TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 8 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 110 bài trong đề mục
sóng trăng 02.02.2007 12:49:30 (permalink)
TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

 
 





1112    Trăm năm trong cõi người ta.

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy đã đau đớn lòng.

2526    Lạ gì bỉ sắc tư phong,


Trời xanh quen với má hồng đánh ghen.

Cảo thơm lần giở trước đèn,

Phong tình có lục còn truyền sử xanh.

Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,

4950    Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

7172    Đầu lòng hai ả tố nga.


Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

9192    Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.







Chú Thích:





Câu 1:
Trăm năm:  Thời gian một đời người ta ở trần thế. Cổ ngữ: Nhân sinh bách tuế vi kỳ = Người ta sống lâu chừng trăm tuổi. Ở câu này chữ "Trăm năm" có thể thay bằng chữ "Xưa nay", "đại phàm" vì chỉ ngụ ý nói bao quát mà thôi chứ không phải là hạn định 100 năm như mấy chỗ khác trong chuyện.

Câu 3:
Bể dâu:  do chữ "tang thương" dịch ra. Sách Ấu học tầm nguyên có câu: "Thương hải tang điền, vị thế sự chi da biến" ý nói bể xanh biến thành ruộng dâu là chỉ việc đời nhiều biến đổi.

Câu 5:
Bỉ sắc tư phong:  điều kia kém thì điều này hơn, ý nói có tài thì kém mệnh, có nhan sắc thì bị tạo hoá ghét ghen.

Câu 7:
Cảo thơm:  (cảo: bản thảo) pho sách hay.

Câu 8:
Phong tình có lục:  xem các bản nôm đã viết là thì câu này phải phiên âm là "Phong tình có lục còn truyền sử xanh" vì chữ nôm có mượn chữ (cổ trong bộ vi). Nếu là "cổ" lục thì chữ Hán đã có sẵn chữ cổ, sao lại không dùng đến. "Phong tình có lục": có cái bản truyện phong tình còn để lại trong sử sách.
  Bản quốc ngữ đầu tiên đã phiên "cổ lục" là bản Kim Vân Kiều tân chuyện của Edmond Nordemann in năm 1897.

Câu 8:
Sử xanh:  ngày xưa chưa có giấy, người ta phải chép sử và những thẻ tre xanh nên mới gọi như vậy.

Câu 9:
Gia Tĩnh:  niên hiệu vua Thế Tông nhà Minh (1522-1566)

Câu 9:
Triều Minh:  là một triều đại phong kiến của Trung Quốc, từ năm 1368 đến năm 1644.

Câu 10:
Hai kinh:  tức Bắc Kinh và Nam Kinh.

Câu 11:
Viên ngoại:  chức quan ngoại ngạch để những người giàu có được bỏ tiền ra mua cho thêm danh giá.

Câu 12:
Gia tư:  của cải trong nhà, cũng như "gia sản".

Câu 12:
Nghĩ:  cho là, ước chừng. Các bản Nôm kể cả bản LVĐ (1871) đều viết thì phải phiên âm là "nghĩ" mới đúng. Bản KOM viết là (nghỉ) nên về sau bản BK.TTK và bản TĐ mới phiên âm là "nghỉ" và chú thích là hắn, va, nó...
  Theo chúng tôi nghĩ chữ "nghỉ" có ngụ ý khinh rẻ nên không thích hợp ở đây để chỉ Viên ngoại.

Câu 14:
Nho gia:  nhà theo nho học.

Câu 15:
Tố nga:  (tố: trắng, nga: người con gái đẹp), người con gái đẹp ví với Hằng Nga ở trên cung trăng.

Câu 17:
Mai cốt cách:  ý nói về dáng vóc con người thanh tú như cành mai. "Cốt cách": bộ xương, kiểu dáng con người.

Câu 17:
Tuyết tinh thần:  ý nói tinh thần trong trắng như tuyết.

Câu 19:
Trang trọng:  có vẻ nghiêm trang đứng đắn.

Câu 22:
Mây thua nước tóc:  mây thua cải vẻ óng mượt của làn tóc mềm mại."Nước là cái ánh, cái vẻ óng mượt.

Câu 22:
Tuyết nhường màu da:  tuyết đã trắng mà cũng phải chịu kém màu trắng của làn da mịn màng như ngọc, như ngà.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 02:38:04 bởi sóng trăng >
#1
    sóng trăng 03.02.2007 05:03:55 (permalink)
     
     





    25    Làn thu thuỷ, thấp xuân sơn,

    Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

    Một đôi nghiêng nước nghiêng thành,

    Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

    Thông minh vốn sẵn tính trời,

    30    Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm.

    Cung thương làu bậc ngũ âm,

    Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

    Khúc nhà tay lựa nên chương,

    Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

    3738    Phong lưu rất mực hồng quần,

    Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,

    Êm niềm trướng rủ màn che,

    Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

    Tiết vừa con én đưa thoi,

    5758    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

    Cỏ non xanh tận chân trời,

    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

    Thanh minh trong tiết tháng ba,

    Lễ là Tảo mộ, gọi là đạp thanh.

    7778    Gần xa nô nức yến anh,

    Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

    Dập dìu tài tử giai nhân,

    Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.







    Chú Thích:





    Câu 25:
    Làn thu thuỷ, nét xuân sơn:  ý nói mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt xanh như núi mùa xuân. Bản LVĐ 66 đã khắc là "thấp".

    Câu 27:
    Nghiêng nước nghiêng thành:  ý nói đến cái đẹp làm cho người ta phải say mê mà mất cả thành mất cả nước. Ý ấy mượn trong bài ca của Lý Diên Niên: " Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lập, nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc..." = Phương Bắc có người con gái đẹp, đẹp nhất đời mà còn ở một mình. Người đẹp ấy chỉ ngoảnh lại một lần là nghiêng cả thành, ngoảnh lại lần nữa là nghiêng mất cả nước...

    Câu 27:
    Một hai:  đây là dịch mấy chữ "nhất cố, tái cố" trong điển trên.

    Câu 31:
    Cung thương:  hai âm đứng đầu trong ngũ âm tức: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ.

    Câu 31:
    Lầu bậc:  thuộc lòng các cung bậc.

    Câu 32:
    Hồ cầm:  ta thường hiểu là cây đàn tỳ bà, một thứ đàn nguyên ở nước Hồ làm ra.
      Thực ra đàn tỳ bà không phải là đàn Hồ cầm vì đàn Hồ cầm là một thứ đàn hai dây kếo vĩ, ta quen gọi là nhị, ta quen gọi là nhị, " nhị hồ" hay "đàn gáo".
      Gs. Trần Văn Khê cho rằng: "Cây đàn mà Thuý Kiều đánh chắc chắn không phải là cây đàn kéo vĩ bốn dây, đàn "tứ hồ" bởi vì Hồ cầm là cây đàn hơi thô rất ít khi phụ nữ chơi"
      Chính vì lẽ ấy mà khi vẽ Thuý Kiều gảy đàn, người ta đều vẽ nàng gảy cây đàn tỳ bà.

    Câu 32:
    Một trương:  các bản nôm hầu hết đều viết "một trương" nhưng cũng có một vài bản viết tắt chữ một là (không có chấm thuỷ) như bản Kim Vân Kiều tân truyện của Duy Minh Thị hoặc Kim Vân Kiều hợp tập khắc in năm 1924 nên có người mới đọc lầm là "Ngải Trương". Chữ (một) thực ra viết khác với chữ (ngải) có bộ (thảo) ơ trên.
      "Trương" có nghĩa là cây đàn. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kỳ nhất cục": cầm một cây, cờ một cuộc.
      Cả câu 32 ý nói cô Kiều có tài riêng về cây đàn Hồ cầm, ăn đứt được tất cả mọi người, không ai sánh kịp.

    Câu 33:
    Khúc nhà:  khúc đàn do Thuý Kiều soạn ra.

    Câu 33:
    Chương:  chương khúc, bài nhạc.

    Câu 34:
    Thiên Bạc mệnh:  tên bài đàn, bài nhạc do Thuý Kiều soạn ra nhan đề là Oán bạc mệnh.

    Câu 34:
    Não nhân:  làm cho người nghe phải sầu não trong lòng.

    Câu 35:
    Hồng quần:  cái quần mầu hồng người phụ nữ Trung Quốc xưa thương mặc; đây dùng để chỉ tư cách cao quí của người phụ nữ.

    Câu 36:
    Cập kê:  cài trâm. Theo tục lệ cổ Trung Quốc, con gái đến 15 tuổi bắt đầu cài trâm tức là đã đến tuổi lấy chồng.

    Câu 38:
    Tường đông:  tường nhà ở phía đông, chỉ nhà bên hàng xóm.

    Câu 38:
    Ong bướm:  ý nói đến cảnh những chàng trai tìm cách cách ve vãn con gái.

    Câu 40:
    Thiều quang:  ánh sáng tốt đẹp tức nắng xuân đẹp đẽ. Cả câu ý nói trong chín chục ngày xuân đẹp đẽ đã hơn sáu chục ngày qua đi rồi.

    Câu 43:
    Thanh minh:  theo âm lịch một năm chia làm 24 tiết, tiết thanh minh là một tiết thuộc mùa xuân nhằm vào khoảng đầu tháng ba âm lịch.

    Câu 44:
    Tảo mộ:  (tảo: quét, mộ: mồ mả) quét dọn sửa sang lại các phần mộ cho sạch sẽ.

    Câu 44:
    Đạp thanh:  giẫm lên cỏ xanh. Người ta đi tảo mộ ở ngoài đồng cỏ đông như hội nên gọi là hội đạp thanh.

    Câu 45:
    Yến anh:  hai loài chim thường bay thành đàn về mùa xuân, đây ngụ ý nói người đi chơi xuân đông đúc từng đoàn, từng lũ.

    Câu 47:
    Tài tử giai nhân:  trai tài gái sắc.

    Câu 48:

    Áo quần như nêm:  "nêm" đây là những mảnh gỗ mỏng đóng trên hai mặt thớt cối xay lúa khít nhau như những hàng răng. Chữ Hán có câu: "Xa mã như thuỷ, y thường như xỉ", ngựa xe đi lại như nước chảy, áo quần chật khít nhau như những hàng răng ở trên mặt cối. Cả câu 48 ý nói ngựa xe qua lại liên tiếp như nước chảy, khách du xuân áo quần đẹp đẽ chen khít nhau như những mảnh nêm ở trên mặt thớt cối xay. Câu này đặt theo lối tiểu đối: "thuỷ" (danh từ) đối với "nêm" (danh từ).
     
     
     

    http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=2&IDcat=153
    #2
      sóng trăng 04.02.2007 12:15:04 (permalink)
       
       



      Ngổn ngang gò đống kéo lên,

      50    Thoi vàng búa (vó) rắc, tro tàn giấy bay.

      Tà tà bóng ngả về tây,

      Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

      Bước dần theo ngọn tiểu khê,

      Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh:

      55    Nao nao dòng nước uốn quanh,

      Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

      Sè sè nắm đất bên đàng,

      Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

      Rằng: "Sao trong tiết Thanh minh,

      60    Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?"

      Vương Quan mới dẫn gần xa:

      "Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

      Nổi danh tài sắc một thì,

      Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh.

      65    Kiếp hồng nhan có mong manh,

      Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương!

      Có người khách ở viễn phương,

      Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

      Thuyền tình vừa ghé đến nơi,

      87    Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!

      Buồng không lạnh ngất như tờ,

      Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.







      Chú Thích:


      Câu 50:
      Vàng vó:  đồ mã làm giả những thoi vàng hình khối chữ nhật dùng để rắc lúc đưa ma hay để cũng lúc đi tảo mộ.

      Câu 53:
      Tiểu khê:  dòng nước nhỏ, ngòi nước nhỏ.

      Câu 54:
      Thanh thanh:  có vẻ xinh xắn.

      Câu 56:
      Dịp:  cũng viết là "nhịp". Trong thơ ca thường nói dịp.

      Câu 56:
      Ghềnh:  chỗ ngòi nước bị thu hẹp lại, hơi nông, có đá lởm chởm chắn ngang làm dòng nước dồn lại và chảy xiết.

      Câu 57:
      Sè sè:  ý nói thấp gần sát mặt đất.

      Câu 57:
      Nấm đất:  đây chỉ nấm mộ nhỏ.

      Câu 62:
      Ca nhi:  người con gái làm nghề ca hát ở các thanh lâu ngày xưa.

      Câu 64:
      Yến anh:  đây chỉ khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên đông như chim anh, chim yến.

      Câu 65:
      Hồng nhan:  má hồng, chỉ người đàn bà con gái đẹp.

      Câu 66:
      Cành thiên hương:  chỉ người con gái đẹp. "Thiên hương" là hương trời. Cả câu 66: ý nói người con gái đẹp đang độ tuổi thanh xuân mà đột nhiên nửa chừng bị chết.

      Câu 67:
      Viễn phương:  phương xa.

      Câu 69:
      Thuyền tình:  thuyền trở người khách có tình với Đạm Tiện đến. Kiều Oánh Mậu chú: "Tình sử": Thuyền dĩ tình quí = con thuyền lấy tình làm quí.

      Câu 70:
      Trâm gãy bình rơi:  cái trâm cài đầu bị gãy,cái bình hoa bị rơi vỡ, ý nói đến người đàn bà con gái đẹp bị chết. Thơ Bạch Cư Dị có câu: "Bình trầm trâm triết chi lại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt" = bình chìm trâm gãy biết làm sao được, cũng như sáng hôm nay thiếp cùng chàng từ biệt.

      Câu 71:
      Như tờ:  như tờ giấy, thứ giấy bản ngày xưa. Ta thường nói "êm như tờ" vì hai tờ giấy bản chạm vào nhau vẫn êm, không gây ra tiếng động nào.
      "Lạnh ngắt như tờ": lạnh lẽo và im không có một tiếng động nào.

      Câu 72:
      Dấu xe ngựa:  Dấu vết bánh xe ngựa của khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên.
      đã rêu lờ mờ xanh: các vết xe đã gần che kín bởi rêu mọc đã xanh rồi, ý nói đã lâu.

      http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=3&IDcat=153
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.02.2007 12:27:29 bởi sóng trăng >
      #3
        sóng trăng 06.02.2007 04:17:32 (permalink)

        Khóc than khôn xiết sự tình,

        Khéo vô duyên bấy là mình với ta!

        75    Đã không duyên trước chăng mà,

        Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

        Sắm xanh nếp tử xe châu,

        Vùi nồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.

        Trải bao thỏ lặn ác tà,

        80    Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm."

        Lòng đâu sẵn món thương tâm,

        Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

        "Đau đớn thay phận đàn bà,

        Lời là phận bạc cũng là lời chung.

        85    Phũ phàng chi mấy hoá công

        Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

        Sống làm vợ khắp người ta,

        Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.

        Nào người phượng chạ loan chung,

        90    Nào người tiếc lục tham hồng là ai?

        Đã không kẻ đoái người hoài,

        Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

        Gọi là gặp gỡ giữa đường,

        Hoạ là người dưới suối vàng biết cho."

        9798    Lầm rầm khấn vái nhỏ to,

        Sụp ngồi bả cỏ trước mồ bước ra.








        Chú Thích:


        Câu 74:
        Vô duyên:  không có nhân duyên với nhau nên không được gặp nhau.

        Câu 76:
        Chút ước:  một chút ước hẹn để dành về kiếp sau.

        Câu 77:
        Nếp tử:  cái áo quan bằng gỗ tử.

        Câu 77:
        Xe châu:  xe chở linh cữu có kết rèm ngọc châu. Theo đoạn này thì Nguyễn Du đã để Đạm Tiên chết được một thời gian (dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh) rồi người khách phương xa mới đến. Trong nguyên truyện thì: " Khi Đạm Tiên chết gặp phải mụ chủ tệ bạc toan đem vứt xác nàng ra bờ ngòi. May sao lúc ấy có một khách ở viễn phương vì mộ tiếng sắc tài của nàng nên mới tìm đến". Tưởng như vậy hợp lý hơn vì không làm gì có chuyện để quàn một chỗ chưa chôn ngay.

        Câu 78:
        Vùi nông:  chôn sơ sài, không có xây đắp mộ gì cả. Điều này cũng đúng với đoạn trên đã tả: "Sè sè nấm đất bên đàng". Bản BK-TTK cũng chép là "vùi nông". Tản Đà theo bản KOM chép là "Bụi hồng" và đã chú thích rằng: "Hai chữ "bụi hồng" đây chỉ là lời văn lịch sự, nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản để là vùi nông thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý."
        Thực ra thì theo mạch văn ở đây phải dùng hai chữ "vùi nông" mới chuyển tiếp được với việc "sắm sanh" ở câu trên.
        Hơn nữa người khách viễn phương chưa quen biết gì Đạm Tiên mà lo cho chôn cất như vậy đã là có tình rồi.

        Câu 79:
        Thỏ lặn ác tà:  Thỏ là chỉ mặt trăng, ác là chỉ mặt trời: ý nói đã bao ngày trôi qua rồi.

        Câu 80:
        Vô chủ:  không có ai nhận, không có ai thăm viếng, quét dọn sửa sang lại.

        Câu 82:
        Châu sa:  giọt nước mắt chảy xuống. Cổ văn: "Sái giao nhân chi châu lệ" = người giao nhân khóc nước mắt sa xuống thành hạt châu.

        Câu 89:
        Phượng chạ loan chung:  chỉ những người khách làng chơi đã từng ăn nằm với Đạm Tiên. Cái cảnh phượng loan chung chạ là nói đến sự ái ân giao tình bừa bãi.

        Câu 90:
        Tiếc lục tham hồng:  tiếc mầu xanh, tham màu đỏ; chỉ những người khách làng chơi đã ham mê sắc đẹp của Đạm Tiên.

        Câu 92:
        Kiếm:  BK-TTK đã giảng: ""Kiếm" là để đem dâng, đem lễ, chữ không phải là tìm kiếm". Các bản nôm đều viết (kiếm) nhưng không thể hiểu như BK.TTK được. "Kiếm" chỉ có nghĩa là tìm kiếm. Sở dĩ ba chị em Thuý Kiều phải tìm kiếm một vài nén hương mà các người đi tảo mộ còn để lại vì lúc ra về ba chị em chỉ đi tay không: "Chị em thơ thẩn dan tay ra về", không cầm gì cả, chính sự tìm kiếm ấy đã cho ta thấy được lòng thương xót của Thuý Kiều đối với Đạm Tiên thật sâu sắc, thân chân tình.

        Câu 94:
        Suối vàng:  cho chữ "hoàng tuyền" là cái suối ở dưới đất mà theo ngũ hành đất thộc mầu vàng nên gọi là suối vàng.

        Câu 96:
        Vài gật:  tức là cúi đầu vái mấy cái. Nguyên truyện viết: Đảo thân tứ bái = nghiêng mình vái bốn cái.


        http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=4&IDcat=153
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.02.2007 04:18:42 bởi sóng trăng >
        #4
          sóng trăng 07.02.2007 08:44:30 (permalink)
          .
           
           





          Một vùng cỏ áy bóng tà,

          Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.

          Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

          100    Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.

          Lại càng mê mẩn tâm thần,

          Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

          Lại càng ủ dột nét hoa,

          Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

          105    Vân rằng: "Chị cũng nực cười,

          Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa."

          Rằng: "Hồng nhan tự nghìn xưa,

          Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

          Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

          110    Thấy người nằm đó biết sau thế nào?"

          Quan rằng: "Chị nói hay sao,

          Một điều là một vận vào khó nghe!

          Ở đây âm khí nặng nề,

          Bóng chiều đã ngả, dặm hoè còn xa."

          115    Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,

          Chết là thể phách, còn là tinh anh.

          Dễ thay tình lại gặp tình,

          Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ."

          Một lời nói chửa kịp thưa,

          120    Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.










          Chú Thích:





          Câu 97:
          Cỏ áy:  cỏ vàng úa.

          Câu 100:
          Bốn câu ba vần:  tức là bài thơ tứ tuyệt.

          Câu 101:
          Tâm thần:  tâm trí, tinh thần, nói chung về tinh thần ý tưởng.

          Câu 103:
          Nét hoa:  nét mặt đẹp của người con gái."Ủ dột nét hoa" là nói nét mặt buồn rầu.

          Câu 106:
          Người đời xưa:  do chữ cổ nhân, chỉ người đã chết.

          Câu 112:
          Vận vào:  buộc vào mình.

          Câu 113:
          Âm khí:  khí âm, đây nói về cái khí ảm đạm lạnh lẽo ở bãi tha ma.

          Câu 116:
          Thể phách:  xác và vía; xác là hữu hình, phách là thuộc về vô hình, chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại. Chữ "thể phách" ở đây chỉ chung thể xác con người.

          Câu 116:
          Tinh anh:  tức là phần linh hồn. Nguyên truyện: "Tử giả thể phách, bất tử giả tinh thần" = người ta chết là mất đi cái thể xác chứ cái tinh thần thì không bao giờ mất được.

          Câu 118:
          Hiển linh:  hiện rõ ra sự linh thiêng.
           
          http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=5&IDcat=153

          Câu 120:
          Trận gió cuốn cờ:  tức là trận gió mạnh có thể cuốn lá cờ lại.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.02.2007 08:58:54 bởi sóng trăng >
          #5
            sóng trăng 09.02.2007 12:25:11 (permalink)
            .
             
             





            Ào ào đổ lộc đưa cây,

            Ở trong dường có hương bay ít nhiều.

            Đè chừng ngọn gió lần theo,

            Dấu giày từng bước rêu in rành rành.

            125    Mặt nhìn ai nấy đều kinh,

            Nàng rằng: "Này thực tinh thành chẳng xa.

            Hữu tình ta lại gặp ta,

            Chẳng nề u hiển, mới là chị em."

            Đã lòng hiển hiện cho xem,

            130    Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

            Lòng thơ lai láng bồi hồi,

            Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

            Dùng dằng nửa ở nửa về,

            Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

            135    Trông chừng thấy một văn nhân,

            Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

            Đề huề lưng túi gió trăng,

            Sau chân theo một vài thằng con con.

            Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

            140    Cỏ pha màu (mùi) áo nhuộm non da trời.

            Nẻo xa mới tỏ mặt người,

            Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.

            Hài văn lần bước dặm xanh,

            Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.








            Chú Thích:





            Câu 126:
            Tinh thành:  lòng rất chân thành, hoàn toàn thuần khiết.

            Câu 128:
            U hiển:  tối và sáng rõ; ý nói đến người chết ở dưới âm ty và kẻ sống ở trên dương gian.
            "Chớ nề u hiển": không có phân biệt gì kẻ sống với người chết.

            Câu 132:
            Cổ thi:  bài thơ cổ, bài thơ làm theo cổ thể hoặc cổ phong chưa có niêm luật chặt chẽ.

            Câu 134:
            Nhạc vàng:  tức là nhạc ngựa bằng đồng vì sắc đồng màu vàng nên gọi là nhạc vàng cho đẹp lời.

            Câu 136:
            Tay khấu:  tay cầm cương ngựa. "Khấu": dây cương ngựa. "Lỏng buông tay khấu": thả chùng dây cương cho ngựa đi thong thả lại.

            Câu 136:
            Dặm băng:  chữ băng có nghĩa là nước giá lạnh đông cứng lại khác với chữ băng là đi ngang, vượt lên. Vì mặt băng rất phẳng nên "dặm băng" có nghĩa là dặm đường bằng phẳng. "Dặm băng" được đặt đối với "tay khấu" nên chữ "băng" không thể là động từ được.

            Câu 137:
            Đề huề:  mang dắt. Ý nói Kim Trọng đi vui vẻ có một vài đứa tiểu đồng theo sau chân ngựa.

            Câu 137:
            Lưng túi gió trăng:  do các chữ "bán nang phong nguyệt (nửa túi gió trăng). Các nhà thơ xưa thường hay lấy gió trăng làm đề tài ngâm vịnh nên mới gọi "túi thơ" là túi gió trăng.

            Câu 139:
            Ngựa câu:  ngựa non, đương sức mạnh.

            Câu 139:
            Giòn:  chữ "giòn" ở các bản Kiều nôm thường viết có khung "bệnh" bằng chữ "tồn". Chữ "giòn" (dòn) có thể hiểu nghĩa là đẹp.

            Câu 142:
            Tự tình:  bày tỏ nỗi lòng của mình.

            Câu 143:
            Hài văn:  thứ giày thêu mà các nho sinh ngày xưa thường dùng.

            Câu 143:
            Dặm xanh:  dặm cỏ xanh, đối chiếu lên "dặm băng" thì hai chữ "xanh" và "băng" đều là tính từ. Dặm cỏ xanh bằng phẳng gọi là "dặm băng".

            Câu 144:
            Cây quỳnh cành dao:  hai thứ cây cảnh đẹp. KOM chú: "Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm dao thụ phong trần ngoại vật" = Phong cách tinh thần Vương Diễn đẹp như rừng quỳnh cây dao, thực là một bậc ngoài cõi phong trần vậy. (Thế thuyết).
             
             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2007 12:26:23 bởi sóng trăng >
            #6
              sóng trăng 13.02.2007 04:46:17 (permalink)
              145    Chàng Vương quen mặt ra chào,

              Hai kiều e mặt nép vào dưới hoa.

              Nguyên người quanh quất đâu xa,

              Họ Kim, tên Trọng vốn nhà trâm anh.

              Nền phú quí, bậc tài danh,

              150    Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

              Thiên tư tài mạo tót vời,

              Vào trong thanh nhã, ra ngoài hào hoa.

              Chung quanh vẫn đất nước nhà,

              Với Vương Quan, trước vẫn là đồng thân.

              155    Vẫn nghe thơm nức hương lân,

              Một nền Đồng Tước khoá xua^n hai Kiều.

              Nước non cách mấy buồng điều,

              Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.

              May thay giải cấu tương phùng,

              160    Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.

              Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

              Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

              Người quốc sắc, kẻ thiên tài,

              Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.

              165    Chập chờn cơn tỉnh cơn mê

              Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.

              Bóng tà như giục cơn buồn,

              Khách đà xuống ngựa, người còn ghé theo.






              Chú Thích:





              Câu 146:
              Hai kiều:  (kiều là người con gái xinh đẹp) chỉ hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân.

              Câu 147:
              Đâu xa:  ý nói không có đâu xa.

              Câu 148:
              Trâm anh:  (trâm: cái trâm để cài tóc, anh: cái dải mũ)
                "Nhà trâm anh": nhà quyền quí dòng dõi làm quan.

              Câu 149:
              Phú hậu:  giàu có và phúc hậu.

              Câu 149:
              Tài danh:  người có tài và nổi tiếng.

              Câu 151:
              Phong tư:  hình dáng người có vẻ nho nhã, rất có tư cách.

              Câu 151:
              Tài mạo:  vẻ mặt thông minh, có tài năng.

              Câu 152:
              Phong nhã:  phong lưu tao nhã, ý nói người có dáng dấp một nhà nho tài giỏi thơ văn.

              Câu 152:
              Hào hoa:  nói người ăn chơi hào phóng lịch sự.

              Câu 155:
              Hương lân:  chỗ hàng xóm láng giềng trong làng

              Câu 156:
              Đồng tước:  tên một cái đài. Đời Tam Quốc, Tào Tháo định nếu đánh thắng Đông Ngô sẽ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều về giữ kín ở đài Đồng Tước.

              Câu 156:
              Hai Kiều:  hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều. Chữ Kiều ở đây viết hoa vì là tên người . Hai chữ (kiều = người con gái đẹp) cùng đồng âm nên có một ý nghĩa rất đặc biệt.

              Câu 157:
              Buồng thêu:  buồng của con gái ở.

              Câu 158:
              Chốc mòng:  lúc lúc lại tưởng nhớ, ý nói nhớ hoài không bao giờ quên, chốc chốc lại nhớ đến.

              Câu 159:
              Giải cấu tương phùng:  tình cờ không hẹn mà gặp.

              Câu 160:
              Đố lá:  hội đố lá tức là đố cỏ ("đấu thảo" hoặc "diệp hí"). Bên Trung Quốc, đời Đường có hội đấu hoa lá.

              Câu 161:
              Bóng hồng:  bóng người con gái, đây chỉ bóng của hai chị em cô Kiều.

              Câu 162:
              Xuân lan thu cúc:  hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu, mỗi đoá hoa có một vẻ đẹp riêng. Thuý Kiều và Thuý Vân cũng vậy, mỗi người có một vẻ đẹp riêng.

              Câu 163:
              Quốc sắc:  sắc đẹp nổi tiếng trong nước, vào bậc nhất trong nước. "Người quốc sắc": đây chỉ Thuý Kiều.

              Câu 163:
              Thiên tài:  tài do trời phú cho, tài cao hơn hẳn mọi người.
                "Kẻ thiên tài": đây chỉ Kim Trọng.

              Câu 166:
              Rốn ngồi:  ngồi thêm, cố ngồi thêm. Thực ra ở ngoài cánh đồng, ghế đâu mà ngồi. Kim Trọng và Vương Quan đều đứng mà nói chuyện với nhau.

              Câu 166:
              Chỉn khôn:  không xong, chẳng được.

              Câu 168:
              Ghé theo:  nhìn với theo, liếc mắt nhìn theo. Chữ "ghé" (nhìn theo) viết có bộ "mục" khác với chữ "ghé" (tạt vào), viết có bộ "túc".
               
              http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=7&IDcat=153
              #7
                sóng trăng 13.02.2007 04:48:58 (permalink)

                Dưới khe nước chảy trong veo,

                170    Bên cầu tơ liễu bóng chiều đã ra.

                Kiều từ trở gót trướng hoa,

                Mặt trời đến đất, chiêng đà thu không.

                Gương nga vành vạnh từ song.

                Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

                175    Hải đường lả ngọn đông lân,

                Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà.

                Một mình rạng ngắm tố nga,

                Rộn đường xa với nỗi xa bời bời.

                Người mà đến thế thì thôi,

                180    Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

                Người đâu gặp gỡ làm chi,

                Trăm năm biết có duyên gì thay không?

                Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

                Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

                185    Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

                Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.

                Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

                Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.

                Sương in mặt, tuyết pha thân,

                190    Nhạc vàng lãng đãng như gần như xa.

                Liền mừng đón hỏi dò la:

                "Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?"








                Chú Thích:





                Câu 171:
                Trướng hoa:  bức màn có thêu hoa, chỉ buồng phụ nữ ở.
                Trướng rủ màn che (c.37)

                Câu 172:
                Thu không:  do chữ "sưu" không. "Sưu" là tìm tòi, "không" là trống không. "Sưu không" là đi xem xét, tìm tòi trong dinh trong đồn để soát lại có chỗ nào sơ khoáng chăng mà phòng kẻ gian. Sau quen gọi là "thu không" tức là hiệu trống, hiệu chuông bãi công việc vào buổi chiều, lúc gần tối.

                Câu 175:
                Hải đường:  thứ cây có hoa đẹp thường được dùng để ví với người con gái có nhan sắc.

                Câu 175:
                Đông lân:  láng giềng phía đông.

                Câu 176:
                Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà:  câu này bản Liễu Văn đường, bản Kiều Oánh Mậu và bản Quan Văn đường (1925) đều viết (treo) nhưng vì "tr" có thể chuyển ra "gi" nên các bản quốc ngữ có người viết là:
                "Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà"
                có người phiên là:
                "Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà."
                Hồ Đắc Hàm phiên là:
                "Giọt sương tríu nặng, cành xuân la đà."
                Tản Đà thấy chữ "chíu" thì lấy làm đắc ý và giải thích: "Chíu nghĩa là treo bám vào đó mà làm ra cho nặng. Chữ này nguyên văn Nôm là các bản để là "gieo", là "đeo", đều là không sành nghĩa, duy trong bản của ông Hồ Đắc Hàm để là "chíu" thực tình đúng hơn.
                Tuy Tản Đà có ý kiến như vậy nhưng chúng tôi nhận thấy câu 176 nên phiên âm là:
                "Giọt sương gieo nặng, cành xuân

                Câu 177:
                Bóng nga:  bóng trăng (Nga: Hằng nga) người xưa tin rằng ở trên mặt trăng có ả Hằng Nga.

                Câu 178:
                Rộn đường gần:  óc bận rộn suy nghĩ về những việc mới xảy ra: gặp mả Đạm Tiên, Gặp Kim Trọng.

                Câu 178:
                Nỗi xa:  nỗi suy nghĩ về tương lai của đời mình, mối tình với Kim Trọng.
                "Trăm năm biết có duyên gì hay không?"

                Câu 180:
                Đời phồn hoa:  đời sống hoa lệ, xa xỉ.

                Câu 184:
                Tuyệt diệu:  nói câu thơ rất hay.

                Câu 186:
                Bên triện:  bên lan can tạc hình chữ triện.

                Câu 187:
                Tiểu kiều:  người con gái nhỏ nhắn xinh đẹp.

                Câu 188:
                Phong vận:  dáng vẻ con nhà nề nếp, đoan trang.
                Thanh tân: còn trong trắng.

                Câu 189:
                Sương in mặt:  trên mặt còn có sương in vết.
                Tuyết pha thân: trên mình còn có tuyết vương dấu.
                Cả câu tả cái cảnh nàng tiểu kiều đã trải sương tuyết ban đêm từ xa đến.

                Câu 190:
                Sen vàng:  chỉ gót chân người đẹp, bước chân của người đẹp. Đông Hôn hầu nước Tề rất yêu nàng quí phi họ Phan, đã cho đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sinh liên hoa" (mỗi bước nở ra một bông hoa sen).

                Câu 190:
                Lãng đãng:  có vẻ chập chờn, lờ mờ, khi xa khi gần. Câu này cho ta thấy tiểu kiều đã hiện lên như một bóng ma chập chờn trước mắt Thuý Kiều.

                Câu 192:
                Đào nguyên:  nguồn đào, nơi tiên ở. Theo bài "Đào hoa nguyên ký" của Đào Tiềm thì có một người đánh cá đã lạc vào một rừng đào, nơi tiên ở nên về sau người ta dùng chữ "đào nguyên" để chỉ cảnh tiên.

                http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=8&IDcat=153
                #8
                  sóng trăng 13.02.2007 04:51:55 (permalink)
                   
                   
                   
                   


                  Thưa rằng: "Thanh khí xưa nay,

                  Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?

                  195    Hàn gia tây thiên

                  Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.

                  Thêm lòng hạ cố đến nhau,

                  Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

                  Vâng trình hội chủ xem tường,

                  200    Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.

                  Âu đành quả kiếp nhân duyên,

                  Cũng người một hội một thuyền đâu xa.

                  Này mười bài mới mới ra,

                  Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.

                  205    Kiều vâng lĩnh ý đề bài,

                  Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.

                  Xem thơ nức thỏm khen thầm:

                  "Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.

                  Ví đem vào tập đoạn trường.

                  210    Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai."

                  Thềm hoa khách đã trở hài,

                  Nàng còn Ở lại một hai tự tình.

                  Gió đâu sịch bức mành mành

                  Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.

                  215    Trông theo nào thấy đâu nào,

                  Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây?








                  Chú Thích:





                  Câu 193:
                  Thanh khí:  do câu "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" = vật gì cùng một thứ tiếng thì ứng hợp với nhau, vật gì cùng một khí loại thì tìm đến với nhau. Câu này ý nói xưa nay những người cùng một cảnh ngộ, cùng một tâm tình thì dễ thông cảm nhau.

                  Câu 195:
                  Hàn gia:  được dùng để chỉ nhà mình, ý khiêm tốn cho rằng nhà mình cũng nghèo nàn. Đây ý nói đến ngôi mộ, nơi yên nghỉ của Đạm Tiên.

                  Câu 195:
                  :  phía, bên.

                  Câu 195:
                  Tây thiên:  đường bờ ruộng ở về một phía tây (nơi có mộ Đạm Tiên)
                  ("thiên": đường đi ở trong tha ma, đường bờ ruộng).

                  Câu 197:
                  Hạ cố:  ("cố" quay cổ lại nhìn) trông xuống, đoái tới.

                  Câu 198:
                  Hạ tứ:  ban xuống. Người trên cho kẻ dưới gọi là "tứ".

                  Câu 198:
                  Ném châu gieo vàng:  ý nói ban cho những lời thơ hay, quí như châu báu vàng ngọc.

                  Câu 199:
                  Hội chủ:  người chủ hội, đây chỉ người chủ hội đoạn trường.

                  Câu 200:
                  Đoạn trường:  đứt ruột, đau lòng đến đứt ruột.
                  "Sổ đoạn trường": sổ chép tên những người có số đoạn trường, phải chịu sự đày đoạ ở đời.
                  Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dùng tới 17 lần chữ "đoạn trường" ở các câu 200, 209, 231,818, 869, 996, 1270, 1324, 1860, 1934, 2622, 2654, 2666, 2676, 2721, 2722, 3212.

                  Câu 201:
                  Quả kiếp nhân duyên:  quan niệm nhà Phật cho rằng cái quả của kiếp này là do cái nhân từ đời trước gây ra và cái nhân đời này là cái quả của kiếp sau sẽ hưởng thụ.

                  Câu 202:
                  Một hội một thuyền:  ý nói ở cùng một hoàn cảnh.

                  Câu 204:
                  Câu thần:  câu thơ cực hay.

                  Câu 206:
                  Tay tiên:  tay của ngươi có tài làm thơ, cũng có ý chỉ tay của người con gái đẹp.

                  Câu 208:
                  Tú khẩu cẩm tâm:  miệng thêu lòng gấm, ý nói lời thơ đẹp. Người ta đã ca tụng thơ Lý Bạch là: "Cẩm tâm tú khẩu Lý Thái Bạch chi văn chương".

                  Câu 211:
                  Trở hài:  quay gót hài đi trở ra.

                  Câu 213:
                  Sịch:  lay động mạnh.

                  Câu 216:
                  Hương thừa:  mùi hương thơm còn toả bay, chưa tan hết.

                  http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=9&IDcat=153
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 04:52:55 bởi sóng trăng >
                  #9
                    sóng trăng 13.02.2007 04:55:21 (permalink)
                     
                     
                     





                    Một mình lưỡng lự canh chầy,

                    Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!

                    Hoa trôi, bèo dạt, đã đành.

                    220    Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!

                    Nỗi riêng lớp lớp sóng trôi,

                    Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.

                    Giọng kiều rền rĩ trướng loan,

                    Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?

                    225    "Cớ sao trằn trọc canh khuya,

                    Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"

                    Thưa rằng: "Chút phận ngây thơ,

                    Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

                    Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,

                    230    Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

                    Đoạn trường là số thế nào,

                    Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.

                    Cứ trong mộng triệu mà suy,

                    Phận con thôi có ra gì mai sau!"

                    235    Dạy rằng: "Mộng triệu cứ đâu,

                    Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao!

                    Vâng lời khuyên giải thấp cao,

                    Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch sương.

                    Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

                    240    Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.







                    Chú Thích:





                    Câu 217:
                    Lưỡng lự:  lo nghĩ phân vân không biết quyết định ra sao.

                    Câu 217:
                    Canh chầy:  canh khuya.

                    Câu 219:
                    Hoa trôi bèo giạt:  hoa rụng xuông nước bị cuốn trôi đi, bèo bị sóng đành mà giạt trở lại. Ý nói nàng Kiều tự nghĩ duyên phận mình sau này cũng trôi nổi như cánh bèo, đoá hoa vậy.

                    Câu 221:
                    Sóng dồi:  sóng tung lên dìm xuống nhiều lần.

                    Câu 222:
                    Đòi cơn:  nhiều cơn.
                      Cả hai câu 221-222 ý nói trong lòng có nhiều lo nghĩ như sóng dồi nhiều lớp, càng lo nghĩ lại càng đau đớn mà sụt sùi khóc lóc.

                    Câu 223:
                    Giọng Kiều:  giọng của Thuý Kiều. Các bản nôm KOM-QVĐ đều viết (kiều). Chữ kiều này có nghĩa là vẻ mềm mại đáng yêu nên xưa kia gọi con gái là a kiều.

                    Câu 224:
                    Nhà huyên:  chỉ người mẹ, dịch chữ "huyên đường"; chữ lấy ở bài Bá hề (Kinh Thi): "Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối" = mong được cỏ huyên để trồng vào bên nhà phía bắc. Chữ "huyên" nguyên nghĩa là quên, dùng với chữ "thảo" mới có ý nghĩa là cây quên sầu. Về sau người ta lại viết chữ "huyên" để chỉ cỏ huyên cũng gọi là "vong ưu thảo" hoặc "nghi nam". (sách thuốc xưa nói đàn bà "có thai" đeo hoa cây ấy thì sinh con trai).

                    Câu 226:
                    Màu hoa lê:  ý nói mặt nàng Kiều trắng đẹp như hoa lê mà khi khóc nước mắt làm ướt trông tựa hoa thấm mưa xuân. Mấy chữ này mượn ý từ câu: "Ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đới vũ" = Lệ giàn mặt ngọc lưa thưa, cành lê hoa chíu hạt mưa xuân đầm". (Tản Đà dịch).

                    Câu 228:
                    Dưỡng sinh:  cha sinh mẹ dưỡng, chỉ công ơn cha mẹ.

                    Câu 228:
                    Tóc tơ:  dùng để chỉ những điều nhỏ nhặt nhất, nói về công ơn cha mẹ, cũng phải báo đáp.

                    Câu 230:
                    Nhắp:  chợt ngủ đi.

                    Câu 233:
                    Mộng triệu:  điều chiêm bao thấy trong mộng báo trước sự việc sẽ xảy ra.

                    Câu 236:
                    Chuốc sầu:  tự mua lấy cái sầu não vào mình.

                    Câu 238:
                    Mạch Tương:  mạch nước sông Tương, lấy tích bà Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, gần bờ sông Tương. Hai bà đến đó kêu khóc thảm thiết, nên bây giờ thường dùng chữ mạch Tương mà ví nước mắt thương nhớ.

                    Câu 239:

                    Oanh vàng ... bông liễu:  hai câu này, ý nói Kiều nghe chim oanh hót, thấy bông liễu bay thì nghĩ đến tình duyên của mình.
                     
                     

                     
                    #10
                      sóng trăng 13.02.2007 04:58:32 (permalink)
                       
                       
                       
                       





                      Hiên tà gác bóng chênh chênh,

                      Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.

                      Cho hay là thói hữu tình,

                      Đố ai dứt mối tơ mành cho xong!

                      245    Chàng Kim từ lại thư song,

                      Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

                      Sầu đông càng khắc càng đầy,

                      Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

                      Mây Tần khoá kín song the,

                      250    Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao.

                      Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,

                      Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.

                      Buồng văn hơi lạnh như đồng,

                      Trúc se ngón thỏ, tơ chùng phím loan.

                      255    Mành Tương phân phất gió đàn,

                      Hương lây mùi nhớ, trà khan giọng tình.

                      Ví chăng duyên nợ ba sinh,

                      Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

                      Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,

                      260    Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời gót đi.

                      Một dòng cỏ mọc xanh rì,

                      Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!

                      Gió chiều như gợi cơn sầu,

                      Vi lau hiu hắt như màu khảy trêu.







                      Chú Thích:





                      Câu 244:
                      Đố ai:  là chỉ Kim Trọng, ý nói Kim Trọng và Thuý Kiều đã có tình ý với nhau thì khi trong thấy bông liễu bay sang đó Kim Trọng gỡ mối tơ mành cho được ("mành": nói về sợi nhỏ).

                      Câu 245:
                      Thư song:  chỗ cữa sổ phòng đọc sách, tức phòng đọc sách.

                      Câu 247:
                      Sầu đong càng lắc càng đầy:  ý nói sầu nhớ vô cùng, nếu đem mà đong thì càng lắc càng đầy, không vơi đi được. Ca dao có câu: "Ai đi muôn dặm non sông, để ai chất chứa sầu đong vơi đầy". Bản LVĐ chép là: Sầu "đông" càng "khắc" càng đầy.

                      Câu 248:
                      Ba thu:  ba mùa thu, tức ba năm. Ta thường lấy mỗi mùa để chỉ một năm như "ba xuân", "ba đông".

                      Câu 249:
                      Mây Tần:  Tấn thư có câu: "Tần vân như mỹ nhân" (mây Tần như người đẹp). Ở đây chữ "Tần" chỉ được dùng cho đẹp lời.

                      Câu 249:
                      Song the:  cửa sổ có treo màn the.

                      Câu 250:
                      Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao:  câu này và câu trên có thể hiểu là: Cô Kiều cứ ở hoài trong phòng không ra ngoài nên Kim Trọng chỉ còn cách tìm về trong mộng để gặp mặt người yêu. "Hoa Tiên" cũng có câu: "Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao". "Bụi hồng" trong câu 250 có nghĩa là cảnh phồn hoa náo nhiệt.
                        Đường phú có câu: "Hồng trần một đoạn ..."
                        (Chiêm bao cách đám bụi hồng ...)
                        Xem thêm câu 3046: Còn chen vào chốn "bụi hồng" làm chi?

                      Câu 254:
                      Ngón thỏ:  ngòi bút lông thỏ, đầu nhọn.

                      Câu 254:
                      Phím loan:  phím đàn gắn bằng keo loan. Cả câu ý nói: Kim Trọng tương tư đến nỗi bỏ cả học tập (bút để khô cả ngọn), chán cả gảy đàn (lâu ngày dây cũng chùng cả đi).

                      Câu 255:
                      Mành Tương:  bức mành ngoài đan bằng tre, phía trong kẹp the màu vàng. Sở dĩ gọi là mành Tương vì liên quan đến điển hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh (xem chữ mạch Tương câu 238. Hai bà nghe tin vua Thuấn chết khóc quá thảm thiết, nước mắt vẩy vào các bụi trúc xung quan khiến cho các thân trúc đều thành lốm đốm. Thứ mành làm bằng trúc có vỏ lốm đốm này gọi là "Tương phi trúc".

                      Câu 256:
                      Khan giọng tình:  (khan: khô ráo, thiếu) ý nói Kim Trọng vì tương tư Thuý Kiều nên uống trà chẳng thấy ý vị tình tứ gì.

                      Câu 257:
                      Ba sinh:  do chữ "tam sinh" là ba kiếp sống của con người (quá khứ, hiện tại, vị lai). Cả câu ý nói Kim Trọng và Thuý Kiều có duyên nợ từ kiếp này qua kiếp khác với nhau phải kết duyên vợ chồng.

                      Câu 258:
                      Thói khuynh thành:  thói làm say đắm lòng người. Cả câu ý nói: Nếu không có duyên nợ vợ chồng với nhau thì làm chi mà lại đem sắc đẹp để trêu ngươi như vậy.

                      Câu 260:
                      Kỳ ngộ:  sự gặp gỡ kỳ lạ. Từ câu 259 đến câu 264 nói đến việc Kim Trọng trở lại thăm chỗ đã gặp Thuý Kiều hôm đi dự hội đạp thanh (nơi kỳ ngộ) nhưng nay chỉ thấy phong cảnh tiêu điều buồn bã.
                       
                      #11
                        sóng trăng 13.02.2007 05:01:42 (permalink)
                         
                         



                        265    Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

                        Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

                        Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

                        Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

                        Lơ thơ tơ liễu buông mành,

                        270    Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

                        Mấy lần cửa đóng then cài,

                        Dãy thềm hoa rụng biết người ở đâu?

                        Tần ngần đứng suốt giờ lâu,

                        Dạo quanh, chợt thấy mé sau có nhà.

                        275    Là nhà Ngô Việt thương gia,

                        Buồng không để đó người xa chưa về.

                        Lấy điều đạo học hỏi thuê,

                        Túi đàn, cặp sách đề huề liền sang.

                        Có cây, có đá, sẵn sàng.

                        280    Có hiên Lãm Thuý nét vàng chưa phai.

                        Mừng thầm chốn ấy chữ bài,

                        Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.

                        Song hồ nửa khép cánh mây,

                        Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

                        285    Tấc gang đồng toả nguyên phong,

                        Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

                        Nhẫn từ quán khách lân la,

                        Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.









                        Chú Thích:





                        Câu 266:
                        Lam Kiều:  Cầu Lam, tên một cái cầu ở huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) do "điển": Ngày xưa, đời nhà Đường, Bùi Hàng gặp nàng Vân Kiều cho một bài thơ trong có câu nói Lam Kiều bản thị thần tiên quật (Lam Kiều là chỗ thần tiên ở). Đến sau, khi đi qua cầu Lam, khát nước, vào hàng uống nước thì thấy nàng Vân Anh rất xinh đẹp, muốn xin cưới làm vợ. Bà mẹ nàng bảo nếu có chày ngọc giã được thuốc tiên xong thì gả cho. Bùi Hàng nhờ mua được chày ngọc nên cưới được Vân Anh. Hôm làm lễ cưới, Bùi Hàng mới nhận ra người đưa cho mình bài thơ chính là chị Vân Anh. Sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên.
                        "Nẻo Lam Kiều: đây chỉ nhà Thuý Kiều."

                        Câu 268:
                        Lá thắm:  do điển "hồng diệp đề thi". Nguyên về đời Đường, Vu Hựu vớt được chiếc lá trôi trên dòng nước từ cung vua ra và đọc thấy có bái thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá đỏ khác, đề hai câu thơ rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Hàn thị bắt được. Về sau, nhân dịp vua thải ba nghìn cung phi, Hàn thị được ra rồi lại tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Một hôm hai người cùng nhắc đến chuyện chiếc lá đề thơ, mới hay là của chính họ. Vì thế, sau này mới dùng điển tích này để nói nhân duyên vợ chồng.

                        Câu 268:
                        Chim xanh:  do chữ "thanh điểu", chỉ người đưa tin. Theo Hán Vũ cố sự ngày mồng 7 tháng 7 vua Hán Vũ đế đương ngự triều có ba con chim xanh đến đậu trước điện. Đông Phương Sóc tâu rằng: "Đấy là sứ giả của Tây Vương mẫu đưa tin đến trước. Quả nhiên một lát sau Tây Vương mẫu đến.
                        Do đó mới gọi người đưa tin là "chim xanh". Cả câu ý nói không có cách gì để liên lạc được với nàng Kiều.

                        Câu 275:
                        Ngô Việt thương gia:  người đi buôn nay sang bên Ngô mai về bên Việt, ít khi ở nhà.

                        Câu 277:
                        Du học:  đi trọ học.

                        Câu 278:
                        Cặp sách:  cái khung gỗ để kẹp sách của các nhà nho xưa.

                        Câu 280:
                        Lãm Thuý   : ("lãm": thu góp, "thuý": màu xanh) tên cái hiên. "Hiên Lãm Thuý" là cái hiên ngồi ở đó có thể thu góp vào trong tầm mắt tất cả màu xanh của cây cỏ. Suy ra thì "Lãm Thuý" còn có ngụ ý bắt được, tóm được hai chị em cô Kiều nên Kim Trọng lấy làm mừng lắm.

                        Câu 283:
                        Song hồ:  cửa sổ có dán giấy.

                        Câu 283:
                        Cánh mây:  cánh cửa. Chữ "mây" dùng cho đẹp lời như khi nói "then mây".

                        Câu 285:
                        Đồng toả nguyên phong:  ý nói tuy gần gũi chỉ có gang tấc mà cái khoá đồng cứ khoá mãi không thấy mở.

                        Câu 286:
                        Bóng hồng:  bóng Thuý Kiều.

                        Câu 287:
                        Nhẫn từ:  ("nhẫn": mãi từ, cho đến) kể từ khi ấy mãi đến nay, mãi từ khi ấy đến nay.

                        Câu 287:
                        Quán khách:  tức nhà Kim Trọng thuê để ở trọ.

                        Câu 288:
                        Tuần trăng:  mỗi tháng có một tuần trăng, nên tính tháng người ta tính theo tuần trăng.

                        Câu 288:

                        Thèm hai:  ý nói chưa bao lâu mà đã gần hai tháng trôi qua rồi.

                         

                         
                         
                        ________________________
                         





                        Cách tường phải buổi êm trời,

                        290    Dưới đào sai có bóng người thướt tha.

                        Buông cầm xốc áo vội ra,

                        Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh!

                        Lần theo tường gấm dạo quanh,

                        Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.

                        295    Giơ tay với lấy về nhà.

                        "Này trong khuê các, đâu mà đến đây?

                        Ngẫm âu người ấy báu này,

                        Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!"

                        Liền tay ngắm nghía biếng (?) nằm,

                        300    Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.

                        Tan sương đã thấy bóng người

                        Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.

                        Sinh đà có ý đợi chờ,

                        Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.

                        305    "Thoa này bắt được hư không,

                        Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?"

                        Tiếng Kiều nghe lọt bên kia,

                        Ơn người quân tử sá gì của rơi.

                        Chiếc thoa nào của mấy mươi,

                        310    Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!"

                        Sinh rằng: "Lân lý ra vào,

                        Gần đây nào phải người nào xa xôi.







                        Chú Thích:





                        Câu 293:
                        Tường gấm:  tường rào quanh nhà, chữ "gấm" được dùng cho đẹp lời.

                        Câu 294:
                        Kim thoa:  cây thoa bằng vàng để cài tóc của phụ nữ.

                        Câu 296:
                        Khuê các:  ("khuê": buồng, các: gác) chỉ chỗ ở của phụ nữ giàu có sang trọng.
                          Bản Nguyễn Khắc Hiếu đã chép là "Tấc gang động khoá nguồn phong" và đã chú thích là: cửa động khoá mà đầu nguồn niêm phong, nói như cảnh Thiên Thai, Đào Nguyên không dễ lại đến được.

                        Câu 301:
                        Tan sương:  buổi sáng sớm, sương mới tan.

                        Câu 305:
                        Hư không:  không có cớ gì, tự nhiên mà gây ra. Đây ý nói tình cờ mà Kim Trọng bắt được cái kim thoa của Thuý Kiều. Cái thoa thì cũng nhỏ thôi, làm sao mà Kim Trọng lại tinh mắt "nhác" trông đã "thấy" ngay được? Chắc cả hai cùng có tình ý nên mới xảy ra câu chuyện mất thoa và bắt được như thế. Sao lại gọi là "hư không" được?

                        Câu 306:
                        Hợp Phố:  do điển "Hợp Phố châu hoàn". Theo Hậu Hán thư. Trước khi Mạnh Thường được đổi về giữ chức Thái Thú quận Hợp Phố, bọn quận thú ở đây rất tham ô, bắt dân chúng ở đây phải đi mò ngọc trai về cho chúng thật nhiều. Ngọc trai bỏ đi về phía quận Giao Chỉ gần hết. Khi Mạnh Thường về, bãi bỏ tệ tham nhũng, không bắt dân đi mò ngọc trai thì ngọc trai lại trở về Hợp Phố. Do điển này người ta khi muốn nói một vật đã mất lại trở về với chủ cũ là Hợp Phố châu về. Cả câu 306 ý nói: Cái thoa này tự nhiên bắt được, không biết của ai mà đem trả?

                        Câu 311:
                        Lân lý:  ("lân": xóm, "lý": làng) xóm làng; đây ý nói chỗ láng giềng hàng xóm với nhau.
                         
                         
                        _______________________
                         
                         





                        Được rày như chút thơm rơi,

                        Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!

                        315    Mấy lâu mới được một ngày,

                        Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là"

                        Vội về thêm lấy của nhà,

                        Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.

                        Bực mây rón bước ngọn tường,

                        320    Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng sai?

                        Sượng sùng giữ ý rụt rè,

                        Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.

                        Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,

                        Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.

                        325    Xương mai tính đã rũ mòn,

                        Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!

                        Tháng tròn như gửi cung mây,

                        Trần trần một phận ấp cây đã liều!

                        Tiện đây xin một hai điều,

                        339340    Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?"

                        Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

                        "Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.

                        Dù khi lá thắm, chỉ hồng,

                        Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

                        361362    Nặng lòng xót liễu vì hoa,

                        Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa!"
                         




                        Chú Thích:




                        Câu 313:
                        Chút thơm rơi:  ý nói được gặp nhau hôm nay là chút hương thơm của chiếc kim thoa đánh rơi hôm trước làm mối cho.

                        Câu 314:
                        Thiểu não:  buồn rầu vô cùng trong lòng.

                        Câu 314:
                        Lòng người:  lòng Kim Trọng.

                        Câu 316:
                        Gạn:  hỏi cặn kẽ. "Gan chút": gạn hỏi cặn kẽ một chút.

                        Câu 316:
                        Niềm tây:  niềm riêng, nỗi lòng riêng.

                        Câu 318:
                        Khăn là:  khăn bằng lụa mỏng.

                        Câu 319:
                        Thang mây:  do chữ "vân thê", chỉ cái thang cao bắc lên tường. Chữ "mây" được dùng cho đẹp lời.

                        Câu 320:
                        Chẳng nhe:  có phải thế không.

                        Câu 323:
                        Ngẫu nhĩ:  cũng như "ngẫu nhiên", ý nói tình cờ không hẹn mà gặp.

                        Câu 324:
                        Chồn:  mỏi, nhọc.

                        Câu 325:
                        Xương mai:  xương vóc gầy như cây mai.

                        Câu 325:
                        Thâu mòn:  ("thâu": từ lâu) từ lâu rồi gầy mòn ốm yếu.

                        Câu 326:
                        Lần lừa:  hết ngày này qua ngày khác, đã lâu rồi trông ngóng.

                        Câu 327:
                        Gửi cung mây:  ý nói cả tháng trời tâm trí của Kim Trọng như gửi ở cung mây (cung Hằng) tức nơi Thuý Kiều ở.

                        Câu 328:
                        Ấp cây:  ôm chặt lấy cây cột ở chân cầu. Theo điển: Vĩ Sinh hẹn với một người con gái cùng gặp nhau ở dưới chân cầu. Người con gái không đến. Vĩ Sinh cứ ôm cây cột chờ mà chịu chết đuối. Câu này ý nói Kim Trọng cứ kiên nhẫn chờ đợi Thuý Kiều bỏ cả học hành.

                        Câu 330:
                        Đài gương:  cái giá có để gương cho phụ nữ trang điểm. Đây chỉ người con gái cao sang.

                        Câu 330:
                        Dấu bèo:  dịch chữ "bình tung", nói chảnh bèo trôi trên mặt nước chẳng để dấu vết gì.
                          Cả câu là lời Kim Trọng nói khiêm mình chỉ là một thư sinh chưa có danh vọng còn lang thang du học không biết có được cô Kiều là bậc cao sang để ý đến không.

                        Câu 332:
                        Băng tuyết:  trong trắng như băng tuyết, ý nói con nhà gia giáo theo khuôn phép nghiêm ngặt, không có nghĩ đến sự trăng hoa.
                          "Hoa tiên": "Thỉnh quân mạc giảng phong tình sự,
                          Khuê môn gia giáo lẫm băng sương".
                          (Xin chàng đường giở nguyệt hoa,
                          Phép nhà nghiêm nhặt như là băng sương).

                        Câu 332:
                        Phỉ phong:  rau phỉ, rau phong là hai thứ rau người ta có thể ăn cả rễ và cọng, nhà nghèo thường ăn. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Cốc phong" ngụ ý nói có bản chất tốt tuy rằng mộc mạc, quê mùa.

                        Câu 333:
                        Chỉ Hồng:  do chữ "xích thằng" là sợi dây đỏ. Theo Tục U quái lục, Vi Cố người đời Đường, khi trọ ở Tống Thành có gặp một cụ già ngồi dưới trăng (nguyệt lão) mà xem sách. Vi Cố hỏi cụ những sợi dây đỏ ở trong túi dùng để làm gì. Cụ nói dùng để buộc chân những người sẽ thành vợ chồng với nhau. Do đó hai chữ "chỉ hồng" được dùng để chỉ sự kết duyên của hai người trai gái lấy nhau.

                        Câu 335:

                        Xót liễu vì hoa:  ("xót": thương xót, "vì": yêu vì) cây liễu xanh non thường được dùng để ví với người con gái, bông hoa tươi đẹp thường được dùng để ví với người con gái xinh xắn. Đây nói chàng Kim đã nặng lòng yêu thương đến nàng Kiều người con gái yểu điệu như liễu và đẹp như hoa.
                         
                         

                        http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=14&IDcat=153
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 06:10:06 bởi sóng trăng >
                        #12
                          sóng trăng 13.02.2007 05:06:12 (permalink)
                           





                          Sinh rằng: "Rày gió mai mưa,

                          Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!

                          Dù chăng xét tấm tình si,

                          340    Thiệt ta mà có ích gì đến ai?

                          Chút chi gắn bó một hai,

                          Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh.

                          Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,

                          Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

                          345    Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

                          Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru.

                          Lặng nghe lời nói như ru,

                          Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

                          Rằng: "Trong buổi mới lạ lùng,

                          350    Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!

                          Đã lòng quân tử đa mang,

                          Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung."

                          Được lời như cởi tấm lòng,

                          Giở kim châu với khăn hồng trao tay.

                          355    Rằng: "Trăm năm cũng từ đây,

                          Của tin, gọi một chút này làm ghi."

                          Sẵn tay bả quạt hoa quì,

                          Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.

                          Một lời gắn bó tất giao,

                          360    Mái sau dường có xôn xao tiếng người.







                          Chú Thích:





                          Câu 337:
                          Rày gió mai mưa:  nói sự đổi thay bất thường, không phải hôm nào cũng như hôm nào, dễ đâu có cơ hội tốt mà gặp nhau luôn, có thể có những sự trắc trở bất ngờ.

                          Câu 340:
                          Thiệt đây:  ý nói thiệt cho Kim Trọng.

                          Câu 341:
                          Chút chi gắn bó:  ý Kim Trọng muốn đưa một chút kỷ niệm để gắn bó mối tình giữa hai người: đôi xuyến vàng và chiếc khăn là.

                          Câu 343:
                          Khuôn thiêng:  chỉ ông trời như là cái khuôn thiêng đúc ra muôn vật bằng phép màu.

                          Câu 345:
                          Lượng xuân:  ý nói tấm lòng rộng lượng như mùa xuân nuôi dưỡng muôn vật; có ý bao dung người khác. Đây chỉ tấm lòng của Thuý Kiều.

                          Câu 348:
                          Chiều xuân:  do chữ "tình tứ hoài xuân" phỏng dịch ra. Đây ý nói đến cái vẻ đa tình của Kim Trọng lòng xuân phơi phới.

                          Câu 348:
                          Nét thu:  nói cái ánh mắt long lanh đa cảm của Thuý Kiều như nước mùa thu.
                            Cả câu ý nói cái vẻ tình tứ của Kim Trọng cũng khiến cho Thuý Kiều phải xúc động trong lòng mà biểu lộ ra trên ánh mắt long lanh tuy vẫn ngại ngùng chưa dám ngỏ lời chấp nhận.

                          Câu 351:
                          Đa mang:  ("mang": rối, bộn rộn) bận lòng thương yêu.

                          Câu 352:
                          Đá vàng:  đá và vàng đều có tính cách bền vững nên những việc quan trọng cần lưu lại đều được khắc vào đá, vàng hoặc đồng (bia đá, bảng vàng, chuông đồng, đỉnh đồng, ...)

                          Câu 352:
                          Thuỷ chung:  trước sau như một, không có sự thay lòng đổi dạ.

                          Câu 354:
                          Kim thoa:  chiếc thoa của Thuý Kiều. Bản LVĐ 66 chép là "Kim châu". Cả hai câu 357-358 ý nói Thuý Kiều lúc ấy sẵn trong tay có cái quạt hoa quì đã lấy ngay đưa tặng Kim Trọng để đổi lấy lại cành thoa của mình. "Chữ với" ở đay phải hiểu là đối với. Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch sang tiếng Pháp là: "Kiều avait dans la main un mouchoir en soie brode'et un e'ventail sur lequel e'tait peint un tournesol. Elle e'changea immédiatement ces objets contre I"épingle rendue".

                          Câu 357:
                          Bả quạt hoa quì:  (bả: cái chuôi quạt) quạt bằng giấy tốt hoặc bằng lụa có vẽ hoa quì, có thể gập lại được mà phụ nữ thường dùng (không phải là thứ quạt bằng lá bồ quì).

                          Câu 359:
                          Tất giao:  sơn và keo, ý nói lời thề thốt gắn chặt mối tình của hai người như keo sơn.
                           
                          #13
                            sóng trăng 13.02.2007 05:08:44 (permalink)
                             



                            Vội vàng lá rụng hoa rơi,

                            Chàng về thư viện, nàng rời lầu trang.

                            Từ phen đá biết tuổi vàng,

                            Tình càng thấm thía, lòng càng ngẩn ngơ.

                            365    Sông dương một dải nông sờ,

                            Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.

                            Một tường tuyết điểm sương che.

                            Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.

                            Lần lần ngày gió đêm trăng,

                            370    TƠ hồng rậm lục đã chừng xuân qua.

                            Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,

                            Trên hai đường dưới nữa là hai em.

                            Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,

                            Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.

                            375    Nhà hương thanh vắng một mình,

                            Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.

                            Thì trân thức thức sẵn bày,

                            Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.

                            Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,

                            380    Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.

                            Trách lòng hờ hững với lòng,

                            Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.

                            Những là đắp nhớ đổi sầu,

                            Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.



















                            Chú Thích:





                            Câu 362:
                            Dời:  dời chân đi về.

                            Câu 362:
                            Lầu trang:  lầu nơi người phụ nữ ở và ngồi trang điểm, đây chỉ phòng ở của Thuý Kiều.

                            Câu 363:
                            Đá biết tuổi vàng:  đá thử vàng thì biết được tuổi của vàng, chàng Kim và nàng Kiều từ lúc bày tỏ nỗi lòng của mình đã hiểu tình cảm của nhau nồng thắm đến mực nào.

                            Câu 365:
                            Sông Tương:  tức sông Tương Giang ở Trung Quốc, dài hơn hai nghìn dặm, thường được mượn để diễn ý ly biệt, nhớ mong.

                            Câu 365:
                            Nông sờ:  cạn. Cả câu ý nói dòng sông tuy cạn mà hai bên vẫn không sang gặp được nhau như bị bức tường tuyết trở sương che khiến tin xuân không sao đi về cho năng được.

                            Câu 369:
                            Ngày gió đêm trăng:  ý nói ngày đêm qua đi mà ngày nào đêm nào khi có gió mắt trăng trong cũng đều thương nhớ nhau.

                            Câu 370:
                            Thưa hồng rậm lục:  màu hồng của hoa đã thưa bớt, màu xanh của lá đã rậm hơn, ý nói mùa xuân mới vừa qua đi.

                            Câu 372:
                            Hai đường:  cũng như "hai thân", tức cha và mẹ của nàng Kiều.

                            Câu 372:
                            Hai em:  tức là Thuý Vân và Vương Quan.

                            Câu 373:
                            Áo xiêm:  áo mặc che phần thân trên, xiêm mặc che phần thân dưới, chỉ chung bộ y phục.
                            Câu 935 cũng có bản viết: "cổi xiêm lột áo"

                            Câu 374:
                            Biện:  lo liệu mua sắm đồ lễ.

                            Câu 374:
                            Tấc thành:  chút lòng thành kính biết ơn của các con đối với cha mẹ.

                            Câu 375:
                            Nhà lan:  do chữ "lan thất". Gia ngữ: "Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất" (ở với người tốt như vào nhà có cỏ chi, cỏ lan). Đây nó nhà có đức vọng, mọi người đều ăn ở lương thiện, trong nhà như có mùi hoa thơm. Bản LVĐ chép là "Nhà hương".

                            Câu 376:
                            Hội ngộ:  hội họp gặp nhau.

                            Câu 377:
                            Thì trân:  những thức ăn quí đương mùa hè đặc biệt là hoa quả.

                            Câu 377:
                            Sẵn bày:  ý nói Thuý Kiều bày sẵn ra để sửa soạn mang sang nhà Kim Trọng.

                            Câu 378:
                            Gót sen:  got chân của người con gái đẹp.
                            Xem thêm chú thích câu 190.

                            Câu 379:
                            Dặng:  lên tiếng, cũng như nói "hắng giọng" làm hiệu cho Kim Trọng biết.

                            Câu 382:
                            Lửa hương:  Kim Trọng nhắc đến lửa hương mà hai người đã đốt để nguyện ước cùng nhau.

                            Câu 384:
                            Hoa râm:  nói tóc đã lốm đốm trắng. Cả câu ý nói Kim Trọng vì tương tư mà tóc đã lốm đốm trắng nửa mái đầu.
                             
                             
                            ______________________
                             





                            385    Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm,

                            Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.

                            Vắng nhà được buổi hôm nay,

                            Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng."

                            Lần theo núi giả đi vòng,

                            390    Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.

                            Sấn tay mở khoá động đào,

                            Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.

                            Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,

                            Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.

                            395    Sánh vai về chốn thư hiên,

                            Ngâm lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông.

                            Trên yên bút giá thư đồng,

                            Đạm tình một bức tranh tùng treo trên.

                            Phong sương được vẻ thiên nhiên,

                            400    Mặn khen nét bút càng nhìn (?) càng tươi.

                            Sinh rằng: "Phác hoạ vừa rồi,

                            Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa."

                            Ngộ khi gió táp mưa sa,

                            Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

                            405    Khen tài nhả ngọc, phun châu,

                            "Nàng Ban ả Ta. cũng đâu thế này!

                            Kiếp tu xưa ví chẳng dày,

                            Phúc nào thì đổi giá này cho ngang!"










                            Chú Thích:



                            Câu 385:
                            Gió bắt mưa cầm:  ý nói ngày nào cũng bị công việc cản trở không qua chơi được hoặc có người ở nhà không tiện qua chơi được.

                            Câu 386:
                            Tri âm:  ("tri": biết, "âm": tiếng) nguyên dùng để nói về người đánh đàn hay mà có người nghe hiểu biết thưởng thức được như Bá Nha với Tử Kỳ. Sau chữ ấy được dùng để chỉ người bạn thân thiết hiểu được lòng nhau.

                            Câu 388:
                            Gọi chút sang đây:  Thuý Kiều mang các thì trân sang nhà Kim Trọng gọi là một chút để tạ lòng người yêu.

                            Câu 389:
                            Núi giả:  hòn non bộ đắp làm cảnh.

                            Câu 391:
                            Động đào:  động có tiên ở. Xem thêm chú thích câu 192.

                            Câu 392:
                            Thiên Thai:  tên một hòn núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Truyền rằng xưa kia vào đời nhà Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp tiên. Nay trong văn chương thường dùng Thiên Thai để chỉ cảnh tiên.

                            Câu 393:
                            Mặt nhìn mặt:  nói nàng Kiều và chàng Kim đối mặt với nhau.

                            Câu 394:
                            Vạn phúc:  lời chúc mừng nhau được nhiều phúc lành.

                            Câu 394:
                            Hàn huyên:  lạnh ấm, lời hỏi thăm nhau về sức khoẻ xem có bị ảnh hưởng về thời tiết ấm lạnh thay đổi hay không.

                            Câu 395:
                            Thư hiên:  ("thư": sách, "hiên": mái hiên nhà ở) chỉ phòng đọc sách.

                            Câu 396:
                            Lời phong nguyệt:  lời trăng gió, ý nói chuyện tình yêu thương với nhau.

                            Câu 397:
                            Bút giá:  cái giá gác bút.

                            Câu 397:
                            Thi đồng:  cái ống đựng giấy, đựng các bài thơ. Bạch Cư Dị làm một cái ống tre đựng thơ của những người xướng hoạ với ông.

                            Câu 398:
                            Đạm thanh:  ("đạm": nhạt, "thanh": xanh) màu xanh nhạt.

                            Câu 399:
                            Phong sương:  gió và sương, ý nói bức tranh vẽ khéo khiến cho người xem như thấy được sương gió mờ ảo bên cây tùng, tưởng như cảnh thiên nhiên vậy.

                            Câu 401:
                            Phác hoạ:  nói bức tranh mới vẽ sơ qua, chưa tô sửa lại.

                            Câu 402:
                            Phẩm đề:  đề lời phẩm bình, viết mấy câu thơ bình về bức tranh cho bức tranh có giá trị thêm.

                            Câu 402:
                            Thêm hoa:  thêm đẹp, ý nói làm cho đẹp thêm.

                            Câu 403:
                            Tay tiên:  tay của người đẹp.

                            Câu 403:
                            Gió táp mưa sa:  ý nói làm thơ mau.

                            Câu 404:
                            Và bốn câu:  vài bốn câu, tức bài thơ tứ tuyệt.

                            Câu 405:
                            Nhả ngọc phun châu:  ý khen thơ nàng Kiều hay mà làm lại mau như nhả ngọc phun châu.

                            Câu 406:
                            Nàng Ban:  nàng Ban Chiêu đời Đông Hán, học rộng tài cao, có soạn tập "Nữ giới" rất nổi tiếng đã được vua Hoà Đế cử soạn tiếp bộ "Hán thư".

                            Câu 406:
                            Ả Tạ:  nàng Tạ Đào Uẩn đời Tấn, nổi tiếng thông minh, có tài biện luận và giỏi thơ văn.
                            Cả câu ý nói nàng Ban ả Tạ dù có tài giỏi cung không hơn được Thuý Kiều.

                            Câu 408:

                            Đổi được:  ý nói ngang bằng để có thể đổi được. Cả hai câu 407-408 là lời chàng Kim: "Nếu kiếp trước ta không tu nhân tích đức cho đầy đặn thì kiếp này phúc đâu mà được sánh duyên với nàng".

                             
                            _____________________



                            Nàng rằng: "lẫm liệt dung quang,

                            441    Chẳng sân ngọc bội thì phường kim môn.

                            Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,

                            Khuôn xanh đã biết vuông tròn mà hay?

                            Nhớ từ năm hãy thơ ngây,

                            Có người tướng sĩ đoán ngay một lời.

                            465    Anh hoa phát tiết ra ngoài,

                            Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

                            Trông người lại ngắm đến ta,

                            Một dày, một mỏng, biết là có nên?"

                            Sinh rằng: "Giải cấu là duyên,

                            485
                                Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.


                            DÙ đâu giải kết đến điều,

                            Thì đem vàng đá mà liều với thân!"

                            Đủ điều khúc lý ân cần,

                            Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng.

                            505506    Ngày vui ngắn chẳng thủ gang,


                            Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.

                            Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,

                            Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa.

                            Đến nhà vừa thấy tin nhà,

                            529530    Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.


                            Cửa ngoài vội rủ rèm the,

                            Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

                            ______________

                            Chú Thích:





                            Câu 410:
                            Ngọc bội:  cái bài bằng ngọc, chỉ hạng người hiển đạt, làm quan và có danh vọng.

                            Câu 410:
                            Kim môn:  tức Kim Mã môn, tên một cửa cung Vị Ương đời Hán, các quan học sĩ đợi để nhận chiếu chỉ của nhà vua; đây dùng để chỉ những bậc văn tài được trọng dụng bổ ra làm quan trong triều đình.

                            Câu 412:
                            Khuôn xanh:  tức ông trời, do những chữ "thương thương" (xanh xanh) và "đào trú" (khuôn đúc) mà dịch ra.

                            Câu 415:
                            Anh hoa:  vẻ đẹp của hoa cỏ, cái vẻ tinh anh tốt đẹp của con người.

                            Câu 418:
                            Một dày một mỏng:  câu này ý nói chàng Kim phúc lộc dày dặn, còn nàng Kiều phúc phận mỏng manh chẳng biết có thành được vợ chồng không.

                            Câu 419:
                            Giải cấu:  ("cấu": gặp) tình cờ không hẹn mà gặp nhau.

                            Câu 421:
                            Giải kết:  ("giải": cởi, "kết": mối buộc) cởi bỏ mối kết ước của hai người không cho thành vợ chồng.
                            Cổ thi: "Thương thiên nhược giải đồng tâm kết, kim thạch vĩ minh ngã dữ quân" = Trời xanh dầu tháo dải đồng, đá vàng ta vẫn một lòng với ai.

                            Câu 423:
                            Trung khúc:  ("trung": tấm lòng, "khúc": cong) những nỗi tâm tư khuất khúc ở trong lòng.

                            Câu 424:
                            Chén xuân:  chén rượu gợi tình xuân. Cả hai câu 423-424 ý nói khi đã trò chuyện cùng nhau đủ điều rồi thì sinh ra tấm lòng luyến ái, nhất là khi men rượu đã làm cho chếnh choáng ngà ngà say.

                            Câu 426:
                            Ác:  con quạ, chỉ mặt trời. Tương truyền trên mặt trời có con quạ nên gọi mặt trời là kim ô (ác vàng).

                            Câu 426:
                            Non đoài:  núi ở phía tây.

                            Câu 428:
                            Song sa:  cửa sổ có treo màn sa hoặc màn the.
                             
                             
                            __________________
                             



                            Nhặt thưa, gương rọi bóng cành,

                            Ngọn đèn trông thấy trướng huỳnh hắt hiu.

                            605    Sinh vừa tựa án thiu thiu.

                            Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê.

                            Tiếng lên sẽ động giấc hoè,

                            Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.

                            Bâng khuâng đỉnh núi non Thần,

                            624    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

                            Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường,

                            Vì hoa, cho phải đổ đường tìm hoa.

                            Bây giờ rõ mặt đôi ta,

                            Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"

                            635    Vội mừng làm lễ liền vào,

                            Đài sen nối sáp, song đào thêm hương.

                            Tiên thề cùng thảo một trương,

                            Tóc mây một ước, dao vàng chia hai.

                            Vầng trăng vằng vặc trong trời,

                            658    Đinh ninh hai miệng một lời song song.

                            Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

                            Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

                            Chén hà sánh giọng quỳnh tương,

                            Giải the hương lộn, bình gương bóng lồng.

                            698699    Sinh rằng: "Gió mát trăng trong,

                            Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.










                            Chú Thích:


                            Câu 433:
                            Gương:  tức gương nga, chỉ mặt trăng.

                            Câu 434:
                            Trướng huỳnh:  ("huỳnh": con đom đóm) chỉ phòng đọc sách, phòng học của Kim Trọng, lấy tích Xa Dận bắt đom đóm làm đèn mà đọc sách.

                            Câu 437:
                            Tiếng sen:  tiếng bước chân đi (xem chú thích câu 190).

                            Câu 437:
                            Giấc hoè:  do chữ "Hoè An mộng". Điển ấy như sau: Mé nam nhà Thuần Vu Phần (đời Đường) có một cây hoè. Một hôm ông nằm ngủ dưới gốc cây ấy thì chiêm bao thấy vua nước Hoè An gả công chúa cho và cử làm thái thú quận Nam Kha, sống thật sung sướng hiển vinh. Khi tỉnh dậy chỉ thấy ở dưới gốc cây môt tổ kiến. Thuần Vu Phần ngẫm ra đó là nước Hoè An còn quận Nam Kha chỉ là một cái hang ở tận trong cùng.
                            Do điển đó về sau người ta thường dùng "giấc hoè" hay "giấc Nam Kha" để nói rằng phú quí ở đời cũng chỉ là hư ảo như giấc mộng mà thôi. (Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không).

                            Câu 438:
                            Hoa lê:  ví nàng Kiều. Cả câu ý nói lúc đêm khuya, trăng đã xế nàng Kiều lại gần Kim Trọng khi ấy còn đương "dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê".

                            Câu 439:
                            Đỉnh Giáp non Thần:  đỉnh núi Vu Giáp, nơi Sở Hoài Vương có lần đến Cao Đường mộng thấy người đàn bà đẹp tự xưng là thần núi, sớm làm mây tối làm mưa, đến xin hầu chăn gối. Do điển này về sau người ta thường dùng "đỉnh Giáp non Thần" để chỉ việc nằm mơ thấy người đẹp và chữ "mây mưa" để chỉ việc ái ân giữa trai gái.
                            Câu 439 ý nói Kim Trọng đương mơ màng nửa tỉnh, nửa mê khi Thuý Kiều đến thì có cảm tưởng như thấy thần nữ đến. Chữ (hạp, hiệp) thường đọc là giáp.

                            Câu 442:
                            Đánh đường:  tìm đường, có ngụ ý hơi liều lĩnh.

                            Câu 442:
                            Vì hoa ... tìm hoa:  chữ "hoa" đây chỉ Kim Trọng.

                            Câu 446:
                            Đài sen:  cái giá căm nến có cái đài hình hoa sen để đỡ lấy những giọt nến chảy xuống.

                            Câu 446:
                            Song đào:  các bản nôm đều viết chữ song là song cửa. Thế thì phải giảng là cửa sổ có trồng cây đào một bên ở ngoài sân (không thể giảng là cái bình hương làm theo kiểu hình hai quả đào). Cả câu này có thể hiểu là Kim Trọng đã nối thêm sáp (nến) ở cái đào sen và bỏ thêm trầm vào cái lư hương để ở bên cửa sổ, phía ngoài sân có trồng cây đào. (Xem thêm ở câu 2852).

                            Câu 447:
                            Tiên thề:  tờ giầy chép lời thề của hai người viết trên giấy hoa tiên.

                            Câu 450:
                            Đinh ninh:  nói đi nói lại cho cặn kẽ, cho chắc chắn.

                            Câu 451:
                            Tóc tơ:  kẽ tóc chân tơ, nói hết từng tí không bỏ sót điều gì.

                            Câu 452:
                            Chữ đồng:  chữ đồng tâm, cùng một lòng một dạ với nhau.

                            Câu 453:
                            Chén hà:  chén rượu bằng ngọc màu đỏ như sắc ráng trời chiều.

                            Câu 453:
                            Quỳnh tương:  ("quỳnh": ngọc quỳnh, "tương": thứ rượu) thứ rượu ngon quí như nước ngọc, như rượu tiên.

                            Câu 454:
                            Dải là hương lộn:  ý nói khi hai người ngồi gần nhau thì mùi hương ở dải lưng bằng lụa toả lên lẫn vào hai người.

                            Câu 454:
                            Bình gương:  bức bình phong có gắn tấm gương.

                            Câu 454:
                            Bóng lồng:  khi hai người ngồi kề bên nhau thì bóng của hai người lồng chiếu vào trong gương.

                            Câu 456:
                            Một chút lòng chưa cam:  (cam = thoả) ý Kim Trọng muốn nói từ lâu nghe tiếng Thuý Kiều giỏi đàn mà chưa được thưởng thức tài nghệ nên chưa được thoả lòng mong ước.
                             
                            _____________
                             





                            Chày sương chưa nện cầu Lam,

                            Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"

                            Nàng rằng: "Hồng diệp xích thằng,

                            808    Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

                            Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,

                            Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai."

                            Chàng rằng: "nghe nổi Cầm đài,

                            Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ."

                            827    Thưa rằng: "Tiện kỹ sá chi!

                            Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng."

                            Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

                            Vội vàng sinh đã cầm nâng ngang mày.

                            Nàng rằng: "Nghề mọn riêng tay,

                            850    Làm chi cho nặng lòng này lắm thân?"

                            So dần dây vũ dây văn,

                            Bốn dây to nhỏ theo vần cung vấn.

                            Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

                            Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.

                            877    Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,

                            Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!

                            Kê Khang này khúc Quảng lăng.

                            Một rằng lưu thuỷ, hai rằng hành vân.

                            Quá quan này khúc Chiêu Quân,

                            908    Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.









                            Chú Thích:





                            Câu 457:
                            Chày sương:  chày giã thuốc huyền sương mà bà mẹ của Vân Anh đòi hỏi Bùi Hàng phải tìm cho được để làm đồ dẫn cưới (xem chú thích câu 266).

                            Câu 457:
                            Chưa nện cầu Lam:  ý nói chưa có chày ngọc để giã thuốc huyền sương thì chưa thành vợ chồng, chưa thực kết duyên làm vợ chồng.

                            Câu 458:
                            Sờm sỡ:  suồng sã, không còn e lệ gì, sỗ sàng khi tỏ tình. Câu này là lời nói của Kim Trọng nên chàng mới không bị nghi là muốn điều nguyệt nọ hoa kia với nàng Kiều, vì biết tự kiềm chế mình.

                            Câu 459:
                            Hồng diệp:  lá đỏ, lá thắm (xem chú thích câu 268).

                            Câu 459:
                            Xich thằng:  tơ đỏ, chỉ hồng (xem chú thích câu 333).

                            Câu 460:
                            Tương tri:  cùng biết lòng nhau.

                            Câu 463:
                            Cầm đài:  cái đài ngồi gảy đàn. Các người gảy đàn danh tiếng thường có một cầm đài. Bá Nha có cầm đài ở huyện Lỗ Sơn, tỉnh Hà Nam.

                            Câu 464:
                            Nước non ... Chung Kỳ:  theo điển Bá Nha - Chung Tử Kỳ. Bá Nha thời Xuân Thu là một người giỏi đàn. Một hôm Bá Nha gảy đàn cho Chung Tử Kỳ nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến non cao mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn cao vòi vọi, chắc chí bác đang ở non cao" ("Thiện tai! Nguy nguy hồ chí tại cao sơn"). Khi Bá Nha nghĩ đến nước chảy mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn nghe cuồn cuộn, chắc bác đang để chí vào chỗ nước chảy". ("Thiện tai! Dương dương hồ chí tại lưu thuỷ"). Đến khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho đời không còn ai hiểu được tiếng đàn (tri âm) cảu mình. Chữ "nước non" đây là mượn chữ "cao sơn", "lưu thuỷ" ý nói điều hiểu được ý nghĩa của từng tiếng đàn cao thấp.

                            Câu 465:
                            Tiện kỹ:  nghề mọn, lời nói khiêm tốn của Thuý Kiều.

                            Câu 467:
                            Cầm trăng:  tức nguyệt cầm, cây đàn nguyệt.

                            Câu 468:
                            Ngang mày:  nâng cây đàn cao ngang tầm mắt tỏ ý quí trọng.

                            Câu 470:
                            Lắm thân:  lắm ru, lắm thay.

                            Câu 471:
                            Dây vũ:  dây to, thường gọi là dây dài.

                            Câu 471:
                            Dây văn:  dây nhỏ, thường gọi là dây tiếu.

                            Câu 473:
                            Hán Sở chiến trường:  bãi chiến trường giữa quân Hán và quân Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao Tổ) và Hạng Võ (Sở Bá Vương) cùng khởi binh đánh Tần, sau lại tranh nhau thiên hạ, đánh nhau nhiều trận kịch liệt.

                            Câu 474:
                            Tiếng sắt tiếng vàng:  tiếng khí giới bằng sắt, bằng đồng va chạm nhau.

                            Câu 475:
                            Tư mã Phượng cầu:  Tư mã Tương Như, người đời Hán, một hôm đến nhà Trác Vương Tôn dự tiệc. Tương Như có gảy một khúc đàn Phượng cầu hoàng để tỏ tình với con gái Trác Vương Tôn là nàng Văn Quân. Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy nàng bỏ nhà trốn theo Tương Như.

                            Câu 476:
                            Như oán như sầu:  ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe có vẻ buồn rầu ai oán như tiếng đàn của Tư mã Tương Như khi gảy khúc Phượng cầu hoàng.

                            Câu 477:
                            Kê Khang:  Kê Khang, người đời Tam Quốc, một đêm gảy đàn ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới, dạy cho khúc Quảng lăng tán, âm điệu tuyệt hay.

                            Câu 477:
                            Quảng lăng:  tên của khúc đàn, nay không được lưu truyền nữa. Cả câu ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe ra thanh thoát nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi.

                            Câu 479:
                            Quá quan:  qua cửa ải, khi Chiêu Quân bị cống sang Hổ.

                            Câu 479:
                            Chiêu Quân:  tên tự là Vương Tường, cung nữ thời Hán Nguyên đế vì không chịu lo lót với Mao Diên Thọ nên bị gả cho chúa Thiền Vu.Khi Chiêu Quân vào bái biệt, nhà vua mới biết là nàng đẹp có ý muốn lưu lại nhưng không được nữa. Khi qua cửa ải, Chiêu Quân có gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ lòng nhớ nước nhớ nhà vô hạn.
                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 03:34:46 bởi sóng trăng >
                            #14
                              sóng trăng 13.02.2007 05:12:04 (permalink)





                              Trong như tiếng hạc bay qua,

                              Đục như nước suối mới sa nửa vời.

                              Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

                              Tiếng mau phơi phới như trời đổ mưa.

                              485    Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,

                              Khiến người ngồi đấy mà ngơ ngẩn sầu.

                              Khi tựa gối, khi cúi đầu,

                              Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.

                              Rằng: "Hay thì thực là hay,

                              490    Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!

                              SO chi những bực thanh tao.

                              Thiệt lòng mình cũng háo hao lòng người."

                              Rằng: "Quen mất nết đi rồi,

                              Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!

                              495    Lời vàng vâng lĩnh ý cao,

                              Hoạ dần dần bớt chút nào được không?"

                              Hoa hương càng tỏ thức hồng,

                              Đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu.

                              Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

                              500    Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

                              Thưa rằng: "Đừng lấy làm chơi,

                              Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!

                              Vẻ chi một đoá đào yêu,

                              Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.







                              Chú Thích:





                              Câu 482:
                              Đục:  tiếng đục.
                                Các bản nôm đều viết thì phải đọc là đục mới đúng. Không thể đọc là dục hay giục được (Chữ (dục) và chữ , (giục) viết khác hẳn). Đục đây là tiếng nước suối đổ xuống nửa chừng nghe không được trong chứ không phải nước suối đục. Nếu dùng chữ nước thì cũng sai.

                              Câu 483:
                              Khoan:  nói tiếng đàn gảy chậm lại, không mau, thong thả, khoan thai.

                              Câu 487:
                              Tựa gối:  chữ "gối" bản nôm KOM viết (có nghĩa là cái gồi tựa), bản QVĐ viết ( có nghĩa là đầu gối). Chữ quốc ngữ viết "gối" thì không phân biệt được. Ở đây nên hiểu là cái gối tựa cho được tao nhã hơn. Cả câu có thể hiểu là chàng Kim nghe Kiều gảy đàn sinh ra ngơ ngẩn, khi thì tỳ khuỷu tay vào gối tựa, khi thì cúi đầu xuống để lắng nghe cho thật chú ý hơn...

                              Câu 488:
                              Chín khúc:  chín khúc ruột.

                              Câu 491:
                              Tiêu tao:  buồn bã, sầu thảm. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "Thanh tao".

                              Câu 492:
                              Dột:  ủ dột, rầu rĩ.

                              Câu 492:
                              Nao nao:  ý nói trong lòng bị xúc cảm mà trở nên xao xuyến. Cả đoạn này là lời Kim Trọng nhận xét về tiếng đàn của Thuý Kiều: Khúc đàn hay thì có hay thật nhưng mà sầu thảm quá nó làm cho chính lòng Thuý Kiều cũng phải ủ dột mà người nghe thì cũng thấy buồn rầu lây. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "háo hao".

                              Câu 495:
                              Lời vàng:  lời khuyên bảo quí báu.

                              Câu 497:
                              Hoa hương:  ý nói cái vẻ đẹp của người con gái như bông hoa còn nguyên nhị.

                              Câu 497:
                              Thức hồng:  sắc đẹp ửng hồng vì e thẹn.

                              Câu 499:
                              Sóng tình:  tình yêu dào dạt ở trong lòng như sóng cuộn lên.

                              Câu 499:
                              Xiêu xiêu:  ngả về một bên, ý nói xiêu dần tới chuyện lả lơi âu yếm.

                              Câu 500:
                              Lả lơi:  cử chỉ đùa cợt suồng sã (của Kim Trọng đối với Thuý Kiều). Cả câu ý nói trong cử chỉ âu yếm đối với Thuý Kiều, Kim Trọng đã có ý muốn ép liễu nài hoa.

                              Câu 502:
                              Dẽ:  hãy tránh ra một bên. Chữ này cho ta thấy rõ thái độ lả lơi của Kim Trọng trước đó.

                              Câu 503:
                              Yêu đào:  đào non, chỉ người con gái trẻ đẹp, đến tuổi lấy chồng. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Đào yêu" (Chu Nam): Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. Chi tử vu qui, nghị kỳ thất gia = cây đào tơ xanh tươi, hoa nhiều chi chít. Nàng ấy đi lấy chồng, thì chắc êm ấm cảnh gia đình.

                              Câu 504:
                              Vườn hồng:  ví với sắc đẹp của người con gái.

                              Câu 504:
                              Chim xanh:  ví với người con trai đương tuổi thanh xuân, cả câu là lời Thuý Kiều muốn nói mình có chút nhan sắc đâu dám ngăn cấm ai dòm ngó cũng như vườn hồng vẫn để cho chim xanh được vào ra đưa tin. Ý này cũng tương tự như ý của câu ca giao: Gặp đây mận mới hỏi đào, vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa: vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
                               
                               
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 8 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 110 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9