Duyên hội ngộ, đức cù lao. Chữ tình Chữ hiếu, bên nào nặng hơn? Để lời thệ hải minh sơn, Làm con, trước phải đền ơn sinh thành. 605 Quyết tình nàng mới hạ tình: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!" Họ Chung có kẻ lại già, Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm, 610 Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay. Tính bài lót đó luồn đây, Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. Hãy về tạm phó giam ngoài, Nhủ nàng qui liệu trong đôi ba ngày 615 Thương lòng con trẻ thơ ngây, Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! Đau lòng tử biệt sinh ly, Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên! Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, 620 Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Sự lòng ngỏ với băng nhân, Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Chú Thích: Câu 601: Hội ngộ: nói đến cuộc gặp gỡ Kim Trọng mà đưa đến cuộc tình duyên giữa hai người.
Câu 601: Cù lao: ("cù": siêng, "lao": nhọc) công cha mẹ nuôi con vất vả nhọc nhằn, chữ lấy trong Kinh Thi, thơ Lục Nga: "Lục lục giả nga, phỉ nga y hào. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao" = Rau nga đã lên dài, chẳng phải là rau nga xưa kia đến, mà chỉ là thứ cỏ hèn. Xót thương thay cho cha mẹ, đã cực nhọc sinh ra ta.
Câu 603: Để lời: gác lời thề lại để lo cứu cha trước đã.
Câu 603: Thệ hải minh sơn: ("minh": thề) chỉ non thề biển, ý nói hai người chỉ núi, chỉ biển mà thề, lấy núi biển là những thứ bền vững lâu dài chứng minh cho.
Câu 604: Sinh thành: ơn cha mẹ sinh ra và nuôi cho khôn lớn.
Câu 605: Quyết tình: quyết định sau khi đã suy nghĩ ở trong lòng.
Câu 605: Hạ tình: bày tỏ ý tình của mình, bày tỏ sự quyết tâm của mình.
Câu 606: Dẽ: chỉ thái độ của Thuý Kiều chống lại sự can ngăn của mọi người, chống lại ý kiến của mọi người.
Câu 608: Nha dịch: người nha lại làm việc ở các phủ, huyện xưa.
Câu 608: Từ tâm: có lòng tốt, có lòng hiền từ.
Câu 609: Hiếu trọng tình thâm: ý nói Thuý Kiều là người có tấm lòng rất hiếu thảo, coi trọng tình cha con.
Câu 610: Nghĩ: xét thấy, suy nghĩ. Bản KOM chép là "nghỉ" thì không thích hợp với Chung ông, một người nha lại có từ tâm, đáng kính trọng. Với một người như vậy mà gọi bằng "hắn", "y", "nó" thì thiếu hẳn sự tôn kính.
Câu 610: Xót vay: thương xót hộ cho Thuý Kiều.
Câu 611: Lót đó luồn đây: ý nói tính ngả này lo ngả nọ để cứu cho Vương ông và Vương Quan.
Câu 613: Tạm phó: tạm giao cho.
Câu 613: Giam ngoài: giam ở nhà công sai, khỏi phải bị cùm giam trong ngục.
Câu 614: Qui liệu: sắp đặt thu xếp, lo liệu.
Câu 615: Ngây thơ: thường nói ngây thơ có nghĩa là trẻ dại, chưa biết gì.
Câu 616: Vạ gió tai bay: tai vạ đến thình lình như gió ở đâu bay tới.
Câu 617: Tử biệt sinh ly: chết rồi phải vĩnh biệt nhau, sống mà phải xa cách nhau đó là hai cái cảnh đau lòng nhất ở đời.
Câu 619: Hạt mưa: chỉ thân phận người con gái như hạt mưa sa, rơi vào hoàn cảnh nào thì phải chịu hoàn cảnh ấy như câu ca dao đã diễn tả: "Thân em như hạt mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ruỗng lầy".
Câu 620: Tấc cỏ... ba xuân: "Tấc cỏ" chỉ tấm lòng bé nhỏ của người con; ba xuân chỉ ba tháng của mùa xuân, ví với công ơn của cha mẹ. Mấy chữ này lấy ở trong câu thơ của Mạnh Giao (Đường): "Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy" = ai dám nói rằng tấm lòng của người con bé nhỏ như tấc cỏ lại có thể báo đáp được công ơn của người mẹ chan hoà như ánh sáng của mùa xuân.
Câu 621: Băng nhân: chỉ người làm mối. Theo Tấn thư, truyện Sách Đảm có kể rằng Lệnh Hồ Sách mộng thấy mình đứng trên băng mà nói chuyện với người ở dưới băng. Giải mộng ấy Sách Đảm cho đó là việc âm dương, tức việc hôn nhân, ý nói sẽ làm mối cho người ta lấy nhau.
Câu 622: Tin sương: khi trời sắp có sương xuống thì có chim nhạn báo tin trước, nên thiên hạ đều biết. Đây nói là tin nàng Kiều bán mình đồn khắp mọi nơi.
Câu 624: Viễn khách: khách phương xa.
Câu 624: Vấn danh: lễ đến hỏi tên tuổi người con gái.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=26&IDcat=153