tôi vừa dọn tới đêm qua.

                        Vào lúc nhập trại Nam Hà ngày 21 tháng Tư năm 1977, trong trại đã có hơn 600 tù nhân miền Nam. Những người này đã tới đây từ cuối năm 1975 hoặc đầu năm 1976 và ở các buồng phía trái từ cổng trại nhìn vào. Phía này được gọi là khu A để phân biệt với nhóm chúng tôi 350 người mới, ở phía tay phải và được gọi là khu B.

                        Cảm giác đầu tiên của tôi khi thấy các người tù khu A là họ rất trầm lặng, có dáng vẻ xa xôi. Phần đông đã lớn tuổi hoặc trung niên. Nhiều người trắng trẻo, sạch sẽ và tươm tất trong bộ đồng phục màu xanh của nhà tù, áo cổ cao, giống kiểu áo của người Tàu. Họ tỏ ra an phận, tự giác, dễ bảo và chấp nhận hoàn cảnh, cho dù là chấp nhận một cách miễn cưỡng. Thật vậy, khi nhìn tướng mạo và nghe qua tên tuổi, kèm với chức vụ trước kia, tôi biết đây là những người đã có một thời vàng son và đầy uy quyền.

                        Sau này tôi biết, họ thuộc thành phần viên chức chính phủ, các chức vụ dân cử như nghị sĩ, dân biểu, sĩ quan cảnh sát, đảng phái quốc gia. Có người đã từng nắm giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền miền Nam mà tên tuổi nhiều người nghe biết như Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, cụ Vũ Hồng Khanh, Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao, Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến, Bộ trưởng Trần Ngọc Oành và nhiều người có tên tuổi khác.

                        Tôi không bao giờ quên được tâm trạng đau buồn mỗi lần nhìn thấy các đội khu A xếp hàng dài giữa sân trại trước giờ báo số lượng tù để xuất trại ra ngoài lao động, nhất là trong những buổi trưa nắng gắt của vùng núi đá vôi Nam Hà. Đa số tù nhân ăn mặc giống nhau, áo quần đồng phục màu xanh của tù, đầu đội nón lá, chân mang dép râu, vai mang một bị nhỏ may bằng vải bao cát, trong đó đựng cái lon Guigoz nước uống, trên miệng bị có treo lủng lẳng cái ống điếu thuốc lào.

                        Khi nhìn những con người đã một thời quyền uy trong xã hội miền Nam trước kia đang ngồi cúi đầu thành hàng dài trong sân trại, trong đó người giữ chức vụ cao cấp nhất một thời là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, tôi xót xa nhớ tới thân phận con người,và luật tuần hoàn của vũ trụ. Những người này trình diện học tập cải tạo theo thông cáo của Ban Quân Quản sau khi cộng-sản vừa chiếm được miền Nam. Lúc này họ có vẻ mệt nhọc, câm lặng, chán chường và cam tâm chịu đựng cuộc đổi đời. Có lẽ trong thâm tâm nhiều người muốn chứng tỏ mình cải tạo thật tốt, tránh vi phạm nội quy để sớm được hưởng sự khoan hồng của đảng và nhà nước, như lời cán bộ vẫn thường nói:“Cải tạo tốt, lao động tốt là con đường ngắn nhất để được về sum họp với gia đình!”


                        Trình diện học tập

                        Cũng cần nói thêm, sau khi chiếm được miền Nam, người cộng-sản biết dân miền Nam và nhất là những sĩ quan, binh sĩ và viên chức của chế độ Cộng Hòa vừa sụp đổ đều bàng hoàng lo sợ, nhưng có thể phản ứng chống lại, mặc dù tình thế lúc đó không thể nào lật ngược thế cờ. Tuy nhiên, nếu có sự chống đối trong lúc người cộng-sản chưa có đủ thì giờ củng cố guồng máy cai trị tại vùng đất màu mỡ vừa mới cướp được thì cũng là điều bất lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng là phải làm sao bắt giam cho hết những sĩ quan, viên chức chính phủ nào còn ở lại trong nước, sau khi một số lớn những người đã từng nắm giữ chức vụ chóp bu tại miền Nam đã nhanh chân bỏ chạy từ trước như cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đương kiêm Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên v.v...

                        Người cộng-sản đủ tinh khôn để hiểu rằng không thể nào lùng bắt hết những người họ muốn nhốt vào tù, chỉ có cách hay nhất là giăng lưới để tóm hàng loạt. Đây là điều tôi thực sự khen ngợi đầu óc giảo hoạt của người cộng-sản. Kế hoạch của họ như sau. Vừa chiếm được miền Nam xong, Ban Quân Quản thông báo trên đài phát thanh ra lệnh cho tất cả hạ sĩ quan và binh sĩ “ngụy” (thắng làm vua thua làm ngụy!) trình diện tại địa điểm gần nhất để học tập đường lối chính sách của đảng và nhà nước cách mạng. Khi đi, nhớ mang theo thức ăn, đồ dùng đủ trong 3 ngày.

                        Mặc dù các anh em binh sĩ chế độ miền Nam rất lo sợ, nhưng lúc đó đã nằm trong tay họ rồi, nếu không tuân lệnh sẽ rất tai hại, hơn nữa thông cáo có nói đem đồ dùng trong 3 ngày, nên cũng còn chỗ để hy vọng. Đại đa số những người trong diện này đã trình diện học tập. Và sau ba ngày, họ được cấp giấy chứng nhận ra về. Điều này làm sự sợ hãi và nghi kỵ của dân miền Nam đối với chế độ mới đã bắt đầu giảm đi. Người ta bắt đầu tin vào các lời tuyên truyền về “chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước”, hoặc “đánh kẻ chạy đi chớ không ai đánh kẻ chạy lại!” v.v...

                        Không bao lâu sau, một thông cáo khác của Ban Quân Quản được đọc trên đài phát thanh. Lần này tới phiên các sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp trình diện tại các địa điểm được ấn định.  Khi đi nhớ mang theo lương thực, tiền bạc, áo quần và đồ cá nhân đủ dùng trong trong một tháng. Dĩ nhiên thông cáo nào cũng kết thúc bằng câu đe dọa “ai bất tuân sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành.”

                        Nhớ lại vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đoàn quân cộng-sản ào ạt tiến vô Sài Gòn, dân chúng miền Nam thật hoang mang lo sợ, những người chức vụ cao và các sĩ quan của miền Nam càng khiếp đảm hơn.

                        Họ có lý do để sợ, vì hình ảnh Tết Mậu Thân năm 1968, với hàng chục ngàn người thường dân vô tội bị Việt cộng đập đầu, mổ bụng. Có nhiều người bị trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại Huế chưa phai mờ trong ký ức của nhiều người. Bây giờ những kẻ chôn sống người đó đã chiến thắng, làm sao những sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp của chế độ miền Nam vừa sụp đổ lại không lo sợ cho được. Vì thế, khi nghe được thông cáo “đủ dùng trong một tháng” họ mừng như nắng hạn gặp mưa rào. Trước đây, số hạ sĩ quan và binh sĩ mang đồ đủ dùng trong 3 ngày theo như thông cáo, và họ chẳng được ra về sau 3 ngày là gì?

                        Tâm trạng chung lúc bấy giờ là ai cũng mong học tập cho xong để trở về làm ăn sinh sống bình thường và hợp pháp trong chế độ mới. Thế là hàng hàng lớp lớp người đi trình diện học tập, người ta vội vã trình diện, người ta chen nhau đi trình diện, người ta vui vẻ giã từ vợ con để đi trình diện và hẹn tháng sau sẽ gặp lại. Có người sau khi vào trại còn hãnh diện khoe với mọi người, nhờ sự quen biết và khéo léo nên đã “chen” được vào trung tâm trình diện khi nơi này đã đầy người. Ai cũng mong đi học tập trong đợt đầu để sẽ được về sớm.

                        Lúc bấy giờ, những cái gọi là “Trại Cải Tạo” được mọc lên như nấm để nhốt những người tự nguyện đi học tập. Thành phần chánh trị và hành chánh do “Công-an Nhân dân” quản lý, thành phần quân đội do “Quân-đội Nhân dân” quản lý. Số người đi trình diện hí hửng nghĩ rằng một tháng sẽ được về, nhưng....

                        Ôi! Chữ “nhưng” sao quái ác!

                        Khi tôi vô tù một thời gian, được nghe các anh em trình diện kể lại câu chuyện đau lòng, câu chuyện cười ra máu mắt như sau: Số là khi nghe thông cáo của Ban Quân Quản, khi đi trình diện nhớ mang theo tiền bạc, thức ăn và đồ dùng đủ cho một tháng. Những người trình diện đi tù bắt đầu đếm từng ngày. Khi “học tập” tới đầu tuần lễ thứ tư, cả nhóm vui mừng hí hửng! Có người còn mơ màng về khung cảnh của ngày lễ mãn khóa thật linh đình vào cuối tuần tới, chắc là phải vui và cảm động lắm. Sẽ có đại diện các “cải tạo viên” đứng lên đọc diễn văn cám ơn công lao giáo dục của đảng. Rồi có các bà vợ, những người con và thân nhân sẽ có mặt trong lễ mãn khóa để đón người thân yêu đã được đảng cải tạo thành người công dân tốt trở về đoàn tụ với gia đình.

                        Trong đêm cuối cùng của tháng “học tập”, nhiều người không thể ngủ được, họ đi bắt tay từ giã anh em cùng khóa, buồn buồn, tủi tủi, nói lời chia tay tạm biệt với những anh em đã một thời chung vai sát cánh trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân miền Nam chống bọn cộng-sản tham tàn. Nhưng giờ đây lịch sử đã qua trang, kẻ tham tàn đã chiến thắng và đang ngự trị! Đã qua rồi một cuộc chiến, anh em quân nhân viên chức chế độ miền Nam vừa sụp đổ chỉ mong từ nay được sống yên hàn với vợ con trong chuỗi ngày còn lại của cuộc đời.

                        Sáng hôm sau là đủ 1 tháng kể từ ngày đi trình diện, nhiều người thức dậy sớm đánh răng rửa mặt và chuẩn bị đồ đạc ngồi chờ “lễ mãn khóa.” Nhưng lễ mãn khóa chờ đâu chẳng thấy! Lúc tới giờ, tiếng kẻng tập họp đi lao động vang lên lanh lảnh ở cổng trại như mọi ngày. Nghe tiếng kẻng, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn nhau thắc mắc nhưng không ai nói gì, chỉ biết cúi đầu xếp hàng báo số đi lao động như thường lệ. Sự thắc mắc bao trùm suốt ngày hôm đó và mỗi người cố tìm một lý do có lợi để giải thích cho sự chậm trễ này. Anh em tụm năm, tụm ba bàn giải thắc mắc, và lý do được nhiều người coi là hợp lý nhất: tháng này có...31 ngày!   Vậy lễ mãn khóa phải diễn ra ngày mai, ngày thứ 31!

                        Mọi người yên tâm đi ngủ chờ tới ngày mai.

                        Ngày mai đã đến rồi lại đi, rồi ngày kia và những ngày kế tiếp cũng đến và đã đi qua nhưng chẳng thấy có gì khác lạ. Thái độ bất mãn hiện rõ trên mặt nhiều người. Anh em cứ lập đi lập lại câu hỏi “thế này là thế nào?”, nhưng không ai có thể tìm được lời giải đáp cho câu hỏi đơn sơ ngắn gọn đó. Cho đến một hôm không còn đủ kiên nhẫn, một anh đánh bạo chất vấn cán bộ trong một buổi sinh hoạt trên hội trường:

                          - Báo cáo anh, tôi có thắc mắc.

                          - Gì thế? Anh có thắc mắc gì nói xem nào?

                          - Báo cáo anh, theo thông cáo của Ban Quân Quản kêu gọi chúng tôi trình diện học tập một tháng. Nay đã quá ngày rồi tại sao chúng tôi chưa được về?

                           Anh cán bộ ngồi gật gù, nhếch mép cười, nụ cười đầy vẻ tinh quái, hất hàm hỏi:

                          - Ai bảo cho anh biết học tập một tháng được về?

                           Anh bạn đáng thương lúc này mất bình tĩnh, gằn giọng từng tiếng:

                          - Báo cáo anh, thì trong thông cáo của Ban Quân Quản, tôi còn nhớ từng lời, từng chữ là 'khi đi nhớ mang theo tiền bạc thức ăn và đồ dùng, đủ trong vòng 1 tháng', tôi nghĩ rằng tất cả mọi người ở đây ai cũng nghe như thế.

                        Anh bạn chưa dứt lời đã nghe tiếng cả hội trường lào xào rầm rì phu họa: “Đúng rồi, đúng rồi, trong vòng một tháng”. Chừng đó anh cán bộ buộc lòng phải nói, anh nói thậm chậm rãi và rõ ràng:

                          - Các anh ngu quá! Tôi thật không ngờ là các anh ngu quá! Thông cáo bảo các anh mang tiền bạc, đồ dùng, đủ trong vòng một tháng, còn thời gian tiếp theo là đảng sẽ lo cho các anh, hiểu chưa? Chỗ nào trong thông cáo nói học tập một tháng được về đâu, anh chỉ tôi xem? Đảng đâu có dối gạt các anh, tại các anh ngu không hiểu ra đấy thôi!

                        Mặc dù câu nói của cán bộ nhỏ nhẹ và ôn tồn, nhưng sau khi nghe, mọi người thấy lùng bùng trong lỗ tai như vừa nghe tiếng sấm gầm giữa lúc trời đang nắng chói chang.


                        Khu A và Khu B

                        Lối sống và thái độ “cải tạo” của 2 nhóm, khu A và khu B trong trại Nam Hà lúc bấy giờ hoàn toàn trái ngược nhau. Các bậc đàn anh khu A rất trầm lặng, mực thước trong việc tuân hành nội quy của trại và lễ phép với cán bộ. Trong khi đó nhóm khu B, nhất là các anh em trẻ, sống hiên ngang bộc trực và bày tỏ thái độ khinh mạn cán bộ một cách công khai thấy rõ. Họ cứ gọi lén cán bộ là “chèo”! Cán bộ cấp nhỏ thì gọi là “chèo nhí”. Tôi cũng không biết chữ “chèo” này bắt nguồn từ đâu. Một hôm xảy ra câu chuyện nhỏ, nhưng gây ấn tượng mạnh và làm tôi nhớ mãi.

                        Hôm đó trong giờ lao động khu vực chung quanh buồng 12 của tôi ở, cán bộ quản giáo gọi anh Đặng Hữu Nam, một anh bạn trẻ chừng ngoài 20 tuổi trong nhóm Phục Quốc, bảo nhắc cái ghế lại cho cán bộ. Anh Nam giả vờ đáp:

                          - Báo cáo cán bộ, tôi không ngồi ghế!

                           Anh cán bộ quen thói hách dịch quắc mắt hỏi:

                          - Anh bảo gì? Tôi bảo anh nhắc cái ghế lại đây cho tôi. Ai cho phép anh ngồi ghế ở đây? Anh này hay nhỉ?

                           Anh Nam bình thản trả lời:

                          - Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ ngồi ghế thì nhắc lấy mà ngồi, sao lại sai tôi? Tôi vào đây để học tập cải tạo, đâu có vào đây để nhắc ghế cho cán bộ ngồi.

                           Cả nhóm chúng tôi lúc đó yên lặng theo dõi câu chuyện làm anh cán bộ xấu hổ buông ra một câu chửi thật vô duyên:

                          - Ăn nói bố láo!

                           Anh Nam đốp chát ngay:

                          - Cán bộ không được quyền nói tôi như vậy, tôi sẽ báo cáo việc này lên ban giám thị!

                           Anh Nam nói chưa hết câu thì cán bộ quản giáo đã bỏ đi, vừa đi vừa nhổ toẹt một bãi nước bọt.

                        Kể từ lúc chúng tôi nhập bọn, các bậc đàn anh đáng kính bên khu A mới bắt đầu nghe nói tới những tiếng cấm kỵ trong tù như, vượt ngục, chống đối lao động, biểu tình, tuyệt thực. Có lần các vị này phải nổi da gà, xanh máu mặt khi nghe các buồng khu B chúng tôi hô to trong giờ ăn trưa: “Đả đảo cộng-sản!”, tất cả mọi người gân cổ lên la thật to: “Đả đảo! Đả đảo!” Dĩ nhiên, những điều này không bao giờ ban giám thị của trại bỏ qua, họ sẽ trả đòn bằng kiểu gì lúc ấy chưa ai biết được.

                        Những người chưa sống trong tù cộng-sản cũng nên biết qua một chút về chiến thuật “mềm nắn rắn buông” của người cộng-sản. Tôi nghe kể lại, hôm anh em trong buồng 9 khu B hô “đả đảo cộng-sản” trước mặt cán bộ giáo dục tên Huy, mặc dù anh ta giận tím gan tím mật, nhưng vẫn vui cười nói nhỏ nhẹ như nói với người yêu: “Các anh à! Bây giờ đảng ta quản lý cả nước rồi, nếu không sống với đảng thì các anh sống với ai? Tôi biết các anh còn trẻ, dễ nóng giận, nếu có điều gì không vừa ý các anh cứ phản ảnh để ban giám thị giải quyết cho các anh.” Đúng là giọng của mẹ mìn, ngọt như mía lùi của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.


                        Bọn Ăng-ten

                        Vào những tháng trước lễ Giáng Sinh năm đó đã có nhiều vụ tuyệt thực phản đối lao động, gõ thùng gõ thau nhà bếp, đập đánh mấy tên làm ăn-ten mà anh em gọi là bọn “chó săn”. Cuộc sống trong trại lúc bấy giờ, hay nói rõ hơn là bên khu B rất căng thẳng, giống như một quả bóng căng tròn nhưng người ta vẫn còn muốn bơm mãi, bơm mãi! Đa số tù nhân trong trại lúc bấy giờ là người Công giáo và chỉ có một mình tôi là Linh mục. Không cần phải nói, ai cũng biết là tôi đương nhiên trở thành mục tiêu cho sự theo dõi, dò xét và qui trách nhiệm các vụ chống đối xảy ra.

                        Người cộng-sản dùng tù theo dõi tù, dùng tù báo cáo và hãm hại tù. Những tên tù làm tay sai này thường được gọi chung là bọn “ăng-ten”, kiểu như cây ăng-ten của cái Radio kéo lên để bắt được các làn sóng phát thanh. Đôi khi chúng còn được gọi bằng cái tên sát nghĩa hơn, nhưng nghe nặng tai là bọn “chó săn”, và tại sao bọn này có tên đó chắc ai cũng hiểu.

                        Kinh nghiệm đời tôi trong 13 năm tù dưới chế độ cộng-sản cho tôi thấy bọn “chó săn” trại nào cũng có, thành phần nào cũng có, tuổi tác nào cũng có, cấp bậc địa vị nào ngoài xã hội trước kia cũng có. Tôi coi đây là điều sỉ nhục lớn nhất cho tập thể tù chính trị miền Nam. Tù hình sự thì tôi không nói làm gì, nhưng đối với tập thể những con người cùng chung số phận trong hàng ngũ bại trận, khi vô tù lại làm tay sai cho kẻ thù để hãm hại anh em mình là điều làm tôi nhục nhã và đau đớn. Nhất là từ khi biết con đường cải tạo còn dài thăm thẳm, và chỉ có những người lập công mới có hy vọng được về như lời cán bộ hứa, thì đội ngũ bọn ăn-ten càng đông đảo hơn. Dĩ nhiên làm “ăn-ten” cũng được coi là một nghiệp vụ, nên cũng được chiêu mộ và được huấn luyện.

                        Nhân đây tôi nhớ lại chính tôi cũng có lần được chiêu mộ làm việc này. Năm 1976 lúc tôi còn ở trại Phan Đăng Lưu, Gia Định. Thời gian này mới bị bắt không lâu, các tù nhân còn đang bị thẩm vấn khai thác (trong tù cộng-sản gọi là làm việc), chưa phải đi lao động. Chúng tôi bị nhốt trong các buồng trống trơn như những lớp học, trong góc buồng có một bể nước có vòi chảy vào, nằm kế bên một cầu tiêu lộ thiên, mỗi buồng chừng 60 người. Vì không phải đi lao động nên cả ngày chúng tôi ngồi nói chuyện, chơi cờ, đọc báo Nhân Dân, chờ tới giờ được mở cửa cho ăn.

                        Một hôm tôi được cán bộ gọi lên cơ quan “làm việc”. Người cán bộ gặp tôi là một người miền Nam chất phác, có đôi gò má cao và chải đầu rẽ ngôi giữa đỉnh. Giọng anh nói rất ôn tồn nhẹ nhàng. Sau khi thuyết một hồi về việc mở đường cải tạo cho tôi, để tôi sớm được về với gia đình và làm lại cuộc đời. Lúc đó tôi biết anh ta đã muốn gì nơi tôi.

                        Tôi đoán không sai, sau khi thuyết một hồi, anh ta kết luận là nếu tôi muốn được khoan hồng về sớm thì nên lập công bằng cách phát hiện và báo cáo những hiện tượng tiêu cực trong buồng. Tôi ngồi nhìn anh ta mà thấy thương hại! Thương hại cho anh đã chọn lầm người để tâm sự và kéo về phe mình. Với dụng ý sẽ chơi khăm, tôi nhận lời! Anh ta vui vẻ ra mặt. Có lẽ anh ta không ngờ hôm đó anh quá may trong công tác của một công-an cai ngục. Chắc là cấp trên anh ta sẽ rất hài lòng khi biết có một Linh mục vui vẻ nhận làm “ăng-ten”.

                        Anh ta tiễn tôi ra về với nụ cười thật tươi, hai bờ mép kéo dài gần tới mang tai và hứa một lúc nào đó sẽ gọi tôi lên gặp lại anh. Một thời gian sau tôi lại được gọi lên cơ quan “làm việc”. Trong lúc đi đường tôi nghĩ thầm, chắc là anh cán bộ hôm nọ đang ngồi nhịp chân trên văn phòng và đang cười thầm với ý nghĩ:“Ngay bọn cha cố mà mình cũng chiêu mộ được!”

                        Tôi bước vào phòng và anh ta đón tôi rất niềm nở. Trà tàu và thuốc lá được mời một cách rộng lượng. Trà nước xong đâu đó, anh ta vào đề, một lối vào đề mà nãy giờ tôi biết anh ta rất nôn nóng:

                          - Anh Lễ, tôi vui mừng được biết anh có tiến bộ trong cải tạo. Vậy anh cho biết anh có phát hiện được hiện tượng gì xấu trong buồng anh không?

                           Tôi buồn cười với câu “anh có tiến bộ trong cải tạo”, nhưng vẫn cố trả lời một cách nghiêm trọng:

                          - Báo cáo anh, có, có nhiều lắm!

                          - Có gì nói hết đi anh Lễ, nói hết đi, tôi hứa giữ kín, anh không phải lo.

                           Tôi nghiêm trang nói:

                          - Báo cáo anh, trong buồng tôi nhiều người ăn nói bậy bạ quá!

                           Mắt anh ta sáng lên như gặp của quý, vội hỏi:

                          - Ăn nói như thế nào?

                          - Họ chửi thề nói tục không thể tưởng tượng được. Nhất là mấy anh trẻ, mở miệng ra là 'ĐM' với 'đéo bà'!

                           Nụ cười vụt tắt trên môi, anh cán bộ tỏ vẻ thất vọng, cố hỏi thêm:

                          - Họ có nói gì phản động như chống chế độ, tuyên truyền nói xấu đảng không? Còn chửi thề thì không quan trọng.

                          - Báo cáo anh, tôi chỉ để ý nghe họ chửi 'ĐM' nhiều quá thôi, các thứ anh hỏi tôi không nghe!

                        Đó là lần “báo cáo” đầu tiên và cũng là cuối cùng, vì sau đó không bao giờ tôi bị gọi lên để giao công tác nữa. Cho tới nay có lẽ anh cán bộ nọ cũng không hề nghĩ là tôi có ý chơi khăm anh ta, nhưng cứ nghĩ là tôi quá dốt trong loại công tác này. Biết đâu anh ta cũng tiếc mấy điếu thuốc thơm và ấm trà ngon đã mời tôi.

                        Công tác nào cũng có người giỏi người dở, người đắc lực, người kém hiệu quả, và tùy theo kết quả công tác mà chúng được “chủ” thưởng công. Cũng có nhiều loại phần thưởng khác nhau, phần thưởng lớn nhất dĩ nhiên là một lời hứa hẹn được “đảng và nhà nước khoan hồng cho về sớm”. Nếu ai chưa biết, tôi xin nói lúc đó chúng tôi đi tù... mù, tức là bị nhốt vào tù mà không có kêu án nên không ai biết được lúc nào mình sẽ được tha và lúc nào cũng nuôi niềm hy vọng được thả về. Vì thế chiêu bài “sự khoan hồng của đảng và nhà nước” là miếng mồi thật thơm để nhử bọn “chó săn”, làm cho chúng rỏ nước dãi và săn lùng hăng hơn, phản bội anh em nhiều hơn, hại anh em nặng nề hơn. Có người còn nhẫn tâm giết chết anh em để lập công. 

                        Phần thưởng nhỏ có nhiều loại, như khỏi phải đi lao động nắng gió và nặng nề, chỉ ở nhà để “rình” và báo cáo những anh em khác.  Có khi phần thưởng là được thăm gặp vợ qua đêm “48 tiếng” tại phòng hạnh phúc nằm ngay trong nhà thăm nuôi! Loại phần thưởng này nói ra nghe hơi ngượng, nhưng thực sự nó là mục tiêu phấn đấu cho nhiều người.
                         
                        Những anh cải tạo không tốt thì cho dù có xa vợ hàng chục năm đi nữa, khi bà xã ra thăm cũng chỉ được ngồi đối diện trên chiếc bàn dài để nói vài câu chuyện trời trăng mây nước, và ngay ở đầu bàn có người công-an áo vàng ngồi một đống sừng sững như để “chia xẻ niềm vui vợ chồng lâu ngày sum họp”! Anh tù thuộc dạng này cho dù có thương nhớ vợ đến chết người đi chăng nữa cũng không được sờ tay bà xã, đừng có mơ màng tới phần thưởng xa hoa “48 tiếng” trong căn phòng hạnh phúc.

                        Cũng cần biết thêm là những bà vợ được “48 tiếng” với chồng, khi ra về được trại cấp cho một giấy chứng nhận có “qua đêm” với chồng. Nếu về nhà có bầu thì đưa giấy tờ ra để tránh tiếng thị phi của làng nước và khỏi gặp rắc rối với dòng họ nhà chồng! Dĩ nhiên nếu không có bầu thì thôi, khoe giấy tờ loại đó ra mà làm gì, ngượng chết! Lối giải quyết bằng giấy chứng nhận như vậy cũng hay để khỏi rắc rối về sau, nhất là trong hồ sơ HO.  Một loại phần thưởng khác có thể là được chỉ định làm đội trưởng hay tổ trưởng, hoặc được làm nhà bếp có nhiều cơ hội ăn no (giàu nhà kho no nhà bếp!).

                        Phần thưởng lớn hơn có thể được cất nhắc lên chức vụ cao cấp trong tù như Trật tự, Văn Hóa, Y tá. Đây là những “sĩ quan” thực sự trong tù, mặc dù không phải tất cả những sĩ quan này đều là ăng-ten.

                        Mỗi khi nhắc tới hạng người làm ăng-ten trong tù, ai cũng bày tỏ sự khinh bỉ và bực tức. Tuy nhiên có một trường hợp làm tôi phải phục con người làm công việc này. Lúc đó tôi đang bị giam trong một buồng tập thể tại trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. Một hôm cán bộ đưa vào buồng tôi một anh tù mới. Anh này tướng tá nhỏ con, gầy ốm và xanh xao, có đôi mắt to và lồi, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, má hóp làm hai gò má nhô cao. Điểm đặc biệt, anh ta có mái tóc quăn bồng bềnh thật dầy làm cho hình dạng anh ta mất cân đối, phần đầu to hơn phần thân.

                        Vì trong buồng nóng nực nên anh cởi trần, mặc quần đùi để lộ thân hình con người chỉ có xương với gân, không có thịt. Mới nhìn qua, tôi thấy bộ dạng anh không giống với ai trong buồng. Khi anh buồng trưởng lo thu xếp chỗ nằm cho anh và anh thư ký buồng ghi tên tuổi, anh ta tỏ ra lầm lỳ, hỏi đâu nói đó, chẳng tỏ ra một chút cố gắng nào để hòa mình với những người khác trong buồng. Anh ta khai tên là Hòa, họ gì tôi không còn nhớ. Sau đó Hòa ngồi một góc, dựa lưng vào tường, ngó trước nhìn sau, cặp mắt ốc nhồi trắng dã của anh quét qua quét lại liên hồi.

                        Anh ngồi yên khá lâu, chẳng nói chuyện với ai và cũng chẳng ai nói chuyện với anh. Gần tới giờ lấy thức ăn trưa, trong khi trong buồng đang ồn ào như thường lệ, đột nhiên anh Hòa đứng lên và nói thật to làm cả buồng giật mình thinh lặng. Anh tự giới thiệu là một cán bộ cấp huyện, bị bắt vì nhận hối lộ. Anh cũng cho biết chính anh là người đã bấm hai quả mìn giết chết khá nhiều người trong vụ nổ nhà hàng Mỹ Cảnh ở bến Bạch Đằng trước đây.

                        Sau khi tự giới thiệu, anh nói tiếp bằng một giọng rất trang nghiêm:“Mặc dù bị tù nhưng tôi vẫn là một cán bộ của đảng. Tôi yêu cầu tất cả mọi người trong buồng đừng có ai tuyên truyền phản động và nói xấu đảng. Tôi sẽ báo cáo tất cả!” Nói xong anh ta ngồi xuống và trở lại với thái độ lầm lỳ như trước. Dĩ nhiên là từ đó cả buồng chúng tôi sợ anh ta. Có người ghét anh, nhất là sau khi biết anh ta đã nổ mìn giết thường dân vô tội. Nhưng tôi phục anh ta trong cách thức bày tỏ lập trường của anh với đảng. 

                        Phần tôi, tôi biết rõ về tôi hơn ai hết, khi đã sa chân lỡ bước vào con đường này, tôi đã chấp nhận tất cả, kể cả cái chết. Điều tôi luôn quyết tâm và cầu nguyện xin Chúa giúp cho tôi được sống xứng đáng vai trò của một Linh mục làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù nhân, và là chỗ dựa tinh thần cho anh em trong cơn thử thách. Tôi biết rất rõ người cộng-sản coi các tôn giáo là kẻ thù, mà Công giáo là kẻ thù số một. Là một Linh mục, đến nay đã 34 tuổi đời và 6 năm trong chức vụ, tội danh tôi khá rõ: Linh mục phản động, chống đối cải tạo, khuyến khích những cuộc nổi loạn trong trại. Một chuỗi “tội” như vậy làm sao tôi không đoán được số phận của mình.

                        Ngoài ra còn có những sự việc cụ thể sau đây càng cho tôi hiểu về số phận của mình hơn. Khi vừa nhập trại Nam Hà không bao lâu, tôi bị cán bộ gọi lên thẩm vấn nhiều lần về vụ tàu Sông Hương. Có những lần phải làm việc với sĩ quan an ninh của trại, gặp cán bộ cao cấp ở Bộ Nội Vụ xuống, và cũng có lần gặp chính Trung tá Hoàng Thanh là người có trách nhiệm vào Nam đón chúng tôi. Họ hạch hỏi tôi về dự mưu đánh cướp tàu. Khi thì bằng giọng nói ngọt ngào như đường phèn, khi thì đe dọa quát tháo sủi bọt mép. Lần nào tôi cũng trả lời một câu duy nhất: “Tôi không biết vụ này, và nếu ai báo cáo với cán bộ, cho tôi gặp người đó”.

                        Thường là buổi làm việc chấm dứt sau câu nói này của tôi. Làm sao họ có thể cho tôi giáp mặt với những người này. Mặc dù tôi không biết hết những tay ăng-ten đã bẩm báo rành mạch “vụ tàu Sông Hương”, nhưng tôi biết chắc chắn một vài người trong số này. Những tháng về sau này, tôi không còn bị gọi lên hỏi về vụ tàu Sông Hương nữa, nhưng không phải như thế mà vụ đó đã xong. Khi anh em khu B bắt đầu phong trào diệt ăng-ten cao độ, những tay “chó săn” bị anh em trùm chăn đánh đập què chân, sứt mõm thường được cán bộ đưa vào buồng tôi và được chỉ định nằm kế bên tôi. Tôi hiểu rất nhanh về việc này. Nhưng chính việc tôi sắp kể ra sau đây mới đóng dấu vào quyết định cho số phận tôi.


                        Học tập khai báo

                        Vào tháng 10 năm 1977, sau khi tôi tới trại Nam Hà được 6 tháng, trại có tổ chức đợt học tập khai báo lý lịch cho một số 400 tù nhân khu A, cộng với 19 người trong buồng 12 của tôi, mặc dù tôi thuộc về khu B. Lúc này trong trại đã có thêm một số khá đông anh em tù quân đội từ trại Hoàng Liên Sơn chuyển về, đang ở khu nhà mới xây gần nhà bếp, nâng tổng số tù toàn trại lên hơn 1000 người. Tù khu B chiếm từ buồng 7 tới buồng 12, mỗi buồng chừng trên dưới 60 người. Riêng buồng 12, nơi tôi ở chỉ có 20 người thuộc đủ mọi thành phần được lựa ra ở riêng và tôi cũng chẳng biết theo tiêu chuẩn nào. Số người trong buồng rất là thập cẩm, có Linh mục, có đảng phái, có thương gia, có Mục sư người Thượng, lại có cả một ông Tàu già tên Nùng Bá Lâm, nghe nói là cựu tướng lãnh đã từng chỉ huy một sư đoàn của Tưởng Giới Thạch.

                        Nghe nói năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bị Mao Trạch Đông đuổi chạy ra đảo Đài Loan, Thiếu tướng Nùng Bá Lâm không theo ra Đài Loan mà lại dẫn tàn quân qua biên giới Miến Điện, sống bằng nghề lục lâm thảo khấu. Thực sự có đúng như vậy không và tại sao ông lại bị bắt vào đây thì tôi không biết. Ông ta người cao lớn dềnh dàng. Tuy già nua và ốm yếu, có lẽ đã 80 tuổi, nhưng đôi mắt ông ta đầy thần sắc và lúc nào cũng đỏ ngầu như mắt loài hổ báo, nấp dưới đôi chân mày rậm và dài như chổi xuể trông càng dữ tướng hơn. Ông là điển hình của một con sư tử về già.

                        Có lúc tôi nghĩ, mấy chục năm trước đây, ai rủi ro sa vào tay ông chắc không khá được! Ông không biết nói tiếng Việt, hay giả vờ không nói được tôi cũng chẳng biết, mặc dù nghe nói ông ta sống ở Việt Nam khá lâu. Đặc điểm nơi ông ta là ở dơ. Trong tù đã là ở dơ bẩn rồi nhưng ông Tàu già này ở dơ hơn hết mọi người ở dơ trong tù! Ông chẳng bao giờ tắm, chẳng bao giờ giặt, chẳng bao giờ rửa.

                        Ông nằm trong góc buồng lủi thủi một mình, chẳng nói năng, tiếp xúc với ai bao giờ. Chỗ ông nằm cũng quá bẩn và hôi hám không ai dám tới gần, cả cán bộ cũng chịu thua và không nhắc ông ta làm “nội vụ” bao giờ.  Ở trong buồng tôi được 5 tháng thì ông Nùng Bá Lâm chết, đó là người chết đầu tiên trong nhóm tù khu B chúng tôi tại trại Nam Hà vào năm 1977. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, cái chết đã giải thoát cho ông, mặc dù tôi vẫn bùi ngùi mỗi khi nhìn qua góc phòng trống vắng nơi mà người bạn tù ngoại quốc già nua ốm yếu đã từng nằm ở đó. Ông đã đi hết đoạn đường đời của ông, trong khi tôi vẫn tiếp tục con đường còn lại mà không biết những gì đang chờ đợi tôi phía trước. Ông chết đi buồng tôi còn lại 19 người.

                        Mới nghe qua việc khai báo lý lịch cũng chẳng thấy có gì là nặng nề và đáng ngại, nhưng sự thực không phải đơn giản như cái tên gọi của nó. Đây là một trong những điều tôi sợ nhất trong tù. Mỗi lần khai báo như vậy, các tù nhân phải “đào mả 3 đời” nhà mình lên và đem giao nạp cho đảng! Việc đào gia phả này được lập đi lập lại nhiều lần, không có định kỳ nhất định.

                        Tôi không hiểu được hết mục đích của việc làm này, nhưng chắc trong đó phải có ý đo lường sự thành thật của tù nhân. Vì thế, nguyên tắc sống còn là phải nhớ cho bằng được lần đầu mình đã khai báo thế nào, để lần sau và những lần sau nữa cũng phải viết y như vậy, không thêm không bớt. Có người không để ý nguyên tắc sống còn này, tưởng là càng thành thật khai báo thì càng mau được về sớm, nên đã thêm vào nhiều chi tiết trong lần khai báo tiếp theo. Họ đã phải trả cái giá thật đắt cho hành động dại khờ này.

                        Tôi không còn nhớ phải viết bao nhiêu lần trong suốt 13 năm tù, có lẽ trên dưới chục lần. Khóa học tập khai báo thông thường được diễn ra như sau: Có một số cán bộ trung ương tới trại để thuyết về tầm quan trọng của việc khai báo và chỉ cách “đào mả” thế nào cho nó “tốt”! Cũng nên biết, vì thời gian khai báo sẽ “động não” rất nhiều nên cần bồi dưỡng. Thí dụ như trường hợp của tôi, vì không ra ngoài lao động nên mức ăn chỉ có 9 ký một tháng, trong khi người đi lao động ăn 12 ký. Trong thời gian khai báo tôi cũng được ăn 12 ký. Ký ở đây không phải là ký gạo, làm gì có đủ gạo cho tù ăn, người ta thay vào bằng ngô, khoai, sắn, bo bo, có lúc còn ăn bã đậu nữa.

                        Sáng ngày khai mạc, chúng tôi được tập trung lên hội trường để nghe cán bộ trung ương thuyết trình. Các bài thuyết trình lần nào cũng như lần nào về chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, thành khẩn khai báo là con đường ngắn nhất để về v.v... Điều làm tôi ngạc nhiên là cả người nói lẫn người nghe đều biết đó là láo khoét! Thế mà không hiểu tại sao các “thợ nói” này không thấy ngượng mồm ngượng miệng! Trong các bài thuyết trình, lần nào cũng có một bài chỉ dẫn phải khai báo như thế nào cho “đạt”!

                        Cuộc học tập tại hội trường kéo dài 2 ngày và chiều ngày thứ hai là thảo luận. Đề tài thảo luận do cán bộ chọn và chỉ định một anh tù lên phát biểu ý kiến, để những người khác dựa vào đó mà thảo luận. Trong lần học tập khai báo này, tôi được chỉ định nói đề tài: “Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?” Câu hỏi này như là một gợi ý để làm mạnh thêm cách nói “yên tâm cải tạo”, và nó đã mặc nhiên trở thành câu  “kinh thánh” trong tù. Có những câu khác dài hơn như: “tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng” hoặc câu “tuyệt đối tin tưởng vào chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.” Đó là những câu thần chú phải được đọc lên đúng thời, đúng chỗ cho những ai muốn được yên thân và còn muốn có ngày sum họp với vợ con. Cán bộ dặn tôi về suy nghĩ đề tài và ngày mai lên phát biểu cho nó “tốt”!


                        Lựa chọn thái độ

                        Suốt đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được vì phải làm một sự lựa chọn lớn, sự lựa chọn có thể ảnh hưởng tới mạng sống mình. Đêm đó tôi cầu nguyện thật nhiều, tôi có thói quen cầu nguyện khi gặp sự khó, xin Chúa soi sáng cho tôi biết phải làm như thế nào. Tôi biết đây là cái bẫy họ giương ra cho tôi. Nếu chiều ngày mai khi lên đứng trước mặt cán bộ và hơn 400 anh em tù nhân, đại đa số là người Công giáo, mà tôi nói theo giáo điều là “Tôi yên tâm cải tạo”, thì mọi người, kể cả cán bộ cộng-sản, sẽ khinh bỉ vì họ thấy tôi hèn nhát và nói láo. Các anh em Công giáo có mặt hôm đó sẽ cảm thấy xấu hổ và thất vọng, vì tôi vẫn là chỗ nương tựa tinh thần cho họ. Trong trường hợp này cuộc đời tôi coi như đã hết, mặc dù thân xác tôi còn sống.

                        Ngược lại, nếu tôi nói lên sự thật của lòng mình, có thể tôi phải trả cái giá bằng chính mạng sống mình, nhưng tôi sẽ được sống và sống mãi trong lòng mọi người. Mặc dù là một Linh mục, nhưng tôi vẫn là con người, vẫn có sự sợ hãi trước cái chết, đó là bản chất tự nhiên của con người. Tôi nằm trằn trọc cân nhắc, suy đi tính lại gần suốt đêm. Có lúc, tôi ngồi lên suy nghĩ, cầu nguyện. Có lúc tôi bước vô cầu tiêu hút thuốc lào.  Cuối cùng tôi quyết định là phải nói lên sự thật của lòng mình.

                        Sáng hôm sau lại tập họp lên hội trường để nghe cán bộ hướng dẫn về hình thức và nội dung phải khai báo như thế nào. Về hình thức, các tù nhân được chia thành từng tổ nhỏ, mỗi tổ có một cán bộ phụ trách, thường là cán bộ quản giáo của đội mình. Khi viết, ngồi riêng ra và không ai được quan hệ với người bên cạnh. Giấy và bút mực do trại phát. Giấy nháp màu nâu không hàng kẻ. Bản chính thức là giấy trắng và có hàng kẻ. Bút là loại bút có cán và chấm mực. Mỗi người được phát một cây bút, một lọ mực và 2 tập giấy, một nâu một trắng. Nếu ngòi bút hỏng thì báo cáo cán bộ.

                        Địa điểm viết là tại buồng mình ở hay do cán bộ phụ trách chỉ định. Bắt đầu viết vào giấy nháp trước. Viết xong tờ nào phải đưa cho cán bộ duyệt, nếu cán bộ thấy “đạt” sẽ ký tên vào và cho phép viết vào bản chính. Nếu cán bộ chưa vừa ý, phải xé đi và viết lại cho tới khi “đạt”! Khổ nỗi có người viết đi viết lại mấy lần vẫn chưa đạt, dĩ nhiên là chưa đúng ý của cán bộ. Ai mệt thì báo cáo cán bộ ra ngồi nghỉ, hoặc hút thuốc nhưng không được “quan hệ” linh tinh. Hết mệt vào viết tiếp. Chiều lại phải nạp tất cả cho cán bộ bản chính thức và bản nháp. Một lần “đào mả” như vậy có khi kéo dài đôi ba ngày, có người kéo dài hàng tuần. Tôi nghe nói có người viết hàng tháng trời vẫn chưa xong và nghe đâu tập “luận án” này cuối cùng dày đến cả ngàn trang.

                        Nhưng quan trọng và đáng nói hơn vẫn là phần nội dung. Nội dung có 2 phần: Lý lịch và quá trình hoạt động bản thân. Về lý lịch, ngoài những mục thông thường như tên họ, ngày và nơi sanh, trú quán, tôn giáo, vợ con, học lực, cấp bằng, huy chương v.v... còn có mục phải khai tên tuổi của ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ của đương sự và của vợ (hoặc chồng nếu là tù nữ), phải khai rõ họ đang ở đâu và làm gì.  Còn có mục phải khai báo các loại bạn bè và địa chỉ của họ, cho dù họ đang ở trong nước hay đã đi nước ngoài, kể cả những bạn bè đang ở trong tù.

                        Phần chính là quá trình hoạt động bản thân. Phần này mỗi người phải viết lại tất cả cuộc đời mình từ ngày có trí khôn cho tới giờ này! Cán bộ cho biết phải viết lại tất cả, nhớ được cái gì phải khai báo hết, không được bỏ qua một chi tiết nào. Nhớ có lần, tôi khai báo hồi còn nhỏ tôi có tật hay đái dầm, cán bộ coi bản nháp nhíu mày suy nghĩ một hồi rồi nói: “Đái dầm không phải là phản động, nên anh không cần viết vào đây!” Từ đó tôi mới biết, đối với đảng, đái dầm không phải khai báo, nhưng dù sao thì đảng cũng thấy được sự thành thật khai báo của tôi!

                        Trong lần khai báo nào cán bộ cũng bắt tôi nhận “có tội với nhân dân”. Tôi cãi lại, tôi chỉ nhận có tội với đảng cộng-sản vì tôi không theo đảng, chứ tôi không bao giờ có tội với nhân dân, nếu không muốn nói là có công với nhân dân. Vì lý tưởng đời tôi là phục vụ và lo lắng cho người khác. Tôi giữ lập trường này cho tới cùng, mặc dù tôi bị mắng chửi và đe dọa đủ kiểu.

                        Chiều hôm bế mạc lớp học tập khai báo là một buổi chiều nắng gay gắt. Cái xứ Nam Hà quê hương của núi đá vôi này, nắng một mà nóng hai, vì sức nóng trong đá vôi tỏa ra khi mặt trời đã lặn. Như thường lệ, chúng tôi xếp thành hàng đôi tiến lên hội trường. Hội trường là một nhà gạch lợp ngói thấp lè tè, nằm khá xa bên ngoài trại, gần khu nhà cán bộ. Bên trong hội trường có các ghế dài bằng gỗ cho tù nhân ngồi.

                        Khi vô tới bên trong hội trường, tim tôi đập mạnh và người tôi nôn nao khác thường vì chiều nay tôi phải làm một việc quan trọng. Sau phần khai mạc như thường lệ, cán bộ phụ trách chương trình giới thiệu các đề tài thảo luận. Anh ta đọc tên những người được chỉ định trình bày các đề tài và dặn các tù nhân khác phải nghiêm chỉnh thảo luận cho đạt yêu cầu. Bỗng dưng tai tôi ù lại, không còn nghe rõ những gì cán bộ nói. Sự sợ hãi như vồ lấy tôi. Tay tôi bắt đầu run nhè nhẹ và mồ hôi vã ra. Tim tôi đập mạnh hơn và mặt nóng ran như người lên cơn sốt. Tự nhiên tôi cảm thấy khó thở như đang bị hụt hơi sắp chết ngạt. Lúc ấy tôi lại mắc đi đại tiện!

                        Có tất cả 3 đề tài do 3 anh tù được chỉ định lên nói. Giọng anh cán bộ dõng dạc: “Người thứ nhất là anh Nguyễn Hữu Lễ buồng 12, đội 20 sẽ lên đây trình bày đề tài 'Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?'” Giây phút tôi vừa lo sợ lại vừa mong đợi suốt hơn một ngày qua, bây giờ đã tới!  

                        Tôi bật đứng lên khi nghe tên mình và hiên ngang bước ra lối đi ở giữa hội trường, tiến lên cái bục gỗ nằm chéo góc bên tay phải. Trong vị trí đó, người nói chuyện có thể thấy được cả lớp tù ngồi bên dưới và bàn chủ tọa của cán bộ ngồi trên quay xuống. Tôi cố lấy bình tĩnh bằng những bước đi chậm, thật vững và hiên ngang, tay cầm tờ giấy đã soạn sẵn. Từ chỗ tôi đến bục gỗ không xa, nhưng sao tôi cảm thấy đi thật lâu và bầu không khí lúc đó sao quá nặng nề! 

                        Lên gần tới bục gỗ, tự nhiên tôi thấy bình tĩnh trở lại. Bước lên bục, tôi đứng yên lặng hồi lâu, hai tay dang rộng nắm lấy thành bục về phía trước. Tôi lấy thế, đứng thẳng người và nhìn xuống đám đông. Tự nhiên nỗi sợ hãi chợt tan biến. Tôi thấy bình thản và thích thú một cách lạ thường. Cảnh này đã quá quen thuộc với tôi mặc dù lâu rồi tôi không nhìn thấy lại. Tôi có cảm tưởng mình đang đứng trên bục giảng Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, nơi tôi phục vụ cho đến ngày cộng-sản chiếm miền Nam.

                        Nhìn xuống hơn 400 anh em bạn tù và cả hàng ghế cán bộ, tôi có cảm tưởng đây là một buổi lễ và tôi đang bắt đầu thuyết giảng. Lúc này mọi người đang chờ đợi để lắng nghe tôi giảng lời Chân Lý. Đã 3 năm rồi tôi không có dịp rao giảng công khai, giờ đây cảnh tượng này trả tôi về với thiên chức Linh mục. Giờ phút này không còn phải là tôi nói nữa, nhưng là Thiên Chúa sẽ nói qua miệng tôi. Nếu cách đây vài phút tôi hoàn toàn bị động và lo sợ một cách tự nhiên theo bản năng con người, thì bây giờ tôi cám ơn cơ hội đã đưa tôi lên đứng đây.

                        Tôi đứng yên, đảo mắt một vòng, nhìn các anh em bạn tù bằng cái nhìn đầy yêu thương và xúc động mãnh liệt. Tôi nhìn nhóm cán bộ và mong cho họ nhận ra con đường yêu thương mà dân tộc mình phải đi. Các cán bộ ngồi nhìn tôi bằng những con mắt ngạc nhiên, có lẽ họ cũng đoán được một cái gì bất thường sẽ xảy ra không đúng ý họ, nhưng lúc này đã quá muộn để chận đứng điều đó.

                        Sau lúc thinh lặng, để tạo thế làm chủ tình hình, tôi bắt đầu nói theo ý tôi đã soạn trong tờ giấy cầm tay. Tôi nói với tất cả sức mạnh của âm thanh trong cổ họng, với tất cả sự quyết tâm thách đố bạo quyền, với tất cả sức mạnh tinh thần, quyết tạo niềm tin vững vàng cho các anh em bạn tù, nhất là các anh em Công giáo:

                        “Kính thưa các cán bộ, các anh em đồng cảnh thân mến.

                        Tôi vô cùng sung sướng có cơ hội đứng đây để nói lên điều trong lòng tôi xác tín: Tôi không yên tâm cải tạo. Tôi cũng nói điều này thay cho anh em, vì tôi biết nhiều người trong anh em nói yên tâm cải tạo là nói dối cho vừa lòng đảng và nhà nước.”

                        Cả hội trường như bị điện giật ngồi chết trân. Nhìn sang phía hàng ghế cán bộ tôi nói:

                        “Thưa quý ông, yên tâm thế nào được khi các ông vào chiếm miền Nam. Nhà cửa chúng tôi bị tịch thu, con cái chúng tôi phải bỏ học đi bán báo, bán bánh mì. Gia đình chúng tôi tan nát và tôi nói điều này với lời xin lỗi trước các anh em tôi, tôi biết giờ này có những bà vợ ở nhà đã phải làm đĩ nuôi chồng đang ở tù! Yên tâm thế nào được khi các ông vô miền Nam đã tịch thu tài sản nhà thờ, chủng viện trường học, tòa giám mục v.v... Tôi nói điều này cách công khai và tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì tôi đã nói. Xin quý ông cứ đánh điện vào miền Nam xác nhận điều tôi nói có đúng hay không? Tôi đứng đây chờ các ông.”

                        Nói xong câu này, tôi đứng yên lặng nhìn hàng ghế cán bộ trong lúc họ nhìn tôi bằng những cặp mắt không có lời để diễn. Tôi tiếp tục:

                        “Khi chúng tôi còn ở trại Gia Ray trong miền Nam, các ông bắt chúng tôi đi khai hoang, cuốc các bãi mìn, nhiều anh em tôi đã bị mìn nổ banh thây hoặc tật nguyền. Tôi có cảm tưởng mỗi nhát cuốc là tự đào huyệt chôn mình, thì làm sao yên tâm cải tạo được? Như vậy tôi xin các ông hãy làm cho chúng tôi yên tâm, đừng bắt chúng tôi phải nói yên tâm cải tạo.”

                        Tôi đột ngột kết thúc ở đây và đứng yên tại chỗ. Lúc đó cả hội trường bất động, không ai biết phải làm cái gì và bắt đầu như thế nào. Cán bộ thì như bị sét đánh ngang tai, mặt mày tái xám, anh em tù thì ngơ ngác, sung sướng nhưng lo sợ. Tôi vẫn đứng yên tại chỗ.

                        Chừng 30 giây sau, tự nhiên có một tiếng vỗ tay nghe “bốp” của một anh tù nào đó từ ở cuối hội trường. Thế là một tràng pháo tay vang dội của bạn tù, tưởng chừng vỡ cả nóc hội trường thấp lè tè. Tôi biết anh em sung sướng vì có người đã nói thay những gì ẩn ức trong lòng mà họ không thể nói ra được. Nhưng nghe tiếng vỗ tay, tôi nghĩ thầm: “Đây là tiếng pháo hạ huyệt của chính mình.”


                        Bàn tay sắt bọc nhung

                        Dĩ nhiên là trong lần khai báo đó, bài vở của tôi được chiếu cố kỹ lưỡng hơn. Sau đó tôi chờ đợi bị gọi đi làm việc. Một tuần sau cũng chưa thấy gì, rồi những ngày tiếp theo cũng bình thường như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù tôi biết đây là sự yên lặng bất thường trước những cơn bão lớn. Đòn cân não này làm tôi cảm thấy mệt và ngày nào tôi cũng mong được gọi đi làm việc. Tôi hình dung ra cuộc chạm trán tay đôi sắp tới với cán bộ sẽ rất căng thẳng và đã chuẩn bị lời lẽ phải đối phó. Nhưng tôi đã lầm! Mọi việc không xảy ra như tôi dự đoán.

                        Mãi gần một tháng sau tôi mới bị gọi lên cơ quan làm việc. Anh em trong buồng ai cũng ái ngại cho tôi khi thấy tôi theo cán bộ ra đi. Khi đi qua dãy hành lang các cơ quan, nhìn vào thấy rất nhiều cán bộ áo vàng, áo trắng đang ngồi bên trong, tự nhiên tôi thấy sao con người mình bé nhỏ quá so với bộ máy công-an kềm kẹp trong trại này. Lúc đó tôi lại nghĩ tới một bộ máy công-an lớn hơn đang kềm kẹp cả một dân tộc, và tư tưởng này làm tôi lắc đầu ngao ngán.

                        Tôi được đưa vô căn phòng nhỏ có cán bộ giáo dục ngồi chờ sẵn đàng sau chiếc bàn nhỏ, trên bàn có cái bình thủy, một khay trà cũ kỹ và vài ba cái chén nhỏ úp xuống. Trong phòng này cái gì cũng nhỏ, cả người cán bộ cũng thuộc loại nhỏ con. Trên mặt bàn có vài cái bìa đựng giấy tờ mà tôi đoán là trong đó có hồ sơ cá nhân của tôi. “Chào cán bộ!” Tôi lên tiếng khi vừa bước vào.  Anh cán bộ tay chỉ cái ghế trống bên kia bàn: “Anh Lễ đấy à, anh ngồi đi.”

                        Sau khi tôi ngồi xuống, anh ta bắt đầu câu chuyện một cách vui vẻ như đôi bạn thân lâu ngày mới gặp lại nhau. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Anh ta hỏi thăm tôi về hết mọi chuyện từ sức khỏe tới nơi ăn chốn ở trong trại, đến việc gia đình, cha mẹ tôi có khỏe không, gia đình sinh sống ra sao. Thái độ lịch thiệp có dụng ý này của anh ta làm tôi thấy ngượng. Tôi biết đây hoàn toàn là một màn kịch, cảnh mèo vờn chuột của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.

                        Trong lúc anh ta lúi húi pha chè (nước trà) trong bộ ấm chuyên bằng sứ loại rẻ tiền, tôi có giờ quan sát anh ta kỹ hơn. Người anh ta ngăm ngăm đen, mặt dài không có gì để gây ấn tượng, trán thấp, tóc chải lướt về phía sau rẽ ngôi giữa đỉnh đầu, mắt nhỏ linh lợi và sắc bén. Khi anh ngưng nói để với lấy lon chè, lúc đó gương mặt anh ta có vẽ dữ tợn, nhưng khi nói chuyện gương mặt anh vừa vui vừa tếu! Miệng anh lúc nào cũng mỉm cười, hay đúng hơn là cố gắng làm ra vẻ mỉm cười. Sau khi mời tôi uống chè và hút thuốc lá, anh ta độc thoại một thôi một hồi về các chuyện không đâu rồi anh ta đột nhiên nghiêm nghị hỏi:

                          - Anh Lễ, anh có biết chúng tôi gọi anh lên đây có việc gì không?

                           Tôi để ý cách anh ta dùng chữ “chúng tôi” thay vì chữ tôi, cách nói này có vẻ nghiêm trọng. Tôi trả lời đơn giản:

                          - Báo cáo cán bộ, tôi không biết.

                           Anh ta nghiêm nét mặt nhìn tôi.

                          - Thế anh không biết thật à?

                           Tôi bình thản trả lời.

                        - Báo cáo cán bộ, làm sao tôi biết được việc của cán bộ làm.

                           Anh ta yên lặng một lúc, cầm cây bút Bic xoay xoay trong mấy ngón tay tương đối nhỏ nhắn và sạch. Như để tạo thêm sự quan trọng của câu chuyện, anh ta cầm đầu cây bút, chỉ cán bút vào mặt tôi hỏi:

                          - Anh còn nhớ những gì anh phát biểu vừa rồi tại hội trường không?

                           Vì đã chuẩn bị trước nên tôi đáp ngắn gọn:

                          - Báo cáo cán bộ, có chứ, làm sao tôi quên được chuyện đó.

                           Anh ta làm ra vẻ rất tự nhiên

                          - Anh Lễ này! Tôi biết anh là người có tài nhưng chẳng qua vì bất mãn cá nhân nên anh nói thế thôi. Chúng tôi không coi chuyện đó quan trọng đâu, chỉ mong anh học tập cải tạo cho nó tốt.

                        Tôi định nói thêm nhưng anh ta vội quay trở lại dáng vẻ rất thân thiện, mời tôi uống thêm nước chè, nói mấy câu bâng quơ rồi đưa tôi ra cửa. Khi đi ra về tôi đã thầm nghĩ, đâu phải họ chỉ đơn giản gọi tôi lên, cho uống trà hút thuốc lá, mà còn có một cái gì đó rất nghiêm trọng bên trong mà họ chưa muốn nói ra. Tôi lầm bầm trong miệng:“Đúng là thứ cáo già có bàn tay sắt bọc nhung!”


                        Những ngày cuối năm

                        Lúc này đã gần tới lễ Giáng Sinh và ai cũng biết người cộng-sản coi các tôn giáo là kẻ thù, nên lễ Giáng Sinh trong một trại hơn 1000 tù nhân, mà đại đa số là Công giáo là dịp mà ban giám thị phải cảnh giác đề phòng là chuyện đương nhiên. Đó là chưa kể mấy ngày trước lễ, cán bộ đã phải vất vả đi lùng các buồng khu B để triệt hạ các thứ trang hoàng Noel, như lồng đèn, ngôi sao, hang đá, máng cỏ. Có buồng anh em còn bớt phần ăn sắn (khoai mì) để lấy sắn luộc nhào thành bột dẻo nặn tượng Chúa Hài Đồng đặt nằm trong máng cỏ!
                        Mấy đêm trước lễ, các buồng khu B lại hát vang lừng những bản thánh ca rất phổ thông như “Hang Bê-Lem” của nhạc sĩ Hải Linh và bài “Cao Cung Lên” của nhạc sĩ Hoài Đức v.v... Những hành động này của anh em Khu B như thách thức, trêu ngươi cán bộ trong trại. Lúc bấy giờ tôi là Linh mục duy nhất trong trại nên cũng dễ hiểu tại sao tôi trở thành mục tiêu cho họ theo dõi và những tên ăng-ten trong trại bám sát tôi như hình với bóng.

                        Vào khoảng 2 tuần trước, có lần đội chúng tôi đi phơi lạc trong trại, gần khu gia cư của cán bộ. Lúc ấy là mùa đông và thời tiết rất lạnh. Đi phơi đậu cả ngày đầy bụi bặm nên chiều tối chúng tôi bắt buộc phải tắm, vì không tắm ngứa ngáy không chịu được, mặc dù là nước trong bể lạnh như nước đá. Không ngờ tắm xong đêm đó tôi bị sưng cuống phổi và sốt nằm mê man bất tỉnh. Qua ngày hôm sau tôi té xỉu giữa buồng trước lúc điểm danh ban chiều và anh đội trưởng Nguyễn Trọng Ngạn đã phải cõng tôi trên vai đưa đi bệnh xá của trại. Tôi vẫn nhớ ơn anh Ngạn mãi về việc này. Khá lâu sau tôi mới hồi phục và có thể đi lại, nhưng  quá suy nhược và đi lại phải chống gậy nên chưa có thể theo đội đi lao động, mặc dù đội chúng tôi chỉ lao động bên trong trại.

                        Đau đớn hơn nữa, lúc đó tôi được thư chị tôi cho hay Má tôi vừa mất hôm tháng Tám. Trong thư chị nói từ khi hay tin tôi bị vào tù má ngày nào cũng nhắc ghế ra ngồi dưới bóng cây dừa trước ngõ để đợi tôi về. Ngày má không còn sức ra ngồi đó nữa là ngày cuối trong đời. Má tôi mất đêm đó. Trong lúc má lìa đời, người anh lớn của tôi cũng đang ở tù tại trại Bến Giá trong Nam.

                        Đọc thư chị xong, tôi ngồi chết lặng như một pho tượng. Lạ một điều, lúc đó tôi muốn khóc nhưng không chảy được một giọt nước mắt nào! Sau này tôi mới biết, sự đau đớn đã vượt quá những cảm xúc của cơ thể, biến tôi trơ ra như đá!
                        Có nhiều anh em, trong đó có mấy người Công giáo thấy hoàn cảnh tôi yếu nhược đến thăm hỏi an ủi, có người còn cho tôi ít thức ăn, có một anh cho tôi hộp sữa. Tôi muốn nói chi tiết như vậy, vì lúc bấy giờ không một sự việc nhỏ nhặt nào có liên quan tới tôi mà lọt qua được cặp mắt cú vọ (nghĩa đen) của Đặng Báo, một anh chàng người Công giáo chuyên theo dõi tôi để báo cáo.

                        Vì những lời báo cáo của anh ta, nên vào lúc xế trưa ngày 24 tháng 12, cán bộ an ninh gọi tôi lên làm việc. Khi tôi vừa ngồi xuống, cán bộ hỏi tôi quan hệ với các anh tù khác trong trại như thế nào trong mấy ngày qua, những ai tới lui với tôi, họ tới với mục đích gì, họ cho tôi những gì, ai cho hộp sữa v.v... Cuối cùng anh ta cười nhếch mép hỏi tôi:

                          - Anh Lễ, anh cho tôi biết chủ trương phá trại đêm nay của anh ra sao?

                        Qua câu hỏi này, tôi biết họ nghĩ gì về tôi, nhưng câu hỏi đó cũng hàm chứa một sự giễu cợt, mỉa mai, dựa trên lời báo cáo láo lếu. Tôi nổi nóng trả lời:

                          - Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ đã biết thì đêm nay sẽ không có gì xảy ra vì đó là do những người báo cáo láo. Còn nếu tôi đã có ý định gì, không bao giờ cán bộ có thể biết được. Xin lỗi cán bộ cho tôi nói điều này, tôi chỉ thua cán bộ ở cái vị thế, chứ tôi không thua trí cán bộ đâu. Cán bộ đừng dùng câu hỏi đó để sỉ nhục tôi!

                        Bị phản ứng quá bất ngờ, anh cán bộ tỏ ra bối rối và quay qua nói chuyện khác. Qua cuộc tra vấn này tôi biết là tình thế đã tới lúc rất căng thẳng. Suốt buổi chiều áp lễ Giáng Sinh tôi suy nghĩ mãi, thử suy đoán xem những gì có thể xảy ra và cảm thấy dường như có dấu hiệu bất thường.

                        Lúc 6 giờ chiều, sau khi phát thức ăn, khu B được lệnh đổi buồng. Có một số anh tù mới, được chuyển vào buồng 6 của tôi, thay cho một số được chuyển đi buồng khác. Nói tóm lại cả ngày 24 tháng 12 năm đó, bầu khí trong trại Nam Hà rất căng thẳng. Tôi có linh tính là sẽ có một biện pháp mạnh xảy ra, trước tình trạng gần như nổi loạn của nhóm tù khu B trong những ngày qua.


                        Đêm Thánh vô cùng

                        Lúc ấy vào khoảng 10 giờ đêm, sau tiếng kẻng báo giờ đi ngủ, tôi ngồi trong màn âm thầm dâng Thánh lễ Chúa Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh, cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cũng là một ngày đặc biệt đối với những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đối với tôi, là một Linh mục Công giáo, thì ngày lễ đó lại mang một tầm vóc và ý nghĩa quan trọng hơn. Những ngày trước, trong lúc có dịp trà trộn với anh em trong trại, tôi đã nhắc nhở và giúp cho anh em Công giáo, cả khu A lẫn khu B, xưng tội và chuẩn bị tâm hồn trong dịp này.

                        Chúng tôi thông báo cho nhau biết đúng vào đêm 24 tháng 12, sau khi trại đánh kẻng đi ngủ, giờ đó tôi sẽ dâng Thánh lễ và xin anh em cùng hướng về buồng 6, là buồng của tôi để hiệp ý dâng lễ. Mặc dù trong buồng cũng có một số anh em Công giáo, nhưng không ai dám tới chỗ tôi để dự lễ vì những ngày này các tay làm ăn-ten theo dõi tôi rất gắt. Một điều thật trớ trêu, chính người được cán bộ giao công tác theo dõi từng bước đi, từng lời nói của tôi lúc bấy giờ lại là một anh chàng Công giáo.

                        Vừa dâng lễ xong, trong lúc tôi đang lúi húi thu dọn các thứ cho vào túi vải thì bất thần nghe có tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Tôi giật mình lắng tai nghe. Rõ ràng cán bộ đang mở cửa buồng tôi! Tiếng chìa khóa khua nghe rất mạnh bạo và hối hả. Có điều gì rất đặc biệt khác với tiếng mở cửa thông thường của cán bộ điểm danh hàng ngày.

                        Kinh nghiệm cho tôi biết, mỗi lần cửa buồng giam được mở đột ngột vào ban đêm như thế này là luôn luôn có việc chẳng lành. Lần này lại có vẻ rất khác thường, nhất là sau những biến động căng thẳng trong trại vừa rồi. Tự nhiên tôi có linh tính như có chuyện liên quan tới tôi. Tôi có lý do để suy đoán như vậy vì từ khi nhập trại Nam Hà hơn 8 tháng qua, có quá nhiều sự việc dính líu tới tôi. Chỉ nói riêng những gì vừa mới xảy ra trong ngày 24 tháng 12 này từ sáng tới giờ, nhất là họ hạch hỏi tôi về âm mưu phá trại cũng đủ cho tôi có lý do để suy đoán như vậy.

                        Nhận biết có chuyện bất thường, tôi lẹ tay thu gọn đồ đạc, chồm người nhìn xuống lối đi giữa buồng. Qua ánh sáng lờ mờ của bóng điện giữa buồng, tôi thấy một số cán bộ đang đứng lố nhố ở lối đi. Có việc gì rất nghiêm trọng sắp diễn ra. Bỗng một giọng cán bộ dõng dạc vang lên giữa buồng:

                          - Tất cả các anh vắt màn lên và ngồi yên tại chỗ. Khi nghe cán bộ gọi tên anh nào, hãy lấy hết “nội vụ” và khẩn trương bước ra khỏi buồng!

                        Cả buồng tự nhiên chộn rộn. Có tiếng xào xạc từ đầu tới cuối dãy của hơn 60 tù nhân trong buồng, tất cả thi hành như cái máy. Trong chốc lát, các màn được vắt lên và chúng tôi ngồi ngay hàng thẳng lối tại chỗ nằm của mình chờ đợi. Do phản ứng tự nhiên, trống ngực tôi đập càng lúc càng mạnh hơn, cho dù tôi cố muốn bình tĩnh cũng không được.“Anh Nguyễn Hữu Lễ!” Tên tôi được gọi nghe sang sảng trong đêm.

                        Mặc dù đã có linh tính và sẵn sàng chờ đợi, nhưng khi nghe gọi đến tên, tôi cũng giật thót người và bật dậy như chiếc lò xo. Tôi vội tháo màn, cuốn chăn chiếu, áo quần và tất cả đồ đạc cho vào bao bị. Nói là đồ đạc nhưng thực sự lúc đó tôi chẳng có gì ngoài cái lon Guigoz, ống điếu thuốc lào và một vài món linh tinh.

                        Lúc ấy nghe có tiếng lạo xạo của rất nhiều người bên ngoài. Tôi nhìn vội qua song cửa sổ, thấy trong sân có nhiều ánh đèn pin quét qua quét lại, có cả tiếng lách cách của súng ống chạm nhau, tiếng chân người chạy tới chạy lui nhộn nhịp một cách bất thường.“Anh Nguyễn Sỹ Thuyên!” Giọng cán bộ lúc nãy lại vang lên một cách dõng dạc. Khi nghe gọi tên anh Thuyên, tự nhiên tôi cảm thấy được “an ủi” vì ít ra cũng có người đồng cảnh. Tư tưởng này có hơi ích kỷ, nhưng thực sự là như vậy. Khi con người mình phải lâm vào cảnh khốn khổ nào mà có người khác cùng chung số phận sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bạn hãy tưởng tượng một lớp có 50 học sinh đi thi mà một mình bạn bị rớt, bạn sẽ thấy buồn hơn là có vài người khác cũng rớt như bạn.“Khẩn trương lên! Mang tất cả nội vụ và bước ra ngoài. Khẩn trương!” Giọng quát tháo càng lúc càng mạnh.

                        Tôi quay nhìn anh Thuyên, trông anh đến tội nghiệp. Lúc ấy anh đã 50 tuổi, dáng người nhỏ thó thấp lùn, đầu tóc bạc phơ làm anh có vẻ già trước tuổi. Bộ râu màu cháo lòng vì ám khói thuốc lào càng làm anh trông tàn tạ hơn. Tay chân anh quờ quạng trong trạng thái mất bình tĩnh khi quơ các “nội vụ” nhét vào túi xách không ra cái túi xách, nhét vào lại rơi ra. Buồng giam có tầng gỗ bên trên và cả hai chúng tôi cùng nằm ở tầng trên đó. Tôi bám cây cột gỗ có đóng mấy cục gu, leo xuống đất, trong khi các anh em bên cạnh giúp chuyển đồ đạc cho.

                        Khi bước xuống tới sàn nhà, tôi chạm trán với một số cán bộ lạ mặt đang đứng đợi sẵn, mặt lạnh như tiền. Họ nhìn vào mặt tôi chăm chăm và không nói không rằng. Trông cái cách họ nhìn, tôi có thể đọc được ý nghĩ trong đầu của ho:“À! Thì ra mầy là thằng cha cố nguyễn hữu lễ  (viết chữ thường) đây à?!”

                        “Khẩn trương lên nào!” Tiếng quát to lại giục giã trong khi tôi cố vẫy tay chào các anh em trong buồng, lúc ấy đang ngồi nhìn hai anh em tôi một cách ái ngại.

                        Cảnh chia tay nào cũng buồn, nhất là chia tay trong tù càng xúc động hơn, vì ngầm nói lên là có thể không bao giờ sẽ có dịp gặp lại. Tôi theo sau anh Thuyên lẫn vào giữa đám cán bộ, khệ nệ ôm đồ đạc bước ra khỏi buồng đi vào trong bóng đêm bên ngoài. Lúc ấy tôi rất hoang mang lo lắng, chưa biết những gì đang chờ đợi tôi trong màn đêm âm u đó, nơi mà tôi vừa nghe những thứ âm thanh đầy đe dọa và chết chóc.

                        Tôi vẫn thường nghe nói có nhiều nơi, một vài tù nhân bị dựng dậy vào ban đêm, dẫn ra khỏi buồng và không bao giờ trở lại. Khi đứng chơi vơi trong bóng đêm dầy đặc và giá buốt bên ngoài, tôi cố giương mắt nhìn khắp các buồng trong trại như là cử chỉ giã từ. Giã từ hơn 1000 anh em đồng cảnh cả khu A lẫn khu B của trại Nam Hà mà tôi đã có dịp sống chung và chia sẻ buồn vui trong hơn 8 tháng qua. Lòng tôi dâng lên nỗi chua xót!

                        Khi bước ra khỏi buồng, tôi mới thực sự chạm mặt với bàn tay sắt của những người cộng-sản. Bàn tay sắt trần trụi của sự đe dọa và mang tính chất tiêu diệt. Màn đêm u tối bên ngoài làm tôi rợn người. Qua ánh đèn bấm chớp tắt khắp nơi trong sân, tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy đám đông cán bộ súng ống đầy người đứng đầy trong sân trước buồng. Tiếng người nói lộn xộn, tiếng chỉ thị, tiếng chân người chạy tới chạy lui một cách vội vã, tiếng súng ống chạm nhau, tiếng còng sắt rổn rảng trong đêm tạo thành một thứ âm thanh ghê rợn.

                        Tôi chưa kịp phản ứng thì bị một ánh đèn bấm chói chang chiếu thẳng vào mặt, kèm theo một tiếng quát thật to bảo tôi bỏ các các đồ đạc trên tay xuống. Một anh cán bộ bước tới còng 2 tay tôi với chiếc còng số 8. Trong mấy năm qua tôi không còn xa lạ gì với chiếc còng loại này, nhưng đêm nay tôi thấy rợn người khi bị còng 2 tay ra sau. Bỗng dưng tôi thấy choáng váng khó chịu và buồn nôn.

                        Lúc mới ra sân, tôi ngỡ là chỉ có buồng 6 của tôi có biến động, không ngờ nhìn qua các buồng, thấy lúc đó cũng lộn xộn và đầy nghẹt cả người. Tôi đoán là trong khu B cũng có người bị dẫn ra sân như tôi và anh Thuyên. Tôi nhắm mắt cúi đầu lặng yên vì sắp phải từ giã anh em để ra đi và chưa biết là sẽ đi về đâu. Tôi nghĩ lúc này anh em trong buồng của tôi đang hoang mang, ngơ ngác và lo ngại cho số phận của hai người bạn vừa bị tách ra khỏi đàn.


                        Bài Thánh ca Giáng Sinh

                        Một lúc sau, tôi bị dẫn đi về phía sân trại, có anh cán bộ mang súng dài đi sau. Khoảng sân lớn giữa trại lúc này rất đông người đang đứng láo nháo, hỗn độn như một chợ trời. Tôi thoáng thấy bóng dáng một số anh tù cũng bị còng tay đang tiến lại phía tôi. Tập trung thành nhóm giữa sân trại xong chúng tôi được tháo còng. Lúc gặp nhau tôi không ngạc nhiên vì vài người có mặt trong lúc này đã dính líu trực tiếp trong vụ Tàu Sông Hương với tôi, một số khác là những gương mặt nổi trong những vụ chống đối trong trại, một số khác đã đánh đập bọn ăng-ten trong mấy tháng nay.

                        Tới lúc có lệnh xếp hàng tôi mới biết có tất cả 20 người. Chúng tôi được lệnh leo lên chiếc xe ca đậu chờ gần cổng vào trại và khi đã lên xe xong, bị còng tay từng đôi một. Sau khi cán bộ kiểm tra lại lần chót và dặn dò luật lệ đi đường, xe bắt đầu chuyển bánh, lúc bấy giờ quảng 11 giờ đêm.

                        Khi xe bắt đầu chạy, chúng tôi không ai bảo ai cùng nhau hát thật to bài Thánh Ca Giáng Sinh, “Hang Bê Lem”. Bài Thánh ca Giáng Sinh rất phổ biến này của nhạc sĩ Hải Linh tôi đã hát rất nhiều lần, nhưng có lẽ đây là lần tôi hát một cách sốt sắng và cảm động nhất. Tiếng hát rền vang của 20 người tù phá tan màn đêm u tối của trại tù Nam Hà trong đêm Giáng Sinh 1977, một lễ Giáng Sinh đặc biệt đáng ghi nhớ trong đời tôi. Trong khi đó, chiếc xe chở chúng tôi đang nặng nề bò theo con đường có nhiều ổ gà như một con rắn khổng lồ bị thương, đang cố lết đi ẩn mình thoát nạn.

                        Sau khi bài thánh ca chấm dứt, chúng tôi đã rời trại một đỗi và ngồi yên lặng nhìn nhau như để trấn an và tìm sự nương tựa cho những ngày tháng tới. Chiếc xe này sẽ đưa chúng tôi tới đâu, lúc đó chưa ai biết, nhưng căn cứ vào cách chúng tôi bị tống lên xe và nhìn qua 20 khuôn mặt này, tôi có thể kết luận: nơi sắp tới phải là một nơi đáng sợ hơn trại Nam Hà mà chúng tôi vừa bỏ lại sau lưng.


                        (nguôn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ)
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2007 13:12:23 bởi sóng trăng >
                        #12
                          sóng trăng 29.01.2007 10:37:38 (permalink)
                          .

                          5
                           
                          Đường Lên Cổng Trời
                           

                          Chiếc xe khách cũ kỹ và ì ạch như một con trâu già dừng lại trong sân một trại tù xa lạ, lúc ấy có lẽ đã qua nửa đêm, hoặc đã 1, 2 giờ sáng. Giờ này đêm qua, đêm Giáng Sinh 1977, xe chúng tôi đang chạy ngang cầu Long Biên ở thủ đô Hà Nội.

                          Đêm tối phủ mờ những cảnh tượng chung quanh làm tôi chẳng thấy được gì nhiều. Lúc nãy, khi xe chạy qua khu nhà cán bộ và dừng lại một chập, sau đó chạy vào qua cổng trại thì tôi biết đã tới nơi. Từ trong xe nhìn ra, tôi thấy có quãng 5, 6 cán bộ đứng gần bên xe. Họ mặc áo bông dầy cộm, đầu đội mũ có che tai và cột lại dưới cằm giống như lính Liên Xô. Nhìn cách những người cán bộ ăn mặc, tôi biết là bên ngoài trời đang lạnh khủng khiếp. Họ mang bao tay và cầm đèn bấm, có người cầm quyển sổ. Một lúc sau nhóm tù nhân 20 người chúng tôi từ trại Nam Hà vừa chuyển lên được lệnh xuống xe, tay vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một.
                           
                           
                          Cái lạnh khủng khiếp

                          Vừa bước ra khỏi xe, bất ngờ tôi chạm ngay với cái lạnh kinh hồn!  Lúc còn trên xe nhìn ra thấy cách ăn mặc của các cán bộ và nhất là khi thấy hơi khói ở miệng thoát ra ngùn ngụt mỗi khi họ nói, tôi biết là bên ngoài trời rất lạnh nên đã cẩn thận cài khuy áo, quấn thêm lên cổ chiếc khăn lông. Nhưng đầu và chân vẫn để trần vì lúc đó tôi không có mũ và giày, chỉ mang đôi dép râu do trại Nam Hà phát.

                          Khi vừa bước ra khỏi xe, tôi nghe choáng váng và bật ngược về phía sau như có một cú đấm vô hình cực mạnh tống vào mặt một cách quá bất ngờ. Thì ra đó là làn khí lạnh mà tôi va chạm lần đầu tiên ở bên ngoài. Tôi chưa kịp hoàn hồn để nhận biết hết tính cách kinh khủng của cái lạnh, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như đang trần truồng! Sao lạ kỳ thế này? Tôi nhớ là mình có mặc áo quần cẩn thận, có mặc thêm cái áo vệ sinh bên ngoài bộ đồ xanh của trại, có khăn lông quấn cổ nữa, nhưng tự nhiên các thứ vải vóc trên thân thể tôi biến đi đâu hết để tôi đứng trần truồng giữa cái lạnh khủng khiếp này?

                          Nhìn lại, tôi vẫn thấy còn quần áo dính trên người, nhưng lạ một điều là trong khoảnh khắc toàn thân tôi trở nên tê dại, không còn cảm giác nữa. Áo quần có đụng chạm vào cơ thể, nhưng dường như tôi không biết, chỉ nhìn thấy nó còn trtên thân thể tôi.

                          Trong lúc đứng đó tôi cố mở miệng ra định nói vài câu với người bạn đang bị còng chung, nhưng hàm tôi cứng lại như bị khóa nên không nói ra lời! Lúc đó hai đầu gối tôi tự nhiên biến đi đâu, để đôi chân tôi cứng lại như hai khúc gỗ thẳng tắp. Thì ra cái lạnh không được đề phòng trước đã đánh tôi ngã gục, đã làm tê dại hết các tế bào xúc giác và làm hệ thần kinh tôi hoạt động bấn loạn.

                          Ngày xưa khi đọc sách báo, tôi có thấy nói đến cái lạnh “chết người”, nhưng lúc đó tôi không hiểu, chỉ nghĩ đó là cách nói trong văn chương chữ nghĩa. Nhưng chỉ trong mấy phút vừa qua, tôi đã hiểu và có lẽ tôi còn hiểu rõ ràng hơn những tác giả đã viết lên câu“cái lạnh chết người”!Tôi đang thực sự đụng chạm tới cái lạnh chết người, khi đang đứng chơi vơi trong sân một trại tù xa lạ giữa đêm khuya này.

                          Lúc rời trại Nam Hà ra đi trong đêm Giáng Sinh hôm qua, thời tiết ở đó cũng đã khá lạnh nên tôi lấy cái áo vệ sinh do trại phát mặc thêm bên ngoài bộ đồ xanh của trại. Mặc như thế cũng đủ với cái lạnh vào quãng 8 độ C của vùng núi đá vôi Nam Hà. Thực ra, có muốn mặc thêm áo ấm cũng chẳng có đâu mà mặc. Trong suốt 24 giờ qua, chúng tôi vật vã lăn lộn trên chiếc xe già nua lúc nào cũng ì ạch bò lết leo lên những dốc núi cao.

                          Có lúc xe chạy giữa vách đá cheo leo, một bên là núi, bên kia là thung lũng sâu, nhìn xuống phát chóng mặt. Trên đường đi, vì bị dằn vật nhiều quá nên tôi cảm thấy nóng và có lần đã phải cởi áo vệ sinh ra cho dễ chịu, nhưng khi xe lên tới độ cao và nhất là càng về chiều càng lạnh, nên tôi mặc áo ngoài cẩn thận. Lúc trời về khuya, cơn lạnh dữ dội ập đến, tôi chỉ còn biết co ro ngồi dựa vào những gì có thể, để tìm chút hơi ấm. Dĩ nhiên lúc đó tất cả cửa gió trên xe đều đóng lại. Hơn nữa, nhờ có đông người, 20 người tù và 5 cán bộ áp tải, nên hơi người cũng làm tôi cảm thấy ấm hơn đôi chút. Lúc ở trên xe, ai có muốn mặc thêm quần áo cũng không có, vì đi đường mỗi người chỉ có một túi xách nhỏ, còn tất cả “nội vụ” đều cho vào bao bị chất đống trong xe, khi tới nơi mới lấy ra được.

                          Thì ra cái lạnh của trại Nam Hà không thấm vào đâu so với cái lạnh khủng khiếp nơi tôi vừa đặt chân tới, mà tôi đoán là dưới 0 độ khá xa. Lúc đó tôi chẳng biết mình đang ở đâu và trại mà chúng tôi vừa tới tên là gì. Chỉ có một điều tôi biết được là trại này nằm về hướng Bắc, cách trại Nam Hà một ngày đi xe (24 tiếng) và ở trong một vùng núi rất cao, vì xe chở chúng tôi lúc nào cũng ì ạch leo dốc; tiếng máy gầm inh ỏi nhả khói đen um tùm và thỉnh thoảng phải ngừng nghỉ để đổ thêm nước vì máy xe quá nóng.


                          Đêm giá băng

                          Lúc này trời đã quá muộn về sáng, vả lại thời tiết lạnh khủng khiếp nên vừa xuống xe là chúng tôi được tháo còng ngay và nhận lại “nội vụ”, sau đó được đưa vào một buồng kế bên nghỉ qua đêm. Mặc dù mới đứng trong sân chừng 15 phút nhưng mặt tôi lạnh và cứng như tảng nước đá, đầu nhức như muốn vỡ đôi ra, hai tai đang dính vào đầu cứng như hai miếng bánh đa mỏng giòn, nếu dùng tay búng mạnh sẽ bị vỡ tan và rơi xuống đất.  Đôi chân cứng đờ và thẳng tắp không còn bước đi được nên một anh bạn trẻ phải giúp dìu tôi vào buồng.

                          Đó là một buồng giam nhỏ, có lối đi ở giữa và hai bên có sàn ván để nằm, có tầng bên trên. Vào buồng xong việc đầu tiên là chúng tôi xổ hết bao bị ra tìm thứ gì có thể mặc được thì mặc hết vào người. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được vì quá lạnh, mặc dù sau một ngày đường lăn lộn mệt nhọc. Tôi cố thu người lại càng nhỏ càng tốt, nhưng nằm co thế nào đi nữa vẫn thấy da thịt mình còn quá nhiều chỗ phải đụng chạm với khí lạnh bên ngoài.

                          Lúc nằm yên tôi hình dung ra “con rét” là một loài côn trùng bé tí ti nhưng có răng thật sắc, đang bò trong cơ thể tôi, chui vào các lỗ chân lông, đi vào hơi thở, chui vào các mạch máu và đang gặm nhắm từng tế bào bên trong cơ thể tê dại của tôi đang cuộn tròn như con sâu. Lúc đó tôi mới nhớ lại là các cán bộ ở đây ai cũng mặc áo bông dày cộm, đầu đội mũ có rèm che tai gần kín mặt, tay mang găng len hoặc da. Với cái lạnh khủng khiếp này, các loại quần áo bằng vải hoặc bằng len, cho dù có mặc bao nhiêu lớp trên người cũng không hề thấm vào đâu. Phải mặc đồ bông mới chống lạnh được.

                          Nằm một chập, hình như ai nấy đều không chịu thấu cái lạnh bất ngờ này, nên cả đám chúng tôi tự động ôm nhau, người này rúc đầu vào người kia như lứa chó con. Tất cả 20 con nằm trong ổ. Chúng tôi đâu ngờ phải chịu cái cảnh lạnh “chết người” này. Nếu biết trước, ít ra chúng tôi cũng đã chuẩn bị thứ gì đó để chống lạnh trong hoàn cảnh có thể chuẩn bị được. Đêm đó ai cũng thắc mắc ở đây là đâu mà lạnh thế và trại này là trại gì?

                          Sáng hôm sau, cả đám chúng tôi trỗi dậy trong cơn mệt rã rời. Một phần vì bao nhiêu nhiệt lượng trong người đã được đưa ra dùng để chống lại cái lạnh khủng khiếp bên ngoài, phần nữa lại vừa mất ngủ sau một ngày bị dằn xốc suốt 24 tiếng đồng hồ trên xe. Sáng ngày tôi mới để ý căn buồng này rất bẩn thỉu. Sàn ván cũ kỹ và sứt mẻ nhiều nơi, có hai cửa sổ nhỏ chắn song sắt. Tầng dưới cách mặt đất quãng 50 phân và tầng trên cách tầng dưới chừng hơn một thước, như vậy người nằm tầng dưới không thể đứng thẳng người, chỉ ngồi hoặc bò lết, nếu không sẽ bị va đầu vào sàn trên.

                          Lúc sáng ngày, bên ngoài sương mù đã phủ dày đặc, nên chúng tôi không nhìn thấy gì, chỉ loáng thoáng thấy có bức tường bao bọc trước sân buồng, có cánh cửa mở vào sân và một nóc nhà làm nhà ăn, lợp lá thật bệ rạc nằm phía sau. Nhà cửa ở đây xấu xí và dơ bẩn, không như trại Nam Hà mà chúng tôi vừa bỏ ra đi. Sáng ngày tôi cảm thấy bớt lạnh, có lẽ nhờ số chăn màn và hơi ấm thân thể của 20 con người trong phòng đóng kín đêm qua. Bên ngoài trời vẫn còn âm u vì sương mù vây kín, mặc dù chúng tôi đoán là bình thường giờ này mặt trời đã lên cao. Mãi một lúc rất lâu mới nghe có tiếng động bên ngoài làm chúng tôi giật mình nhìn ra, nhưng chưa thấy ai.

                          Thình lình có dáng người bước rất nhanh vào sân buồng. Người mới xuất hiện này vóc dáng to cao, mặc áo bông che kín cả cổ, đội mũ có vải che tai, mang găng tay và cầm một chùm chìa khóa khá to có đến mấy chục chiếc. Người này tới bên cửa sổ nhìn vào, hai tay đang xoa vào nhau làm chùm chìa khóa kêu rổn rảng. Con người lạ mặt này có thân hình đã to, lại mặc áo quần dày cộm trên người, càng làm cho con người ấy to hơn.


                          Trại Quyết Tiến “Cổng Trời!”

                          Khi người đó đứng bên ngoài nhìn vào, chúng tôi bên trong cửa sổ lên tiếng:

                            - Chào cán bộ.

                             Người bên ngoài lên tiếng đáp lại:

                            - Tôi không phải là cán bộ, tôi là ‘Trật Tự’!

                          Khi nói, miệng anh nhả khói um tùm như người đang hút thuốc lá. Đó là lần đầu tiên tôi nghe hai tiếng “trật tự”, vì ở trại Nam Hà không có anh tù làm ‘trật tự’ như ở đây. Khi biết anh cũng là tù, chúng tôi dạn dĩ hơn nên bắt đầu tìm hiểu những điều chúng tôi thắc mắc suốt đêm qua. Chúng tôi thay nhau hỏi, nhưng câu hỏi đầu tiên mà hình như ai cũng nói ra cùng lúc là

                            - Trại này là trại gì, ở tỉnh nào?

                             Anh tù trật tự này mặc dù không phải là con người vui vẻ, nhưng tỏ ra là một người dễ chịu, anh đáp nhanh:

                            - Các anh đang ở trại ‘Quyết Tiến Cổng Trời’ trong tỉnh Hà Tuyên.

                             Vì chúng tôi là người miền Nam chưa biết vị trí các tỉnh miền Bắc nên có anh hỏi:

                            - Vậy tỉnh Hà Tuyên nằm ở đâu hả anh?

                            - Nằm giáp ranh Trung Quốc, và trại này cách biên giới Trung Quốc 10 cây số!

                             Lúc đó 20 người chúng tôi thi nhau hỏi làm anh tù trật tự bên ngoài không biết trả lời ai. Tôi hỏi to:

                            - Thế trại này có tù chính trị miền Nam không anh?  

                          Anh chưa kịp trả lời thì có một số cán bộ bước vào sân và anh trật tự làm thinh. Tôi nhận ra trong số cán bộ vừa bước vào có Thiếu úy Lạc ở Nam Hà, người có trách nhiệm áp tải chúng tôi lên trại này. Sau khi đứng ngoài sân nói gì với nhau một lúc, anh trật tự tới mở cửa buồng của chúng tôi. Một cán bộ cấp thiếu úy, người khá nhỏ bước vào buồng ra lệnh cho chúng tôi mang hết “nội vụ” ra sân để khám xét.

                          Việc kiểm tra này là thủ tục thông thường khi tù nhân chuyển tới một trại mới. Chúng tôi khệ nệ tay xách nách mang tất cả những gì mình có ra và theo một hành lang hẹp dẫn ra sân trại, nơi chúng tôi xuống xe đêm qua. Thời tiết bên ngoài lạnh hơn tôi tưởng. Tôi bước đi vừa rét vừa run, mặc dù tôi đã mặc vào người thêm mấy lớp quần áo, nhưng với cái lạnh ở đây, quần áo vải chẳng thấm vào đâu.

                          Ra tới nơi đã thấy bày sẵn một bàn nhỏ và có một số khá đông cán bộ đang chờ sẵn. Tất cả đều mặc áo bông và đội mũ “Liên Xô”. Cuộc khám xét bắt đầu. Theo quy luật trại, tiền bạc và các đồ quý giá đều phải gửi lưu ký. Riêng áo quần có thể gửi lưu ký hoặc giữ lại dùng trong trại tùy ý, nhưng nếu giữ lại đưa vào trại phải bị đóng dấu “Cải Tạo” bằng hắc ín thật to sau lưng áo và trên ống quần. Đóng dấu như vậy coi như bộ đồ ấy đã bỏ đi, nên nhiều người tiếc rẻ và muốn gửi lưu ký để khi ra về có đồ mới mà mặc.


                          Động lòng trắc ẩn

                          Trong lúc đang kiểm tra và có mấy anh định gửi lưu ký quần áo, nhưng cán bộ Lạc bước tới gần nói nhỏ, giọng khá xúc động:“Ở đây rét lắm, các anh giữ lại quần áo mà dùng, đừng gửi lưu ký làm gì!” Một lúc sau, khi đã khám xét và bàn giao xong, anh tiến lại nhóm chúng tôi nói nhỏ, không để cho cán bộ trại Quyết Tiến nghe thấy:“Ở trại Nam Hà sướng như thế mà các anh không chịu, bây giờ phải lên đây, tôi chẳng biết nói sao!? Thôi các anh ở lại, cố gắng cải tạo và nhớ giữ gìn sức khỏe”. Nói xong anh quay đi thật nhanh. Tôi rất cảm động khi nghe cán bộ Lạc nói những lời đó.

                          Sau 2 năm bị bắt, đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy được lòng nhân nơi một người cán bộ. Anh cảm thấy ái ngại cho số phận chúng tôi, những con người mà anh biết là đang đi vào cõi chết. Qua câu nói bảo đừng gửi lưu ký áo quần, người cán bộ có ý nhắn là không bao giờ có dịp nhận lại nữa, và câu nói sau cùng trước lúc chia tay đã cho chúng tôi biết phần nào về số phận của mình. Ngay hôm đó nhóm 20 người chúng tôi được chia ra làm hai, 14 người nhập vào đội lao động và 6 người lên khu kiên giam, trong đó có tôi.

                          Khu kiên giam là một nhà dài bằng đá tối om, có hành lang nhỏ ở giữa, chia ra mỗi bên 5 buồng hẹp, mỗi buồng quãng 3 thước bề ngang và có sạp nằm bằng ván hai bên cho 2 người. Trên tường phía ngoài có cửa sổ nhỏ và cầu tiêu kế bên. Hằng ngày có anh tù đến gánh phân nơi hầm nhà cầu thông ra phía ngoài. Lúc tôi tới đó đã có sẵn mấy người trong khu kiên giam.

                          Tôi vào chung buồng với anh Trần Phụng Tiên, các buồng bên có các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Ngô Đình Thiện, Mai Ngọc Y và Vũ Văn Vang.  Mấy ngày sau nhờ liên lạc hỏi thăm anh em các buồng bên cạnh và hỏi chuyện anh tù gánh phân, chúng tôi được biết thêm về trại này.

                          Trại Quyết Tiến này nằm sát ngay biên giới Trung Quốc, thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Tuyên, tức là hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang gọi nhập lại. Trại này có biệt danh là trại “Cổng Trời” vì 2 lý do. Thứ nhất theo nghĩa đen, đây là trại tù nằm ở cao độ 2,500 thước trên mặt biển, cao gần đụng trời. Lý do thứ hai, vì đây là trại trừng giới dành cho các tù chính trị thuộc diện bất trị, lên đây một thời gian rồi về... trời! Do đó, trại này được coi như một phòng chờ đợi trước khi “về trời”.

                          Trong trại cũng có một số tù hình sự có án nặng như tử hình giảm xuống chung thân, hoặc nhẹ hơn thì 20 năm, 18 năm, 15 năm v.v... Những người bị kêu án dưới 10 năm không phải lên đây. Số tù hình sự còn có hy vọng được tha sau khi mãn án, nhưng không mấy người sống sót vì sự khắc nghiệt của thiên nhiên và của con người trong trại này. Cuối cùng rồi phần đông họ cũng đã bỏ xác ở đây trước khi mãn án.

                          Khi chúng tôi tới, trong trại đang có khoảng 350 tù hình sự với gần 40 tù Biệt Kích và 5 người tù miền Nam từ các trại khác mới đưa lên. Đó là các anh Đặng Văn Tiếp, một cựu Dân biểu từ trại Hà Tây đưa lên trước chúng tôi 1 tháng cùng với các anh Nguyễn Thái Quân và Hoàng Trọng Hanh. Hai anh Nguyễn Văn Phước và Nguyễn Văn Trình là Sĩ quan cấp Tá từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín cũng từ một trại nào khác vừa bị đưa lên đây.

                          Các anh em tù Biệt Kích là những người nhảy toán ra Bắc từ những năm 1962-1963, họ bị bắt từ đó và bị giam nhiều nơi trước khi tập trung về trại này. Khi chúng tôi tới đây, các anh em Biệt Kích mà trong tù chúng tôi gọi tắt là BK đã bị giam 15 năm rồi! Tập thể tù Biệt Kích là một tập thể rất tốt, cuộc sống của anh em rất đáng kính phục. Họ biết đoàn kết và nâng đỡ nhau trong cảnh lao tù.

                          Trong nhóm có anh Nguyễn Hữu Luyện là người rất có tư cách. Lúc bị bắt anh Luyện mang cấp bậc Đại úy, cấp bậc cao nhất giữa anh em nên được anh em kính nể và vâng phục, mặc dù anh không là đội trưởng. Lúc đó các anh Biệt Kích ở chung một đội trong khu O và chuyên làm nghề mộc, có những anh tay nghề rất cao.

                          Anh tù làm trật tự mà chúng tôi gặp trong ngày đầu tên là Tuấn, nguyên là bộ đội. Anh là một người hiền từ, ít nói. Sau khi nhóm Nam Hà chúng tôi lên một thời gian, có một số từ các trại khác lần lượt bị đưa lên đây. Trong đó có 7 Linh mục, làm thành tổng số là 48 người, mà về sau này chúng tôi gọi là “Nhóm 48 Quyết Tiến”. Theo cách hiểu lúc bấy giờ, đây là những người bị liệt vào đội trừng giới và bị kết án tử hình, được lựa ra từ nhiều trại khác nhau ở miền Bắc. Trong thực tế số người này có xứng đáng chịu số phận đó hay không, và sự lựa chọn có đúng “tiêu chuẩn” hoặc chính xác tới mức nào còn là vấn đề khác.


                          Cơn đói trong cảnh rét

                          Lúc ở kiên giam, chúng tôi bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm nhưng không bị cùm như ở khu kỷ luật. Có hai yếu tố hành hạ chúng tôi lúc bấy giờ là Đói và Rét. Thời điểm lúc chúng tôi bị đưa lên “Cổng Trời” là mùa Đông. Cái lạnh Mùa Đông ở đất Bắc tự nó đã là cái gì đáng sợ, nhưng trại này lại ở trên độ cao chót vót thì cái lạnh lại càng khủng khiếp hơn bội phần.

                          Nhà giam có tường bằng đá. Về đêm hơi lạnh của đá tỏa ra biến buồng giam thành một tủ lạnh và chúng tôi phải nằm co ro trong cái tủ lạnh đó.  Tệ hại hơn nữa, cái lạnh hành hạ chưa đủ, lại còn thêm cái đói. Ở đây không có gì để ăn cho tạm gọi là no. Đói và Rét như cặp bài trùng của yếu tố tiêu diệt. Khi cả hai gặp nhau và hỗ trợ cho nhau thì sức tàn phá được nhân lên gấp bội. Thân thể con người càng đói thì càng rét; và hễ càng rét lại càng đói. Hai thứ hung thần đó cứ mải mê tranh tài “ai thắng ai” ngay trên da thịt xanh xao như tàu lá chuối và trong dạ dày xẹp lép của đám tù khốn khổ chúng tôi!

                          Mỗi ngày, tù ở khu kiên giam được cho ăn 2 lần, trưa và chiều. Mỗi lần một chiếc bánh mì nướng to bằng cổ tay và dài chừng một gang. Trong khi các đội bên ngoài có thêm bữa ăn sáng vì phải đi lao động. Với hai chiếc bánh mì nướng khiêm tốn đó mà tôi nghiệm được câu nói trong tù:“Không ăn thì đói; ăn vào đói hơn!” Mà thật đúng như vậy, sau khi “nuốt” cái bánh mì từ 5 giờ chiều hôm trước xong, tôi nằm đắp chăn chịu trận cái rét dưới độ âm và chờ tới 10 giờ sáng hôm sau, tức là 17 tiếng đồng hồ nữa mới có cái gì tống vào cho dạ dày làm việc.  Suốt thời gian dài đằng đẵng đó, tôi thường lịm đi hoặc nằm yên bất động như con sóc trong mùa đông.

                          Cữ ăn 10 giờ sáng hôm sau làm quấy động dạ dày thức giấc. Nó cồn cào và đòi hỏi thức ăn dữ dội! Nó đòi ăn thêm để khỏa lấp một chút chỗ trống còn rộng thênh thang, nhưng nào có được! Sau khi ăn xong, tôi chỉ còn biết nằm im lìm chờ đợi, lắng tai nghe và mong tiếng động then gài cổng bên ngoài báo hiệu lúc anh trật tự lên cho ăn chiều.

                          Lúc bấy giờ vì quá đói nên tôi tưởng tượng là mỗi bữa tôi phải ăn 20 cái bánh mì như thế mới no được! Nhưng đói quá tôi nghĩ thế thôi, làm gì ăn nhiều thế, chục hoặc 15 chiếc cũng tạm đủ rồi! Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện ăn uống này tôi thấy xấu hổ! Nhưng đó là thực tế của giai đoạn tôi trải qua trong khu kiên giam trại Quyết Tiến.


                          Nhân vật lạ xuất hiện

                          Một buổi sáng kia, trong khi anh Tiên và tôi còn đang nằm trùm chăn thì nghe tiếng gõ vào thành cửa sổ. Giật mình tung chăn ngồi lên, tôi chạm mặt với một con người đang đứng giữa cửa sổ nhìn vào trong buồng. Người này thấp bé, mặc áo bành tô rộng thùng thình, tôi không đoán được già hay trẻ vì cái mũ dạ “Liên Xô” che mất gần hết khuôn mặt của anh ta, chỉ chừa ra đôi mắt nhỏ, quá nhỏ như hai hạt nhãn lép. Chúng tôi lên tiếng: “Chào cán bộ!” Người ấy gật đầu nhưng không nói gì. Một lúc sau lên tiếng hỏi:

                          - Anh Nguyễn Hữu Lễ đâu?

                             Giọng nói nhẹ nhàng nhưng rất sắc. Tôi đưa tay làm hiệu “Tôi đây”. Người ấy không nói gì, đứng nhìn một lúc rồi hỏi:

                            - Mấy anh ấy có lên dọn vệ sinh cẩn thận không?

                          Chúng tôi trả lời có. Xong người lạ mặt ấy bước đi. Anh Tiên và tôi thắc mắc, không biết con người nhỏ thó đó là ai. Hôm sau tôi hỏi anh tù gánh phân và tả hình dạng người chúng tôi gặp ngoài cửa sổ hôm qua. Anh tù hình sự gánh phân hằng ngày này là “tờ nhật báo sống” của chúng tôi. Tất cả tin lớn tin bé trong trại chúng tôi biết được lúc này là nhờ anh, ngược lại mỗi ngày chúng tôi cũng cho anh mấy bi thuốc lào, được coi như là “thần dược” trong nhà tù lạnh lẽo này. Anh ta người nhỏ thó và không biết là người tỉnh nào mà nói ngọng hết sức! Chữ  “N” nói thành chữ “L” và ngược lại. Sau khi nghe tôi tả sơ qua, anh ta nói ngay:

                            - Đó là Ban Nản (Lãng), trại trưởng của trại "lày" đấy anh ạ!

                             Tôi nghe không rõ nên hỏi:

                            - Sao anh gọi là Bác Lãng?

                              Anh tù cười trả lời:

                            - Không, em bảo là Ban Nản chứ không phải Bác!

                            - Ủa sao gọi là Ban?

                            - Thế anh chưa biết à? Các cán bộ cấp sĩ quan thì gọi “nà” Ban, tức ban giám thị ý mà! Cấp bé thì bọn em gọi “nà” ông, nhưng bọn anh gọi “nà” cán bộ được rồi.

                          Thì ra tôi mới biết các tù hình sự có thói quen xưng hô với cán bộ như thế. Các trại tôi ở trước đây không có vụ này. Tôi hỏi lại:

                            - Nếu tôi gọi trại trưởng là cán bộ được không? Các trại khác tôi toàn gọi thế.

                             Anh tù gánh phân nhanh nhẩu đáp:

                            - Ấy, ấy, gọi thế “kỳ nắm” (lắm)! Ở đây không ai gọi thế cả!

                          Hôm sau tôi được gọi lên cơ quan làm việc. Một cán bộ vào dẫn tôi theo trong lúc trời đang hồi lạnh tột độ. Tôi đi qua vũng nước nhỏ đã đóng băng trên mặt đường và óng ánh trên ngọn cỏ những giọt sương đã đông thành đá.  Trên đường đi có băng qua mấy luống su hào mà lần đầu tiên tôi thấy được, mặc dù củ su hào thì tôi đã biết từ còn ở trong Nam. Thì ra loại rau này rất hợp với thời tiết lạnh, củ to như cái bát ăn cơm. Đường ra tới cơ quan khá xa và tôi đã lạnh cóng tay chân, tê cả mặt. Đây là lần đầu tiên tôi bước chân ra khỏi phòng kiên giam sau hơn nửa tháng trời.


                          Chân dung ông Trại Trưởng

                          Tôi được đưa vào phòng gặp ông trại trưởng, người đã “hiện ra” bên ngoài cửa sổ buồng tôi hai ngày qua. Lần này nhìn kỹ, tôi biết ông ta đã lớn tuổi, có lẽ ngoài 50. Điểm đặc biệt là ông rất nhỏ người, trong Nam gọi là ‘đẹt’ và ngoài Bắc gọi là ‘choắt’! Ông chỉ cao khoảng hơn thước rưỡi một chút. Mặt thỏn, da nhăn, đôi mắt ông ta nhỏ, quá nhỏ, trông như hai hạt đậu đen bóng láng. Ông mang cấp bậc Đại úy, nhưng tôi nhìn ông không ra dáng một sĩ quan tí nào.

                          Ông ta đón tôi bằng nụ cười có nhiều vết nhăn ở hai bên khóe mép, bảo tôi ngồi xuống ghế trước mặt và tự tay rót chè (nước trà) mời tôi uống. Lúc này thì tay chân tôi đã hoàn toàn tê cóng, không còn theo sự điều khiển của tôi nữa. Tôi muốn đưa tay bưng chén trà nóng uống cho đỡ lạnh, nhưng không bê chén được vì đôi tay đang run rẩy quá mạnh. Lúc đó hai hàm răng run lập cập. Tôi kềm hãm hết sức nhưng sao hai cái hàm cứ chạm nhau lốp cốp. Tôi không tài nào nói chuyện được. Ông hỏi gì, tôi không trả lời được. Tôi đưa hai tay ôm lấy dưới cằm nhưng run vẫn cứ run! Thấy vậy ông để tôi ngồi yên một chập.

                          Lúc đó tôi cố gắng lắm mới nói được vài tiếng để hỏi xin một điếu thuốc lá hút cho đỡ lạnh. Tôi ấp úng, bập bẹ tiếng mất tiếng còn mãi và đưa tay làm hiệu thêm ông mới hiểu tôi muốn gì. Ông trả lời là ông không hút thuốc nên không có sẵn, nhưng nói để qua phòng ông Tố xin thuốc cho tôi. Sau này tôi biết Thiếu úy Tố là sĩ quan giáo dục của trại. Ông đứng dậy bước ra khỏi phòng, nhưng khi trở lại nói là ông Tố đi vắng và bảo tôi cứ ngồi đây một chập nữa. Tôi gật đầu cám ơn ông và ngồi yên. Lúc này tôi không thèm cố gắng kềm hãm hai hàm răng đang đánh bò cạp nữa, cứ để cho nó khua lốp cốp tự do và đều đặn, như tay chơi trống trong ban nhạc đang gõ dùi vào thành trống! Một lúc khá lâu, có lẽ quãng gần nửa giờ, tôi bắt đầu quen và nói chuyện được, mặc dù chưa hoàn toàn bình thường. Lúc đó ông hỏi tôi:

                            - Anh Lễ, ở trại Nam Hà anh làm gì mà bị đưa lên đây?

                            - Báo cáo cán bộ, tôi không biết. Nhưng cán bộ đọc hồ sơ tôi rồi mà!

                            - Dĩ nhiên là tôi đã xem qua hồ sơ của anh. Tôi thấy anh là người thông minh và bạo dạn nên tôi muốn giúp anh. Anh là một cha đạo. Tôi nghĩ là tình thế này anh không làm gì được cả, tôn giáo đã lỗi thời rồi. Chi bằng anh hứa với tôi từ bỏ con đường tôn giáo, cưới vợ lập gia đình như những người khác. Tôi hứa nâng đỡ và cất nhắc anh.

                             Ông ta nói chưa hết câu tôi đã lên tiếng:

                            - Tôi xin cám ơn lòng tốt của cán bộ, nhưng cán bộ không có thể hiểu được việc tôn giáo đâu. Nếu cán bộ có vấn đề gì khác tôi sẽ trả lời. Còn vấn đề tôn giáo là con đường tôi đã chọn, tôi xin miễn bàn ở đây.

                             Từ hôm đó về sau tôi không còn bị gọi đi làm việc nữa.


                          Trong hầm ướp lạnh

                          Mỗi ngày chúng tôi tập thể dục trong buồng cho máu chạy đều và chống lạnh, sau đó lên sạp nằm đắp chăn chống rét chờ hai bữa ăn. Cả ngày, chỉ trừ hai lần cho ăn là tôi tung chăn ngồi dậy, ngoài ra lúc nào cũng quấn chăn vào người. Lúc đó tấm chăn tôi đắp là tấm poncho bằng vải dù. Loại vải này rất kín, giử được hơi ấm bên trong, nhưng bên ngoài thì lạnh như nước đá. Mỗi lần tung chăn ngồi lên, nhất là ban đêm, là cả một cực hình, vì sau đó phải đắp lại một lúc thật lâu mới tạo được hơi ấm bên trong.

                          Trong buồng chỉ có hai người, lâu ngày cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Thỉnh thoảng gọi vọng sang các buồng kế bên nói chuyện vài câu, hoặc khi có tù mới vào khu kiên giam thì gọi hỏi vài tin tức. Trong cuộc sống “ếch ngồi đáy giếng” đó chúng tôi rất “đói” tin tức, nên sẵn sàng lắng tai nghe bất cứ loại tin gì, nhưng thực sự chẳng có gì giá trị vì toàn là tin “tù nói tội nghe”. Những buổi sáng sớm nằm nghe tiếng kẻng hợp tác xã từ xa vọng lại nghe thật não nề. Đó là những âm thanh hiếm hoi chúng tôi nghe được trong khung cảnh lạnh lẽo và vắng lặng này. Có một âm thanh khác tôi nghe từ buồng phía cuối vọng lại cách đều đặn, đó là tiếng một anh tù chửi Trung tá Lê Mai. Ban ngày cứ cách khoảng chừng một tiếng đồng hồ anh ta chửi một lần. Trước lúc chửi, anh gõ vài tiếng làm hiệu như người ta thường nhịp mấy tiếng trước khi đánh trống, hoặc tiếng gõ sàn trước khi kéo màn sân khấu trong lúc diễn kịch. Sau đó anh bắt đầu “bài” chửi. Lần nào anh cũng đọc đi đọc lại mấy câu đó như  một tín đồ đọc kinh lần chuỗi:“Đạp đổ Trung tá Lê Mai, Trưởng ty Công an tỉnh Quảng Ninh!” Những lần đầu nghe văng vẳng tôi chẳng biết là tiếng gì ở đâu vọng lại. Về sau hỏi ra mới biết đó là anh tù BK tên là Công Thành. Anh bị yếu thần kinh và luôn miệng chửi Trung tá Lê Mai bằng một bài dài, gọi tên và chức vụ ông trước, rồi kể tội ông sau.

                          Nằm mãi rồi cũng buồn, có một hôm tôi tò mò rờ tay bên dưới mấy tấm ván tôi nằm, nghe cộm tay vì có dấu khắc, tôi bò xuống coi thì ra những người tù ở đây trước đã khắc tên và thời gian vào tấm ván. Tôi vô tình đọc được tên Linh mục Nguyễn Văn Vinh, cha sở Nhà thờ Chánh tòa Hà Nội. Sau này hỏi lại mới biết tất cả những người đó đều chết ở trại này, xác họ được chôn ngoài “Đồi Bà Then”. Từ đó tôi biết thêm trại này có cách nói:“Ra Đồi Bà Then”, tức là chết. Sau khi cố gắng đọc những tên người khắc nguệch ngoạc bên dưới tấm ván, tôi đọc kinh cầu hồn cho họ và dùng đầu kim băng khắc mấy hàng tiếp theo:“Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Vĩnh long, 1977”. Lúc đó tôi nghĩ là sẽ có một con người bất hạnh nào đó sẽ vô tình đọc được tên tôi, và tôi cũng thầm mong họ sẽ cầu cho linh hồn tôi một vài câu kinh.


                          Gặp lại nhóm bạn

                          Sau một tháng ở kiên giam, chúng tôi được cho xuống đội trong dịp gần Tết âm lịch năm 1978. Được gặp lại số anh em Nam Hà trong Khu O, tôi rất mừng. Chúng tôi sống trà trộn với một số anh Biệt Kích và tù hình sự trong đội mộc do một anh tù hình sự tên Toản, khoảng 30 tuổi, làm đội trưởng.

                          Toản nguyên là bộ đội, phạm tội hiếp dâm và bị kêu án 20 năm, lúc này đã được giảm án khá nhiều rồi, nghe nói chỉ còn không tới 10 năm. Trong trại Quyết Tiến này, tất cả đội trưởng đều là tù hình sự và quyền hạn rất to. Ngoài việc hành hạ đánh đập đội viên cách tự do, mỗi đội trưởng còn có cái còng số 8, khi cần có thể còng tay bất cứ anh nào trong đội. Việc Ban giám thị trại Quyết Tiến đặt tù chính trị và tôn giáo chúng tôi dưới sự điều khiển của những anh tù hình sự, phần nhiều là tội giết người, cướp của, hiếp dâm, tham nhũng là một hành động trái quấy một cách có dụng ý. May mắn là anh đội trưởng Toản đối xử với chúng tôi cũng có sự kiêng nể, không như đối với các anh tù hình sự khác.

                          Tôi còn nhớ ngày đầu tiên xuống đội, mấy anh em được một bữa “cải thiện” . Hôm đó vì cận Tết nên có mấy anh trong đội xuống phụ việc nhà bếp để chuẩn bị thức ăn trong dịp Tết sắp đến, nên nhà bếp cho những mẫu sắn (khoai mì) đầu thừa đuôi thẹo mang về cho đội cải thiện. Anh em mang về lột vỏ, luộc lên và bóc hết xơ, chỉ lấy bột. Sau đó cho vào cối đá quết ra thật nhuyễn, xong bó vào các ống nứa đem nướng lên. Mùi sắn nướng bốc thơm ngào ngạt và màu sắc hấp dẫn như chả quế!

                          Chiều hôm đó cả đội chia nhau ăn ‘chả quế’ rất ngon miệng. Những người ở kiên giam mới xuống như tôi được chia phần nhiều hơn. Lần đó tôi được một bữa ăn no sau một tháng đói meo. Ăn xong cả buồng đi ngủ sớm vì trời quá lạnh. Sau khi được một bữa cải thiện làm ấm dạ dày, tôi hy vọng sẽ được giấc ngủ ngon, trong phòng khá ấm vì có nhiều người.


                          Trận say sắn nhớ đời

                          Quãng gần nửa đêm, tự nhiên tôi thấy đau bụng, càng lúc càng đau nhiều hơn. Có cái gì rất khác thường trong người làm tôi khó chịu, nhưng không lên tiếng, sợ phá giấc ngủ anh em. Tôi cắn răng nằm ôm bụng nhưng càng lúc càng khó chịu, mặt mày xây xẩm, tay chân bủn rủn và nghe buồn nôn, đồng thời lại vừa buồn đi đại tiện. Lúc đó tôi nghĩ thầm: “Chết rồi, mình bị trúng gió nặng quá, bây giờ làm sao?”

                          Tôi chịu không nỗi nên tung chăn đứng lên định bước vô cầu tiêu, nhưng khi vừa đứng dậy, tôi liền ngã quỵ, đè sập dãy màn mắc chằng chịt chung quanh. Lúc đó tôi nghe ù tai, hoa mắt nhưng cố gượng đứng lên, nhưng không đứng được và tôi phải bò về phía cầu tiêu. Nhìn chung quanh, tôi ngạc nhiên khi thấy có mấy anh cũng đang ngã nghiêng, bò lê dưới đất như tôi. Tôi chưa hiểu câu chuyện ra sao thì nghe nhiều chỗ có tiếng rên, tiếng người đang ói mửa, mỗi lúc một nhiều hơn. Lúc đó có tiếng một anh nói thật to, có lẽ là anh đội trưởng:“Các anh dậy mắc màn lên, cả buồng bị say sắn rồi!”

                          Sau tiếng kêu đó, tất cả đều tung màn ngồi lên. Thình lình tôi nghe tiếng động thật to của một anh từ sàn trên té lộn nhào xuống sàn! Cả buồng diễn ra cảnh hỗn độn khác thường, những người say ít thì giúp đỡ người bị nặng. Trong buồng giam chỉ có một cầu tiêu mà mấy chục con người đang cần cùng lúc, nên không còn cách gì hơn, những người bị say sắn đành ói mửa và đại tiện tại chỗ. Phần tôi, sau khi nôn ra sàn và đại tiện ra quần, cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút nhưng người lã đi và không đứng lên nổi.

                          Tôi cố bò nằm vật ra trên sàn ván, chẳng cần biết đó là chỗ của ai. Mấy người khác vội vàng thu chăn chiếu áo quần cho gọn. Đêm đó quá hai phần ba số người trong buồng bị say sắn. Vài anh bị nặng nằm sóng sượt như một thây ma bất động. Buồng giam trở nên tanh tưởi và hôi thối không thể tưởng. Có mấy người bị anh em vô tình nôn thốc lên cả chăn chiếu.

                          Tôi không ngờ say sắn kinh khủng đến như thế. Lúc còn trong Nam, chưa bao giờ tôi nghe ai ăn khoai mì say bao giờ, chừng ra trại Nam Hà tôi mới nghe nói tới hai tiếng “say sắn”, nhưng đây là lần đầu tiên tôi bị. Sáng hôm sau, cán bộ cho mấy người bị say sắn nặng được nghỉ lao động. Tôi cũng được nghỉ. Hôm đó tôi cố mò ra giếng sau nhà kéo nước lên giặt quần áo và lau người. Đây cũng là lần đầu tôi có dịp lau người sau khi lên trại này được một tháng.


                          Đóng quan tài

                          Đội tôi chia làm 2 tổ, tổ mộc và tổ cưa xẻ. Tôi được phân công vào tổ mộc do anh Nguyễn Huy Khoan, người tù BK làm tổ trưởng. Khoan là người hiền từ, nói năng nhỏ nhẹ và sống rất hòa nhã với anh em. Vào đội mấy hôm, anh Khoan thấy tôi chẳng biết một tí gì về nghề mộc, nên cho tôi vào khâu tương đối dễ là đóng quan tài, vì công việc này không cần có tay nghề.

                          Tôi không biết những trại hòm ngoài xã hội họ đóng quan tài ra sao, nhưng ở trại Quyết Tiến chúng tôi đóng rất đơn giản. Vật liệu là những tấm ván bìa của tổ cưa xẻ thải ra. Các tấm ván bìa này sau khi được cắt ra theo kích thước thông thường, chỉ việc đóng đinh ráp vào nhau như cái hộp hình chữ nhật, không cần bào gọt gì cả. Một vài tấm ván bìa có mắt bị nứt hoặc bị vỡ một chút cũng không sao, vì xác anh tù nằm trong đó đâu có rơi ra ngoài được. Dù vậy chỗ nào hở to quá chúng tôi cũng phải đóng thêm tấm ván nhỏ bên ngoài cho kín, nếu không xác anh tù bên trong có thể ló tay ra ngoài, có thể làm những tay yếu bóng vía sợ. Vả lại đàng nào thì cũng chôn xuống đất nên bận tâm làm gì những chi tiết không quan trọng đó.

                          Khi được cho vào khâu này tôi rất mừng vì không cần kỹ thuật cao và hơn nữa được dự phần vào việc chôn cất các anh em đồng cảnh. Lúc đầu tôi tưởng sẽ rất nhàn hạ với công việc này nhưng tôi đã lầm, vì có những lúc tù chết nhiều quá, toán chúng tôi làm bở hơi tai nhưng vẫn không kịp cung ứng cho nhu cầu của trại. Một phần cũng vì tổ mộc không cung cấp kịp ván bìa, nên toán chúng tôi phải chờ đợi và làm việc bất cứ lúc nào khi có vật liệu.

                          Lúc đó trong trại có nhiều người tù hình sự chỉ còn là những bộ xương biết đi, dù vậy hàng ngày vẫn phải lê lết đi lao động bên ngoài trại. Có những “bộ xương” mới hôm qua tôi còn thấy lảng vảng trong sân, hôm nay đã thành thân chủ nhận hàng của toán tôi. Trong việc hậu sự, khâu của tôi chưa phải là cuối cùng. Để kết thúc một kiếp người tù, còn có một toán hình sự chuyên đào và lấp huyệt. Nhóm này chỉ có 4 người, và hình như thuộc diện được chiếu cố nên họ giữ độc quyền công tác, ít ra là trong thời gian tôi biết. Đây là mấy anh khá to cao và khỏe mạnh, khác với đám tù nhân xanh xao gầy còm như những bóng ma khác.


                          Tù chết nuôi tù sống

                          Một thời gian sau tôi mới biết là mỗi lần đào và lấp huyệt, mỗi anh được bồi dưỡng một suất cơm cháy mà bình thường dùng để nuôi lợn của trại. Ngoài ra, sau khi hạ huyệt một người tù, toán này còn được “hưởng” bát cơm trắng và quả trứng luộc đặt trên quan tài người tù xấu số theo phong tục trong tù. Tôi nghĩ mãi không ra tại sao lại có tập tục này. Có lẽ ban giám thị làm như thế để không bị lương tâm dày vò chăng? Vì khi sống không cho ăn, khi chết “cúng” cho một bát cơm trắng và quả trứng luộc như ngầm nói:“Đấy nhá, anh đừng có giận hờn gì, chúng tôi vẫn chiếu cố anh đấy!”

                          Cũng vì mỗi lần chôn tù được bồi dưỡng như vậy nên toán này thường đi rảo trong các buồng, nhất là bệnh xá, thấy anh tù nào ngoi ngóp mà chưa chịu “đi” thì đá cho một phát:“ĐM mầy, đi nhanh cho các bố mày nhờ, còn nằm đây rên rỉ làm gì?” Cũng vì những chuyện đau lòng này mà một anh bạn trong nhóm Nam Hà chúng tôi là anh Nguyễn Đức Khuân có sáng tác một bản nhạc mang tên“Một người nằm xuống bốn người được no!” để ghi lại sự kiện này.


                          Người anh kết nghĩa

                          Trong thời gian ở toán mộc này, tôi gặp và làm thân với anh Đặng Văn Tiếp và sau đó chúng tôi đã kết nghĩa trong tình huynh đệ lâu dài.  Thật ra trước kia chúng tôi đã có gặp nhau đôi lần tại Vĩnh Long và Sài Gòn khi anh Tiếp và một số Dân Biểu trong Khối Quốc Gia như Nguyễn Văn Binh, Nguyễn Văn Cữ, Hồ Ngọc Nhuận... ủng hộ phong trào chống tham nhũng do Linh mục Trần Hữu Thanh phát động năm 1974.       

                          Lúc ở trại Cổng Trời, anh Tiếp làm trong toán mộc. Anh khéo tay và đóng nhiều bàn ghế và hòm (rương) thật đẹp. Để có một nơi dễ dàng làm việc, anh chiếm cái bàn bào sát góc nhà trong láng mộc, rất riêng biệt và yên tĩnh. Thỉnh thoảng tôi ngừng tay, bước tới chỗ anh, nói vài câu chuyện và cùng hút thuốc lào. Anh có cái điếu bằng nhựa rất nhỏ và gọn, chúng tôi cùng hút thuốc với nhau. Ngoài những lúc tâm tình và an ủi nâng đỡ nhau, chúng tôi thường nói đùa cho vui. Có lần tôi khen:

                            - Không ngờ một ông Luật sư,Thiếu tá Không Quân, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp mà cũng biết cầm cưa, bào, đục và đóng được bàn, ghế, em phục anh sát đất!

                             Nghe tôi nói anh Tiếp  cười, để lộ chiếc răng khểnh trả lời:

                            - Thì anh cũng tập để sau này về đóng chuồng gà cho vợ, may ra vợ còn thương tình cho ngày hai bữa cơm!

                             Tôi đùa lại
                            - Thế em chẳng biết nghề ngỗng gì hết thì sau này về chết đói à?

                              Anh giơ tay chỉ mấy cái quan tài tôi đang đóng dở dang:

                            - Thì cậu có nghề đóng áo quan đó, còn muốn gì nữa?

                            - Nhưng tay nghề của em thì ma nó mướn!

                             Anh nhìn tôi cười:

                            - Thất nghiệp thì vào làm thợ vịn trong xưởng đóng chuồng gà của anh!

                          Những câu đùa cợt vui vẻ đó giúp anh em tôi quên đi phần nào cảnh khổ trong tù nhất là trong những lúc vừa đói lại vừa rét như ở Cổng Trời này.

                          Chính tại góc nhà trong láng mộc này mà anh em tôi tâm sự với nhau về nhiều vấn đề, và nhất là về cách thức làm sao thoát ra khỏi nhà tù. Tôi không bao giờ quên được dáng cao và gầy của anh Tiếp trong bộ đồng phục màu xanh của tù, áo trấn thủ bên ngoài, đầu đội mũ len, cặp kính gọng đồi mồi xệ xuống sống mũi. Anh Tiếp là người vui vẻ, có óc hài hước, thích tiếp xúc với mọi người nhưng chỉ nói chuyện chơi cho vui, còn những chuyện riêng tư thầm kín chỉ hai anh em chúng tôi biết. Trong hoàn cảnh đó, lúc nào chúng tôi cũng phải đề phòng những con mắt và lỗ tai không thân thiện chung quanh mình.

                          Ở đây, yếu tố thiên nhiên với cái rét khủng khiếp của vùng chóp đỉnh địa đầu đất nước mang tính cách tiêu diệt nặng nề nhất. Khi lên trại Quyết Tiến, chúng tôi được phát mỗi người một áo trấn thủ, tức là áo bông sát nách, che ấm trước ngực và sau lưng. Nhưng trước khi mặc áo trấn thủ vào, tôi đã mặc tất cả những áo gì tôi có thể mặc được vào bên trong, sau đó dùng dây vải bó thân thể thật chặt như bó giò và mặc như thế suốt cả ngày lẫn đêm trong mùa Đông.

                          Hình như không ai tắm vào mùa Đông, mặc dù phía sau buồng có giếng nước rất trong. Những lúc quá cần thiết như hôm cả buồng say sắn, hoặc những ngày quá bẩn sau lúc lao động, chúng tôi cũng chỉ dám lau qua người. Cách ăn mặc “bó giò” để chống rét này đã đưa tới tình trạng dở khóc dở cười của một anh trong nhóm Nam Hà của tôi, đó là anh Ngô Đình Thiện, quãng ngoài 20. Lúc ở Nam Hà, anh Thiện cắt cái chăn Trung Quốc trại phát ra để may thành chiếc áo ấm dài tay mà lúc nào tôi cũng thấy anh mặc trên người.

                          Lúc lên trại này anh cũng mặc áo đó trong cùng, sau đó  “bó giò” và mặc thêm áo trấn thủ bên ngoài. Thiện cũng bị ở kiên giam một tháng như tôi. Lúc ở buồng gần bên, anh hay gọi tôi và nói là người anh có phong, lúc nào cũng ngứa cả ngày lẫn đêm, ngứa không ngủ được. Anh muốn đi khám bệnh, nhưng vì ở kiên giam nên đành chịu, chỉ trừ trường hợp bệnh ngặt nghèo mới được xuống bệnh xá, còn các chứng bệnh thông thường như anh thì phải khắc phục!


                          Đại hội “Rận”!

                          Sau khi ra khỏi kiên giam và được xuống đội mộc, anh đi bệnh xá khám bệnh và xin thuốc phong. Lúc bấy giờ trại thường cho ăn ngô bung với bắp cải nấu có chút mắm tôm. Thiện khai ăn nhạt, tức là bắp cải luộc  không có mắm tôm, vì nghĩ rằng ăn mắm tôm làm anh bị ngứa. Lúc đó gần Tết, thời tiết lúc nào cũng ở độ âm và thân thể bị “bó giò”. Tôi để ý thấy trên tay của Thiện lúc nào cũng có cây que nứa nhỏ để thọc vào sau cổ áo, lòn vào bên trong những lần vải để gãi ngứa. Không hiểu bệnh tình ra sao mà tôi thấy anh xanh xao, gầy mòn nhanh hơn nhiều người khác, và lúc nào anh cũng kêu người có phong, ngứa ngáy không chịu được.

                          Ngày 30 Tết năm đó, tự nhiên trời nắng ấm khác thường. Tôi có cảm tưởng như đây là món quà trời cho để đám tù nhân khốn khổ chúng tôi có dịp tắm rửa, giặt giũ để đón mừng một năm mới. Hôm đó đội mộc chúng tôi không phải lao động, chỉ lo quét tước, dọn dẹp gỗ lạc trong láng mộc cho sạch sẽ trước khi được nghỉ mấy ngày ăn Tết. Sau khi dọn dẹp xong, chúng tôi đun lên một chảo nước sôi thật to để anh em tắm giặt và tẩy uế, vì có người mấy tháng nay chưa biết tắm là gì. Trong ánh nắng ban mai, mọi người ra sân tháo bỏ áo quần đã “bó giò” trên thân thể, nhìn anh nào cũng gầy đét và xanh xao như tàu lá chuối.

                          Tới phiên anh Ngô Đình Thiện cởi bỏ cái áo may bằng chăn, mà anh mặc sát trong người từ mấy tháng nay, thì một chuyện quái đản bất ngờ xảy ra! Mặt bên trong của chiếc áo ấy hiện ra một lớp rận dày, lúc nhúc như dòi, nhiều vô số kể. Những con rận no tròn như hạt vừng màu sữa đục, con nào cũng có cục máu đen trong bụng. Khi Thiện ném cái áo xuống sân, đàn rận văng ra tung tóe và bò lểnh nghển khắp nơi. Mọi người túm đến coi. Có người quay đi khạc nhổ, có người ụa mửa vì lợm giọng. Mặc dù trong tù tôi đã chứng kiến bao nhiêu cảnh dơ bẩn, nhưng cảnh này là lần đầu. Lúc đó Thiện dùng que nứa gạt rận trong áo xuống tờ giấy, gộp lại chắc đầy một muỗng ăn canh! Thì ra mấy tháng nay đàn rận sanh sôi nẩy nở trong cái áo may bằng chăn có nhiều lỗ hang và thức ăn lúc nào cũng có sẵn cho chúng. Đàn rận nhiều như trấu đó thay nhau hút máu ngày đêm làm thân thể “bó giò” của anh bị ngứa ngáy mà anh kêu là bị dị ứng mắm tôm! Sau đó anh Thiện ném cái áo vào chảo nước sôi luộc làm số rận còn lại chết trôi lều bều trên mặt nước như những cánh bèo hoa dâu, trong ao sâu cá mè!


                          Người tù lạ mặt

                          Cái rét cũng là yếu tố hành hạ tù nhân bị kỷ luật cách nặng nề nhất. Trong buồng chúng tôi lúc đó có anh tù hình sự tên Cẩn, còn gọi là Phó Cẩn, lúc đó Cẩn độ chừng 30 tuổi. Cẩn lấy trộm cái khóa của anh khác, bị bắt quả tang và bị đi kỷ luật, còn gọi là nằm nhà đá, vì nhà kỷ luật xây bằng đá. Người tù kỷ luật “nằm nhà đá”, chỉ được mang theo một bộ quần áo, một chăn và một chiếu. Vì nhà đá không xa khu O mấy, nên ban đêm chúng tôi nghe những người bị kỷ luật kêu la, tru trếu như những con chó sói. Họ tru lên suốt đêm cho đến khi nào kiệt lực thì gục xuống chịu trận.

                          Trong cái lạnh dưới không độ, mặt nước hồ còn đóng váng lại mà người tù chỉ có trên người một bộ quần áo và một cái chăn mỏng thì làm sao chịu cho nổi?! Quãng nửa tháng sau, một hôm sau giờ lao động, tôi về buồng thấy có người tù lạ mặt mới nhập đội. Người tù mới này đã lớn tuổi, có lẽ đã ngoài 50, đang lúi húi giặt quần áo gần bên miệng giếng. Tôi để ý thấy ông ta chào vài người trong đội, nên nghĩ là tù hình sự các buồng thường quen biết nhau. Mãi hồi lâu, khi tới gần tôi mới nhận ra “ông lão” đó chính là Phó Cẩn vừa mới ở kỷ luật xuống. Cẩn ở trong buồng tôi đi kỷ luật mới có 2 tuần mà bây giờ đã trở thành một ông lão khiến tôi không còn nhận ra anh.


                          Ý trời!

                          Trong thời gian ở Khu O này, tôi và một vài người đã chuẩn bị một cuộc vượt ngục, trù tính sẽ đi sang Trung Quốc. Trại này trước đây có mấy người vượt ngục thành công qua Trung Quốc và có lên tiếng trên đài phát thanh. Nghe tin này chúng tôi càng quyết tâm hơn. Nhóm chúng tôi có 5 người gồm các anh Tiếp, Trình, Thông và tôi cùng với một anh người Tàu là Tráng Giàng Thào. Kế hoạch đã được sắp xếp. Trưa ngày Chủ Nhật hôm đó, chúng tôi nấu một nồi chè ngọt ăn lấy sức để đêm nay hành động. Khi nồi chè vừa chín thì bất thần nghe tiếng kẻng tập họp, có lệnh đổi buồng! Thế là chúng tôi phải bỏ kế hoạch. Đây là lần thứ hai có sự trùng hợp hết sức ngẫu nhiên. Điều này làm tôi nhớ lại một trường hợp ngẫu nhiên khác đã xảy ra trong chuyến tàu Sông Hương chở tù ra Bắc một năm trước.  Sau khi đổi buồng, tôi và một số anh em được chuyển ra ngoài sung vào đội trồng bắp cải.

                          Khi chuyển ra ngoài, tôi vào ở trong buồng và nằm đúng vào chỗ của một anh tù hình sự tên là Hán Còi, mà anh em kể lại trước đó không lâu đã bị Nhân Điên chặt đứt đầu trong giờ ngủ trưa vì hai người tranh chấp nhau trong vụ chia thịt heo trong ngày lễ Tổng Kết Lao Động của Trại. Nhìn lên tường tôi còn thấy những vết máu của Hán Còi thấm vào một vài chỗ, nhưng đã mờ. Sau vụ đó Nhân Điên bị kêu án tử hình, nhưng khi chúng tôi tới trại Cổng Trời thì Nhân Điên đã được giảm án xuống chung thân. Sau đó anh ta tự sát hụt một lần bằng cách quấn vải vào cổ, tẩm dầu và châm lửa.

                          Sau vụ đó Nhân Điên bị một vết sẹo thật to ở cổ, đi đâu anh cũng quấn khăn. Từ đó anh cứ đi lang thang trong trại, không nói năng gì với ai. Thỉnh thoảng Nhân Điên vào chỗ tôi chơi. Thấy anh ta tôi cũng ngán, nhưng thật ra anh rất hiền, hỏi thì nhe răng cười, ít khi trả lời. Sau này tôi biết thêm câu chuyện thương tâm như sau. Lúc còn nhỏ chừng 15 tuổi, Nhân phá quá, nên mẹ của Nhân là một cán bộ khá cao cấp, bèn “gởi” Nhân vào Trường Bộ, tức là nhà tù Thiếu Niên phạm pháp để nhờ “giáo dục” giùm! Kết quả là như vậy. Khi tôi gặp Nhân Điên ở trại Cổng Trời, lúc bấy giờ anh đã ngoài 20 tuổi, đặc biệt là Nhân Điên nhìn rất đẹp trai, và mặc dù anh ta bị điên, nhưng chẳng bao giờ làm hại ai, từ sau vụ chặt đầu Hán Còi!  

                          Vùng chung quanh trại Quyết Tiến này lạnh quanh năm nên rất thích hợp để trồng bắp cải. Do đó, trại có một ruộng trồng bắp cải thật mênh mông, cung cấp cho cả tỉnh Hà Tuyên. Công việc nặng nhọc nhất trong đội là gánh nước tiểu hòa với phân người, còn gọi là phân bắc để tưới rau. Thật thảm thương cho những Linh mục lớn tuổi và ốm yếu lúc bấy giờ như cha Đinh Cao Thuấn và cha Cao Đức Thuận, nguyên là Giám đốc Nha Tuyên Úy Công giáo của QLVNCH.  Dù ốm yếu và lớn tuổi, các cha hàng ngày vẫn phải gánh nước tiểu và bị mấy anh tổ trưởng hình sự đày đến nơi đến chốn.

                          Linh mục Phạm Ngọc Lan, vì lớn tuổi và quá yếu, hơn nữa lại bị bệnh phổi và không thể gánh nổi nước tiểu nên được cho làm việc nhẹ hơn là dẫn trâu cho một người tù khác cày. Những con trâu mới vực nhiều lúc chưa quen mang ách cứ dùng dằng chạy tới chạy lui làm anh tù hình sự cầm cày phía sau vừa quất trâu vừa chửi người dắt trâu:“ĐM thằng già vô tích sự!” Riêng cha Cao Đức Thuận, vì có cây Thánh giá bằng vàng đeo trên cổ, anh tổ trưởng Phùng xin, ngài không cho nên bị anh ta hành tội. Khi cha Thuận gánh nước tiểu, tổ trưởng Phùng đứng kiểm soát, đợi khi ngài gánh gần tới nơi, anh ta đạp thùng cho đổ và nói là gánh lưng, bắt gánh lại!


                          Hết thiên nhiên tới con người

                          Trại Quyết Tiến lại có hình thức xuất quân lao động theo kiểu “hàng đội”, tức là đội trưởng sau khi báo số, sẽ bắt đầu đếm một hai, một hai... như trong một đội quân thì đội viên trong hàng phải bước đều theo nhịp đếm. Tội nghiệp cho hai Linh mục già Đinh CaoThuấn và Phạm Ngọc Lan không bước đều chân được nên bị phạt. Buổi trưa khi đội vào trại nghỉ thì hai Linh mục già này bị tổ trưởng bắt ra đứng giữa sân cạnh nhà ăn để tập bước. Tổ trưởng ngồi trong nhà ăn đếm, hai Linh mục già đứng ngoài nắng chang chang giậm chân tại chỗ tập bước suốt buổi trưa! Bước sai thì tổ trưởng chửi ra: “ĐM, mang lon Đại tá ngụy mà không biết bước đều!” Càng chửi cha Thuấn càng luống cuống bước sai nhịp đếm. Tôi ngồi nhìn cảnh đó mà như xót xa đoạn trường! Tôi cảm thấy đau. Đau cho một kiếp người mang thân phận tù. Đau vì tình người bạc bẽo, vì cảnh người hành hạ người. Thiện và ác gặp nhau nơi ‘bể khổ’, để rồi dường như có kẻ đã mất tính người!

                          Đội tôi do anh Cường cũng là tù hình sự làm đội trưởng. Anh Cường này là người biểu thị quyền uy đội trưởng tới mức tối đa. Lúc đó Cường chừng 35 tuổi, to lớn, mập mạp và trắng trẻo. Lúc nào anh cũng mặc bộ đồ 4 túi may bằng vải của màu áo Thủy Quân Lục Chiến miền Nam. Anh ta bước đi thật oai vệ, mặt mày lúc nào cũng nghiêm trang không mấy khi cười, có hai anh tù tà lọt đi hai bên. Các anh tù hình sự trong đội gọi anh là “Ông Tướng”.

                          Trước kia Cường là bộ đội ngành vận tải, sau đó âm mưu cướp đoạt mấy xe hàng của quân đội nên bị kết án tù 20 năm, lúc chúng tôi ở đó thì anh chỉ còn 10 năm vì được giảm án khá nhiều lần. Anh này cai trị tù hình sự dưới tay, không biết khoan nhượng, anh nào trong đội bị anh hành hạ thì không còn đường nào mà kêu.

                          Tôi nhớ có lần khi đội đang chia thức ăn chiều thì Cường gọi Xuyên “Già” tới. Xuyên lúc đó đã ngoài 50 tuổi, người thấp bé, vì lớn tuổi nên có biệt hiệu là Xuyên Già. Tôi nghe kể có lần Xuyên phát biểu: “Vì anh Cường không có tiền nên anh ấy không nhiệt tình nhờ cán bộ mua hàng cho đội.” Vạ miệng hại thân, câu đó vô tình tới tai “Ông Tướng” và chiều hôm đó Xuyên Già phải trả giá.  Cường nổi giận gọi Xuyên tới và dùng hết sức lực đánh, đá, đạp người tù già như một quả bóng trong chân. Xuyên Già quỳ gối xuống giữa sân lạy xin tha, nhưng Cường thuận chân đá một phát, Xuyên bay vào bể cạn. Cường điên tiết ra lệnh cho Xuyên bò ra và tiếp tục đánh cho tới lúc nạn nhân nằm bất động mới cho hai tên tà lọt khiêng lên bệnh xá.

                          Hôm đó một phần Cường nổi giận với Xuyên Già, nhưng tôi đoán phần khác cũng để dằn mặt mấy anh tù chính trị vừa nhập vào đội của anh. Tuy nhiên, suốt thời gian đó chưa lần nào Cường xúc phạm gì tới nhóm tù chính trị chúng tôi. Ngược lại anh tổ trưởng Phùng, có tên là “Phùng điên” thì thật là quá đáng! Anh này tội giết người và bị kêu án tử hình, sau đó giảm xuống chung thân và sau xuống còn 18 năm.


                          Dưới trướng của lưu manh

                          Một đêm trong lúc họp buồng, Phùng ngồi văng tục chửi 'ĐM' mấy người đạp dép anh ta vất lăn lóc giữa lối đi. Thật sự là cha Cao Đức Thuận đạp dép anh ta, vì lúc đó ngài rất già yếu và mắt kém. Nghe chửi quá, cha Thuận ngồi bên này lên tiếng:

                            - Buồng thì chật và đông người và anh vất dép ở lối đi nên đôi lúc anh em vô tình giẫm lên.

                             Nghe cha Thuận trả lời anh ta nổi điên. Anh ta muốn dùng dịp này để đay nghiến cha Thuận, vì xin cây Thánh giá nhưng bị từ chối. Thế là anh quát:

                            - ĐM ! Có mắt để làm gì hở?

                          Và sau câu đó anh ta tiếp tục chửi một thôi một hồi, toàn là những tiếng chửi thề tục tĩu nhất. Trong khi anh chửi, cha Thuận ngồi chịu trận và khoanh tay ngồi gục đầu xuống gối. Bên kia anh ta chỉ tay vào cha Thuận quát:

                            - ĐM! Thằng già đó! Ngồi ngẩn đầu lên! Đang họp mà ngồi thế hả?

                             Cha Thuận bướng bỉnh đáp lại:

                            - Anh quyền gì mà không cho tôi cúi đầu?

                          Nghe cha Thuận trả lời, anh ta nổi điên thực sự, nhảy phóc sang nhanh như một con khỉ, định hành hung cha Thuận. Nhưng anh khựng lại khi thấy tôi bất ngờ đứng lên, hai bàn tay tôi nắm lại. Thấy tôi đứng dậy, một vài anh em nhóm Nam Hà ngồi bên cha Thuận cũng đứng dậy theo. Anh ta hiểu ngay tình thế nên không dám động tới cha Thuận, nhưng sau đó chửi bới cho đã cơn giận. Để mặc cho anh ta điên cuồng chửi bới, cha Thuận và chúng tôi ngồi yên không ai lên tiếng.

                          Tôi theo đội trồng bắp cải được mấy hôm thì được lệnh ở nhà để viết tường thuật, tức là khai báo lý lịch. Có 3 người khác cũng ở nhà cùng viết là các anh Nguyễn Vạng Thọ, nguyên Tổng thư ký Bộ Tư pháp, anh Lê Văn Khương, nguyên Quản đốc trại tù Côn Sơn và Phạm Dương Đạt, một Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến. Vì chỉ có 4 người viết nên không có thủ tục rườm rà như lần khai báo ở trại Nam Hà năm trước. Từ đó hàng ngày khi đội đi lao động, chúng tôi ở nhà viết “luận án” dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của một cán bộ giáo dục người Tày là Chuẩn úy Siển. Anh là một người ít nói và hiền hậu hiếm có trong số cán bộ trong tù.

                          Lúc bấy giờ tôi ăn uống và sinh hoạt chung với cha Thuận. Mỗi buổi trưa và chiều nhìn cảnh các Linh mục già nua lang thang lếch thếch theo đội đi lao động về tôi thấy thảm sầu làm sao! Chúng tôi mới lên Cổng Trời chưa đầy một năm nhưng cái đói và cái rét đã “ăn” hết thịt mấy người tù, nhất là các Linh mục già, chỉ còn chừa lại xương với da. Người nào cũng má hóp trơ xương mặt ra rất thảm hại.

                          Lúc nhìn những hình hài này, tôi chợt nhớ lại ngày xưa, có lần một người ở quê tôi rộng một hầm cá lóc, vì tát đìa có nhiều quá nên rộng đó để ăn dần. Chừng mấy tháng sau tát hầm bắt cá lên, tôi tới coi và thấy tất cả mọi con cá gần như chỉ có cái đầu, còn thân và đuôi cá thì dẹp lại nhỏ xíu trông rất thảm hại và lạ lùng. Vì tôi chưa bao giờ được thấy cá lóc bị teo như vậy nên hình ảnh đó làm tôi nhớ hoài. Lúc ở trại Cổng Trời, khi nhìn thân hình những người tù, nhất là các Linh mục già tự nhiên tôi nhớ mấy con cá bị rộng trong hầm năm xưa!

                          Có lần tôi thấy mặt mày cha già Phạm Ngọc Lan bị trầy trụa, tôi hỏi tại sao, cha cho biết bị trâu đạp vì hôm đi dẫn con trâu nghé mới vực cày, thằng tù hình sự cầm cày đánh trâu mạnh quá nó giật mình phóng tới làm cha Lan ngã xuống bị trâu giẫm lên! Tôi nghe mà xót xa trong lòng.

                          Cũng trong thời gian viết tường thuật này, có một buổi chiều  chúng tôi nghe tiếng quát tháo và tiếng đấm đá tưng bừng phía bên kia hàng rào bằng ván. Khi ghé mắt nhìn qua, tôi bị tối mắt khi thấy một nhóm rất đông cán bộ quây đánh anh Nguyễn Huy Khoan cách tàn nhẫn vì anh Khoan trốn trại trong lúc đi lao động tự giác. Anh đã đi sâu qua khu rừng, chẳng may một cán bộ đi bắn chim phát giác bắt lại, dẫn về trại và cho ăn đòn hội chợ. Anh Khoan là người tù Biệt Kích, anh là người rất tốt, hiền từ, ăn nói thật nhỏ nhẹ, trước kia là tổ trưởng tổ mộc khi tôi còn trong khu O. 

                          Sau khi lên ‘Cổng Trời’ vài tháng, chúng tôi nghe nói nhiều tới chiến tranh với Trung Quốc. Trong trại có một loa phóng thanh đặt ở hội trường và hàng đêm chúng tôi được nghe tin tức thời sự. Trong các bài bình luận, càng ngày thái độ của Chính phủ Việt Nam chống và chửi Trung Quốc càng nặng giọng và trong những lần học tập chính trị, cán bộ nói nhiều về mộng xâm lăng bành trướng của bá quyền bắc phương. Tình hình càng lúc càng căng thẳng và trong trại rầm rì tin đồn về chiến tranh sẽ xảy ra.

                          Nếu thực sự có chiến tranh biên giới xảy ra thì chúng tôi là những người chịu ảnh hưởng trước nhất, vì trại Quyết Tiến nằm ở vùng địa đầu giới tuyến, chỉ nằm cách biên giới Trung Quốc quãng 10 cây số tính theo đường chim bay. Những hôm trời quang mây tạnh chúng tôi nhìn thấy được dãy núi bên trung Quốc. Tâm trạng chúng tôi lúc bấy giờ vừa lo âu, vừa sợ lại vừa mừng, nhưng cũng chỉ biết phó thác số phận cho Trời. Trong thời gian này đội vẫn đi lao động bên ngoài và bốn người chúng tôi vẫn ngồi nhà viết tường thuật.


                          Ngày Phục sinh

                          Tới tháng 7 năm 1978, tình hình biên giới Việt-Hoa trở nên rất căng thẳng. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng đại bác từ xa phía biên giới Trung Quốc vọng về. Mấy anh tù hình sự đi lao động tự giác bên ngoài về cho biết đó là quân đội Trung Quốc tập trận, vì trại này nằm cách biên giới không xa nên tiếng súng lớn nghe rất rõ. Ban ngày thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy máy bay chiến đấu bay lượn trên vùng trời khu vực trại tù. Những hiện tượng này cho phép chúng tôi phỏng đoán sắp có chiến tranh xảy ra.

                          Suốt trong tháng 7 đó, tất cả tù nhân chúng tôi, ngày Chủ Nhật được lệnh đi đào giao thông hào cách ngoài trại một đỗi. Chúng tôi đào chiến hào khá dài, bề ngang 2 thước, sâu cỡ đầu người. Khi công tác này bắt đầu, chúng tôi có cảm giác như đã ngửi thấy mùi thuốc súng đâu đây. Nhiều người bàn ra tán vào về cái giao thông hào rộng và sâu này. Có lần chúng tôi được nghe cán bộ giải thích, đào như thế để ngăn trâu bò của dân vào phá hoa mầu của trại. Có kẻ nói, để lực lượng võ trang của “ta” chống cự khi quân đội Trung Quốc tràn qua biên giới, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ, biết đâu những người chủ trương đào hầm này lại có một ý khác nữa. Ý nghĩ này tôi không tiện nói ra nhưng nó ám ảnh tôi không lúc nào nguôi!

                          Ngày 2 tháng 8 năm 1978 là một thời điểm đáng ghi nhớ trong đời tôi. Chiều hôm đó trước giờ xuất quân đi lao động, có tiếng kẻng tập họp lên hội trường. Khi nghe tiếng kẻng, tôi có linh tính rất mạnh là có một biến cố gì quan trọng. Sau khi tập họp xong, ông trại trưởng, lúc bấy giờ vẫn còn là Đại úy Lãng, thông báo, để tạo điều kiện cho việc cải tạo thuận tiện hơn, Bộ Nội vụ quyết định đưa số tù nhân của trại về miền xuôi.

                          Vừa nghe tới đó cả hội tường vỗ tay la lối vang dậy. Một nỗi mừng quá lớn bộc phát tự nhiên làm không ai kiềm hãm được nỗi vui trong lòng, cứ phải la hét, cứ phải nói, cứ phải nhảy nhót, cứ phải vỗ tay, cứ phải quay sang bắt tay người này vỗ vai người khác. Tôi ngồi thừ người trong trạng thái vui mừng tột độ chỉ biết âm thầm nói câu “Tạ ơn Chúa!” Tôi không ngừng cầu xin Chúa che chở trong cơn khó khăn. Tôi biết rằng, có thể đó là một trong những ngày vui nhất của cuộc đời tôi cho tới lúc này.

                          Phải mất một hồi lâu cán bộ mới vãn hồi được trật tự để ông trại trưởng tiếp tục nói, nhưng hình như không ai trong chúng tôi còn muốn nghe gì thêm. Đối với chúng tôi, chỉ cần biết được rời khỏi ‘Cổng Trời’ là đủ rồi. Không cần biết sẽ đi về đâu, ở trại nào, chuyện đó tính sau, vì ra khỏi ‘Cổng Trời’ là còn hy vọng được sống.

                          Sau đó ông trại trưởng phổ biến thêm thời giờ và chi tiết cuộc chuyển trại. Tôi nghe nhưng không chú ý lắm vì trong 3 năm qua tôi đã chuyển trại 6 lần và biết tất cả những gì phải làm. Chiều hôm đó cán bộ Siển vào thu bài viết, tôi bảo đang viết dở dang, anh ta bảo như thế không cần thu, và tôi chấm dứt việc khai báo tại trại Quyết Tiến từ đó.

                          Trong đêm cuối cùng ở trại Cổng Trời, tôi thấy quên hết mọi ưu phiền, và lạ lùng hơn nữa là thấy như không phải là đang ở tù. Nếu từ trước nay, trại Cổng Trời đồng nghĩa với một thứ “tử địa” thì bây giờ tôi thấy nó chỉ còn là một nơi ghi lại một phần kỷ niệm đời tôi như bao nhiêu nơi khác. Từ nay Cổng Trời không còn hiện diện trong tôi như một nhân tố tiêu diệt mà chỉ là một nơi giúp cho tôi đụng chạm tới sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cảnh khổ của tù hành hạ tù và nhất là bóng dáng của Thần Chết mình mặc áo choàng đen, người không có thịt chỉ có xương, tay cầm liềm hái đang từng bước đi tới.

                          Hôm sau là một ngày rất đẹp trời lại nắng ấm, một ngày thời tiết đẹp hiếm có của vùng này. Tôi có cảm tưởng vui vì tôi cho rằng vị thần coi thời tiết thấy hối hận, vì đã đối xử quá tệ bạc với chúng tôi trong suốt 8 tháng qua, và hôm nay làm một cữ chỉ đẹp, coi như là món quà tạ lỗi trước lúc chia tay!

                          Mọi người tù được điều lên xe. Tôi bị còng dính với một anh bạn và chúng tôi ngồi chen chúc trong xe. Dù chật chội, nhưng tôi không lấy thế làm phiền. Khi xe ra khỏi trại một đỗi và từ trên đỉnh núi cao chầm chậm đổ dốc, tôi nhìn xuống thấy những vầng mây trắng vướng chân  vào lưng chừng núi. Những đám mây trắng lững lờ bên dưới rất xa, có lẽ phải dưới xe tôi đến hàng nghìn thước.

                          Cảnh này đẹp lạ lùng, vẻ đẹp thần tiên cứ như mơ, làm tôi mải mê ngắm nhìn. Lúc ngồi trên cao nhìn xuống những đám mây lững lờ trôi tít mù bên dưới, tôi chợt hiểu hết ý nghĩa hai tiếng “Cổng Trời” mà một người giàu óc tưởng tượng nào đó đã dùng để gọi trại Quyết Tiến mà chúng tôi vừa từ giã ra đi.


                          nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
                          dactrung.com
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.01.2007 11:00:08 bởi sóng trăng >
                          #13
                            sóng trăng 01.02.2007 15:45:09 (permalink)
                            .
                             
                            6

                               Trở lại Trần Gian
                             



                            Đầu tháng 8 năm 1978, khi chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc sắp sửa bùng nổ, nhóm tù 48 người chúng tôi được di tản khỏi trại trừng giới “Cổng Trời” để về trại Thanh Cẩm thuộc tỉnh Thanh Hóa. Chúng tôi biết là người ta sợ nếu xảy ra chiến tranh thì Trung Quốc tràn qua biên giới sẽ giải thoát các tù nhân. Cùng đi với chúng tôi trong chuyến đó còn có 38 anh em Biệt Kích, nhưng họ về trại Lam Sơn, trước kia còn gọi là trại Lý Bá Sơ cũng trong tỉnh Thanh Hóa. Các anh em Biệt Kích này đã nhảy dù ra Bắc trong những năm 1962 và 1963. Họ bị bắt cầm tù đã lâu ở nhiều trại khác nhau tại miền Bắc trước khi bị đưa lên “Cổng Trời”. Khi chúng tôi gặp các anh em Biệt Kích ở trại Quyết Tiến vào năm 1977, có người đã ở tù 14 hoặc 15 năm rồi! “Nhóm 48 Quyết Tiến” chúng tôi gồm có 15 Linh mục và một số anh em thuộc đủ mọi thành phần bị coi là nguy hiểm trong số tù chính trị miền Nam được tuyển chọn từ nhiều trại khác nhau đưa lên.
                             

                            Cõi tiên và địa ngục

                            Ở Cổng Trời, các tù nhân cảm thấy từ con người tới thiên nhiên đều đứng về phe đối nghịch với họ. Từ các cán bộ cai ngục với cách thức đối xử tàn nhẫn với tù nhân tới sự hành hạ dã man của các đội trưởng tù hình sự đối với đội viên, từ sự chém giết lẫn nhau trong đám tù hình sự tới cái đói triền miên trong lúc phải đi làm lao động khổ sai, tất cả đều nói lên nỗi khắc nghiệt, cay đắng, tủi nhục và uất hận của đời người. Còn nữa, yếu tố thiên nhiên với cái lạnh chết người ở đây lại càng thu hẹp thêm khoảng cách giữa sống và chết của người tù. Cái lạnh miền sơn cước “Cổng Trời” thật đáng sợ. Về mùa đông không mấy ngày nhiệt độ nhích lên quá con số không.  Biết bao thành phần phản kháng chống chế độ cộng-sản đã chết ở đây.

                            Chúng tôi bị đưa lên Cổng Trời cũng là để chuẩn bị bước sang bên kia thế giới. Chỉ sau một vài tháng bị đày lên đó, tôi đã thấy bóng dáng Thần Chết tay cầm liềm hái đang dò từng bước đi tới. Có lẽ các Linh mục già yếu và các anh em lớn tuổi trong nhóm càng thấy rõ hơn. Vì lý do đó, trong suốt ngần ấy năm tù, chỉ có hai ngày làm tôi vui mừng và sung sướng nhất. Lần thứ nhất là ngày được di chuyển ra khỏi trại Cổng Trời vào đầu tháng Tám năm 1978 để về trại Thanh Cẩm trong tỉnh Thanh Hóa, và lần thứ hai tôi sẽ nói sau.

                            Trong hoàn cảnh đó việc Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào vùng biên giới Việt Bắc được coi là cơ hội may mắn đối với các tù nhân bị lưu đày ở trại này. Năm đó Hoa Quốc Phong đang là Tổng Bí Thư đảng cộng sản Trung Quốc. Chính nhờ cơ hội đó, chúng tôi mới được chuyển về xuôi và một số anh em chúng tôi còn được sống sót tới ngày hôm nay.

                            Thật khó có thể diễn tả được tâm trạng vui mừng và cảm giác hạnh phúc của tôi cùng các bạn tù trong đêm cuối cùng ở trại Cổng Trời. Khi đọc các dòng này xin mời bạn dùng một chút trí tưởng tượng để cảm nghiệm được nỗi hạnh phúc tột cùng của tôi lúc đó. Hãy tưởng tượng là bạn bị kết án tử hình và sẽ bị hành quyết. Trong nỗi buồn tuyệt vọng và đau khổ chờ chết, bất ngờ có lệnh khoan hồng ban ra. Cũng chính vì niềm vui quá lớn đó mà tôi còn nhớ trên chuyến xe chở chúng tôi rời trại Cổng Trời, có một anh “phát biểu” câu nói sặc mùi phản động mặc dù rất chí lý:“Anh em à! Tôi đề nghị sau này chúng mình được tha về rồi, sẽ góp tiền lại đúc tượng của Hoa Quốc Phong đặt trên bàn thờ nhé.” Có nhiều tiếng reo vui phụ họa:“ Nhất trí! Mỗi người một ý”!Hôm đó ngồi trên chiếc xe chật ních và bị còng tay dính chùm từng đôi một nhưng có lúc tôi lại tưởng chừng như mình đang đi cắm trại ở một vùng thắng cảnh miền núi đẹp mê hồn ở vùng địa đầu quê hương. Nhất là khi nhìn xuống từng đám mây đang bay là đà hàng ngàn thước bên dưới chân núi trong một buổi sáng trời trong nắng ấm.

                            Nhìn cảnh đó tôi nghĩ thầm:“Nếu mình không đi tù làm sao thấy được cảnh đẹp mê hồn này.”


                            Trở lại trần gian

                            Trên đường xuôi về trại Thanh Cẩm, chúng tôi dừng chân một đêm tại trại Văn Hòa ở ngoại ô Hà Nội. Trại này xây dựng chưa xong, còn ngổn ngang vật liệu xây cất, gặp đêm đó mưa to nên trong trại lầy lội bùn sình dơ bẩn. Chúng tôi ghé vào trại này lúc quá nửa đêm, mệt nhọc, đói khát và bẩn thỉu. Có nhiều người buồn đi đại tiện đến mức không còn chịu đựng nổi phải la lối trên xe và yêu cầu dừng lại để giải quyết nhu cầu tự nhiên này, nhưng vì lý do an ninh, cán bộ áp tải tù không cho xe dừng lại ban đêm. Vì trại chưa có cầu tiêu nên cả nhóm chúng tôi buộc lòng phải giải quyết vệ sinh ngay trong sàn nhà lầy lội bùn sình nơi chúng tôi tạm nghỉ qua đêm.

                            Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm 1978, nhóm “48 Quyết Tiến” chúng tôi lang thang lếch thếch, tay xách, nách mang, bước vào cổng trại Thanh Cẩm dưới cơn mưa tầm tã để bắt đầu một giai đoạn mới trong kiếp sống tù đày. Chưa ai biết những gì đang chờ đợi trước mắt, nhưng anh em chúng tôi vui vẻ bảo nhau:“Bất cứ kiểu gì cũng còn tốt hơn Cổng Trời”.

                            Vừa bước vô tới hội trường giữa sân trại, một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến tôi ngạc nhiên và vẫn còn nhớ mãi, đó là hình ảnh của cán bộ trực trại. Lão này độ ngoài 50 tuổi, người ngợm trông bẩn thỉu và bèo nhèo như một cái nùi giẻ, loại nùi giẻ của thợ máy xe. “Cái nùi giẻ” đó đang say rượu, chân nam đá chân chiêu, tay cầm gậy trúc cao quá đầu, múa may theo từng nhịp và la hét quát tháo ầm ĩ. Rõ ràng là ông ta muốn dằn mặt bọn "lính mới" chúng tôi. Cái hình thù dị hợm này xem chẳng giống ai. Chân mang ủng cao gần tới đầu gối, hai ống quần ka-ki vàng của công-an xắn một cách vô trật tự lên tới bẹn để lộ một khúc chân đen đen mốc mốc trông đến khiếp! Nhìn lão cán bộ Thượng úy trực trại dị hợm này, tôi lại liên tưởng tới bức tranh biếm họa vẽ hình Táo Quân. Một Táo Quân đang say rượu!

                            Trước mặt và chạy quanh ông ta, là hai anh tù mặc đồng phục màu xanh, chân mang dép râu, lăng xăng khua khoắng như những con rối để dẫn chúng tôi vào chỗ phải vào. Tôi biết ngay đây là hai anh trật tự, vì trên trại Cổng Trời cũng có một anh tù hình sự làm trật tự. Nhiệm vụ của anh là giúp cán bộ khám xét khi nhóm 20 anh em chúng tôi trong đội trừng giới từ trại Nam Hà mới chuyển lên đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1977. Anh ta làm việc một cánh từ tốn và chậm rãi, chứ không quá lăng xăng như hai anh trật tự này.


                            Tổ chức trong trại

                            Các trại tù thuộc Bộ Nội Vụ, do công-an quản lý được tổ chức như sau: Đứng đầu trại là một Ban Giám Thị gồm trại trưởng, trại phó và các ban, ngành lo về các phần vụ chuyên môn như Ban Giáo Dục, Ban An Ninh, Ban Hồ Sơ, Ban Tài Chánh, Ban Cấp Dưỡng v.v... Các tù nhân trong trại được phân làm từng đội, mỗi đội do một tù nhân làm đội trưởng và một cán bộ quản giáo trông coi. Đội trưởng do Ban Giám Thị trại chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

                            Mỗi khi các tù nhân được di chuyển ra khỏi trại, như đi lao động chẳng hạn, phải có một hoặc hai cán bộ võ trang vác súng dài đi theo canh giữ. Ban đêm, các cán bộ võ trang này thay phiên nhau tuần tra trong và ngoài vòng rào của trại để ngăn ngừa tù nhân trốn trại. Ban ngày các tù nhân thuộc trách nhiệm của ban quản giáo, và ban đêm, sau khi điểm danh vào buồng, họ thuộc trách nhiệm của cán bộ võ trang.

                            Trực tiếp lo về sinh hoạt và đời sống của tù nhân có Ban Trực Trại, đứng đầu là một cán bộ Trực Trại. Để điều hành công việc trong trại, cán bộ trực trại thường chọn một số tù nhân được trại tín nhiệm để phụ trách các công tác như trật tự, y tế và văn hóa. Nhóm này còn được gọi là Ban Thi Đua. Các chức vụ trong Ban Thi Đua này do Ban Giám Thị chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh. Trong các công tác kể trên, công tác trật tự được coi là quan trọng nhất, do một anh Trật tự điều hành.

                            Anh này có quyền hành nhất trong trại, chỉ sau cán bộ mà thôi. Muốn được làm trật tự thường phải có nhiều công trạng với trại, được trại tín nhiệm. Thêm vào đó cũng còn phải có sức mạnh nữa. Ngoài nhiệm vụ trông coi trật tự trong trại, anh trật tự còn phụ giúp cán bộ trực trại coi khu kiên giam và khu kỷ luật, như khóa cùm các tù nhân bị phạt kỷ luật vào buổi tối và tháo ra vào buổi sáng.

                            Trật tự cũng có nhiệm vụ gánh khẩu phần ăn lên phát cho các tù nhân bị kiên giam và kỷ luật mỗi ngày hai lần, trưa và chiều. Đồng thời, trật tự cũng đi điểm danh với cán bộ trực trại vào buổi tối, sau đó khóa các buồng và sáng ra mở cửa buồng. Mỗi lần trật tự làm công tác trên khu kiên giam hay khu kỷ luật thường có cán bộ đi theo, nhưng cũng rất nhiều khi trật tự chỉ đi một mình, lúc đó vai trò của anh không khác gì của một cán bộ.

                            Ở một vài trại, các anh trong Ban Thi Đua có phòng riêng, ban đêm không ngủ chung với các tù nhân khác. Cũng có những người tuy không có “công trạng” nhiều với trại, nhưng nhờ đút lót tiền của cho cán bộ trực trại và cán bộ an ninh nên được cho làm trật tự. Chức trật tự thuộc diện “sĩ quan” so với đám tù. Họ không phải đi lao động vất vả như các anh em khác. Họ có quyền hành và dĩ nhiên là được tự do hơn. Cũng có trường hợp được chọn nhờ to con lớn xác và có tướng mạo trông “ngầu”! Đây cũng là một yếu tố quan trọng để được chọn vì làm trật tự ngầm hiểu là giữ vai trò quả đấm của trại.


                            Hai anh trật tự

                            Hai anh trật tự trại này, một anh độ ngoài 40 trông bộ dạng lầm lì và ít nói. Anh kia trẻ khoảng chừng 30 tuổi, lăng xăng hơn. Anh này mập tròn và béo tốt nhưng hơi bị tật. Da mặt anh bóng láng, khác hẳn với các thân hình xanh xao gầy còm của nhóm anh em chúng tôi vừa mới nhập trại. Anh trẻ này đang cố gắng làm mặt “ngầu” để thị uy với các lính mới trong một cung cách cố gắng thấy rõ. Miệng anh lúc nào cũng la hét, tay anh chỉ hết bên nọ đến bên kia, nhưng không bao giờ nhìn thẳng vào mặt ai trong bọn chúng tôi.

                            Nhóm chúng tôi di chuyển rời rạc. Những người còn khỏe đi nhanh tới chỗ tập trung ngay trong hội trường nằm giữa sân trại, còn những người ốm yếu bệnh tật lò mò theo sau. Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Sỹ Thuyên gần kiệt lực, vừa tới nơi tập trung đã vất phịch cái bao áo quần và chăn màn bẩn thỉu xuống nền hội trường, rồi nằm ngửa người trên đó. Tôi cũng quá mệt nên tới ngồi cạnh bên anh. Sau một lúc, anh Thuyên lấy lại được bình tĩnh và dùng cùi chỏ thúc nhẹ tôi, hất mắt hướng về cán bộ trực trại và ghé bên tai tôi nói nhỏ:“Mẹ! Cái thằng này trông như ở lỗ cống mới móc lên!" Tôi chưa kịp ra dấu phát biểu đồng tình thì giật mình vì một giọng quát từ sau lưng:“Còn hai anh này! Không lo thu xếp ‘nội vụ’ còn ngồi nói chuyện chi đây? Bộ muốn chống đối hả?” Tôi quay lại và chạm ngay cặp mắt trắng dã của tên trật tự trẻ mà từ lúc đầu tôi đã gườm hắn. Tôi đứng dậy bỏ đi vì biết rằng đây không phải là chỗ tốt để bày tỏ một thái độ nào khác hơn, vừa đi tôi vừa nghĩ bụng là mình phải cẩn thận với tên này.

                            Trong giờ điểm danh chiều hôm sau, tôi và một số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến bị đưa lên nhốt trên khu kiên giam, số còn lại ở dưới “làng”  làm thành một đội mới là Đội 16 và anh Nguyễn Văn Phước được chỉ định làm đội trưởng. Anh Phước là một Thiếu tá Hải quân, từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín. Khi về tới Việt Nam, anh bị đưa thẳng vào tù, bị đày ra Bắc và lên “Cổng Trời” với chúng tôi.

                            Kiên giam trại Thanh Cẩm là một khu nhà hình vuông xây cất rất kiên cố, được chia thành bốn buồng nằm bốn góc như hình chiếc bánh chưng được cắt đều làm tư. Chúng tôi gọi khu này là Nhà Bằng vì có mái bằng đúc bằng xi-măng. Mỗi buồng có hai cửa sổ khá rộng được chấn bằng những song sắt to gần bằng cổ tay. Trong buồng có bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 80 phân và một lối đi từ cánh cửa sắt tới vách ngăn khu vực cầu tiêu. Mỗi buồng chứa được từ năm tới bảy người nằm theo kiểu xếp cá hộp. Ban đêm thường là có một người xuống nằm ngủ dưới lối đi vì bệ nằm quá chật.

                            Khu kiên giam được dùng để giam riêng các tù nhân bị coi là nguy hiểm. Họ phải sống cách ly với các tù nhân khác. Tù nhân ở khu này tuy không bị cùm chân nhưng suốt ngày đêm bị khóa trong buồng, trừ hai bữa ăn, trưa và chiều thì được mở cửa để ra ngoài lấy thức ăn, nước uống và làm vệ sinh, mỗi lần khoảng mười lăm phút.

                            Thông thường, mỗi tuần một lần, tù nhân ở Nhà Bằng được đi tắm giặt dưới sông Mã trước cửa trại. Các tù nhân ở kiên giam và kỷ luật thường là đi tắm chung và bị canh gác rất cẩn thận. Khi nào cán bộ võ trang bận, hoặc vì lý do gì khác thì ba tuần hoặc một tháng mới được đi tắm một lần.


                            Trại tù Thanh Cẩm

                            Tôi bị đưa ngay vào kiên giam vì bị xếp vào loại tù nguy hiểm. Nhờ một số tù nhân đang bị giam ở đây, vài ngày sau chúng tôi nắm vững vị trí và tình hình của trại này. Trại Thanh Cẩm lúc đó chia làm hai K (Khu). Chúng tôi ở K1 gồm toàn chính trị miền Nam khoảng 400 người, đa số là cựu viên chức hành chánh của chế độ miền Nam cũ và một số anh em thuộc tổ chức Phục Quốc hay vượt biên bị bắt. Không có thành phần cựu quân nhân trong lúc này. K2 nằm cách K1 khoảng 3 cây số và được dùng để giam tù hình sự.

                            Một số anh em tù chính trị từ Long Thành đến đây vào tháng 12 năm 1976 kể lại cho chúng tôi biết là trại này có đến ba K. K1 là phân trại mà chúng tôi đang ở, gồm một nửa là tù chính trị miền Nam và một nửa là tù hình sự. Phân trại này trước đây là nhà tranh, có hàng rào tre nhiều lớp bao bọc chung quanh, dùng để giam tù hình sự. Sau khi chiếm được miền Nam, Bộ Nội Vụ ra lệnh xây cất gấp những dãy nhà gạch và một vòng tường kiên cố để đón tù chính trị miền Nam, vì tù nhân miền Nam được coi là thành phần nguy hiểm, phải được canh giữ rất cẩn thận.

                            Khi các anh em từ trại Long Thành trong Nam chuyển ra đây thì phía bên phải của trại đã có bốn dãy nhà ngói, còn bên trái là ba căn nhà tranh và một khu nhà kỷ luật xây bằng đá tối om, có lỗ thông hơi rất nhỏ, được dùng để giam những người bị kỷ luật và những người Trung Quốc bị bắt ở vùng biên giới và bị kết tội làm gián điệp. Chúng tôi thường gọi khu này là Nhà Đen vì nó tối đen u ám, lại lợp bằng thứ vải nhựa màu đen. Khu kiên giam mà chúng tôi đang ở là khu nhà mới xây cất để đón chúng tôi.

                            Khu trại K2 nằm về phía Nam khoảng hơn hai cây số và được dùng để giam các tù chính trị miền Bắc, khoảng 160 người, đa số là giáo dân và tu sĩ Công giáo thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Thái Bình và Nam Định. Họ bị bắt từ năm 1970 khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ qua Campuchia. Hà Nội sợ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất thần đổ bộ ra Bắc, nên cô lập các thành phần mà họ nghi có thể làm nội ứng, tiếp tay cho “giặc”.

                            Thành phần tù chính trị này gồm những chức sắc trong các giáo xứ như chánh trương, trùm, trưởng và những người lãnh đạo các đoàn thể như thiếu nhi Thánh Thể, Liên Minh Thánh Tâm hoặc những người phụ trách các công việc phụng vụ trong nhà thờ như ban Khánh Tiết, ban Thánh Ca, ban Giúp Lễ v.v... Có một số nhỏ thuộc loại "tu chui", vì đi tu mà không được công-an cho phép. Anh em kể lại rằng nhóm này có tinh thần quật cường. Họ sống với nhau rất đoàn kết, đùm bọc và thương yêu nhau. Hầu hết tù chính trị miền Bắc không được thân nhân tiếp tế, chỉ sống nhờ khoai sắn của trại và rau cỏ trong rừng. Gia đình họ quá nghèo, không đủ ăn nên không thể tiếp tế được.

                            Đến năm 1978 nhóm này được chuyển đi xây cất trại Thanh Phong thuộc một vùng khác cách đây không xa, cũng ở trong tỉnh Thanh Hóa. Khi họ rời trại Thanh Cẩm, thì K2 được phá hủy để trồng hoa mầu. Khu trại K3 nằm về phía Bắc, cách K1 ba cây số, giam toàn tù hình sự. Một số anh em Biệt Kích miền Nam nhảy dù ra Bắc trong các năm 1962 và 1963 cũng bị giam ở đây, nhưng anh em sống tập trung ở một nhà riêng. Họ được giao cho phụ trách nhà máy đèn, nhà nấu rượu và một số công việc linh tinh chung cho cả trại. Khi K2 bị phá hủy thì K3 trở thành K2.

                            Trại Thanh Cẩm nằm trên bờ sông Mã, thuộc vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa, cách biên giới Việt-Lào khoảng 30 cây số, ở độ cao hơn mặt biển khoảng 400 thước. Trại này nằm ở vị thế hiểm trở, phía trước là sông rộng, chung quanh núi non bao bọc, chỉ có con đường độc đạo ra vào trại. Có mấy làng mạc của người Mường nằm rải rác cách xa trại vài cây số. Vị trí địa lý và nhân tình ở đây không thuận lợi cho việc trốn trại. Vượt qua núi cao để ra khỏi vùng này rất khó vì đó đây quanh trại là nhà dân. Nếu gặp tù trốn trại, họ sẽ báo cho công-an để được thưởng lương thực hay rượu. Từ thị xã Thanh Hóa vào đây chỉ khoảng 80 cây số, nhưng đường núi hiểm trở và lưu thông khó khăn. Số tù nhân trốn được ra khỏi trại mà đi thoát rất hiếm, nhưng không phải là không có.

                            Đầu năm 1978, có một nhóm tù nhân chính trị được chuyển từ trại Quảng Ninh tới, đa số là các bạn trẻ trong tổ chức Phục Quốc và những người vượt biên. Họ được gọi chung là “nhóm phản động”. Khi tôi đến đây thì trại đang xây thêm phòng giam để nhận thêm một số tù nhân chính trị nữa. Nhiều nơi đá gạch còn ngổn ngang. Nói chung, trại Thanh Cẩm này đang trên đà “làm ăn phát đạt”, cứ mỗi năm lại xây thêm nhà mới!


                            Trật tự “giả cầy”

                            Cán bộ trực trại mà tôi gặp khi mới bước chân vào đây là Thượng Úy Phú. Anh em chúng tôi gọi ông là “Phú Già”, và kính cẩn hơn nữa gọi bằng “lão”. Lão này nghiện rượu nặng và rất khoái nhậu thịt chó. Lão đúng thuộc loại cán bộ bầy nhầy, sáng say chiều xỉn. Giọng nói thì lè nhè và mặt mày lúc nào cũng đỏ gay như gấc!

                            Chúng tôi cũng được biết anh trật tự “lớn” tên Phạm Đình Thăng, người Quảng Ngãi. Nghe nói lúc trước anh là Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Lâm Đồng. Mắt anh hay nhìn lấm lét, nhưng thuộc loại có nhiều kinh nghiệm nên hành động có chừng mực để tránh tai tiếng. Anh biết một số anh em chúng tôi là Linh mục, nên cũng tỏ vẻ kính trọng, tuy anh không phải là người Công giáo. Trước mặt cán bộ anh cũng làm ra vẻ xum xoe, đôi khi cũng to tiếng với chúng tôi, nhưng anh không độc ác, mà đôi khi còn giúp đỡ vài chuyện lặt vặt như cho mồi lửa hút thuốc lào hoặc chuyển giúp vài món đồ giữa anh em chúng tôi ở các buồng kiên giam khác nhau v.v... Anh Thăng cũng là người khá vui tánh và tôi còn nhớ vài câu chuyện nhỏ về anh.

                            Một ngày nọ, bất ngờ trại cho tù ăn một bữa thịt bò. Đây là một niềm vui, vì những dịp nào trại cho ăn thịt mà trong tù gọi là “ăn tươi” chúng tôi đều thuộc nằm lòng, và số những lần “ăn tươi” này không nhiều hơn số đếm trên đầu các ngón tay. Trưa hôm đó, khi gánh thức ăn lên khu kiên giam, Phạm Đình Thăng đi tới từng buồng, đứng bên ngoài cửa sổ, mặt mày hớn hở, miệng anh ta be be báo tin vui:“Bữa nay ăn một trăm phần trăm ‘bớp!’”  Anh ta lập đi lập lại “tin vui trong ngày” đó rất nhiều lần. Sau này hỏi ra mới biết là con bò kéo cày của trại bị sụp hố què chân nên phải làm thịt, và mỗi người trên khu kiên giam chúng tôi được hai hoặc ba miếng thịt bò to cỡ bằng đầu ngón tay út của một em bé lên 10! Dù vậy anh em chúng tôi cười đùa bảo nhau:“Giá mà trại này có nhiều cái hố như vậy thì hay biết mấy!"

                            Cũng chính anh Thăng đã báo cho chúng tôi hay tin Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã qua đời. Khoảng hơn tháng sau, anh lại lên báo tin Giáo Hoàng chết. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

                              - Mới chết rồi sao lại chết gì nữa hả anh?

                               Phạm Đình Thăng trả lời:

                              - Cái ông mới lên cũng chết luôn rồi!

                            Đó là một vài điều tôi còn nhớ về anh Thăng là trật tự chính trong trại lúc đó. Anh trẻ kia tên Trương Văn Phát, người Tàu lai ở Chợ Lớn, làm thợ đóng giày, bị bắt vì tội vượt biên, làm phụ tá trật tự và đúng là một tên hắc ám. Không biết ở dưới “làng” anh ta xử sự ra sao, nhưng mỗi khi có việc gì liên quan tới chúng tôi trên khu kiên giam là anh ta quát tháo, nạt nộ và luôn dùng cách nói đe dọa:“Các anh hãy liệu hồn!" Đây là lý do tại sao Phát được chọn làm phụ tá trật tự.

                            Trong tất cả các trại mà tôi được biết, trại nào cũng chỉ có một trật tự mà thôi. Tuy nhiên trại Thanh Cẩm này là trường hợp ngoại lệ, có tới hai người, một chánh và một phó! Tôi nghe nói, sở dĩ Trương Văn Phát được cho làm trật tự vì anh ta đã hối lộ cho “Phú Già”, cán bộ trực trại. Một số anh em cùng di chuyển từ trại Quảng Ninh lên trại Thanh Cẩm với Trương Văn Phát có kể lại rằng, khi còn ở trong Nam, Phát ăn uống sinh hoạt chung với một anh bạn có nhiều tiền. Khi bị chuyển ra Bắc, sợ giữ nhiều tiền trong người sẽ bị công-an khám phá lấy mất, nên anh bạn giao cho Trương Văn Phát giữ phân nửa, nhỡ ra người này bị mất thì còn người kia. Không ngờ khi ra tới đất Bắc mỗi người được đưa về một trại khác nhau, nên Phát đương nhiên trở thành sở hữu chủ số tiền của anh bạn kia.

                            Khi đến trại Thanh Cẩm, gặp ngay “Phú Già” nghiện rượu, thèm thịt chó, tiền lương không đủ nhậu, Phát đã từ từ bỏ tiền ra mua rượu thịt cho “Phú Già” nhậu, nên “Phú Già” đã đưa Phát lên làm trật tự “phó”. Tôi không biết câu chuyện được kể lại này có hoàn toàn đúng như vậy không, nhưng điều tôi biết rõ là chức trật tự phó của Trương Văn Phát tại trại tù Thanh Cẩm là một biệt lệ của các trại tù cộng-sản.

                            Để bày tỏ sự khinh bỉ tư cách và con người của Trương Văn Phát, anh em tù nhân có người gọi anh ta là trật tự “giả cầy”. Dĩ nhiên là họ gọi lén lút sau lưng, nếu để Phát nghe được và mách với “Phú Già” thì chắc chắn là anh nào gọi như thế sẽ phải trả một giá đắt cho cái vạ miệng của mình.

                            Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm về “Phú Già” đôi chút cho mặn mà câu chuyện. Khoảng hai năm sau khi chúng tôi tới trại, tức là năm 1980, “Phú Già” giải ngũ, cởi lớp áo công-an, về móc củ cỏ chung quanh khu vực trại. Tôi nghe mấy anh bạn ra ngoài lao động về kể chuyện, lúc này người ngợm ông ta rất tàn tạ và dơ bẩn.

                            Thỉnh thoảng “Phú Già” đi mò cua bắt ốc có tạt qua chỗ các đội đang lao động ngồi nói chuyện dăm ba câu với các cán bộ và các tù nhân, vì dù sao cũng là chỗ tình cũ nghĩa xưa. Ông ta vừa nói chuyện vừa vớ ống điếu cày của các anh tù, kéo một hơi liền mấy bi thuốc lào, xong đứng lên mang giỏ, đội nón rơm lên đầu và xách gậy bỏ đi. Không có mấy người biết lão già gầy đét, xấu xí và đen thui thủi như một con dế than đó đã một thời hét ra lửa khi làm cán bộ trực trại và cũng là người đã ban cho Trương Văn Phát chức trật tự phó ở trại này.


                            Nhóm tù Quân đội

                            Chúng tôi đến trại Thanh Cẩm được vài tháng thì Phạm Đình Thăng được tha về. Trước đó không bao lâu, trại Thanh Cẩm đã tiếp nhận thêm 300 tù nhân mới, đó là các anh em quân nhân từ trại Yên Bái chuyển về, trong số này có một vài người tôi quen biết. Một đôi lần trong lúc được xuống bờ sông tắm giặt, thấy lại các anh em, tôi rất mừng, nhưng chúng tôi không dám nói với nhau một lời, chỉ lấy mắt chào nhau, vì tôi đang ở kiên giam và được xếp vào thành phần “nguy hiểm” nên bị cấm tiếp xúc với các tù nhân ở dưới “làng”.

                            Các anh em Quân đội bị đưa ra Bắc, lúc đầu được phân phối rải rác trong các trại do bộ đội quản lý ở vùng thượng du Bắc Việt. Về sau, vì tình hình biến động ở biên giới như tôi đã nói ở trên, các trại này được giải tán và chuyển về các trại ở miền đồng bằng hay thượng du miền Trung, do công-an quản lý, trong đó có trại Thanh Cẩm.

                            Khi Phạm Đình Thăng đi rồi, Trương Văn Phát tạm thời làm trật tự “chánh”. Phát có vẻ lúng túng, một phần vì còn quá trẻ chưa có kinh nghiệm, một phần bị anh em trong trại coi không ra gì. Mặc dù Phát đang giữ chức trật tự, nhưng nhóm tù trẻ Phục Quốc cùng đi với Phát từ trại Quảng Ninh đến trại Thanh Cẩm, chẳng những không ngán Phát mà còn hay trêu chọc. Nhóm này coi Phát như một phu gánh thức ăn lên khu kiên giam và khu kỷ luật, và là một tên đầy tớ để cán bộ sai vặt mà thôi.

                            Vì tự biết là mình đang bị coi thường, Phát đã cố gắng tỏ ra uy quyền, nhưng càng tỏ ra uy quyền lại càng lố bịch và càng bị các anh em dưới “làng” trêu chọc. Dưới “làng”, Phát phải chịu thua, anh ta chỉ còn có thể tỏ ra uy quyền với các anh em chúng tôi ở khu kiên giam mà thôi. Mỗi lần có công việc liên quan tới chúng tôi, Phát thường ra lệnh và quát tháo ầm ĩ. Anh em bực mình lắm, nhưng cố nhịn vì sợ Phát “đì ” bằng nhiều cách, như không chịu mở cửa sớm khi cho ăn hoặc tự ý giảm bớt khẩu phần khoai sắn ít ỏi của chúng tôi. Tiêu chuẩn phần ăn của những tù kiên giam chỉ có 9 ký lô mỗi tháng, nếu bị Phát bớt nữa thì nguy to. Biết được chỗ yếu này nên Phát càng làm già hơn.

                            Như tôi đã nói, ở khu kiên giam tuy chúng tôi không bị cùm nhưng bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm. Trừ buổi trưa và buổi chiều được mở cửa cho ra lấy thức ăn và làm công tác vệ sinh, đó là thời gian hạnh phúc trong ngày. Mặc dù mỗi buồng trong khu kiên giam đều có bể nước và nhà cầu, nhưng trong thời gian đầu, cửa vào cầu tiêu bị khóa lại không cho sử dụng nên chúng tôi đành phải giải quyết việc đại tiểu tiện vào trong các ống bẩu, là các ống tre có ruột khá to được dựng đứng ở góc buồng. Tới giờ trật tự mở cửa phát thức ăn, chúng tôi chia phiên nhau đi đổ các ống phân và ống nước tiểu vào hố phân nằm ngay sau hè Nhà Đen. Đây là những giây phút thoải mái nhất trong ngày đối với chúng tôi.

                            Lúc đó có người lợi dụng “thời cơ”, liếc trước nhìn sau, nếu thấy cán bộ hay anh trật tự không để ý là ra hiệu chào các bạn buồng bên hoặc nhanh tay lẹ chân truyền cho nhau vài bi thuốc lào hay tí quà cáp linh tinh. Ai không có nhiệm vụ thì đứng vươn tay vươn chân hít thở không khí trong lành. Nhưng rất tiếc là Phát không cho chúng tôi được hưởng một vài phút thoải mái này. Anh ta thúc giục chúng tôi phải làm công tác vệ sinh một cách nhanh chóng để trở vào buồng giam. Có khi chúng tôi làm công việc vệ sinh chưa xong thì đã nghe Phát quát:“Khẩn trương lên nào! Vào buồng! Hết giờ rồi!"  
                             
                             Tôi nhớ một buổi trưa nọ tới phiên tôi đổ ống bẩu, vì phân đầy quá nên tràn ra ngoài bết cả vào tay. Trong khi tôi đang lúi húi tìm nước rửa thì có tiếng Phát giục tôi vào buồng. Tôi giả vờ không nghe, anh ta tiến lại phía tôi quắc mắt nạt:    
                             
                              - Tôi bảo vào buồng! Bộ tai anh điếc hả?     
                             
                             Biết tên này muốn gây chuyện lôi thôi, tôi nghe nóng gáy nhưng cố bình thản:    
                             
                              - Tay đầy cứt, tôi phải kiếm nước rửa đã chứ?

                              - Thì vào buồng mà rửa.  
                             
                                 Tôi trả lời tỉnh bơ:     
                             
                             - Trong buồng lấy nước đâu rửa?   
                             
                                Anh ta bực tức:     
                             
                            - Lấy nước uống mà rửa!   
                             
                              - Rồi lấy gì uống?     
                             
                            Trương Văn Phát đành câm miệng đứng nhìn. Tôi vừa nói vừa đi lại bể nước cạnh Nhà Đen để tìm lon múc nước rửa tay, bực tức Phát chỉ mặt tôi nói: 
                             
                                 - Này! Anh hãy liệu hồn! Đừng có mà tưởng ‘cha cố’ là không ai dám làm gì nhá! 
                             
                             Cách gọi “bọn cha cố” là một cách gọi xách mé mà cán bộ dùng để gọi các Linh mục chúng tôi. Trương Văn Phát cũng “ăn có” và gọi theo cách đó. Tôi yên lặng bỏ đi vô buồng, mặc dù không nhìn lại, nhưng tôi cũng hình dung được đôi mắt Phát đang đổ lửa nhìn theo các bước chân không có gì là “khẩn trương” của tôi.

                            Lúc bấy giờ chúng tôi gọi các anh tù kiên giam như chúng tôi là “heo nhốt chuồng”. Gọi như vậy nghe hơi kỳ nhưng chắc không còn hình ảnh nào đúng hơn để so sánh. Cả ngày chúng tôi chỉ lẩn quẩn trong căn buồng chật chội, nói chuyện mãi rồi cũng hết chuyện để nói. Chúng tôi bày ra đủ thứ trò để giải trí như lấy giấy vẽ thành cờ tướng, cờ domino, bài xì phé v.v... Chơi đi chơi lại hàng giờ trong khi đợi chờ hai bữa ăn.

                            Lúc bấy giờ là thời điểm “cả nước đang gặp khó khăn, dân ta đang phải khắc phục những hậu quả còn tồn tại do Mỹ ngụy gây ra!” Cán bộ giáo dục nói như thế, nên cả trại lúc đó phải tạm khắc phục ăn ngô, ăn khoai lang, ăn sắn mà trong Nam gọi là khoai mì. Mùa nào thức đó. Có lúc ăn sắn cả tháng liên tiếp, nên mặc dù bụng đói cồn cào nhưng mỗi lần ngửi mùi “ngà voi chưng cách thủy”,  có người đã buồn nôn. Nhưng rồi cũng phải ăn vì không ăn “ngà voi ” thì biết ăn cái gì để sống?


                            Nhân vật lạ xuất hiện

                            Một buổi chiều nọ, trời bỗng đổ mưa tầm tã làm nước đọng vũng chung quanh khu kiên giam. Vùng rừng núi Thanh Cẩm này thường có mưa to và giông bão, có lần mưa đá, những hòn bằng nắm tay rơi đầy trong sân. Thời tiết ở đây thật khắc nghiệt. Dân chúng quả là đủ kiên nhẫn để chống chọi với các thiên tai mà người cán bộ vô thần cộng-sản gọi là “giặc trời”. Sau cơn mưa trời quang trở lại. Trong lúc anh em chúng tôi đang ngồi bó gối nhìn ra cửa sổ nói chuyện trên trời dưới đất như thường lệ cho qua thời giờ, bỗng nghe tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Chúng tôi ở buồng 1, ngay lối ra vào nên khi nghe tiếng động ở cửa là biết ngay có người vào. Việc cửa khu kiên giam được mở vào giờ bất thường như thế này bắt buộc chúng tôi phải theo dõi xem chuyện gì xảy ra.

                            Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một anh tù lạ mặt vác cuốc bước vào sân, trong buồng chúng tôi đoán với nhau rằng anh này là anh trật tự mới. Sở dĩ chúng tôi đoán như vậy vì không một anh tù nào được vào khu vực này, trừ các anh có chức vụ như trật tự, văn hóa và y tế. Vả lại, một mình Trương Văn Phát không thể nào cáng đáng nổi vai trò trật tự. Việc thay đổi một anh trật tự có ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của anh em chúng tôi, nên tất cả năm người trong phòng đều dán mắt vào khe song cửa sắt để quan sát. Anh tù lạ mặt này, nước da ngăm đen, thân hình cao ráo, gân guốc và mạnh mẽ, khác với vẻ mập bệu và đi đứng lệt bệt của Trương Văn Phát.  

                             Người tù lạ mặt bước vào sân, bộ mặt lầm lì, chẳng để ý gì tới nhóm chúng tôi đang cố dí mặt vào song sắt cửa sổ nhìn ra. Anh ta bắt đầu cuốc đất, đào rãnh khai thông những vũng nước mưa đọng ngay bên ngoài cửa sổ buồng chúng tôi. Anh vung những nhát cuốc trông thật “chất lượng” và thành thạo. Lúc anh quay mặt vào, tôi được dịp quan sát kỹ lưỡng hơn.

                            Anh ta khoảng 40 tuổi, trông rất rắn chắc, tay chân dài lều khều, cái tướng mà người Nam chúng tôi thường gọi là “chân chòi cổ loi”. Mặt anh ta dài và xương xẩu, tóc thưa và hơi hói trán, cặp mắt sâu, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Điểm đáng lưu ý nhất nơi anh là cái miệng. Tôi không biết coi tướng, nên chẳng biết phải diễn tả như thế nào, chỉ biết là có một cái gì không ổn nơi cái miệng đó, vì đôi môi của anh ta hình như chưa được cấu tạo đầy đủ làm môi trên và môi dưới không giáp mí nhau. Đúng ra không phải là cái môi theo nghĩa thông thường, mà là hai mảng thịt mỏng màu đen tái và lúc nào cũng nhơm nhớp nước bọt. Lâu lâu tôi thấy anh ta lè lưỡi liếm nước bọt bám ở hai bên khóe mép.

                            Anh mặc đồng phục màu xanh của tù, chân mang dép râu, cạp quần hai bên hông được lận lên thành một búi như đang giấu hai quả trứng bên trong. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi sau vài giây quan sát là anh này không phải là một tay vừa. Tôi nghĩ, nếu quả thật anh ta được cử làm trật tự thì không dễ thở đâu. Trông anh ta có một cái gì khác cả Phạm Đình Thăng lẫn Trương Văn Phát, và “cái gì khác” đó không hứa hẹn một tương lai sáng sủa nào cho anh em tù kiên giam chúng tôi.  

                            Anh ta cắm cúi cuốc đất, ít khi ngước mặt nhìn lên và cũng chẳng buồn để ý tới chúng tôi đang chen nhau bên trong cửa sổ, đang dí mặt vào các song sắt để theo dõi quan sát anh. Có lúc tôi thấy anh ta dừng tay nghỉ mệt, dựng cái cuốc dưới chân, đứng thẳng người lên, khạc nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay và áp lòng bàn tay kia vào xoa đi xoa lại thật mạnh, tay nọ nắn bóp tay kia, xong lại khom người xuống tiếp tục cuốc đất. Ngay cả những lúc ngừng tay như vậy, anh ta cũng chẳng hề nhìn thẳng vào chúng tôi bên kia song sắt, chỉ cách anh ta chừng một thước tây.

                            Từ bên trong cửa sổ, chúng tôi cố gợi chuyện với anh. Rõ ràng là anh không muốn trả lời, nhưng nhiều người hỏi quá buộc lòng phải đối đáp nhát gừng. Sau một cuộc phỏng vấn với tất cả nhiệt tình của người hỏi và được trả lời một cách miễn cưỡng, chúng tôi được biết anh ta từ trại quân đội ở Yên Bái mới được chuyển về đây ít lâu và vừa được trại cử làm trật tự thay cho Phạm Đình Thăng đã ra về. Anh ta cho biết là người Công giáo ở xứ Gia Cốc, Hố Nai, người Bắc di cư, gốc Địa phận Hải Phòng. Nghe tới hai tiếng Hải Phòng, cha Chu Văn Oanh, một Linh mục lớn tuổi trong buồng tôi mừng rỡ:    

                              - Anh gốc Địa phận Hải Phòng hả? Tôi cũng Hải Phòng nè! Thế anh có biết cha nào gốc Hải Phòng không?    

                            - Cha Bình!

                               Cha Oanh vội rước lời: 

                              - Cha Bình làm quản lý của địa phận Hải Phòng, bây giờ cha đang phục vụ tại Giáo phận Long Xuyên chứ gì?     

                            - Đúng rồi!      

                            Cha Oanh hớn hở:    

                            - Cha Bình là bạn thân của tôi, hai người thân nhau lắm!    

                              Thinh lặng một lúc khá lâu như để lựa lời, một lúc sau anh nói ngắn gọn: 

                                - Cha Bình là chú tôi.   

                               Cha Oanh vui mừng ra mặt:     

                            -Thế thì may quá, không ngờ được gặp cháu cha Bình ở đây. Nếu anh có viết thư, nói tôi là cha Oanh, không, phải nói cha Oánh ngài mới biết, vì lúc bấy giờ tôi tên là Oánh, gửi lời hỏi thăm ngài nhé! Thế anh tên là gì nhỉ?   

                              - Thi! 

                               - Cái gì Thi?   

                            Anh ta ngập ngừng tỏ vẻ hơi khó chịu trước cái cách “thấy sang bắt quàng làm họ” một cách quá lộ liễu của ông Linh mục già này. Nhưng cuối cùng cũng đáp gọn:    

                              - Bùi Đình Thi!   

                            Tôi cũng có chút hơi ngượng trước thái độ cầu thân thái quá của cha Oanh, nhưng trong lòng tôi lúc đó cũng mừng thầm, vì từ nay có một người Công giáo làm trật tự. Anh ta lại có chú làm Linh mục, bạn của cha Oanh, chắc từ nay cảnh sống kiên giam sẽ đỡ hơn, không như tên Phát “vô đạo” hỗn láo, đối xử với chúng tôi thật chẳng ra gì! Ngon đà, cha Oanh còn hỏi thêm mấy câu nữa, nhưng anh ta vác cuốc bỏ đi nơi khác làm cha Oanh cụt hứng.


                            Chọn thế đứng        

                                   Cảnh sống thiếu thốn về vật chất, cộng thêm những khổ ải tinh thần đã làm một số người gục ngã. Cái đói nó hành hạ thân xác chúng tôi một cách triền miên. Gần như tối nào cũng vậy, cứ vào khoảng 9 giờ, lúc nghe chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân qua cái loa trong trại, là tôi cảm thấy cơn đói lên đến cực độ.

                                     Hiện tượng này ngày nào cũng giống nhau. Bắt đầu tôi cảm thấy mệt lả, không còn ngồi được nữa và phải nằm dài xuống, kế đến là ù tai, hoa mắt và mồ hôi toát ra ướt cả lưng, rồi bất tỉnh không còn biết gì. Cũng may, tình trạng này chỉ kéo dài chừng vài ba phút, sau đó tự nhiên tôi cảm thấy trong người khỏe khoắn trở lại, ngồi dậy lau mồ hôi và cơn đói cũng biến mất! Cứ thế, chúng tôi chờ đợi 13 tiếng đồng hồ sau mới được lãnh khẩu phần, mỗi người vài chiếc “ngà voi”! Anh em tù chúng tôi lúc đó hầu như ai cũng biết câu này: “Không ăn thì đói, ăn vào đói hơn!", vì khi ăn vào dạ dầy bắt đầu bị đánh thức và hoạt động, nhưng không có chất liệu gì cho nó làm việc.

                                    Cái đói triền miên, cộng với thái độ hận thù của những người công-an áo vàng và hai anh tù trật tự áo xanh hắc ám, khiến chúng tôi lúc nào cũng cảm thấy ngột ngạt khó thở. Chúng tôi sống mà không có gì trước mắt để hy vọng, không biết ngày mai của mình sẽ ra sao.

                                    Tù chính trị chúng tôi không có tòa nào xử, không có kêu án, nhưng được gọi bằng cái tên rất đẹp là “Tập Trung Cải Tạo”. Nếu ai “cải tạo tốt” sẽ được đảng và nhà nước khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình! Tôi còn nhớ mãi hình ảnh của anh Lâm Thành Văn, người bạn tù cùng buồng, có nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh kéo tôi xuống góc phòng sát vách nhà cầu ngồi hút thuốc lào. Hút xong, hai anh em ngồi nói chuyện rù rì một lát. Lần nào Lâm Thành Văn cũng buồn rầu nói:“Chắc nó giam mình chết rục xương trong tù quá anh Lễ ơi!”

                               Tôi nhớ mãi ba tiếng “chết rục xương” của Văn, mà mỗi lần nghĩ tới tôi vẫn còn xúc động.

                            Riêng số anh em thuộc nhóm 48 Quyết Tiến từ Cổng Trời về, chúng tôi tự biết rõ số phận đã được nhà cầm quyền cộng-sản định đoạt như thế nào rồi. Vì sợ có chiến tranh biên giới nên chúng tôi mới được về đây, bằng không thì giờ này chúng tôi đang chết dần chết mòn ở Cổng Trời. Họ không giết chúng tôi công khai, nhưng họ tha tội chết mà hành tội sống. Mặc dù cán bộ vẫn luôn nói tới tính khoan hồng nhân đạo của đảng, nhưng chúng tôi quá hiểu, đây là một lối tuyên truyền láo khoét để ru ngủ những kẻ nhẹ dạ. Trong cảnh khốn cùng và tuyệt vọng đó, ai cũng mong có ngày về, nhưng mỗi người có một lối suy nghĩ và thái độ khác nhau.

                            Đại đa số sống an phận và để mặc cho số mệnh đưa đẩy, tới đâu thì tới. Một số người cố lập công “cải tạo tốt” để được về sớm bằng cách làm mật báo, theo dõi các anh em trong buồng và trong đội.  Có người đã bày ra những chuyện lếu láo hại anh em. Có người đã thực sự “bán linh hồn”, công khai đứng hẳn về phía cộng-sản và có những hành động còn “cộng-sản” hơn những người cộng-sản bình thường. Một số khác chủ trương phải tìm cách thoát ra được khỏi nơi này mới mong được sống còn, trong số đó có tôi.

                            Chúng tôi đều biết rõ trại Thanh Cẩm nằm trên một ốc đảo, chung quanh núi sông bao bọc, đường ra là độc đạo, nên muốn thoát khỏi chốn này không phải là chuyện dễ. Mấy anh Tàu “gián điệp” bị giam ở nhà kỷ luật rất giỏi về phương hướng và mưu sinh, nhưng lần nào trốn ra cũng bị bắt lại. Tuy nhiên, trong số tù hình sự vượt ngục mà chúng tôi biết từ ngày đến trại Thanh Cẩm cũng có vài người thoát được.

                            Như vậy chuyện trốn thoát khỏi trại Thanh Cẩm không phải là hoàn toàn vô vọng. Chúng tôi biết nếu bị bắt lại, sẽ bị đánh đập và hành hạ dã man, nhưng trong cảnh khốn cùng, tôi nghĩ phải chấp nhận mọi rủi ro. Chúng tôi thường bảo nhau, vượt ngục là đi vào cõi chết để tìm sự sống.


                            “Trung Quốc Vĩ đại!”

                              Đầu năm 1979, chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam lên tới cao điểm. Đêm đêm, cái loa của đài phát thanh trong trại vang lên inh ỏi tin tức chiến sự và những lời chửi bới Trung Quốc. Tiếng chửi bới cứ ra rả ngày đêm rót vào tai chúng tôi. Họ dùng đủ mọi hình thức và mọi kiểu để chửi Trung Quốc, từ tin tức, bình luận, kịch nghệ, âm nhạc v.v... Từ chửi thanh tới chửi tục, kiểu gì cũng có.

                            Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao các thợ viết kịch của chế độ cộng-sản Việt Nam đã sáng tác được những vở kịch chửi Trung Quốc nhanh và hay đến như thế. Những khẩu hiệu ngày trước Hồ Chí Minh dùng để ca ngợi người anh em Trung Quốc “núi liền núi, sông liền sông”, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó, lúc này họ “ca ngợi” Trung Quốc bằng hai câu thơ mà đêm nào chúng tôi cũng nghe trong chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân. Nghe mãi rồi tôi thuộc nằm lòng:

                            “Quốc kỳ là váy đàn bà,    
                                        Quốc huy là cái bội gà mang theo!”

                            Sở dĩ có hai câu thơ hạ cấp ấy vì theo họ nói, lính Trung Quốc đánh tràn qua các làng mạc Việt Nam ở vùng biên giới, đã vơ vét tài sản của dân chúng không chừa một thứ gì, kể cả váy đàn bà và cái bội nhốt gà. Vì thế, Chính phủ Việt Nam nghĩ rằng lính Trung Quốc mang váy đàn bà về làm quốc kỳ thay cho cờ đỏ ở góc có mấy ông sao, và cái bội nhốt gà được sơn lại thành màu đỏ để treo lên tường làm quốc huy!

                            Tôi xin ngả mũ thán phục óc tưởng tượng vô cùng phong phú của những cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đêm đêm nằm nghe chửi kiểu này, tôi mỉm cười nghĩ thầm rằng, may mà các “người bạn Trung Quốc vĩ đại” không hiểu được tiếng Việt, nếu hiểu được chắc họ cũng nhức đầu không kém gì anh em tù Thanh Cẩm chúng tôi. Tôi thấy cách nói “trò hề chính trị” ít có chỗ nào được dùng đúng nghĩa hơn chỗ này!


                            Gặp lại “cố nhân”

                            Cuộc sống của tôi đang đều đều trôi qua một cách nặng nề như thế, thì một ngày kia, vào khoảng tháng 2 năm 1979, có phái đoàn Cục Cảnh-sát vào thăm khu kiên giam trong giờ ăn trưa. Phái đoàn chừng bốn, năm người mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay, quần màu vàng, áo bỏ ngoài quần, đầu đội nón cối, vai mang sắc-cốt. Mới nhìn qua trông giống như một tốp thợ sửa điện, hoặc mấy ông thợ hoạn lợn mà lúc còn nhỏ tôi thường thấy đi vào làng thiến heo.

                            Họ chỉ trỏ, nói năng gì đó với ông trại trưởng, lúc đó là Thiếu tá Thực, theo hướng dẫn phái đoàn. Ông trại trưởng có vẻ khép nép khi nói năng đối đáp lại. Nhìn thấy thái độ của trại trưởng đối với mỗi phái đoàn, chúng tôi có thể đoán được tầm quan trọng của từng phái đoàn. Thỉnh thoảng có những phái đoàn khác nhau vào thăm trại, nhưng không phải lần nào trại trưởng cũng hướng dẫn. Có khi người hướng dẫn phái đoàn chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ đi theo. Lúc ấy tôi biết ngay đó chỉ là loại phái đoàn loại “dỏm”. 

                              Trưa hôm ấy, như thường lệ sau khi Bùi Đình Thi mở cửa buồng, chúng tôi ra ngoài, người lấy cơm, kẻ quét tước dọn dẹp. Lúc này không còn phải đi đổ các ống bẩu nữa, vì chúng tôi đã được sử dụng cầu tiêu trong buồng. Thông thường như mọi ngày khác, khi anh trật tự mở cửa buồng cho tù ra sân, chúng tôi rất vui vẻ, đi lại nhốn nháo, có khi lợi dụng lúc không ai để ý còn “quan hệ linh tinh” với các anh em buồng bên cạnh. Tuy nhiên, hôm đó mọi chuyện được làm trong bầu khí yên tịnh và trang nghiêm, khác với ngày thường vì đang có phái đoàn Cục Cảnh-sát đứng trong sân quan sát.

                            Nhóm người lạ mặt này đứng yên lặng nhìn chúng tôi mà không hỏi han gì, khiến cho bầu không khí lúc bấy giờ càng trở nên căng thẳng. Lấy thức ăn xong, chúng tôi vào buồng và Bùi Đình Thi đóng cửa, cài then bên ngoài bằng song sắt như thường lệ. Trong lúc anh em đang chia thức ăn trong buồng, nhìn ra ngoài, tôi chợt thấy một người cao lớn mặc sắc phục công-an bước vào sân. Tôi giật mình khi nhận ra Đại tá Hoàng Thanh, một thứ “khắc tinh” của tôi từ nhiều năm qua. Tôi lẩm bẩm một mình:“Gặp lại cố nhân nữa rồi!”

                            Đại tá Hoàng Thanh làm Cục trưởng Cục Cảnh-sát thuộc Bộ Nội Vụ. Lúc ấy ông đã ngoài 50, người cao lớn dềnh dàng nhưng không mập, lưng tôm, mặt bẹt, đôi gò má nhô cao, miệng rộng, các kẽ răng đen lại vì nhựa thuốc lào và chè (trà) đặc. Điểm trái ngược trên khuôn mặt rộng bèn bẹt này, là cặp mắt ti hí thật nhỏ và tròn như mắt loài chồn cáo. Mắt ông ta không bao giờ đứng yên mà lúc nào cũng chao đảo, liếc qua liếc lại. Cho dù thiện ý đến đâu, tôi cũng không thể hình dung được một sự lương thiện tối thiểu nào ẩn nấp đàng sau đôi mắt ấy.

                            Tôi đã từng chạm mặt với Hoàng Thanh nhiều lần ở trại Nam Hà trước khi bị đi đày lên Cổng Trời. Khi nói chuyện với tôi, thỉnh thoảng ông ta có cười nhưng chỉ cười bằng miệng, còn đôi mắt và khuôn mặt không dự phần một chút nào vào tiếng cười ấy. Tôi vẫn ngại tiếng cười của ông ta, loại tiếng cười được phát ra qua kẽ răng khép kín tạo thành một hơi gió xì xì như tiếng rít của loài rắn lục trong đêm.

                            Dưới cái nhìn của tôi lúc đó, Hoàng Thanh là một mẫu cán bộ Việt cộng điển hình, vì trông ông ta rất giống các hình vẽ cán bộ Việt cộng trong các tranh biếm họa ở miền Nam trước kia, nhưng có điểm hơi khác là ông ta thiếu hàm răng vẩu.   Hoàng Thanh dừng lại giữa sân nói gì đó với cán bộ trực trại một chập, rồi cả hai đi thẳng tới cửa buồng 1 của chúng tôi và dừng lại một lúc bên ngoài cửa sắt. Vì cánh cửa che khuất nên tôi không biết ông ta đứng đó làm gì, nhưng tôi đoán là ông ta đang đọc bảng tên dán ở cửa buồng. Linh tính báo cho biết là sắp có chuyện liên hệ đến tôi, nên tôi lo chuẩn bị tinh thần, vì từ trước tới nay, chưa lần nào gặp tôi mà Hoàng Thanh để tôi yên bao giờ.

                            Tôi đoán không sai! Ông ta bước trở ra sân, vẫy tay gọi Bùi Đình Thi lại để mở cửa buồng. Nghe tiếng chìa khóa mở cửa lách cách bên ngoài, trong buồng chúng tôi ngưng chia thức ăn và ngồi cả lên bệ nằm bằng xi-măng. Cửa buồng mở ra, Hoàng Thanh bước vào một mình.

                            Ông ta đi dọc theo lối đi ngắn trước mặt chúng tôi một cách chậm rãi có chủ ý. Chúng tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo quy định và ngồi yên chờ đợi. Ông ta bước chậm, hai tay chắp sau lưng và nhìn thẳng vào mặt từng người chúng tôi, như một ông tướng đang duyệt qua hàng quân của mình. Bầu không khí trong phòng lúc đó trở nên nặng nề và căng thẳng khác thường.

                            Từ lúc bước vào buồng, Hoàng Thanh không nói một lời nào. Khi đi tới cửa cầu tiêu ở vách bên trong, ông ta quay trở ra, gần tới cửa buồng. Tôi mừng thầm nghĩ bụng, như vậy chắc là xong, lần này chẳng có việc gì xẩy ra. Nhưng khi ra tới cửa, bất ngờ ông ta quay lại, chỉ thẳng vào tôi và hất hàm hỏi bằng cái giọng khàn khàn quen thuộc:   

                              - Anh mang kính ngồi trong cùng kia có phải là anh Nguyễn Hữu Lễ không?

                                Tuy trong lòng đang lo ngại, nhưng tôi đáp lại thật gọn và rõ ràng:

                               - Báo cáo cán bộ, đúng, tôi là Nguyễn Hữu Lễ. 

                                 Ông ta nhếch mép cười, vẫn cái cười cố hữu mà tôi e ngại, nhẹ nhàng nói:   

                              - Tôi cũng định hôm nào rảnh, mời anh lên để chúng ta nói lại một chút về vụ tàu Sông Hương, anh Lễ nhé!       

                            Nói xong ông ta bỏ đi ra cửa, không đợi tôi trả lời. Tôi ngồi lặng yên và bàng hoàng khi nghe Hoàng Thanh nhắc tới vụ tàu Sông Hương và nghĩ bụng, “thế là tên cáo già này chưa buông tha mình!”


                            nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
                            dactrung.com
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.02.2007 16:29:03 bởi sóng trăng >
                            #14
                              sóng trăng 03.02.2007 14:54:51 (permalink)
                              .
                               
                              7
                              Cái Giá của Tự Do



                                                                        
                              Lúc này số người trong buồng 1 khu kiên giam đã thay đổi, không còn là số người hai tháng về trước. Việc xáo trộn người qua lại giữa các buồng tại khu kiên giam, cũng như ở khu kỷ luật là biện pháp của trại, đề phòng các tù nhân cấu kết nhau để tổ chức vượt ngục. Các anh em dưới “làng” lâu lâu cũng bị đổi buồng như vậy. Việc phân tán này không theo một quy luật thời gian nhất định nào, nhưng thường là cứ vài ba tháng đổi buồng một lần, nhưng nếu buồng nào có dấu hiệu gì khả nghi, sẽ bị đổi nhanh hơn. Sống chung trong buồng 1 với tôi lúc bấy giờ có những người sau đây:

                                   - Anh Nguyễn Sỹ Thuyên, ngoài 50 tuổi, người lớn tuổi nhất trong buồng, nguyên là giáo sư dạy toán tại nhiều trường trung học ở Sài-Gòn. Anh là người có tinh thần quật khởi, lại có tài làm thơ và có nhiều bài thơ Đường rất hay. Anh cũng là người bạn tù lâu nhất của tôi trong buồng này. Chúng tôi bị giam chung với nhau ngay từ trại Gia-Ray ở trong Nam, đi chung chuyến tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung tại trại Nam Hà, cùng bị đày lên Cổng Trời và cùng trong Nhóm 48 Quyết Tiến chuyển về trại này.  

                                 - Anh Trịnh Tiếu, 51 tuổi, Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Anh đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn II, Tỉnh trưởng cuối cùng của tỉnh Ban Mê Thuột. Tôi gặp anh Tiếu tại trại Cổng Trời. Anh từ một trại ở miền Trung bị đưa lên đó sau tôi ít lâu và cùng chuyển về trại Thanh Cẩm trong nhóm 48 Quyết Tiến. 

                                  - Anh Đặng Văn Tiếp, 46 tuổi, Thiếu tá Không quân QLVNCH, sau đó làm Dân Biểu Quốc Hội. Anh là người anh kết nghĩa với tôi từ trên trại Cổng Trời. Anh Tiếp hiểu biết rộng và có nhiều kinh nghiệm chính trường. Vào tù, anh vẫn giữ thái độ hiên ngang bất khuất. Anh đã lãnh đạo cuộc chống đối trong trại Hà Tây và là một trong những tù chính trị miền Nam bị đày lên Cổng Trời sớm nhất. 

                                   -Anh Lâm Thành Văn, 40 tuổi, chủ xe đò chạy đường Sài Gòn - Đà Lạt, bị bắt vì tham gia tổ chức Phục Quốc. Anh Văn đã ở trại Thanh Cẩm khá lâu và bị lên kiên giam trước khi chúng tôi từ Cổng Trời chuyển tới đây.  

                                 - Linh mục Nguyễn Công Định, 45 tuổi, Tuyên úy Quân Đội tại Cần Thơ. Tôi cũng gặp cha Định tại Cổng Trời. Ngài từ trại Quân đội Yên Hạ chuyển lên đó cùng với một số Linh mục Tuyên úy khác sau tôi ít lâu. Cha Định cùng về trại này một lượt với tôi.   

                                  Tôi là người trẻ tuổi nhất trong buồng với 36 tuổi đời. Trong tù, anh em thường gọi tôi cách thân mật của người miền Nam là “cậu Bảy” theo thứ tự anh chị em trong gia đình. Một phần cũng tránh lối xưng hô theo tước vị tôn giáo không phù hợp trong hoàn cảnh này.    

                                  Tối hôm ngày chạm mặt bất ngờ với Đại tá Hoàng Thanh, tôi cảm thấy bất an trong lòng về một viễn ảnh đen tối đang chờ đợi tôi. Vụ âm mưu đánh cướp tàu Sông Hương chở tù nhân ra miền Bắc là một bản án treo của tôi. Mặc dù đã hai năm qua rồi, nhưng tôi biết cán bộ còn đang điều tra ráo riết về vụ này. Vụ tàu Sông Hương là một điểm “chạm nọc” trong tâm trí tôi. Mỗi lần nghe cán bộ nhắc tới, tôi cảm thấy lo âu cho tương lai của mình.

                              Từ lâu nay, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn những câu trả lời trong trường hợp bị thẩm vấn về vụ này. Nếu không chối được thì tôi sẽ nhận lãnh hết mọi trách nhiệm trong âm mưu này để những anh em khác khỏi bị liên lụy vào. Tôi cũng biết là hình phạt dành cho tôi cũng sẽ tương xứng với tính cách nghiêm trọng của những việc tôi đã làm trong chuyến tàu đó. Tôi bàn riêng với anh Đặng Văn Tiếp, người anh kết nghĩa với tôi, về thái độ của Đại tá Hoàng Thanh và chia sẻ với anh một tương lai đen tối đang chờ tôi.

                              Anh Tiếp hiểu được tâm trạng của tôi vì ở trại Cổng Trời chúng tôi thường xuyên bàn định về con đường phải đi trong tương lai. Anh cũng biết số phận mà chế độ này sẽ dành cho anh, sau những hành động chống đối có tính cách bạo động của anh tại trại Hà Tây, nhất là sau vụ anh tổ chức lễ tang và đọc điếu văn tưởng niệm Luật sư Trần Văn Tuyên qua đời trong trại tù Hà Tây, vì anh Tiếp là một luật sư và ông Trần Văn Tuyên là thủ lĩnh luật sư đoàn trước kia. Đây là hành động mang màu sắc chính trị, một điều tối kỵ trong nhà tù cộng-sản.

                              Cả hai anh em tôi bàn đi tính lại nhiều lần trong những ngày tiếp theo và cảm thấy đã đến lúc phải tìm mọi cách thoát ra khỏi nơi này, điều mà chúng tôi ấp ủ từ lâu. Nếu thoát được, cuộc đời chúng tôi sẽ có nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Nếu chẳng may thất bại, chúng tôi sẽ phải trả một giá đắt. Điều này chúng tôi biết rất rõ và chấp nhận.  

                               Anh Đặng Văn Tiếp là một luật sư, nguyên là Thiếu tá Không Quân QLVNCH. Sau khi giải ngũ, anh đã ứng cử Dân Biểu Quốc Hội đơn vị Tân Bình, tỉnh Gia Định và là Dân Biểu thuộc phe đối lập trong Quốc Hội cho tới ngày 30.4.1975. Trước kia tôi có gặp anh vài lần khi hoạt động trong Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh. Vào tù, chúng tôi gặp lại nhau ở trại Cổng Trời. Anh lên trại này trước tôi vài tháng. Lúc bấy giờ anh là một trong những người mà tôi mến phục vì anh là người có tư cách, hiểu biết rộng, từng trải việc đời và có khí phách hiên ngang. Tôi mến anh vì đức, kính trọng anh vì tài, và chúng tôi gặp nhau nơi ý chí kiên cường bất khuất ngay trong ngục tù cộng-sản.

                              Từ những điểm tương đồng và thái độ tương kính đó, chúng tôi dần dần thân thiết nhau và kết nghĩa anh em. Tôi nhận Tiếp là anh vì anh lớn hơn tôi đúng 10 tuổi. Con người nghĩa khí đó lại cũng vừa là người con chí hiếu, một người bạn tình chung thủy. Anh thường nói chuyện với tôi về người mẹ mà anh rất yêu quý và những kỷ niệm thật đẹp giữa anh và chị Huyền Thanh, người mà anh đã chuẩn bị để cưới làm vợ. Từ ngày gặp nhau trên trại Cổng Trời, anh Tiếp và tôi đều nghĩ rằng, chỉ có một cách duy nhất để sống còn là vượt ngục, vì chúng tôi biết nhà cầm quyền cộng-sản đã quyết định cho chúng tôi chết dần chết mòn trong trại tù. Câu nói ngắn gọn của Đại tá Hoàng Thanh càng tô đậm thêm cái tương lai vốn đã đen tối của tôi và khơi dậy một cách mãnh liệt ý định vượt ngục luôn luôn lảng vảng trong đầu óc tôi.

                              Khi còn ở Cổng Trời chúng tôi cũng đã một lần có ý định vượt ngục qua Trung Quốc, nhưng không thực hiện được vì bất ngờ bị đổi buồng ngay trong buổi trưa, trước đêm chúng tôi dự định hành động.  Biết rằng đây là việc vô cùng nguy hiểm, và tôi đã từng chứng kiến cái giá mà những người vượt ngục thất bại đã phải trả như thế nào, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận trả cái giá đó.


                              Vượt ngục và vượt ngục!

                              Lúc đang ở khu kiên giam tại trại Thanh Cẩm, tôi vẫn luôn có ý định vượt ngục. Tuy nhiên, vượt ngục từ khu kiên giam trại Thanh Cẩm quả thực là chuyện quá khó khăn vì có nhiều yếu tố bất lợi. Ngoài yếu tố nội tại với thân thể gầy còm, ốm yếu do thiếu dinh dưỡng sanh ra bệnh tật, cộng thêm buồng giam xây dựng kiên cố và chẳng có một thứ gì bằng kim loại trong buồng. Yếu tố ngoại tại cũng không kém phần khắc nghiệt.

                              Bên ngoài là 2 lớp hàng rào kẽm gai của khu kiên giam và cuối là bức tường cao bằng đá xanh, cao quãng 5 thước chung quanh trại, trên mặt tường là một hàng rào kẽm gai cao khoảng 1 thước. Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết trước khi bắt tay vào việc. Trước tiên là phải thuyết phục để sáu người trong buồng đều đồng ý, nếu ai yếu quá không thể tham gia được, phải làm sao bảo đảm cho họ ở lại mà không bị hành hạ và ngược đãi.

                              Anh Tiếp và tôi bắt đầu bằng việc thăm dò tư tưởng của từng người, phải rào trước đón sau rồi mới dám gợi ý, vì nhỡ có ai không đồng ý và báo cáo ý định vượt ngục với cán bộ, lúc đó tai họa sẽ không lường được. Vì sống với nhau đã lâu, chúng tôi cũng đã một phần nào đoán biết được tâm trạng của nhau nên bắt đầu với những người có nhiều hy vọng nhất.

                              Khi nghe chúng tôi bày tỏ ý định, hai anh Nguyễn Sỹ Thuyên và Trịnh Tiếu đồng ý ngay, nhất là anh Thuyên rất mừng rỡ. Anh nói với chúng tôi:“Trời! Tôi đã mong ước chuyện này từ lâu! Tôi cám ơn hai ông rất nhiều”. Riêng anh Lâm Thành Văn còn lưỡng lự vì anh đang đau dạ dày khá nặng, nhưng cuối cùng rồi cũng đồng ý sau khi anh em hứa nâng đỡ nhau trên đường trốn thoát. Chúng tôi gặp trở ngại với cha Nguyễn Công Định, ngài nhất định không tham gia. Sau khi nghe tôi đề cập tới vấn đề này một cách bóng gió, nửa đùa nửa thật, cha Định trả lời tôi dứt khoát: 

                                  - Chừng nào được gọi tên là về, tôi không đi đâu cả, dù cửa mở cũng không đi đừng nói trốn! 

                                   Tôi hỏi lại:     

                                   - Nhưng nếu năm người chúng tôi đi cả thì bác tính sao?  

                                  Tưởng là tôi nói đùa, ngài trả lời:  

                                 - Các người đi thì cứ đi, tôi ở lại một mình chứ sao!    

                                  - Rồi bác trả lời sao với cán bộ?

                                  - Trả lời sao kệ tôi! 

                                   Thấy câu chuyện đã đi vào ngõ cụt, tôi cười giả lả:

                                   - Không đơn giản như bác nói đâu, nhưng mà này, nói chơi đấy nhá! 

                                Chúng tôi gặp trở ngại khá lớn đầu tiên khi cha Định quyết tâm ở lại. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn lén lút chuẩn bị những gì có thể làm được. Lúc bấy giờ còn phải đề phòng cán bộ và trật tự bên ngoài, và trong buồng phải làm sao cho cha Định thấy như không có chuyện gì sắp xẩy ra. Chúng tôi nghĩ rằng cha Định không hại chúng tôi, nhưng thái độ có vẻ lo lắng hay một lời nói vô tình nào đó của ngài có thể làm cho cán bộ và trật tự nghi ngờ có âm mưu trốn trại, lúc đó thì mọi chuyện sẽ hỏng khi chưa bắt đầu và hậu quả không lường được.
                                 
                                  Không có cách nào khác hơn, nên năm người trong buồng quyết định vượt ngục, còn cha Định ở lại. Vấn đề là bàn tính với nhau xem cách nào hay nhất để giúp cha Định không bị tra tấn đánh đập sau khi chúng tôi trốn đi. Về thời điểm vượt ngục, chúng tôi đồng ý chọn ngày N là mồng 1 tháng 5 năm 1979. Ngày đó là ngày lễ Quốc Tế Lao Động, cả trại được nghỉ. Hơn nữa, theo kinh nghiệm chúng tôi biết thì hôm đó cán bộ được một bữa “bồi dưỡng”. Họ sẽ đánh chén say sưa và chểnh mảng trong việc canh gác ban đêm.

                              Dụng cụ đào tường

                              Về dụng cụ đào tường, chúng tôi chỉ có một miếng sắt giẹp thật cứng, dài độ 20 phân được mài nhọn như cái đục. Đây là dụng cụ chủ yếu và duy nhất mà chúng tôi có trong tay để thực hiện cuộc vượt ngục. Dĩ nhiên là không có dụng cụ này thì đã không có kế hoạch tiếp theo. Miếng sắt này hình thù giống như ngọn giáo, gắn ở cánh cửa vào cầu tiêu. Một đầu có lỗ tròn nhỏ để xỏ vào khoen sắt có đầu nhọn như cây đinh đóng vào cánh cửa gỗ nhà cầu. Cây đinh dài ló đầu nhọn ra phía sau cánh cửa rồi bẻ gập lại, đầu kia của miếng sắt có xẻ rãnh rộng 1 phân dài 3 phân ở giữa để khi đóng cửa sẽ ập vào một thanh sắt hình chữ U gắn trên bờ tường, lúc  đó thanh sắt hình chữ U sẽ nhô ra chui ngang khe  rảnh của miếng sắt và có ống khóa bóp lại ở phần bụng của chữ U bên ngoài và cánh cửa không còn  mở ra được.

                              Khi chúng tôi mới tới, cửa nhà cầu bị khóa lại và tù nhân phải đại tiểu tiện trong các ống bẩu bằng tre dựng bên ngoài cửa nhà cầu như tôi đã nói ở trên. Một thời gian sau cửa vào cầu tiêu được mở và chúng tôi sử dụng cầu tiêu qua một lỗ tròn có cái mẹt chứa phân bên dưới. Mỗi ngày có một anh tù mở cửa gỗ phía sau nhà, vào hầm gánh phân ra cung cấp cho đội trồng rau xanh.

                              Từ khi cửa được mở ra  thì miếng sắt được treo lơ lửng vô dụng trên cánh cửa vào nhà cầu. Miếng sắt màu đen vô tội được đóng vào cánh cửa nhà cầu này vô tình trở thành cơn cám dỗ và cũng dự phần rất lớn vào việc thúc đẩy tôi thực hiện ý định vượt ngục. Ngay trong ngày đầu khi cửa vào cầu tiêu không còn khóa lại và thấy miếng sắt treo lơ lửng trên cánh cửa gỗ tôi đã  nghĩ:“Tại sao mình không dùng miếng sắt trời cho này để đào tường vượt ngục?”

                              Khi quyết tâm thực hiện kế hoạch vượt ngục thì việc đầu tiên là chúng tôi lén lút tháo miếng sắt ấy ra, mài cho bén và gắn hờ trở lại chỗ cu,õ để khi hành động thì tháo ra dễ dàng. Nhưng cái khoen sắt có đầ nhọn như cây đinh, đóng vào cánh cửa để treo miếng sắt giẹp này lại to như chiếc đũa, và phía đầu nhọn ló ra sau cánh cửa được đóng gập lại rất chắc. Muốn lấy được miếng sắt giẹp này thì việc đầu tiên là phải làm sao kéo thẳng đầu nhọn của cây đinh, đóng gập sau cánh cửa ra mới cầm miếng sắt giẹp xoay tròn và rút ra được.

                              Trong hoàn cảnh khu kiên giam, chúng tôi không được giữ bất cứ một thứ gì là kim loại trong buồng, thì việc kéo thẳng đầu một cây sắt to bằng chiếc đũa đóng gập vào phía sau cánh cửa gỗ không phải là chuyện đơn giản. Nhìn qua ngó lại, tôi thấy chỉ còn sót lại hai thứ bằng kim loại là chiếc muỗng nhôm tôi cố gắng giấu được qua bao nhiêu lần khám xét và một vật bằng kim loại hợp pháp khác là cái quai xách của lon Guigoz đựng nước uống của anh Lâm Thành Văn, làm bằng ruột dây kẽm gai.

                              Anh Lâm Thành Văn ở khu kiên giam này trước chúng tôi và không hiểu vì lý do gì anh còn giữ được cái quai xách bằng dây kẽm này trong khi mấy anh em chúng tôi lên sau đã bị tháo vất đi hết và chúng tôi phải xé dây bao cát ra để làm quai xách cột trên miệng lon Guigoz khi lấy nước sôi.

                              Cái quai xách lon nước uống của Văn vô tình trở nên của quý! Chúng tôi tháo đoạn dây thép ấy ra, mài cho thật nhọn và nhủi một đường trên cánh cửa gỗ chui  lòn bên dưới đầu nhọn gập lại của cây sắt. Sau khi xỏ lòn được đoạn dây kẽm bọc ra phía sau cây sắt, chúng tôi nối đoạn dây kẽm lại thành một khoen  tròn và dùng thế đòn bẩy nại cây đinh thẳng ra! Vấn đề khó khăn coi như được giải quyết.

                              Sau đó chúng tôi tháo miếng sắt giẹp ra, mài đầu kia thật bén như dao và hơ khói cho đen lại, rồi gắn trở lại cánh cửa coi như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên là việc này chúng tôi phải giấu cha Định. Thời gian tiếp theo, miếng sắt vẫn treo lơ lửng trên cửa và từ cán bộ tới trật tự chẳng ai để ý gì tới cái miếng sắt nhỏ vô tội này. Nhưng nhóm chúng tôi, đặc  biệt là cá nhân tôi thì không hiểu tại sao, cứ thỉnh thoảng tôi lại đưa mắt liếc nhìn miếng sắt đó, dù không muốn nhìn nhưng vẫn cứ phải nhìn!

                              Lúc bấy giờ chúng tôi cũng đã bảo nhau, nếu bất ngờ bị đổi buồng thì coi như không có gì xảy ra, còn trong trường hợp cán bộ hay trật tự phát giác ra miếng sắt bị tháo ra và mài nhọn, chúng tôi chỉ việc bày tỏ thái độ “vô cùng ngạc nhiên” là xong. Vì buồng này đâu có phải chúng  tôi là những người chiếm ngự đầu tiên! Vả lại khi đưa chúng tôi vào buồng này có ai để ý gì hoặc là chụp hình vị thế của miếng sắt vô tội vạ ấy đâu.

                              Với miếng sắt nhọn và bén như lưỡi dao này, chúng tôi đã tạm yên tâm về dụng cụ đào tường, vì trong hoàn cảnh đó không thể tìm được thứ gì tốt hơn! Ngoài ra, còn có một cái muỗng bằng nhôm cũng có thể có chút giá trị nào đó, mặc dù chúng tôi biết là dụng cụ bằng nhôm rất mềm, nhưng đó là dụng cụ bằng kim loại duy nhất, sau miếng sắt “báu vật” mà chúng tôi đang có.

                              Về địa điểm để đào tường, sau khi đã nghiên cứu từng nơi từng chỗ và quan  sát trong ngoài cẩn thận, chúng tôi thấy không còn chỗ nào tốt hơn là vách tường sau của cầu tiêu thông ra cái hầm chứa phân. Hầm này nằm bên dưới cầu tiêu của 4 buồng kiên giam và ăn thông ra phía sau của khu nhà bằng, bởi một con đường, chỉ rộng chừng một thước rưỡi như một cái rãnh nằm giữa hai buồng phía sau, vừa đủ cho người tù vào hầm gánh phân ra. Hầm chứa phân có một cánh cửa bằng gỗ chắc chắn, ban ngày mở ra nhưng chiều tối khi điểm danh được khóa lại.

                              Khu Nhà Bằng  được xây dựng như chiếc bánh chưng được cắt làm tư nhưng hai buồng sau hẹp hơn hai buồng trước một chút vì bị xén đi mỗi bên một ít để làm cái rãnh thông vào buồng chứa phân này. Theo dự trù, sau khi chúng tôi đào xong bức tường sau của vách cầu tiêu, sẽ chui ra và lọt được vào hầm chứa phân. Xong lại phải đào bật tung bản lề cánh cửa gỗ của hầm chứa phân rồi mới có thể bò theo con hẻm giữa hai buồng phía sau, lần tới chân bức tường rào của khu, sau khi vượt qua bức tường này mới ra tới chân của bức tường xây bằng đá xanh cao 5 thước, có hàng rào kẽm gai cao quãng 1 thước ở bên trên. Bức tường trại này chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại nơi có lính canh gác ngày đêm . Cổng trại cũng là nơi ở và làm việc của cán bộ trực trại.

                              Nói tóm lại, nếu muốn thoát được ra bên ngoài, chúng tôi phải làm sao vượt qua được 4 trở ngại sau đây: bức tường bằng gạch phía sau cầu tiêu, cách cửa gỗ chặn lối ra vào của hầm chứa phân, bức tường thấp của khu kiên giam, và cuối cùng là bức tường bằng đá xanh của trại, cao 5 thước.

                              Từ khi có ý định đào tường vượt ngục, chúng tôi để tâm quan sát khu vực này và thăm dò tìm hiểu nơi các anh tù hình sự trong đội xây dựng đang xây cất khu nhà kỷ luật gần bên. Chúng tôi cũng dò hỏi mấy anh tù gánh phân thật cẩn thận về hình dạng, cách cấu trúc và giờ giấc  đóng mở cửa của hầm chứa phân. Nói tóm lại chúng tôi điều nghiên vấn đề này, ngay tới cả những chi tiết nhỏ nhất theo cách thức và hoàn cảnh lúc bấy giờ cho phép.

                              Sau khi tìm hiểu những dữ kiện cần thiết, chúng tôi vẽ ra một bản đồ chi tiết bằng cách lấy than vạch lên bệ nằm để anh em cùng nghiên cứu, nhưng việc nghiên cứu bản đồ này cũng phải giả vờ như anh em ngồi xúm lại chơi cờ tướng trong lúc cha Định ngủ trưa để tránh sự nghi ngờ của cha Định.

                              Từ khi bắt đầu thai nghén kế hoạch cho tới ngày N (1-5-1979) chúng tôi có 2 tháng để điều nghiên và chuẩn bị. Có hai việc phải làm cùng một lúc là vừa âm thầm chuẩn bị dụng cụ, thăm dò tìm hiểu tất cả những chi tiết liên quan tới cuộc vượt ngục lại vừa phải canh chừng, đề phòng và khéo léo làm sao để cha Định không nghi ngờ và đoán biết ý định của 5 người chúng tôi. Công việc sau này là việc khó nhất vì trong một căn buồng giam nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cho 6 người nằm trở đầu ngược nhau mà chúng tôi phải giấu cha Định mọi chuyện, từ lời nói tới các việc làm và cả ánh mắt cái nhìn nữa.

                              Hàng ngày tôi vẫn có thói quen ngồi bên cửa sổ nhìn lên trốc bức tường đá xanh, bao chung quanh trại và điều nghiên việc làm thế nào để có thể vượt qua bức tường đó một cách an toàn cho cả 5 người chúng tôi. Nếu chỉ riêng cá nhân tôi và anh Tiếp với anh Tiếu thì không đến nỗi nào, nhưng có anh Thuyên khá lớn tuổi và nhất là Lâm Thành Văn lại yếu vì chứng đau dạ dày, cần sự nâng đỡ của anh em trong nhóm nhiều hơn. Hàng ngày tôi vẫn ngồi ngước mắt nhìn bờ tường nhưng khi thấy cha Định tới gần là tôi phải quay đi giả vờ đứng bên cửa sổ hít thở không khí và làm như không có chuyện gì xảy ra.

                              Phải nói là trong 2 tháng trời đó, anh Tiếp và tôi là người anh em giao cho công việc điều nghiên và chuẩn bị, chúng tôi đã phải vận dụng hết khả năng, tìm tòi, óc sáng kiến, óc tưởng tượng cho kế hoạch đầy nguy hiểm này. Sự có mặt của cha Định đã làm cho công việc trở nên khó khăn gấp bội. Trong buồng chúng tôi vẫn phải giữ nhịp độ sinh hoạt bình thường như chơi cờ tướng, cờ domino. Vì không thể tìm đâu ra quân cờ thật nên chúng tôi dùng giấy vẽ chữ các quân cờ tướng và các điểm tròn của cờ domino để chơi giải trí và cho qua thời giờ. Khi cần trao đổi câu chuyện liên quan tới kế hoạch chúng tôi đợi lúc xuống sông Mã tắm giặt mới đứng gần nhau mà nói chuyện rù rì. Có những lần lợi dụng trong lúc phát thức ăn chúng tôi được vài phút ra sân làm vệ sinh mới có thể lén lút trao đổi vài câu chuyện.

                              Cũng may buồng giam có cánh cửa ngăn cách với khu vực có cầu tiêu và bể chứa nước bên trong nên có cần bàn việc gì chúng tôi đợi lúc cha Định ngủ mới lén vô cầu tiêu mà bàn chuyện. Suốt trong hai tháng trời đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và dự trù những chuyện có thể xảy ra, kể cả những chi tiết nhỏ nhất cũng được đặt ra, lại phải phân công nhau ra dòm chừng cha Định. Vì tính cách quan trọng của cuộc vượt ngục nên chúng tôi dồn hết tâm trí và sức lực để chuẩn bị các thứ cần thiết. Chúng tôi đang sắp sửa chơi một canh bạc lớn, và trong canh bạc này, chính mạng sống của chúng tôi được đặt xuống chiếu bạc trước mặt.


                              Dốc tâm chuẩn bị

                              Có quá nhiều chi tiết phải làm trong thời gian chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh này. Chúng tôi phân công mỗi người lo một việc, nhưng luôn hội ý với nhau xem công việc tiến triển ra sao và có gì khó khăn phải giải quyết. Có hai kế hoạch được đặt ra. Kế hoạch một là nếu thoát ra được bên ngoài trước nửa đêm, chúng tôi sẽ đi vào rừng về hướng Tây qua biên giới Lào, để rồi từ đó tìm đường qua Thái lan. Kế hoạch hai, nếu bị trở ngại và ra bên ngoài muộn, chúng tôi sẽ xuôi dòng sông Mã để ẩn nấp, chờ dịp tốt sẽ đi vào rừng.

                              Chúng tôi quyết định nếu ra ngoài được chỉ có hướng đi duy nhất là đi băng qua rừng để tới đất Lào, rồi từ lào tìm qua Thái Lan. Theo kế hoạch đó, yếu tố thời gian thật vô cùng quan trọng, phải cố gắng vượt qua  được biên giới Việt-Lào cách trại 30 cây số càng sớm càng tốt, vì chúng tôi không thể nán ở lại sống trà trộn trong dân chúng tại miền Bắc được.

                              Khi còn ở trại Cổng Trời, chúng tôi đã học được kinh nghiệm của mấy anh em tù Biệt Kích là những người được huấn luyện kỹ lưỡng để thả ra Bắc, nhưng cuối cùng cũng bị dân chúng phát giác. Điều trở ngại đầu tiên là giọng nói giữa hai miền Nam-Bắc khác nhau quá xa, vừa mở miệng ra là người khác sẽ biết ngay người đó ở vùng nào trên đất nước! Hơn nữa, dân chúng trong vùng Thanh Hóa này, nhất là những người Mường ở chung quanh trại Thanh Cẩm này rất  nghèo và mỗi lần bắt được tù vượt ngục, họ được thưởng công rất hậu hĩnh. Họ được thưởng gạo, rượu và bằng khen.

                              Gạo và rượu dĩ nhiên rất quý báu đối với người dân thiếu ăn gần như quanh năm trong vùng núi đá và thiên nhiên rất khắc nghiệt này, nhưng thức ăn chỉ có giá trị tạm thời. Riêng  bằng khen mới là điều người dân trong vùng mơ ước vì có giá trị về lâu về dài. Trước tiên là được miễn góp ngày công lao động cho hợp tác xã, sau đó còn được ưu tiên trong những đợt cấp phiếu mua nhu yếu phẩm trong các dịp Tết hoặc trong những đợt mua hàng tiêu chuẩn bất thường khác trong năm. Nói tóm lại, công việc bắt tù vượt ngục là một nghề tay trái kiếm ăn rất khá của dân chúng trong vùng rừng núi chung quanh trại.

                              Vì thế khi vừa nghe 3 tiếng súng báo động cho biết có tù vượt ngục, là mạnh ai người ấy chạy đi săn lùng. Có người còn mang bao tải theo sẵn để bắt được tù là có ngay 30 ký gạo của trại tù thưởng công, mang về cho gia đình ăn bữa cơm tiếp theo. Tôi còn nghe nói ở những trại chỉ có tù hình sự mà thôi thì phần thưởng không đáng gì, nhưng các trại giam tù chính trị miền Nam như trại Thanh Cẩm thì việc bắt được tù vượt ngục quả là niềm mơ ước thường xuyên của dân chúng. Biết như vậy nên chúng tôi quyết định nếu thoát ra ngoài được là phải trốn biệt trong rừng, tránh tiếp xúc với bất cứ một con người nào khi còn trên phần đất quê hương.

                              Điều an ủi là vùng rừng núi hiểm trở này dân cư rất thưa thớt và đa số là người dân tộc thiểu số, những người có truyền thống chịu đựng sự khắc nghiệt của con người và của thiên nhiên.  Người dân trong vùng phần đông sống bằng nghề trồng trọt và đốn củi rừng. Những anh tù hình sự cho biết, chung quanh trại và cả đi sâu vào rừng cũng có những nương sắn nương khoai của dân chúng.

                              Có khi họ chỉ trồng xuống rồi phó mặc cho thiên nhiên, tới ngày thu hoạch thì vác mai, vác cuốc vô rừng đào khoai giở sắn mang về. Có khi thu hoạch được khá nhưng phần đông đã bị tàn phá bởi thiên nhiên, bởi thú rừng và nhất là bởi đám tù tự giác hình sự. Dĩ nhiên là khi trù tính kế hoạch vượt ngục và việc mưu sinh thoát hiểm, chúng tôi cũng nghĩ tới các ruộng trồng khoai sắn này.

                              Nếu trường hợp phải trốn xuống sông Mã, chúng tôi phải đề phòng dân đánh cá trên sông. Trại Thanh Cẩm nằm trên vùng thượng nguồn sông Mã nên cá chẳng có bao nhiêu. Về mùa nắng, nước sông rất cạn và chảy lờ đờ có chỗ còn lòi cả đá ở đáy sông lên. Lúc bấy giờ chỉ có loại cá nhỏ như cá mương. Dù vậy khi có mưa, nước sông sẽ dâng lên rất nhanh vì bao nhiêu nước trên rừng đổ xuống. Nếu hôm nào mưa to thì nước sẽ dâng thật cao, cao gần tới bờ sông và nước đổ xuôi dòng mạnh như thác, mang theo cây cối, gỗ lạc, gia súc, có khi cuốn băng cả ghe xuồng nhà cửa của dân chúng ở hai bên bờ sông.

                              Sau những lần mưa to, sông có nhiều nước và cá mương cũng nhiều, đó là lúc người dân đánh cá hoạt động khá nhiều trên sông. Cá mương là loại cá nhỏ, chỉ to bằng ngón tay, đi từng đàn và tìm thức ăn trên mặt nước. Người dân đánh cá mương phải phối hợp đi trên hai chiếc thuyền, một lớn, một nhỏ. Thuyền lớn một người chèo và một người điều khiển cái vó trước mũi (Vó là tấm lưới có hai càng căng ra), còn thuyền nhỏ có người chèo và một đứa trẻ con ngồi cầm chiếc mõ bằng ống tre.

                              Khi người bên thuyền lớn hạ vó xuống nước thì  thuyền nhỏ chèo ra xa trước mũi thuyền nhỏ, trong khi đứa bé cầm mõ ghe gõ lóc cóc, lóc cóc liên hồi để đuổi đàn cá mương chạy vào vó và người bên thuyền lớn cất vó lên. Có những lúc trúng, cũng được khá nhiều cá trong mỗi lần cất vó, nhưng thường thì chỉ được dăm ba con, có khi chẳng có con nào!

                              Vì trại Thanh Cẩm nằm không xa bờ sông Mã bao nhiêu, nên những tiếng mõ lóc cóc của người dân đánh cá mương trở thành âm thanh quen thuộc đối với chúng tôi. Nhất là về đêm, tiếng mõ càng vang xa nghe rõ mồn một, như một điệu nhạc buồn trên sông Mã, lúc nào cũng chỉ có hai nốt: lóc cóc, lóc cóc, lóc cóc!

                              Có những đêm về sáng, tôi nằm trong kiên giam nghe văng vẳng tiếng mõ của người đánh cá mương trên sông, hòa lẫn với tiếng kêu gọi sáng của loài chim rừng lúc nào cũng 4 tiếng đi liền mà anh em tù chúng tôi nghe là chim “bắt cô trói cột, bắt cô trói cột!”. Rồi tới  giờ, lại có  thêm tiếng cồng trại tập trung phát ra từ thanh sắt gõ vào cái vỏ bom sắt treo bên ngoài cổng trại, đánh thức tù dậy đi lao động. Ba thứ âm thanh đó hòa lại với nhau vọng tới tai người tù biệt xứ, như một bản hợp tấu thật não nề,  giữa núi rừng Thanh Cẩm!

                              Song song với chi tiết vượt ngục, chúng tôi cần phải có một thang dây để leo qua bờ tường đá cao 5 thước bao quanh trại. Sở dĩ chúng tôi cần thang dây vì anh Lâm Thành Văn lúc bấy giờ khá yếu, không thể bám dây cột gút để leo lên tường cao như các anh em khác. Một vấn đề được đặt ra là làm thế nào móc được thang dây trên trốc bức tường, trong khi chúng tôi ở khu kiên giam này không “một tấc sắt trong tay”!

                              Lúc đó tôi để ý và thèm đến rỏ dãi, mấy cái móc sắt trong hai quang gánh của Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát dùng để gánh cơm nước lên khu kiên giam và kỷ luật. Đây là một dụng cụ thật lý tưởng để móc đầu thang dây lên trốc bờ rào, nhưng chúng tôi rình mãi mà không thể nào lấy được các móc sắt đó. Sau cùng, chúng tôi phải tìm cách làm một móc sắt theo cách thức của mình.

                              Tôi cho là một sự may mắn khác khi tôi chợt để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong sân khu kiên giam ngay trước cửa buồng 1 của tôi. Vì chỉ có khoảng sân này là rộng nhất trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng, nên có chôn hai cái giá gỗ cách chừng 4 thước để căng  mấy dây phơi, cho tù nhân phơi áo quần, mỗi lần được đi tắm giặt dưới sông Mã lên. Các dây phơi này thật bệ rạc. Có đoạn bằng dây ny lon, có sợi làm bằng dây điện nhưng có một đoạn làm bằng dây thép gai đã được gỡ bỏ hết gai nhọn. Tôi chú ý đoạn dây thép này.

                              Tôi quyết tâm phải đánh cắp đoạn dây thép này để làm cái móc sắt cho đầu thang dây. Nhưng đánh cắp được đoạn dây thép này cũng không phải là chuyện dễ, vì mỗi lần đi tắm về, chúng tôi phơi quần áo chưa xong là trật tự đã giục vào buồng, có giờ đâu mà ra tay? Khổ nỗi, chỉ có lúc sau khi tắm đó chúng tôi mới có lý do để “đụng” tới dây phơi giữa sân. Sau cùng, tôi cũng tìm ra được giải pháp.

                              Dựa vào yếu tố tâm lý, tôi biết là chẳng bao giờ có ai để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong khu kiên giam làm bằng chất liệu gì. Làm bằng gì đâu có là vấn đề, điều quan trọng là đoạn dây phơi còn đó để mỗi khi tắm giặt có chỗ phơi áo quần là được rồi. Chỉ trừ trường hợp đoạn dây đó mất đi thiếu hụt chỗ phơi mới có người để ý. Nhưng nếu có ai thắc mắc, thì chỉ là những người tu,ø vì không có chỗ cho họ phơi áo quần, họ phải xin cán bộ cho dây khác. Riêng cán bộ và hai anh trật tự thì để ý làm gì về sợi dây phơi của tù.

                              Nghĩ như vậy nên chúng tôi âm thầm chuẩn bị một sợi dây bện bằng sợi tháo ra từ bao cát, có màu sắc và độ to bằng dây thép gai dùng để phơi áo quần bên ngoài. Sau đó mỗi lần đi tắm về, trong lúc giả vờ phơi áo quần, chúng tôi chia phiên tháo dần hai đầu dây thép và cột hờ lại đừng để cho rơi xuống. Làm thế nào để trong lần cuối cùng, dây thép này sẽ tháo ra thật dễ dàng, và cột dây bằng sợi bao cát thế vào, mà không ai chú ý. Điều quan trọng là trong lần cuối cùng, việc này phải làm cho thật nhanh và tránh sự chú ý của tất cả mọi người khác.

                              Tôi được anh em giao phó công tác chết người này, vì nó là sáng kiến của chính tôi! Một kế hoạch chi tiết “tiền vượt ngục” này đã được 5 người thảo luận kỹ càng, chờ tới ngày đi tắm sắp tới là thực hiện. Tôi đợi chờ trong lo âu!


                              Thử thách đầu tiên

                                Sáng hôm đó là ngày quyết định. Theo đúng kế hoạch cả 5 người chúng tôi, hôm buổi sáng được xuống sông Mã tắm đó,  ai cũng mang một ít quần áo đi giặt. Riêng hai người cao nhất trong nhóm là Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn còn giặt cả màn nữa!

                              Sau khi đi tắm về, chúng tôi tới bên dây phơi giữa sân trước cửa buồng phơi áo quần như thường lệ. Hôm đó cán bộ võ trang dẫn chúng  tôi đi tắm không theo vào sân khu kiên giam, chỉ có hai anh trật tư, đang  đi lại lảng vảng, chờ chúng tôi phơi quần áo xong thì lùa vào buồng khóa cửa lại.

                              Vì đã phân công trước, nên trong lúc 4 người bạn giũ áo quần và chăn ra “phơi” để che mắt Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, tôi lẹ làng cột dây giả vào, và tháo đoạn dây thép,  cuộn tròn lại nhét vào người. Tôi hành động nhanh như máy. May mắn làm sao! Không ai thấy, và sau này cũng chẳng ai biết gì về sợi dây phơi “dỏm” mà tôi đã cột thay vào giá phơi áo quần này.

                              Mang đoạn dây thép “báu vật”về buồng, chúng tôi quấn nhập lại nhiều lần rồi uốn thành cái móc sắt thật lý tưởng cho thang dây. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi dấu móc sắt này trong bể nước gần bên cầu tiêu. Sau miếng sắt giẹp, cái móc sắt này là báu vật thứ hai mà chúng tôi có lúc bấy giờ. Điều đáng nói là cho tới lúc đó cha Định vẫn chưa biết gì về hai món “báu vật” này. Chúng tôi đã có móc sắt cho chiếc thang dây, nhưng chính chiếc thang dây lúc đầu tưởng là dễ dàng, nay lại hóa ra vô cùng rắc rối, mặc dù trong kế hoạch vượt ngục, chúng tôi đã dự trù tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra.

                              Trong buồng kiên giam lúc đó trống trơn, chỉ có một chỗ duy nhất chúng tôi có thể cất giấu “món đồ phi pháp” trước lúc vượt  ngục là cái bể nước tối om, nằm kế bên cầu tiêu. Bể này hứng nước mưa từ mái “Nhà Bằng” chảy xuống qua cái  lỗ hổng ngay trên miệng bể. Trong mùa khô hoặc lúc trời không mưa, có mấy anh tù trong đội gánh nước cung cấp nước, gánh lên và đổ vào bể từ một cánh cửa bên hông buồng. Thành bể cũng được xây đụng nóc nhà chỉ chừa một lỗ hổng chừng 50 phân vuông có song sắt và cao trên đầu người.

                              Mỗi chiều khi điểm danh và trước khi khóa cửa buồng giam, lần nào cán bộ hoặc trật tự cũng bước vào khu vực cầu tiêu kiểm soát, nhưng chỉ coi có nơi nào bị đào khoét gì không và chẳng bao giờ  để ý trong bể nước có gì. Một phần trên miệng bể chỉ có một lỗ vuông nhỏ chắn song sắt, phần khác khu vực này luôn luôn là tối om, muốn nhìn vào bên trong bể nước phải đứng trên một thứ gì kê lên cao và phải dùng đèn bấm mới thấy được. Trong khi đó khi cần giấu thứ gì,  chúng tôi thả ngầm dưới đáy hồ, có những đoạn dây cột tua tủa, khi cần thì dùng móc sắt rà kéo lên.

                              Đề phòng trường hợp bị xét buồng hay đổi buồng bất ngờ, chúng  tôi đã có thủ sẵn một cái bao cát, bên trong có những hòn đá  mà khi đi tắm chúng tôi nhặt về. Nếu thình lình có “động” là chúng  tôi sẽ cho tất cả “đồ nghề” vào cái bao cát có dằn đá sẵn để dìm xuống dưới đáy bể nước. Nếu chỉ là khám xét rồi lại vào buồng cũ, thì sẽ vớt bao lên tiếp tục kế hoạch, nhưng  trong trường hợp đổi buồng thì coi như là “ý trời”. Về sau này vô tình cán bộ phát hiện ra chiếc bao cát đó, cũng chẳng biết là của ai vì đã có biết bao nhiêu lớp tù, đến rồi đi, trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng như một thứ nhà trọ của khách vãng lai này.

                              Cho tới một vài ngày trước lễ Lao Động năm đóù chúng tôi cũng chưa chắc là kế hoạch có thể thực hiện được, vì trước những dịp lễ lớn bao giờ cũng có cuộc khám xét “nội vụ” và có thể bị xáo trộn tù nhân giữa các buồng trong khu kiên giam. Đây là biện pháp an ninh thông thường. Những dịp khám xét đồ đạc, chúng tôi biết trước, nhưng việc đổi buồng thì không theo một định kỳ nhất định nào. Thông thường thì đổi trước các dịp lễ, nhưng cũng có lúc tự nhiên một người hoặc vài người bị gọi ra chuyển qua buồng khác.

                              Có điều rất lạ, mặc dù tôi đã biết trước những dịp khám xét buồng theo định kỳ nhất định trong năm rồi, nhưng mỗi lần khám xét, mà chúng  tôi gọi là “bán chợ trời” đó tôi vẫn cảm thấy lo lắng, chán nản mệt nhọc và gần như muốn bệnh! Sở dĩ gọi là “bán chợ trời” vì tất cả “nội vụ” của chúng tôi được mang hết ra khỏi buồng, bày từng cụm từng cụm giữa sân và ngồi gần bên đó chờ cán bộ và trật tự tới lục tung hết lên. Nhìn cảnh này, thật không có gì ngán cho bằng.  Ai cũng biết là trong tù chật chội và chúng tôi đã phải thu xếp áo quần chăn chiếu và đồ dùng thật gọn gàng mới có đủ chỗ để nằm và sinh hoạt trong buồng. Sau mỗi lần khám xét là lục tung tóe như vậy, có khi hàng tuần lễ sau cũng chưa có thể xếp gọn lại được.

                              Sau khi đã khám xét xong và của ai người ấy ôm trở vào buồng, lúc đó nhìn càng ngán ngẩm hơn! Lúc đó đồ đạc, áo quần chăn chiếu mùng mền, chén bát...vương vãi khắp nơi. Trong lúc đó bao giờ tôi cũng nằm ngửa lên trên đống đồ đạc nhắm mắt một lúc cho lại sức, sau đó mò dậy hút điếu thuốc lào trước khi bắt đầu việc thu xếp lại “nội vụ”! Tôi nhìn các anh em khác và thấy hình như ai cũng có tâm trạng và hành động như tôi lúc bấy giờ. Những cuộc khám trại thông thường là như vậy, nhưng nếu những lần khám trại sau cơn mưa hoặc đang lúc khám mà bị mưa thì càng khốn nạn hơn!

                              Một điều ngán ngẩm khác nữa trong lúc khám trại là chúng tôi sẽ bị tịch thu hoặc là bị vất đi một số đồ dùng mà chúng  tôi đã ra công góp nhặt được. Trong tù thì cái gì cũng quý, cái gì cũng cần dùng và cái gì cũng sẽ có công dụng của nó, từ một mảnh giấy báo, một đoạn dây ni-lông, một cái lon rỉ sét, một mảnh vải rách, một cái hộp nhựa, một bao ni-lông...tất cả đều là của quý . Chúng tôi nhặt những thứ này trong những lần đi tắm, và phải mắt trước mắt sau, mới dám tạt ngang qua đống rác bên ngoài cổng trại để thu hoạch được những thứ đó, nhưng mỗi lần khám trại, cán bộ và trật tự lấy vất đi, không thương tiếc.

                              Trong lần khám trại trước lễ Lao Động năm 1979 đó, chúng  tôi càng ngán hơn vì có thể hỏng kế hoạch vượt ngục đã tới hồi kết thúc. Mặc dù chúng  tôi chưa có thứ gì có thể bị hồ nghi là chuẩn bị vượt ngục, nhưng có 3 thứ chúng tôi vẫn lo sợ bị phát giác. Trước hết là miếng sắt đã được mài thật bén hơ khói cho đen, và gắn lại trên cánh cửa vào cầu tiêu, thứ nhì là cái móc sắt và cái bao cát dằn đá thả chìm trong đáy hồ nước và thứ ba là số muối khá nhiều của Lâm Thành Văn, mặc dù đã cẩn thận phân tán cho 5 người, mỗi người giữ một ít trong lúc mang đồ đạc ra trong khi khám trại.

                              Vì biết là phải đi một thời gian lâu trong rừng, chúng tôi cố gắng để dành một ít muối ăn đọc đường. Số muối này được bòn mót từ phần muối ít oi của anh Lâm Thành Văn được cấp phát mỗi bữa ăn, vì anh đau dạ dầy không ăn được khoai sắn, nên trại cho ăn cháo trắng và muối.  Và dĩ nhiên điều lo sợ cuối cùng là nếu chúng tôi bị đổi buồng thì coi như xong chuyện.

                              Rồi cuộc khám trại trong dịp Lễ Lao Động năm đó cũng qua đi, không có xáo trộn người giữa các buồng. Các tù nhân ở buồng nào về lại buồng đó, để chuẩn bị  “mừng” lễ Lao Động. Riêng 5 người trong nhóm âm mưu vượt ngục chúng  tôi cũng về lại buồng 1 cùng với cha Định.  Thời gian quyết liệt đã tới!

                                        Cho tới lúc gần ngày lễ Lao Động rồi mà cha Định chưa biết gì, và chúng tôi đợi sau khi khám trại xong mới bắt đầu làm chiếc thang dây. Khi anh Tiếp và tôi đập các ống bẩu ra lấy thanh tre làm nấc ngang cho thang dây, nghe tiếng động bên trong nhà cầu phát ra, cha Định bên ngoài hỏi vọng vô:

                                - Các người làm gì thế?

                                 Cha Định rất là “bất hòa hợp” với chúng tôi. Ngài luôn luôn gọi chúng tôi là “các người” thay vì tiếng “các anh”. Tôi lên tiếng trả lời:

                                - Bọn này đập ống bẩu ra làm đóm thuốc lào bác ạ!

                                 Từ bên ngoài, cha Định nói vọng vào, bằng giọng nói nghe sắc bén như lưỡi dao của người thái thịt:

                                - Này, các người cẩn thận đấy nhé!

                              Chúng tôi ngừng tay và yên lặng nhìn nhau sau câu nói đó. Thật tình tôi không hiểu hai chữ “cẩn thận” mà cha Định vừa nói có ý nghĩa gì? Nó mang ý nghĩa sự khuyên lơn, sự che chở hay sự đe dọa. Tôi cầu mong cho hai nghĩa trước đúng, nhưng trong lòng tôi bắt đầu áy náy sợ câu nói này rơi vào nghĩa thứ ba! Nhưng dù trong ý nghĩa nào đi nữa, từ đó trở đi chúng tôi rất cẩn thận, tránh gây sự chú ý của cha Định. Như tôi đã nói vì Lâm Thành Văn bị đau dạ dày và yếu nên phải cần thang dây cho anh. Tuy nhiên không làm sao có thể tìm ra dây được. Chúng tôi nghĩ tới áo quần, nhưng áo quần cũng không đủ. Cuối cùng phải dùng chăn xé ra kết lại thành giây.

                              Chúng tôi xé một chăn mỏng xếp lại mấy lớp và may thành những đoạn dây dài. Trong thời gian chuẩn bị vượt ngục tôi đã làm một cây kim khá to bằng cây đinh 6 phân nhặt được lúc đi tắm. Phải mất khá lâu mới mài cây đinh nhỏ lại thành cây kim, tôi dùng đá đập dẹp một đầu và dùng mảnh thủy tinh cứa đi cứa lại cho tới khi thủng lỗ có thể xỏ chỉ qua. Chúng tôi dùng chỉ tháo ra từ bao cát là loại chỉ rất chắc chắn để may các lớp chăn lại với nhau. Sau khi có dây, chúng tôi dùng các thanh tre đập ra từ các ống bẩu cũ làm các thanh ngang của chiếc thang.

                              Ngoài sự chuẩn bị các dụng cụ cần thiết ra, hàng ngày chúng tôi ngồi lại điều nghiên về cách thức đào tường và ước tính thời gian dự trù cho mỗi giai đoạn. Phải nói là không một chi tiết nào mà chúng tôi không dự trù, không bàn tính và không tìm cách giải quyết. Sau khi có thang dây, chúng tôi đã lén cha Định, mang vào cầu tiêu móc thang lên song sắt bể nước và đứng lên nhún,  thử độ bền chắc của chiếc thang.

                              Trù tính thì giờ là việc chúng tôi suy nghĩ bàn tính nhiều nhất, phải mất bao nhiêu thời gian cho việc đào tường, bao nhiêu thời gian đào cửa vào hầm chứa phân, ra khỏi hầm chứa phân rồi phải canh chừng cán bộ tuần tra ban đêm như thế nào trước khi leo qua tường rào giữa các khu. Bao nhiêu thời gian để cả 5 người vượt qua được bức tường bao quanh trại và bao nhiêu nhiêu thời gian để vào rừng. Nói chung những gì chúng tôi có thể nghĩ ra và tiên liệu, chúng  tôi đã làm tới mức tối đa. Trong đó việc vượt qua bức tường trại  cao 5 thước bên trên có hàng rào kẽm gai được chúng tôi nghiên cứu và phân công thật cẩn thận. Vì 5 người chúng  tôi khác nhau về tình trạng sức khỏe, về tuổi tác và sự tháo vát nên kế hoạch chi tiết về việc này được phân chia như sau:

                                          Khi ra đi, Đặng Văn Tiếp sẽ thủ chiếc thang dây có thanh tre ngang để leo lên và một đoạn dây thòng ra bên ngoài để tuột xuống, và anh sẽ là người ra ngoài đầu tiên. Kế đó là  Nguyễn Sỹ Thuyên, người thứ ba và ở giữa là  Lâm Thành Văn, người thứ bốn là Trịnh Tiếu và cuối cùng là tôi. Phân chia như thế vì anh Đặng Văn Tiếp tháo vát và xông xáo nhất, Lâm Thành Văn vì yếu nên cần có hai người bên ngoài và hai người bên trong nâng đỡ. Tôi là người trẻ nhất, ra sau cùng, có nhiệm vụ gỡ thang dây và đoạn dây bên ngoài để phi tang và nếu có gì trục trặc thì tôi còn có thể xoay xở được.

                                       Chi tiết thực hiện sẽ như sau: Ra tới chân tường,  Đặng Văn Tiếp sẽ đứng trên vai tôi và anh Trịnh Tiếu, tay cầm thanh tre đã cột sẵn móc sắt trên đầu thang dây, móc vào trụ sắt của hàng rào kẽm gai trên trốc bức tường, và lần theo thang dây leo lên. Tới đầu tường sẽ cột đoạn dây khác thòng ra bên ngoài tường và bám vào dây đó tuột xuống. Những anh em khác sẽ theo thứ tự như vậy, cũng leo lên vai Tiếu và tôi rồi bám thang dây leo ra. Anh Tiếu là người áp chót sẽ đứng lên vai tôi, còn tôi một mình sẽ leo ra sau cùng một cách dễ dàng. Thứ tự đó được nghiên cứu cẩn thận vào những buổi trưa, lúc cha Định không để ý chúng, tôi vào buồng cầu tiêu thực tập công việc leo qua tường này.


                              Đợi chờ trong âu lo 

                                Tôi cảm thấy lúc bấy giờ thời gian đi quá mau. Chưa chi đã tới ngày 1. 5.1979, ngày lễ Quốc Tế Lao Động, một ngày rất quan trọng đối với chúng tôi. Lễ Quốc Tế Lao Động là một ngày lễ được mừng khá lớn trong chế độ cộng sản. Trưa hôm ấy, các tù nhân chúng tôi được ăn một bát cơm trắng, một bát canh và vài ba miếng thịt heo to bằng đầu ngón tay cái. Đó là một trong năm hoặc sáu lần tù nhân chúng tôi được “ăn tươi” trong một năm.

                                          Trong bữa ăn, năm người chúng tôi cùng ngồi lại bên nhau để nói lên lời thề hứa sẽ nâng đỡ nhau trên bước đường gian nan thử thách sắp đến, sẽ coi nhau như anh em ruột thịt và giúp nhau trong cuộc sống tương lai. Sau đó, chúng tôi nghỉ ngơi và chuẩn bị tinh thần cho công việc quan trọng tối nay.

                                          Nói là nghỉ ngơi nhưng thực ra tôi có nghỉ gì được đâu. Nhớ lại trước đây hai tháng, khi ý định vượt ngục từ khu kiên giam này mới được manh nha thành hình, chúng tôi hội ý nhau để chọn ngày lý tưởng là đêm 1 tháng 5. Khi quyết định chọn ngày đó, tôi thấy không có gì phải suy nghĩ. Vì ngoài tất cả yếu tố thuận lợi khác, thì ngày 1 tháng 5 lúc đó hãy còn khá xa, còn đủ thời gian để chuẩn bị. Vả lại từ đó tới ngày thực hiện kế hoạch có thể còn xảy ra nhiều chuyện bất ngờ trong môi trường tù tội vốn có quá nhiều chuyện bất ngờ này.

                                        Nếu xảy ra việc đổi buồng, hoặc có một người lạ được đưa vào đây, hay một anh em nòng cốt nào trong số 5 người chúng tôi bị chuyển qua buồng khác hoặc một người bị bệnh bất ngờ hay...Có biết bao nhiêu chuyện bất ngờ có thể xảy ra và cho dù một chuyện nhỏ nhất cũng bắt buộc chúng tôi phải bãi bỏ kế hoạch. Nhưng rồi mọi việc qua đi một cách trơn tru nhẹ nhàng trong thời gian hai tháng qua. Không có ai bị đổi đi buồng khác, cũng chẳng có ai khác vào buồng này. Như vậy việc chuẩn bị đang được tiến hành từng bước với mỗi ngày qua đi gần tới ngày định mệnh của đêm nay.

                                             Trước đó chúng tôi vẫn luôn cầu mong, nếu may mắn cha Định được chuyển đi buồng khác thì không còn gì lý tưởng hơn. Nhưng cầu mong chỉ để cầu mong thôi, làm gì có chuyện quá may mắn như vậy. Thực tình mà nói, tôi thấy tỷ lệ phần thắng trong cuộc vượt ngục này khá thấp so với những vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải. Việc khó khăn hàng đầu là sự có mặt của cha Định. Chúng tôi đang dồn hết sức lực và tâm trí vào một việc làm cực kỳ nguy hiểm như vậy, một sai sót nhỏ cũng có thể mất mạng như chơi, thế mà chúng tôi không dám bàn tán chia sẻ ý kiến với nhau chỉ vì sự có mặt của cha Định. Thậm chí chúng tôi ít khi dám ngồi gần nhau lâu vì sợ cha Định nghi ngờ là có âm mưu gì đây.

                                         Nếu gặp phải một người tù nào khác có lẽ sẽ đỡ hơn, đàng này cha Định với tánh tình khinh khỉnh và không hòa hợp được với bất cứ người nào trong 5 anh em chúng tôi thì càng có lý do để chúng tôi đề phòng. Nếu không khéo, cha Định chỉ cần viết một mảnh giấy con, cuốn lại bằng cây tăm búng ra ngoài cho cán bộ tố cáo âm mưu của chúng tôi thì sao? Chính vì lý do đó, tuy thời gian dài hai tháng trôi qua mà thực sự chúng tôi chưa có thể chuẩn bị sẵn sàng tất cả những gì đáng lẽ phải chuẩn bị và bàn bạc nhau kỹ lưỡng và chi tiết hơn.

                                            Vấn đề vô cùng quan trọng là chiếc thang dây, chúng tôi đã làm rồi nhưng chưa được đưa ra thử độ chắc độ bền của các dây vải một cách cẩn thận, chỉ vì cha Định luôn có mặt trong buồng. Ngay cả việc tháo miếng sắt trên cánh cửa mài cho bén, tới việc thực tập tư thế đứng trên vai nhau khi bắt đầu leo qua bờ tường cao 5 thước chung quanh trại, chúng tôi cũng chưa thực hiện được. Còn bao nhiêu thứ khác, chúng tôi cũng làm, cũng thực tập nhưng chưa được hoàn hảo theo ý muốn.

                                      Bây giờ, trưa ngày 1 tháng 5 đã tới. Chỉ còn quãng 5 tiếng đồng hồ nữa là chúng tôi sẽ bắt đầu một việc, mà cho dù là thành công hay thất bại cũng không có thể nào dừng lại được.

                                       Sau bữa ăn trưa hôm đó, buồng chúng tôi trở nên yên lặng và nặng nề một cách khác thường, mang tính cách u sầu, có vẻ chết chóc nữa. Tâm trạng của nhóm 5 người chúng tôi thì khỏi phải nói. Căn cứ vào những gì đang bồn chồn và lo lắng một cách thật dữ dội trong lòng tôi lúc bấy giờ, tôi có thể suy ra được tâm trạng 4 người kia cũng thế.

                                      Riêng về cha Định, kể từ đêm qua khi tôi chính thức thông báo sự việc, tôi thấy cha Định sống trong tình trạng như người bị động kinh. Mặt ngài tái bệch, đôi môi lúc nào cũng run rẩy, mắt nhắm nghiền ngồi yên bất động dựa lưng vào tường trông như hình người bằng sáp. Cái trán của cha Định hói và bóng láng mọi ngày, bây giờ càng căng thẳng ra và trông ngài càng hói nhiều hơn. Kể từ đêm qua tới giờ, cha Định không hề nói với ai trong buồng một lời nào. Ngài ngồi yên  dựa lưng vào bức tường sát vách cầu tiêu hướng mặt ra phía cửa cái, suốt từ đêm qua tới nay như một xác ướp. Có lúc tôi có cảm tưởng là cha Định không hề có mặt trong buồng này.

                                           Phần ăn của cha Định trong ngày lễ Lao Động vẫn còn để nguyên một chỗ trong góc phòng, ngài cũng chẳng buồn lấy thứ gì đậy cái bát đựng mấy miếng thịt heo kho với nước muối. Những miếng thịt được thái ra bằng con dao cùn, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa và có váng mỡ đóng ở trên phần có nước. Nhìn những miếng thịt lợn,  phần nhiều là bầy nhầy những mở, trên da còn rất nhiều lông cạo không kỹ  trông nó xấu xa, dị hợm. Tự nhiên tôi so sánh mấy miếng thịt heo đó với kiếp sống người không ra người của chúng tôi lúc bấy giờ.

                                         Có lẽ vì tâm trạng quá bồn chồn lo lắng làm ảnh hưởng tới bộ máy tiêu hóa và tôi cảm thấy như ruột gan đang quặn lên. Phần khác vì bầu không khí trong buồng lúc đó nặng nề,  đầy vẻ sầu thảm cộng với gương mặt của từng người trong buồng. Lúc đó tất cả 6 người đều cởi trần mặc quần đùi, trông thật xấu xa, kỳ dị. Ai nấy đầu tóc cũng rối bù vô trật tự, thân thể không còn thịt, để lộ ra những chiếc xương sườn nằm cong queo trên những lồng ngực xẹp lép. Nhìn cảnh tượng đó, rồi lại nhìn miếng thịt heo, trên da còn đầy lông, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa bạc màu của cha Định, tự nhiên tôi đâm ra buồn nôn. Tôi đứng lên bước vào nhà cầu gục đầu trên cái lỗ to bằng bề tròn chiếc bình thủy đựng nước sôi. Sâu bên dưới có cái sọt đan bằng tre, bên trên có có lót lá chuối tươi.

                                         Từ trong nhà cầu bước ra, tôi thầm mong cho thời gian qua nhanh, rồi ra sao thì ra. Sống trong bầu khí quái đản và căng thẳng này, tôi cảm thấy như muốn kiệt sức, mặc dầu tôi biết là chúng tôi phải dùng tới sức lực cuối cùng của cơ thể để đào tường vượt ngục đêm nay.

                                         Chung quanh tôi, các anh em mỗi người một tư thế. Anh Đặng Văn Tiếp đang ngồi xếp bằng tròn ngay giữa cửa sổ trong tư thế tập yoga, mắt hướng ra phía ngoài sân. Anh Lâm Thành Văn đang lên cơn đau dạ dầy có lẽ do tâm trạng quá lo lắng gây ra và đang ngồi lấy tay xoa bụng. Anh Trịnh Tiếu đang  bận lúi húi với mấy bộ áo quần, có lẽ anh chuẩn bị mặc vào để ra đi, trong lúc anh Nguyễn Sỹ Thuyên đang cẩn thận gạt cái bấc của chiếc đèn nhỏ xíu để sát vào góc buồng, ngay trước cửa bước vào khu vực cầu tiêu và bể nước.  Gương mặt người nào người ấy  có vẻ rất  nặng nề như đeo một tảng đá hàng chục ký lô!

                                    Tâm trạng tôi lúc bấy giờ như một thí sinh đang ngồi chờ chủ khảo phát đề tài thi. Bầu không khí trong buồng lúc này trở nên yên tịnh cách khác thường, ai nấy đều lầm lì ít nói. Thật tình là chúng tôi chẳng có chuyện gì để nói trong lúc này, ngoại trừ thỉnh thoảng ghé miệng nhắc nhau một vài chi tiết trong các phần hành đã được phân công sẵn. Tôi cảm thấy mệt nên bước tới ghé vào tai nói với từng người hãy lo cầu nguyện.

                                        Lúc này, mỗi người tùy theo tín ngưỡng của mình, âm thầm cầu nguyện cho công việc đầy nguy hiểm và có tính cách sống chết tối nay. Tôi leo lên bệ, ngồi dựa lưng vào bức tường đối diện với cha Định. Nhìn cảnh cha Định đang ngồi như pho tượng, tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền trong một thái độ khổ sở lạ thường làm tôi nhớ lại câu chuyện tối hôm qua.    Vì cùng là Linh mục với nhau, tôi được anh em giao cho nhiệm vụ thông báo cho cha Định một ngày trước khi chúng tôi hành động. Mặc dù đây là một công tác tôi thấy thật khổ tâm, nhưng cũng hiểu là các anh khác không ai có tư thế như tôi để làm việc này. Vào khoảng 9 giờ tối hôm qua, ngày 30.4.1979, tôi lấy hết cam đảm bước xuống chỗ cha Định đang nằm dưới lối đi trước mặt để xin xưng tội. Tôi muốn xưng tội để dọn mình sẵn sàng trước khi bắt tay vào làm một công việc rất nguy hiểm và có thể dẫn tới cái chết bất cứ lúc nào.

                                         Sau khi xưng tội, tôi báo cho cha Định biết dự tính của chúng tôi sẽ được thực hiện vào tối ngày mai. Tôi biết rằng, dù cha Định không đồng ý, ngài cũng không thể nói ra với bất cứ ai về những gì mà ngài đã được nghe biết trong tòa giải tội, vì đây là một bí mật tuyệt đối thuộc về ấn tín tòa giải tội mà các Linh mục phải giữ, cho dù vì phải giữ bí mật đó mà phải thiệt hại cho bản thân mình, ngay cả trường hợp phải chết để bảo vệ bí mật đó thì vị Linh mục cũng phải chấp nhận. Đây là luật buộc nặng nhất đối với chức vụ Linh mục, không những phải giữ bí mật tuyệt đối về những gì đã nghe biết trong tòa giải tội mà cũng không được nói những lời gì để người khác có thể đoán được những điều đó. Chính vì thế phải hiểu rằng những gì một hối nhân nói với Linh mục trong tòa giải tội là người đó nói với một xác chết!

                                          Sau khi được tôi thông báo tin động trời mà có lẽ từ lâu nay ngài cũng có ý nghi ngờ, cha Định bỗng chốc trở nên bị kích động một cách dữ dội và bắt đầu khóc lớn tiếng. Trong một thái độ hốt hoảng và bấn loạn tâm trí, ngài đi tới đi lui, dọc theo lối đi mà trước đây hai tháng, Đại Tá Hoàng Thanh đã đi trước mặt chúng tôi. Tay chân ngài múa máy liên hồi trên không, rồi lại chống nạnh ngang hông và thỉnh thoảng lại nói bâng quơ:“Các người ác lắm! Các người giết tôi đi! Các người hãy giết tôi đi!” Vừa nói ngài vừa gật gật cái đầu trong tư thế tuyệt vọng hết cách cứu chữa. Lúc đó năm người chúng tôi yên lặng ngồi nhìn nhau và cảm thông với tâm trạng lo âu sợ hãi của cha Định. Đồng thời cũng rất lo ngại, nếu lúc bấy giờ bên ngoài có cán bộ đi qua, có thể nghe tiếng cha Định đang nói khá to và biết được câu chuyện. May là không có ai bên ngoài lúc đó.

                                  Đợi cho cơn xúc động của cha Định lắng dịu xuống, lúc ấy anh Nguyễn Sỹ Thuyên, với tư cách là người lớn tuổi nhất trong số các anh em, lên tiếng xin lỗi cha Định và phân trần với ngài về quyết định chẳng đặng đừng của chúng tôi và mời cha Định cùng tham gia. Tuy nhiên cha Định bày tỏ thái độ từ chối dứt khoát.

                                          Chờ khi cha Định đã trở lại bình tĩnh, chúng tôi mời ngài ngồi lại và cùng nhau thảo luận tìm cách thức nào an toàn cho cha Định, tránh cho ngài tội bao che vụ trốn trại. Bàn đi tính lại một lúc lâu, cuối cùng chúng tôi chọn một giải pháp này: Trước khi ra khỏi phòng, chúng tôi giả vờ trói tay nhét giẻ vào mồm cha Định làm như ngài bị chúng tôi uy hiếp, không thể chống cự và cũng không thể kêu la được. Mặc dù đây không phải là một giải pháp hay, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn. Sau đó giải tán ai về chỗ nấy để ngủ vì đã muộn, nhưng tôi biết  đêm qua chẳng có ai có thể ngủ ngon giấc. Nhất là cha Định chắc là khốn khổ trăn trở suốt đêm qua nên hôm nay, ngày 1 tháng 5, trông cha Định thất sắc, đôi mắt thâm quầng và cái trán hói đã láng hôm nay lại bóng hơn rất nhiều.

                                 Trời càng về chiều, tôi càng cảm thấy nôn nao, ruột gan cồn cào dữ dội. Kể từ lúc bị bắt vào tù trong 4 năm qua, tôi đã quyết tâm vượt ngục 3 lần và đây là lần thứ tư. Lần đầu tiên trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray trước khi xuống tàu ra Bắc. Lần đó tôi và người bạn là  Phạm Thế Khải thức suốt đêm trong buồng chờ cơ hội nhưng bên ngoài lính canh nghiêm ngặt khác thường. Lần thứ hai, trên chuyến tàu Sông Hương chở tù ra Bắc, kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân của chúng  tôi phải bãi bỏ vào giờ chót vì cơn bão trái mùa. Lần thứ ba, ở trại Cổng Trời, tôi cùng với anh Tiếp và ba người khác định đào tường vượt ngục qua Trung Quốc nhưng bất ngờ bị đổi buồng chỉ trước đó 10 tiếng đồng hồ nên phải bỏ kế hoạch. Giờ đây, tôi đang ngồi yên chờ đợi giây phút quyết liệt trong lần đi vào cõi chết để tìm cái sống một lần nữa.

                                       Mặc dù suốt hai tháng qua chúng tôi đã dồn hết tâm trí vào việc nghiên cứu và chuẩn bị cho đêm nay, nhưng lúc này, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, tôi có cảm tưởng là mọi việc còn quá lỏng lẻo. Dù vậy, cũng không biết phải làm gì hơn trong lúc này ngoài việc dựa lưng vào tường và khoanh tay đợi chờ giây phút hành động. Giây phút đó là lằn ranh giữa sự sống và cái chết. Đó là giây phút của định mệnh và sẽ bắt đầu ngay sau khi cán bộ và trật tự điểm danh xong và ra khỏi khu  kiên giam.

                                       Trong lúc thần kinh căng thẳng quá, tôi mong cho có tiếng kẻng điểm danh rồi mọi việc sẽ ra sao thì ra.  Nhưng đồng thời tôi cũng mong cho thời gian mấy tiếng đồng hồ cuối cùng trong ngày này kéo dài bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nếu có thể thì kéo dài đến vô tận và không bao giờ có tiếng kẻng điểm danh chiều tối hôm nay! Thì ra, khi con người sắp bước vào lằn ranh của sự sống và cái chết bị giao động cách dữ dội do bản năng sinh tồn gây ra. Đây chính là giây phút mà tôi quyết định phải đi tới, và đi bằng bất cứ giá nào để tìm TỰ DO, dĩ nhiên là chúng tôi đã chấp nhận trả tới cái giá cao nhất cho hai chữ TỰ DO, là cái giá của chính mạng sống mình. 

                              Cuối cùng, tiếng kẻng điểm danh ở cổng trại rồi cũng vang lên.


                              nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
                              dactrung.com
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2007 15:14:09 bởi sóng trăng >
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 26 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9