265 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, 270 Con oanh học nói trên cành mỉa mai. Mấy lần cửa đóng then cài, Dãy thềm hoa rụng biết người ở đâu? Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh, chợt thấy mé sau có nhà. 275 Là nhà Ngô Việt thương gia, Buồng không để đó người xa chưa về. Lấy điều đạo học hỏi thuê, Túi đàn, cặp sách đề huề liền sang. Có cây, có đá, sẵn sàng. 280 Có hiên Lãm Thuý nét vàng chưa phai. Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Song hồ nửa khép cánh mây, Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông. 285 Tấc gang đồng toả nguyên phong, Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra. Nhẫn từ quán khách lân la, Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Chú Thích: Câu 266: Lam Kiều: Cầu Lam, tên một cái cầu ở huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) do "điển": Ngày xưa, đời nhà Đường, Bùi Hàng gặp nàng Vân Kiều cho một bài thơ trong có câu nói Lam Kiều bản thị thần tiên quật (Lam Kiều là chỗ thần tiên ở). Đến sau, khi đi qua cầu Lam, khát nước, vào hàng uống nước thì thấy nàng Vân Anh rất xinh đẹp, muốn xin cưới làm vợ. Bà mẹ nàng bảo nếu có chày ngọc giã được thuốc tiên xong thì gả cho. Bùi Hàng nhờ mua được chày ngọc nên cưới được Vân Anh. Hôm làm lễ cưới, Bùi Hàng mới nhận ra người đưa cho mình bài thơ chính là chị Vân Anh. Sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên.
"Nẻo Lam Kiều: đây chỉ nhà Thuý Kiều."
Câu 268: Lá thắm: do điển "hồng diệp đề thi". Nguyên về đời Đường, Vu Hựu vớt được chiếc lá trôi trên dòng nước từ cung vua ra và đọc thấy có bái thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá đỏ khác, đề hai câu thơ rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Hàn thị bắt được. Về sau, nhân dịp vua thải ba nghìn cung phi, Hàn thị được ra rồi lại tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Một hôm hai người cùng nhắc đến chuyện chiếc lá đề thơ, mới hay là của chính họ. Vì thế, sau này mới dùng điển tích này để nói nhân duyên vợ chồng.
Câu 268: Chim xanh: do chữ "thanh điểu", chỉ người đưa tin. Theo Hán Vũ cố sự ngày mồng 7 tháng 7 vua Hán Vũ đế đương ngự triều có ba con chim xanh đến đậu trước điện. Đông Phương Sóc tâu rằng: "Đấy là sứ giả của Tây Vương mẫu đưa tin đến trước. Quả nhiên một lát sau Tây Vương mẫu đến.
Do đó mới gọi người đưa tin là "chim xanh". Cả câu ý nói không có cách gì để liên lạc được với nàng Kiều.
Câu 275: Ngô Việt thương gia: người đi buôn nay sang bên Ngô mai về bên Việt, ít khi ở nhà.
Câu 277: Du học: đi trọ học.
Câu 278: Cặp sách: cái khung gỗ để kẹp sách của các nhà nho xưa.
Câu 280: Lãm Thuý : ("lãm": thu góp, "thuý": màu xanh) tên cái hiên. "Hiên Lãm Thuý" là cái hiên ngồi ở đó có thể thu góp vào trong tầm mắt tất cả màu xanh của cây cỏ. Suy ra thì "Lãm Thuý" còn có ngụ ý bắt được, tóm được hai chị em cô Kiều nên Kim Trọng lấy làm mừng lắm.
Câu 283: Song hồ: cửa sổ có dán giấy.
Câu 283: Cánh mây: cánh cửa. Chữ "mây" dùng cho đẹp lời như khi nói "then mây".
Câu 285: Đồng toả nguyên phong: ý nói tuy gần gũi chỉ có gang tấc mà cái khoá đồng cứ khoá mãi không thấy mở.
Câu 286: Bóng hồng: bóng Thuý Kiều.
Câu 287: Nhẫn từ: ("nhẫn": mãi từ, cho đến) kể từ khi ấy mãi đến nay, mãi từ khi ấy đến nay.
Câu 287: Quán khách: tức nhà Kim Trọng thuê để ở trọ.
Câu 288: Tuần trăng: mỗi tháng có một tuần trăng, nên tính tháng người ta tính theo tuần trăng.
Câu 288: Thèm hai: ý nói chưa bao lâu mà đã gần hai tháng trôi qua rồi.
________________________
Cách tường phải buổi êm trời, 290 Dưới đào sai có bóng người thướt tha. Buông cầm xốc áo vội ra, Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh! Lần theo tường gấm dạo quanh, Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. 295 Giơ tay với lấy về nhà. "Này trong khuê các, đâu mà đến đây? Ngẫm âu người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!" Liền tay ngắm nghía biếng (?) nằm, 300 Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai. Tan sương đã thấy bóng người Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ, Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng. 305 "Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?" Tiếng Kiều nghe lọt bên kia, Ơn người quân tử sá gì của rơi. Chiếc thoa nào của mấy mươi, 310 Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!" Sinh rằng: "Lân lý ra vào, Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Chú Thích: Câu 293: Tường gấm: tường rào quanh nhà, chữ "gấm" được dùng cho đẹp lời.
Câu 294: Kim thoa: cây thoa bằng vàng để cài tóc của phụ nữ.
Câu 296: Khuê các: ("khuê": buồng, các: gác) chỉ chỗ ở của phụ nữ giàu có sang trọng.
Bản Nguyễn Khắc Hiếu đã chép là "Tấc gang động khoá nguồn phong" và đã chú thích là: cửa động khoá mà đầu nguồn niêm phong, nói như cảnh Thiên Thai, Đào Nguyên không dễ lại đến được.
Câu 301: Tan sương: buổi sáng sớm, sương mới tan.
Câu 305: Hư không: không có cớ gì, tự nhiên mà gây ra. Đây ý nói tình cờ mà Kim Trọng bắt được cái kim thoa của Thuý Kiều. Cái thoa thì cũng nhỏ thôi, làm sao mà Kim Trọng lại tinh mắt "nhác" trông đã "thấy" ngay được? Chắc cả hai cùng có tình ý nên mới xảy ra câu chuyện mất thoa và bắt được như thế. Sao lại gọi là "hư không" được?
Câu 306: Hợp Phố: do điển "Hợp Phố châu hoàn". Theo Hậu Hán thư. Trước khi Mạnh Thường được đổi về giữ chức Thái Thú quận Hợp Phố, bọn quận thú ở đây rất tham ô, bắt dân chúng ở đây phải đi mò ngọc trai về cho chúng thật nhiều. Ngọc trai bỏ đi về phía quận Giao Chỉ gần hết. Khi Mạnh Thường về, bãi bỏ tệ tham nhũng, không bắt dân đi mò ngọc trai thì ngọc trai lại trở về Hợp Phố. Do điển này người ta khi muốn nói một vật đã mất lại trở về với chủ cũ là Hợp Phố châu về. Cả câu 306 ý nói: Cái thoa này tự nhiên bắt được, không biết của ai mà đem trả?
Câu 311: Lân lý: ("lân": xóm, "lý": làng) xóm làng; đây ý nói chỗ láng giềng hàng xóm với nhau.
_______________________
Được rày như chút thơm rơi, Kể đà thiểu não lòng người bấy nay! 315 Mấy lâu mới được một ngày, Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là" Vội về thêm lấy của nhà, Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông. Bực mây rón bước ngọn tường, 320 Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng sai? Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu. Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau, Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn. 325 Xương mai tính đã rũ mòn, Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! Tháng tròn như gửi cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều! Tiện đây xin một hai điều, 339340
Đài gương soi đến
dấu bèo cho chăng?"
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng: "Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong. Dù khi lá thắm, chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. 361362 Nặng lòng
xót liễu vì hoa,
Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa!" Chú Thích: Câu 313: Chút thơm rơi: ý nói được gặp nhau hôm nay là chút hương thơm của chiếc kim thoa đánh rơi hôm trước làm mối cho.
Câu 314: Thiểu não: buồn rầu vô cùng trong lòng.
Câu 314: Lòng người: lòng Kim Trọng.
Câu 316: Gạn: hỏi cặn kẽ. "Gan chút": gạn hỏi cặn kẽ một chút.
Câu 316: Niềm tây: niềm riêng, nỗi lòng riêng.
Câu 318: Khăn là: khăn bằng lụa mỏng.
Câu 319: Thang mây: do chữ "vân thê", chỉ cái thang cao bắc lên tường. Chữ "mây" được dùng cho đẹp lời.
Câu 320: Chẳng nhe: có phải thế không.
Câu 323: Ngẫu nhĩ: cũng như "ngẫu nhiên", ý nói tình cờ không hẹn mà gặp.
Câu 324: Chồn: mỏi, nhọc.
Câu 325: Xương mai: xương vóc gầy như cây mai.
Câu 325: Thâu mòn: ("thâu": từ lâu) từ lâu rồi gầy mòn ốm yếu.
Câu 326: Lần lừa: hết ngày này qua ngày khác, đã lâu rồi trông ngóng.
Câu 327: Gửi cung mây: ý nói cả tháng trời tâm trí của Kim Trọng như gửi ở cung mây (cung Hằng) tức nơi Thuý Kiều ở.
Câu 328: Ấp cây: ôm chặt lấy cây cột ở chân cầu. Theo điển: Vĩ Sinh hẹn với một người con gái cùng gặp nhau ở dưới chân cầu. Người con gái không đến. Vĩ Sinh cứ ôm cây cột chờ mà chịu chết đuối. Câu này ý nói Kim Trọng cứ kiên nhẫn chờ đợi Thuý Kiều bỏ cả học hành.
Câu 330: Đài gương: cái giá có để gương cho phụ nữ trang điểm. Đây chỉ người con gái cao sang.
Câu 330: Dấu bèo: dịch chữ "bình tung", nói chảnh bèo trôi trên mặt nước chẳng để dấu vết gì.
Cả câu là lời Kim Trọng nói khiêm mình chỉ là một thư sinh chưa có danh vọng còn lang thang du học không biết có được cô Kiều là bậc cao sang để ý đến không.
Câu 332: Băng tuyết: trong trắng như băng tuyết, ý nói con nhà gia giáo theo khuôn phép nghiêm ngặt, không có nghĩ đến sự trăng hoa.
"Hoa tiên": "Thỉnh quân mạc giảng phong tình sự,
Khuê môn gia giáo lẫm băng sương".
(Xin chàng đường giở nguyệt hoa,
Phép nhà nghiêm nhặt như là băng sương).
Câu 332: Phỉ phong: rau phỉ, rau phong là hai thứ rau người ta có thể ăn cả rễ và cọng, nhà nghèo thường ăn. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Cốc phong" ngụ ý nói có bản chất tốt tuy rằng mộc mạc, quê mùa.
Câu 333: Chỉ Hồng: do chữ "xích thằng" là sợi dây đỏ. Theo Tục U quái lục, Vi Cố người đời Đường, khi trọ ở Tống Thành có gặp một cụ già ngồi dưới trăng (nguyệt lão) mà xem sách. Vi Cố hỏi cụ những sợi dây đỏ ở trong túi dùng để làm gì. Cụ nói dùng để buộc chân những người sẽ thành vợ chồng với nhau. Do đó hai chữ "chỉ hồng" được dùng để chỉ sự kết duyên của hai người trai gái lấy nhau.
Câu 335: Xót liễu vì hoa: ("xót": thương xót, "vì": yêu vì) cây liễu xanh non thường được dùng để ví với người con gái, bông hoa tươi đẹp thường được dùng để ví với người con gái xinh xắn. Đây nói chàng Kim đã nặng lòng yêu thương đến nàng Kiều người con gái yểu điệu như liễu và đẹp như hoa.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=14&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 06:10:06 bởi sóng trăng >