Có phải tôi gặp may không? Mãi sau này, khi tôi trở thành tay súng từng trải trong việc săn bắn thú, tôi vẫn cho rằng, đó là cuộc đi săn có ý nghĩa nhất. Nó khẳng định được tôi là tay súng có tài và có bản lĩnh, mặc dù tôi chỉ nhăm nhăm cố gắng làm sao vui lòng được dân làng. Bin chỉ cho tôi cách nhận hướng, phòng khi có chuyện bất trắc còn biết đường mà về. Chúng tôi mỗi người đi mỗi ngả. Sự huyền bí của rừng già sẽ là nỗi kinh hoàng, lo sợ nếu ta chưa biết gì về nó. Dù sao tôi cũng đã lặn lội suốt ba tháng trên đỉnh Trường Sơn. Và nhất là những ngày qua, có thể nói tôi đã trả giá cho nó xứng đáng. Tôi cảm thấy tự tin ngay từ những bước chân đầu tiên, sau khi hai anh em cùng đứng trên chóp núi, cất tiếng hú chia tay. Cứ vài chục bước dấn sâu vào vùng rừng hoang dã, tôi lại bẻ một cây con theo hình zíc-zắc, để lúc quay về khỏi mất công tìm đường. Những ký hiệu vùng rừng chông thò tôi đã thuộc lòng. Có cái gì đấy phấn khích tâm hồn tôi, khiến tôi chưa hề có ý định lao ngay vào cuộc. Tôi leo lên đỉnh một dãy núi lớn, bỏ hết đồ đoàn xuống, vươn vai, hít thở, cảm giác lạc quan lâng lâng kích thích tôi. Tôi bắc loa tay, co người hú lên một hơi rõ dài và sau đó lắng nghe tiếng vang vọng của chính mình chuyền nhau. Tôi chờ nghe tiếng Bin hú đáp.
Tiếng hú của Bin đã hun hút lắm rồi. Cứ thế, chúng tôi hú chào nhau có tới ba bốn năm lần. Tôi tự thấy mình là nhà thám hiểm và tôi nằm ghếch đầu lên một rễ cây lớn lim dim thả tâm hồn ngược về với những cánh rừng hoang trong truyện thần tiên thời thơ bé mà tôi đã đọc. Nơi ấy có những con tê giác khổng lồ, những con nhện ranh ma và những đàn voi hung dữ không một dấu chân người. Nơi ấy có những con kỳ nhông hóa thạch và những đàn bươm bướm cánh to như cánh buồm cùng những bông hoa ăn thịt nở ra, cụp vào. Nơi ấy có những đàn bò tót và những con lợn lòi. Và không hiểu sao tôi lại nhớ tới cô bé quàng khăn đỏ, nhớ cô bé lọ lem, nhớ bảy chú lùn cùng những viên sỏi tinh khôi bỗng dưng hóa ngọc. Tôi thiếp đi trong lung linh của tuổi thơ, quên biến những tai họa bất thường mà cuộc chiến đã từng ập xuống. Tôi mơ thấy tôi được nàng tiên cá nâng lên nổi dập dềnh trên mặt nước trong leo lẻo, đón vớt những cánh hoa rừng ào ạt trôi. Tôi thấy xác những con vờ bay ngơ ngẩn tan trong sương sớm. Và cánh diều bé xíu của tôi nhí nhảnh chao cùng hàng trăm cánh diều bè bạn trên khoảng không bao la của đồng quê. Tôi chạy băng băng trên những gốc rạ, bờ đê, và sau đó là con trâu sứt mũi, cổ vSi, lao vào húc nhau với con trâu mình trắm, sừng ấu. Đất đá tung mù mịt trong tiếng hò la cổ vũ của bọn trẻ. Đống lửa rơm bị gió tạt vèo vèo. Và tôi lại thấy tôi vắt vẻo lưng trâu nghêu ngao hát bài hát ngược: “Bao giờ cho đến tháng ba. ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”... Tôi thấy tôi được bay lên cùng đám giấy hồng điều thầy tôi phơi ngoài sân chuẩn bị cho mùa câu đối tết. Thầy tôi vung bút vẽ chữ nho, nét chữ như mây, vương cả vào chỏm tóc phất phơ của tôi. Tôi cười như nắc nẻ khi thầy tôi luồn tay vào nách cù cù. Tôi ngơ ngác tỉnh trong trạng thái đê mê đầy nuối tiếc. Đã lâu lắm rồi tôi không có thời cơ để nhớ nhà, nhớ tuổi thơ đầy ngẫu hứng giữa thiên nhiên. Tại sao giấc mơ lại chỉ ngắn thế nhỉ. Và tại sao đó chỉ là giấc mơ? Tôi cố níu nó lại, mặc dù giờ đây tôi đã hoàn toàn tỉnh táo, nhận ra tôi sẽ phải làm gì. Tôi khóa súng, khoác bồng lủi thủi tụt xuống khe sâu tìm chỗ treo võng. Chợt tôi thấy bụng đói cồn cào và tôi bắc hăng-gô nấu cơm. Tôi nâng súng nhắm bắn chú chim cu lẻ loi và tôi chợt buông súng, nghĩ. Biết đâu chính chú chim kia cũng đang ngẩn ngơ nuối tiếc cánh đồng. Cho mãi tới sau này, thỉnh thoảng nhớ lại, tôi vẫn thường hỏi: chú chim ấy bây giờ liệu có còn không? Thế là tôi ních một bụng cơm không với một khoái cảm giống như mình là nhân vật chính trong pho truyện cổ.
Tôi không cảm thấy lo lắng buồn phiền, không gợn chút băn khoăn, vội vã. Tôi đang được tự do và tôi tận hưởng nó. Vị ngọt của cơm không sau một thời gian dài xa vắng, giờ đây còn ngọt mãi, thơm mãi trong trí tưởng tôi, đi qua hàng ngàn bữa tiệc có đủ món sau này. Và tôi lại leo lên võng, hy vọng giấc ngủ kia sẽ trở lại.
Nhưng tôi đã ngủ vùi. Khi tỉnh dậy, cảm thấy thoảng trong không gian mùi thuốc bắc, lẫn trong mùi lá cây. Có tiếng nước chảy và tiếng chim rừng ríu ran. Tôi lim dim nghĩ ngợi trong khoái cảm được bình yên, tự thả mình trong cõi bồng bềnh. Thực ra tôi chả nghĩ ngợi gì, chỉ biết rằng tâm hồn tôi đang được thả nổi. Không có sợ hãi. Không có tuyệt vọng. Chẳng có chiến tranh. Sự buông tha tạo nên cảm giác không có thời gian, không có không gian. Cái khoảnh khắc hạnh phúc thiêng liêng ấy bị đánh thức bằng một trận mưa rào bóng mây. Tôi chỉ kịp cuốn võng, ôm đồ đoàn trùm kín áo mưa. Trời không cho tôi ngủ, không cho tôi buông thả. Trận mưa hình như chỉ để nhắc cho tôi trở về với thực tại nên tạnh rất nhanh. Tôi nhận ra trời đã xế chiều, lòng chạnh ghen với chú chim cu khi ngước lên vẫn thấy chú thản nhiên rỉa lông âu yếm bạn tình. Chúng không còn coi đất trời và sự có mặt của tôi là gì, trong khi chính tôi mới là kẻ lẻ loi đích thực. Tôi giương súng ngắm. Quả thật, nếu tôi bóp cò thì chính tên chim cu kia sẽ phải trả giá cho sự trêu ngươi của hắn. Nhưng thoáng trong ý nghĩ thơ trẻ của tôi mách bảo với tôi rằng, lỡ không phải hắn mà là ả chim mái cả tin kia, thì thật oan uổng cho hắn quá. Thế là tôi nhắm vào chạc ba phía dưới đôi chim, nơi ấy có một đốm trắng, để thử súng, để cảnh báo những kẻ hưởng thanh bình tự do một cách quá tự nhiên chủ nghĩa kia.
Thế đấy. Phát súng của tôi trúng đích. Tôi khoái trá nhìn rõ sự hốt hoảng của cặp chim bay bốc lên nháo nhào, mỗi con một phía. Tôi thít lại dây khố, kiểm tra lại bồng rồi nhắm triền dốc, hướng lên. Tôi thầm cám ơn những đám mây sũng nước đã tạo nên trận mưa bất thường đánh thức tôi dậy. Và tôi đi mê mải. Thảm lá rừng bị nước mưa xẹp xuống êm dịu dưới chân tôi. Một bầy khỉ nhảy ào ào trên đầu kêu chí chóe. Chúng đu người, lăng cật lực giữa các vòm lá. Có con chạy quýnh quáng, phóng vọt lên ngọn cây cổ thụ, rồi hau háu nhìn xuống. Có phải chúng cũng đang hứng khởi vì trận mưa vừa rồi và biết rằng tôi không thèm bắn chúng? Rõ là loài khỉ khôn ranh vặt chẳng biết điều. Tôi ước chừng bầy khỉ này có tới hàng trăm con. Tôi mơ mộng nghĩ rằng, giá chúng khôn ngoan một chút, tôi sẽ làm vị chỉ huy của chúng. Vậy mà chúng lại bẻ cành bứt trái rào rào, nhìn tôi. Thậm chí có con lao xuống gần tôi kêu lên trêu chọc, đùa bỡn. Tôi quỳ xuống, giương súng lên dọa. Chúng nhơn nhơn gãi bụng, gãi phần dưới cơ thể một cách ngu độn, không hiểu rằng, cây súng trong tay tôi là sứ giả của tử thần. Sự hồn nhiên trước cái chết của loài khỉ tạo nên một tình cảm rất lạ lùng trong trí tưởng tôi. Tôi hạ súng, hù dọa chúng bằng những động tác kỳ quặc khiến chúng khiếp đảm nhảy túa lên cao, túm tụm nhau chò chõ nhìn xuống. Tôi cố tìm cho ra con khỉ đầu đàn, nhưng không thấy. Tôi mà phát hiện ra nó, nhất định tôi phải “nói chuyện” với nó bằng súng! Có thể tôi cũng chỉ bắn dọa thôi, nhưng không thể để quân tướng của nó dám hỗn hào với tôi như thế. Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy kích thích trí tò mò của tôi và tôi lẹ làng nằm ép mình xuống, lẹ làng bò vào đám bụi um tùm, hướng lên vòm cây cao nhất quan sát đám đông những con khỉ đang ngơ ngác. Động tác giả như rình mò bí mật tạo nên không khí lo sợ hoang mang cho chúng. Hình như có một mệnh lệnh nào đó lập tức truyền lan khắp bầy. Chúng choe chóe gọi nhau vọt hết lên cao rồi rất nhanh tan biến, tịnh không còn thấy bóng dáng một con nào. Sự kiện ấy cứ ám ảnh tôi mãi.
Thiện chí của tôi đối với chúng chẳng nói lên điều gì, mà ngược lại, gây ra sự hiểu lầm tệ hại. Chính tôi trở nên cô đơn, hẫng hụt như một vị khách bị chủ nhà bỏ rơi không thèm tiếp. Tôi lủi thủi bước trong bóng chiều, hờ hững với những con thú nhỏ hoảng hốt khi chúng phát hiện ra tôi. Rừng im ắng hạ mình xuống trong khi tôi lâm vào trạng thái mơ hồ, mãi tới khi tôi chợt nhận ra mình đã lọt vào một thung lũng rộng lớn với vô vàn những thảm lá mục mới bị ủi tung, không biết cơ man nào là dấu chân lợn rừng. Tôi theo dấu chân chúng hướng triền núi, chuyển dần lên. Tôi lợi dụng những gốc cây lớn, những ụ mối, những tảng đá, bò, trườn, nhảy êm, không vội vã nhưng rất khẩn trương. Có một sự hối thúc vô hình nào đó kích thích niềm say mê của tôi và tôi chỉ kịp nhận ra trời sắp tối rồi.
Tôi ngồi lom lom quan sát, cảm thấy đâu đó, phía dưới kia có tiếng nước chảy róc rách. Tiếng gà rừng xao xác bay. Tôi ép mình sát thân cây, nhận ra phía bên kia hẻm núi, một đàn lợn con lũn cũn chạy xuống cùng con lợn mẹ dài thượt. Tiếng hộc của nó gây nên chấn động mạnh cho cả cánh rừng vốn yên tĩnh. Tôi phỏng đoán hướng bầy lợn đi và trườn lẹ, tính sẽ phục đón ngang sườn dốc. Chợt tôi phát hiện phía trên tiếng éc của bầy lợn con, một con vật đen trũi, lầm lì đi nghiêng, cách tôi chừng ba chục mét. Tôi khéo léo nằm sát đất, kê súng lên rễ cây săng lẻ, rê mũi súng theo con vật. Tôi tự nhắc mình bắn điểm xạ ba viên một. Cái bóng đen cứ đi chéo xuống. Tôi mở khóa an toàn súng, chờ. Tôi không đủ kinh nghiệm xác định đó là con gì, tất nhiên không phải voi và hổ. Con vật vẫn chậm rãi đi nghiêng. Con gì nhỉ? Tôi tự hỏi. Chả lẽ là tê giác hay lợn lòi? Tôi nhắm đúng nách con vật khi nó vừa ngó nghiêng, ngửa cổ lên. Và tôi lẫy cò. Khẩu súng bật văng ra cùng lúc con vật dựng đứng, hộc lên hung hãn rồi lao rầm rầm xuống dốc. Tiếng cây đổ cùng tiếng hộc dữ tợn của nó làm xáo trộn rừng già. Tiếng lợn con và tiếng các loài thú khác kêu nhảy tao tác. Tôi bàng hoàng xoay quanh gốc cây, cảm thấy ướt mèm dưới đáy khố Tôi tựa vào tảng rễ lớn lấy lại tinh thần. Rồi cũng tới lúc rừng trở lại yên tĩnh và tôi cũng hết run. Lúc nãy nó lao xuống sát chỗ tôi nằm, cách vài ba mét khiến tôi dựng tóc gáy, đúng hơn tôi không kịp phản ứng nếu nó xông thẳng vào chỗ tôi. Những cây rừng to bằng cổ tay ngã rạp, không một vết máu. Chẳng lẽ tôi bắn trượt Nếu tôi bắn trượt thì nó không dựng đứng lên và lao thí mạng xuống như vậy. Tiếng hộc đủ biết ít nhất nó cũng bị thương nặng và giúp tôi kịp nhận ra đó là một con lợn độc. Tôi kiểm tra lại nấ khóa an toàn súng. Không hiểu sao tôi đã chủ định mở nấc liên thanh, bắn điểm xạ ba viên, ấy vậy mà giờ đây nó lại ở nấc phá một! Thế này thì con lợn chỉ có thể bị thương thật và tôi như người say, loạng choạng nhắm theo vết cây đổ tìm dấu con thú.
Nó nằm vắt ngang trên một tảng đá lớn, mõm chúc xuống nước, máu loang đỏ luồng chảy con suối. Tôi mừng quýnh, giương súng lên trời kéo cò rồi chống súng lắng tai nghe. Chừng vài phút sau, từ trong sâu hút của rừng già, có tiếng súng đáp lại. Tôi đặt khẩu súng gác lên mình con vật, đứng lùi ra, ngắm nhìn nó. Rồi tôi xán lại vuốt ve hỉ hả, chợt nhận ra chiếc răng nanh trắng nhởn bị gãy khi nó lao xuống suối, va phải tảng đá lớn. Tôi tựa hẳn người vào con lợn, tựa vào chiến công kỳ diệu của tôi say sưa ngắm nhìn dòng suối xanh đen có vệt đỏ máu. Và tôi nhảy ào xuống đó lặn ngụp, cùng với mặt trời đang lặn ngụp xuống rừng già. Con lợn rừng ấy bị trúng tim và nó chết như thể chỉ đợi tôi đến để dâng hiến. Đầu óc kiêu hãnh của tôi khi ấy được kích thích tới mức, tôi lại nhảy lên, co người, một chân đặt lên mình con vật, rướn cao cổ hú lên, hét lên, mà vẫn không sao thỏa mãn. Tôi bắn thêm ba phát súng nữa, theo lời hẹn trước với Bin và anh Yơng. Tiếng súng trả lời tôi đã xích lại gần hơn khi nãy. Rừng già có khả năng yên tĩnh tới mức chiến tranh chừng như cũng không khuấy động nổi nó.
*
* *
Con lợn nặng có tới hơn hai tạ, ấy là theo ước tính của tôi. Người ta xả thịt nó ngay trên tảng đá chia cho mười người gùi. Da nó dày hơn hai đốt ngón tay và trong mình nó có tới vài ba mảnh đạn pháo. Nó cũng đã từng bị thương từ hồi nào. Trong số những người tới gùi thịt có cô BDên hay cười. Cô cười phô cái lợi đỏ vì cô đã cà hết dãy răng hàm trên, theo phong tục, nên nom cô cứ ngồ ngộ thế nào. Thực ra hồi mới tiếp xúc với họ, thấy họ cà răng, căng tai, tôi rất sợ. Cái sợ không hẳn là sợ mà nó cứ ơn ớn gai gai thế nào. Nhưng rồi một thời gian quen dần, tôi lại thấy hình như có lý, hình như chính nó tạo nên một vẻ đẹp vừa ngây ngô, vừa độc đáo, hay hay. Cái độc đáo hay hay ấy tôi không giải thích được, vì giờ đây, mỗi lần thấy BDên tõn tẽn cười, tôi thấy cô thật đáng yêu. Cô có một vẻ đẹp rất riêng, rất khó giải thích, nó chứa đựng một ý nghĩa đặc biệt lạ lùng trong cảm giác và tôi chỉ biết nói rằng, nếu thiếu nó, hẳn cô không thể duyên dáng được như thế. Tôi đã cố hình dung nếu BDên để nguyên hàm răng trắng khi cô cười sẽ vô duyên thế nào. BDên ở trần, thực ra cô mặc áo lót, một loại áo hai mảnh bó chắc phần dưới ngực và bụng, nó gần như hở hai phần ba bầu vú căng tròn và lỗ rốn rất chi tự nhiên. Mãi sau này tôi mới hiểu, quan niệm của người Bah Nar, khi còn trẻ, nhất là khi chưa có chồng, vẻ đẹp cơ thể của người con gái phải được phô ra, chỉ khi đã có con, người ta mới che lại. BDên mặc váy có nhiều tua và những đường hoa văn rất sặc sỡ. Khi cô bước, bắp vế lấp loáng trắng hiện ra rất nhanh và được khép lại bởi đường xẻ chéo phía trước của thân váy. Tôi lén quan sát cô mỗi lần cô uyển chuyển bước lên bước xuống mấy bậc dốc và hình như cô biết điều đó.
Hình như cô cũng thích tôi. Cô bắc nồi nấu cơm và luộc quả tim con lợn rừng cùng mấy thứ như gan, cật cho những người gùi thịt ăn trước lúc lên đường. Tôi xăng xái giúp cô bổ củi, quạt khói. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ ra một câu gì đó, cố tình nói không chuẩn và thế là BDên đấm tôi thùm thụp. Thậm chí có lần tôi chìa cùi chỏ hích mạnh vào ngực cô, cô cười ré lên, bảo tôi tầm bậy, tầm bạ một cách thích thú. Tôi bảo BDên dạy tôi nói tiếng Bah Nar. Rồi tôi chỉ vào tay, vào chân, vào lưng, hỏi tên các bộ phận trên cơ thể. Cô chăm chú phát âm và tôi cố tình phát âm chệch. Tôi lựa lúc cô cúi xuống thổi lửa, lúc đám đông mải mê xẻ thịt dưới suối không ai để ý, bạo dạn tiến sát vào cô, chộp tay vào bộ ngực đầy ứ và căng cứng. Cô ré lên rồi túm đầu tôi, đè ngực lên vai tôi, véo rất mạnh tai tôi. Tôi thừa cơ chộp ngực cô lần nữa và cô đấm tôi mấy quả đau điếng. Cô cũng nói được ít tiếng Kinh nhưng giọng cô rất cứng. Cô vớ được nhánh củi, đánh mạnh vào cánh tay tôi hổn hển nói:
- Tầm bậy tầm bạ cái tay này, ưng “đi công tác” trong ngực người ta!
Tôi trở nghiêm mặt, tự đánh vào cánh tay, nói theo, bằng thứ tiếng Bah Nar ngọng nghịu của mình:
- Tôn lốt ngan cứ cá này! (Đánh chết cái tay hư này). Thực ra đó là lối chữa thẹn rất trơ trẽn của tôi. Nhưng cô lại không nghĩ thế. Cô sợ tay tôi đau nên giật rất mạnh nhánh củi, khiến tôi bị hụt loạng choạng đổ nhào vào người cô. Chúng tôi cứ đùa bỡn như thế trong suốt thời gian chờ nồi cơm chín. Và tất nhiên, những người xẻ thịt dưới suối kia chẳng thể nào biết được trò ma mãnh của tôi. Tuy nhiên, khi có ai đó ngẩng lên, nói điều gì với BDên là tôi rất nhanh ngồi thu lại ra vẻ như đang làm gì đó. Cuộc sống kể ra cũng thật lạ lùng, nhiều lúc cứ tưởng như đã là may lại hóa ra rủi, và ngược lại, cứ tưởng là rủi lại hóa ra may. Mới hơn một tháng trước đây, đời tôi tưởng thế là tuyệt vọng, là hết cả đường đi lẫn lối về. Vậy mà giờ đây tôi lại được sống thế này, vui thế này...
Tôi nghĩ thế và tôi mỉm cười. BDên chợt thấy tôi tự dưng ngồi im rồi lại chợt thấy tôi cười, cô bảo:
- Anh Bìn có cười một mình nhé. Không được tốt đâu. - Tôi biết cô muốn gì và tôi lại tán bằng tiếng Bah Nar:
- Ưng bắt cái miệng mình cắn cái miệng BDên quá!
BDên lườm tôi rồi chợt đứng lên vẻ ngơ ngẩn. Tôi đứng sát trước mặt cô. Bỗng cô đỏ mặt cầm cánh tay tôi rồi rất nhanh đẩy mạnh tôi một cái khiến tôi không kịp phản ứng. Cô hất mạnh tóc, tung váy chạy xuống bờ suối. Tôi sững sờ nhìn theo cô rồi lững thững bước theo. Cô không xuống chỗ mấy người xẻ thịt mà rẽ sang một lối khác. Tôi khấp khởi chạy, cố đuổi kịp cô. Tôi chộp tay BDên và cô ngả người vào thân cây gì đó rất to. Tôi liều lĩnh ôm cô đòi hôn, nhưng cô vùng vẫy rất mạnh khiến tôi sững lại. Cô đẩy được tôi ra và tung váy chạy ngược trở lại bếp lửa. Tôi vừa tiếc vừa sợ, vừa cả ngượng nữa. Rõ là điên khùng vớ vẩn! Chợt tôi phát hiện được lùm chè dây và tôi hí húi hái trong một tâm trạng chẳng ra gì. Tôi đem nắm lá chè dây xuống suối rửa nhằm che đậy vẻ mặt ngớ ngẩn của mình nhưng lại thấy không ổn vì tôi run quá. Tôi cố trấn tĩnh cầm nắm lá hướng về chỗ mấy người xẻ thịt. Hình như chẳng ai biết gì, chẳng ai để ý tới nét mặt thuỗn thờ của tôi, và tôi yên tâm trở lại. Tôi nói với mấy người xẻ thịt rằng, ăn thịt con lợn xong mà uống thứ chè dây của tôi thì rất là tuyệt. Rằng nước chè dây làm cho mắt người sáng ra. Rằng chính chè dây đã giúp chúng tôi vượt Trường Sơn tỉnh táo trong những đêm qua các trọng điểm…
*
* *
Tôi được anh Yơng trao cho bộ đồ Quân giải phóng bằng vải Ga-Ba-Đin xanh biếc, mới toanh. Anh bảo phần thưởng của du kích tặng vì tôi bắn được con heo to. Tôi xúng xính trong bộ đồ mới. Thế là tôi hết phải đóng khố, hết phải cởi trần và nhất là từ nay tôi không còn phải khó chịu vì gai cào ngứa ngáy nữa. Làng náo nức chia thịt heo về cho các bếp. Mỗi người được một xâu to. Tôi và Bin cũng được mỗi người một phần, mặc dù Bin bắn được hai con choai choai. Bin bảo tôi:
- Anh Bìn có thành tích to hung đấy.
Tôi bắt tay vào xào nấu và nướng thịt. Bà con xúm đến xem rất đông. Để thỏa trí tò mò của dân làng, tôi và Bin đem hết các món vừa làm xong cho mỗi người nếm một vài miếng. Tôi bày cho họ cách làm chả lá lốt, cách xào thịt với chuối xanh, cách nấu món ca-ri làm súp ăn với củ sắn lùi. Cứ ngỡ đó chỉ là một trò vui, ai dè bà con ai cũng làm theo. Tôi bảo Bin gọi BDên sang ăn chung bữa. Bin bĩu môi rất dài, nói:
- Anh ưng thì anh gọi nó. Mình ghét nó nhiều mà.
Tôi thầm nghĩ trong lòng về cái sự yêu ghét kỳ cục của Bin. Chắc trước đây có chuyện gì đó không hay giữa BDên và cậu? Hình như cậu có ác cảm rất nặng đối với BDên. Và hình như chỉ cần nói tới tên BDên đã đủ khiến Bin nổi khùng. Tôi quyết định lặng lẽ quan sát, lặng lẽ nghe ngóng. Bữa cơm rốt cục chỉ có hai anh em. Lẽ ra bữa cơm này phải ngon nhất thì mới đúng. Nhưng tôi đã ăn rất uể oải trong khi Bin có vẻ như không để ý tới sự uể oải ấy. Sau một lúc cậu đã đánh bay phần thịt của mình, ngước nhìn tôi, hồn nhiên toác miệng cười:
- Anh Bìn không ăn ngon à? Ăn ngon đi chớ.
Tôi buông đũa:
- Mình ớn thịt rồi. Bin ăn nữa đi.
Bin ăn hộ phần thịt của tôi một cách vô tư và tôi lại nghĩ hình như chả có vấn đề gì. Chả có ác cảm và càng không có sự gì quá nặng nề đâu, chẳng qua do tính Bin thế thôi. Mọi sự đều chỉ do tôi có tật mà sinh nghi, rồi tự chuốc lấy cái lo lắng vẩn vơ chẳng đáng phải bận tâm. Tôi gạt hết các món ăn vào cái ca US của Bin rồi đứng lên, lặng lẽ ra sàn cửa ngồi, như là sự vô tình, nhưng thực ra tôi hóng sang các nhà tìm bóng BDên. Tôi cứ lởn vởn nhớ tiếc lởn vởn hy vọng nhìn thấy cô đi đâu đó ngang qua nhà chúng tôi Tôi chỉ mong cho trời mau tối. Tối nay làng tổ chức liên hoan mừng vui múa hát và uống rượu cần, không phải lễ hội gì. Như thế càng hay. Tôi bần thần quay vào nhà vì chả lẽ cứ ngồi hóng một cách lộ liễu quá như vậy. Bin đã ăn xong. Cậu nằm lim dim, gác chân lên cái gùi rách, ê a hát. Thấy tôi vào, cậu ngưng bặt.
- Anh Bìn có chuyện gì? Nhớ miền Bắc hung à?
Tôi chột dạ. Té ra nãy giờ cậu ta vẫn theo dõi tôi. Té ra chẳng có vô tư tí nào. Và tôi đĩnh đạc nói:
- Không. Mình ra xem mọi người tí thôi mà.
- Ớn cho thằng Mỹ Kon-Lơ quá, anh Bìn ạ
Ừ nhỉ đã lâu tôi gần như quên hắn. Tôi hỏi:
- Ờ nhỉ - Nó đâu rồi?
- Nó phải ở ngoài chòi rẫy coi lúa, ai cho nó vào làng mình được.
- Thế sao không trả nó cho cấp trên.
- Có trả. Nhưng ai mà khiêng được nó?
- Nó làm sao mà phải khiêng?
- Chô cha, nó sốt. - Bin nói và ngồi dậy. - Nó sốt không phải bình thường đâu. - Bin nhồi thuốc vào ống điếu. Nom cậu hút thuốc chẳng khác gì một ông già.
- Nó mà chết thì chuyện không đơn giản đâu, tôi nói.
Bin nhổ nước miếng chin chít. Chợt cậu ngước nhìn tôi, hỏi:
- Sao nó cũng biết sốt rét như người mình nhỉ.
Câu hỏi ngây ngô của Bin không làm tôi buồn cười mà khiến tôi tự nhận thấy trách nhiệm của mình, không thể không có ý kiến với anh Yơng, anh Miết. Tôi nắm tay Bin, kéo cậu đứng dậy:
- Đi!
- Đi đâu?
- Đi gặp anh Yơng.
- Làm sao gặp? Nó đang bận lo tổ chức liên hoan mà.
- Thế có ai trông coi thằng Kon-Lơ không?
- Có chớ, sao không? Hồi hôm nó sốt nhưng đã đỡ rồi. Cho nó uống thuốc ký ninh rồi.
Tôi không biết nên nói thế nào. Thực lòng tôi rất muốn đến thăm thằng Kon-Lơ, không phải vì tôi có cảm tình gì với hắn. Nhưng tôi chợt nghĩ ra, nếu một trong số người đi trao trả hắn cho cấp trên mà tôi được họ cho đi thì hay biết mấy. Đây là cơ hội để tôi có thể tìm được lối thoát ra khỏi họ. Vâng, dẫu sao thì tôi vẫn thích được trở về một đơn vị nào đó, hơn là ở lại đây.
- Anh Bìn có ưng đi thăm thằng Kon-Lơ không?
- Không. - Bằng sự phản xạ tự nhiên tôi trả lời Bin.
Tôi cảm thấy hình như mọi ý nghĩ của tôi Bin đều nghe được. Còn ý nghĩ của cậu tôi chỉ phỏng đoán, mà là phỏng đoán sai lệch. Tôi tự xác định không để lộ những ý nghĩ riêng tư. Phải hết sức tỉnh táo, tôi nghĩ. Và tôi nằm dài trên sàn nhà, tựa hồi như chuyện thằng Kon-Lơ chẳng dính dáng gì tới tôi. Tôi chu miệng huýt một bài sáo. Bin gõ gõ ống điếu vào gộc củi, nói:
- Anh Yơng bảo chờ nó khỏi sốt thì đưa nó lên huyện đội.
Tôi nhổm dậy:
- Huyện đội ở đâu?
- Ở trong rừng trong núi chớ ở đâu.
Suýt nữa tôi hỏi thêm về huyện đội, nhưng may mà tôi đã rất nhanh kìm chế được mình. Không thể nôn nóng trong tình thế oái ăm này, tôi tự khuyên, và xoay người lại huýt sáo tiếp.
- Tối nay vui hung đó. - Bin nói. - Anh Bình ưng múa hát với BDên thì dễ ợt.
Tôi ngước nhìn Bin, gặp ánh mắt ranh mãnh của cậu.
- Mình ưng múa hát chung thôi, tôi nói.
- Biết chung, biết riêng.
Câu nói của Bin rõ ràng mang theo những ẩn ý không thật bình thường. Tôi giả như chuyện vặt, giả như một câu trêu đùa không có ẩn ý gì. Ngoài sân làng bắt đầu có tiếng gọi nhau, tiếng chân chạy qua chạy lại. Tôi dóng tai nghe. Có tiếng ching chiêng chập chờn cùng tiếng đàn tơ-rưng, tiếng đàn goong rạo rực đâu đó. Bin vùng dậy thắt lại dây khố. Chúng tôi cùng tếch ra khỏi nhà. Trên bãi rộng của sân làng một tốp thanh niên đang tập phóng lao, tập múa khiên và tập đi cà kheo. Tôi dừng lại xem. Tôi có cảm giác tôi bị lạc lõng giữa niềm vui của họ. Bin nhập cuộc rất nhanh. Cậu đã đứng vào giữa hàng ching chiêng hong hóng chờ cánh tay của một ông già đứng trên ụ mối huơ lên. Nét mặt ông đanh lại mỗi lần hạ cánh tay đen đúa, khẳng khiu xuôi xuống. Hình như ông đang bắt nhịp cho dàn ching chiêng, tôi nghĩ và lân la lại gần. Không phải bắt nhịp mà đúng là già đang dóng tai nghe từng tiếng binh boong, sau đó tới bên từng người, gò lưng lắng tai nghe lại từng chiếc. Cánh tay khẳng khiu đen đúa ấy dường như không còn là một cánh tay thông thường mỗi lần chính nó nắn nót gõ gõ vào chiếc chiêng đồng vừa mềm mại lại vừa cứng rắn. Âm thanh phát ra phơn phớt đâu như rất xa vời. Già nghiêng hẳn người xuống lắng nghe. Đôi cánh mũi phập phồng và đôi tai to chừng như bất động.Những giọt mồ hôi túa trên hai gò má già nói lên tất cả những gì khó khăn của công việc. Mãi sau này tôi mới biết đó là việc so chiêng dân giã bình thường như hàng trăm hàng ngàn những cuộc so chiêng khác. “Boong”. “Địch”. “Bình”. “Boong”. Cái âm thanh vừa ngân xa vừa ngắt đoạn ấy dưới sự chỉ huy của cánh tay đen đúa khẳng khiu kia là sự chuẩn bị cho nhịp điệu quyến rũ của cuộc vui sắp tới. Ông già cầm chiếc dùi trở về ụ mối uy nghi phát lệnh. Tôi sững sờ nhận ra tôi đã và đang chìm ngập trong vòng xoáy của đoàn người gõ ching chiêng. Họ gõ như múa. Họ di chuyển như múa vòng quanh ụ mối, vòng quanh ông già và tôi. Tôi nắm đuôi khố của Bin, nhảy theo cậu, nhảy theo nhịp điệu kỳ lạ của cồng chiêng. Tất cả những gì đã diễn ra không còn ai nhớ tới nữa. Cả câu chuyện vặt vãnh thường ngày, cả chiến tranh khốc liệt. Giờ đây chỉ có tiếng cồng chiêng và niềm vui của cộng đồng. Họ hú lên khi cánh tay khẳng khiu của ông già phất mạnh cùng với sự đột ngột ngưng bặt của âm thanh. Ông già nói gì đó với những nhạc công của mình và tôi thấy Bin trao cái chiêng của cậu cho một người mới tới. Cậu tới bên tôi, nói:
- Anh Bìn. Mình xuống suối nước coi thử người ta tắm cho boók Phới đi.
- Thế Bin không ở đây đánh ching chiêng nữa à?
- Mình phải đi coi nhiều chỗ chớ.
Bin vừa nói vừa nắm tay tôi chạy theo con đường rộng mới được phát quang để xuống suối. Gọi là suối nhưng thực ra đây là bãi rộng, nơi tiếp giáp của một nhánh sông Ba với con suối khá to nên khoáng đãng vô cùng. Chúng tôi không ai bảo ai cùng ngỡ ngàng nhận ra mặt trời đỏ ối đang lững lờ trôi trên đỉnh núi phía bên kia bãi mập mờ không hiểu là sương hay khói. Một tốp các vị trung niên, trong đó tôi nhận ra ngay có cả anh Yơng và anh Miết. Họ đang vừa hát vừa khiêng già Phới từ dưới suối lên bãi cát. Họ đặt già ngồi trên một phiến đá lớn như một đứa con nít. Trong khoảnh khắc vui vẻ, một người vung tấm dồ hoa lớn với hai màu đen đỏ khoác lên vai già. Rồi chừng như đã có sự phân công sẵn, hai người hai bên kèm cho anh Miết khom người cõng già Phới. Một kiểu cõng kỳ lạ, gần giống như kiệu mà vẫn không phải kiệu. Tốp người đi theo bỗng nhảy nhót, hò hét inh ỏi, đến mức, tôi nghĩ rằng họ đang làm thủ tục xua đuổi tà ma hơn là rước một cụ già vừa được tắm lên khỏi bến nước. Già Phới ngồi ngất ngưởng trên lưng anh Miết nhìn về phía trước. Nơi ấy có một người vừa đi giật lùi vừa huơ chân múa tay, hát. Thực ra không phải là hát mà là đọc một thứ thần chú gì đó bằng một giọng đều đều, với những câu rất dài và tiết tấu nhanh. Thỉnh thoảng ông ta cúi đầu không hát, không nói mà chỉ ư ử trong họng một điệu gì đó với vẻ mặt rất trang nghiêm ngước nhìn lên già Phới. Đoàn rước mỗi lúc một đông, hướng tới nhà rông trong ánh đuốc bắt đầu được thắp lên chập chờn giữa không gian thâm nghiêm của rừng già lúc tranh tối tranh sáng. Tôi chẳng biết làm gì hơn là theo đoàn rước lên sàn nhà rông, vừa bắt chước tiếng la của Bin vừa làm những động tác ngây ngô theo người này, người nọ, mặc dù không ai để ý. Nhà rông được trang trí bằng những cây cột lớn với những chùm tua rua nhiều màu sặc sỡ. Một dãy rượu cần được xếp đều nhau theo chiều dọc của ngôi nhà. Hai bên trải chiếu hoa, thứ chiếu được đan bằng lá dứa dại rất công phu. Già Phới được đám rước hạ xuống chiếc chiếu hoa lớn có một ghè rượu. Dân làng không ai bảo ai, tự động ngồi kín sàn nhà. Họ im phắc nhìn theo người dẫn đầu đoàn rước cầm trên tay thứ bùa ngải gì đó đặt lên dàn lễ, nói một thôi một hồi. Ông ta vừa ngưng nói, dân làng đồng loạt ồ lên. Anh Miết đỡ già Phới còn anh Yơng long trọng mở lá chuối trên miệng ghè rượu, long trọng cắm cần, long trọng đặt vào tay già, giúp cho già hút rượu. Mọi người chăm chú nhìn theo. Đúng lúc già Phới buông cần thì tiếng cười nói rộ lên. Các cần rượu chỉ chờ có thế, rất nhanh được cắm vào ghè. Tôi được Bin cầm tay kéo lên. Tôi cảm thấy mọi người nhìn tôi rất thân thiết và họ đang bàn tán với nhau về sự có mặt của tôi. Tôi chắp hai tay trước bụng cúi chào khiến mọi người cười ồ. Bin kéo tôi ngồi xuống bên già Phới.
Già Phới nheo nheo mắt cười, là tôi cảm thấy thế. Rồi hai bàn tay run run của già đưa ra, rờ lên mặt, lên đầu tôi, dừng lại nơi vết sẹo ở ngực. Tôi nín thở vì xúc động khi nghe tiếng trầm trồ của bà con và tôi cũng run lên cầm cần rượu ai đó trao tận lòng bàn tay cho tôi. Tôi quỳ xuống nâng cần rượu cho già. Già âu yếm hút. Tôi nhìn Bin tỏ lòng biết ơn. Bin ra hiệu cho tôi đỡ lấy cần rượu đúng lúc già Phới vừa buông ra và cậu nói nhỏ: “Anh uống đi”. Tôi trịnh trọng bụm đầu mẩu cần rượu đưa lên miệng, mắt ngước nhìn lên những chùm tua rua, miệng hút thật từ tốn. Tôi nghe rõ tiếng nước chuyển trong ghè roong roóc. Vị đắng nhăn nhẳn thơm nồng và vị ngọt từ đâu đó len lỏi dâng lên, tan vào trong ngực. Tôi hút mạnh dần, mạnh dần. Cho đến khi nghe tiếng Bin reo nhỏ bên tai: “Đứt can rồi”. Tôi không nhớ tôi buông tay khỏi cần rượu thế nào, nhưng tôi nhớ rất rõ anh Yơng gần như vồ lấy tay tôi, kéo tôi đứng dậy trong tiếng xôn xao của dân làng. Anh Yơng nói gì đó, chắc là giới thiệu tôi vì tôi thấy mọi người đều nhìn tôi, thỉnh thoảng ồ, à có vẻ ngưỡng mộ. “Tốt rồi”, -Bin nói- và không hiểu sao tôi ôm chầm lấy Bin. Bin kéo tôi ngồi xuống. Bà con đã cắm cần vào các ghè và đã bắt đầu mời chào nhau. Trong khoảnh khắc lâng lâng vì xúc động ấy tôi thoáng thấy khuôn mặt sáng rỡ của BDên đâu đó rất gần. Gần tới mức giá tôi mạnh dạn nhoài ra có thể nắm được tay cô. Nhưng tôi đã bị ai đó ấn cần rượu vào miệng bảo uống chung một can. Và tôi đã thụ động làm theo. Tôi nhập vào đám đông, trôi trong đám đông như thế. Cho tới lúc hình như có ai đó nhấc bổng tôi lên rồi lại thả tôi xuống. Tôi bị cuốn theo những bắp chân, những cánh tay trần và những khuôn ngực đàn ông vạm vỡ. Không hiểu chúng tôi đã rời nhà rông từ lúc nào. Tôi nhận ra đống lửa bốc ngùn ngụt múa may quay cuồng cùng tiếng nhạc cồng chiêng cũng múa may quay cuồng và tôi đã nắm tay ai đó. Đúng là BDên. Chúng tôi xoáy tròn trong cơn lốc của cộng đồng. Nếu bạn đã nằm mơ thấy mình được bay lên thế nào thì hôm ấy tôi cũng ở trong trạng thái như vậy. Có khác chăng là thỉnh thoảng tôi đột ngột chững lại để trấn tĩnh, để tự khuyên mình, tự nhắc nhở mình, rằng chớ có say, chớ có quên mình là người khác tộc. Rằng dù sao mình cũng chỉ là khách. Nhưng đó cũng chỉ là những khoảnh khắc chợt nhớ. Nó hoàn toàn chỉ có ý nghĩa trong khoảnh khắc - cái khoảnh khắc ấy tạo nên những hành động bản năng sau này, đúng là sau này nhớ lại, tôi vẫn cứ tự trách mình là đã thoáng nhận ra nó mà sao không tuân theo nó. Tôi luôn có ấn tượng mạnh với những khoảnh khắc lý trí đã bước được một chân vào, ấy thế mà tôi vẫn không làm chủ được mình. Những điệu múa giản đơn chỉ có bước lên bước xuống, tay nắm trong tay, đưa lên rồi lại hạ xuống, thân hình di chuyển theo một vòng xoáy ngược chiều kim đồng hồ, thỉnh thoảng dồn tụ lại, thỉnh thoảng tan loãng ra. Nó nhịp nhàng quyến rũ tôi tới mức tôi cứ tự khổ sở vì sao hôm nay mình lại mặc áo quần. Lẽ ra tôi cũng đóng khố cởi trần như hầu hết các bạn trai thì tuyệt biết bao. Nhưng nào có ai để ý tới điều đó. Cứ mỗi lần ngừng nhạc cồng chiêng là họ xúm lại tôi, lôi kéo mời chào tôi uống. Tôi đã cố uống cầm chừng, nhưng tới lúc chính BDên yêu cầu tôi uống chung một can với cô thì tôi không thể từ chối, không thể ma lanh ma cuội. Hơn thế tôi đã hăng lên uống cật lực, không phải một can mà là hai ba can liền. Nếu chỉ có thế thì mọi chuyện đâu có gì quan trọng vì mọi người đều đã bốc lên cả rồi. Cánh trai làng múa đàn goong với những bước nhảy lanh lẹn và uyển chuyển, họ quanh tròn quanh các cô gái. Bãi sân rộng lấp lánh ánh trăng. Tôi vẫn còn đủ sức nhận ra vẻ đẹp cường tráng của những vồng ngực trai trẻ và những tấm lưng trần với sức quyến rũ của những dây khố nhiều tua ve vẩy, xòe ra trước hai bắp vế vững chãi di chuyển điệu đàng. Cuộc vui mỗi lúc một chuyển động phức tạp hơn. Con trai con gái trộn lẫn vào nhau. Ai ưng uống nữa thì cứ ôm lấy ghè rượu mà uống. Ai ưng múa hát với ai thì thả sức đưa đẩy, mời chào, lôi kéo. Còn ai thích đùa giỡn thì cứ đùa giỡn. BDên và mấy cô gái xúm vào trêu chọc tôi. Họ bắt tôi tập cho họ nói tiếng “con kinh” rồi ép tôi phải dạy họ hát bài “cô gái vót chông”. Tôi nắm tay hai cô cùng một lúc và hát như chưa bao giờ được hát. Họ hát theo. Khi có ai đó hát trật một lời nào đó, lỗi một nhịp nào đó, thế là lăn xả vào nhau mà đấm, mà cấu chí. Rồi phạt uống một can. Tôi lợi dụng những lúc như thế kéo BDên áp sát vào người, véo vào cô một cái với một hàm ý hết sức thô tục. Cô cười ngặt nghẽo, đổ hẳn người vào người tôi. Tôi tranh thủ khoắng tay chộp ngực cô. Cô vừa cười vừa đấm lưng tôi thùm thụp. Ở trên nhà rông người ta vẫn đang hát say sưa. Chừng như Bin của tôi vẫn còn ở trên đó.
Tôi nói với BDên là tôi đi tìm Bin, nhưng cô và các bạn gái không cho. Tôi cố tình giằng ra khỏi tay họ. Cuộc giằng co vật lộn thực ra chỉ để giằng co vật lộn khiến tôi đuối sức ngã quay vào một đống cỏ và tôi đã ngủ vùi trong đó vì say khướt. Khi tỉnh dậy, tôi thấy tôi đang nằm cuộn khoanh trong tấm dồ sặc sụa mùi khói cùng BDên và hai ba cô gái nữa. Té ra chúng tôi đã ngủ chung như thế khá lâu rồi. Mấy chàng trai cạnh đó người ê a hát, người ôm ghè rượu lầm rầm trò chuyện, người ngồi bật đàn goong. Tiếng hát, tiếng đàn âm i chập chờn tựa như ở cõi nào xa lắm chứ không phải sát ngay bên cạnh tôi đây. Tôi he hé mắt nhìn ra. Một cô gái ngực trần đang xõa tóc thổi đinh-yơng, đầu cô ngoẹo vào vai chàng trai. Chàng trai có vẻ đẹp cường tráng như một hoàng tử đang ư ử hát giọng mũi. Tôi không dám động cựa, chỉ sợ tiếng đinh-yơng ngừng. Chỉ sợ hai cái đầu mập mờ kia ngừng lắc lư và chỉ sợ tiếng hát giọng mũi kia tắt lịm. BDên se sẽ cựa mình, se sẽ đưa tay lùa vào trong áo, xoa lên vết sẹo trên ngực tôi. Tôi se sẽ nghiêng người, se sẽ lựa thế nắm bàn tay nóng hổi của cô. Tôi cảm thấy người tôi bỗng dưng lạnh toát, cơn run không biết từ đâu dấy lên khiến tôi không thể kìm lại được. Sao lại run thế nhỉ? Tôi đủ tỉnh táo để tự hỏi mình. Nhưng nó cứ run giật lên. Hình như BDên sợ tôi biến mất. Cô ấp bộ ngực căng cứng vào người tôi, hai tay ghì chặt cổ tôi lại. Cô khẽ rên lên. Tôi cố lựa thế, tách được tay BDên ra và ngồi dậy. Không còn hai cái đầu lắc lư. Không có tiếng rì rầm. Đống lửa than nổ lép bép. Và gió. Gió thổi ràn rạt. BDên quàng tay qua bụng tôi níu lại. Đêm lặng phắc. Thoang thoảng mùi đất mục bốc lên. Giá mà tôi can đảm đứng dậy, can đảm đến chụm thêm củi cho đống lửa than đang ngún khói, đang xì xì đùn ra những đầu củi tươi thứ nước bọt thơm nồng! Hình như tôi đã định làm những việc ấy và hình như tôi đã cố nhoài ra khỏi tấm dồ… Vâng. Cái gì tôi cũng chỉ hình như. Cái cõi hình như ấy đã giúp tôi và BDên quấn lấy nhau lén lút vượt ra khỏi đống cỏ có những người bạn vô tư ngủ, để vào sâu trong rừng. Hình như BDên còn vơ theo cả tấm dồ và chúng tôi chẳng còn biết trời đất là gì nữa. Cho tới khi tỉnh lại, hình như tôi đã thành kẻ tội phạm. Tôi bị trói cứng trước khi hiểu được đêm qua, tôi là kẻ xấu nhất trong những kẻ xấu. Hơn thế, tôi là kẻ gieo rắc những tai họa cho cộng đồng mà một người Bah Nar nào cũng phải biết. Tôi bị hai thanh niên lôi về đầu làng, đẩy ngã dúi vào một cây gì vừa hôi vừa ẩm ướt. Người ta xúm quanh xỉ vả tôi, tất nhiên bằng tiếng Bah Nar, dù không biết, nhưng tôi hiểu rõ tình cảnh nhục nhã của mình. Nỗi kinh hoàng choán ngợp lên toàn bộ trạng thái tinh thần và thể chất tôi. Tôi không còn biết làm gì hơn, ngoài việc gục đầu vào rễ cây khóc. Tôi không nhớ tới BDên, không còn tí ti lý trí để nhận thức rằng, trời đã xâm xẩm tối. Mãi tới khi tiếng nói của người ta tha thướt tôi mới sực hy vọng thế nào Bin và anh Miết, anh Yơng cũng tới cứu tôi. Tôi dồn toàn bộ trí nhớ để nhớ lại sự việc, nhưng sự việc diễn ra hoàn toàn giống một cơn ác mộng. Nó khác hẳn hôm tôi bị bắt bị trói để đưa về hang đá. Hình như tôi đã lả đi và hình như cơn tuyệt vọng cùng đường đã đánh thức tôi dậy. Tôi lơ mơ nhận ra bóng ai đó cầm cây đuốc lảo đảo tiến tới sát hốc cây, vừa khạc nhổ vừa ư ử hát. Đúng là Bin của tôi rồi. Bin vẫn còn say mèm. Cậu ném cây đuốc, ngã chúi vào ai đó, đoạn ôm trước bụng một quả bầu khô đựng nước lom khom chui vào hốc cây, ngồi xuống trước mặt tôi. Tôi cố trấn tĩnh ngước nhìn cậu, nhưng vì trời tối quá, tôi chỉ nhận ra cậu đang run rẩy bê bầu nước, nâng lên, kê sát vào miệng tôi. Tôi uống. Nước chảy tràn xuống ngực. Bin cũng uống. Rồi cậu ngậm nước phun vào mặt tôi. Tôi gục vào lòng cậu trong khi cậu dùng dao găm cắt dây trói cho tôi. Lại có nhiều ánh đuốc và tiếng người xôn xao. Có tiếng ai đó quát lên bằng tiếng Bah Nar. Hai đứa tôi được dìu về nhà. Tôi không nhớ đêm ấy đã diễn ra những gì, chỉ biết rằng khi tỉnh lại, đã nằm cuộn khoanh trong tấm dồ rách bên đống lửa than, đầu nhức như búa bổ, miệng khô và đắng. Tôi run lẩy bẩy bò tới bên chiếc gùi có mấy quả bầu khô đựng nước.
Và tôi đã lại uống nước như thể chưa bao giờ được uống mải mê như thế. Tôi ngơ ngẩn nhận ra, Bin của tôi đã biến đâu mất và tôi gục đầu vào cái gùi, toàn thân lạnh toát, rã rời… Hình như tôi lại ngủ lịm đi một lúc khá lâu nữa. Tôi không nhớ ý nghĩ phải chạy trốn khỏi nơi đây vì sao lại bỗng dưng trỗi dậy mạnh đến dường ấy. Nó không kịp cho tôi nghĩ thì đúng hơn. Và ngay sau khi nhận ra mình đã tỉnh, tôi ló đầu nhìn ra khỏi nhà. Làng vắng ngơ vắng ngắt. Tôi không kịp suy đoán vì sao có sự vắng lặng đến lạ lùng như vậy. Tôi cho rằng đây là cơ hội duy nhất có thể thoát thân. Thoát ra khỏi nỗi ê chề nơi ngôi làng hẻo lánh tăm tối và vô danh này. Rồi muốn ra sao thì ra. Tôi quan sát nhanh và nhanh chóng nhảy xuống sân, cắm đầu cắm cổ chạy theo con đường mòn rẽ xuống một triền dốc sâu hun hút, không vũ khí, không lương thực, không một thứ hộ thân nào. Tôi chạy trong mê muội, trong hoang tưởng và cả trong sự trống rỗng. Tôi giãy giụa dữ dội khi bị bật ngửa bằng sức mạnh bất ngờ của một cái dây rừng đột ngột ngáng qua đường cùng những bàn tay ấn dúi tôi nằm sấp trên một thảm lá mục. “Mày không trốn được đâu, em ạ”, tôi láng máng nghe tiếng anh Miết và ngay lập tức tôi thả lỏng toàn bộ cơ thể cho người ta muốn làm gì thì làm.
Thế là hết! Tôi nghĩ rất nhanh trong sự tỉnh táo lạ lùng. Hết cả tình cảm thương yêu lẫn niềm tin! Tôi cầm chắc đời tôi đến đây coi như là hết. Không còn may mắn. Không còn hy vọng gì. Tôi rướn người đứng phắt lên, không hề run sợ và tôi đã nhìn thẳng vào mặt anh Yơng, anh Miết cùng mấy người nữa. Bỗng dưng tôi co người gào lên: “Giết tôi đi! Giết đi!”. Anh Yơng cầm con dao quắm, vung tay phất mạnh một cái, sợi dây rừng to bằng cán dao dùng để ngáng tôi vừa rồi còn đang thòng xuống trước mặt tôi đứt phăng một cái. Tôi câm bặt nhìn sợi dây bung ra, hai hàng nhựa đỏ như máu rỏ xuống. Tôi ngã quỵ trong tay anh Miết. Anh ghé sát miệng vào tai tôi thét lên: “Không giết!”. Rồi anh quay ra, nói gì đó bằng tiếng Bah Nar với những người cùng đi. Tôi ôm chặt anh, run rẩy nói: “Em lạy anh, anh tha cho em. Em có lỗi. Em lạy các anh...”. Anh Yơng gạt mấy người định trói tôi ra, cúi xuống lôi tôi dậy. Tôi không cưỡng lại nhưng rất nhanh phản xạ, giơ tay lên che mặt, tưởng rằng anh sẽ tát tôi. Nhưng không. Anh buông tôi ra rồi bỗng dưng tự đấm vào ngực mình thùm thụp khiến tôi hoảng hốt nhào tới định ôm lấy anh. Anh Miết đã giật tôi ngã xuống đường. Tôi thấy anh Yơng đứng gục mặt vào thân cây, đầu đập vào đó vẻ bất lực, như thể chính anh đã gây nên tội lỗi. Trong khoảnh khắc, tôi định chồm về phía anh Yơng thì anh Miết đã lại ấn dúi tôi xuống. “Nó là em gái anh Yơng đấy mà”, - anh nói. Và tôi hiểu ngay vì sao anh Yơng tỏ thái độ dữ dằn với tôi đến thế. Họ dẫn tôi trở lại làng. Tôi không dám cưỡng lại, không dám đòi hỏi gì hơn, mặc dù tôi không hề muốn đi theo họ.
*
* *
Tôi không thể hình dung được cái hình phạt có vẻ ngẫu nhiên ấy lại đẩy cuộc sống của tôi trở nên tồi tệ hơn. Tôi đã tự bôi nhọ lên không phải chỉ là danh dự của mình, mà nó đã xóa sạch mọi niềm tin của bà con đối với tôi.
Họ không thể tin tôi vì đây là lần thứ ba tôi vi phạm những điều cấm kỵ. Rõ ràng cuộc sống ở đây có một thứ luật định mà chỉ có Yàng, tức là thần linh mới hiểu được. Nhưng tôi phải hiểu! Người ta thả lỏng tôi ở một chòi rẫy, tự tôi phải biết làm gì cho đúng. Chẳng có con đường nào khác là phải từ bỏ ý định trốn khỏi họ. Không thể trốn và không được phép trốn, cả trong ý nghĩ. Tôi đã lấy máu của mình ra thề. Điều ấy vô cùng thiêng liêng, không phải chỉ với bà con mà đối với cả tôi. Lúc tỉnh táo tôi nghĩ được như thế. Hơn thế, tôi đã tự vạch ra cho mình cả một chương trình phục thiện để hành động, ngõ hầu cứu vãn tình thế. Sự hối cải của tôi không thể chín mùi, nếu tôi chưa thật thành tâm với các dự định ấy. Tôi như kẻ mộng du trong các ý tưởng của mình. Đôi khi tủi phận, tôi lén nghĩ tới cái chết. Không thể chối cãi được, giờ đây tôi đã là một tù binh. Một thứ siêu tù! Bởi vì tôi đang được tự do trong cái kỷ cương siêu hình giữa cuộc chiến khốc liệt. Tôi nhớ miền Bắc. Nhớ tới mức chỉ muốn gào lên thật to với họ rằng, tôi được miền Bắc đưa vào đây để đánh Mỹ chứ không phải để làm tù binh của họ. Những cơn suy diễn cuồng nộ đã đẩy tôi vào chốn tối tăm rồ dại của lý trí, chẳng thể hé ra tí ti ý tưởng gì cho rõ ràng, sáng láng. Máu uất dồn hết lên đầu, lên trên cả cái đầu quẫn bách làm tôi gục ngã trong mê muội. Tôi vật vã với một sức mạnh ghê gớm của sự yếu đuối và bất lực. Tôi không nuối tiếc, không “giá mà” như những lần trước. Tôi trở nên bất cần và tôi tự thấy phải hành hạ chính mình cho thích đáng. Sự tự hành hạ cũng đem lại đôi chút thanh thản. Nó đánh thức phần lý trí còn le lói trụ lại tỉnh táo dần ra trong cái đầu bé bỏng tội nghiệp của tôi, khiến tôi càng hăng máu hơn. Tôi tự đập đầu vào cây, tự đấm vào ngực, tự trói chân lại rồi lăn khỏi sàn căn chòi hôi hám xuống đất vào lúc nửa đêm. Tôi nhịn ăn có tới hai ba ngày. Cái cách tự hành xác bằng nhịn ăn giúp cho con người hoạn nạn của tôi tỉnh táo. Mọi tố chất về vật chất dường như được huy động giản dị hơn các loại hung hãn khác. Nó có ma lực cuốn hút tâm hồn con người ta vào cõi mơ mị đầy quyến rũ, mà trong đó sự lựa chọn sáng suốt của lý trí hừng lên, tựa hồ ta được sống lại một lần nữa giữa tự nhiên. Tôi không nhớ sau mấy ngày nhịn ăn ấy, tôi đã ngất đi như thế nào. Chỉ biết rằng khi tỉnh lại, tôi dường như quên hết những tội lỗi của mình. Tôi nhận ra sự có mặt của tôi giữa họ không hề mặc cảm, không hề có cách biệt. Tôi từ từ ngồi dậy, từ từ dụi mắt, cảm thấy trước mặt nhòe nhoẹt những bóng người bất động. Họ đồng loạt “ồ” lên và tôi nhận ra, tôi đang ở trong tình trạng chới với, chỉ cần yếu đuối một chút là sa ngay vào cái bẫy vô hình của mặc cảm.
Tôi nhoẻn miệng cười, cố tình không nhìn vào mặt ai. Thế nhưng, tôi vẫn cảm được ánh nhìn mừng vui vô tư của họ. Có ai đó đỡ cho tôi ngồi tựa vào vách nứa. “Hứt-han-tà-pY” (phấn khởi quá). Một câu vô nghĩa buột thốt ra từ trong tiềm thức của tôi. Tôi nhận ra sự ngỡ ngàng của họ, trước hết vì sự hồi sinh của tôi cùng với sự ngạo mạn vô lối. Chính vì sự ngạo mạn ấy mà tôi đã chinh phục được họ, là tôi nghĩ thế. Không khí trở nên trang nghiêm khi có ai đó đỡ cho tôi tựa hẳn vào người. Sự nâng đỡ dịu dàng giống như nâng đỡ cho một sinh linh bé bỏng làm tôi cảm động ứa nước mắt. ở đây có chút gì huyền bí của tôn giáo. Nó vừa lành mạnh vừa thiêng liêng. Tôi được xoa bóp và được người ta bón cho thứ nước cháo nhăn nhẳn đắng. Không hoàn toàn là đắng bởi tôi nghe đâu đó vị ngầy ngậy chua chua, lại thoang thoảng mùi thơm thum thủm. Cái thứ mùi chỉ phơ phất ấy cùng với tiếng hát mập mờ phía bên kia đống lửa quyến rũ tôi. Tiếng hát xa vời tưởng như ở bên kia thế giới vọng về vừa u trệ lại vừa phóng đãng. “Mày có tốt đẹp rồi”, hình như tiếng anh Miết văng vẳng đâu đó. Tôi cầm chắc cánh tay anh.
“Xa bé”,- anh nói nhỏ - và tôi ngoan ngoãn bê cả cái ca US đựng cháo lên húp. Mồ hôi túa ra. Người tôi nhẹ bẫng u u minh minh. Không rõ là thực hay mơ, nhưng tôi nghe thấp thoáng có tiếng nhạc cồng chiêng não nề từ đâu đó vọng lại. “Nó chết rồi, em ạ”, - anh Miết nói. Giọng anh ứ lại. Tôi cảm thấy gai ốc nổi lạnh khắp người.
“Ai?”, - tôi hỏi. “BDên chớ ai. Nó ăn lá độc”. Hình như tôi đã chồm dậy rất mạnh và anh Miết đã quật tôi ngã xuống… Nếu như không có chị Báắt, vợ anh Miết ra báo tin BDên đã được cứu sống thì tôi không hiểu đời tôi sẽ thành ra thế nào. Người ta phân công anh Miết ở hẳn ngoài chòi rẫy coi sóc tôi. Những ngày ở phía trước thực lòng tôi ít để ý tới anh. Phần vì anh rất ít nói. Phần vì công việc của tôi chẳng liên quan gì tới công việc của anh. Tôi cứ tưởng anh là một trong những người lãnh đạo đội du kích của làng. Nhưng đến khi rút về phía sau tôi mới hiểu. Anh chỉ là một du kích bình thường. Tôi thấy anh suốt ngày cặm cụi đan hết cái gùi này tới cái gùi khác, miệng xì xì liên miên một bản nhạc nào đó không ra thổi cũng không ra huýt. Sáng sáng, chiều chiều chị Báắt gùi đồ ăn thức uống ra cho hai anh em tôi. Tôi thấy anh Miết không tỏ ra vồ vập, thậm chí còn có vẻ bình thường, trong khi chị Báắt nói liến thoắng. Cái tin BDên được cứu sống chị báo cho chúng tôi vào lúc giữa trưa. Chị kể cho anh Miết nghe cùng với những động tác khiêng khiêng vác vác rất buồn cười. Nét mặt anh Miết rạng rỡ chưa từng thấy. Rồi anh quay sang tôi, nói:
- Du kích khiêng nó không bằng thằng Mỹ Kon-Lơ cõng.
- Cõng đi đâu? - Tôi hỏi.
- Cõng vào bệnh xá huyện trên dốc Kon Kinh chứ còn đi đâu.
Tôi ngồi thuỗn ra một lúc, hình dung cảnh thằng Kon-Lơ sốt sắng nắm hai cổ tay BDên khoác lên vai chạy theo mấy du kích xé rừng đi đường tắt để tới bệnh xá cấp cứu. Việc không trả hắn cho cấp trên quả có tác dụng. Nhưng sao tôi vẫn cứ cảm thấy ghét bộ mặt hau háu chờ ý anh Yơng của hắn.
- Mày được cho cấp trên huyện đội. - Anh Miết nói. - Anh Yơng ớn mày quá rồi.
Tôi không biết nên buồn hay vui. Anh Miết xiết chặt tay tôi, mắt chớp chớp. Lần đầu tiên tôi thấy anh biểu lộ tình cảm nồng nhiệt như vậy. Tôi ôm ghì lấy anh. Nước mắt tự nó tràn ra không tài nào kìm lại được. Sau cái thông báo giản dị của anh Miết, tôi có vẻ như đã trưởng thành hơn về mặt nhận thức, nói theo cách đánh giá thời bấy giờ, mặc dù tôi đã tỏ ra bồng bột lúc nghe tin. Nhưng ngay sau đó, tôi tự chủ được trạng thái tinh thần của mình. Anh Miết luôn là người chân thành và khách quan đối với các hành động của tôi, ngay cả những lần quật tôi ngã cũng như cái bắt tay hàm ý chúc mừng vừa rồi. Nhưng dù thế tôi vẫn phải giấu anh tâm trạng rối bời của mình. Tôi tự nhủ, nếu đúng như lời anh nói thì tôi đã và đang bước được một chân ra khỏi sự thực ê chề, còn chân kia vẫn đang ở lại. Chỉ cần tôi vội vàng một tí là có thể ngã bật ngửa hoặc ngã sấp mặt xuống một sự thực nghiệt ngã hơn. Chỉ Báắt đem tới một con gà và ba lon gạo mới làm bữa cơm có vẻ như để chia tay. Tôi thản nhiên giúp chị mổ gà. Anh Miết cao hứng bảo vợ về làng kiếm ghè rượu. Nhưng chị đã lôi từ trong gùi ra một quả bầu to và bảo rằng, chị đã hút rượu cần đựng vào trong đó. Cứ nói tới rượu là tôi sởn da gà. Không hiểu sao người ta lại có thể cứ uống rượu hết ngày này qua ngày khác được. Tôi đành nói thật với anh Miết là dứt khoát từ nay tôi không uống rượu nữa. Anh hiểu ý tôi muốn nói gì, nhưng anh vẫn cứ ép tôi uống ít ít. Có lẽ do cái vẻ quá chân thành và mộc mạc của anh đã khiến tôi không thể từ chối. “Thế em chỉ uống một ngụm thôi nhé”, - tôi nói bằng một giọng xúc động bất ngờ, tự nó trào dâng, tự nó chận ngang lại. Anh Miết rót rượu ra cái ca US đa cho tôi và tôi chỉ uống đúng một ngụm rồi đa sang cho chị Báắt. “Em ưng được ở lại đây”, - tôi nói. Tất cả những gì dồn nén trong tôi đã khiến tôi thốt ra câu ấy, không hề có sự chuẩn bị trước.
Chị Báắt không biết nói tiếng Kinh, nhưng chị nghe được, không phải bằng lời mà bằng linh cảm. Có tiếng lao xao ngoài chòi rẫy. Chúng tôi cùng sững lại, nhìn ra. Tôi chột dạ thấy anh Yơng và Bin cùng tên Mỹ Kon-Lơ đang rửa chân dưới vòi nước. Chắc họ tới để dẫn tôi đi, tôi nghĩ và cảm thấy cổ họng nghẹn cứng lại. Chả lẽ tôi bị họ nhìn nhận không bằng nhìn nhận thằng tù binh Mỹ, đành rằng tôi có một vài khuyết điểm. Nhưng tôi đâu phải kẻ thù, đâu phải thằng phản bội? Thằng Mỹ xin ở lại được mà tôi thì bị họ đào thải? Không hiểu sao lúc ấy tôi toàn nghĩ tới chuyện phải đưa lên huyện đội là một nhục hình mà quên mất rằng, chính tôi suốt những ngày qua chỉ mong được họ chuyển tôi tới một đơn vị nào khác. Bất kỳ đơn vị nào cũng được. Nhưng tôi đã một lần nữa hiểu lầm thiện chí của họ. Anh Yơng và Bin đến để báo tin cho anh Miết và tôi biết rằng, huyện đội yêu cầu cả tôi, cả anh Miết anh Yơng và Bin cùng tên Mỹ Kon-Lơ sáng mai phải có mặt để cấp trên giao nhiệm vụ mới, ở phía trước.
- Cả tên Mỹ? - Tôi hỏi Bin.
Cậu cầm ca rượu uống một hơi cạn rồi nhìn tôi, âu yếm nói:
- Chô cha, rượu ngon hung. Có cả tên Mỹ nữa chớ, anh Bìn ạ.
Tôi không đủ trí tưởng tượng để hình dung tất cả những gì sẽ diễn ra đối với mình, bởi vì, ngay cả huyện đội cứ tưởng là sẽ bề thế hơn, có độ tin cậy hơn đối với hoàn cảnh vất vưởng của tôi. Suốt đêm qua tôi toàn nghĩ tới huyện đội như là một đơn vị chiến đấu có tổ chức, có bài bản và tôi sẽ gặp được người này, người nọ, họ sẽ hỏi tôi những câu hỏi về lý do bị lạc, về đơn vị cũ, về lý lịch và nguyện vọng. Rồi thế nào anh Yơng và Bin cũng phải báo cáo về tôi cho họ nghe, hoặc có thể anh Yơng đã báo cáo rồi, họ chỉ việc dựa vào đó mà đánh giá tư tưởng cũng như năng lực, sau đó mới tới chuyện phân công công tác. Tôi nghĩ cả tới số phận của tên tù binh Mỹ. Hắn nhất định sẽ được họ giải lên trên để khai thác, hay nói cách khác, là hắn phải trở về đúng vị trí của hắn là một tên tù binh. Ấy thế mà mọi chuyện hoàn toàn ngược lại. Mọi tính toán hồi hộp của tôi trở nên vớ vẩn. Chẳng có ai chờ đón chúng tôi ngoài mấy ngôi nhà hầm ẩm mốc, dường như đã quá lâu rồi không có ai ở. Mới đầu tôi tưởng anh Yơng lầm vì tôi thấy dưới bếp có mấy cô gái đang giã gạo. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Bah Nar rất rôm rả, thỉnh thoảng nhìn tôi và tên Mỹ, nhưng không có biểu hiện gì đặc biệt. Rồi họ dọn ra cái bàn, đúng hơn là cái dàn làm bằng le một rá sắn nấu đã đánh tơi cùng một soong canh lá sắn chua, một lon muối hầm, đặc biệt có hai cóng cá chuồn khô được họ nướng cháy thơm lừng bảo chúng tôi ăn. Tôi rất lấy làm lạ là nhiều gạo thế, tại sao họ vẫn cứ ăn sắn không. Bụng đói, nhưng nhìn những thứ bày ra kia tôi cảm thấy họng khô cứng lại, thèm một bát cơm không đến cồn cào. Tôi bảo Bin có thể xin hoặc mượn họ ít gạo nấu ăn không thì cậu cười bảo tôi: “Gạo ấy ưu tiên cho phía trước. Ngày mai phải gùi gạo ra cho anh em đánh địch ăn. Mình ở phía sau ăn củ mì tốt hung rồi”. “Thế huyện đội đâu?”, - tôi hỏi. Đến lượt Bin và anh Yơng cùng ngạc nhiên nhìn tôi. Anh Yơng chưa bao giờ nói chuyện với tôi đến vài câu. Anh bỏ vào cái ca US của tôi nửa con cá chuồn to, và nói: “Một là huyện đội đây rồi. Hai là, tôi nói cho đồng chí rõ, cách mạng còn khó khăn hung, làm sao đòi hỏi?”. Tôi biết là mình không thể nói chuyện với anh ta nên vục mặt xuống ăn. Tôi vận dụng hết khả năng thích ứng của tuổi trẻ để nhai những miếng to, để nuốt vào lòng cả vị đắng hăn hắt của sắn và câu nói ít thiện cảm vừa rồi. Thằng Kon-Lơ ngồi chồm hổm trước cửa vừa khua thìa rổn rảng, miệng nhồm nhoàm nhai, thậm chí hắn còn quệt muối hầm vào ngón tay rồi cứ thế mút. Hắn gầy sọp so với dạo trước. Tôi thấy hắn thỉnh thoảng bưng miệng, quay ra ngoài có vẻ muốn ọe. Nhưng rồi hắn lại cố trợn trừng nuốt cái miếng nhồm nhoàm kia xuống được bụng. Tiếng giã gạo rộn ràng và tiếng nói chuyện rộn ràng của mấy cô gái phần nào giúp tôi bình tâm lại. Bin vừa ăn vừa cầm cái ca US của mình vào trong bếp, một lúc sau, cậu đem ra một cái nấm mối nướng nóng hôi hổi cho tôi. Cái nấm thơm như một miếng thịt nướng và tôi đã nhờ vào nó mà nuốt được một ca sắn nữa. Anh Miết, anh Yơng ăn, cứ mỗi thìa sắn là kèm theo một quả cà đắng, một trái ớt thóc cùng một chút muối hầm. Sau đó là canh lá sắn giã nhừ, húp trực tiếp từ cái muôi làm bằng sắt máy bay vừa dầy, vừa to lại sù xì, cáu bẩn. Tôi biết các anh đang thèm rượu, vì chỉ có rượu mới làm nét mặt các anh trở nên tươi tỉnh. Tôi chợt nghĩ tới đêm nay, nếu chúng tôi không phải hành quân tiếp, có lẽ tôi sẽ rủ Bin vào rừng kiếm con gì đó về cải thiện. Nhưng tôi lại nhớ ra là, chúng tôi chẳng còn đôi pin nào. Không có pin thì săn bắn cái nỗi gì? Thằng Kon-Lơ nhằn nhằn mãi với cái nắp hăng-gô sắn. Nhìn mặt hắn có vẻ lơ đễnh thế nào. Hắn đứng dậy tới bên bàn, dùng muôi lùa trong soong canh rồi lại buông ra. Hắn dùng hai ngón tay nhón muối hầm rắc lên sắn, sau đó tới bên tôi, có vẻ muốn làm thân. Tôi đứng dậy tránh cái nhìn ấy…
*
* *
Té ra chẳng có huyện đội nào hết! Huyện đội vẫn còn ở một chốn rất xa xôi, bí mật, mà người ta gọi là phía trước. Theo cách phổ biến lạnh lùng của anh Yơng thì chúng tôi đang được huy động vào việc gùi gạo chuyển ra cho bộ đội ta mở chiến dịch to. Suốt đêm hôm ấy anh Yơng, anh Miết và Bin uống rượu với mấy cô gái giã gạo, còn tôi và tên Mỹ treo võng ngủ. Tôi thấy hắn ngủ li bì, gần như không động cựa. Tôi nhớ có lần Bin bảo tôi, khi không có cái ăn ngon thì bồi dưỡng sức khỏe bằng cái ngủ ngon. Cái ngủ ngon chỉ cần thời gian, còn cái ăn ngon khó khăn lắm mới kiếm được ra. Chắc thế nào cậu cũng “phổ biến” cho tên Mỹ kinh nghiệm này. Tôi thấy hắn chẳng quan tâm mấy tới hoàn cảnh. Đúng hơn hắn có vẻ yên phận. Thế mà tôi vẫn thấy nơm nớp lo, dù biết là lo vu vơ cũng chẳng được tích sự gì. Tôi buồn ngủ ríu mắt, nhưng nằm xuống đầu óc lại cứ căng ra, đành dùng thủ thuật đếm. Tôi đếm từ một tới một trăm, trên cả một trăm rồi trên cả một nghìn. Nhưng miệng đếm mà đầu cứ liên miên nghĩ hết chuyện này nhảy sang chuyện khác, không tài nào gọi được giấc ngủ. Tôi trở mình liên tục, tự khuyên không nhớ miền Bắc, không nhớ gì hết. Nhưng càng cố nó càng trỗi dậy. Mới đầu tôi nhớ canh cua nấu với rau đay, ăn kèm cà pháo giữa tra hè, u tôi đứng quạt cho tôi và anh Ổn tôi ăn xì xụp. Nhớ buổi tối mùa Đông rét cắt da, chúng tôi khiêng thùng nước muối nóng tới từng chuồng trâu của cả xóm để vẩy lên rơm cho bọn trâu ăn chống bệnh cước. Tôi nhớ lung tung, cái hôm mấy đứa tôi được anh Ổn dẫn đi xem phim bên làng Trúc. Anh tôi hơn tôi ba tuổi. Lúc ấy tôi mười bốn còn anh mười bảy. Anh cầm đầu tụi tôi trèo lên nóc chùa, nhảy vào vườn rồi luồn qua hàng rào tre dân, thứ tre nhỏ nhưng ken dày đặc, để ra bãi chiếu phim trốn vé. Nhưng tất cả chúng tôi đều bị du kích làng Trúc tóm gọn. Họ xách tai chúng tôi nhốt vào nhà kho chứa thóc, nóng hầm hập. Thế mà chúng tôi cũng ngủ được. Cho tới gà gáy, có một sáng kiến của thằng cu Lợi rất hay. Nó xui chúng tôi, mỗi đứa ị một bãi rồi lấp thóc lên, để chơi khăm lại du kích làng Trúc hay bắt nạt bọn tôi. Tôi đang cố rặn ra thứ láo lếu ấy thì anh tôi phát hiện được. Tưởng anh sẽ đồng tình, ai dè anh bắt chúng tôi dừng lại, hơn thế, anh còn bắt cả bọn dọn sạch vào một góc. Tất nhiên chúng tôi phải làm theo. Nhưng đến lúc nghe lách cách mở kho thì chúng tôi đã lén anh hốt trở lại đống thóc, rồi thi nhau giả vờ khóc mếu. Mỗi đứa bị nếm thêm một cú quắn tai nhớ đời nữa rồi được tha.
Chúng tôi cắm cổ chạy về, vừa chạy vừa cười thỏa thuê. Sau vụ ấy anh tôi nhập ngũ. Bây giờ cả bọn đàn em nhem nhuốc của anh cũng đã vào Nam chiến đấu, mỗi đứa một nơi. Giá tôi gặp được anh, hay đứa nào đó trong bọn lúc này thì đời tôi hẳn lên tiên! Tôi nhớ gương mặt thằng Lợi lúc nào cũng nhoe nhoét mồ hôi, lúc nào cũng trợn trạo với những trò ranh ma. Nó to khỏe và nghịch ngợm nhất làng. Tôi tuy bé loắt choắt, nhưng lại thân với nó, chẳng chịu thua nó một trò nào. Hai đứa tôi thường rủ nhau đi ăn trộm bòng nhà bà Tặng để ra dược mạ đá bóng. Rồi ăn trộm trứng gà nhà bà Len để nghe bà chửi. Chẳng hiểu sao bà Len chỉ sống có mỗi mình. Người ta bảo vì bà đanh đá quá nên không lấy được chồng. Lại có người bảo, hồi trước chồng bà theo gái, nên bà hận đời, thề chẳng lấy ai. Tất cả những điều ấy chẳng quan trọng gì với tụi trẻ ranh chúng tôi. Chúng tôi thích trêu bà, thích nghe bà chửi, thế thôi. Bà Len có tài chửi rất dai. Bà sẵn sàng chửi từ sáng sớm tinh mơ tới kẻng hợp tác gọi đi làm. Sau buổi làm, về tới nhà bà lại chửi. Bà vừa nấu cơm, vừa quét sân vừa chửi. Đặc biệt những buổi tối sáng trăng, trước lúc đi ngủ, bà đứng chống nạnh ngoài cổng, vỗ tay, chỉ vào mặt thằng ăn trộm vô hình mà xỉa xói ba đời, mười đời nhà nó. Tiếng chửi của bà vang vọng khắp xóm. Chúng tôi nấp ở bờ tre, bọc những bọc phân trâu bằng lá khoai nước, ném vào chỗ tiếng chửi. Bà nhảy thách lên, chửi càng hăng. Có hôm chúng tôi rủ thêm vài thằng nữa, đi diễu qua trước cổng nhà bà, vừa đi vừa lần lượt từng đứa gào lên bài vè do tôi nghĩ ra, để trêu bà. Thằng Lợi mở đầu: Ve vẻ vè ve. Tôi: Cái vè chửi đổng. Thằng Thướng: Cả làng đánh trống. Thằng Khang: Bắt thằng ba que. Thằng Lợi: Bắt trộm gà què. Tôi: Đem về nấu cháo. Thằng Thướng: Bà Len mếu máo. Thằng Khang: Hát bài tổ tông. Tất cả: Ông ổng ồng ông. Ăn ba ổ trứng. Gào xong, cả bọn chúng tôi vắt chân lên cổ chạy. Còn bà Len thì tốc váy quay cuồng lên mà chửi. Bài chửi của bà vần vè thiên biến vạn hóa, từ cao tằng thủy tổ đến năm đời chín đời sau. Từ ba hồn bảy vía thằng nào con nào ăn trộm trứng gà nhà bà, đến cả họ hàng hang hốc nhà nó. Rồi bà rủa, đứa nào ăn trứng của bà, cả dòng cả giống nhà nó sặc máu sáu cơn, đi sông đắm đò, đi bộ chết đâm chết chém. Chao ơi là chua ngoa độc địa. Ấy thế mà đến hôm bà chết, tôi và thằng Lợi là hai đứa biết đầu tiên. Chẳng là bỗng dưng mấy hôm nay không thấy bà chửi, buồn tai, tôi và thằng Lợi rủ nhau chui qua dậu nhà bà, lẻn xuống bếp định đánh cắp trứng, hoặc một thứ bất kỳ nào đó. Thằng Lợi đi trước, tôi bám áo nó ép sát vào tường đất. Nó vừa thò chân vào bếp thì bỗng nhảy dựng lên, vọt ra cửa. Tôi chưa kịp hiểu gì nhưng vì hoảng quá, níu rách toạc áo nó. Ra tới cổng nó run bần bật bảo tôi: “Bà Len chết trong ổ rơm”. Tôi dựng tóc gáy, chạy cùng nó về nhà báo tin cho anh Ổn. Chẳng hiểu vì sao lúc này đây tôi lại nhớ tới bà. Nhớ những quả trứng gà ri bé tẹo chúng tôi ăn trộm được, bọc trong vạt áo, ra tới bờ ruộng vừa thở vừa mút sống, rồi ngong ngóng chờ nghe bà Len chửi. Đám tang của bà thật đông. Cả làng không ai vắng mặt. Tôi và thằng Lợi, thằng Thướng, thằng Khang cầm cờ phướn rước bà ra mộ. Được ba ngày, anh Ổn mua cho chúng tôi mỗi đứa ba quả trứng gà ri, bảo đem ra mộ bà thắp hương. Anh dọa, nếu không làm thế, ma của bà sẽ về bắt. Chúng tôi răm rắp làm theo. Thì ra không phải anh Ổn tôi nghĩ ra trò đó, mà chính là bà Trịnh, mẹ thằng Lợi, vì bà biết, chỉ có anh mới sửa được chúng tôi thôi. Anh Ổn còn bảo tôi rằng, những người độc thân như bà Len chết thiêng lắm. Lúc sống kẻ nào bắt nạt người ta thì hãy liệu mà cúng vái cho tử tế, rồi sớm sửa đổi tính nết kẻo ma thiêng không ở một mình! Tôi và thằng Lợi vì sợ mà ngoan được vài tuần, rồi đâu lại vào đấy. Có hôm nó rủ tôi bắt con cóc cụ, nhét thuốc lào vào đầy mồm cóc rồi khâu lại. Chúng tôi lẻn vào nhà ông Thuấn thả con cóc xấu số ấy vào gầm giường. Chẳng là mấy hôm trước chúng tôi trêu bà vợ tâm thần của ông, bị ông đuổi chí chết. Ông đe, nếu còn trêu bà thì ông sẽ thiến dái. Tôi và nó thực ra chẳng biết thù oán là gì, chỉ thuần túy nghĩ ra trò nghịch, thành thử sau khi ném được con cóc vào nhà người ta rồi, đêm xuống, hai đứa lẻn nhà đi nghe ngóng thử. Trời ơi, con cóc kia bị sặc thuốc lào, nó cứ hù hụ kêu lên, giống như tiếng ho, tiếng rên của hồn ma khiến cả nhà ông Thuấn hoảng loạn, cả xóm hoảng loạn. Mãi sau người ta mới phát hiện được con cóc chết thối, thế là thành chuyện. Người ta nghi cho chúng tôi, nhưng làm sao buộc tội chúng tôi được?
Anh con trai của ông Thuấn thách chúng tôi, tất nhiên là lời thách giữa làng, rằng quân mất dạy, đố đứa nào dám chơi khăm nhà anh lần nữa. Anh kiếm ở đâu được một con chó rất to về nuôi. Con chó sủa hồng hộc chạy đuổi theo bất kỳ ai qua cổng nhà anh. Thằng Lợi bàn với tôi nướng một củ ráy thật nóng, bọc trong mớ giẻ, lặng lẽ tới cổng nhà ông Thuấn. Con chó hung dữ xộc ra. Chúng tôi ù té chạy. Nó đuổi theo. Tôi ném củ ráy nóng trêu nó. Con chó lao vào đớp củ ráy, kêu lên oăng oẳng. Hai đứa tôi lủi về nhà, đắp chăn vờ như ngủ. Sáng hôm sau cả xóm được dịp xôn xao. Chúng tôi giả như không biết chuyện gì, rủ mấy thằng cùng bọn tới xem. Khổ thân con chó. Nó cắn ngập răng vào củ ráy nóng, coi như hết đời! Bây giờ giá gặp anh con trai ông Thuấn, nhất định tôi sẽ khai ra chuyện ấy, và chắc anh cũng sẽ chẳng có lòng nào thù ghét chúng tôi, mặc dù hôm anh nhập ngũ, chúng tôi có tiễn anh một quãng đồng, nhưng anh vẫn cứ lì lì, có vẻ còn cay cú lắm. Bất giác tôi thấy buồn vì cái trò lăng nhăng lít nhít thời niên thiếu và tôi trở dậy. Tôi nhìn sang võng thằng Kon-Lơ. Hắn ngủ oặt cổ ra rìa võng, thở khò khè. Tại sao hắn lại có thể ngủ ngon lành như thế nhỉ? Chắc hắn cũng chỉ bằng tuổi tôi. Có thể nhỉnh hơn một tí. Nhưng điều ấy phỏng có quan trọng gì? Hắn ăn phải bả của bọn quan thầy làm tên xâm lược, để đến lúc này đây thành ra tù binh. Bọn hắn hèn hạ đến thế là cùng. Bị đối phương bắt được mà còn cam tâm làm kẻ hàng binh. Quân ta không có chuyện ấy. Chúng tôi đã thề trước khi vào Nam là chỉ có một sống một chết với quân thù! Nhìn hắn ngủ, tôi cứ tự hỏi mình xem, liệu hắn có lúc nào nhớ mẹ, nhớ quê không? Hắn có trò nghịch lếu láo thời thơ bé không nhỉ? Tuổi thơ của hắn là thế nào, làm sao tôi hình dung ra được? Tôi nhớ có lần Bin bỗng hỏi tôi: “Thằng Mỹ có buôn làng không?” Tôi bảo có, và tôi đã nói bừa với cậu rằng, buôn làng của thằng Mỹ gọi là thành phố. Bin vẫn không tin một khi người ta đã có buôn làng rồi thì làm sao phải đi xâm lược buôn làng kẻ khác. À ra thế. Lúc nào Bin cũng có những ý nghĩ ngồ ngộ, giống như tôi hồi bé. Hồi bé tôi không tin cô giáo Hoa của tôi lại có thể đi đái! Bởi vì cô rất sạch sẽ, lúc nào cũng có thể hát cho chúng tôi nghe. Với vẻ đẹp và tính tình dịu dàng của cô, chẳng lẽ cô cũng làm những việc tệ hại mà chúng ta, những người thường vẫn làm? Tôi hỏi anh ổn và anh đã khẳng định với tôi rằng, không thể không có. Nhưng tôi vẫn không tin. Anh tôi chẳng biết giải thích thế nào cho tôi hiểu, vì tôi đã vặn lại theo kiểu trẻ con rất cùn là anh đã trông thấy bao giờ chưa? Chưa trông thấy mà nói có hay không đều sai cả!
Những ý nghĩ liên miên của tôi rồi cũng lịm đi. Tôi đang lơ mơ ngủ, bỗng giật mình vì tiếng hú rất to. Mấy người uống rượu say đã đến màn múa hát! Tôi mệt mỏi ngồi đậy lắng nghe. Họ hát từ trong căn nhà bếp lụp sụp. Tôi hiểu, nếu tôi mò tới, thế nào cũng bị uống rượu. Bụng tôi réo lên ùng ục. Tôi đói, cảm thấy lạnh khắp người, tay chân run run. Tôi thèm cơm không. Chỉ cần cơm không! Tại sao hôm qua tôi lại đổ hết số gạo chị Báắt cho vào cái gùi, trả lại chị? Trời vần vũ những mảng tối sáng xô bồ. Cái võng của thằng Kon-Lơ đã chảy xệ xuống sát đất mà hắn vẫn ngủ. Tôi định gọi hắn dậy để hướng dẫn cho hắn biết cách mắc một cái võng thế nào cho tử tế, rồi hẵng ngủ, nhưng lại nghĩ, kệ thây hắn, cái thằng ngố, lười thối ra ấy. Tôi chập chờn nửa muốn tới chỗ mấy người du kích kiếm cái ăn, nửa sợ phải uống rượu. Tôi rùng mình nhớ tới cuộc say lần trước.
Lẽ ra hôm ấy tôi đừng uống quá mức thì tôi đã làm chủ được mình. Chẳng rõ giờ đây BDên đã trở lại bình thường chưa. Thực tình, hôm ấy vào rừng, tôi đã chẳng làm được điều gì, ngoài những cái hôn, mà người ta cứ nghĩ là tôi đã làm được! BDên ăn lá độc để chứng tỏ cô yêu tôi hay chỉ vì muốn chứng tỏ cho dân làng biết là mình vẫn còn trinh trắng? Điều ấy chỉ có cô biết. Quả tình tôi quá hoảng sợ khi nghe tin cô chết, chẳng phải vì tôi yêu cô, mà vì tôi run sợ cho số phận của mình. Điều ấy tôi nói ra thật tệ hại. Nhưng phần lớn sự tệ hại nếu được giấu kín sẽ trở thành niềm an ủi cho lầm lỗi của mỗi chúng ta. Nó có khả năng biến nỗi lo sợ thành sự thể hiện tình cảm mà cộng đồng tuy không thích thú gì, nhưng lại cứ đòi hỏi. Tôi đã nghĩ ngay rằng, nếu BDên chết thì tôi không thể sống được vì ân hận, và vì sự tự trừng phạt của cô quá mức chịu đựng đối với tôi, hơn là tôi nhận thấy tội lỗi của mình. Nhưng thôi, tôi tự nhủ, dù sao chuyện ấy cũng đã qua rồi. Tôi có nói ra ý nghĩ khi ấy của mình, cũng chỉ nhằm giải tỏa cho nỗi ám ảnh mà tôi phải gánh chịu. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi nghĩ được như thế. Và tôi đã ngủ được có lẽ nhờ lối lập luận không lấy gì làm hay ho lắm. Cho mãi tới sau này tôi vẫn không thể nguôi. Những lá thư của anh tôi gửi về, câu đầu tiên anh hỏi, ấy là cái tủ sách của anh. Rồi anh khuyên tôi nên đi bộ đội, vì theo anh, đó là một trường đại học tổng hợp lớn nhất mà anh gọi là đại-học-cuộc-đời. Anh biết tính tôi không thích đi vì tôi thấy các chú bộ đội đóng ở làng lúc nào cũng huỳnh huỵch chạy, đang ăn cơm phải báo động, hơi tí thì họp kiểm điểm, mà tính tôi ham thích tự do, sức tôi lại yếu, đầu óc tôi không nghĩ tới tương lai, ngoài việc học bài theo lối khoán, đủ cho số điểm mà thày tôi đã quá định.
Thày tôi là một ông đồ thất chí, cụ rất buồn rầu vì tính bất trị của tôi. Roi vọt theo lối giơ cao đánh khẽ của người càng khiến tôi hư hỏng thêm. Cái lối khoán điểm của cụ chẳng làm tôi lo ngại, nhưng tôi không phấn đấu vượt quá mức quá định. Tôi biết, nếu vượt quá thì yêu cầu sẽ lại tăng lên, và như thế chỉ làm thỏa mãn ý muốn của người lớn. Phần nhiều các giờ lên lớp các môn phụ tôi đều đọc truyện dưới ngăn kéo, hoặc để quyển vở đè lên quyển truyện, ngồi ngay ngắn giả như chăm chú nghe giảng, thực ra tôi đang nghiên cứu cuộc phiêu lưu của chú dế mèn, của chú người gỗ.
Suốt mười năm học, chẳng năm nào tôi đạt học sinh giỏi, đó là nỗi đau đớn của thày tôi, vì năm nào anh ổn tôi cũng đem về phần thưởng và bằng khen. Cái năm lớp mười tệ hại nhất đối với tôi vì tôi không thích đi bộ đội, mà tháng nào cũng phải đi khám sức khỏe tuyển quân. Lớp tôi các bạn đi vãn. Mãi tới tháng Tư vừa rồi, tôi cảm thấy quá mệt mỏi vì những cuộc đi khám sức khỏe lần nào cũng chỉ có ba chín cân ấy. Tôi quyết định thủ sẵn trong túi quần phăng rộng thùng thình của anh tôi để lại ba bốn cân đá vụn và tôi bước lên bàn cân, tay vẫn thọc túi quần, làm ra vẻ phớt đời. Tôi bị bắt quả tang. Nhưng bù lại, người ta đã “tha” cho tôi để tôi lọt qua vòng cân đo. Thế là tôi trúng tuyển. Tôi được ưu tiên phát bằng tốt nghiệp phổ thông trước lúc lên đường.
Đặc biệt, hành động bỏ đá trong túi quần bị lộ của tôi không ngờ lại được nêu dương. Ấy là lần đầu tiên trong đời tôi nếm mùi vinh quang. Cả trường tôi phát động phong trào học tập tinh thần hăng hái xung phong nhập ngũ của tôi. Tôi không cảm thấy xấu hổ, ngược lại, tôi thấy đúng là tôi có tinh thần hăng hái như những lời biểu dương của các thày cô thật… Bỗng một tiếng nổ trùm lên sự yên tĩnh tưởng như bất tận của rừng đêm hất tôi ngã nhào xuống võng. Thực ra tôi đã lăn xuống bằng bản năng hơn là ngã. Thằng Kon-Lơ vẫn nằm nguyên, có điều, cả hai đầu võng đều đã chảy xệ xuống, một đầu cao hơn, nom hắn vêu vao như một cái xác chết. Hắn khẽ rên lên rồi lại nằm yên ở tư thế vặn vỏ đỗ kỳ quặc khiến tôi khó chịu. Chẳng lẽ tôi lại sang, giật phăng cái dây võng phía chân hắn tuột hẳn ra cho hắn thức dậy. Nhưng tôi chưa vội làm vì có thể ngay bây giờ một quả bom nữa sẽ nổ tiếp. Có tới vài chục giây trôi qua vẫn yên tĩnh, ngoài tiếng rít xé gió của động cơ phản lực. Có tiếng nói xôn xao phía trong nhà bếp. Hình như sức chấn động của quả bom vừa rồi đã làm sập cái gì đó. Tôi nhớ có lần tôi và Bin đi qua một hố bom to tới mức tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Tôi hỏi Bin, bom gì mà ghê thế. Bin bảo bom B57. Cậu còn giải thích kỹ lưỡng cho tôi rằng, thằng máy bay B57 to hung, nó chỉ chở được một trái bom lớn gấp mười trái bom khác, chuyên thả bom vào vùng căn cứ của ta. Chắc quả bom nổ vừa rồi là thứ bom ấy, tôi nghĩ thế và đứng dậy tới bên võng thằng Kon-Lơ, định làm cái việc mà tôi vừa nghĩ ra. Tôi hoảng hồn nhận thấy hắn đã ngất xỉu, miệng ngáp ngáp, hai tay run lẩy bẩy. Tôi không nhớ tôi có kêu lên không, hoặc tôi không thể kêu lên thành tiếng. Tôi đã nhảy qua một cái hố, đập đầu vào cột bếp, ngã bật ngửa.
Tôi chồm dậy, nhào tới chỗ mấy người đang dựng lại góc trong căn bếp vừa bị đổ. “Thằng Kon-Lơ làm sao ý”, hình như tôi chỉ nói được như thế. Chúng tôi khiêng hắn vào trong nhà bếp, đặt cạnh đống lửa. Mùi hắn bốc lên khăn khẳn rất nặng, và tôi đã ọe ra những gì còn sót lại trong bụng. Hắn nằm ngay đuột, tay bắt chuồn chuồn, miệng ú ớ, mắt trợn ngược. Tôi tháo cái võng ka-ki của hắn, thì ra hắn đã bĩnh cả vào võng và tình thế buộc tôi phải ra suối gột sạch. Tôi hơ lửa khô cái võng, gấp lại, gối lên đầu cho hắn dễ thở. Tới giờ tôi vẫn nhớ cái cảm giác ghê rợn khi bàn tay tôi chạm vào cái sọ toàn xương của hắn. Cái gì đã làm hắn gầy đi nhanh đến chừng này? Toàn thân lạnh toát, hắn không còn chút sinh khí. Tôi mài mấy viên thuốc ký-ninh rồi đổ cho hắn. Tôi chưa hề có chút kinh nghiệm nào về căn bệnh sốt rét ác tính đáng sợ này, mặc dù suốt cuộc hành quân vào Nam, lúc nào cũng nghe nói về nó. Té ra hắn đã bị ủ bệnh từ lâu và đêm nay chính là đêm kịch phát. Mấy viên thuốc ký-ninh muộn mằn của Bin cho tôi, không giúp gì được hắn. Trời vừa he hé sáng thì hắn ưỡn người lên, toàn thân co giật. Tôi và Bin mỗi đứa một bên, cố giữ cho hắn nằm im để anh Yơng đổ nước cháo vào miệng. Hắn thậm chí không kịp nuốt tí cháo nào. Trước khi chết, tôi thấy hắn lắc lắc đầu. Tôi và Bin không giữ tay chân hắn nữa. Chừng như hắn có tỉnh lại một vài giây, đưa được cánh tay bằng toàn bộ sức lực còn lại chấm lên trán. Rồi buông xuôi. Tôi quỳ xuống vuốt mắt cho Kon-Lơ, một cử chỉ chưa hề được ai chỉ bảo.
*
* *