sóng trăng
-
Số bài
:
1013
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 25.02.2006
|
thơ Hà Thúc Sinh
-
14.01.2007 04:24:46
Thơ Hà Thúc Sinh http://www.geocities.com/suthatcsvn/hts/tho_hts.html Tập một "HOÀ BÌNH VÀ TÔI" CHÚA XUÂN VÀ TÔI Chúa xuân đeo túi nặng Ghé nhà ai hỏi han Giữa đường tôi về gặp Một lão già tần ngần Này ông ơi, thi sĩ Có gì tặng hoa thơm Có gì cho nắng ấm Có gì giúp lão không Lục túi trên, dự tính Lục túi dưới, bất ưng Lục trong đầu, khát vọng Lục trong tim, mối hờn Lục khắp cùng xó xỉnh Trên kệ sách bụi đầy Trên máy chữ mòn mỏi Chỉ có những đêm dài Có gì cho lão không Ông thi nhân, bạn cũ Thưa đây những thanh gươm Tôi mài vì cố xứ CHỦ NHẬT LỄ LÁ Bầy chó đói cắn nhau rên lết trên đất Mặt trời mỏi mệt leo thang Khu phố như sau bệnh dịch Người bước đi không ai muốn ngó ngàng Tới cuối phố đường chẻ hai lối Dăm anh công an ít nói ngồi hút thuốc bên đàng Bà mẹ đánh con như kẻ thù tội rơi mất ít khoai lang Mua sau lúc xếp hàng từ hồi chuông thứ nhất Nắng đã đủ cho lá buông đem phơi Ðây là khu lao động làm quạt Ðen đầu người khom tước mũi dao như xẻ mối thù Tiếng tách lá nối tiếp gây âm xiềng xích nặng Trong nhà thờ là chỗ đùa của gió Vị linh mục rời cung thánh từ lâu với nét mặt không buồn vui Một nhúm cụ già trên băng ghế ọp ẹp nặng tai Vẫn tưởng đâu đây rào rào lá trải ngày Chúa đến. CON SÂU VÀ CÁI KIẾN Như kẻ liệt ngồi bên kẻ câm Ðầu lốm đốm những miếng ăn toan tính Nắng hay mưa cứ phơi vai trần Vá víu mãi cuộc đời thêm nặng Giờ tan xưởng lòng không tan xưởng Dù những giọt mồ hôi đã được chấm công Tiếng động phả mùi tanh xiềng xích Nón lá sụp che mình ngửi mình Khách qua hàng Bông trạm xe điện Người ngồi khom kín tựa nấm mồ Ngọn cờ phần phật như cười hỏi Lũ tĩnh vật kia đã chết chưa Phút chốc vùng lên như cách mạng Những nấm mồ mở nắp xương xẩu lao đi Chuyến tầu điện như con sâu trăm tuổi Vừa sa cơ bị bầy kiến đè Ðứng xa như nền văn hiến cũ Khách ngó đời sâu cõng kiến bò đi Buồn tự hỏi trong lòng chảo nóng Con sâu cái kiến có lối về? NHÀ MÁY GIẤY VĨNH PHÚ Bảng chỉ tiêu to choán lối vào Cổng chào đỏ thời gian muối sẫm Cô công nhân đội nắng giữa ao Tước võ gỗ buồn vui miệng ngậm Như đời người trong guồng máy đảng Ðập, xay, lọc, khuôn bột đem phơi Ông cụ già ngước nhìn mây trắng Nhớ xa xăm cúi mặt bồi hồi Bóng cán bộ khoá bưng ý nghĩ Những tay người bóc xếp cong cong Ao hồ xưởng máy chiều phủ xám Vài trăm tờ mo giấy cháo lòng Tựa giàn máy sau thời Ðiềm, Tắc (*) Người đảng viên trẻ ép lòng mơ Ðứa em nhỏ mai thôi mù chữ Tiếp nối cha anh biết i tờ Tiếng kẻng rền như tiếng khóc lớn Người chủ nhiệm rời xưởng lên yên Ðường đê gió ngược còng lưng đạp Áo rách thả bay mớ tờ liền... ___ (*) Sử Tàu cho rằng Tiết Tắc đời Tề chế ra mực và Mông Ðiềm đời Tần chế ra bút, sau đó chắc là có máy chế... giấy (?) CHIỀU QUA THANH HOÁ Những nhịp cầu như những lưng còng Gánh sức nặng buổi chiều ảm đạm Ngó sang sông mờ nét tiêu hao Tây thành cũ hay là thôn bản? Tự hỏi mãi. Ðến chưa? Chưa đến? Hay chỗ này Thanh Hoá ngày xưa? Ngó lên mây bạch y thương cẩu Nhìn xuống dòng bóng cũ mù mưa Thấy chị qua muốn lời thăm hỏi Mắt ngu ngơ che nón im hơi Nhìn em đến này em muốn hỏi Miệng ngập ngừng rét mướt im lời Mưa nặng hạt vỗ buồn cố xứ Như tấm hình rỗ mặt trăm năm Tia chớp loé tang sông một dải Buồn tôi nhô mồ mả đằm đằm. LỄ LAO ÐỘNG Ở HÀM TÂN Rắc trấu lưng người mặt trời lửa Mây sà xuống suối vướng cành buông Tiếng cuốc tiếng búa im một cõi Hai ngàn tù đội nắng giữa sân Anh cán bộ đôi giầy khập khiễng Chui khỏi mồm lời như bầy giun Lao động là thước đo yêu nước Tù ngu ngơ uống lấy vinh quang Bài diễn văn giữa trại tù lao động Là tặng phú ông thêm một đồng xèng Chới với có thằng đổ sập xuống Thêm bộ xương bị chứng nắng ăn Chen giữa kẻng tù tiếng trống lễ Buồn như hạ huyệt kẻ đồng hành Lao xao khói bếp chuyển mùi mỡ Lễ vào thấm thía trong tâm can THẰNG BÉ ÐỐN CỦI Chui nép rừng đước làm nhân chứng Sự sợ hãi to hơn buồng gan Người quản giáo đứng xa bất động Cây như thù tù chặt phăng phăng Xa hướng bắc lò than hoang phế Mưa bay bay hơi núi mù mù Trái tim nhỏ thương em thương mẹ Mò đốn cây gần phía trại tù Tù hàng ngang như làn sóng bẩn Liếm dần dần một vạt màu xanh Trốn vào đâu lạy Trời lạy Phật Một thân con tù tội đã đành Cỏ gai tây nằm không nhúc nhích Ngó ra ngoài mưa trong hoàng hôn Một cặp mắt anh tù lóng lánh Tủm tỉm cười kín như bóng đêm Tiếng còi thổi gom tù thành bó Một bó người quẩy trăm bó con Chui khỏi bụi chiều lên khắp nẻo Nhìn hai tay kiến cắn đỏ lòm Ngó về phía lò than hoang phế Nổi âm u như mộ giữa đồng Bước vội vấp ngã lăn trên đất Năm bó con ai giấu bên đàng ĂN Tao trai trung hiếu làm đầu nhé Một anh bẻ nghiến bỏ mồm nhai Tao không là ghế không yêu đít (*) Ối giời nó béo ngậy như khoai Núp sau cô-nếch gầy bếp nhỏ Hai thằng tù lén lút ăn riêng Hôm nay là ngày hai tháng chín Cả nước chia nhau một nỗi niềm Bớt lửa mày ơi không cháy hết Lo gì tao vớ đến hai con Con này to tiếng tao làm trước Ôi đùi ôi bụng ôi sườn non Hôm nay lễ lớn ăn thịt lợn Có hai anh bị cắt khẩu phần Cán bộ cất luôn vào cô-nếch Tội mừng lễ lớn ăn dế giun ___ (*) Ghế: Gái THÈM VƠI Nghìn nấc leo lên nghìn nấc xuống Tháng Tư gánh đá giữa lưng trời Thèm ăn thèm uống? Ngưng thèm hết Thèm đã đầy lại muốn thèm vơi Lách mình chạng đứng trên hẻm núi Ngó mây một giải mây xanh xanh Phanh ra. Gió thổi. Ngưng tay. Ngửi Làng xa thơm dậy một mùi chanh Rùng mình. Sướng lặng. Thôi. Không giữ Phanh ra. Tiếp tục. Phanh bung lơi Bố khỉ! Nghêu ngao thằng phía dưới: Tội tình anh lắm em Lan ơi Trời trên đất dưới mình đâu nhỉ Khí thế trường chinh với sóng hồng Một dòng hôi hổi bay như loạn Có chết thì đây sướng đã xong ÐIỀU ƯỚC LŨ TRẺ Dăm thằng bé nhăn nheo núm giẻ Suốt ngày rình lượm giấy cầu tiêu Ðiều ước lớn làm sao tất cả Ăn phải ruồi đau bụng thật nhiều CÔ GÁI Cha tù mẹ chết anh mất tích Sau mười thu cô bé mười lăm Ðiều ước lớn làm sao cô được Ra ngoài lệ bộ đủ bên trong THANH NIÊN Thân ngựa hồng tâm của phượng hoàng Ôi thế giới sức chạy nghìn vòng Ðiều ước lớn làm sao thoát được Xã làng nghĩa vụ lưới ngang giăng VÀ TÔI Ba mươi điều, sau bảy món xét rằng... Tôi đọc Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Ðiều ước lớn là làm sao thêm được Cấm trị người bằng gia giảm miếng ăn QUÁN BÊN ÐƯỜNG Nằm chui khóm lá chiếc bàn thấp Lề đường một lũ tụm quanh nhau Ếm sâu hơi thuốc vào gan mật Bất giác phà ra nỗi dãi dầu Trung tá xích lô thầm hỏi bạn Chợ trời dược sĩ sao về không Cười như nước mắt nói như bỡn Nó bố trưa nay còn cái quần Ông giáo sử mấy năm vá lốp Ðồ nghề lỉnh kỉnh nặng trên lưng Một anh văn sĩ ngồi lê hỏi Thời xưa phong kiến kém hơn chăng Gió chiều thổi tốc người nghi ngại Mỗi hồn hiện một nét công an Lá khô thôi chạy cây thôi động Vừa lúc đêm lên khắp Sài Gòn .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2007 01:31:30 bởi sóng trăng >
|
|
sóng trăng
-
Số bài
:
1013
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 25.02.2006
|
RE: thơ Hà Thúc Sinh
-
14.01.2007 04:54:56
BÃO MẮT Nếu được phép em sẽ dựng ngôi nhà không cửa sổ Vì nơi đây bão mắt quanh năm Mắt công trường, mắt xí nghiệp Ngoài cột đèn mắt đom đóm nửa đêm Sau vẻ hững hờ đỏ bó gân xoi bói Trời cao không báo, đất dày không nói Em biết đâu giữa bão mắt vây đời Mắt xanh mắt trắng Lộn lẫn trên sân khấu khóc cười Mắt chợ trời, rạp hát; mắt bến xe quán cóc Tù ra đi kẻ sau người trước Vì tay che không thấy bão mắt thù Ôi cái thời chi ó lộn chim cu Mắt trẻ thơ long lanh màu phản trắc Bão mắt! Bão mắt! Nó thổi qua không ai còn ngon giấc Và nếu được phép em sẽ dựng nhà không cả cửa trước Giam bên trong chỉ cặp mắt em buồn Mắt ướt mèm ép lên ảnh mắt đen trong Mắt khỏe mạnh ngó ngay Mắt tình say anh yêu đã xa như nhiều thế kỷ... KHI VỀ Về trước nhà xưa đứng ngẫm nghĩ Nỗi thân quen xa không thước đo Nắng xuyên soi vách bóng bố ráp Con vện nằm nén tiếng thở ra Nét trăng chiều lệch như miệng mếu Kìa manh áo rách hay mây nghiêng Ðàn chưa chùi bụi chưa lên phím Ðã thoảng âm hao tiếng khóc rền Hỏi vợ mừng chi thịt nướng khét Cảnh nhà đã xác lại càng xơ Ngồi thu bếp nhỏ nói như ngậm -- Ấy hồn sách quý đốt năm xưa Em ơi rộng cửa cho thơm gió -- Thành phố còn đâu hoa nữa anh Em ơi rộng cửa ai thăm đó -- Bóng tối mông lung tình xóm giềng Về giữa nhà xưa ngồi ngẫm nghĩ Có ai lộn kiếp trong ta chăng Giơ tay chẳng thấy bàn tay nữa Cúi gầm chỉ thấy bóng kinh mang ÔNG GIÀ LOÀ ÐƯỜNG NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU Buổi sáng ra vườn mò mẫm chiếc bình tưới Cảm nhận mặt trời leo ấm cổ gầy Ðôi mắt trơ tựa hai hòn sỏi Ngửi đoá hoa như uống lấy sương mai Khi ấy cuộc đời nhẹ nhàng quay ngược Thấy lại người lính già khóc buông súng trên đường Sâu tâm can như có dao xước Máu hận trào lấm tấm lỗ chân lông Ðứng thẳng lên nghe gió vù vù Ngó ngơ ngơ hướng nào rừng rú Ðường trở về ai đó có đi Ôi biết sao nhập dòng tham dự Ông cụ già ngồi dưới nắng mai Nghe trống trận từ Văn Lang Xích Quỷ Nâng đóa hoa khấn giữa đất trời Xin được chết hoá đôi giầy người dũng sĩ
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2007 01:33:55 bởi sóng trăng >
|
|