sóng trăng
-
Số bài
:
1013
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 25.02.2006
|
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
-
13.02.2007 05:08:44
Vội vàng lá rụng hoa rơi, Chàng về thư viện, nàng rời lầu trang. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, lòng càng ngẩn ngơ. 365 Sông dương một dải nông sờ, Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia. Một tường tuyết điểm sương che. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Lần lần ngày gió đêm trăng, 370 TƠ hồng rậm lục đã chừng xuân qua. Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường dưới nữa là hai em. Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ xa đem tấc thành. 375 Nhà hương thanh vắng một mình, Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thì trân thức thức sẵn bày, Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, 380 Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. Trách lòng hờ hững với lòng, Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu. Những là đắp nhớ đổi sầu, Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm. Chú Thích: Câu 362: Dời: dời chân đi về. Câu 362: Lầu trang: lầu nơi người phụ nữ ở và ngồi trang điểm, đây chỉ phòng ở của Thuý Kiều. Câu 363: Đá biết tuổi vàng: đá thử vàng thì biết được tuổi của vàng, chàng Kim và nàng Kiều từ lúc bày tỏ nỗi lòng của mình đã hiểu tình cảm của nhau nồng thắm đến mực nào. Câu 365: Sông Tương: tức sông Tương Giang ở Trung Quốc, dài hơn hai nghìn dặm, thường được mượn để diễn ý ly biệt, nhớ mong. Câu 365: Nông sờ: cạn. Cả câu ý nói dòng sông tuy cạn mà hai bên vẫn không sang gặp được nhau như bị bức tường tuyết trở sương che khiến tin xuân không sao đi về cho năng được. Câu 369: Ngày gió đêm trăng: ý nói ngày đêm qua đi mà ngày nào đêm nào khi có gió mắt trăng trong cũng đều thương nhớ nhau. Câu 370: Thưa hồng rậm lục: màu hồng của hoa đã thưa bớt, màu xanh của lá đã rậm hơn, ý nói mùa xuân mới vừa qua đi. Câu 372: Hai đường: cũng như "hai thân", tức cha và mẹ của nàng Kiều. Câu 372: Hai em: tức là Thuý Vân và Vương Quan. Câu 373: Áo xiêm: áo mặc che phần thân trên, xiêm mặc che phần thân dưới, chỉ chung bộ y phục. Câu 935 cũng có bản viết: "cổi xiêm lột áo" Câu 374: Biện: lo liệu mua sắm đồ lễ. Câu 374: Tấc thành: chút lòng thành kính biết ơn của các con đối với cha mẹ. Câu 375: Nhà lan: do chữ "lan thất". Gia ngữ: "Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất" (ở với người tốt như vào nhà có cỏ chi, cỏ lan). Đây nó nhà có đức vọng, mọi người đều ăn ở lương thiện, trong nhà như có mùi hoa thơm. Bản LVĐ chép là "Nhà hương". Câu 376: Hội ngộ: hội họp gặp nhau. Câu 377: Thì trân: những thức ăn quí đương mùa hè đặc biệt là hoa quả. Câu 377: Sẵn bày: ý nói Thuý Kiều bày sẵn ra để sửa soạn mang sang nhà Kim Trọng. Câu 378: Gót sen: got chân của người con gái đẹp. Xem thêm chú thích câu 190. Câu 379: Dặng: lên tiếng, cũng như nói "hắng giọng" làm hiệu cho Kim Trọng biết. Câu 382: Lửa hương: Kim Trọng nhắc đến lửa hương mà hai người đã đốt để nguyện ước cùng nhau. Câu 384: Hoa râm: nói tóc đã lốm đốm trắng. Cả câu ý nói Kim Trọng vì tương tư mà tóc đã lốm đốm trắng nửa mái đầu. ______________________ 385 Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy. Vắng nhà được buổi hôm nay, Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng." Lần theo núi giả đi vòng, 390 Cuối tường dường có nẻo thông mới rào. Sấn tay mở khoá động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai. Mặt nhìn mặt càng thêm tươi, Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên. 395 Sánh vai về chốn thư hiên, Ngâm lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông. Trên yên bút giá thư đồng, Đạm tình một bức tranh tùng treo trên. Phong sương được vẻ thiên nhiên, 400 Mặn khen nét bút càng nhìn (?) càng tươi. Sinh rằng: "Phác hoạ vừa rồi, Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa." Ngộ khi gió táp mưa sa, Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu. 405 Khen tài nhả ngọc, phun châu, "Nàng Ban ả Ta. cũng đâu thế này! Kiếp tu xưa ví chẳng dày, Phúc nào thì đổi giá này cho ngang!" Chú Thích: Câu 385: Gió bắt mưa cầm: ý nói ngày nào cũng bị công việc cản trở không qua chơi được hoặc có người ở nhà không tiện qua chơi được. Câu 386: Tri âm: ("tri": biết, "âm": tiếng) nguyên dùng để nói về người đánh đàn hay mà có người nghe hiểu biết thưởng thức được như Bá Nha với Tử Kỳ. Sau chữ ấy được dùng để chỉ người bạn thân thiết hiểu được lòng nhau. Câu 388: Gọi chút sang đây: Thuý Kiều mang các thì trân sang nhà Kim Trọng gọi là một chút để tạ lòng người yêu. Câu 389: Núi giả: hòn non bộ đắp làm cảnh. Câu 391: Động đào: động có tiên ở. Xem thêm chú thích câu 192. Câu 392: Thiên Thai: tên một hòn núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Truyền rằng xưa kia vào đời nhà Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp tiên. Nay trong văn chương thường dùng Thiên Thai để chỉ cảnh tiên. Câu 393: Mặt nhìn mặt: nói nàng Kiều và chàng Kim đối mặt với nhau. Câu 394: Vạn phúc: lời chúc mừng nhau được nhiều phúc lành. Câu 394: Hàn huyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm nhau về sức khoẻ xem có bị ảnh hưởng về thời tiết ấm lạnh thay đổi hay không. Câu 395: Thư hiên: ("thư": sách, "hiên": mái hiên nhà ở) chỉ phòng đọc sách. Câu 396: Lời phong nguyệt: lời trăng gió, ý nói chuyện tình yêu thương với nhau. Câu 397: Bút giá: cái giá gác bút. Câu 397: Thi đồng: cái ống đựng giấy, đựng các bài thơ. Bạch Cư Dị làm một cái ống tre đựng thơ của những người xướng hoạ với ông. Câu 398: Đạm thanh: ("đạm": nhạt, "thanh": xanh) màu xanh nhạt. Câu 399: Phong sương: gió và sương, ý nói bức tranh vẽ khéo khiến cho người xem như thấy được sương gió mờ ảo bên cây tùng, tưởng như cảnh thiên nhiên vậy. Câu 401: Phác hoạ: nói bức tranh mới vẽ sơ qua, chưa tô sửa lại. Câu 402: Phẩm đề: đề lời phẩm bình, viết mấy câu thơ bình về bức tranh cho bức tranh có giá trị thêm. Câu 402: Thêm hoa: thêm đẹp, ý nói làm cho đẹp thêm. Câu 403: Tay tiên: tay của người đẹp. Câu 403: Gió táp mưa sa: ý nói làm thơ mau. Câu 404: Và bốn câu: vài bốn câu, tức bài thơ tứ tuyệt. Câu 405: Nhả ngọc phun châu: ý khen thơ nàng Kiều hay mà làm lại mau như nhả ngọc phun châu. Câu 406: Nàng Ban: nàng Ban Chiêu đời Đông Hán, học rộng tài cao, có soạn tập "Nữ giới" rất nổi tiếng đã được vua Hoà Đế cử soạn tiếp bộ "Hán thư". Câu 406: Ả Tạ: nàng Tạ Đào Uẩn đời Tấn, nổi tiếng thông minh, có tài biện luận và giỏi thơ văn. Cả câu ý nói nàng Ban ả Tạ dù có tài giỏi cung không hơn được Thuý Kiều. Câu 408: Đổi được: ý nói ngang bằng để có thể đổi được. Cả hai câu 407-408 là lời chàng Kim: "Nếu kiếp trước ta không tu nhân tích đức cho đầy đặn thì kiếp này phúc đâu mà được sánh duyên với nàng". _____________________ Nàng rằng: "lẫm liệt dung quang, 441 Chẳng sân ngọc bội thì phường kim môn. Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh đã biết vuông tròn mà hay? Nhớ từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một lời. 465 Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Trông người lại ngắm đến ta, Một dày, một mỏng, biết là có nên?" Sinh rằng: "Giải cấu là duyên, 485 Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. DÙ đâu giải kết đến điều, Thì đem vàng đá mà liều với thân!" Đủ điều khúc lý ân cần, Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng. 505506 Ngày vui ngắn chẳng thủ gang, Trông ra ác đã ngậm gương non đoài. Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai, Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa. Đến nhà vừa thấy tin nhà, 529530 Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. ______________ Chú Thích: Câu 410: Ngọc bội: cái bài bằng ngọc, chỉ hạng người hiển đạt, làm quan và có danh vọng. Câu 410: Kim môn: tức Kim Mã môn, tên một cửa cung Vị Ương đời Hán, các quan học sĩ đợi để nhận chiếu chỉ của nhà vua; đây dùng để chỉ những bậc văn tài được trọng dụng bổ ra làm quan trong triều đình. Câu 412: Khuôn xanh: tức ông trời, do những chữ "thương thương" (xanh xanh) và "đào trú" (khuôn đúc) mà dịch ra. Câu 415: Anh hoa: vẻ đẹp của hoa cỏ, cái vẻ tinh anh tốt đẹp của con người. Câu 418: Một dày một mỏng: câu này ý nói chàng Kim phúc lộc dày dặn, còn nàng Kiều phúc phận mỏng manh chẳng biết có thành được vợ chồng không. Câu 419: Giải cấu: ("cấu": gặp) tình cờ không hẹn mà gặp nhau. Câu 421: Giải kết: ("giải": cởi, "kết": mối buộc) cởi bỏ mối kết ước của hai người không cho thành vợ chồng. Cổ thi: "Thương thiên nhược giải đồng tâm kết, kim thạch vĩ minh ngã dữ quân" = Trời xanh dầu tháo dải đồng, đá vàng ta vẫn một lòng với ai. Câu 423: Trung khúc: ("trung": tấm lòng, "khúc": cong) những nỗi tâm tư khuất khúc ở trong lòng. Câu 424: Chén xuân: chén rượu gợi tình xuân. Cả hai câu 423-424 ý nói khi đã trò chuyện cùng nhau đủ điều rồi thì sinh ra tấm lòng luyến ái, nhất là khi men rượu đã làm cho chếnh choáng ngà ngà say. Câu 426: Ác: con quạ, chỉ mặt trời. Tương truyền trên mặt trời có con quạ nên gọi mặt trời là kim ô (ác vàng). Câu 426: Non đoài: núi ở phía tây. Câu 428: Song sa: cửa sổ có treo màn sa hoặc màn the. __________________ Nhặt thưa, gương rọi bóng cành, Ngọn đèn trông thấy trướng huỳnh hắt hiu. 605 Sinh vừa tựa án thiu thiu. Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê. Tiếng lên sẽ động giấc hoè, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. Bâng khuâng đỉnh núi non Thần, 624 Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường, Vì hoa, cho phải đổ đường tìm hoa. Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?" 635 Vội mừng làm lễ liền vào, Đài sen nối sáp, song đào thêm hương. Tiên thề cùng thảo một trương, Tóc mây một ước, dao vàng chia hai. Vầng trăng vằng vặc trong trời, 658 Đinh ninh hai miệng một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Giải the hương lộn, bình gương bóng lồng. 698699 Sinh rằng: "Gió mát trăng trong, Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam. Chú Thích: Câu 433: Gương: tức gương nga, chỉ mặt trăng. Câu 434: Trướng huỳnh: ("huỳnh": con đom đóm) chỉ phòng đọc sách, phòng học của Kim Trọng, lấy tích Xa Dận bắt đom đóm làm đèn mà đọc sách. Câu 437: Tiếng sen: tiếng bước chân đi (xem chú thích câu 190). Câu 437: Giấc hoè: do chữ "Hoè An mộng". Điển ấy như sau: Mé nam nhà Thuần Vu Phần (đời Đường) có một cây hoè. Một hôm ông nằm ngủ dưới gốc cây ấy thì chiêm bao thấy vua nước Hoè An gả công chúa cho và cử làm thái thú quận Nam Kha, sống thật sung sướng hiển vinh. Khi tỉnh dậy chỉ thấy ở dưới gốc cây môt tổ kiến. Thuần Vu Phần ngẫm ra đó là nước Hoè An còn quận Nam Kha chỉ là một cái hang ở tận trong cùng. Do điển đó về sau người ta thường dùng "giấc hoè" hay "giấc Nam Kha" để nói rằng phú quí ở đời cũng chỉ là hư ảo như giấc mộng mà thôi. (Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không). Câu 438: Hoa lê: ví nàng Kiều. Cả câu ý nói lúc đêm khuya, trăng đã xế nàng Kiều lại gần Kim Trọng khi ấy còn đương "dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê". Câu 439: Đỉnh Giáp non Thần: đỉnh núi Vu Giáp, nơi Sở Hoài Vương có lần đến Cao Đường mộng thấy người đàn bà đẹp tự xưng là thần núi, sớm làm mây tối làm mưa, đến xin hầu chăn gối. Do điển này về sau người ta thường dùng "đỉnh Giáp non Thần" để chỉ việc nằm mơ thấy người đẹp và chữ "mây mưa" để chỉ việc ái ân giữa trai gái. Câu 439 ý nói Kim Trọng đương mơ màng nửa tỉnh, nửa mê khi Thuý Kiều đến thì có cảm tưởng như thấy thần nữ đến. Chữ (hạp, hiệp) thường đọc là giáp. Câu 442: Đánh đường: tìm đường, có ngụ ý hơi liều lĩnh. Câu 442: Vì hoa ... tìm hoa: chữ "hoa" đây chỉ Kim Trọng. Câu 446: Đài sen: cái giá căm nến có cái đài hình hoa sen để đỡ lấy những giọt nến chảy xuống. Câu 446: Song đào: các bản nôm đều viết chữ song là song cửa. Thế thì phải giảng là cửa sổ có trồng cây đào một bên ở ngoài sân (không thể giảng là cái bình hương làm theo kiểu hình hai quả đào). Cả câu này có thể hiểu là Kim Trọng đã nối thêm sáp (nến) ở cái đào sen và bỏ thêm trầm vào cái lư hương để ở bên cửa sổ, phía ngoài sân có trồng cây đào. (Xem thêm ở câu 2852). Câu 447: Tiên thề: tờ giầy chép lời thề của hai người viết trên giấy hoa tiên. Câu 450: Đinh ninh: nói đi nói lại cho cặn kẽ, cho chắc chắn. Câu 451: Tóc tơ: kẽ tóc chân tơ, nói hết từng tí không bỏ sót điều gì. Câu 452: Chữ đồng: chữ đồng tâm, cùng một lòng một dạ với nhau. Câu 453: Chén hà: chén rượu bằng ngọc màu đỏ như sắc ráng trời chiều. Câu 453: Quỳnh tương: ("quỳnh": ngọc quỳnh, "tương": thứ rượu) thứ rượu ngon quí như nước ngọc, như rượu tiên. Câu 454: Dải là hương lộn: ý nói khi hai người ngồi gần nhau thì mùi hương ở dải lưng bằng lụa toả lên lẫn vào hai người. Câu 454: Bình gương: bức bình phong có gắn tấm gương. Câu 454: Bóng lồng: khi hai người ngồi kề bên nhau thì bóng của hai người lồng chiếu vào trong gương. Câu 456: Một chút lòng chưa cam: (cam = thoả) ý Kim Trọng muốn nói từ lâu nghe tiếng Thuý Kiều giỏi đàn mà chưa được thưởng thức tài nghệ nên chưa được thoả lòng mong ước. _____________ Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?" Nàng rằng: "Hồng diệp xích thằng, 808 Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Đừng điều nguyệt nọ hoa kia, Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai." Chàng rằng: "nghe nổi Cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ." 827 Thưa rằng: "Tiện kỹ sá chi! Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng." Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng sinh đã cầm nâng ngang mày. Nàng rằng: "Nghề mọn riêng tay, 850 Làm chi cho nặng lòng này lắm thân?" So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung vấn. Khúc đâu Hán Sở chiến trường, Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau. 877 Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, Nghe ra như oán, như sầu phải chăng! Kê Khang này khúc Quảng lăng. Một rằng lưu thuỷ, hai rằng hành vân. Quá quan này khúc Chiêu Quân, 908 Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia. Chú Thích: Câu 457: Chày sương: chày giã thuốc huyền sương mà bà mẹ của Vân Anh đòi hỏi Bùi Hàng phải tìm cho được để làm đồ dẫn cưới (xem chú thích câu 266). Câu 457: Chưa nện cầu Lam: ý nói chưa có chày ngọc để giã thuốc huyền sương thì chưa thành vợ chồng, chưa thực kết duyên làm vợ chồng. Câu 458: Sờm sỡ: suồng sã, không còn e lệ gì, sỗ sàng khi tỏ tình. Câu này là lời nói của Kim Trọng nên chàng mới không bị nghi là muốn điều nguyệt nọ hoa kia với nàng Kiều, vì biết tự kiềm chế mình. Câu 459: Hồng diệp: lá đỏ, lá thắm (xem chú thích câu 268). Câu 459: Xich thằng: tơ đỏ, chỉ hồng (xem chú thích câu 333). Câu 460: Tương tri: cùng biết lòng nhau. Câu 463: Cầm đài: cái đài ngồi gảy đàn. Các người gảy đàn danh tiếng thường có một cầm đài. Bá Nha có cầm đài ở huyện Lỗ Sơn, tỉnh Hà Nam. Câu 464: Nước non ... Chung Kỳ: theo điển Bá Nha - Chung Tử Kỳ. Bá Nha thời Xuân Thu là một người giỏi đàn. Một hôm Bá Nha gảy đàn cho Chung Tử Kỳ nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến non cao mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn cao vòi vọi, chắc chí bác đang ở non cao" ("Thiện tai! Nguy nguy hồ chí tại cao sơn"). Khi Bá Nha nghĩ đến nước chảy mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn nghe cuồn cuộn, chắc bác đang để chí vào chỗ nước chảy". ("Thiện tai! Dương dương hồ chí tại lưu thuỷ"). Đến khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho đời không còn ai hiểu được tiếng đàn (tri âm) cảu mình. Chữ "nước non" đây là mượn chữ "cao sơn", "lưu thuỷ" ý nói điều hiểu được ý nghĩa của từng tiếng đàn cao thấp. Câu 465: Tiện kỹ: nghề mọn, lời nói khiêm tốn của Thuý Kiều. Câu 467: Cầm trăng: tức nguyệt cầm, cây đàn nguyệt. Câu 468: Ngang mày: nâng cây đàn cao ngang tầm mắt tỏ ý quí trọng. Câu 470: Lắm thân: lắm ru, lắm thay. Câu 471: Dây vũ: dây to, thường gọi là dây dài. Câu 471: Dây văn: dây nhỏ, thường gọi là dây tiếu. Câu 473: Hán Sở chiến trường: bãi chiến trường giữa quân Hán và quân Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao Tổ) và Hạng Võ (Sở Bá Vương) cùng khởi binh đánh Tần, sau lại tranh nhau thiên hạ, đánh nhau nhiều trận kịch liệt. Câu 474: Tiếng sắt tiếng vàng: tiếng khí giới bằng sắt, bằng đồng va chạm nhau. Câu 475: Tư mã Phượng cầu: Tư mã Tương Như, người đời Hán, một hôm đến nhà Trác Vương Tôn dự tiệc. Tương Như có gảy một khúc đàn Phượng cầu hoàng để tỏ tình với con gái Trác Vương Tôn là nàng Văn Quân. Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy nàng bỏ nhà trốn theo Tương Như. Câu 476: Như oán như sầu: ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe có vẻ buồn rầu ai oán như tiếng đàn của Tư mã Tương Như khi gảy khúc Phượng cầu hoàng. Câu 477: Kê Khang: Kê Khang, người đời Tam Quốc, một đêm gảy đàn ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới, dạy cho khúc Quảng lăng tán, âm điệu tuyệt hay. Câu 477: Quảng lăng: tên của khúc đàn, nay không được lưu truyền nữa. Cả câu ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe ra thanh thoát nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi. Câu 479: Quá quan: qua cửa ải, khi Chiêu Quân bị cống sang Hổ. Câu 479: Chiêu Quân: tên tự là Vương Tường, cung nữ thời Hán Nguyên đế vì không chịu lo lót với Mao Diên Thọ nên bị gả cho chúa Thiền Vu.Khi Chiêu Quân vào bái biệt, nhà vua mới biết là nàng đẹp có ý muốn lưu lại nhưng không được nữa. Khi qua cửa ải, Chiêu Quân có gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ lòng nhớ nước nhớ nhà vô hạn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 03:34:46 bởi sóng trăng >
|