Trường Hận Ca
Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, sau này hay gọi là Đường Minh Hoàng, nhà vua thứ chín đời nhà Đường (618-907). Lúc thiếu thời là một người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quí Phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi), Lý Lâm Phủ, ... nên quốc chính ngày càng suy tệ.
Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, quê ở vùng Nhiệt Hà là người rất thông minh, được nhà vua tin mến. Nhứt là đối với Quí Phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quí Phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận.
Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quân Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục.
Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau phải giết chết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức vua phải đem thắt cổ con người ngọc thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quí Phi là mầm sinh đại loạn.
Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà vua đành giấu mặt, cắt lòng mà "hy sinh người yêu khuynh quốc".
Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng.
Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, người đời nhà Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhận chúc Hàn lâm học sĩ. Có lúc ông bị biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ thượng thư.
Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài "Trường hận ca" (Hận tình muôn thuở).
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc,
Ngữ vũ đa niên cầu bất đắc.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Thiên sinh lệ chất nan tự khí:
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
Hồi mâu nhất tiếu, bách mị sinh,
Lục cung phấn đại vô nhan sắc.
Xuân hàn tứ dục Hoa thanh trì,
Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi.
Thị nhi phù khởi kiều vô lực,
Thỉ thị tân thừa ân trạch thì,
Vân bấn hoa nhan kim bộ diêu.
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu.
Xuân tiêu khổ đoản, nhật cao khởi.
Tùng thử quân vương bất tảo triều.
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,
Xuân tùng xuân du, dạ chuyên dạ.
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,
Tam thiên sủng ái tại nhất thân.
Kim ốc trang thành kiều thị dạ,
Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân.
Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ,
Khả liên quang thái sinh môn hộ
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.
Ly cung cao xứ nhập thanh vân,
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn,
Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc,
Tận nhật quân vương khan bất túc...
Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá Nghê Thường vũ y khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thặng vạn kỵ Tây Nam hành.
Thúy hoa diêu diêu hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân bất phát, vô nại hà,
Uyển chuyển nga my mã tiền tử,
Hoa điền ủy địa vô nhân thâu,
Thúy kiều kim tước ngọc tao đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lụy tương hòa lưu.
Hoàng ai tán mạn phong tiêu tác,
Vân san oanh vu đăng Kiếm các.
Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành,
Tinh kỳ vô quan nhật sắc bạc.
Thục giang thủy bích, Thục sơn thanh,
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình.
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh.
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự,
Đáo thử trù trừ bất năng khứ.
Mã ngôi pha hạ nê thổ trung,
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ,
Quân thần tương cố tận triêm y,
Đồng vọng đô môn tín mã quy.
Quy lai trì uyển giai y cựu:
Thái dịch phù dung Vị ương liễu.
Phù dung như diện liễu như my.
Đối thử như hà bất lụy thùy!
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây cung nam nội đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Lê viên đệ tử bạch phát tân,
Tiêu phòng a giám thanh nga lão.
Tịch diện huỳnh phi tứ thiểu nhiên
Cô đăng khiêu tận, vị thành miên.
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục dục thự thiên.
Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng,
Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cộng
Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.
Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách,
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.
Vị cảm quân vương tuyển chuyển tư,
Toại giao phương sĩ ân cần mịch
Bài vân ngự khí bôn như điện,
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.
Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền,
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.
Hốt đăng hải thượng hữu tiên san,
San tại hư vô phiếu diễu gian.
Lâu các linh lung ngũ vân khởi,
Kỳ trung sước ước đa tiên tử.
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân,
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.
Kim khuyết tây tương khấu ngọc quynh,
Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành.
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ.
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh.
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi,
Châu bạc ngân bình dĩ lỹ khai.
Vân kế bán thiên tân thụy giác,
Hoa quan bất chính hạ đường lai.
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử
Do tự Nghê Thường vũ y vũ,
Ngọc dung tịch mạc lệ lan can.
Lê hoa nhất chi xuân đái vũ.
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương
Nhất biệt âm dung lưỡng diễu mang.
Chiêu dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường.
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương cựu vật biểu thâm tình
Điền hợp kim thoa ký tương khứ.
Điền lưu nhất cổ hợp nhất phiến
Thoa bích hoàng kim hợp phân điện.
Đãn giao tâm tự kim điền kiên,
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.
Lâm biệt ân cần trọng ký từ,
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri,
Thất nguyệt thất nhật Trường sinh điện,
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì,
Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chi.
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.
Tác phẩm này đã có nhiều người dịch ra quốc văn, có bản bằng Pháp văn của Georges Soulié de Morant. Dưới đây là bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên:
Vua Hán ước mơ người quốc sắc,
Bao năm tìm kiếm luống công toi.
Họ Dương có gái hoa đương nở,
Khóa kín buồng xuân, hận lẻ loi.
Sắc đẹp trời sinh khôn bỏ phí,
Ngai vàng một sớm được ngồi chung.
Một cười khêu gợi trăm mê luyến,
Xóa mất hồng nhan ở sáu cung.
Xuân lạnh, Hoa thanh hồ sẵn đó,
Suối tuôn dòng ấm tắm hoa khôi,
Vua ban ân trạch, con hầu nịnh
Sáng dậy phò nâng ẻo lả ngồi.
Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt,
Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào.
Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn,
Từ đấy nhà vua nhãng thị trào.
Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt;
Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình.
Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối,
Sủng ái từ đây thanh hầu thánh chúa,
Anh em nhuần gội ơn mưa móc,
Nhà cửa hàn vi rạng rỡ lây.
Thiên hạ đem lòng mơ phú quý,
Khinh trai trọng gái kể từ đây.
Ly Cung cao tít lồng mây biếc,
Tiên nhạc mê hồn vẳng bốn phương.
Sớm tối ca êm hòa múa dịu
Não nùng tơ trúc đắm quân vương.
Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy,
Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan.
Thành khuyết xôn xao mù khói bụi,
Xe rồng rong ruổi hướng tây nam.
Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất.
Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh.
Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến:
Mày ngài trước ngựa phải hy sinh!
Hoa tai bỏ đất, không người nhặt,
Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi.
Đứt ruột quân vương đành giấu mặt.
Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi.
Bụi vàng tản mác đìu hiu gió,
Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài.
Chân núi Nga Mi buồn bã vắng;
tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai.
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc,
Sớm tối nhà vua trĩu nhớ nhung.
Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm,
Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng.
Trời xoay đất chuyển quày long ngự,
Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ.
Mặt ngọc giờ đâu? Trơ tử địa,
Mã ngôi ảm đảm đất bùn nhơ,
Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo,
Kinh khuyết vời trông tế ngựa về,
Về tới, vườn ao như thuở trước.
Vị ương lá liễu giống mày ai,
Phù dung Thái dịch trông như mặt.
Cảnh cũ tình xưa giọt lệ rơi!
Đào lý nở hoa xuân gió thoảng,
Mưa thu đổ rụng lá ngô đồng.
Tây cung Nam nội đầy thu thảo,
Phủ kín thềm hoang lá úa hồng.
Con hát Lê viên sầu tóc bạc,
Tiêu phòng thái giam hận răng long.
Tối nhìn đom đóm bay le lói.
Khêu cạn đèn khuya giấc chửa an.
Dằng dặc năm canh rền trống điểm,
Sông Ngân lấp lánh báo đêm tàn.
Mái lầu thánh thót rơi sương lạnh,
Đắp chiếc mền đơn, nhớ độ nào...
Sống thác bao năm đằng đẵng biệt,
Hương hồn sao chẳng hiển chiêm bao!
Lâm Cùng may có tay phương sĩ,
Một phép chiêu hồn dậy tiếng tăm,
Thương cảm quân vương trằn trọc nhớ,
Mới sai đạo sĩ cố truy tầm.
Cỡi mây lướt gió nhanh như chớp,
Lên tận trời cao xuống đất sâu.
Bích Lạ, Hoàng Thuyền đi khắp chỗ,
Mênh mông nào thấy bóng ai đâu!
Chợt nghe ngoài biển nơi không ảo,
Lơ lửng mơ hồ có núi tiên.
Cung điện chập chờn mây ngũ sắc.
Tiên nga tha thướt dạo trong đền,
Mặt hoa da tuyết riêng nàng nọ,
Phảng phất hình dung, tợ Thái Chân.
Gõ cửa hiên tây vàng rực rỡ,
Báo tin Tiểu Ngọc, nhắn Song Thành.
Nghe tin sứ giả đời vua Hán
Trướng gấm hồn mơ bỗng giựt mình.
Dã dượi ngồi lên, thu vạt áo,
Rèm châu bình lạc, mở lần ra.
Tóc mây lệch nửa, nghiêng nghiêng mũ
Bước xuống thềm loan, dáng thẫn thờ.
Tay áo gió lay bay phất phới,
Tưởng như đang múa Nghê Thường xưa.
Âm thầm mặt ngọc lưa thưa lệ,
In một cành lê điểm điểm mưa.
Ngầm sầu ngưng lệ, tạ quân vương,
Từ thuở âm dương biệt mỗi phương.
Trong điện Chiêu Dương, ân ái tuyệt,
Bồng lai tiên cảnh, tháng năm trường.
Ngoảnh đầu trông xuống nơi trần thế,
Chẳng thấy Trường An, thấy bụi mù.
Gởi tỏ tình tâm trong vật cũ,
Thoa vàng hộp đá kính dâng vua.
Hộp đá thoa vàng đem bẻ nửa,
Nửa thì giữ lại, nửa đưa trao,
Lòng sao chỉ nguyện như vàng đá,
Hạ giới thiên đình sẽ gặp nhau.
Lúc sắp lui về còn nhắn nhủ,
Nhắc lời thệ ước giữa đôi bên.
Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện.
Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền:
"Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền".
Trời đất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên.