Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người?" Nghe tin nhơ nhác rụng rời, 2980 Xúm quanh kể họ, rộn lời hỏi tra. "Này chồng, này mẹ, này cha, Này là em ruột, này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế, sự đâu lạ dường!" 2985 Sư rằng: "có quả với nàng, Lâm Truy buổi trước, Tiền Đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón theo, tôi đã gặp nhau rước về. Cùng nhau nương cửa bồ đề, 2990 Thảo am đó, cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền nhà bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây." Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 2995 Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước non Rõ ràng hoa rụng hương bay. Kiếp sau hoạ thấy, kiếp này hẳn thôi! Minh dương đôi ngả chắc rồi. 3000 Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
Chú Thích: Câu 2983: Thật tin: tin đích xác hỏi được.Câu 2958: Thật tin hỏi được tóc tơ ràn rành.
Câu 2984: Pháp sư: nhà Phật gọi đạo là "pháp" cho nên tôn xưng các nhà sư giảng đạo là "pháp sư".
Câu 2985: Nhân quả: tức quả kiếp nhân duyên nghĩa là kiếp trước làm điều thiện thì kiếp sau được thiện báo, kiếp trước làm điều ác thì kiếp sau bị ác báo.
Câu này và câu sau ý nói: Giác Duyên với Thuý Kiều có nhân duyên kết quả với nhau, cho nên Giác Duyên trước đã gặp nàng ở huyện Lâm Truy, sau lại vớt nàng ở sông Tiền Đường.
Câu 2987: Gieo ngọc trầm châu: ý nói gieo mình xuống sông.
Câu 2989: Cửa bồ đề: cửa chùa. (Bồ đề do chữ phạn Bodhi có nghĩa là tỏ biết lẽ chân chính, thông đạo lý, giác ngộ đạo lý, hiểu rõ hai cảnh của pháp: lý và sự. Người Trung Quốc dịch là "chính giác". Bên Ấn Độ có một cây tất bạt la, vì Phật tu đắc đạo ở dưới gốc cây ấy nên mới gọi là cây bồ đề).
Câu 2990: Thảo am: chùa nhỏ lợp cỏ tranh.
Câu 2991: Nhà bạc: dịch từ chữ "bạch nhật". Thơ Lý Bạch có câu: "Bạch nhật hà đoản đoản, bách niên khổ dị mãn" = ngày bạc sao lại ngắn, trăm năm khổ dễ qua. Sách "Gia huấn" có câu: "Bạch nhật mạc nhàn quá, thanh xuân bất tái lai" = ngày bạc chớ lãng qua, tuổi xuân không trở lại. Chữ ngày bạc như vậy có nghĩa là ngày thường, ngày nào cũng như ngày nào sống đạm bạc ở chỗ thảo am.
Câu 2995: Chiếc lá lìa rừng: ví với cảnh Thuý Kiều phải lìa nhà mà lưu lạc.
Câu 2996: Nước mây: chân mây mặt nước, ý nói nơi xa xôi.
Câu 2997: Hoa rụng hương bay: ý nói Thuý Kiều đã bị chết.
Câu 2999: Minh dương: ("minh": tối) cõi âm và cõi dương.
Câu 3000: Cửu nguyên: chỉ âm phủ, cũng như chữ "cửu tuyền". Nguyên xưa là chỗ mộ địa của các quan khanh, đại phu nước Tấn chôn ở đất Cửu nguyên nên đời sau mới dùng chữ ấy để gọi chỗ mộ địa.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=125&IDcat=153 _______________
Quây nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần. 3005 Quanh co theo dải giang tân, Khỏi trăng lao đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Phòng trong vội dạo sen vàng bước ra. Sảy xem đủ mặt một nhà, 3010 Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hoà hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! 3015 Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng sợ sợ xiết bao sự tình. Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi: "Từ con lưu lạc quê người, 3020 Bèo trôi sóng vỗ, chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!" Ông bà trông mặt trao tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
Chú Thích: Câu 3004: Tình thâm: tình ruột thịt, tình sâu cha con, anh em.
Câu 3005: Giang tân: ("tân": bến) bên sông.
Câu 3008: Sen vàng: gót chân của người con gái đẹp. Xem chú thích câu 190.
Câu 3011: Phương trưởng: khôn lớn.
Câu 3011: Hoà hai: cả hai.
Câu 3015: Quẹn bào: thấm ướt áo. Chữ
có người đọc là quyễn, quyến, quén.
Câu 3017: Huyên: mẹ. Xem chú thích câu 224.
Câu 3020: Bèo trôi sóng vỗ: ý nói thân bị trôi nổi lênh đênh như bèo bị sóng vỗ.
Câu 3021: Sông nước cát lầm: ý nói bị chìm đắm dưới sông nước và bị vùi lấp trong cát lầm, tức bị chết chìm.
Câu 3022: Còn cầm: còn hòng, còn mong.
Câu 3024: Dung quang: diện mạo con người, vẻ đẹp.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=126&IDcat=153 ______________
3025 Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng ông lấy gì cân, Lời tan hợp, chuyện xa gần thiếu đâu? Hai em hỏi trước han sau, 3030 Đứng trông, nàng đã trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi Kiệu hoa giục rước tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi. 3035 Nàng rằng: "Chút (?) phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Thì rày tái thế tương phùng, 3040 Khát khao đã thoả tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa. Mùi thiền đã bén muối ích, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. 3045 Sự đời đã tắt lò lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì? Đã tu, tu trót qua thì thì thôi!
Chú Thích: Câu 3025: Dãi nguyệt dầu hoa: tức dãi dầu nguyệt hoa, ý nói bị đày đoạ trong cảnh nguỵêt hoa ("nguyệt hoa" chỉ sự tình ái giữa trai gái) khi bị ép phải vào thanh lâu.
Câu 3030: Chàng cũng trở sầu làm tươi: "Nguyên truyện": "Vương Quan, Thuý Vân đô thượng tiền xả túc tróc tí khiếu hoán thư thư. Kim Trọng bất tiện thướng tiền, chỉ hỉ đắc mi hoan nhỡn tiếu" = Vương Quan và Thuý Vân đều chạy tới nắm lấy tay Kiều và gọi: Chị! Chị! Chàng Kim không tiện tiến tới, chỉ đứng đấy mà vui vẻ nở mày tươi mắt.
Câu 3032: Tái sinh: làm cho sống lại.
Câu 3032: Trần tạ: ("trần": bày tỏ) tỏ lòng tạ ơn.
Câu 3032: Người từ bi: "người" ở đây chỉ Giác Duyên."Nguyên truyện": Viên ngoại nói: "Cứ như lời đó thì người là cha mẹ trùng sinh của con đấy". Nói đoạn, nghiêng mình sụp lễ Giác Duyên, Vương bà, Kim Trọng, Vương quan và Thuý Vân đều lễ theo.
Câu 3039: Tái thế tương phùng: được sống lại và được gặp lại nhau.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=127&IDcat=153 _________________
Trùng sinh ân nặng bể trời, 3050 Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?" Ông rằng: "Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu tiên, Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây? 3055 Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung." Nghe lời, nàng đã chiều lòng, Giã sư, giã cảnh đều cùng bước ra. Một đoàn về đến quan nha, 3060 Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai. Rằng: "Trong tác hợp cơ trời, Hai bên gặp gỡ một lời kết giao. 3065 Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Những là rày ước mai ao, 3070 Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa đảo đã dành có nơi.
Chú Thích: Câu 3049: Trùng sinh: ý nói lại đẻ ra mình lần thứ hai.
Câu 3050: Nghĩa người ra đi: người đây chỉ Giác Duyên như chữ người trong câu: Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
Câu 3051: Bỉ thử nhất thì: tức bỉ nhất thì, thử nhất thì. Mạnh tử đáp Sùng Ngu: Tiền nhật dư thường ngôn, quân tử bất oán thiên bất vưu nhân nhi kim nhược hữu bất dự cái bỉ nhất thì thử nhất thì dã. (Thầy Mạnh tử đáp lời hỏi của Sung Ngu: Ngày trước ta thường nói người quân tử không oán trời, không trách người, mà nay lại có điều chẳng bằng lòng, vì tuỳ việc mỗi lúc một khác).
Ở đây Vương ông muốn nói phải tuỳ hoàn cảnh mà xử sự không thể cứng nhắc được.
Câu 3052: Tòng quyền: tức ngộ biến tòng quyền, người ta khi gặp cảnh biến thì phải theo đạo "quyền" nghĩa là phải xử sự cho thích hợp với hoàn cảnh lúc biến, không thể giữ đạo "kinh" là cách xử sự vào lúc bình thường.
Câu 3055: Độ sinh: cứu sống lại.
Câu 3055: Đức cao dày: chỉ ơn đức cao dày của trời đất và của đức Phật.
Câu 3059: Quan nha: chỗ huyện sở, chỗ làm việc quan. Theo "nguyên truyện" thì gia đình Viên ngoại về nhà trọ mở tiệc đoàn viên rồi Kim Trọng cùng Vương ông, Vương bà, Thuý Kiều, Thuý Vân sang tỉnh Phúc Kiến để nhậm chức huyện lệnh Nam Bình. Riêng Vương Quan và vợ thì đi nhậm chức ở huyện Dương Châu.
Câu 3060: Đoàn viên: ("đoàn": tròn, "viên": hình tròn) quây quần sum họp.
Câu 3061: Chén cúc: chén rượu cúc.
Câu 3062: Một hai: một đôi điều, một vài điều.
Câu 3063: Tác hợp: Kinh Thi có câu Thiên tác chi hợp = trời tác thành cho đôi bên trai gái hợp nên vợ chồng.
Câu 3064: Kết giao: giao ước kết hợp với nhau.
Câu 3065: Bình địa ba đào: ("ba": sóng, "đào": sóng lớn) đất bằng nổi sóng; đây chỉ cảnh gia biến.
Câu 3067: Phận cải duyên kim: duyên phận vợ chồng. Xem chú thích câu 769.
Câu 3071: Gương vỡ lại lành: ý nói bị chia lìa rồi lại được đoàn tụ.
"Tình sử": Từ Đức Ngôn lúc từ biệt công chúa Lạc Xương đã đập cái gương vỡ làm hai mảnh, mỗi người giữ lấy một mảnh, sau gặp nhau ghép hai mảnh gương lại và lại được đoàn tụ.
Câu 3072: Lừa lọc: ("lừa": do chữ "lựa" chuyển thanh) lựa đi lọc lại, ý nói trời khéo khuôn xếp cho.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=128&IDcat=153
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:42:29 bởi sóng trăng >