TRUYỆN KIỀU BẢN 1866

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 110 bài trong đề mục
Tác giả Bài
sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 02.02.2007 12:49:30
TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)

 

 
 





1112    Trăm năm trong cõi người ta.

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy đã đau đớn lòng.

2526    Lạ gì bỉ sắc tư phong,


Trời xanh quen với má hồng đánh ghen.

Cảo thơm lần giở trước đèn,

Phong tình có lục còn truyền sử xanh.

Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,

4950    Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

7172    Đầu lòng hai ả tố nga.


Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

9192    Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.







Chú Thích:





Câu 1:
Trăm năm:  Thời gian một đời người ta ở trần thế. Cổ ngữ: Nhân sinh bách tuế vi kỳ = Người ta sống lâu chừng trăm tuổi. Ở câu này chữ "Trăm năm" có thể thay bằng chữ "Xưa nay", "đại phàm" vì chỉ ngụ ý nói bao quát mà thôi chứ không phải là hạn định 100 năm như mấy chỗ khác trong chuyện.

Câu 3:
Bể dâu:  do chữ "tang thương" dịch ra. Sách Ấu học tầm nguyên có câu: "Thương hải tang điền, vị thế sự chi da biến" ý nói bể xanh biến thành ruộng dâu là chỉ việc đời nhiều biến đổi.

Câu 5:
Bỉ sắc tư phong:  điều kia kém thì điều này hơn, ý nói có tài thì kém mệnh, có nhan sắc thì bị tạo hoá ghét ghen.

Câu 7:
Cảo thơm:  (cảo: bản thảo) pho sách hay.

Câu 8:
Phong tình có lục:  xem các bản nôm đã viết là thì câu này phải phiên âm là "Phong tình có lục còn truyền sử xanh" vì chữ nôm có mượn chữ (cổ trong bộ vi). Nếu là "cổ" lục thì chữ Hán đã có sẵn chữ cổ, sao lại không dùng đến. "Phong tình có lục": có cái bản truyện phong tình còn để lại trong sử sách.
  Bản quốc ngữ đầu tiên đã phiên "cổ lục" là bản Kim Vân Kiều tân chuyện của Edmond Nordemann in năm 1897.

Câu 8:
Sử xanh:  ngày xưa chưa có giấy, người ta phải chép sử và những thẻ tre xanh nên mới gọi như vậy.

Câu 9:
Gia Tĩnh:  niên hiệu vua Thế Tông nhà Minh (1522-1566)

Câu 9:
Triều Minh:  là một triều đại phong kiến của Trung Quốc, từ năm 1368 đến năm 1644.

Câu 10:
Hai kinh:  tức Bắc Kinh và Nam Kinh.

Câu 11:
Viên ngoại:  chức quan ngoại ngạch để những người giàu có được bỏ tiền ra mua cho thêm danh giá.

Câu 12:
Gia tư:  của cải trong nhà, cũng như "gia sản".

Câu 12:
Nghĩ:  cho là, ước chừng. Các bản Nôm kể cả bản LVĐ (1871) đều viết thì phải phiên âm là "nghĩ" mới đúng. Bản KOM viết là (nghỉ) nên về sau bản BK.TTK và bản TĐ mới phiên âm là "nghỉ" và chú thích là hắn, va, nó...
  Theo chúng tôi nghĩ chữ "nghỉ" có ngụ ý khinh rẻ nên không thích hợp ở đây để chỉ Viên ngoại.

Câu 14:
Nho gia:  nhà theo nho học.

Câu 15:
Tố nga:  (tố: trắng, nga: người con gái đẹp), người con gái đẹp ví với Hằng Nga ở trên cung trăng.

Câu 17:
Mai cốt cách:  ý nói về dáng vóc con người thanh tú như cành mai. "Cốt cách": bộ xương, kiểu dáng con người.

Câu 17:
Tuyết tinh thần:  ý nói tinh thần trong trắng như tuyết.

Câu 19:
Trang trọng:  có vẻ nghiêm trang đứng đắn.

Câu 22:
Mây thua nước tóc:  mây thua cải vẻ óng mượt của làn tóc mềm mại."Nước là cái ánh, cái vẻ óng mượt.

Câu 22:
Tuyết nhường màu da:  tuyết đã trắng mà cũng phải chịu kém màu trắng của làn da mịn màng như ngọc, như ngà.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 02:38:04 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 03.02.2007 05:03:55
 
 





25    Làn thu thuỷ, thấp xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một đôi nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

30    Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

3738    Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,

Êm niềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tiết vừa con én đưa thoi,

5758    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là Tảo mộ, gọi là đạp thanh.

7778    Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.







Chú Thích:





Câu 25:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn:  ý nói mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt xanh như núi mùa xuân. Bản LVĐ 66 đã khắc là "thấp".

Câu 27:
Nghiêng nước nghiêng thành:  ý nói đến cái đẹp làm cho người ta phải say mê mà mất cả thành mất cả nước. Ý ấy mượn trong bài ca của Lý Diên Niên: " Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lập, nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc..." = Phương Bắc có người con gái đẹp, đẹp nhất đời mà còn ở một mình. Người đẹp ấy chỉ ngoảnh lại một lần là nghiêng cả thành, ngoảnh lại lần nữa là nghiêng mất cả nước...

Câu 27:
Một hai:  đây là dịch mấy chữ "nhất cố, tái cố" trong điển trên.

Câu 31:
Cung thương:  hai âm đứng đầu trong ngũ âm tức: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ.

Câu 31:
Lầu bậc:  thuộc lòng các cung bậc.

Câu 32:
Hồ cầm:  ta thường hiểu là cây đàn tỳ bà, một thứ đàn nguyên ở nước Hồ làm ra.
  Thực ra đàn tỳ bà không phải là đàn Hồ cầm vì đàn Hồ cầm là một thứ đàn hai dây kếo vĩ, ta quen gọi là nhị, ta quen gọi là nhị, " nhị hồ" hay "đàn gáo".
  Gs. Trần Văn Khê cho rằng: "Cây đàn mà Thuý Kiều đánh chắc chắn không phải là cây đàn kéo vĩ bốn dây, đàn "tứ hồ" bởi vì Hồ cầm là cây đàn hơi thô rất ít khi phụ nữ chơi"
  Chính vì lẽ ấy mà khi vẽ Thuý Kiều gảy đàn, người ta đều vẽ nàng gảy cây đàn tỳ bà.

Câu 32:
Một trương:  các bản nôm hầu hết đều viết "một trương" nhưng cũng có một vài bản viết tắt chữ một là (không có chấm thuỷ) như bản Kim Vân Kiều tân truyện của Duy Minh Thị hoặc Kim Vân Kiều hợp tập khắc in năm 1924 nên có người mới đọc lầm là "Ngải Trương". Chữ (một) thực ra viết khác với chữ (ngải) có bộ (thảo) ơ trên.
  "Trương" có nghĩa là cây đàn. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kỳ nhất cục": cầm một cây, cờ một cuộc.
  Cả câu 32 ý nói cô Kiều có tài riêng về cây đàn Hồ cầm, ăn đứt được tất cả mọi người, không ai sánh kịp.

Câu 33:
Khúc nhà:  khúc đàn do Thuý Kiều soạn ra.

Câu 33:
Chương:  chương khúc, bài nhạc.

Câu 34:
Thiên Bạc mệnh:  tên bài đàn, bài nhạc do Thuý Kiều soạn ra nhan đề là Oán bạc mệnh.

Câu 34:
Não nhân:  làm cho người nghe phải sầu não trong lòng.

Câu 35:
Hồng quần:  cái quần mầu hồng người phụ nữ Trung Quốc xưa thương mặc; đây dùng để chỉ tư cách cao quí của người phụ nữ.

Câu 36:
Cập kê:  cài trâm. Theo tục lệ cổ Trung Quốc, con gái đến 15 tuổi bắt đầu cài trâm tức là đã đến tuổi lấy chồng.

Câu 38:
Tường đông:  tường nhà ở phía đông, chỉ nhà bên hàng xóm.

Câu 38:
Ong bướm:  ý nói đến cảnh những chàng trai tìm cách cách ve vãn con gái.

Câu 40:
Thiều quang:  ánh sáng tốt đẹp tức nắng xuân đẹp đẽ. Cả câu ý nói trong chín chục ngày xuân đẹp đẽ đã hơn sáu chục ngày qua đi rồi.

Câu 43:
Thanh minh:  theo âm lịch một năm chia làm 24 tiết, tiết thanh minh là một tiết thuộc mùa xuân nhằm vào khoảng đầu tháng ba âm lịch.

Câu 44:
Tảo mộ:  (tảo: quét, mộ: mồ mả) quét dọn sửa sang lại các phần mộ cho sạch sẽ.

Câu 44:
Đạp thanh:  giẫm lên cỏ xanh. Người ta đi tảo mộ ở ngoài đồng cỏ đông như hội nên gọi là hội đạp thanh.

Câu 45:
Yến anh:  hai loài chim thường bay thành đàn về mùa xuân, đây ngụ ý nói người đi chơi xuân đông đúc từng đoàn, từng lũ.

Câu 47:
Tài tử giai nhân:  trai tài gái sắc.

Câu 48:

Áo quần như nêm:  "nêm" đây là những mảnh gỗ mỏng đóng trên hai mặt thớt cối xay lúa khít nhau như những hàng răng. Chữ Hán có câu: "Xa mã như thuỷ, y thường như xỉ", ngựa xe đi lại như nước chảy, áo quần chật khít nhau như những hàng răng ở trên mặt cối. Cả câu 48 ý nói ngựa xe qua lại liên tiếp như nước chảy, khách du xuân áo quần đẹp đẽ chen khít nhau như những mảnh nêm ở trên mặt thớt cối xay. Câu này đặt theo lối tiểu đối: "thuỷ" (danh từ) đối với "nêm" (danh từ).
 
 
 

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=2&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 04.02.2007 12:15:04
 
 



Ngổn ngang gò đống kéo lên,

50    Thoi vàng búa (vó) rắc, tro tàn giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh:

55    Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nắm đất bên đàng,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Rằng: "Sao trong tiết Thanh minh,

60    Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?"

Vương Quan mới dẫn gần xa:

"Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

Nổi danh tài sắc một thì,

Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh.

65    Kiếp hồng nhan có mong manh,

Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương!

Có người khách ở viễn phương,

Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

Thuyền tình vừa ghé đến nơi,

87    Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!

Buồng không lạnh ngất như tờ,

Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.







Chú Thích:


Câu 50:
Vàng vó:  đồ mã làm giả những thoi vàng hình khối chữ nhật dùng để rắc lúc đưa ma hay để cũng lúc đi tảo mộ.

Câu 53:
Tiểu khê:  dòng nước nhỏ, ngòi nước nhỏ.

Câu 54:
Thanh thanh:  có vẻ xinh xắn.

Câu 56:
Dịp:  cũng viết là "nhịp". Trong thơ ca thường nói dịp.

Câu 56:
Ghềnh:  chỗ ngòi nước bị thu hẹp lại, hơi nông, có đá lởm chởm chắn ngang làm dòng nước dồn lại và chảy xiết.

Câu 57:
Sè sè:  ý nói thấp gần sát mặt đất.

Câu 57:
Nấm đất:  đây chỉ nấm mộ nhỏ.

Câu 62:
Ca nhi:  người con gái làm nghề ca hát ở các thanh lâu ngày xưa.

Câu 64:
Yến anh:  đây chỉ khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên đông như chim anh, chim yến.

Câu 65:
Hồng nhan:  má hồng, chỉ người đàn bà con gái đẹp.

Câu 66:
Cành thiên hương:  chỉ người con gái đẹp. "Thiên hương" là hương trời. Cả câu 66: ý nói người con gái đẹp đang độ tuổi thanh xuân mà đột nhiên nửa chừng bị chết.

Câu 67:
Viễn phương:  phương xa.

Câu 69:
Thuyền tình:  thuyền trở người khách có tình với Đạm Tiện đến. Kiều Oánh Mậu chú: "Tình sử": Thuyền dĩ tình quí = con thuyền lấy tình làm quí.

Câu 70:
Trâm gãy bình rơi:  cái trâm cài đầu bị gãy,cái bình hoa bị rơi vỡ, ý nói đến người đàn bà con gái đẹp bị chết. Thơ Bạch Cư Dị có câu: "Bình trầm trâm triết chi lại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt" = bình chìm trâm gãy biết làm sao được, cũng như sáng hôm nay thiếp cùng chàng từ biệt.

Câu 71:
Như tờ:  như tờ giấy, thứ giấy bản ngày xưa. Ta thường nói "êm như tờ" vì hai tờ giấy bản chạm vào nhau vẫn êm, không gây ra tiếng động nào.
"Lạnh ngắt như tờ": lạnh lẽo và im không có một tiếng động nào.

Câu 72:
Dấu xe ngựa:  Dấu vết bánh xe ngựa của khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên.
đã rêu lờ mờ xanh: các vết xe đã gần che kín bởi rêu mọc đã xanh rồi, ý nói đã lâu.

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=3&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.02.2007 12:27:29 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 06.02.2007 04:17:32

Khóc than khôn xiết sự tình,

Khéo vô duyên bấy là mình với ta!

75    Đã không duyên trước chăng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

Sắm xanh nếp tử xe châu,

Vùi nồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.

Trải bao thỏ lặn ác tà,

80    Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm."

Lòng đâu sẵn món thương tâm,

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

"Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời là phận bạc cũng là lời chung.

85    Phũ phàng chi mấy hoá công

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,

Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung,

90    Nào người tiếc lục tham hồng là ai?

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Hoạ là người dưới suối vàng biết cho."

9798    Lầm rầm khấn vái nhỏ to,

Sụp ngồi bả cỏ trước mồ bước ra.








Chú Thích:


Câu 74:
Vô duyên:  không có nhân duyên với nhau nên không được gặp nhau.

Câu 76:
Chút ước:  một chút ước hẹn để dành về kiếp sau.

Câu 77:
Nếp tử:  cái áo quan bằng gỗ tử.

Câu 77:
Xe châu:  xe chở linh cữu có kết rèm ngọc châu. Theo đoạn này thì Nguyễn Du đã để Đạm Tiên chết được một thời gian (dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh) rồi người khách phương xa mới đến. Trong nguyên truyện thì: " Khi Đạm Tiên chết gặp phải mụ chủ tệ bạc toan đem vứt xác nàng ra bờ ngòi. May sao lúc ấy có một khách ở viễn phương vì mộ tiếng sắc tài của nàng nên mới tìm đến". Tưởng như vậy hợp lý hơn vì không làm gì có chuyện để quàn một chỗ chưa chôn ngay.

Câu 78:
Vùi nông:  chôn sơ sài, không có xây đắp mộ gì cả. Điều này cũng đúng với đoạn trên đã tả: "Sè sè nấm đất bên đàng". Bản BK-TTK cũng chép là "vùi nông". Tản Đà theo bản KOM chép là "Bụi hồng" và đã chú thích rằng: "Hai chữ "bụi hồng" đây chỉ là lời văn lịch sự, nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản để là vùi nông thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý."
Thực ra thì theo mạch văn ở đây phải dùng hai chữ "vùi nông" mới chuyển tiếp được với việc "sắm sanh" ở câu trên.
Hơn nữa người khách viễn phương chưa quen biết gì Đạm Tiên mà lo cho chôn cất như vậy đã là có tình rồi.

Câu 79:
Thỏ lặn ác tà:  Thỏ là chỉ mặt trăng, ác là chỉ mặt trời: ý nói đã bao ngày trôi qua rồi.

Câu 80:
Vô chủ:  không có ai nhận, không có ai thăm viếng, quét dọn sửa sang lại.

Câu 82:
Châu sa:  giọt nước mắt chảy xuống. Cổ văn: "Sái giao nhân chi châu lệ" = người giao nhân khóc nước mắt sa xuống thành hạt châu.

Câu 89:
Phượng chạ loan chung:  chỉ những người khách làng chơi đã từng ăn nằm với Đạm Tiên. Cái cảnh phượng loan chung chạ là nói đến sự ái ân giao tình bừa bãi.

Câu 90:
Tiếc lục tham hồng:  tiếc mầu xanh, tham màu đỏ; chỉ những người khách làng chơi đã ham mê sắc đẹp của Đạm Tiên.

Câu 92:
Kiếm:  BK-TTK đã giảng: ""Kiếm" là để đem dâng, đem lễ, chữ không phải là tìm kiếm". Các bản nôm đều viết (kiếm) nhưng không thể hiểu như BK.TTK được. "Kiếm" chỉ có nghĩa là tìm kiếm. Sở dĩ ba chị em Thuý Kiều phải tìm kiếm một vài nén hương mà các người đi tảo mộ còn để lại vì lúc ra về ba chị em chỉ đi tay không: "Chị em thơ thẩn dan tay ra về", không cầm gì cả, chính sự tìm kiếm ấy đã cho ta thấy được lòng thương xót của Thuý Kiều đối với Đạm Tiên thật sâu sắc, thân chân tình.

Câu 94:
Suối vàng:  cho chữ "hoàng tuyền" là cái suối ở dưới đất mà theo ngũ hành đất thộc mầu vàng nên gọi là suối vàng.

Câu 96:
Vài gật:  tức là cúi đầu vái mấy cái. Nguyên truyện viết: Đảo thân tứ bái = nghiêng mình vái bốn cái.


http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=4&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.02.2007 04:18:42 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 07.02.2007 08:44:30
.
 
 





Một vùng cỏ áy bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.

Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

100    Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần,

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

105    Vân rằng: "Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa."

Rằng: "Hồng nhan tự nghìn xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

110    Thấy người nằm đó biết sau thế nào?"

Quan rằng: "Chị nói hay sao,

Một điều là một vận vào khó nghe!

Ở đây âm khí nặng nề,

Bóng chiều đã ngả, dặm hoè còn xa."

115    Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,

Chết là thể phách, còn là tinh anh.

Dễ thay tình lại gặp tình,

Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ."

Một lời nói chửa kịp thưa,

120    Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.










Chú Thích:





Câu 97:
Cỏ áy:  cỏ vàng úa.

Câu 100:
Bốn câu ba vần:  tức là bài thơ tứ tuyệt.

Câu 101:
Tâm thần:  tâm trí, tinh thần, nói chung về tinh thần ý tưởng.

Câu 103:
Nét hoa:  nét mặt đẹp của người con gái."Ủ dột nét hoa" là nói nét mặt buồn rầu.

Câu 106:
Người đời xưa:  do chữ cổ nhân, chỉ người đã chết.

Câu 112:
Vận vào:  buộc vào mình.

Câu 113:
Âm khí:  khí âm, đây nói về cái khí ảm đạm lạnh lẽo ở bãi tha ma.

Câu 116:
Thể phách:  xác và vía; xác là hữu hình, phách là thuộc về vô hình, chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại. Chữ "thể phách" ở đây chỉ chung thể xác con người.

Câu 116:
Tinh anh:  tức là phần linh hồn. Nguyên truyện: "Tử giả thể phách, bất tử giả tinh thần" = người ta chết là mất đi cái thể xác chứ cái tinh thần thì không bao giờ mất được.

Câu 118:
Hiển linh:  hiện rõ ra sự linh thiêng.
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=5&IDcat=153

Câu 120:
Trận gió cuốn cờ:  tức là trận gió mạnh có thể cuốn lá cờ lại.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.02.2007 08:58:54 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 09.02.2007 12:25:11
.
 
 





Ào ào đổ lộc đưa cây,

Ở trong dường có hương bay ít nhiều.

Đè chừng ngọn gió lần theo,

Dấu giày từng bước rêu in rành rành.

125    Mặt nhìn ai nấy đều kinh,

Nàng rằng: "Này thực tinh thành chẳng xa.

Hữu tình ta lại gặp ta,

Chẳng nề u hiển, mới là chị em."

Đã lòng hiển hiện cho xem,

130    Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

Lòng thơ lai láng bồi hồi,

Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

135    Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

140    Cỏ pha màu (mùi) áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.








Chú Thích:





Câu 126:
Tinh thành:  lòng rất chân thành, hoàn toàn thuần khiết.

Câu 128:
U hiển:  tối và sáng rõ; ý nói đến người chết ở dưới âm ty và kẻ sống ở trên dương gian.
"Chớ nề u hiển": không có phân biệt gì kẻ sống với người chết.

Câu 132:
Cổ thi:  bài thơ cổ, bài thơ làm theo cổ thể hoặc cổ phong chưa có niêm luật chặt chẽ.

Câu 134:
Nhạc vàng:  tức là nhạc ngựa bằng đồng vì sắc đồng màu vàng nên gọi là nhạc vàng cho đẹp lời.

Câu 136:
Tay khấu:  tay cầm cương ngựa. "Khấu": dây cương ngựa. "Lỏng buông tay khấu": thả chùng dây cương cho ngựa đi thong thả lại.

Câu 136:
Dặm băng:  chữ băng có nghĩa là nước giá lạnh đông cứng lại khác với chữ băng là đi ngang, vượt lên. Vì mặt băng rất phẳng nên "dặm băng" có nghĩa là dặm đường bằng phẳng. "Dặm băng" được đặt đối với "tay khấu" nên chữ "băng" không thể là động từ được.

Câu 137:
Đề huề:  mang dắt. Ý nói Kim Trọng đi vui vẻ có một vài đứa tiểu đồng theo sau chân ngựa.

Câu 137:
Lưng túi gió trăng:  do các chữ "bán nang phong nguyệt (nửa túi gió trăng). Các nhà thơ xưa thường hay lấy gió trăng làm đề tài ngâm vịnh nên mới gọi "túi thơ" là túi gió trăng.

Câu 139:
Ngựa câu:  ngựa non, đương sức mạnh.

Câu 139:
Giòn:  chữ "giòn" ở các bản Kiều nôm thường viết có khung "bệnh" bằng chữ "tồn". Chữ "giòn" (dòn) có thể hiểu nghĩa là đẹp.

Câu 142:
Tự tình:  bày tỏ nỗi lòng của mình.

Câu 143:
Hài văn:  thứ giày thêu mà các nho sinh ngày xưa thường dùng.

Câu 143:
Dặm xanh:  dặm cỏ xanh, đối chiếu lên "dặm băng" thì hai chữ "xanh" và "băng" đều là tính từ. Dặm cỏ xanh bằng phẳng gọi là "dặm băng".

Câu 144:
Cây quỳnh cành dao:  hai thứ cây cảnh đẹp. KOM chú: "Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm dao thụ phong trần ngoại vật" = Phong cách tinh thần Vương Diễn đẹp như rừng quỳnh cây dao, thực là một bậc ngoài cõi phong trần vậy. (Thế thuyết).
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2007 12:26:23 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 04:46:17
145    Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai kiều e mặt nép vào dưới hoa.

Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim, tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Nền phú quí, bậc tài danh,

150    Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Thiên tư tài mạo tót vời,

Vào trong thanh nhã, ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà,

Với Vương Quan, trước vẫn là đồng thân.

155    Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền Đồng Tước khoá xua^n hai Kiều.

Nước non cách mấy buồng điều,

Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.

May thay giải cấu tương phùng,

160    Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,

Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.

165    Chập chờn cơn tỉnh cơn mê

Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà xuống ngựa, người còn ghé theo.






Chú Thích:





Câu 146:
Hai kiều:  (kiều là người con gái xinh đẹp) chỉ hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân.

Câu 147:
Đâu xa:  ý nói không có đâu xa.

Câu 148:
Trâm anh:  (trâm: cái trâm để cài tóc, anh: cái dải mũ)
  "Nhà trâm anh": nhà quyền quí dòng dõi làm quan.

Câu 149:
Phú hậu:  giàu có và phúc hậu.

Câu 149:
Tài danh:  người có tài và nổi tiếng.

Câu 151:
Phong tư:  hình dáng người có vẻ nho nhã, rất có tư cách.

Câu 151:
Tài mạo:  vẻ mặt thông minh, có tài năng.

Câu 152:
Phong nhã:  phong lưu tao nhã, ý nói người có dáng dấp một nhà nho tài giỏi thơ văn.

Câu 152:
Hào hoa:  nói người ăn chơi hào phóng lịch sự.

Câu 155:
Hương lân:  chỗ hàng xóm láng giềng trong làng

Câu 156:
Đồng tước:  tên một cái đài. Đời Tam Quốc, Tào Tháo định nếu đánh thắng Đông Ngô sẽ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều về giữ kín ở đài Đồng Tước.

Câu 156:
Hai Kiều:  hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều. Chữ Kiều ở đây viết hoa vì là tên người . Hai chữ (kiều = người con gái đẹp) cùng đồng âm nên có một ý nghĩa rất đặc biệt.

Câu 157:
Buồng thêu:  buồng của con gái ở.

Câu 158:
Chốc mòng:  lúc lúc lại tưởng nhớ, ý nói nhớ hoài không bao giờ quên, chốc chốc lại nhớ đến.

Câu 159:
Giải cấu tương phùng:  tình cờ không hẹn mà gặp.

Câu 160:
Đố lá:  hội đố lá tức là đố cỏ ("đấu thảo" hoặc "diệp hí"). Bên Trung Quốc, đời Đường có hội đấu hoa lá.

Câu 161:
Bóng hồng:  bóng người con gái, đây chỉ bóng của hai chị em cô Kiều.

Câu 162:
Xuân lan thu cúc:  hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu, mỗi đoá hoa có một vẻ đẹp riêng. Thuý Kiều và Thuý Vân cũng vậy, mỗi người có một vẻ đẹp riêng.

Câu 163:
Quốc sắc:  sắc đẹp nổi tiếng trong nước, vào bậc nhất trong nước. "Người quốc sắc": đây chỉ Thuý Kiều.

Câu 163:
Thiên tài:  tài do trời phú cho, tài cao hơn hẳn mọi người.
  "Kẻ thiên tài": đây chỉ Kim Trọng.

Câu 166:
Rốn ngồi:  ngồi thêm, cố ngồi thêm. Thực ra ở ngoài cánh đồng, ghế đâu mà ngồi. Kim Trọng và Vương Quan đều đứng mà nói chuyện với nhau.

Câu 166:
Chỉn khôn:  không xong, chẳng được.

Câu 168:
Ghé theo:  nhìn với theo, liếc mắt nhìn theo. Chữ "ghé" (nhìn theo) viết có bộ "mục" khác với chữ "ghé" (tạt vào), viết có bộ "túc".
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=7&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 04:48:58

Dưới khe nước chảy trong veo,

170    Bên cầu tơ liễu bóng chiều đã ra.

Kiều từ trở gót trướng hoa,

Mặt trời đến đất, chiêng đà thu không.

Gương nga vành vạnh từ song.

Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

175    Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà.

Một mình rạng ngắm tố nga,

Rộn đường xa với nỗi xa bời bời.

Người mà đến thế thì thôi,

180    Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì thay không?

Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

185    Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.

Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.

Sương in mặt, tuyết pha thân,

190    Nhạc vàng lãng đãng như gần như xa.

Liền mừng đón hỏi dò la:

"Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?"








Chú Thích:





Câu 171:
Trướng hoa:  bức màn có thêu hoa, chỉ buồng phụ nữ ở.
Trướng rủ màn che (c.37)

Câu 172:
Thu không:  do chữ "sưu" không. "Sưu" là tìm tòi, "không" là trống không. "Sưu không" là đi xem xét, tìm tòi trong dinh trong đồn để soát lại có chỗ nào sơ khoáng chăng mà phòng kẻ gian. Sau quen gọi là "thu không" tức là hiệu trống, hiệu chuông bãi công việc vào buổi chiều, lúc gần tối.

Câu 175:
Hải đường:  thứ cây có hoa đẹp thường được dùng để ví với người con gái có nhan sắc.

Câu 175:
Đông lân:  láng giềng phía đông.

Câu 176:
Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà:  câu này bản Liễu Văn đường, bản Kiều Oánh Mậu và bản Quan Văn đường (1925) đều viết (treo) nhưng vì "tr" có thể chuyển ra "gi" nên các bản quốc ngữ có người viết là:
"Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà"
có người phiên là:
"Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà."
Hồ Đắc Hàm phiên là:
"Giọt sương tríu nặng, cành xuân la đà."
Tản Đà thấy chữ "chíu" thì lấy làm đắc ý và giải thích: "Chíu nghĩa là treo bám vào đó mà làm ra cho nặng. Chữ này nguyên văn Nôm là các bản để là "gieo", là "đeo", đều là không sành nghĩa, duy trong bản của ông Hồ Đắc Hàm để là "chíu" thực tình đúng hơn.
Tuy Tản Đà có ý kiến như vậy nhưng chúng tôi nhận thấy câu 176 nên phiên âm là:
"Giọt sương gieo nặng, cành xuân

Câu 177:
Bóng nga:  bóng trăng (Nga: Hằng nga) người xưa tin rằng ở trên mặt trăng có ả Hằng Nga.

Câu 178:
Rộn đường gần:  óc bận rộn suy nghĩ về những việc mới xảy ra: gặp mả Đạm Tiên, Gặp Kim Trọng.

Câu 178:
Nỗi xa:  nỗi suy nghĩ về tương lai của đời mình, mối tình với Kim Trọng.
"Trăm năm biết có duyên gì hay không?"

Câu 180:
Đời phồn hoa:  đời sống hoa lệ, xa xỉ.

Câu 184:
Tuyệt diệu:  nói câu thơ rất hay.

Câu 186:
Bên triện:  bên lan can tạc hình chữ triện.

Câu 187:
Tiểu kiều:  người con gái nhỏ nhắn xinh đẹp.

Câu 188:
Phong vận:  dáng vẻ con nhà nề nếp, đoan trang.
Thanh tân: còn trong trắng.

Câu 189:
Sương in mặt:  trên mặt còn có sương in vết.
Tuyết pha thân: trên mình còn có tuyết vương dấu.
Cả câu tả cái cảnh nàng tiểu kiều đã trải sương tuyết ban đêm từ xa đến.

Câu 190:
Sen vàng:  chỉ gót chân người đẹp, bước chân của người đẹp. Đông Hôn hầu nước Tề rất yêu nàng quí phi họ Phan, đã cho đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sinh liên hoa" (mỗi bước nở ra một bông hoa sen).

Câu 190:
Lãng đãng:  có vẻ chập chờn, lờ mờ, khi xa khi gần. Câu này cho ta thấy tiểu kiều đã hiện lên như một bóng ma chập chờn trước mắt Thuý Kiều.

Câu 192:
Đào nguyên:  nguồn đào, nơi tiên ở. Theo bài "Đào hoa nguyên ký" của Đào Tiềm thì có một người đánh cá đã lạc vào một rừng đào, nơi tiên ở nên về sau người ta dùng chữ "đào nguyên" để chỉ cảnh tiên.

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=8&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 04:51:55
 
 
 
 


Thưa rằng: "Thanh khí xưa nay,

Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?

195    Hàn gia tây thiên

Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.

Thêm lòng hạ cố đến nhau,

Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

Vâng trình hội chủ xem tường,

200    Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.

Âu đành quả kiếp nhân duyên,

Cũng người một hội một thuyền đâu xa.

Này mười bài mới mới ra,

Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.

205    Kiều vâng lĩnh ý đề bài,

Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.

Xem thơ nức thỏm khen thầm:

"Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.

Ví đem vào tập đoạn trường.

210    Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai."

Thềm hoa khách đã trở hài,

Nàng còn Ở lại một hai tự tình.

Gió đâu sịch bức mành mành

Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.

215    Trông theo nào thấy đâu nào,

Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây?








Chú Thích:





Câu 193:
Thanh khí:  do câu "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" = vật gì cùng một thứ tiếng thì ứng hợp với nhau, vật gì cùng một khí loại thì tìm đến với nhau. Câu này ý nói xưa nay những người cùng một cảnh ngộ, cùng một tâm tình thì dễ thông cảm nhau.

Câu 195:
Hàn gia:  được dùng để chỉ nhà mình, ý khiêm tốn cho rằng nhà mình cũng nghèo nàn. Đây ý nói đến ngôi mộ, nơi yên nghỉ của Đạm Tiên.

Câu 195:
:  phía, bên.

Câu 195:
Tây thiên:  đường bờ ruộng ở về một phía tây (nơi có mộ Đạm Tiên)
("thiên": đường đi ở trong tha ma, đường bờ ruộng).

Câu 197:
Hạ cố:  ("cố" quay cổ lại nhìn) trông xuống, đoái tới.

Câu 198:
Hạ tứ:  ban xuống. Người trên cho kẻ dưới gọi là "tứ".

Câu 198:
Ném châu gieo vàng:  ý nói ban cho những lời thơ hay, quí như châu báu vàng ngọc.

Câu 199:
Hội chủ:  người chủ hội, đây chỉ người chủ hội đoạn trường.

Câu 200:
Đoạn trường:  đứt ruột, đau lòng đến đứt ruột.
"Sổ đoạn trường": sổ chép tên những người có số đoạn trường, phải chịu sự đày đoạ ở đời.
Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dùng tới 17 lần chữ "đoạn trường" ở các câu 200, 209, 231,818, 869, 996, 1270, 1324, 1860, 1934, 2622, 2654, 2666, 2676, 2721, 2722, 3212.

Câu 201:
Quả kiếp nhân duyên:  quan niệm nhà Phật cho rằng cái quả của kiếp này là do cái nhân từ đời trước gây ra và cái nhân đời này là cái quả của kiếp sau sẽ hưởng thụ.

Câu 202:
Một hội một thuyền:  ý nói ở cùng một hoàn cảnh.

Câu 204:
Câu thần:  câu thơ cực hay.

Câu 206:
Tay tiên:  tay của ngươi có tài làm thơ, cũng có ý chỉ tay của người con gái đẹp.

Câu 208:
Tú khẩu cẩm tâm:  miệng thêu lòng gấm, ý nói lời thơ đẹp. Người ta đã ca tụng thơ Lý Bạch là: "Cẩm tâm tú khẩu Lý Thái Bạch chi văn chương".

Câu 211:
Trở hài:  quay gót hài đi trở ra.

Câu 213:
Sịch:  lay động mạnh.

Câu 216:
Hương thừa:  mùi hương thơm còn toả bay, chưa tan hết.

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=9&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 04:52:55 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 04:55:21
 
 
 





Một mình lưỡng lự canh chầy,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Hoa trôi, bèo dạt, đã đành.

220    Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!

Nỗi riêng lớp lớp sóng trôi,

Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.

Giọng kiều rền rĩ trướng loan,

Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?

225    "Cớ sao trằn trọc canh khuya,

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"

Thưa rằng: "Chút phận ngây thơ,

Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,

230    Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

Đoạn trường là số thế nào,

Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.

Cứ trong mộng triệu mà suy,

Phận con thôi có ra gì mai sau!"

235    Dạy rằng: "Mộng triệu cứ đâu,

Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao!

Vâng lời khuyên giải thấp cao,

Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch sương.

Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

240    Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.







Chú Thích:





Câu 217:
Lưỡng lự:  lo nghĩ phân vân không biết quyết định ra sao.

Câu 217:
Canh chầy:  canh khuya.

Câu 219:
Hoa trôi bèo giạt:  hoa rụng xuông nước bị cuốn trôi đi, bèo bị sóng đành mà giạt trở lại. Ý nói nàng Kiều tự nghĩ duyên phận mình sau này cũng trôi nổi như cánh bèo, đoá hoa vậy.

Câu 221:
Sóng dồi:  sóng tung lên dìm xuống nhiều lần.

Câu 222:
Đòi cơn:  nhiều cơn.
  Cả hai câu 221-222 ý nói trong lòng có nhiều lo nghĩ như sóng dồi nhiều lớp, càng lo nghĩ lại càng đau đớn mà sụt sùi khóc lóc.

Câu 223:
Giọng Kiều:  giọng của Thuý Kiều. Các bản nôm KOM-QVĐ đều viết (kiều). Chữ kiều này có nghĩa là vẻ mềm mại đáng yêu nên xưa kia gọi con gái là a kiều.

Câu 224:
Nhà huyên:  chỉ người mẹ, dịch chữ "huyên đường"; chữ lấy ở bài Bá hề (Kinh Thi): "Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối" = mong được cỏ huyên để trồng vào bên nhà phía bắc. Chữ "huyên" nguyên nghĩa là quên, dùng với chữ "thảo" mới có ý nghĩa là cây quên sầu. Về sau người ta lại viết chữ "huyên" để chỉ cỏ huyên cũng gọi là "vong ưu thảo" hoặc "nghi nam". (sách thuốc xưa nói đàn bà "có thai" đeo hoa cây ấy thì sinh con trai).

Câu 226:
Màu hoa lê:  ý nói mặt nàng Kiều trắng đẹp như hoa lê mà khi khóc nước mắt làm ướt trông tựa hoa thấm mưa xuân. Mấy chữ này mượn ý từ câu: "Ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đới vũ" = Lệ giàn mặt ngọc lưa thưa, cành lê hoa chíu hạt mưa xuân đầm". (Tản Đà dịch).

Câu 228:
Dưỡng sinh:  cha sinh mẹ dưỡng, chỉ công ơn cha mẹ.

Câu 228:
Tóc tơ:  dùng để chỉ những điều nhỏ nhặt nhất, nói về công ơn cha mẹ, cũng phải báo đáp.

Câu 230:
Nhắp:  chợt ngủ đi.

Câu 233:
Mộng triệu:  điều chiêm bao thấy trong mộng báo trước sự việc sẽ xảy ra.

Câu 236:
Chuốc sầu:  tự mua lấy cái sầu não vào mình.

Câu 238:
Mạch Tương:  mạch nước sông Tương, lấy tích bà Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, gần bờ sông Tương. Hai bà đến đó kêu khóc thảm thiết, nên bây giờ thường dùng chữ mạch Tương mà ví nước mắt thương nhớ.

Câu 239:

Oanh vàng ... bông liễu:  hai câu này, ý nói Kiều nghe chim oanh hót, thấy bông liễu bay thì nghĩ đến tình duyên của mình.
 
 

 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 04:58:32
 
 
 
 





Hiên tà gác bóng chênh chênh,

Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.

Cho hay là thói hữu tình,

Đố ai dứt mối tơ mành cho xong!

245    Chàng Kim từ lại thư song,

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

Sầu đông càng khắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

Mây Tần khoá kín song the,

250    Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao.

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,

Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.

Buồng văn hơi lạnh như đồng,

Trúc se ngón thỏ, tơ chùng phím loan.

255    Mành Tương phân phất gió đàn,

Hương lây mùi nhớ, trà khan giọng tình.

Ví chăng duyên nợ ba sinh,

Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,

260    Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời gót đi.

Một dòng cỏ mọc xanh rì,

Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!

Gió chiều như gợi cơn sầu,

Vi lau hiu hắt như màu khảy trêu.







Chú Thích:





Câu 244:
Đố ai:  là chỉ Kim Trọng, ý nói Kim Trọng và Thuý Kiều đã có tình ý với nhau thì khi trong thấy bông liễu bay sang đó Kim Trọng gỡ mối tơ mành cho được ("mành": nói về sợi nhỏ).

Câu 245:
Thư song:  chỗ cữa sổ phòng đọc sách, tức phòng đọc sách.

Câu 247:
Sầu đong càng lắc càng đầy:  ý nói sầu nhớ vô cùng, nếu đem mà đong thì càng lắc càng đầy, không vơi đi được. Ca dao có câu: "Ai đi muôn dặm non sông, để ai chất chứa sầu đong vơi đầy". Bản LVĐ chép là: Sầu "đông" càng "khắc" càng đầy.

Câu 248:
Ba thu:  ba mùa thu, tức ba năm. Ta thường lấy mỗi mùa để chỉ một năm như "ba xuân", "ba đông".

Câu 249:
Mây Tần:  Tấn thư có câu: "Tần vân như mỹ nhân" (mây Tần như người đẹp). Ở đây chữ "Tần" chỉ được dùng cho đẹp lời.

Câu 249:
Song the:  cửa sổ có treo màn the.

Câu 250:
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao:  câu này và câu trên có thể hiểu là: Cô Kiều cứ ở hoài trong phòng không ra ngoài nên Kim Trọng chỉ còn cách tìm về trong mộng để gặp mặt người yêu. "Hoa Tiên" cũng có câu: "Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao". "Bụi hồng" trong câu 250 có nghĩa là cảnh phồn hoa náo nhiệt.
  Đường phú có câu: "Hồng trần một đoạn ..."
  (Chiêm bao cách đám bụi hồng ...)
  Xem thêm câu 3046: Còn chen vào chốn "bụi hồng" làm chi?

Câu 254:
Ngón thỏ:  ngòi bút lông thỏ, đầu nhọn.

Câu 254:
Phím loan:  phím đàn gắn bằng keo loan. Cả câu ý nói: Kim Trọng tương tư đến nỗi bỏ cả học tập (bút để khô cả ngọn), chán cả gảy đàn (lâu ngày dây cũng chùng cả đi).

Câu 255:
Mành Tương:  bức mành ngoài đan bằng tre, phía trong kẹp the màu vàng. Sở dĩ gọi là mành Tương vì liên quan đến điển hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh (xem chữ mạch Tương câu 238. Hai bà nghe tin vua Thuấn chết khóc quá thảm thiết, nước mắt vẩy vào các bụi trúc xung quan khiến cho các thân trúc đều thành lốm đốm. Thứ mành làm bằng trúc có vỏ lốm đốm này gọi là "Tương phi trúc".

Câu 256:
Khan giọng tình:  (khan: khô ráo, thiếu) ý nói Kim Trọng vì tương tư Thuý Kiều nên uống trà chẳng thấy ý vị tình tứ gì.

Câu 257:
Ba sinh:  do chữ "tam sinh" là ba kiếp sống của con người (quá khứ, hiện tại, vị lai). Cả câu ý nói Kim Trọng và Thuý Kiều có duyên nợ từ kiếp này qua kiếp khác với nhau phải kết duyên vợ chồng.

Câu 258:
Thói khuynh thành:  thói làm say đắm lòng người. Cả câu ý nói: Nếu không có duyên nợ vợ chồng với nhau thì làm chi mà lại đem sắc đẹp để trêu ngươi như vậy.

Câu 260:
Kỳ ngộ:  sự gặp gỡ kỳ lạ. Từ câu 259 đến câu 264 nói đến việc Kim Trọng trở lại thăm chỗ đã gặp Thuý Kiều hôm đi dự hội đạp thanh (nơi kỳ ngộ) nhưng nay chỉ thấy phong cảnh tiêu điều buồn bã.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:01:42
 
 



265    Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

Lơ thơ tơ liễu buông mành,

270    Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Mấy lần cửa đóng then cài,

Dãy thềm hoa rụng biết người ở đâu?

Tần ngần đứng suốt giờ lâu,

Dạo quanh, chợt thấy mé sau có nhà.

275    Là nhà Ngô Việt thương gia,

Buồng không để đó người xa chưa về.

Lấy điều đạo học hỏi thuê,

Túi đàn, cặp sách đề huề liền sang.

Có cây, có đá, sẵn sàng.

280    Có hiên Lãm Thuý nét vàng chưa phai.

Mừng thầm chốn ấy chữ bài,

Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.

Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

285    Tấc gang đồng toả nguyên phong,

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

Nhẫn từ quán khách lân la,

Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.









Chú Thích:





Câu 266:
Lam Kiều:  Cầu Lam, tên một cái cầu ở huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) do "điển": Ngày xưa, đời nhà Đường, Bùi Hàng gặp nàng Vân Kiều cho một bài thơ trong có câu nói Lam Kiều bản thị thần tiên quật (Lam Kiều là chỗ thần tiên ở). Đến sau, khi đi qua cầu Lam, khát nước, vào hàng uống nước thì thấy nàng Vân Anh rất xinh đẹp, muốn xin cưới làm vợ. Bà mẹ nàng bảo nếu có chày ngọc giã được thuốc tiên xong thì gả cho. Bùi Hàng nhờ mua được chày ngọc nên cưới được Vân Anh. Hôm làm lễ cưới, Bùi Hàng mới nhận ra người đưa cho mình bài thơ chính là chị Vân Anh. Sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên.
"Nẻo Lam Kiều: đây chỉ nhà Thuý Kiều."

Câu 268:
Lá thắm:  do điển "hồng diệp đề thi". Nguyên về đời Đường, Vu Hựu vớt được chiếc lá trôi trên dòng nước từ cung vua ra và đọc thấy có bái thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá đỏ khác, đề hai câu thơ rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Hàn thị bắt được. Về sau, nhân dịp vua thải ba nghìn cung phi, Hàn thị được ra rồi lại tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Một hôm hai người cùng nhắc đến chuyện chiếc lá đề thơ, mới hay là của chính họ. Vì thế, sau này mới dùng điển tích này để nói nhân duyên vợ chồng.

Câu 268:
Chim xanh:  do chữ "thanh điểu", chỉ người đưa tin. Theo Hán Vũ cố sự ngày mồng 7 tháng 7 vua Hán Vũ đế đương ngự triều có ba con chim xanh đến đậu trước điện. Đông Phương Sóc tâu rằng: "Đấy là sứ giả của Tây Vương mẫu đưa tin đến trước. Quả nhiên một lát sau Tây Vương mẫu đến.
Do đó mới gọi người đưa tin là "chim xanh". Cả câu ý nói không có cách gì để liên lạc được với nàng Kiều.

Câu 275:
Ngô Việt thương gia:  người đi buôn nay sang bên Ngô mai về bên Việt, ít khi ở nhà.

Câu 277:
Du học:  đi trọ học.

Câu 278:
Cặp sách:  cái khung gỗ để kẹp sách của các nhà nho xưa.

Câu 280:
Lãm Thuý   : ("lãm": thu góp, "thuý": màu xanh) tên cái hiên. "Hiên Lãm Thuý" là cái hiên ngồi ở đó có thể thu góp vào trong tầm mắt tất cả màu xanh của cây cỏ. Suy ra thì "Lãm Thuý" còn có ngụ ý bắt được, tóm được hai chị em cô Kiều nên Kim Trọng lấy làm mừng lắm.

Câu 283:
Song hồ:  cửa sổ có dán giấy.

Câu 283:
Cánh mây:  cánh cửa. Chữ "mây" dùng cho đẹp lời như khi nói "then mây".

Câu 285:
Đồng toả nguyên phong:  ý nói tuy gần gũi chỉ có gang tấc mà cái khoá đồng cứ khoá mãi không thấy mở.

Câu 286:
Bóng hồng:  bóng Thuý Kiều.

Câu 287:
Nhẫn từ:  ("nhẫn": mãi từ, cho đến) kể từ khi ấy mãi đến nay, mãi từ khi ấy đến nay.

Câu 287:
Quán khách:  tức nhà Kim Trọng thuê để ở trọ.

Câu 288:
Tuần trăng:  mỗi tháng có một tuần trăng, nên tính tháng người ta tính theo tuần trăng.

Câu 288:

Thèm hai:  ý nói chưa bao lâu mà đã gần hai tháng trôi qua rồi.

 

 
 
________________________
 





Cách tường phải buổi êm trời,

290    Dưới đào sai có bóng người thướt tha.

Buông cầm xốc áo vội ra,

Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh!

Lần theo tường gấm dạo quanh,

Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.

295    Giơ tay với lấy về nhà.

"Này trong khuê các, đâu mà đến đây?

Ngẫm âu người ấy báu này,

Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!"

Liền tay ngắm nghía biếng (?) nằm,

300    Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.

Tan sương đã thấy bóng người

Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.

Sinh đà có ý đợi chờ,

Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.

305    "Thoa này bắt được hư không,

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?"

Tiếng Kiều nghe lọt bên kia,

Ơn người quân tử sá gì của rơi.

Chiếc thoa nào của mấy mươi,

310    Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!"

Sinh rằng: "Lân lý ra vào,

Gần đây nào phải người nào xa xôi.







Chú Thích:





Câu 293:
Tường gấm:  tường rào quanh nhà, chữ "gấm" được dùng cho đẹp lời.

Câu 294:
Kim thoa:  cây thoa bằng vàng để cài tóc của phụ nữ.

Câu 296:
Khuê các:  ("khuê": buồng, các: gác) chỉ chỗ ở của phụ nữ giàu có sang trọng.
  Bản Nguyễn Khắc Hiếu đã chép là "Tấc gang động khoá nguồn phong" và đã chú thích là: cửa động khoá mà đầu nguồn niêm phong, nói như cảnh Thiên Thai, Đào Nguyên không dễ lại đến được.

Câu 301:
Tan sương:  buổi sáng sớm, sương mới tan.

Câu 305:
Hư không:  không có cớ gì, tự nhiên mà gây ra. Đây ý nói tình cờ mà Kim Trọng bắt được cái kim thoa của Thuý Kiều. Cái thoa thì cũng nhỏ thôi, làm sao mà Kim Trọng lại tinh mắt "nhác" trông đã "thấy" ngay được? Chắc cả hai cùng có tình ý nên mới xảy ra câu chuyện mất thoa và bắt được như thế. Sao lại gọi là "hư không" được?

Câu 306:
Hợp Phố:  do điển "Hợp Phố châu hoàn". Theo Hậu Hán thư. Trước khi Mạnh Thường được đổi về giữ chức Thái Thú quận Hợp Phố, bọn quận thú ở đây rất tham ô, bắt dân chúng ở đây phải đi mò ngọc trai về cho chúng thật nhiều. Ngọc trai bỏ đi về phía quận Giao Chỉ gần hết. Khi Mạnh Thường về, bãi bỏ tệ tham nhũng, không bắt dân đi mò ngọc trai thì ngọc trai lại trở về Hợp Phố. Do điển này người ta khi muốn nói một vật đã mất lại trở về với chủ cũ là Hợp Phố châu về. Cả câu 306 ý nói: Cái thoa này tự nhiên bắt được, không biết của ai mà đem trả?

Câu 311:
Lân lý:  ("lân": xóm, "lý": làng) xóm làng; đây ý nói chỗ láng giềng hàng xóm với nhau.
 
 
_______________________
 
 





Được rày như chút thơm rơi,

Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!

315    Mấy lâu mới được một ngày,

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là"

Vội về thêm lấy của nhà,

Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.

Bực mây rón bước ngọn tường,

320    Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng sai?

Sượng sùng giữ ý rụt rè,

Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.

Rằng: "Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,

Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.

325    Xương mai tính đã rũ mòn,

Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!

Tháng tròn như gửi cung mây,

Trần trần một phận ấp cây đã liều!

Tiện đây xin một hai điều,

339340    Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?"

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

"Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.

Dù khi lá thắm, chỉ hồng,

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

361362    Nặng lòng xót liễu vì hoa,

Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa!"
 




Chú Thích:




Câu 313:
Chút thơm rơi:  ý nói được gặp nhau hôm nay là chút hương thơm của chiếc kim thoa đánh rơi hôm trước làm mối cho.

Câu 314:
Thiểu não:  buồn rầu vô cùng trong lòng.

Câu 314:
Lòng người:  lòng Kim Trọng.

Câu 316:
Gạn:  hỏi cặn kẽ. "Gan chút": gạn hỏi cặn kẽ một chút.

Câu 316:
Niềm tây:  niềm riêng, nỗi lòng riêng.

Câu 318:
Khăn là:  khăn bằng lụa mỏng.

Câu 319:
Thang mây:  do chữ "vân thê", chỉ cái thang cao bắc lên tường. Chữ "mây" được dùng cho đẹp lời.

Câu 320:
Chẳng nhe:  có phải thế không.

Câu 323:
Ngẫu nhĩ:  cũng như "ngẫu nhiên", ý nói tình cờ không hẹn mà gặp.

Câu 324:
Chồn:  mỏi, nhọc.

Câu 325:
Xương mai:  xương vóc gầy như cây mai.

Câu 325:
Thâu mòn:  ("thâu": từ lâu) từ lâu rồi gầy mòn ốm yếu.

Câu 326:
Lần lừa:  hết ngày này qua ngày khác, đã lâu rồi trông ngóng.

Câu 327:
Gửi cung mây:  ý nói cả tháng trời tâm trí của Kim Trọng như gửi ở cung mây (cung Hằng) tức nơi Thuý Kiều ở.

Câu 328:
Ấp cây:  ôm chặt lấy cây cột ở chân cầu. Theo điển: Vĩ Sinh hẹn với một người con gái cùng gặp nhau ở dưới chân cầu. Người con gái không đến. Vĩ Sinh cứ ôm cây cột chờ mà chịu chết đuối. Câu này ý nói Kim Trọng cứ kiên nhẫn chờ đợi Thuý Kiều bỏ cả học hành.

Câu 330:
Đài gương:  cái giá có để gương cho phụ nữ trang điểm. Đây chỉ người con gái cao sang.

Câu 330:
Dấu bèo:  dịch chữ "bình tung", nói chảnh bèo trôi trên mặt nước chẳng để dấu vết gì.
  Cả câu là lời Kim Trọng nói khiêm mình chỉ là một thư sinh chưa có danh vọng còn lang thang du học không biết có được cô Kiều là bậc cao sang để ý đến không.

Câu 332:
Băng tuyết:  trong trắng như băng tuyết, ý nói con nhà gia giáo theo khuôn phép nghiêm ngặt, không có nghĩ đến sự trăng hoa.
  "Hoa tiên": "Thỉnh quân mạc giảng phong tình sự,
  Khuê môn gia giáo lẫm băng sương".
  (Xin chàng đường giở nguyệt hoa,
  Phép nhà nghiêm nhặt như là băng sương).

Câu 332:
Phỉ phong:  rau phỉ, rau phong là hai thứ rau người ta có thể ăn cả rễ và cọng, nhà nghèo thường ăn. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Cốc phong" ngụ ý nói có bản chất tốt tuy rằng mộc mạc, quê mùa.

Câu 333:
Chỉ Hồng:  do chữ "xích thằng" là sợi dây đỏ. Theo Tục U quái lục, Vi Cố người đời Đường, khi trọ ở Tống Thành có gặp một cụ già ngồi dưới trăng (nguyệt lão) mà xem sách. Vi Cố hỏi cụ những sợi dây đỏ ở trong túi dùng để làm gì. Cụ nói dùng để buộc chân những người sẽ thành vợ chồng với nhau. Do đó hai chữ "chỉ hồng" được dùng để chỉ sự kết duyên của hai người trai gái lấy nhau.

Câu 335:

Xót liễu vì hoa:  ("xót": thương xót, "vì": yêu vì) cây liễu xanh non thường được dùng để ví với người con gái, bông hoa tươi đẹp thường được dùng để ví với người con gái xinh xắn. Đây nói chàng Kim đã nặng lòng yêu thương đến nàng Kiều người con gái yểu điệu như liễu và đẹp như hoa.
 
 

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=14&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 06:10:06 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:06:12
 





Sinh rằng: "Rày gió mai mưa,

Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!

Dù chăng xét tấm tình si,

340    Thiệt ta mà có ích gì đến ai?

Chút chi gắn bó một hai,

Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh.

Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,

Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

345    Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru.

Lặng nghe lời nói như ru,

Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

Rằng: "Trong buổi mới lạ lùng,

350    Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!

Đã lòng quân tử đa mang,

Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung."

Được lời như cởi tấm lòng,

Giở kim châu với khăn hồng trao tay.

355    Rằng: "Trăm năm cũng từ đây,

Của tin, gọi một chút này làm ghi."

Sẵn tay bả quạt hoa quì,

Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.

Một lời gắn bó tất giao,

360    Mái sau dường có xôn xao tiếng người.







Chú Thích:





Câu 337:
Rày gió mai mưa:  nói sự đổi thay bất thường, không phải hôm nào cũng như hôm nào, dễ đâu có cơ hội tốt mà gặp nhau luôn, có thể có những sự trắc trở bất ngờ.

Câu 340:
Thiệt đây:  ý nói thiệt cho Kim Trọng.

Câu 341:
Chút chi gắn bó:  ý Kim Trọng muốn đưa một chút kỷ niệm để gắn bó mối tình giữa hai người: đôi xuyến vàng và chiếc khăn là.

Câu 343:
Khuôn thiêng:  chỉ ông trời như là cái khuôn thiêng đúc ra muôn vật bằng phép màu.

Câu 345:
Lượng xuân:  ý nói tấm lòng rộng lượng như mùa xuân nuôi dưỡng muôn vật; có ý bao dung người khác. Đây chỉ tấm lòng của Thuý Kiều.

Câu 348:
Chiều xuân:  do chữ "tình tứ hoài xuân" phỏng dịch ra. Đây ý nói đến cái vẻ đa tình của Kim Trọng lòng xuân phơi phới.

Câu 348:
Nét thu:  nói cái ánh mắt long lanh đa cảm của Thuý Kiều như nước mùa thu.
  Cả câu ý nói cái vẻ tình tứ của Kim Trọng cũng khiến cho Thuý Kiều phải xúc động trong lòng mà biểu lộ ra trên ánh mắt long lanh tuy vẫn ngại ngùng chưa dám ngỏ lời chấp nhận.

Câu 351:
Đa mang:  ("mang": rối, bộn rộn) bận lòng thương yêu.

Câu 352:
Đá vàng:  đá và vàng đều có tính cách bền vững nên những việc quan trọng cần lưu lại đều được khắc vào đá, vàng hoặc đồng (bia đá, bảng vàng, chuông đồng, đỉnh đồng, ...)

Câu 352:
Thuỷ chung:  trước sau như một, không có sự thay lòng đổi dạ.

Câu 354:
Kim thoa:  chiếc thoa của Thuý Kiều. Bản LVĐ 66 chép là "Kim châu". Cả hai câu 357-358 ý nói Thuý Kiều lúc ấy sẵn trong tay có cái quạt hoa quì đã lấy ngay đưa tặng Kim Trọng để đổi lấy lại cành thoa của mình. "Chữ với" ở đay phải hiểu là đối với. Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch sang tiếng Pháp là: "Kiều avait dans la main un mouchoir en soie brode'et un e'ventail sur lequel e'tait peint un tournesol. Elle e'changea immédiatement ces objets contre I"épingle rendue".

Câu 357:
Bả quạt hoa quì:  (bả: cái chuôi quạt) quạt bằng giấy tốt hoặc bằng lụa có vẽ hoa quì, có thể gập lại được mà phụ nữ thường dùng (không phải là thứ quạt bằng lá bồ quì).

Câu 359:
Tất giao:  sơn và keo, ý nói lời thề thốt gắn chặt mối tình của hai người như keo sơn.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:08:44
 



Vội vàng lá rụng hoa rơi,

Chàng về thư viện, nàng rời lầu trang.

Từ phen đá biết tuổi vàng,

Tình càng thấm thía, lòng càng ngẩn ngơ.

365    Sông dương một dải nông sờ,

Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.

Một tường tuyết điểm sương che.

Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.

Lần lần ngày gió đêm trăng,

370    TƠ hồng rậm lục đã chừng xuân qua.

Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,

Trên hai đường dưới nữa là hai em.

Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,

Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.

375    Nhà hương thanh vắng một mình,

Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.

Thì trân thức thức sẵn bày,

Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.

Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,

380    Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.

Trách lòng hờ hững với lòng,

Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.

Những là đắp nhớ đổi sầu,

Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.



















Chú Thích:





Câu 362:
Dời:  dời chân đi về.

Câu 362:
Lầu trang:  lầu nơi người phụ nữ ở và ngồi trang điểm, đây chỉ phòng ở của Thuý Kiều.

Câu 363:
Đá biết tuổi vàng:  đá thử vàng thì biết được tuổi của vàng, chàng Kim và nàng Kiều từ lúc bày tỏ nỗi lòng của mình đã hiểu tình cảm của nhau nồng thắm đến mực nào.

Câu 365:
Sông Tương:  tức sông Tương Giang ở Trung Quốc, dài hơn hai nghìn dặm, thường được mượn để diễn ý ly biệt, nhớ mong.

Câu 365:
Nông sờ:  cạn. Cả câu ý nói dòng sông tuy cạn mà hai bên vẫn không sang gặp được nhau như bị bức tường tuyết trở sương che khiến tin xuân không sao đi về cho năng được.

Câu 369:
Ngày gió đêm trăng:  ý nói ngày đêm qua đi mà ngày nào đêm nào khi có gió mắt trăng trong cũng đều thương nhớ nhau.

Câu 370:
Thưa hồng rậm lục:  màu hồng của hoa đã thưa bớt, màu xanh của lá đã rậm hơn, ý nói mùa xuân mới vừa qua đi.

Câu 372:
Hai đường:  cũng như "hai thân", tức cha và mẹ của nàng Kiều.

Câu 372:
Hai em:  tức là Thuý Vân và Vương Quan.

Câu 373:
Áo xiêm:  áo mặc che phần thân trên, xiêm mặc che phần thân dưới, chỉ chung bộ y phục.
Câu 935 cũng có bản viết: "cổi xiêm lột áo"

Câu 374:
Biện:  lo liệu mua sắm đồ lễ.

Câu 374:
Tấc thành:  chút lòng thành kính biết ơn của các con đối với cha mẹ.

Câu 375:
Nhà lan:  do chữ "lan thất". Gia ngữ: "Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất" (ở với người tốt như vào nhà có cỏ chi, cỏ lan). Đây nó nhà có đức vọng, mọi người đều ăn ở lương thiện, trong nhà như có mùi hoa thơm. Bản LVĐ chép là "Nhà hương".

Câu 376:
Hội ngộ:  hội họp gặp nhau.

Câu 377:
Thì trân:  những thức ăn quí đương mùa hè đặc biệt là hoa quả.

Câu 377:
Sẵn bày:  ý nói Thuý Kiều bày sẵn ra để sửa soạn mang sang nhà Kim Trọng.

Câu 378:
Gót sen:  got chân của người con gái đẹp.
Xem thêm chú thích câu 190.

Câu 379:
Dặng:  lên tiếng, cũng như nói "hắng giọng" làm hiệu cho Kim Trọng biết.

Câu 382:
Lửa hương:  Kim Trọng nhắc đến lửa hương mà hai người đã đốt để nguyện ước cùng nhau.

Câu 384:
Hoa râm:  nói tóc đã lốm đốm trắng. Cả câu ý nói Kim Trọng vì tương tư mà tóc đã lốm đốm trắng nửa mái đầu.
 
 
______________________
 





385    Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm,

Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.

Vắng nhà được buổi hôm nay,

Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng."

Lần theo núi giả đi vòng,

390    Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.

Sấn tay mở khoá động đào,

Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.

Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,

Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.

395    Sánh vai về chốn thư hiên,

Ngâm lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông.

Trên yên bút giá thư đồng,

Đạm tình một bức tranh tùng treo trên.

Phong sương được vẻ thiên nhiên,

400    Mặn khen nét bút càng nhìn (?) càng tươi.

Sinh rằng: "Phác hoạ vừa rồi,

Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa."

Ngộ khi gió táp mưa sa,

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

405    Khen tài nhả ngọc, phun châu,

"Nàng Ban ả Ta. cũng đâu thế này!

Kiếp tu xưa ví chẳng dày,

Phúc nào thì đổi giá này cho ngang!"










Chú Thích:



Câu 385:
Gió bắt mưa cầm:  ý nói ngày nào cũng bị công việc cản trở không qua chơi được hoặc có người ở nhà không tiện qua chơi được.

Câu 386:
Tri âm:  ("tri": biết, "âm": tiếng) nguyên dùng để nói về người đánh đàn hay mà có người nghe hiểu biết thưởng thức được như Bá Nha với Tử Kỳ. Sau chữ ấy được dùng để chỉ người bạn thân thiết hiểu được lòng nhau.

Câu 388:
Gọi chút sang đây:  Thuý Kiều mang các thì trân sang nhà Kim Trọng gọi là một chút để tạ lòng người yêu.

Câu 389:
Núi giả:  hòn non bộ đắp làm cảnh.

Câu 391:
Động đào:  động có tiên ở. Xem thêm chú thích câu 192.

Câu 392:
Thiên Thai:  tên một hòn núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Truyền rằng xưa kia vào đời nhà Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu đã vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp tiên. Nay trong văn chương thường dùng Thiên Thai để chỉ cảnh tiên.

Câu 393:
Mặt nhìn mặt:  nói nàng Kiều và chàng Kim đối mặt với nhau.

Câu 394:
Vạn phúc:  lời chúc mừng nhau được nhiều phúc lành.

Câu 394:
Hàn huyên:  lạnh ấm, lời hỏi thăm nhau về sức khoẻ xem có bị ảnh hưởng về thời tiết ấm lạnh thay đổi hay không.

Câu 395:
Thư hiên:  ("thư": sách, "hiên": mái hiên nhà ở) chỉ phòng đọc sách.

Câu 396:
Lời phong nguyệt:  lời trăng gió, ý nói chuyện tình yêu thương với nhau.

Câu 397:
Bút giá:  cái giá gác bút.

Câu 397:
Thi đồng:  cái ống đựng giấy, đựng các bài thơ. Bạch Cư Dị làm một cái ống tre đựng thơ của những người xướng hoạ với ông.

Câu 398:
Đạm thanh:  ("đạm": nhạt, "thanh": xanh) màu xanh nhạt.

Câu 399:
Phong sương:  gió và sương, ý nói bức tranh vẽ khéo khiến cho người xem như thấy được sương gió mờ ảo bên cây tùng, tưởng như cảnh thiên nhiên vậy.

Câu 401:
Phác hoạ:  nói bức tranh mới vẽ sơ qua, chưa tô sửa lại.

Câu 402:
Phẩm đề:  đề lời phẩm bình, viết mấy câu thơ bình về bức tranh cho bức tranh có giá trị thêm.

Câu 402:
Thêm hoa:  thêm đẹp, ý nói làm cho đẹp thêm.

Câu 403:
Tay tiên:  tay của người đẹp.

Câu 403:
Gió táp mưa sa:  ý nói làm thơ mau.

Câu 404:
Và bốn câu:  vài bốn câu, tức bài thơ tứ tuyệt.

Câu 405:
Nhả ngọc phun châu:  ý khen thơ nàng Kiều hay mà làm lại mau như nhả ngọc phun châu.

Câu 406:
Nàng Ban:  nàng Ban Chiêu đời Đông Hán, học rộng tài cao, có soạn tập "Nữ giới" rất nổi tiếng đã được vua Hoà Đế cử soạn tiếp bộ "Hán thư".

Câu 406:
Ả Tạ:  nàng Tạ Đào Uẩn đời Tấn, nổi tiếng thông minh, có tài biện luận và giỏi thơ văn.
Cả câu ý nói nàng Ban ả Tạ dù có tài giỏi cung không hơn được Thuý Kiều.

Câu 408:

Đổi được:  ý nói ngang bằng để có thể đổi được. Cả hai câu 407-408 là lời chàng Kim: "Nếu kiếp trước ta không tu nhân tích đức cho đầy đặn thì kiếp này phúc đâu mà được sánh duyên với nàng".

 
_____________________



Nàng rằng: "lẫm liệt dung quang,

441    Chẳng sân ngọc bội thì phường kim môn.

Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,

Khuôn xanh đã biết vuông tròn mà hay?

Nhớ từ năm hãy thơ ngây,

Có người tướng sĩ đoán ngay một lời.

465    Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

Trông người lại ngắm đến ta,

Một dày, một mỏng, biết là có nên?"

Sinh rằng: "Giải cấu là duyên,

485
    Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.


DÙ đâu giải kết đến điều,

Thì đem vàng đá mà liều với thân!"

Đủ điều khúc lý ân cần,

Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng.

505506    Ngày vui ngắn chẳng thủ gang,


Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.

Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,

Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa.

Đến nhà vừa thấy tin nhà,

529530    Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.


Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

______________

Chú Thích:





Câu 410:
Ngọc bội:  cái bài bằng ngọc, chỉ hạng người hiển đạt, làm quan và có danh vọng.

Câu 410:
Kim môn:  tức Kim Mã môn, tên một cửa cung Vị Ương đời Hán, các quan học sĩ đợi để nhận chiếu chỉ của nhà vua; đây dùng để chỉ những bậc văn tài được trọng dụng bổ ra làm quan trong triều đình.

Câu 412:
Khuôn xanh:  tức ông trời, do những chữ "thương thương" (xanh xanh) và "đào trú" (khuôn đúc) mà dịch ra.

Câu 415:
Anh hoa:  vẻ đẹp của hoa cỏ, cái vẻ tinh anh tốt đẹp của con người.

Câu 418:
Một dày một mỏng:  câu này ý nói chàng Kim phúc lộc dày dặn, còn nàng Kiều phúc phận mỏng manh chẳng biết có thành được vợ chồng không.

Câu 419:
Giải cấu:  ("cấu": gặp) tình cờ không hẹn mà gặp nhau.

Câu 421:
Giải kết:  ("giải": cởi, "kết": mối buộc) cởi bỏ mối kết ước của hai người không cho thành vợ chồng.
Cổ thi: "Thương thiên nhược giải đồng tâm kết, kim thạch vĩ minh ngã dữ quân" = Trời xanh dầu tháo dải đồng, đá vàng ta vẫn một lòng với ai.

Câu 423:
Trung khúc:  ("trung": tấm lòng, "khúc": cong) những nỗi tâm tư khuất khúc ở trong lòng.

Câu 424:
Chén xuân:  chén rượu gợi tình xuân. Cả hai câu 423-424 ý nói khi đã trò chuyện cùng nhau đủ điều rồi thì sinh ra tấm lòng luyến ái, nhất là khi men rượu đã làm cho chếnh choáng ngà ngà say.

Câu 426:
Ác:  con quạ, chỉ mặt trời. Tương truyền trên mặt trời có con quạ nên gọi mặt trời là kim ô (ác vàng).

Câu 426:
Non đoài:  núi ở phía tây.

Câu 428:
Song sa:  cửa sổ có treo màn sa hoặc màn the.
 
 
__________________
 



Nhặt thưa, gương rọi bóng cành,

Ngọn đèn trông thấy trướng huỳnh hắt hiu.

605    Sinh vừa tựa án thiu thiu.

Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê.

Tiếng lên sẽ động giấc hoè,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.

Bâng khuâng đỉnh núi non Thần,

624    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa, cho phải đổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"

635    Vội mừng làm lễ liền vào,

Đài sen nối sáp, song đào thêm hương.

Tiên thề cùng thảo một trương,

Tóc mây một ước, dao vàng chia hai.

Vầng trăng vằng vặc trong trời,

658    Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Chén hà sánh giọng quỳnh tương,

Giải the hương lộn, bình gương bóng lồng.

698699    Sinh rằng: "Gió mát trăng trong,

Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.










Chú Thích:


Câu 433:
Gương:  tức gương nga, chỉ mặt trăng.

Câu 434:
Trướng huỳnh:  ("huỳnh": con đom đóm) chỉ phòng đọc sách, phòng học của Kim Trọng, lấy tích Xa Dận bắt đom đóm làm đèn mà đọc sách.

Câu 437:
Tiếng sen:  tiếng bước chân đi (xem chú thích câu 190).

Câu 437:
Giấc hoè:  do chữ "Hoè An mộng". Điển ấy như sau: Mé nam nhà Thuần Vu Phần (đời Đường) có một cây hoè. Một hôm ông nằm ngủ dưới gốc cây ấy thì chiêm bao thấy vua nước Hoè An gả công chúa cho và cử làm thái thú quận Nam Kha, sống thật sung sướng hiển vinh. Khi tỉnh dậy chỉ thấy ở dưới gốc cây môt tổ kiến. Thuần Vu Phần ngẫm ra đó là nước Hoè An còn quận Nam Kha chỉ là một cái hang ở tận trong cùng.
Do điển đó về sau người ta thường dùng "giấc hoè" hay "giấc Nam Kha" để nói rằng phú quí ở đời cũng chỉ là hư ảo như giấc mộng mà thôi. (Giấc Nam Kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không).

Câu 438:
Hoa lê:  ví nàng Kiều. Cả câu ý nói lúc đêm khuya, trăng đã xế nàng Kiều lại gần Kim Trọng khi ấy còn đương "dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê".

Câu 439:
Đỉnh Giáp non Thần:  đỉnh núi Vu Giáp, nơi Sở Hoài Vương có lần đến Cao Đường mộng thấy người đàn bà đẹp tự xưng là thần núi, sớm làm mây tối làm mưa, đến xin hầu chăn gối. Do điển này về sau người ta thường dùng "đỉnh Giáp non Thần" để chỉ việc nằm mơ thấy người đẹp và chữ "mây mưa" để chỉ việc ái ân giữa trai gái.
Câu 439 ý nói Kim Trọng đương mơ màng nửa tỉnh, nửa mê khi Thuý Kiều đến thì có cảm tưởng như thấy thần nữ đến. Chữ (hạp, hiệp) thường đọc là giáp.

Câu 442:
Đánh đường:  tìm đường, có ngụ ý hơi liều lĩnh.

Câu 442:
Vì hoa ... tìm hoa:  chữ "hoa" đây chỉ Kim Trọng.

Câu 446:
Đài sen:  cái giá căm nến có cái đài hình hoa sen để đỡ lấy những giọt nến chảy xuống.

Câu 446:
Song đào:  các bản nôm đều viết chữ song là song cửa. Thế thì phải giảng là cửa sổ có trồng cây đào một bên ở ngoài sân (không thể giảng là cái bình hương làm theo kiểu hình hai quả đào). Cả câu này có thể hiểu là Kim Trọng đã nối thêm sáp (nến) ở cái đào sen và bỏ thêm trầm vào cái lư hương để ở bên cửa sổ, phía ngoài sân có trồng cây đào. (Xem thêm ở câu 2852).

Câu 447:
Tiên thề:  tờ giầy chép lời thề của hai người viết trên giấy hoa tiên.

Câu 450:
Đinh ninh:  nói đi nói lại cho cặn kẽ, cho chắc chắn.

Câu 451:
Tóc tơ:  kẽ tóc chân tơ, nói hết từng tí không bỏ sót điều gì.

Câu 452:
Chữ đồng:  chữ đồng tâm, cùng một lòng một dạ với nhau.

Câu 453:
Chén hà:  chén rượu bằng ngọc màu đỏ như sắc ráng trời chiều.

Câu 453:
Quỳnh tương:  ("quỳnh": ngọc quỳnh, "tương": thứ rượu) thứ rượu ngon quí như nước ngọc, như rượu tiên.

Câu 454:
Dải là hương lộn:  ý nói khi hai người ngồi gần nhau thì mùi hương ở dải lưng bằng lụa toả lên lẫn vào hai người.

Câu 454:
Bình gương:  bức bình phong có gắn tấm gương.

Câu 454:
Bóng lồng:  khi hai người ngồi kề bên nhau thì bóng của hai người lồng chiếu vào trong gương.

Câu 456:
Một chút lòng chưa cam:  (cam = thoả) ý Kim Trọng muốn nói từ lâu nghe tiếng Thuý Kiều giỏi đàn mà chưa được thưởng thức tài nghệ nên chưa được thoả lòng mong ước.
 
_____________
 





Chày sương chưa nện cầu Lam,

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"

Nàng rằng: "Hồng diệp xích thằng,

808    Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,

Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai."

Chàng rằng: "nghe nổi Cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ."

827    Thưa rằng: "Tiện kỹ sá chi!

Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng."

Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

Vội vàng sinh đã cầm nâng ngang mày.

Nàng rằng: "Nghề mọn riêng tay,

850    Làm chi cho nặng lòng này lắm thân?"

So dần dây vũ dây văn,

Bốn dây to nhỏ theo vần cung vấn.

Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.

877    Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,

Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!

Kê Khang này khúc Quảng lăng.

Một rằng lưu thuỷ, hai rằng hành vân.

Quá quan này khúc Chiêu Quân,

908    Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.









Chú Thích:





Câu 457:
Chày sương:  chày giã thuốc huyền sương mà bà mẹ của Vân Anh đòi hỏi Bùi Hàng phải tìm cho được để làm đồ dẫn cưới (xem chú thích câu 266).

Câu 457:
Chưa nện cầu Lam:  ý nói chưa có chày ngọc để giã thuốc huyền sương thì chưa thành vợ chồng, chưa thực kết duyên làm vợ chồng.

Câu 458:
Sờm sỡ:  suồng sã, không còn e lệ gì, sỗ sàng khi tỏ tình. Câu này là lời nói của Kim Trọng nên chàng mới không bị nghi là muốn điều nguyệt nọ hoa kia với nàng Kiều, vì biết tự kiềm chế mình.

Câu 459:
Hồng diệp:  lá đỏ, lá thắm (xem chú thích câu 268).

Câu 459:
Xich thằng:  tơ đỏ, chỉ hồng (xem chú thích câu 333).

Câu 460:
Tương tri:  cùng biết lòng nhau.

Câu 463:
Cầm đài:  cái đài ngồi gảy đàn. Các người gảy đàn danh tiếng thường có một cầm đài. Bá Nha có cầm đài ở huyện Lỗ Sơn, tỉnh Hà Nam.

Câu 464:
Nước non ... Chung Kỳ:  theo điển Bá Nha - Chung Tử Kỳ. Bá Nha thời Xuân Thu là một người giỏi đàn. Một hôm Bá Nha gảy đàn cho Chung Tử Kỳ nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến non cao mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn cao vòi vọi, chắc chí bác đang ở non cao" ("Thiện tai! Nguy nguy hồ chí tại cao sơn"). Khi Bá Nha nghĩ đến nước chảy mà gảy thì Tử Kỳ bảo: "Hay lắm! Tiếng đàn nghe cuồn cuộn, chắc bác đang để chí vào chỗ nước chảy". ("Thiện tai! Dương dương hồ chí tại lưu thuỷ"). Đến khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho đời không còn ai hiểu được tiếng đàn (tri âm) cảu mình. Chữ "nước non" đây là mượn chữ "cao sơn", "lưu thuỷ" ý nói điều hiểu được ý nghĩa của từng tiếng đàn cao thấp.

Câu 465:
Tiện kỹ:  nghề mọn, lời nói khiêm tốn của Thuý Kiều.

Câu 467:
Cầm trăng:  tức nguyệt cầm, cây đàn nguyệt.

Câu 468:
Ngang mày:  nâng cây đàn cao ngang tầm mắt tỏ ý quí trọng.

Câu 470:
Lắm thân:  lắm ru, lắm thay.

Câu 471:
Dây vũ:  dây to, thường gọi là dây dài.

Câu 471:
Dây văn:  dây nhỏ, thường gọi là dây tiếu.

Câu 473:
Hán Sở chiến trường:  bãi chiến trường giữa quân Hán và quân Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao Tổ) và Hạng Võ (Sở Bá Vương) cùng khởi binh đánh Tần, sau lại tranh nhau thiên hạ, đánh nhau nhiều trận kịch liệt.

Câu 474:
Tiếng sắt tiếng vàng:  tiếng khí giới bằng sắt, bằng đồng va chạm nhau.

Câu 475:
Tư mã Phượng cầu:  Tư mã Tương Như, người đời Hán, một hôm đến nhà Trác Vương Tôn dự tiệc. Tương Như có gảy một khúc đàn Phượng cầu hoàng để tỏ tình với con gái Trác Vương Tôn là nàng Văn Quân. Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy nàng bỏ nhà trốn theo Tương Như.

Câu 476:
Như oán như sầu:  ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe có vẻ buồn rầu ai oán như tiếng đàn của Tư mã Tương Như khi gảy khúc Phượng cầu hoàng.

Câu 477:
Kê Khang:  Kê Khang, người đời Tam Quốc, một đêm gảy đàn ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới, dạy cho khúc Quảng lăng tán, âm điệu tuyệt hay.

Câu 477:
Quảng lăng:  tên của khúc đàn, nay không được lưu truyền nữa. Cả câu ý nói tiếng đàn của Thuý Kiều nghe ra thanh thoát nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi.

Câu 479:
Quá quan:  qua cửa ải, khi Chiêu Quân bị cống sang Hổ.

Câu 479:
Chiêu Quân:  tên tự là Vương Tường, cung nữ thời Hán Nguyên đế vì không chịu lo lót với Mao Diên Thọ nên bị gả cho chúa Thiền Vu.Khi Chiêu Quân vào bái biệt, nhà vua mới biết là nàng đẹp có ý muốn lưu lại nhưng không được nữa. Khi qua cửa ải, Chiêu Quân có gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ lòng nhớ nước nhớ nhà vô hạn.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 03:34:46 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:12:04





Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như nước suối mới sa nửa vời.

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau phơi phới như trời đổ mưa.

485    Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,

Khiến người ngồi đấy mà ngơ ngẩn sầu.

Khi tựa gối, khi cúi đầu,

Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.

Rằng: "Hay thì thực là hay,

490    Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!

SO chi những bực thanh tao.

Thiệt lòng mình cũng háo hao lòng người."

Rằng: "Quen mất nết đi rồi,

Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!

495    Lời vàng vâng lĩnh ý cao,

Hoạ dần dần bớt chút nào được không?"

Hoa hương càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu.

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

500    Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

Thưa rằng: "Đừng lấy làm chơi,

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!

Vẻ chi một đoá đào yêu,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.







Chú Thích:





Câu 482:
Đục:  tiếng đục.
  Các bản nôm đều viết thì phải đọc là đục mới đúng. Không thể đọc là dục hay giục được (Chữ (dục) và chữ , (giục) viết khác hẳn). Đục đây là tiếng nước suối đổ xuống nửa chừng nghe không được trong chứ không phải nước suối đục. Nếu dùng chữ nước thì cũng sai.

Câu 483:
Khoan:  nói tiếng đàn gảy chậm lại, không mau, thong thả, khoan thai.

Câu 487:
Tựa gối:  chữ "gối" bản nôm KOM viết (có nghĩa là cái gồi tựa), bản QVĐ viết ( có nghĩa là đầu gối). Chữ quốc ngữ viết "gối" thì không phân biệt được. Ở đây nên hiểu là cái gối tựa cho được tao nhã hơn. Cả câu có thể hiểu là chàng Kim nghe Kiều gảy đàn sinh ra ngơ ngẩn, khi thì tỳ khuỷu tay vào gối tựa, khi thì cúi đầu xuống để lắng nghe cho thật chú ý hơn...

Câu 488:
Chín khúc:  chín khúc ruột.

Câu 491:
Tiêu tao:  buồn bã, sầu thảm. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "Thanh tao".

Câu 492:
Dột:  ủ dột, rầu rĩ.

Câu 492:
Nao nao:  ý nói trong lòng bị xúc cảm mà trở nên xao xuyến. Cả đoạn này là lời Kim Trọng nhận xét về tiếng đàn của Thuý Kiều: Khúc đàn hay thì có hay thật nhưng mà sầu thảm quá nó làm cho chính lòng Thuý Kiều cũng phải ủ dột mà người nghe thì cũng thấy buồn rầu lây. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "háo hao".

Câu 495:
Lời vàng:  lời khuyên bảo quí báu.

Câu 497:
Hoa hương:  ý nói cái vẻ đẹp của người con gái như bông hoa còn nguyên nhị.

Câu 497:
Thức hồng:  sắc đẹp ửng hồng vì e thẹn.

Câu 499:
Sóng tình:  tình yêu dào dạt ở trong lòng như sóng cuộn lên.

Câu 499:
Xiêu xiêu:  ngả về một bên, ý nói xiêu dần tới chuyện lả lơi âu yếm.

Câu 500:
Lả lơi:  cử chỉ đùa cợt suồng sã (của Kim Trọng đối với Thuý Kiều). Cả câu ý nói trong cử chỉ âu yếm đối với Thuý Kiều, Kim Trọng đã có ý muốn ép liễu nài hoa.

Câu 502:
Dẽ:  hãy tránh ra một bên. Chữ này cho ta thấy rõ thái độ lả lơi của Kim Trọng trước đó.

Câu 503:
Yêu đào:  đào non, chỉ người con gái trẻ đẹp, đến tuổi lấy chồng. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Đào yêu" (Chu Nam): Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. Chi tử vu qui, nghị kỳ thất gia = cây đào tơ xanh tươi, hoa nhiều chi chít. Nàng ấy đi lấy chồng, thì chắc êm ấm cảnh gia đình.

Câu 504:
Vườn hồng:  ví với sắc đẹp của người con gái.

Câu 504:
Chim xanh:  ví với người con trai đương tuổi thanh xuân, cả câu là lời Thuý Kiều muốn nói mình có chút nhan sắc đâu dám ngăn cấm ai dòm ngó cũng như vườn hồng vẫn để cho chim xanh được vào ra đưa tin. Ý này cũng tương tự như ý của câu ca giao: Gặp đây mận mới hỏi đào, vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa: vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:14:27
 





505    Đã cho vào bậc bố kinh,

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Ra tuồng trên Bộc, trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi!

Phải điều ăn xổi ở thì.

510    Rằng trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên đã chán chường yến anh.

515    Trong khi tựa cánh trên cành,

Mà lòng ngâm nghe đã trình một phen!

Mái tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,

520    Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân ắt cũng đền bồi có khi."

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

525    Bóng tàu vừa lạt vẻ sân,

Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.

Nàng thì vội trở buồng đào,

Sinh thì dạo bước sân đào vội ra.







Chú Thích:





Câu 505:
Bố kinh:  ("bố": vải, "kinh": gai) do chữ "bố quần kinh thoa" là quần vải thoa gai, chỉ người vợ hiền vì xưa kia nàng Mạnh Quang, vợ của Lương Hồng (người đời Đông Hán), chỉ dùng những thứ đồ giản dị ấy.

Câu 506:
Đạo tòng phu:  đạo của người đàn bà khi lấy chồng trước hết là phải giữ lấy chữ trinh làm đầu và phải phục tòng chồng trong cuộc sống chung.

Câu 507:
Trên Bộc trong dâu:  trong bãi dâu, trên bờ sông Bộc ở nước Vệ, trai gái thường hẹn hò nhau để làm chuyện tà dâm.

Câu 509:
Ăn xổi ở thì:  ý nói tạm bợ, không tính tới chuyện lâu dài về sau. ("xổi": tạm bợ để cho có mà dùng ngay: dưa muối xổi, buôn xổi).

Câu 512:
Thôi Trương:  ("Thôi": Thôi Oanh Oanh, "Trương": Trương Quân Thuỵ). Trương sinh, người đời Đường gặp nàng Thôi ở chùa Phổ Cứu. Hai bên đi lại với nhau thân thiết. Sau chàng Trương phụ tình Oanh Oanh đi lấy người khác.

Câu 513:
Mây mưa:  nói việc trai gái ân ái với nhau.
  Xem chú thích câu 439.

Câu 513:
Đá vàng:  lời hẹn ước thuỷ chung với nhau được ghi tạc vào vàng đá. Cả câu ý nói vì sự ân ái trước nên không giữ được mối tình cho chung thuỷ.

Câu 514:
Chán chường yến anh:  chán bỏ tình yêu đương. Cả câu ý nói nàng Thôi vì sớm chiều chàng Trương, tự do ân ái, nên sau chàng Trương mới chán mà bỏ nàng Thôi.

Câu 515:
Chắp cánh liền cành:  ý nói thề nguyền chung thuỷ cùng nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Chữ lấy trong bài "Trương hận ca" của Bạch Cự Dị : "Tị dực điểu, liên lý chi".

Câu 517:
Mái tây:  dịch ở chữ "Tây sương" là mái tây chùa Phổ Cứu nơi Thôi Oanh Oanh gặp Trương Quân Thuỵ ở đó.

Câu 519:
Gieo thoi:  ném cái thoi dệt vải. Theo Tấn thư, Tạ Côn đời Tấn thường hay trêu ghẹo cô hàng xóm; có lần đã bị cô lấy con thoi ném vào mặt làm gẫy mất hai răng. Sau người ta dùng chữ "gieo thoi" để chỉ thái độ người con gái biết giữ mình để bảo toàn tiết hạnh.

Câu 525:
Bóng tàu:  bóng mái nhà.

Câu 525:
Vẻ ngân:  vẻ bạc của ánh trăng. Cả câu ý nói bóng của mái nhà in trên sân đã không còn đậm nữa vì ánh trăng đã bị mờ đi khi trời dần sáng.

Câu 526:
Cửa ngăn:  cổng ngõ, của ngoài đường cái, ngăn cách sân với ngoài đường, thuộc nhà Kim Trọng.

Câu 528:
Sân đào:  sân có trồng cây đào ở bên cửa sổ. Xem chú thích câu 446: chữ "song đào".
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:17:56
 





Cửa sài vừa ngỏ then hoa,

530    Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang.

Đem tin thúc phụ từ đường,

Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề

Liêu Dương cách trở sơn khê,

Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.

535    Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,

Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.

Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,

Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi:

Sự đâu chưa kịp đôi hồi,

540    Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,

Trăng thề còn đó trơ trơ,

Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.

Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,

Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!

545    Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây vẻ trời."

Tai nghe ruột nổi bời bời,

Nhẩn nha nàng mới giãi lời trước sau.

Ông tơ ghét bỏ chi nhau,

550    Chưa vui sum họp đã sầu pha phôi.

Cùng nhau trót đã nặng lời,

Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ.








Chú Thích:





Câu 529:
Cửa sài:  dịch ở chữ "sài môn" là cửa làm bằng những cành cây ghép lại hoặc bằng những thanh tre, thanh trúc.
  "Cửa sài": chỉ là một từ ước lệ đối với chữ "then hoa".

Câu 529:
Then hoa:  then cửa, chữ "hoa" được dùng cho đẹp lời.

Câu 530:
Gia đồng:  trẻ nhỏ đi ở trong một gia đình quyền quí thời trước.

Câu 531:
Thúc phụ:  chú ruột.

Câu 532:
Lữ thấn:  chết ma chưa chôn, quan tài còn quàn ở đất khách.

Câu 532:
Tha hương:  làng khác, chỉ nơi đất khách quê người.

Câu 532:
Đề huề:  ("đề": cầm, huề: dắt) dắt díu nhau; đây có nghĩa là cùng đi đón linh cữu về.

Câu 533:
Liêu dương:  tên huyện thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Chú ruột Kim Trọng mất ở đó.

Câu 533:
Sơn Khê:  núi khe, núi sông.

Câu 534:
Xuân đường:  nhà xuân, chỉ người cha. Cây xuân là thứ cây sống rất lâu nên ai cũng mong cho cha được thọ như vậy.

Câu 534:
Hộ tang:  giúp việc tang, lo việc chôn cất.

Câu 535:
Mảng tin:  nghe tin, mới nghe tin, thoạt nghe tin.

Câu 536:
Đài trang:  chỗ ở của người con gái.

Câu 539:
Đôi hồi:  giãi bày.

Câu 540:
Trao tơ:  lấy tích trong sách Thiên Bảo: đời Đường, quan tể tướng Trương Gia Trinh có năm con gái muốn kén rể. Ông cho năm cô đứng sau bức màn và cho mỗi người cầm một sợi tơ thòng ra phía trước rồi bảo Quách Nguyên Chấn rút được sợi tơ của cô nào thì gả cho cô ấy. Nguyên Chấn rút được sợi tơ đỏ của người con gái thứ ba.
  Một lời trao tơ là một lời đính hôn với nhau.

Câu 543:
Nghìn dặm... ba đông:  câu này ý nói xa cách nhau ở ngoài ngàn dặm mà phải đợi đến ba năm mới gặp nhau lại được.

Câu 545:
Cho hay:  cho khéo, ý nói hãy cẩn thận giữ lấy tấm thân quí như vàng và trọng như ngọc.

Câu 549:
Ông tơ:  ông lão cầm sợi tơ hồng để xe duyên cho trai gái lấy nhau. Xem chú thích câu 333.

Câu 552:

Lòng tơ:  lòng tơ kết ước với nhau.
 
 
 


sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:22:19
 
 





Quản bao tháng đợi năm chờ.

Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.

555    Đã nguyền hai chữ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm đợi ai.

Còn non, còn nước, còn dài,

Còn về còn nhớ đến người hôm nay!

Dùng dằng chưa nỡ rời tay,

560    Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.

Ngại ngùng một bước một xa,

Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.

Buộc yên quảy gánh vội vàng,

Mối sầu sẻ nửa, bước đàng chia hai.

565    Vui nội phong cảnh quê người,

Đầu cành quyên nhặt, cuô'i trời nhạn thưa.

Não người cữ gió tuần mưa,

Một ngày nặng gánh tương tư một người.

Nàng thì đứng tựa hiên tây,

570    Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.

Trông chừng khói ngất song thưa,

Hoa trôi chắc (trác) thắm, liễu xơ xác vàng.

Tần ngần dạo gót lầu trang,

Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về.

575    Hàn huyên chưa kịp dã dề,

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.







Chú Thích:





Câu 554:
Người ăn gió nằm mưa:  là nói người khách đi đường xa, phải xông pha mưa gió. Đây chỉ Kim Trọng.

Câu 555:
Đồng tâm:  cùng một lòng với nhau.

Câu 556:
Ôm cầm thuyền ai:  ôm đàn sang thuyền người khác mà gảy. Cả câu ý nói dẫu thế nào cũng chẳng bao giờ lấy người khác.

Câu 560:
Vầng đông:  vầng mặt trời mọc ở phía đông.

Câu 562:
Châu sa:  nước mắt rơi xuống. Xem chú thích câu 82.

Câu 563:
Buộc yên, quảy gánh:  ý nói tên gia đồng buộc lại yên ngựa cho cẩn thận rồi gánh đồ hành trang đi theo sau Kim Trọng.

Câu 566:
Đầu cành quyên nhặt:  ("nhặt": mau, liền, trái với thưa) đầu cành chim quyên đã hót nhiều.

Câu 566:
Quyên:  chim quyên tức đỗ quyên. Theo Từ Hải, Từ Nguyên và Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển thì "đỗ quyên" là loại chim leo cây (phan cầm loại). Tiếng chim quyên nghe buồn khiến lữ khách dễ động lòng nhớ nhà.
  Tương truyền vua nước Thục là Đỗ Vũ thông dâm với vợ Biết Linh và truyền ngôi cho Biết Linh, rồi bỏ nước mà đi. Sau khi thác, Thục đế hoá thành chim đỗ quyên, ngày đêm nhớ nước, kêu mãi không thôi. Chim đỗ quyên còn gọi là tử qui hay đỗ vũ). Nếu tính từ khi Kim Trọng gặp Thuý Kiều vào dịp tảo mộ:
  "Thanh minh trong tiết tháng ba"
  và thời gian hai tháng Kim Trọng thuê nhà ở bên vườn Thuý:
  "Nhẫn từ quán khách lân la,
  Tuần trăng thấm thoát nay đà them hai".
  thì Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú đã vào ở cuối hè sang thu rồi.
  Nhưng nếu chiếu lại

Câu 566:
Cuối trời nhạn thưa:  ("nhạn": con ngỗng trời, con mòng), ở cuối chân trời những đàn chim nhạn (ngỗng trời) bay đi đã ít dần. Cả câu tả cảnh cuối mùa hạ, sang đầu mùa thu, nhưng nếu đối chiếu với câu 370 thì lại không đúng hẳn.

Câu 567:
Cữ gió tuần mưa:  (năm ngày là một cữ, mười ngày là một tuần) ý nói thương chàng Kim đi đường phải dãi dầu mưa gió lâu ngày mệt nhọc.

Câu 570:
Chín hồi:  ý nói trong lòng bối rối như chín khúc tơ vò.

Câu 572:
Trôi trác:  từ cổ có nghĩa như trôi giạt. Chữ "trôi trác" là từ kép được dùng để đối với "xơ xác" cũng là một từ kép. Nếu dùng chữ "trôi giạt" thì đối lại không được chỉnh.

Câu 573:
Lầu trang:  chỗ đàn bà con gái ở.

Câu 574:
Ngoại hương:  quê ngoại.

Câu 575:
Hàn huyên:  lạnh ấm. Khi gặp nhau, người ta thường hỏi thăm nhau có mạnh khoẻ không. Nói chung ra là những câu chuyện tâm phúc giữa hai người khi gặp nhau.

Câu 575:
Dã dề:  chào hỏi niềm nở, hỏi thăm vồn vã.

Câu 576:
Sai nha:  các thông lại và lính lệ ở các phủ huyện sai khiến đi để làm một việc gì.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:25:45
 





Người nách thước, kẻ tay đao,

Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như lôi.

Già giang một lão một trai,

580    Một dây vô lại buộc hai thâm tình.

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh.

Rụng rời giọt liễu, tan tành cội mai.

Đổ tế nhuyễn, của riêng tay,

Sạch sành sanh quét cho đầy túi tham

585    Điều đâu bay buộc ai làm,

Này ai đan rập, giật giàm bỗng dưng.

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ.

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ.

590    Tiếng oan dậy bảo, án ngờ dựng mây.

Hạ từ van vái trót ngày,

Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.

Rường cao rút ngược dây oan,

Dẫu người đá cũng nát gan lọ người.

595    Mặt trông đau đớn rụng rời,

Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.

Một ngày lạ thói sai nha,

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.

Sao cho cốt nhục vẹn tuyền.

600    Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?







Chú Thích:





Câu 577:
Nách thước:  cặp thước ở bên nách.

Câu 577:
Tay đao:  cầm đao trong tay.

Câu 578:
Đầu trâu mặt ngựa:  chỉ bọn sai nha có bộ dạng hung dữ độc ác như bọn quỉ sứ ở dưới âm phủ có đầu trâu mặt ngựa.

Câu 579:
Già giang:  ("già": cái gông) cái gông đóng lấy cổ phạm nhân.

Câu 580:
Vô lại:  hoang tàn liều lĩnh, không còn đạo đức gì, không còn có nhân nghĩa gì. Bản LVĐ chép là "vô loại" thì có thể giảng là không ra cái giống gì, không biết phải trái, không có lương tâm gì.

Câu 580:
Thâm tình:  tình sâu xa giữa cha con Vương ông và Vương Quan.

Câu 581:
Ruồi xanh:  con nhặng. Kinh Thi: "Thương dăng chi thanh": tiếng những con ruồi xanh, ý nói đến những tiếng khả ố của bọn sai nha vang ầm nhà như đàn nhặng vậy.

Câu 582:
Khung dệt... gói may:  câu này bản LVĐ 66 chép là Rụng rời giọt liễu, tan tành cội mai ý nói bọn sai nha đột nhập vào nhà, phá phách tam tành cả đồ đạc, chẳng còn nương tay gì.
  Tản Đà có nhận xét: "Có bản viết là "Rụng rời giậu liễu, tan tành cội mai". Song những lời giải đều không thông, và "mai" vời "liễu" là những tiếng đặt lấy đẹp lời, không hợp dùng ở trong câu đây."

Câu 583:
Tế nhuyễn:  ("tế": nhỏ, "nhuyễn": mềm) đồ nhỏ nhặt ở trong nhà và đồ quần áo của đàn bà con gái.

Câu 585:
Bay buộc:  tai bay vạ buộc.

Câu 586:
Đan dậm:  đồ đan bằng tre, có miệng rộng hình bầu dục và có cán cầm dùng để đánh bắt tôm cá. Bản LVĐ chép là "đan dập".

Câu 586:
Giật giàm:  giật cái bẫy để bắt các con thú hoặc bắt các con chim.

Câu 588:
Xưng xuất:  khai ra.

Câu 590:
Loà mây:  ý nói án kia còn chưa rõ ràng, vẫn còn ngờ vực như bị mây che phủ. Bản LVĐ chép là "dựng mây".

Câu 591:
Hạ từ:  nói lời hạ mình để van xin, kêu oan.

Câu 591:
Van vỉ:  kêu xin năn nỉ. Bản LVĐ chép là "van vái".

Câu 592:
Phũ tay tồi tàn:  phũ phàng đánh đập tàn nhẫn.

Câu 593:
Rường:  cái xà nhà.

Câu 593:
Dây oan:  dây trói người một cách oan ức.
  Câu này ý nói bọn sai nha trói và treo ngược hai chan con Vương ông và Vương Quan lên xà nhà.

Câu 597:
Lạ thói:  không lạ gì cái thói.

Câu 599:
Cốt nhục:  xương thịt, ý nói tình cha con, anh em cùng một dòng máu.

Câu 600:
Ngộ biến tòng quyền:  ("quyền": phép đỗi xử trong lúc có biến) gặp lúc biến thì phải tuỳ theo hoàn cảnh mà đối phó cho thích hợp.
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=25&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:27:54
 
 





Duyên hội ngộ, đức cù lao.

Chữ tình Chữ hiếu, bên nào nặng hơn?

Để lời thệ hải minh sơn,

Làm con, trước phải đền ơn sinh thành.

605    Quyết tình nàng mới hạ tình:

"Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!"

Họ Chung có kẻ lại già,

Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.

Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,

610    Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.

Tính bài lót đó luồn đây,

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Hãy về tạm phó giam ngoài,

Nhủ nàng qui liệu trong đôi ba ngày

615    Thương lòng con trẻ thơ ngây,

Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!

Đau lòng tử biệt sinh ly,

Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

620    Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Sự lòng ngỏ với băng nhân,

Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.








Chú Thích:





Câu 601:
Hội ngộ:  nói đến cuộc gặp gỡ Kim Trọng mà đưa đến cuộc tình duyên giữa hai người.

Câu 601:
Cù lao:  ("cù": siêng, "lao": nhọc) công cha mẹ nuôi con vất vả nhọc nhằn, chữ lấy trong Kinh Thi, thơ Lục Nga: "Lục lục giả nga, phỉ nga y hào. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao" = Rau nga đã lên dài, chẳng phải là rau nga xưa kia đến, mà chỉ là thứ cỏ hèn. Xót thương thay cho cha mẹ, đã cực nhọc sinh ra ta.

Câu 603:
Để lời:  gác lời thề lại để lo cứu cha trước đã.

Câu 603:
Thệ hải minh sơn:  ("minh": thề) chỉ non thề biển, ý nói hai người chỉ núi, chỉ biển mà thề, lấy núi biển là những thứ bền vững lâu dài chứng minh cho.

Câu 604:
Sinh thành:  ơn cha mẹ sinh ra và nuôi cho khôn lớn.

Câu 605:
Quyết tình:  quyết định sau khi đã suy nghĩ ở trong lòng.

Câu 605:
Hạ tình:  bày tỏ ý tình của mình, bày tỏ sự quyết tâm của mình.

Câu 606:
Dẽ:  chỉ thái độ của Thuý Kiều chống lại sự can ngăn của mọi người, chống lại ý kiến của mọi người.

Câu 608:
Nha dịch:  người nha lại làm việc ở các phủ, huyện xưa.

Câu 608:
Từ tâm:  có lòng tốt, có lòng hiền từ.

Câu 609:
Hiếu trọng tình thâm:  ý nói Thuý Kiều là người có tấm lòng rất hiếu thảo, coi trọng tình cha con.

Câu 610:
Nghĩ:  xét thấy, suy nghĩ. Bản KOM chép là "nghỉ" thì không thích hợp với Chung ông, một người nha lại có từ tâm, đáng kính trọng. Với một người như vậy mà gọi bằng "hắn", "y", "nó" thì thiếu hẳn sự tôn kính.

Câu 610:
Xót vay:  thương xót hộ cho Thuý Kiều.

Câu 611:
Lót đó luồn đây:  ý nói tính ngả này lo ngả nọ để cứu cho Vương ông và Vương Quan.

Câu 613:
Tạm phó:  tạm giao cho.

Câu 613:
Giam ngoài:  giam ở nhà công sai, khỏi phải bị cùm giam trong ngục.

Câu 614:
Qui liệu:  sắp đặt thu xếp, lo liệu.

Câu 615:
Ngây thơ:  thường nói ngây thơ có nghĩa là trẻ dại, chưa biết gì.

Câu 616:
Vạ gió tai bay:  tai vạ đến thình lình như gió ở đâu bay tới.

Câu 617:
Tử biệt sinh ly:  chết rồi phải vĩnh biệt nhau, sống mà phải xa cách nhau đó là hai cái cảnh đau lòng nhất ở đời.

Câu 619:
Hạt mưa:  chỉ thân phận người con gái như hạt mưa sa, rơi vào hoàn cảnh nào thì phải chịu hoàn cảnh ấy như câu ca dao đã diễn tả: "Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ruỗng lầy".

Câu 620:
Tấc cỏ... ba xuân:  "Tấc cỏ" chỉ tấm lòng bé nhỏ của người con; ba xuân chỉ ba tháng của mùa xuân, ví với công ơn của cha mẹ. Mấy chữ này lấy ở trong câu thơ của Mạnh Giao (Đường): "Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy" = ai dám nói rằng tấm lòng của người con bé nhỏ như tấc cỏ lại có thể báo đáp được công ơn của người mẹ chan hoà như ánh sáng của mùa xuân.

Câu 621:
Băng nhân:  chỉ người làm mối. Theo Tấn thư, truyện Sách Đảm có kể rằng Lệnh Hồ Sách mộng thấy mình đứng trên băng mà nói chuyện với người ở dưới băng. Giải mộng ấy Sách Đảm cho đó là việc âm dương, tức việc hôn nhân, ý nói sẽ làm mối cho người ta lấy nhau.

Câu 622:
Tin sương:  khi trời sắp có sương xuống thì có chim nhạn báo tin trước, nên thiên hạ đều biết. Đây nói là tin nàng Kiều bán mình đồn khắp mọi nơi.

Câu 624:
Viễn khách:  khách phương xa.

Câu 624:

Vấn danh:  lễ đến hỏi tên tuổi người con gái.
 
 
 
 

http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=26&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:30:02
 





625    Hỏi tên, rằng: "Mã Giám sinh,

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm thanh mà gần."

Quá niên trạc ngoại tư tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Trước thầy sau tớ lao xao,

630    Như băng đưa mối, rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sẵn sàng,

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!

635    Ngại ngùng dạn gió e sương,

Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.

Mối càng vén tóc bắt tay,

Nét buồn như cúc, mình gầy như mai.

Đắn đo cân sắc cân tài,

640    Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Mặn nồng một vẻ một ưa,

Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu.

Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi vâng dạy bao nhiêu đấy chiềng?

645    Mối rằng: "Đáng giá nghìn vàng,

Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài."

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.







Chú Thích:





Câu 625:
Mã Giám sinh:  người Giám sinh họ Mã.
  "Giám sinh" là tên gọi của người học trò ở Quốc tử giám.

Câu 626:
Lâm Thanh:  tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.

Câu 627:
Ngoại tứ tuần:  ngoài bốn mươi.

Câu 630:
Nhà băng:  xem chú thích chữ "băng nhân", câu 621.

Câu 630:
Lầu trang:  lầu đàn bà con gái ở, đây chỉ phòng Thuý Kiều ở.

Câu 631:
Sỗ sàng:  không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột ngồi lên ghế cao. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "sẵn sàng".

Câu 635:
Giợn gió e sương:  ý nói khi Thuý Kiều ở trong buồng đi ra ngó bộ như ngại ngùng chẳng khác nào cành hoa e ấp sợ gió sợ sương.

Câu 637:
Bắt tay:  nắm lấy tay đưa cho xem.

Câu 638:
Nét buồn như cúc:  nét buồn như cúc mùa thu.

Câu 638:
Điệu (mình) gầy như mai:  dáng gầy như mai mùa đông.

Câu 639:
Đắn đo:  cân nhắc so sánh xem hơn kém thế nào.

Câu 640:
Cầm nguyệt:  cái đàn nguyệt. Giáo sư Trần Văn Khê cho rằng: "Cái cầm trăng của Kim Trọng và cái hồ cầm của Thuý Kiều có lẽ chỉ là một nhạc khí": Chúng tôi, không nghĩ như vậy vì cô Kiều "như Nguyễn Du đã giới thiệu" chỉ sành về Hồ cầm thôi. Sở dĩ trong Truyện Kiều có chỗ Nguyễn Du đã dùng chữ "cầm trăng" (c.467) hoặc "cầm nguyệt" (c. 640) cũng chỉ vì sự bó buộc về vần hoặc về thanh mà thôi.

Câu 640:
Thử bài quạt thơ:  thử tài quạt thơ của Thuý Kiều khi yêu cầu nàng đề vịnh cái quạt.

Câu 643:
Lam Kiều:  cầu Lam. Xem chú thích câu 266. Cả câu này ý nói muốn mua người đẹp phải đến tận nhà của mỹ nhân cũng như muốn mua ngọc phải đến tận Lam Kiều.

Câu 644:
Sính nghi:  nói chung các đồ dẫn cưới.

Câu 646:
Gấp nhà:  nhà gặp sự rủi ro cấp bách quá, lúc ngặt quá cần phải cần phải đối phó cho kịp như chuyện Vương ông bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn cần phải cứu ngay ra.

Câu 648:

Vâng:  chữ này có bản để là "chịu", có bản để là "ra" thì cũng tương tự nhưng nếu để là "vàng" thì sai vì Mã Giám sinh chỉ mua Kiều với giá 450 lạng bạc có ghi trong tờ hôn thư hẳn hoi và Thuý Kiều cũng chỉ cần bán mình để lấy 450 lạng bạc lo lót cho bọn quan lại mà thôi.
 
 

 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:35:07
 





Một lời thuyền đã êm giầm,

650    AI đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.

Định thì nạp thái vu qui.

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!

Một lời cậy với Chung công,

Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.

655    Thương tình con trẻ cha già,

Nhìn nàng ông đã máu sa ruột dàu.

Nuôi con những ước về sau,

Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.

Trời làm chi cực bấy trời!

660    Này ai vu thác cho người hợp tan.

"phủ cân bao quản thân tàn,

Nỡ đày đoạ trẻ, càng oan thác già.

Một lời sau trước cũng là,

Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!"

665    Theo lời như chảy dòng châu,

Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi.

Vội vàng kẻ giữ người coi,

Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:

"Vẻ chi một tấm hồng nhan,

670    Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,

Lại thua ả Lý bán mình hay sao?







Chú Thích:





Câu 649:
Thuyền đã êm giầm:  ("giầm": cái mái chèo) ý nói thuyền đã êm tay chèo, không còn chòng chành nữa ví với việc mua bán đã xong xuôi.

Câu 650:
Canh thiếp:  tấm thiếp biên tên tuổi của hai bên con trai con gái để so tuổi xem có hợp không?

Câu 651:
Nạp thái:  dẫn đồ cưới đến nhà gái.

Câu 651:
Vu qui:  về nhà chồng. Chữ lấy trong Kinh Thi, thiên Thước sào: "Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi. Chi tử vu qui, bách lưỡng nhạ chi" = Con chim thước có ổ, con chim cưu đến ở. Nàng ấy đi lấy chồng, hàng trăm cỗ xe đón rước dâu. Đây dùng chữ "vu qui" để chỉ lễ rước dâu.

Câu 654:
Khất từ:  ("khất": xin, "từ": tờ) đơn xin một việc gì; đây là tờ đơn xin tạm lĩnh Vương ông về.

Câu 658:
Trao tơ:  chỉ việc kết hôn. Xem chú thích câu 540.

Câu 658:
Gieo cầu:  lấy điển tích trong sách "Tam hợp bảo kiếm": đời Hán, vua Vũ đế khi kén phò mã đã cho công chúa ngồi trên lầu gieo quả cầu xuống, ai cướp được thì làm phò mã. Do điển này, chữ "gieo cầu" được dùng để chỉ việc kén chồng.

Câu 660:
Vu thác ("vu":  nói dối đổ lỗi cho ai, "thác": đặt điều ra) nói người ta không có tội mà bày đặt sự việc ra để vu hại cho người ta.

Câu 661:
Thân tàn:  thân người đã đến tuổi già sắp chết. Cả câu ý nói hình phạt đâu có nghĩa lý gì với cái thân già (chỉ Vương ông) sắp chết.

Câu 662:
Trẻ:  chỉ Thuý Kiều.

Câu 662:
Già:  chỉ Vương ông.

Câu 665:
Dòng châu:  dòng nước mắt. Xem chú thích câu 82.

Câu 666:
Rắp:  toan, định. Chữ "rắp" này hợp lý hơn là chữ đã vì khi Vương ông định gieo đầu vào tường vôi, thì mọi người đều đã "vội vàng kẻ giữ người coi".

Câu 669:
Hồng nhan:  má hồng, chỉ người đàn bà đẹp.
  "Mảnh hồng nhan": ngụ ý nói tấm thân của Thuý Kiều cũng không đáng giá gì so với công ơn của cha mẹ.

Câu 670:
Tóc tơ:  hai vật rất nhỏ dùng để nói đến một chút gì, một cái gì nhỏ nhặt nhất như một chút công ơn của cha mẹ chưa báo đáp được.

Câu 671:
Nàng Oanh:  nàng Đề Oanh đời Hán. Hán thư chép: Thuần Vu Ý làm quan phạm tội. Con gái là Đề Oanh đã dâng thư lên Hán Văn đế xin chuộc tội cho cha. Vua cảm lòng hiếu thảo ấy đã tha cho cha nàng.

Câu 672:

Ả Lý:  Nàng Lý Ký đời Đường. Đường tùng thư chép: nàng Lý Ký nhà nghèo đã phải bán mình cho làng cúng thần rắn để lấy tiền nuôi cha mẹ. Cuối cùng nàng đã giết được thần rắn mà khỏi chết. Vua Việt vương nghe tin đón nàng vào cung lập làm hoàng hậu.
 
 


sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:37:20
 





Xuân huyên tuổi hạc càng cao,

Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

675    Lòng tơ dù chẳng dứt tình,

Gió mây âu hẳn tan tành nước non.

Thà rằng liều một thân con,

Hoa dù rã cánh là còn xanh cây.

Phận sao đành vậy cũng vầy,

680    Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.

Cũng đừng tính quẩn toan quanh,

Tan nhà là một, thiệt mình là hai."

Phải lời ông cũng êm tai,

Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.

685    Mái ngoài họ Mã vừa sang,

Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.

Trăng già độc địa làm sao?

Cầm dây chẳng nghĩ, buộc vào tự nhiên.

Trong tay đã sẵn đồng tiền,

690    Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Họ Chung ra sức giúp vì,

Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.

Việc nhà đã tạm thong dong,

Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.

695    Một mình nàng ngọn đèn khuya,

Áo dầm giọt lệ, mây xe mái sầu.







Chú Thích:





Câu 673:
Cội xuân:  gốc xuân già ví với người cha.
  Xem chú thích câu 534.

Câu 675:
Lòng tơ:  lòng thương của Vương ông có nhiều mối vướng vít không muốn dứt tình.

Câu 676:
Gió mưa:  ý nói đến những tai hoạ gây ra do những cơn mưa gió; đây chỉ tai hoạ xảy đến cho gia đình Vương ông.

Câu 676:
Tan tành nước non:  tức tan tành ca gia đình, cơ nghiệp bị sụp đổ hết, nhà cửa tan nát chẳng còn gì.

Câu 678:
Hoạ.. lá:  "hoa" ví nàng Kiều, "lá" ví với cha mẹ và hai em, "cây" ví với nhà cửa. Cả câu ý nói nếu một mình Kiều chịu bán mình thì cả nhà còn được sum họp.

Câu 680:
Chẳng đậu:  không nuôi được từ lúc mới sinh ra. Chữ "đậu" cũng viết là "đỗ".

Câu 682:
Thiệt mình:  ý nói đến việc Vương ông muốn đập đầu vào tường vôi tự tử.

Câu 686:
Tờ hoa:  tức tờ hôn thư do Thuý Kiều viết ngày 15 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 11 cam kết chịu bán mình làm thiếp cho Mã Giám sinh lấy 450 lạng bạc, hẹn sau ba ngày khi việc quan kết liễu sẽ theo họ Mã ra đi. Chữ "hoa" được dùng cho đẹp lời cũng như chữ "vàng" được dùng cho hợp vần.

Câu 687:
Trăng già... cầm dây:  do điển ông già ngồi dưới bóng trăng cầm dây tơ hồng để xe duyên vợ chồng cho con trai và con gái. Xem chú thích câu 333.

Câu 692:
Lễ tâm:  lễ vật do lòng thành dâng lên.

Câu 692:
Tụng kỳ:  kỳ xử án. Cả câu ý nói có Chung ông lo giúp, đem lễ cho quan, nên việc xử án cũng xong xuôi.

Câu 694:
Tinh kỳ:  hôn kỳ dã, hôn giả kiến tinh nhi hành. (KOM chú) là lúc cử hành lễ cưới, đám cưới thấy sao mọc thì ra đi). Cả hai câu 693-694 ý nói việc nhà đã tạm yên rồi, bây giờ phải lo sắp đặt việc đưa Kiều về cho họ Mã.

Câu 696:
Mái sầu:  bản BK-TTK lần in thứ nhất chép là mái sầu nhưng bản in lần thứ ba (1934) đã sửa lại là "mối sầu". Nếu chép là "tóc xe mối sầu" thì có thể hiểu là khi kết tóc lại thì xe cả mối sầu theo từng đoạn tóc. Bản Liễu Văn đường 66 chép là "mây se mái sầu". Đúng là "tóc se mái sầu" và có thể giảng là vì sầu không buồn chải tóc nên mái tóc khô đi.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:41:56
 





Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,

Chút lòng đeo đẳng bấy lâu một lời.

Công trình kể biết mấy mươi.

700    Vì ta khăng khít cho người dở dang.

Thề hoa chưa ráo chén vàng,

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!

Trời Liêu non nước bao xa,

Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!

705    Biết bao duyên nợ thề bồi,

Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?

Tái sinh chưa dứt hương thề,

Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai

Nợ tình chưa trả cho ai,

710    Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!"

Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn,

Dầu chong trắng đĩa, giọt tràn thấm khăn.

Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân,

Dưới đèn ghé (?) đến ân cần hỏi han.

715    Cơ trời dâu bể đa đoan,

Một nhà để chị riêng oan một mình.

Cớ chi ngồi nhẫn canh tàn,

Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây?

Rằng: "Lòng rộn rã thức đầy,

720    Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.







Chú Thích:





Câu 698:
Đeo đẳng:  theo đuổi mang lấy vào mình.

Câu 699:
Công trình:  các mức độ làm một việc gì khó nhọc, đây ý nói đến công phu của Kim Trọng để kết được mối duyên với Thuý Kiều.

Câu 700:
Khăng khít:  ràng buộc gắn bó. Nghĩa như chữ "khăng khít" trong câu 1341, Bấy lâu khăng khít dải đồng.

Câu 701:
Thề hoa:  dịch chữ "tiên thề" tức là lời thề viết trên giấy hoa tiên.

Câu 702:
Với hoa:  với Kim Trọng.

Câu 703:
Trời Liêu:  chỉ Liêu Dương, một huyện thuộc tỉnh Liêu Linh, Trung Quốc, nơi Kim Trọng về hộ tang chú.

Câu 705:
Thề bồi:  nói chung về sự thề nguyền với nhau.

Câu 707:
Tái sinh:  kiếp sau, theo thuyết luân hồi của nhà Phật.

Câu 708:
Thân trâu ngựa:  theo thuyết luân hồi hễ ai có nợ kiếp này không trả được cho người ta thì kiếp sau phải đầu thai làm trâu ngựa để trả nợ cũ.

Câu 708:
Trúc mai:  cây trúc và cây mai, hai cây thường được vẽ thành cặp với nhau và cũng thường được trồng trong chậu để bên nhau, trong văn chương thường dùng hai chữ "trúc mai" để chỉ mối tình thân thiết. Ca dao có câu: Ai đi đường ấy hới ai, hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.
  Cả câu ý nói Thuý Kiều cho là mình mắc nợ tình với Kim Trọng mà kiếp này không trả được thì kiếp sau xin đầu thai làm trâu ngựa để trả nợ.

Câu 710:
Khối tình:  điển xưa, có một người con gái phải lòng một người lái buôn rồi sinh ốm tương tư mà chết. Sau rồi khi cải táng thấy trong quan tài một khối cứng như thuỷ tinh to bằng quả tim. Chuyện đó đến tai người lái buôn. Anh ta đến xin được xem khối ấy, cảm động mà khóc. Nước mắt nhỏ vào khối ấy tan ra thành máu.

Câu 710:
Tuyền đài:  suối vàng.

Câu 711:
Bàn hoàn:  băn khoăn, nghĩ quanh nghĩ quẩn.

Câu 712:
Dầu chong trắng đĩa:  ("chong": để đèn cháy) dầu trong đĩa vì thắp lâu suốt đêm đã hết nên đã lộ trắng cả đáy đĩa ra.

Câu 713:
Giấc xuân:  giấc ngủ ngon, êm ái.

Câu 715:
Cơ trời:  do chữ "thiên cơ", ý nói mọi việc ở đời đều do máy trời huyền bí vần xoay tạo dựng lên.

Câu 715:
Dâu bể:  nói sự đổi thay ở đời. Xem chú thích câu 3.

Câu 715:
Đa đoạn:  nhiều sự rắc rối lôi thôi lắm.

Câu 717:
Ngồi nhẫn:  ngồi suốt mãi (cho đến tàn canh).

Câu 720:
Tơ duyên:  sợi tơ hồng kết duyên vợ chồng cho con trai và con gái.
  Xem chú thích câu 333

Câu 720:
Vướng:  còn mắc phải.
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=30&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:44:01
 





Hở môi ra cũng thẹn thùng,

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!

Quên em, em có chịu lời.

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

725    Giữa đường đứt (?) gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

KỂ từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

730    Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

735    Chiếc thoa với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dầu em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

740    Phím đàn với tấm gương nguyền ngày xưa.

Mai sau, dầu có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.







Chú Thích:





Câu 722:
Với ai:  với Kim Trọng.

Câu 726:
Keo loan:  (chữ có hai cách đọc: đọc theo âm Hán Việt là "giao", đọc theo âm chữ nôm là "keo") keo loan, một thứ nấu bằng tuỷ xương chim loan (có sách nói bằng máu chim loan) rất dính. Xưa vua Hán Vũ đế đã dùng để nối dây cung bị đứt và dùng được rất bền.

Câu 726:
Tơ thừa:  ý nói mối duyên với Kim Trọng mà Thuý Kiều nhờ nối lại nhưng chữ "thừa" ở đây thiếu tế nhị. Nguyễn Du đã dùng nhiều lần chữ "thừa như "hương thừa", "phấn thừa hương cũ", "hoa thải hương thừa", "sống thừa"... với nghĩa còn dư lại, bỏ đi, có thể ở trường hợp câu 726 ông đã bị ép vận nên mới dùng chữ ấy.

Câu 728:
Quạt ước:  cái quạt mà Thuý Kiều đã tặng Kim Trọng khi hai bên thề ước với nhau. Sở dĩ trai gái hay tặng nhau quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa dán liền vào nhau tượng trưng cho sự gắn bó keo sơn và sự hợp hoan. Chính vì vậy mà chiếc quạt còn được gọi là "Hợp hoan phiến".

Câu 732:
Tình máu mủ:  tình chị em.

Câu 732:
Lời nước non:  lời thề chỉ non thề biển.

Câu 734:
Ngậm cười chín suối:  ý nói chết đi về suối vàng cũng được vui lòng.

Câu 735:
Chiếc thoa:  tức là chiếc thoa Thuý Kiều bị mất mà Kim Trọng nhặt được trả lại.
  Tản Đà cũng cho rằng: "Chữ "thoa" đây, tức là chữ "thoa" trong câu "Giở kim thoa với khăn hồng trao tay". Có nhiều bản đổi làm chữ "vòng" hay "vành", thêm việc mà mất cả âm hưởng".

Câu 735:
Tờ mây:  tờ giấy có vẽ mây ghi lời thề nguyền của Kim Trọng và Thuý Kiều mà Nguyễn Du đã kể ở ra ở câu 447: "Tiên thề cùng thảo một chương".

Câu 736:
Duyên này:  tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Thuý Kiều thì giữ lấy để nối lại mối duyên với Kim Trọng khi chàng quay trở lại.

Câu 736:
Vật này:  tức là cái thoa thì để làm của chung coi như kỷ niệm của mối tình giữa hai chị em Thuý Vân - Thuý Kiều với Kim Trọng.

Câu 738:
Mệnh bạc:  số phận mỏng manh.

Câu 740:
Mảnh hương nguyền:  chỉ những mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền với Kim Trọng.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:46:06
 





745    Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rảy xin giọt lệ cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy gương tan,

750    Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lại tình quân,

Mây tơ vắn vủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

755    Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Cạn lời hồn dứt máu say,

Một hơi lặng ngất, đôi tay giá đồng.

Xuân huyên chợt tỉnh giất nồng,

760    Một nhà vây lớp, kẻ trong người ngoài.

Kẻ thang người thuốc bời bời,

Mới dầu cơn vựng, chưa phai giọt hồng

Hỏi: "Sao ra sự lạ lùng?

Kiều càng nức nở mở không ra lời.

765    Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,

"Chiếc thoa đây với tờ bồi ở đây!"

"Này cha làm lỗi duyên mày

Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.







Chú Thích:





Câu 746:
Bồ liễu:  cỏ bồ và cây liễu, hai thứ cỏ cây yếu ớt thường dùng để ví với đàn bà con gái có dáng vẻ mềm mại, yếu ớt.
  Cả câu ý nói thân yếu ớt này dù có chết đi nữa cũng mong trả được nghĩa với Kim Trọng.

Câu 747:
Dạ đài:  âm phủ, chỗ ở tối như đêm.

Câu 749:
Trâm gãy gương tan:  trâm và gương là đồ trang sức của phụ nữ, "trâm gãy gương ta" là nói duyên phận đã lỡ làng.

Câu 751:
Tình quân:  tiếng người con gái gọi người tình nhân của mình.

Câu 754:
Nước chảy hoa trôi:  ý nói người con gái bị lâm vào cảnh đời lưu lạc, chìm nổi như cánh hoa bị nước chảy trôi đi bơ vơ giữa dòng.

Câu 754:
Lỡ làng:  không được đẹp duyên, dở dang cả cuộc đời.

Câu 758:
Giá đồng:  lạnh như đồng.

Câu 759:
Xuân huyên:  do chữ "xuân đường" và "huyên đường" dùng để chỉ cha mẹ. Xem chú thích các câu 224 và 534.

Câu 759:
Giấc nồng:  giấc ngủ say.

Câu 762:
Dầu:  nguôi đi, dịu đi.

Câu 762:
Cơn vựng:  cơn váng đầu xây xẩm mặt mũi, cơn ngất xỉu, mê man đi.

Câu 762:
Giọt hồng:  giọt nước mắt đầy đau khổ tưởng chừng như có máu hoà lẫn vào, giọt lệ thảm. Do điển nàng Tiết Linh Vận đời Tuỳ từ biệt cha mẹ vào làm cung phi, khóc quá nước mắt chảy ra đỏ như có máu.
  "Truyện Kiều" còn có câu: "Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao" (2836).

Câu 766:
Chiếc thoa:  chiếc thoa của Thuý Kiều bị mất mà Kim Trọng đã trả lại, nay được coi là vật kỷ niệm của Kim - Kiều.

Câu 766:
Tờ bồi:  tờ giấy viết lời thề bồi. Xem "chú thích" câu 447 ("tiên thề") và câu 735 (tờ mây).
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:49:11
 





Vì ai rụng cải rơi trâm,

770    Để con bèo nổi mây chìm vì ai?

Lời con dặn lại một hai,

Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng!"

Lạy thôi, nàng lại thưa chiềng:

"Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.

775    Thốt chi thân phận tôi đòi,

Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!"

Xiết bao kể nỗi tấm sầu,

Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.

Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,

780    Quản huyền đâu lại giục ngày sinh ly.

Đau lòng kẻ ở người đi,

Giọt rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.

Trời hôm mây kéo tối rầm,

Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.

785    Rước nàng về đến trú phường,

Bốn bề xuân toả một nàng ở trong.

Ngập ngừng thẹn lục e hồng,

Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.

Phẩm tiên rơi đến tay hèn,

790    Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!

Biết thân đến bước lạc loài,

Nhị đào đã bẻ cho người tình chung.







Chú Thích:





Câu 769:
Rụng cải rơi kim:  sách "Bác vật chí" nói: "Hổ phách hút được hột cải, đá nam châm hút được chiếc kim". Đây nói "rụng cải rơi kim" tức là nói sự chia lìa giữa đôi tình nhân.

Câu 773:
Thưa chiềng:  thưa trình.Chữ "chiềng" là do chữ "trình" đọc trạnh ra cho hợp vần.

Câu 778:
Khắc canh:  ("khắc": đồng hồ xưa là một cái bình có khắc nấc để xem giờ theo mực nước cạn dần, "canh": khoảng thời gian chia một đêm ra để cắt phiên canh gác) thời khắc sang canh.

Câu 778:
Nam lâu:  lầu canh ở về phía nam.

Câu 780:
Quản huyền:  ("quản": ống sáo, ống tiêu, "huyền": các thứ đàn có dây) đàn sáo, nói chung là tiếng âm nhạc.

Câu 780:
Sinh ly:  sống mà phải chia lìa nhau.

Câu 782:
Lệ rơi thấm đá:  ý nói khóc đến nỗi nước mắt chan hoà dầu đá cũng phải thấm vào.

Câu 782:
Tơ chia rũ tằm:  ý nói buồn đến nỗi trong lòng bị quặn đau như con tằm bị rút lấy tơ mệt lả đi, nằm rũ ra.

Câu 785:
Trú phường:  chỗ trọ trong phường phố.

Câu 786:
Bốn bề xuân toả:  ý nói nàng Kiều bị giữ kín một mình trong buồng xuân. Xuân toả cũng như "khoá xuân" trong câu 156: "Một nền đồng tước khoá xuân hai Kiều".

Câu 787:
Thẹn lục e hồng:  ("lục" và "hồng" là màu sắc hoa cỏ về mùa xuân) ý nói sắc mặt ngó ra thẹn thùng.

Câu 789:
Phẩm tiên:  Phẩm vật của tiên dùng tức ("đào tiên").

Câu 789:
Tay hèn:  tay người hèn hạ tức kẻ hèn hạ
  Cả câu ý nói rằng Kiều tự nghĩ mình là bậc quí giá mà lại rơi vào tay Mã Giám sinh, một tay hèn hạ không ra gì. Như câu 833: "Đào tiên đã bén tay phàm".

Câu 791:
Lạc loài:  bơ vơ vì xa cách hẳn người thân và bị sa vào tay kẻ xấu.

Câu 792:
Nhị đào:  nhị của bông hoa đào còn phong kín ví với sự trinh tiết của người con gái.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:51:18
 





Vì ai ngăn đón gió đông,

Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi.

795    Trùng phùng dù hoạ (?) có khi,

Thân này thôi có ra gì mà mong.

Đã sinh ra số long đong,

Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?"

Trên yên sẵn có con dao,

800    Giấu cầm nàng đã gói vào áo khăn:

Phòng khi nước đã đến chân,

Dao này thì liệu với thân sau này,

Đêm thu một khắc một chầy,

Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.

805    Chẳng là gã Mã Giám sinh,

Vẫn là một đứa phong tình đã quen.

Qua chơi lại gặp hồi đen,

Quen vùng lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.

Lầu xanh có mụ Tú bà,

810    Làng chơi đã trở về già hết duyên.

Tình cờ chẳng hẹn mà nên,

Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.

Chung lưng mở một ngôi hàng,

Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.

815    Dạo tìm khắp chợ thì quê,

Giả danh hầu hạ, dạy nghề ăn chơi.







Chú Thích:





Câu 793:
Gió đông:  gió từ phương đông thổi đến, tức gió xuân.

Câu 795:
Trùng phùng:  gặp lại lần nữa.

Câu 798:
Má hồng:  dịch từ chữ "hồng nhan", chỉ người đẹp.
  "Kiếp má hồng" là kiếp của kẻ hồng nhan bạc mệnh.
  "Cả hai câu" 797 - 798 ý nói nàng Kiều cho rằng mình đã gặp phải số xấu như thế thì còn mang làm gì mãi cái kiếp hồng nhan bạc mệnh, thà là chết đi cho rồi.

Câu 799:
Yên:  tức là chữ "án" đọc theo thanh bằng, có nghĩa là cái bàn như chữ "yên" trong câu 397. "Trên yên bút giá thi đồng".

Câu 800:
Giấu cầm:  cầm lén không cho Mã Giám sinh trông thấy.

Câu 801:
Nước đã đến chân:  do câu tục ngữ "Nước đã đến chân thì phải nhảy", ý nói gặp lúc nguy cấp thì phải tính đến nước liều thân.
  "Sáu câu" (797-802) này đã cho chúng ta thấy được ý định của Thuý Kiều là nếu gặp cảnh tủi nhục quá thì sẽ tự vẫn cho xong đời hồng nhan bạc mệnh.

Câu 803:
Đêm thu một khắc một chầy:  ý nói đêm về mùa thu đã dài cứ trông cho mau sáng thành ra càng khắc càng trông thì lại cứ thấy dài thêm. Bản BK-TTL lần in thứ nhất chép là "thâu" nhưng ở lần in thứ ba đã sửa lại là "thu".

Câu 806:
Phong tình:  chỉ người ăn chơi, quen thói phong nguyệt.

Câu 808:
Quen vùng:  quen vùng đất đã từng lui tới mua người. Nguyễn Khắc Hiếu cũng chép theo bản QVĐ là "quen vùng" và đã giải thích như sau: "Mã Giám sinh nguyên là một người làng chơi, mà tốn hại đã lắm, mới xoay quanh lại làm chủ về việc chơi"...

Câu 809:
Lầu xanh:  do chữ thanh lâu xưa chỉ chỗ ở của các nhà quyền quí sau từ đời Lương, đời Đường được dùng để chỉ nhà chứa gái làng chơi.

Câu 810:
Làng chơi:  chỉ chung những kẻ ăn chơi ở chốn lầu xanh.

Câu 812:
Mạt cưa mướp đắng:  ý nói cùng một phường gian dối lừa gạt. Nghĩa ấy là do câu chuyện xưa có một người đi bán mạt cưa giả làm cám, một người đi bán mướp đắng giả làm dưa chuột đã bán lẫn cho nhau thành ra hai anh bợm lại mắc bợm của nhau.

Câu 813:
Chung lưng:  góp vốn chung với nhau.

Câu 814:
Buôn phấn bán hương:  phấn hương là đồ trang sức của con gái, buôn phấn bán hương là lợi dụng sắc đẹp của người con gái để làm nghề mại dâm.

Câu 814:
Đã lề:  đã quen, đã thành một cái lệ, đã thành thạo.

Câu 815:
Khắp chợ thì quê:  tìm khắp ở chỗ thành thị đến cả miền thôn quê.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:53:19
 





Rủi may âu cũng sự trời,

Đoạn trường lại lộn mặt người vô duyên.

Xót nàng chút phận thuyền quyên,

820    Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.

Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,

Sính nghi rẻ (?) giá, nghinh hôn sẵn ngày.

Mừng thầm: "Cờ đã đến tay,

Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.

825    Đã nên quốc sắc thiên hương,

Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!

Về đây từ trước bẻ hoa,

Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.

Hẳn ba trăm lạng kém đâu,

830    Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời.

Miếng ngon kề đến tận nơi,

Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham.

Đào tiên đã bén tay phàm,

Thì vin cành quít cho cam sự đời.

835    Dưới trần mấy mặt làng chơi,

Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.

Nước vỏ lựu, máu mào gà,

Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.

Mập mờ đánh lận con đen,

840    Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền (?) mất chi?







Chú Thích:





Câu 817:
Âu:  dễ thường, có lẽ.

Câu 818:
Lộn:  lẫn, chọn lầm. Chữ "lộn" đây hợp nghĩa với chữ "rủi may" ở câu trên.

Câu 819:
Thuyên quyên:  con gái có săc đẹp.

Câu 820:
Cành hoa:  nói người con gái đẹp như hoa.

Câu 820:
Thuyền lái buôn:  chỉ Mã Giám sinh chuyên đi buôn người về dạy nghề ăn chơi.

Câu 821:
Mẹo lừa:  mưu kế của Mã Giám sinh để lừa Thuý Kiều.

Câu 821:
Khuôn:  vòng.

Câu 822:
Sính nghi:  đồ dẫn cưới.

Câu 822:
Nghênh hôn:  lễ rước dâu, đón dâu.

Câu 822:
Sẵn ngày:  ngày đã định sẵn từ trước.

Câu 823:
Cờ đã đến tay:  tục ngữ có câu: "Cờ đến tay thì phất" đây ý nói Mã Giám sinh mừng thầm là nàng Kiều đã về tay mình thì phải hưởng trước.

Câu 824:
Vẻ ngọc:  vẻ đẹp của tấm thân trong trắng như ngọc.

Câu 824:
Khúc vàng:  khúc lòng, chữ "vàng" đây chỉ dùng cho đẹp lời để đối với chữ ngọc.
  "Cả câu ý nói": càng ngắm nàng Kiều với tấm thân ngọc ngà thì lòng Mã Giám sinh càng thêm có dục vọng.

Câu 825:
Quốc sắc thiên hương:  sắc nước hương trời, chỉ người đàn bà đẹp nổi tiếng.

Câu 827:
Nước trước bẻ hoa:  ý nói ai cũng muốn được đến với nàng Kiều trước nhất để được là người đầu tiên "bẻ hoa".

Câu 828:
Vương tôn:  con cháu vua quan, đây chỉ khách ăn chơi phong lưu.

Câu 829:
Ba trăm lạng:  đúng ra là bốn trăm lạng mới "vừa vốn" nhưng vì chữ thứ nhì đó thuộc thanh bằng nên Nguyễn Du đã phải viết "ba trăm lạng".

Câu 830:
Vừa vốn:  ý Mã Giám sinh cho rằng các vương tôn quí khách đến chơi ai muốn "bẻ hoa" trước cũng phải ba trăm lạng mà số tiền ấy cũng đã vừa gần vốn rồi, về sau thời là có lời.

Câu 831:
Miếng ngon:  Mã Giám sinh nghĩ nàng Kiều về ở cùng phòng với mình cũng là miếng ngon kề bên miệng, nếu không hưởng thời cũng uổng.

Câu 834:
Cành quít:  Theo Tản Đà thì câu 834 nếu viết là: "Thì vin cành "đào" cho cam sự đời" sẽ rõ nghĩa ngay nhưng chữ đào lại thuộc thanh bằng nên Nguyễn Du đã phải đổi ra là "Thì vin cành "quít" cho cam sự đời".

Câu 837:
Nước vỏ lựu, máu mào gà:  khi người con gái đã tiếp khách rồi thì lấy vỏ cây lựu nấu nước để rửa rồi lấy máu ở mào con gà bôi vào, giả làm con gái còn trinh.

Câu 838:
Chiêu tập:  (gọi về nhóm lại) ý nói sửa chữa lại cho được nguyên như cũ.

Câu 839:
Đánh lận:  đánh lừa.

Câu 839:
Con đen:  Việt Nam Từ Điển của Hội Khai trí Tiến đức giảng là các hạng dân hèn. Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim giảng là do chữ "kiềm lê" là nói dân đen đầu nghĩa là những người ngu dại.
  Huỳnh Tịnh Của trong "Đại Nam quốc âm tự vị" giảng là con ngươi, tròng đen và có dẫn câu thơ của Nguyễn Du. Giảng như vậy thì đúng hơn vì con đen ở dây dùng để chỉ khách làng chơi không có "con mắt" tinh đời, khờ khạo.

Câu 840:
Bao nhiêu:  bao nhiêu tiền. Cả câu này Mã Giám sinh muốn nói mình đòi bao nhiêu tiền thì khách làng chơi cũng trả bấy nhiêu, có thiệt hại gì đâu.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 05:55:38
 





Mụ già hoặc có điều gì,

Liều công mất một buổi quì mà thôi.

Đến đây đường sá xa xôi,

Mà ta bất động nữa người sinh nghi."

845    Tiếc thay một đoá trà mi,

Con ong đã mở đường đi lối về!

Một cơn mưa gió nặng nề,

Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương!

Tiệc xuân một giấc mơ màng,

850    Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ.

Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa,

Phần ngẫm nỗi khách, phần lo nỗi mình.

"Tuồng chi là giống hôi tanh,

Thân nghìn vàng để Ô danh má hồng.

855    Thôi còn chi nữa mà mong,

Đời người thôi thế là xong một đời!"

Giận duyên tủi phận bời bời,

Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh.

Nghĩ đi nghĩ lại một mình,

860    Một mình thì chớ, hai tình thì sao?

Sao dầu sinh sự thế nào,

Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân.

Nỗi mình âu cũng giãn dần,

Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!"







Chú Thích:





Câu 844:
Bất động:  chẳng làm gì.

Câu 845:
Trà mi:  cũng đọc là "đồ mi" vì chữ trà xưa viết là chữ đồ . Chữ thời Đông Hán (25-220) trở về sau phiên thiết là "trạch gia", "âm trà". Thời Lương (502-557) trở về sau cũng đọc là "trà" nhưng quên giảm đi một nét, vẫn viết là đồ .
  Từ đời Đường (618-907), Lục Vũ soạn quyển "Trà kinh" mới giảm một nét để thành chữ (trà). Vì thế chữ "đồ mi" ta vẫn quen đọc là "trà mi". Trà mi là một thứ hoa giông như hoa hồng leo (tường vi), thường nở về cuối xuân, sang đầu mùa hạ khi các loại hoa khác đã nở hết. "Đường thi": Khai đáo đồ mi hoa sự liễu = nở đến hoa đồ mi thì việc hoa đã xong. Nguyễn Du đã lấy chữ "hoa sự liễu" để chỉ việc Kiều bị thất tiết với Mã Giám sinh: "Con ong đã mở đường đi lối về".

Câu 849:
Đêm xuân:  đêm xuân của đôi vợ chồng mới cưới, chan chứa tình xuân. Chữ "đêm xuân" đây cũng giống như chữ "chiều xuân" ở câu 348.

Câu 850:
Đuốc hoa:  do chữ "hoa chúc" là cây đèn thắp trong phòng hôn nhân.

Câu 850:
Nằm trơ:  nói Kiều nằm trơ ra đó một mình còn Mã Giám sinh thì đã ra khỏi phòng để đuốc hoa suốt đêm không tắt.

Câu 853:
Tuồng chi:  không ra dáng chi, không ra bộ chi.

Câu 854:
Thân ngàn vàng:  tấm thân quí trọng. Thuý Kiều nghĩ đến tấm thân ngàn vàng của mình thì đau khổ vô cùng vì đã bị kẻ hôi tanh làm ô danh má hồng.

Câu 858:
Quyên sinh:  ("quyên": bỏ; "sinh": cuộc sống) bỏ mình liều chết.

Câu 860:
Hai tình:  hai người tình thâm tức là cha và mẹ.

Câu 861:
Sinh sự:  gây sự, gây ra việc khó khăn cho gia đình.

Câu 862:
Truy nguyên:  tìm ra nguồn gốc của sự việc.

Câu 862:
Chẳng kẻo:  chẳng khỏ, e bị.

Câu 863:
Giãn dần:  nguôi dần, bớt dần.

Câu 864:
Một lần:  một lần chết. Cả câu ý nói thôi hãy chờ đó để xem sao, trước sau cũng chỉ một lần chết mà thôi.
 

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 110 bài trong đề mục