Điển hay tích lạ -Nguyễn Tử Quang
Ngàn dâu
"Ngàn dâu" do chữ "Mạch thượng tang".
Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường.
"Mạch thượng tang" cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu thời Xuân Thu.
Trong "Chinh phụ ngâm", nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, đoạn tả tình cảm của nàng chinh phụ lúc tiễn chồng ra đi, có câu:
Tương cố bất tương kiến,
Thanh thanh mạch thượng tang.
Mạch thượng tang, mạch thượng tang,
Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường. Bà Đoàn Thị Điểm dịch nôm:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Nguyên nàng La Phu là một thiếu phụ sắc nước hương trời, văn chương âm nhạc nổi tiếng. Chồng nàng là một chiến sĩ hải hồ. Cả hai vẫn yêu nhau tha thiết. Nhưng rồi "trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương" nên chàng xách kiếm sang Tần, ước hẹn vợ một thời gian trở về.
Nàng La Phu ở quê nhà, ngày ngày hái dâu chăn tằm, dệt vải. Những lúc đêm dài canh vắng, nàng lẻ loi, thui thủi bóng mình nên thường sáng tạo những bài thơ điệu
cổ nhạc phủ để tỏ nỗi lòng thương nhớ người xa vắng.
Một hôm, nàng đương hái dâu bên vệ đường, bất chợt Triệu vương du ngoạn sang ngang, nhìn thấy người thiếu phụ thô quê nhưng sắc đẹp mỹ miều lấy làm động lòng. Hỏi người biết nàng là kẻ tài hoa, văn hay đàn giỏi, Triệu vương càng say mê hơn nữa. Về triều, Triệu vương cho người đến đòi La Phu tới. Nhà vua dọn tiệc khoản đãi ân cần, mong được cùng giai nhân vầy duyên ân ái.
Nàng buồn rầu ứa lệ nhưng còn vị nể chúa tôi nên nàng ngồi vào tiệc, đoạn cầm đàn lên gẩy, hát khúc"Mạch thượng tang" để tỏ ý mình. Triệu vương tuy hiếu sắc những thông minh. Nghe qua bài hát, bản đàn biết thâm ý của nàng là bao giờ cũng liều chết để bảo vệ trinh tiết cùng chồng, giàu sang, uy quyền và bạo lực không làm lay chuyển lòng người trinh phụ. Triệu vương vừa hối hận vừa thẹn thuồng nên truyền cho La Phu về, bỏ mộng luyến ái giai nhân.
Tác giả mượn điển tích "Mạch thượng tang" (ngàn dâu) ngoài cái ý tả cảnh còn có ý tả mối tình chung thủy giữa trinh phụ đối với chinh phu một cách tế nhị.
Giảm bếp, tăng bếp
Đời Chiến Quốc, nước Ngụy và nước Tề giao tranh. Tướng Tề là Tôn Cẩn nói với Điền Kỵ:
- Quân của Bàng Quyên vốn dũng mãnh mà khinh thường Tề, chi bằng nay ta giả ra thế yếu dụ nó.
Điền Kỵ hỏi:
- Dụ cách nào?
- Ngày nay nên làm 10 vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi. Nó thấy bếp của quân ta bỗng bớt mất, tất cho quân ta nhát sợ mà trốn đi, sẽ gấp đường tiến đánh. Như thế khí nó tất kiêu và sức nó tất kiệt, ta sẽ dùng kế mà đánh tất thế nào cũng thắng.
Tướng của Ngụy là Bàng Quyên khi thấy quân Tề rút lui để lại địa điểm cũ rộng rãi, cho người đến quan sát, xem chỗ bếp đun thấy 10 vạn bếp. Quân Tề báo cáo, Bàng Quyên lấy làm sợ hãi, cho rằng quân Tề quá nhiều, không thể khinh địch. Hôm sau, đến một chỗ dinh trại bỏ lại thì chỉ thấy có hơn 5 vạn bếp. Lại hôm sau nữa, chỉ còn thấy có 3 vạn bếp. Bàng Quyên mừng rỡ nói với thái tử Thân:
- Tôi vốn biết người nước Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có 3 ngày mà quân lính bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư!
Đoạn truyền lịnh tấn binh.
Khi đi đến Mã Lăng thì mặt trời đã lặn. Đường Mã Lăng là một nơi hiểm yếu, ở giữa hai quả núi, hang khe sâu hẹp. Bấy giờ vào lúc hạ tuần tháng 10, trời không trăng... Tiền quân của Bàng Quyên báo cho Quyên hay là có nhiều cây bị chặt chận ngang đường, khó tiến lên được. Quyên bảo: đó là quân Tề sợ bị đuổi theo nên lập ra kế ấy.
Nhưng Quyên vừa ra lịnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng có dấu chữ; nhưng vì đêm tối không nhận rõ mới sai tên lính đánh lửa soi xem, nhận thấy hai câu: "Bàng Quyên chết dưới cây này" và "Quân sư Tôn bảo". Bàng Quyên bây giờ hốt hoảng, biết là mắc mưu, vội vàng hạ lịnh cho quân lui mau. Nhưng chưa kịp lui, thì hai toán phục binh cung nỏ của Tề trông thấy lửa sáng, liền bắn ra như mưa. Quân Ngụy rối loạn hàng ngũ. Bàng Quyên bị tên trọng thương, liệu không thoát được rút kiếm đâm cổ tự tử.
Đó là kế "Giảm bếp" của Tôn Tẩn.
Ngược lại kế của Tôn Tẩn, Khổng Minh dùng kế "Tăng bếp".
Đời Tam quốc, nhà Ngụy và Thục giao tranh.
Thừa tướng nhà Thục là Gia Cát Lượng tự Khổng Minh cầm quân phạt Ngụy ... Đô đốc nhà Ngụy là Tư Mã Ý cầm quân chống cự. Hậu chúa nhà Thục vì nghe lời gièm pha nên nghi kỵ Khổng Minh làm phản, liền giáng chiếu triệu Khổng Minh rút quân ngay về để tước hết binh quyền. Vì sợ trái lịnh vua mà bị nghi kỵ thêm, nên Khổng Minh phải đành rút quân.
Tướng là Khương Duy hỏi:
- Đại quân rút lui. Tư Mã Ý thừa thế đuổi đánh thì làm thế nào?
- Nay ta lui quân, phải chia làm 5 tốp mà rút dần. Như hôm nay rút khỏi một trại, nếu trong trại còn lại một ngàn quân thì phải đào hai ngàn cái bếp. Ngày hôm trước đào 3 ngàn bếp thì hôm sau đào thêm 4 ngàn. Cứ ngày ngày rút bớt quân, đào thêm bếp mà về.
Đoạn ra lịnh nhổ trại lui quân.
Tư Mã Ý nghe tin sợ Khổng Minh đa mưu, chưa dám khinh tiến. Trước hết đem hơn trăm kỵ binh đến trại Thục quan sát. Đến nơi, sai quân sĩ đếm số bếp, rồi quay về trại nghỉ. Hôm sau, lại sai quân đến chỗ nền trại mới mà đếm. Quân về báo: "Số bếp trại này nhiều hơn số bếp trại hôm qua một phần ba". Ý bảo các tướng:
- Ta đoán Gia Cát Lượng lập mẹo giả lui dụ địch, nay quả nhiên hắn vừa lui vừa gọi thêm quân! Nếu ta đuổi đánh, ắt đã mắc mẹo phục binh. Thôi, giờ ta hãy rút về, rồi hãy hay.
Đoạn rút quân về.
Thế là Khổng Minh không hao một tên lính, vẫn yên ổn kéo quân về Thành Đô.
Sau, có người ở cửa ngõ Tây Xuyên đến báo cho Tư Mã Ý hay việc ấy. Ý ngửa mặt than:
- Thì ra Lượng dùng phép của Ngu Hủ mà đánh lừa được ta.
Thao lược
"Thao lược" cũng gọi là "Lục thao, Tam lược". Đây là hai bộ sách thuộc về binh pháp cổ Trung Hoa.
"Lục thao" do Khương Thượng tự Tử Nha, cũng gọi là Lữ Vọng hay Khương Thái công, người đời nhà Chu (1134-314 trước D.L.) làm ra. Còn "Tam lược" là bộ sách của Hoàng Thạch Công, người đời Tần Hán (221 trước-196 sau D.L.).
Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.), Trụ vương hoang dâm tàn bạo, giết chóc trung thần, sinh linh đồ thán. Khương Thượng làm quan nhà Thương, thấy Trụ vương vô đạo, can gián không được, xin từ quan về câu cá ở sông Vị đất Tây Kỳ.
Văn vương là Cơ Xương, chúa chư hầu đất Tây Kỳ thân hành đến Bàn Khê đón rước ông về làm tướng, hội chư hầu tại Mạnh Tân, cầm quân phạt Trụ. Lúc bấy giờ ông đã 80 tuổi.
Ông là một người có tài, lật đổ ngai vàng của Trụ vương dựng cơ nghiệp nhà Chu hơn tám trăm năm. Những mưu lược, kế hoạch dùng binh đánh trận, chấn chỉnh giềng mối đất nước đều ghi trong bộ Lục thao.
Đây là sáu phép dùng để định thiên hạ:
- Văn thao dạy cánh thu phục nhân tâm,
- Võ thao dạy cách định thiên hạ, giữ nước,
- Long thao dạy cách kén chọn tướng,
- Hổ thao dạy cách hành quân, tiến thoái động tĩnh theo thiên lý.
- Báo thao dạy cách chiến đấu với địch, theo trạng thái biến hóa của địch.
- Khuyển thao dạy cách huấn luyện quân sĩ.
Còn "Tam lược" là mưu lược đánh trận:
- Tướng lược là mưu lược làm tướng,
- Quân lược là mưu lược của quân sĩ,
- Trận lược là mưu lược đánh trận.
Sách này do Hoàng Thạch Công, người đời Tần Hán làm ra, truyền lại cho Trương Lương thực hành.
Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hàn. Sau khi nước Hàn cùng các nước Yên, Tề, Ngụy, Sở bị Tần tiêu diệt. Thù mất nước chẳng đội trời chung, Trương Lương ngày đêm mưu lo báo oán.
Trương Lương lúc chưa gặp thời, còn trẻ tuổi, một hôm thơ thẩn ở cầu Vị Kiều, buồn bã ngắm cảnh. Bỗng có một cụ già mặc áo vàng đi ngang cầu làm rớt một chiếc giày xuống bùn, lại chỉ Trương Lương bảo lượm giúp. Trương Lương không từ chối, lật đật lội xuống lượm lên quỳ dâng. Cụ già đi một quãng lại làm rớt nữa và bảo Trương Lương lội xuống lượm giúp. Trương Lương chẳng phiền hà và phải lượm giày lên quỳ dâng. Đến ba lần như thế.
Cụ già nói:
- Thằng nhỏ này nên dạy.
Đoạn chỉ cây đại thọ nơi bên cầu, bảo Trương Lương:
- Năm ngày nữa, ngươi phải đến tại đây mà đợi ta, ta sẽ tặng cho ngươi một vật. Chẳng nên quên.
Nói xong, cụ già thoăn thoắt đi mất.
Ngày thứ năm, Trương Lương dậy rất sớm ra đón cụ già như chỗ dặn. Nhưng khi đến nơi thì đã thấy cụ già ngồi bên gốc đại thọ từ lúc nào. Cụ già nghiêm nghị bảo:
- Thằng con nít đã ước hẹn với người lớn, sao lại dám trễ. Thôi ngươi hãy về đi. Năm ngày nữa, phải ra dậy cho sớm.
Năm ngày sau, vừa canh năm, Trương Lương đã ra đến nơi nhưng lại cũng thấy cụ già đến trước ngồi đợi. Cụ già nổi giận nói:
- Thằng con nít, sao ngươi lại trễ nãi làm vậy. Hãy về đi. Năm hôm nữa phải đến cho sớm.
Đêm thứ tư rạng ngày thứ năm, Trương Lương không ngủ, ra đứng bên gốc đại thọ, bụng bảo dạ chuyến này chắc chắn không trễ nữa. Hừng đông, cụ già thong dong đến. Dưới bóng trăng, Trương xem lại tướng mạo cụ già có vẻ khác thường. Mình mặc đạo bào, tay cầm gậy tre; đầu đội mão da, y phục sắc vàng thật tiên phong đạo cốt. Trương Lương bước đến đón tiếp quỳ lạy, hỏi:
- Chẳng hay tôn sư dạy bảo điều chi?
Cụ giá nói:
- Ngươi trẻ tuổi sức mạnh, cốt cách thành kỳ, ngày sau sang cả, đáng làm bực thầy bực đế vương. Nay may gặp nhau thật là thiên tải kỳ phùng, ta cho ngươi ba quyển sách nhiệm màu, trong này toàn là những kỳ mưu thần toán. Ngươi hãy giữ gìn học tập mà báo thù cho nước, và theo phò chân chúa để danh rạng muôn đời.
Trương Lương lạy tạ lãnh lấy.
Sau Trương Lương phò Lưu Bang diệt Tần dứt Sở Hạng Võ rồi bỏ quan ngao du sơn thủy.
Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên", của cụ Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn nói về tài của Từ Hải có câu:
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
"Ba lược, sáu thao" là hai bộ sách thuộc về binh pháp như trên đã nói. "Lược thao gồm tài" là gồm tài thao lược, ý nói có tài dùng binh bố trận, có tài về chiến lược chiến thuật, thông hiểu binh pháp.
Tết Trung Thu
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền, thiện tiện phế lập và cuối cùng cướp được ngôi vua, đặt quốc hiệu là Tân.
Bấy giờ có người tông thất về chi xa của nhà Hán là Lưu Tú nổi lên chống lại Vương Mãng, chiếm được thành trì. Nhưng thế lực Mãng còn thời mạnh mẽ, nên Lưu Tú bị bao vây, phải chờ binh cứu viện.
Trong thời gian chờ đợi, trong thành đã hết lương thực. Quân sĩ phải đào củ chuối mà ăn. Rốt cuộc củ chuối, củ vỏ cũng không còn nữa. Và, binh cứu viện cũng chưa thấy đến. Lưu Tú lấy làm lo lắng, mới đặt bàn hương án cầu trời: "Nếu có thể khôi phục được Hán triều, dòng Hán chưa tuyệt thì xin Thượng Đế ban phép mầu cho mọc vật chi để cầm cự đỡ lòng mà chờ viện binh đến".
Lời của Lưu Tú động đến thiên đình.
Sáng hôm sau, giữa lúc quân lịnh đào đất để tìm vật ăn thì bỗng đào được một thứ khoai. Họ mừng rỡ, đem về nấu ăn. Đó là một thứ khoai môn, vị rất bùi, ăn rất ngon. Nhưng quân lính ăn nhiều quá mang chứng sình bụng, không tiêu được. Lưu Tú đâm hốt hoảng, lại đặt bàn hương án cầu trời.
Ba hôm sau, quân lính trong thành đi tìm thức ăn bỗng bắt gặp một thứ cây bưởi có trái. Họ hái trái ấy ăn thấy ngon nên ăn nhiều quá; và cũng nhờ đó mà đi tiêu được, không còn mắc phải chứng bịnh sình bụng nữa. Cầm cự một thời gian như thế, viện binh đến, dùng cách ngoại công nội ứng nên giải được vây.
Ngày mà Lưu Tú cầu trời nhằm ngày rằm tháng 8.
Truyền thuyết như thế.
Sau Vương Mãng bị giết. Hai năm sau, Lưu Tú bình định được toàn quốc, lên ngôi vua tức là Quang Võ Đế nhà Hậu Hán. Nhân Quang Võ đóng đô ở Lạc Dương thuộc về miền đông nước Tàu nên gọi là Đông Hán.
Vì muốn kỷ niệm lại những vật nuôi sống trong thời kỳ bị vây là khoai môn và bưởi, nên đến ngày rằm tháng 8, nhà vua làm lễ tạ trời đất, lại thưởng trăng bằng hai vật là bưởi và khoai môn. Rồi được truyền khắp dân gian.
Hai vật này là hai vật chính mà người Tàu dùng để cúng trăng. Sau lần lần, người ta mới bày thêm bánh in, có đề chữ "Trung thu nguyệt bỉnh", tổ chức thành một ngày lễ long trọng gọi là Tết Trung Thu.
Vì ngày rằm 8 tháng 8 đúng vào giữa mùa Thu, theo luật âm dương tuần hoàn, trong một năm được phân định bốn kỳ: Xuân phân, Hạ chí, Thu phân và Đông chí. Rằm tháng 8 vào thời kỳ Thu phân (giữa mùa thu) lại giữa tháng 8 nên gọi là tiết Trung Thu.
Tiết Trung Thu đọc trại là Tết Trung Thu.
Khi nói đến Tết Trung Thu là nói đến trăng tròn, trăng sáng, trăng đẹp. Thế nên người Tàu còn kêu tết Trung Thu là "Lễ trông trăng".
Lễ này có mục đích là trông mặt trăng để đoán định vận mạng quốc gia, tiên liệu mùa màng... và trông trăng để gợi nguồn cảm hứng cho thi tứ của tao nhân mặc khách.
Theo cổ học Đông phương thì trăng thuộc về Thủy trong 5 ngũ hành (Kim, Một, Thủy, Hỏa, Thổ) mà Thủy (nước) là một yếu tố quyết định nghề nông... Cho nên, vào đêm rằm Trung Thu, nhân dân kéo ra sân mà quan sát mặt trăng. Nếu trăng vàng thì năm tới sẽ trúng mùa tằm tợ Nếu trăng có màu xanh, màu lục thì thiên hạ sẽ lâm cảnh thất mùa cơ hàn do thiên tai: hạn hán, lụt lội. Nếu trăng trong sáng màu cam la, biểu lộ một cảnh thạnh trị thái bình...
Ấy là ngắm trăng thu để tiên tri thời cuộc, mùa màng, còn tao nhân mặc khách ngắm trăng thu để gợi nguồn cảm hứng. Những nhà thơ VN cũng như những nhà thơ Trung Hoa có rất nhiều thơ về trăng thu và về mùa thụ Nhưng mỗi người có một tính cáh; cũng như thơ có nhiều sắc thái do tình cảm buồn sầu vì thu hay vui vẻ vì thu chẳng hạn.
Đỗ Phủ, một thi hào danh tiếng thời thịnh Đường (715-766), nhân lênh đênh phiêu bạt đất khách có 2 năm trời, lòng hoài vọng cố hương nên gởi lòng trong một bài "Thu hứng" rất lâm ly, áo não:
Ngọc lộ điêu thương phong thụy lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai; tha nhật lệ,
Cô chu nhất lệ: cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dưới đây là hai bản dịch: một của cụ Nguyễn Công Trứ và một của ông Ngô Tất Tố:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn lau hiu hắt khí thu mờ.
Ngút trời sóng dậy lòng sông thẳm,
Rợp đất mây ùn mặt ải xa.
Khóm trúc tuôn hai hàng lệ cũ
Con thuyền buộc một mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành quạnh dồn chân buổi ác tà.
(Nguyễn Công Trứ)
Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may.
Dòng sông cồn cộn, trời tung sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đấy rợp mây,
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.
(Ngô Tất Tố)
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/28630/91753B0DC7A942F68404E54D7212DB50.jpg[/image]
Mật lịnh trong nhưn bánh Trung Thu
Năm 1279, Nguyên Thế Tổ là Hốt Tất Liệt - vua Mông Cổ - đem quân đánh nhà Nam Tống ở Trung Quốc. Nam Tống đại bại bị diệt. Nhà Nguyên làm chủ toàn bộ Trung Quốc. Lần thứ nhứt, Trung Quốc bị ngoại tộc thống trị.
Đối với Trung Quốc, nhà Nguyên vẫn giữ quan niệm kỳ thị chủng tộc. Trong nước bấy giờ chia làm bốn đẳng cấp: người Mông Cổ, người Sắc Mục (chỉ người Tây Vực và Châu Âu), người Hán (chỉ người nước Liêu và nước Kim còn sót lại). Giữa người Mông Cổ và người Hán có một chế độ chênh lệch. Những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự đều tập trung vào tay người Mông Cổ. Người Hán và người Nam chỉ được giữ những địa vị phụ thuộc.
Hạng nho sĩ được người Trung Quốc quý trọng thì bị người Mông Cổ khinh miệt. Họ thường có câu nói ví: "Thứ tám là đĩ, thứ chín là nho, thứ mười là ăn mày".
Muốn đề phòng nội loạn, nhà Nguyên cấm chỉ dân Giang Nam cầm binh khí. Trong vòng 10 nhà thì đặt giáp trưởng để giữ người Nam. Các vương công và quan lại Mông Cổ tự do cướp ruộng đất của nông dân để làm mục trường và nô tỳ.
Sự bức bách khắc nghiệt đó chính là một yếu tố quan trọng, tạo thành một động lực cho phong trào nông dân bạo độc và dân tộc tranh đấu đòi giải phóng.
Năm 1337, đời Thuận Đế nhà Nguyên, Châu Quang Khanh nổi dậy ở Quảng Châu, Bạng Hồ ở Tín Dương Châu. Tiếp theo đó nông dân quật khởi ở nhiều nơi khắp miền nam và miền bắc.
Năm 1351, cha con Hàn Sơn Đồng lập Bạch Liên Hội, lợi dụng tôn giáo để tổ hợp nông dân. Đây là một giáo hội bí mật, tuyên truyền rằng: "Hoa sen trắng (Bạch liên) nở có Phật Di Lặc giáng thế", đồng thời viết kinh sách và phù chú để truyền bá trong dân gian. Phong trào này gây nhiều ảnh hưởng ở Hà Nam và Giang Hoài.
Hàn Sơn Đồng bị bắt. Con là Hàn Lâm Nhi nối lấy nghiệp cha và xưng đế. Đồng thời, Trương Sĩ Thành chiếm cứ đất Ngô; Trần Hữu Lương chiếm cứ Giang Châu; Châu Nguyên Chương chiếm cứ Tập Khánh (thành Nam Kinh bây giờ).
Châu Nguyên Chương xuất thân là một thầy tu. Bên cạnh lại có vị quân sư là Lưu Bá Ôn vốn người đa mưu túc trí. Năm 1367, Châu Nguyên Chương xưng vương tuyên bố tranh đấu giải phóng dân tộc, thành lập chánh quyền của người Trung Hoa, chiếm cứ vùng Giang Hoài, thống nhất phương Nam. Năm 1368, Châu Nguyên Chương sai tướng Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đem binh lên miền bắc đánh vua Nguyên Thuận Đế.
Mùa thu tháng 8 năm 1368.
Tướng Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân điều động quân đội mở cuộc bắc tiến với mật kế của quân sư Lưu Bá Ôn.
Nhân dân Bắc kinh đang tổ chức cúng rằm Trung thu. Họ chuẩn bị bánh, bưởi, khoai môn... Nhưng khi cắt bánh ra, dân chúng trong thành rất đỗi ngạc nhiên thấy trong nhưn bánh có một mảnh giấy vàng con đề một dòng chữ nhỏ son đỏ vắn tắt: "Khuya ngày rằm Phật Di Lặc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước".
Cho là thần linh báo trước, mọi người mừng rỡ. Ai ai cũng vâng lịnh thần linh. Vì họ tin rằng: khi Phật Di Lặc giáng thế là lúc họ sẽ được thoát khỏi cảnh lầm than mà bước đến đài hạnh phúc.
Trước kia, khi đặt nền thống trị Trung Hoa, người Mông Cổ muốn bắt người Hán theo văn hóa du mục của họ. Nhưng văn hóa hòa nhã tinh tế của người Hán lần lần cảm hóa được tính chất của người Mông Cổ, có ảnh hưởng sâu xa tinh thần người Mông Cổ, thành ra dân tộc bị chinh phục trở lại đồng hóa kẻ thống trị mình. Do đó vua Thuận Đế chẳng những bằng lòng cuộc tổ chức lễ nghi của dân Trung Hoa mà còn sẵn sàng bày những cuộc vui chơi trong đêm rằm Trung Thu để thưởng nguyệt nữa.
Nhà vua cùng quần thần mặc say sưa chè chén.
Dân chúng trong thành mặc tự do đi đi lại lại. Ai ai cũng cầm trong tay một chiếc đèn lồng. Cả bầu trời sáng rực. Thật là một hội hoa đăng tưng bừng, náo nhiệt.
Cửa thành mở toát
Người đi lại tấp nập.
Trên vườn Thượng Uyển, Thuận Đế tay nâng cốc rượu say sưa ngắm chị Hằng, bên cạnh bao vây một hàng vũ nữ, nàng nào cũng lộng lẫy xinh tươi.
Dưới đường, dân chúng cầm lồng đen cũng say sưa chờ đợi để đón rước Phật Di Lặc giáng thế.
Canh hai, canh ba ... không thấy gì. Nhưng ...
Bỗng một tiếng pháo lịnh nổ.
Một số người cầm đèn bấy giờ buông đen, tay đổi cầm khí giới.
Thì ra, một số quân lính của Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân giả làm dân chúng, cầm đen trà trộn đột nhập vào thành để làm nội ứng.
Quân lính bên ngoài lại xông vào hợp với quân trong thành tấn công dữ dội.
Tiếng hò hét vang dậy.
Chúa tôi nhà Nguyên giữa lúc say sưa chè chén bên cạnh bọn vũ nữ quay cuồng với khúc Nghê Thường vũ y, bị đánh thình lình, không phương chống cự nên cuống cuồng bỏ chạy.
Quân của Từ Đạt chiếm lấy thành.
Vua Thuận Đế nhà Nguyên bị đuổi chạy về Mông Cổ.
Châu Nguyên Chương thâu lại toàn bộ Trung Quốc, lên ngôi hoàng đế, định đô tại Tập Khánh (Nam kinh), đổi quốc hiệu là Minh. Ấy là vua Minh Thái Tổ.
Nước Trung Hoa vào tay người Mông Cổ trong 89 năm (1279-1386), trải qua mười đời vua, nay lại trở về người Hán.
Xiềng xích đô hộ tan vỡ. Nhân dân hoan lạc âu ca.
Một "nhưn bánh" ... lịch sử. [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/28630/E7FB2DEC3EE4429F871E2D0245BC8BA5.jpg[/image]
Tết Đoan Dương
Tết Đoan Dương cũng gọi là Tết Đoan Ngọ. Theo phong tục Tàu, tết này ăn vào ngày mồng 5 tháng 5.
Vì quan Đại Phu nước Sở (một nước chư hầu thời Xuân Thu, ở vào địa phận tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ) là Khuất Nguyên trầm mình tự tử tại sông Mịch La vào ngày mồng 5 tháng 5. Từ ấy, mỗi năm đến ngày tháng này, người Tàu tổ chức cuộc lễ đua thuyền ngụ ý vớt xác Khuất Nguyên vì cảm mến kẻ trung thần. Tục ấy lâu ngày thành lệ vui chơị
Khuất Nguyên tên Bình, là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương, học rộng, nhớ dai, giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Ông giúp vua bàn quốc sự và ra hiệu lịnh, tiếp đãi tân khách, ứng đối chư hầu. Trước vua tin cậy lắm. Sau có quan lại ganh tài ông, tìm cách hãm hại, vu cho ông là ông thường khoe với mọi người rằng: "Mỗi lần nhà vua ra lịnh đều là do công của ông nghĩ ra cả". Vua nghe lời gièm sinh ghét ông. Ông âu sầu, ưu tư viết thiên Ly Tao để tả nỗi buồn bị vua bỏ.
Ly Tao nghĩa là xa vua mà buồn. Đây là một tác phẩm bất hủ của ông, dài 370 câu tả tâm sự của tác giả. Đặc sắc của bài trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại.
Tình cảm của ông luôn luôn thay đổi một cách kỳ dị. Vừa vui đã buồn, vừa cười đã khóc. Vừa muốn đi xa lại đổi ý. Đòi lên chầu Thượng Đế lại muốn trở về cố hương, rồi lại muốn tự tử. Tình cảm của ông biểu hiện một cách trung thực: mỗi chữ là một tiếng thở dài lâm ly, một giọt nước mắt não ruột. Ít có một văn nhân nào đau khổ, thác loạn đến thế.
Bài "Thiên vấn" (hỏi Trời) của ông cũng là một kỳ văn, tuy kém thiên Ly Tao về phương diện nghệ thuật nhưng giọng lại cũng ai oán cùng cực. Ông hỏi Trời một loạt 172 câu. Sức tưởng tượng của ông thật vô địch.
Sở Hoài Vương sang đánh Tần (Một nước chư hầu thời Chiến Quốc ở vào địa phận Tân Châu (tỉnh Cam Túc) và tỉnh Thiểm Tây ngày nay), Khuất Nguyên nhiều lần can ngăn, nhưng nhà vua không nghe, rốt cuộc Hoài Vương bị thất bại, chết tại đất Tần.
Vua Tương Vương nối ngôi, bọn phản đối ông càng đắc chí, ông bị đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú "Hoài Sa" rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La.
Ca dao ta có câu: "Ăn Tết Đoan Ngọ trở về tháng năm".
Tết Trùng Cửu
Theo phong tục của Tàu, Tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9.
Nguyên đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo cảnh:
- Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn.
Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy.
Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.
Vì tích trên, nên về sau hằng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn... Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ.
Sách "Phong Thổ Ký" lại chép:
Cuối đời nhà Hạ (2205-1818 trước D.L.), vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông.
Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn... Tục ấy thành lệ.
Đến đời Hán Văn Đế (176-156 trước D.L.), vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy.
Sau đến đời nhà Đường (618-907), ngày mồng 9 tháng 9 thành ngày lễ tết gọi là Trùng Cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh.
Cổ thi có câu: "Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao".
"Đăng cao" là lên chỗ cao. "Trùng cửu" và "Đăng cao" đều do điển tích trên.
Lầu Xanh và Thần Mày Trắng
"Lầu xanh" tên chữ "Thanh lâu".
Tào Thực đời Tam Quốc (220-264) có viết:
Thanh lâu lâm đại lộ,
Cao môn kết trùng quan.
Nghĩa là:
Lầu xanh bên đường lớn,
Cửa cao mấy lần then.
Ngày xưa, lầu xanh là nơi các nhà quyền quý, những thiếu nữ khuê các ở. "Đại lộ khi thanh lâu" nghĩa là đường lớn dựng lầu xanh.
Nhà Tề, vua Võ Đế bắt dân phu và bộ Công cất những lầu cao thật đẹp. Cửa sổ đều sơn xanh. Nơi này để cho nhà vua ở cùng với các mỹ nữ cung tần. Rồi lầu đài của các hàng công khanh cũng sơn cửa bằng màu xanh, nên dân chúng thường gọi chỗ ở của vua chúa, quan lại ở là "lầu xanh".
Về sau, những nhà quyền quý có con gái đẹp, ước mong con nhà mình được vào chầu nơi cung khuyết nên thường sơn nhà màu xanh cho con gái ở. Những nhà nào có cửa sổ hoặc lầu đài sơn xanh là nhà có gái đẹp được nhiều bực vương tôn, công tử chú ý.
Lúc ấy, bọn buôn son bán phấn đem gái đẹp mở nhà rước khách thưởng hoa, muốn quyến rũ khách yêu hoa hay các bực vương tôn, công tử nên cũng sơn nhà xanh đón khách.
Ý nghĩa "lầu xanh" biến đổi, lần lần trở thành hoàn toàn một nơi rước khách yêu hoa, tìm hoa giải muộn.
Vì thế, đến đời nhà Lương, Lưu Diễn có hai câu thơ nói về chữ Thanh lâu để chỉ chỗ ở của bọn gái điếm:
Xướng nữ bất thăng sầu,
Kết thúc hạ thanh lâu.
Nghĩa là:
Gái hát chẳng xiết buồn,
Thu vén xuống lầu xanh.
Thanh lâu (lầu xanh) về sau dùng để chỉ nhà điếm nuôi bọn gái mãi dâm.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du có nhiều tiếng "lầu xanh":
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi nổi tiếng về già hết duyên.
Và khi nói về cuộc đời của Kiều:
Hết nạn nọ đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Lại đoạn tả về tính tình, tư cách hành động của Sở Khanh:
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung.
Đỗ Mục, một thi hào đời nhà Đường có bài:
Lạc phách giang Hồ tải tửu hành,
Sở yên tiêm tế trường trung khinh.
Thập niên nhứt giác Dương Châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh.
Nghĩa (bản dịch của Bùi Khánh Đản):
Quẩy rượu lang thang khắp đó đây,
Lưng thon gái Sở nhẹ trên tay.
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
Để lại lầu xanh tiếng mặt dầy.
Ở các lầu xanh ngày xưa, các mụ Tú Bà thường dựng một bàn hương án giữa nhà, có treo một tượng đồ. Tượng này vẽ hình người có đôi lông mày trắng gọi là thần Bạch Mi (thần Mày Trắng).
Sách "Dã Hoạch biên" có chép: các thanh lâu thường thờ thần Bạch Mi. Thần này mặt to, râu dài, cưỡi ngựa cầm dao, xem na ná như hình Quan Công, nhưng lông mày trắng và mắt đỏ.
Không ai hiểu được tranh vẽ ai và lai lịch thần Mày Trắng ra sao. Nhưng các thanh lâu đều quen thờ như vậy, coi là một vị tổ sư để cầu phù hộ cho nghề được phát đạt, cửa hàng được đông khách, cũng như tất cả các nghề khác.
Đời nhà Minh (1368-1628), các cô bán dâm ở lầu xanh có cách đuổi vía lạ lùng. Khi nào một cô xui xẻo, ế hàng thì đến trước thần Mày Trắng, trút bỏ áo quần, đốt hương van vái cầu xin. Đoạn lấy hoa mới đổi lấy hoa đã cúng trên bàn thờ đem lót dưới chiếu mình nằm. Như vậy cô sẽ đắt khách hàng. Theo quan niệm của họ như thế, không biết có thực đắt khách không.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả cảnh thanh lâu của Tú Bà, có những câu:
Giữa thì hương án hẳn hoi,
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen thói xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
Hương hoa hôm sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía, có thưa mối hàng.
Cởi xiêm trút áo sỗ sàng;
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi.
Can Tương, Mạc Gia
Can Tương và Mạc Gia là tên hai vợ chồng người rèn kiếm. Mà cũng là tên hai thanh kiếm báu ngày xưa ở bên Tàu.
Nguyên đời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư muốn có những thanh kiếm báu, mới đắp một cái thành ở Ngưu Thủ sơn để đúc mấy ngàn thanh kiếm, gọi là Biển Chư. Tuy vậy chưa vừa ý, nhà vua tìm được người nước Ngô tên Can Tương, cho ở cửa Tượng Môn để đúc những thanh kiếm thật sắc, chém đá như chém bùn.
Can Tương được lịnh nhà vua cho vào kho và khắp toàn quốc tìm vàng và sắt thật tốt. Đoạn chọn ngày giờ, Can Tương sai các đồng nam và đồng nữ trinh tiết cả thảy 300 người, ngày đêm đốt than nấu. Nhưng suốt cả ba tháng trời, vàng sắt vẫn không chảy. Can Tương lấy làm lạ, không biết tại sao? Người vợ là Mạc Gia bảo rằng:
- Những vật báu của thần linh tất phải đợi nhân khí mới thành tựu được. Nay phu quân đúc kiếm suốt ba tháng không thành, hoặc giả thần linh còn chờ đợi nhân khí chăng?
Can Tương nói:
- Ngày xưa thầy ta cũng đúc mãi mà kiếm không thành, nên cả hai phải nhảy vào lò, bấy giờ mới kết quả. Về sau, ai đúc kiếm ở chân núi ấy cũng phải làm lễ tế lò. Nay ta đúc kiếm mãi không được, hay là cũng phải thực hành như thế!
Mạc Gia nói:
- Thầy ta còn bỏ thân để đúc nên thần kiếm, khó gì mà ta không noi gương.
Đoạn, Mạc Gia tắm gội sạch sẽ ra đứng ở bên lò. Sai các đồng nam, đồng nữ kéo bễ đốt than. Giữa lúc lửa cháy phừng phực, Mạc Gia liền nhảy ngay vào lò. Được một lúc, vàng và sắt đều chảy ra cả.
Bấy giờ, Can Tương đúc được hai thanh kiếm. Thanh đúc trước lấy tên là Can Tương. Thanh đúc sau lấy tên là Mạc Gia. Can Tương giấu lại một thanh kiếm, chỉ đem thanh kiếm Mạc Gia dâng cho Hạp Lư. Vua Ngô cầm thanh kiếm chém thử vào viên đá thì viên đá đứt đôi ra. Nhà vua thưởng cho Can Tương 100 nén vàng.
Sau, vua Ngô biết Can Tương giấu lấy một thanh mới sai người đến đòi và bắt buộc nếu không chịu giao trả thì sẽ xử tử.
Can Tương đem thanh kiếm ra xem. Thanh kiếm ở trong bao nhảy ra, hóa thành một con rồng xanh. Can Tương cưỡi con rồng ấy bay lên trời đi mất. Sứ giả về tâu với Hạp Lư. Nhà vua thở dài, luyến tiếc, lại càng quý trọng thanh kiếm Mạc Gia, mới thuê người làm kim câu để đeo thanh kiếm vào mình. Lại truyền lịnh: ai làm kim câu giỏi, giá trị thì được thưởng 100 nén vàng.
Người trong nước đua nhau làm kim câu để dâng. Có một câu sư tham giải thưởng to, giết chết hai con còn trinh, lấy máu tươi hòa với sắt đúc thành hai cái kim câu đem dâng cho Hạp Lư. Qua mấy hôm sau, câu sư đến cửa cung nhà vua xin lãnh thưởng. Hạp Lư hỏi:
- Kim câu của nhà ngươi có gì đặc biệt hơn của người ta không mà đến đòi lãnh thưởng.
- Có. Vì muốn được thưởng, tôi đã giết chết hai con để đúc thành hai cái kim câu ấy. Người khác bì thế nào được.
Nhà vua truyền đem hai cái kim câu ấy ra. Nhưng thị vệ tâu rằng: vì bỏ lẫn vào đám kim câu khác, cái nào cũng giống nhau, không thể nào tìm được. Câu sư lại van nài xin cho xem tất cả. Thị vệ đem một đống kim câu. Nhưng câu sư cũng không nhìn được cái nào là của mình, mới cất tiếng kêu lên:
- Ngô Hồng và Hổ Kê ơi! Ta đây, sao hai con không hiển linh trước mặt đại vương?
Vừa dứt lời, lạ thay, hai cái kim câu trong đống nhảy ra, ấp vào ngực câu sư. Hạp Lư kinh sợ, bảo:
- Ừ, thế thì nhà ngươi nói thực.
Đoạn thưởng cho câu sư 100 nén vàng. Từ bấy giờ, nhà vua quý trọng hai kim câu như thanh kiếm Mạc Gia, và đeo chúng hẳn bên mình.
Về sau, thanh kiếm này không biết lạc về đâu.
Cách hơn 600 năm, đến triều nhà Tấn (265-419), có quan thừa tướng tên Trương Hoa trông thấy trên trời có khí lạ, liền triệu một người giỏi về thiên văn là Lôi Hoán đến hỏi. Lôi Hoán nói:
- Đó là cái tinh bảo kiếm ở về địa phận Phong Thành.
Trương Hoa lập tức bổ Lôi Hoán làm huyện lịnh ở Phong Thành. Lôi Hoán đào nền ngục thất, bắt được một cái rương bằng đá, dài hơn 6 thước, rộng hơn ba thước. Mở ra xem, trong có hai thanh kiếm. Lấy thứ đất ở núi Tây Sơn mà chùi đánh thì ánh sáng rực rỡ. Lôi Hoán đem dâng cho Trương Hoa một thanh, còn một thanh giữ lại cho mình. Trương Hoa xem thanh kiếm, bảo:
- Đây tức là thanh kiếm Can Tương, còn thanh kiếm Mạc Gia đâu mất. Tuy vậy, thần vật thế nào rồi cũng hợp nhau.
Một hôm, Lôi Hoán và Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diên Bình Tân. Tự nhiên hai thanh kiếm bỗng nhảy xuống nước mất. Vội vàng sai người lặn xuống nước tìm thì thấy có hai con rồng ngũ sắc, vểnh râu, trừng mắt, làm cho người này hốt hoảng vội trồi lên.
Từ đó, hai thanh kiếm hoàn toàn mất tích.
Giấc Vu Sơn
Đất Cao Đường, bên cạnh đầm Vân Mộng có hai ngọn núi là Vu Sơn và Vu Giáp thuộc tỉnh Hồ Bắc nước Tàu. Đời Chiến Quốc, vua Sở Tương Vương thường đến du ngoạn. Một hôm, nhà vua đến đấy, say sưa ngắm cảnh, một lúc mệt mỏi mới nằm ngủ dưới chân núi Vu Sơn.
Trong lúc mơ màng giấc điệp, vua Sở mộng thấy thiếu nữ tuyệt sắc, mặt hoa, da phấn, duyên dáng thướt tha đến bên mình, rồi cùng nhà vua chung chăn gối vô cùng thỏa thích.
Sau khi cùng giai nhân ân ái mặn nồng, vua Sở hỏi:
- Chẳng hay ái khanh ở đâu đến đây để quả nhân duyên may gặp gỡ?
Giai nhân mỉm miệng cười duyên, thưa:
- Muôn tâu thánh thượng! Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn qua chơi đất Cao Đường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật là phỉ nguyền mong ước. Ở thiên cung, thiếp có nhiệm vụ buổi sớm làm mây, buổi chiều làm mưa ở Dương Đài.
Nói xong, đoạn biến mất. Nhà vua chợt tỉnh dậy, cảm thấy mùi hương như còn thoang thoảng đâu đây. Mộng đẹp vơ vẩn trong trí não, nhà vua thấy luyến tiếc vô cùng. Sau sai người lập miếu thờ (tức miếu Vu Sơn thần nữ) gọi là miếu Triên Viên.
Cảm nhớ người đẹp trong mộng, vua Sở thuật lại cho quan Đại phu Tống Ngọc nghe. Vốn là một danh sĩ đương thời, Tống Ngọc bèn làm bài phú "Cao Đường" để ghi lại sự tích Sở Tương Vương giao hoan cùng thần nữ Vu Sơn:
Tiên vương du Cao Đường
Đái nhi trú tầm.
Mộng kiến nhất phu nhân viết: Vi Cao Đường chi khách,
Văn quân du Cao Đường
Nguyện tiếm chẩm tịch,
Vương nhận hạnh chi Khứ nhi tử viết:Thiếp tại Vu Sơn chi dương
Cao Khâu chi trở
Triệu vi hành vân
Mộ vi hành vũ.
Tạm dịch:
Tiên vương dạo Cao Đường
Mỏi mệt ngủ ngày
Mộng gặp một đàn bà nói:"Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn,
Đến Cao Đường làm khách
Tin vua dạo Cao Đường
Nguyện dâng chăn gối"Vua nhận yêu nàng,
Khi đi nàng nói:"Thiếp ở đỉnh núi Vu Sơn
Cao Khâu hiểm trở.
Sớm đi làm mây
Chiều đi làm mưa".
Trong bài "Thanh Bình điệu" của thi hào Lý Bạch đời nhà Đường, có câu:
Nhất chi nùng diếm lộ ngưng hương,
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
Tạm dịch:
Đầu cành sương đọng ngát hương đông.
Mây mưa Vu Giáp nỗi đau lòng.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả Kim Trọng đương dựa án thiu thiu ngủ, nửa tỉnh, nửa mê thì Kiều lén song thân, băng lối vườn khuya sang thăm chàng Kim, có câu:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Và, khi chàng Kim tỏ vẻ lả lơi, suồng sã, Kiền van lơn, lý luận để tránh cuộc tấn công của người yêu, có câu:
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.
Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều cũng có câu:
Bỗng gươm lấp loáng dưới mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Tôn Thọ Tường làm quan về đời Tự Đức hàng Pháp, lúc về trí sĩ có làm bài thơ "Đĩ già đi tu", mượn tâm cảnh của một người đĩ hết duyên, chán trần về Phật mà tả tâm sự của mình. Trong bài có câu:
Chày kình gióng tỉnh giấc Vu San,
Mái tóc kim sinh nửa trắng vàng.
Những chữ "mây mưa", "giấc Vu Sơn", "giấc Cao Đường", "đỉnh Giáp non Thần" hay "Vu Giáp", "giấc mộng Dương Đài", "đến Dương Đài" đều chỉ việc trai gái chung chạ chăn gối, ấp yêu với nhau.
Dùng những tiếng này để tránh tiếng tục.
Xích Thằng, Nguyệt Lão
"Xích thằng" là tơ hồng hay chỉ hồng.
"Nguyệt lão" là ông già dưới trăng do chữ "Nguyệt Hạ Lão Nhân", nói tắt.
Nguyên đời nhà Đường (618-907) có chàng nho sĩ tên Vi Cố, học giỏi, thi phú tài danh. Một hôm du học đến Đông Đô, giữa đêm trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc, gió hiu nhẹ thổi, chàng thơ thẩn dạo chơi, chàng bỗng ngạc nhiên vì nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi dưới ánh sáng trăng, mắt nhìn vào quyển sổ to, tay se tơ đỏ. Trông người tiên phong đạo cốt. Vi Cố lấy làm lạ đến gần, hỏi:
- Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Còn sách này là sách chi và tơ đỏ này, cụ se làm gì?
Cụ già đáp:
- Ta là Nguyệt Lão, xem sổ định hôn của dân gian. Còn chỉ ta đương se là duyên của vợ chồng do tơ này buộc lại.
Vi Cố mừng rỡ, yêu cầu cụ già cho biết duyên của mình. Cụ già mỉm cười nói:
- Số duyên của nhà ngươi là con bé 3 tuổi của mụ ăn mày, thường ăn xin ở chợ Đông Đô.
Vi Cố nghe nói hỡi ôi, buồn tủi không nói được tiếng. Cụ già biết ý, bảo:
- Đó là duyên trời định. Già này không thay đổi được. Mà nhà ngươi muốn tránh cũng chẳng xong.
Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về.
Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Đông Đô, quả thực trông thấy một mụ ăn mày dơ dáy, tay ẵm đứa bé gái 3 tuổi, thơ thẩn xin ăn ở góc chợ. Cố bực tức, mướn một gã lưu manh đâm chết được đứa bé kia, sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh vâng lời, cầm dao xông đến, chém một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy.
Nhìn thấy máu tuôn xối xả, tên lưu manh tưởng đứa bé đã chết, sợ người bắt nên cuống cuồng chạy trốn.
Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám Hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Cố ra lễ quan Tể Tướng họ Chu vốn làm chủ khảo khoa thi. Thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể Tướng liền gả con gái cho. Vi Cố mừng rỡ, bái tạ.
Đến khi nhập phòng, Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn ở sau ót có một vết thẹo, chàng lấy làm lạ hỏi. Nàng thành thật kể rõ thân thế mình vốn là con của mụ ăn mày, 15 năm về trước bị tên lưu manh ác độc, không biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân chạy khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể Tướng gặp giữa đường, vì không con nên đem về nuôi xem như máu huyết.
Nghe vợ thuật, Vi Cố thở dài, lẩm bẩm:
- Thật là duyên trời định, tránh đâu cũng không khỏi.
Tuy than thở nhưng Vi Cố cũng lấy làm hả dạ, vì dù sao... vợ cũng đẹp và là con yêu của nhà quan to.
Trong vở kịch thần thoại "Lên cung trăng" của Ngô Tổ Quang có chép.
Hậu Nghệ, người nước Hữu Cùng, sau khi bắn 9 mặt trời, được tôn làm hoàng đế, một đêm cùng 2 người đồ đệ là Ngô Cương và Phùng Mông đi đường. Cả ba gặp một ông lão ngồi dưới ánh sáng trăng, tay cắp một quyển sổ to. Trên sổ buộc tơ đỏ chằng chịt. Hậu Nghệ lấy làm lạ, hỏi:
- Thưa cụ! Cuốn sách sao lại có buộc dây đỏ thế kia?
Cụ già nói:
- Quý nhân đã hỏi, già này phải nói thực: già này chuyên coi việc hôn nhân thiên hạ. Đây là quyển sổ cưới gả của người thế gian.
- Thế thì may quá. Ba thày trò chúng tôi đều độc thân, nhờ cụ xét coi việc hôn nhân chúng tôi thể nào?
Ngô Cương đến trước nghiêng mình xưng tên họ và nhờ cụ già xem. Cụ già giở sổ xem một lúc nhưng không nói. Hậu Nghệ hỏi:
- Thưa cụ thế nào?
Ngô Cương nóng nảy, giục:
- Có không cụ?
Cụ già đáp:
- Số tráng sĩ trọn đời không vợ.
Ngô Cương mỉm cười:
- Không vợ cũng được.
Đến phiên Phùng Mông. Cụ già bảo:
- Vì tráng sĩ chưa quyết, còn tấn thối lưỡng nan nên việc hôn nhân vì thế mà chưa nhứt định.
Hậu Nghệ cất tiếng cười ha hả:
- Té ra hai đứa học trò đều không vợ cả, dám phiền cụ xét coi số phận của Nghệ này ra sao?
Cụ già cúi đầu giở sổ, một lúc kêu lên:
- Có đây rồi. Cách đây rất xa, ở trong một cái hang hiu quạnh tại phương Bắc. Cô con gái nhà nghèo, mình không áo che thân, cơm không đủ ngày hai bữa.
Hậu Nghệ tỏ vẻ bất bình:
- Tôi có một người vợ như thế sao?
Cụ già cười bảo:
- Nàng là chim phượng hoàng, là đóa hoa khôi, kiếp trước đã định rồi, đời này sẽ tác hợp. Nàng hiện giờ còn nhỏ quá.
Nghệ nóng nảy hỏi:
- Thì mấy tuổi.
- Mới có 6 tuổi thôi.
Phùng Mông, Ngô Cương nín không nổi, bật cười, nhưng thấy Hậu Nghệ có vẻ giận nên không dám cười nữa. Hậu Nghệ nói với cụ già:
- Tôi không tin.
- Già đã nói là không bao giờ sai. Sổ nhân duyên đã chép, đâu có phải nói chơi được.
Hậu Nghệ lẩm bẩm:
- Nhưng mới có 6 tuổi.
Cụ già điềm đạm nói:
- Sau 10 năm nữa há chẳng 16 tuổi ư? Sau 20 năm nữa há chẳng phải 26 tuổi ư? Lại 60 năm nữa há chẳng phải 66 tuổi ư? Quý nhân chẳng biết con gái lớn lên, thay đổi đến mười tám lần sao?
Hậu Nghệ bực tức, lớn tiếng:
- Rõ ràng là cụ muốn trêu tôi!
Cụ già đĩnh đạc bảo:
- Ngàn dặm nhơn duyên một sợi tơ, trêu đùa sao được.
Hậu Nghệ giận dữ, quát:
- Đồ quỷ.
Nhưng cụ già đã biến mất.
Mười năm sau, Hậu Nghệ sai Ngô Cương đến phương Bắc, tìm được Hằng Nga, bắt về phong làm hoàng hậu, đúng như lời cụ già dưới trăng đã nói trước.
Cụ già đó là Nguyệt Lão.
Do những điển tích này mà có những chữ "Tơ hồng", "Chỉ hồng" để chỉ việc nhân duyên vợ chồng. Những chữ "Ông tơ", "Nguyệt Lão", "Trăng già" cũng do điển này mà ra. Hiện giờ trong lễ cưới, có lễ Tơ Hồng, tức lễ ông cụ già vô danh ngồi dưới trăng đó.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" có câu:
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Trong "Cung oán ngâm khúc" cũng có câu:
Tay Nguyệt Lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Và:
Tay Nguyệt Lão chẳng se thì chớ,
Se thế này có dở dang không?
Duyên nợ ba sinh
"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinh là duyên nợ từ ba kiếp với nhau. Ý nói duyên nợ phải làm vợ chồng với nhau do số kiếp tiền định.
Trong bài thơ "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" của Hồ Xuân Hương có câu:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi, Cái nợ ba sinh đã trả rồi! Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du cũng có câu:
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi.
Sách "Truyền đăng lục" và sách "Quần ngọc chú" có chép:
Xưa có chàng Tỉnh Lang, một hôm đến chùa Nam Huệ tự, nằm chơi, bỗng ngủ quên, chiêm bao thấy mình đi chơi non Bồng. Tỉnh Lang nhìn thấy một nhà sư ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây nhang đương cháy. Tỉnh Lang thấy lạ, hỏi. Nhà sư đáp:
- Khi trước có một người đi cúng chùa, thắp cây nhang này, khấn nguyện. Nhang hãy còn cháy mà người ấy đã sinh ba kiếp rồi. Kiếp đầu nhà Đường, đời vua Huyền Tông, làm quan Phủ sứ ở đất Kiến Nam. Kiếp thứ hai cũng đời Đường, đời vua Hiến Tông, làm quan đất Tây Thục. Kiếp thứ ba, sinh ra tên Tỉnh Lang.
Tỉnh Lang nghe đến tên mình bỗng giựt mình tỉnh dậy, nhưng lòng nửa tin nửa ngờ.
Lại có một điển tích khác.
Đời nhà Đường (618-907), có nhà sư tên Viên Trạch, một hôm cùng bạn là Lý Nguyên Thiện đi chơi. Gặp một mụ đàn bà gánh nước, Viên Trạch nói:
- Người đàn bàn này đã có mang ba năm đợi tôi vào làm con. Nay đã gặp đây, không thể nào trốn được. Hẹn ba ngày nữa, bạn đến, ta lấy nụ cười làm tin. Mười ba năm sau, ta lại sẽ gặp nhau tại chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, vào đêm Trung Thu trăng sáng.
Chiều đó, sư Viên Trạch mất.
Người đàn bà nọ sinh con trai. Ba hôm sau, Lý đến thăm. Quả nhiên đứa bé thấy Lý thì cười, đúng như lời hẹn. Mười ba năm sau, Lý đến chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, thấy một cậu chăn trâu hát rằng:
Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân,
Tàm qui tình nhân viễn tương phỏng
Thử thân tuy dị, tính thường đồng.
Nghĩa:
Là tinh hồn cũ đã ba sinh,
Trăng gió làm chi để bận mình.
Thẹn với người quen xa viếng hỏi,
Thân này tuy khác, tính nguyên lành.
"Ba sinh" có nghĩa là số kiếp tiền định. "Nợ ba sinh" là nợ số kiếp tiền định, duyên số với nhau từ kiếp trước.
Loan giao
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp sửa về ở cùng Mã Giám Sinh, nàng nhắn nhủ với em là Thúy Vân xin thay mình mà kết duyên với Kim Trọng, có câu:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Loan giao chắp nối tơ thừa mặc em.
Có bản chép là "Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em".
"Keo loan" bởi chữ "Loan giao" mà ra. Nghĩa là một thứ keo chế bằng máu chim loan.
Sách "Hán Võ ngoại truyện" có chép: đời nhà Hán (206 trước-196 sau D.L.), miền Tây Hải có cống cho nhà vua thứ keo loan. Vua Võ Đế (140-88 trước D.L.) thường bị đứt dây cung, nên lấy keo này nối lại. Nhờ đó mà bắn suốt ngày không bị đứt. Vua lấy làm mừng lắm, đặt tên thức keo đó là "Tục huyền giao" tức là keo nối dây cung.
Sách "Hán Thư" cũng có chép: vua Võ Đế ra lịnh cho Câu Qua phu nhân Triệu thị đánh đàn. Nhưng đương đánh, dây đàn bỗng đứt. Triệu thị nói:
- Giữa lúc đánh đàn mà dây đứt, thế là điềm gở.
Vua Võ Đế an ủi:
- Dây đứt nhưng có thể nối được. Có gì mà gở.
Đoạn sai người lấy máu chim loan nấu với keo để nối dây đàn.
Đời nhà Tống (950-1275), Đào Cốc vâng lịnh vua đi sứ Giang Nam, được gặp một thiếu nữ là Tần Nhược Lan. Hai người yêu nhau và cùng ở chung một đêm để trao đổi tâm tình. Nhưng vì sứ mạng, Đào phải gấp rút về triều phục lịch. Một đêm ân ái, tình thắm duyên nồng, giữa đường hạnh ngộ, mới gặp gỡ lại chia phôi, mối ân tình vẫn còn canh cánh bên lòng gây biết bao niềm cảm xúc, nên sau khi Đào về có làm một bài từ gởi cho người yêu. Trong có câu: "Tỳ bà hát tận tương tư điệu, tri âm thiểu; đãi đắc loan giao tục đoạn huyền, thị hà niên"? Nghĩa là: "Đàn tỳ bà đã gẩy hết khúc tương tư, mà người tri âm có ít, đợi được keo loan chắp nối dây đàn đứt, biết đến năm nào"?
Tác giả mượn dây đàn đứt vì mối tình đứt, và mượn sự chắp dây đàn để nói sự chắp tơ tình.
Bát trân, thập trân
Tám món ăn hay mười món ăn quý nhất Trung Hoa.
Nước Trung Hoa xưa, kể cả ngày nay nữa, có rất nhiều món ăn ngon, lạ, bổ. Những vua chúa cũng như những anh hùng hảo hán v.v.. trải qua bao thời đại, đã lựa chọn trong các thức ăn ấy để lấy mấy thứ mà người ta cho là lạ nhứt, cầu kỳ nhứt, vì hiếm có. Những món ăn hiếm ấy thường là tám thứ, gọi là Bát trân.
Dưới đời Tần Thủy Hoàng (221-209 trước D.L.), không phải là tám, món mà vua này thường dùng mười món nên gọi là Thập trân.
Tính chất bổ dưỡng của Bát hay Thập trân không biết có thực không, nhưng nhứt định các thức ấy đều thuộc về loại thực phẩm cực kỳ hiếm có. Và, vì hiếm nên người ta cho là quý, rồi cho là lạ và ắt phải ngon, phải bổ.
Đời nhà Đường (618-907) thì có Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống (950-1275), nhà Minh (1368-1628) thì lại có Bát trân khác.
Bát trân của đời Đường là: Gan rồng. Chả phụng. Báo, bao tử cọp. Đuôi cá gáy. Chả thịt cú. Môi đười ươi. Bàn tay gấu. Vành (mí) mắt heo con.
Bát trân của đời nhà Tống và nhà Minh là: Gan rồng. Chả phụng. Thịt chim Dủ Di lộn. Đuôi cá lý ngư (cá chép). Môi đười ươi. Thỏ hàng nàm Vành (mí) mắt heo con. Bàn tay gấu.
Thập trân đời Tần và Hán: Nem công Tứ Xuyên. Chả phượng Tây Khương. Da Tây ngu (tê giác) Tây Tạng. Tay gấu Mông Cổ. Gân hươu Liêu Ninh. Mí mắt đười ươi Hiệp Tây. Chân voi Thanh Hải. Yến sào Tây Sa. Trùng thảo Quảng Tây. Trúc sáng Vân Nam.
Đây là "Mười món ăn quý của Trung Hoa" (Trung Quốc thập trân).
Ông H. Duy Việt đã trình bày qua 10 món ăn ấy trong một thiên du ký .
Nem công Tứ Xuyên là nem làm bằng da và thịt con công đánh bẫy ở rừng trúc tỉnh Tứ Xuyên, thuộc phía tây nam Trung Hoa. Công tên chữ là Khổng Tước ửa ở nơi gò, đồi cao để bay dễ dàng; và ở gần rừng tre, trúc và cây cao rậm rạp, những nơi thường có những thú dữ như cọp, beo. Săn bắt nó rất khó.
Công trống Tứ Xuyên sinh ra được 36 tháng thì đuôi dài trên hai thước. Khi nó múa, lôn xòe tròn như cái lọng hay cái bánh xe, có đủ màu sắc của cầu vòng.
Mật công rất độc, ăn phải sẽ chết. Nhưng thịt và da công thì có thể giải được hết thảy các thứ độc do thời khí gây nên.
Chả phượng Tây Khương là đem một con trống và một con mái, lựa giống vàng hay trắng, đuôi dài, đánh bẫy ở Tây Khương, đem cắt tiết rồi nhổ lông sống. Chớ không nhúng nước sôi như làm lông gà. Vì nếu nhúng như vậy thì chả sẽ vữa, nát và mất giòn. Bỏ hết ruột, gan, mề, mật, phổi. Lấy dao sắc lột bỏ da, chỉ lấy thịt nạc. Xương, đầu, cánh, chân đều bỏ cả. Thịt nạc cắt thành miếng nhỏ, cho vào cối đá mà quết. Lấy nước mắm, tiêu, xì dầu, một chút hàn the tán nhỏ, một chút mật ong (hay đường trắng), và cứ năm phần thịt phượng thì cho vào một phần mỡ gà trống thiến béo, rồi tiếp tục quết đến bao giờ thành chả nhuyễn mới thôi.
Bấy giờ nặn chả ấy thành viên bằng ngón tay cái, để vào nồi hấp cách thủy cho thịt vừa chín tới; đoạn lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu.
Da tây ngu Tây Tạng là da nách con tây ngu. Tại miền rừng núi ở về phía tây Trung Hoa như chân dãy núi xứ Tây Tạng, khí hậu ẩm thấp, trong những rừng cây thưa thớt có một loài heo rừng đặc biệt gọi là con tây ngu, tê ngu, tây ngưu hay tê giác. Đây là một giống thú rất hung dữ, vì nó có một sức mạnh phi thường.
Da tây ngu dầy đến một tấc và gấp lại thành miếng như áo giáp. Các khí giới thường khó đâm thủng được. Tuy nhiên chỉ có da ở nách hai chân trước và háng hai chân sau là mềm. Người đi săn phải nhắm trúng chỗ ấy mà đâm mới hạ nổi nó. Nhưn làm gì đến gần được.
Muốn săn nó chỉ có lối đánh bẫy mà thôi. Người ta đốt rừng dồn nó đến chỗ đầm lầy, rồi nhử nó tới ăn các cây gai (loài này chuyên ăn cây có gai). Khi tới ăn bị sa lầy xuống bùn sình, lúc bấy giờ dùng giáo mác mà đâm vào nách, vào háng nó.
Thịt tê ngưu dai, ăn không ngon. Chỉ có da nách của nó là ăn được. Đem da tươi cạo hết lông, lọc hết mỡ; rồi ban ngày đem phơi nắng, tối lại sấy lửa đến 100 ngày. Đoạn tẩm rượu Mai quế lộ một tháng rồi đem phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Vì người ta tin rằng nếu để ngoài trời, da sẽ bay đi mất.
Khi muốn ăn da ấy, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm.
Người ta nghiệm rằng đã ăn được da tây ngu thì sau sẽ hết bịnh hôi nách và không bao giờ bị phong sương mang bịnh.
Tay gấu Mông Cổ là bàn tay của con gấu ở xứ Mông Cổ.
Tại miền bắc Trung Hoa, nhứt là ở rừng xứ Mông Cổ có loại gấu nâu và gấu trắng rất to lớn. Cứ đến mùa đông, gấu này vào hang hay khe đá, bụi cây mà ngủ trong 3 đến 6 tháng, không ăn uống gì cả. Nó nằm thu mình lại, thò hai tay ra ngoài như để phơi nắng. Thế rồi khi đông tàn, tuyết tan, xuân đến, gấu thức dậy. Việc đầu tiên của nó là liếm hai bàn tay. Liếm cả ngày, cả đêm, không đi kiếm mồi mà cũng no! Người ta cho rằng hai bàn tay của nó đã thu được âm dương của trời đất khi nó ngủ, nên lúc thức dậy nó liếm tay thay vì ăn thức ăn. Chính vì thế mà người ta chuộng bàn tay gấu mà gọi là "hùng chưởng".
Ăn tay gấu sẽ được khỏe mạnh, sống lâu.
Người ta lại cho rằng: khi bắt được gấu thì các chất tinh khiết của mạch nó đều chạy lên cả hai bàn tay. Đây cũng là thêm một lý do để làm cho món tay gấu thành ra quý, bổ.
Muốn tay gấu trở thành thức ăn, người ta phải nhúng bàn tay gấu vào mỡ gấu đun sôi đủ một trăm lần để làm lông. Đoạn lấy gân trong bàn tay ngâm vào nước nhựa trái đu đủ trong một ngày một đêm, rồi lại ngâm vào nước tro một ngày. Bấy giờ mới đem rửa gân và da gang bàn tay bằng rượu, rồi nấu các vị thuốc bổ, trong đó có huỳnh kỳ, khởi tử, hoài sơn, v.v...
Gân hươu Liêu Ninh là gân con hươu ở Liêu Ninh làm món ăn. Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý. Vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng.
Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn.
Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu (chanh hay muốn tiêu), mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ.
Mí mắt đười ươi Hiệp Tây là lấy mí mắt con đười ươi ở Hiệp Tây.
Tại rừng rậm tỉnh Hiệp Tây có một loài đười ươi lớn, tay dài, mặt trắng, lông nâu và có đôi mắt và đôi môi rất to. Đây là một giống khỉ lớn, đi bằng hai chân rất mau và có một sức khỏe kinh khủng. Săn được nó là một điều rất khó khăn. Vì nếu vô phúc bị nó bắt được thì nó sẽ nắm lấy đầu mà bóp bẹp như bóp một hột vịt.
Đặc tính của nó hay cười, thích uống thứ gì cay như rượu. Người săn bắt đười ươi dùng mấy chụp dép da hay guốc gỗ và mấy hũ rượu mạnh đặt ở trước cửa hang của chúng. Đười ươi biết ngay người ta muốn bắt chúng, nên kéo nhau bỏ hang đi hết. Nhưng một lúc sau tiếc của, chúng kêu nhau trở lại lấy rượu uống, lấy dép guốc đi rồi cười giỡn cả khu rừng lại múa may, nhảy nhót. Một lúc say mềm thì ngã lăn ra đất mà ngủ, mồm há ra mà cười với trời. Bấy giờ, người ta xông ra trói, bắt dễ như trở bàn tay. Mí mắt, môi đười ươi phơi khô để làm vị ăn. Lông thì làm bút lông thật tốt.
Chân voi Thanh Hải là chân của con voi ở Thanh Hải. Voi ăn cây cỏ, hoa quả. Thường, voi được 25 đe6'n 30 năm mới đẻ con. Ở trên rừng voi sống lâu tới 100 năm. Có con sống trên 200 năm.
Chân voi tuy lớn, cục mịch thế mà rất tài tình. Khi dẵm lên đâu thì nó biết ngay chỗ nào mềm, chỗ nào cứng nên ít khi bị sa hố. Vì trong gang bàn chân của nó có một lớp thịt rất mềm; sau lớp thịt ấy có nhiều dây thần kinh thật tinh vi. Chính lớp thịt ấy, người ta lấy để làm món ăn, vì nó ngon giòn, nuốt qua cổ họng đã thấy trong người khoan khoái, và chữa khỏi bịnh gân cốt.
Người ta lấy thịt trong bàn chân voi rồi ninh một ngày một đêm, đoạn nấu với các vị thuốc và đem ăn cùng với thạch (rau câu) vì hai thứ giòn, mềm như nhau. Thạch sẽ dẫn chất bổ của thịt chân voi đi khắp cơ thể ta một cách nhanh chóng.
Yến sào Tây Sa là món yến tìm thấy trên hòn đảo Tây Sa. Yến biển thuộc về loài chim sẻ. Trên thế giới có chừng 10 giống. Chúng ở rải rác trên các hải đảo chạy dài từ đảo Vinh Sơn thuộc tỉnh Quảng Bình, qua cù lao Chàm ngang Đà Nẵng, vách đá bờ biển phía đông mũi đất Phương Mai, tới 7 đảo ngoài khơi Nha Trang, từ ngang đèo Cả tới vịnh Cam Ranh.
Hải yến được nổi tiếng trên thế giới chẳng phải vì giọng hót hay, bộ mã đẹp hay vì thịt ngon mà chỉ vì cái ổ của chim (yến sào). Ổ yến làm bằng một thứ rong biển đặc biệt được biến chế bởi nước miếng của chim yến. Người Á Đông đã công nhận là món ăn thật bổ, ngon; và cũng vì các tính chất quý ấy m` ổ yến được liệt vào một món ăn đắt nhất, có thể nó rằng ổ yến đắt như vàng.
Ổ yến làm ở những chỗ cheo leo trên vách đá. Nó có nhiều màu tùy theo sự thay đổi của vách đá. Ở trên cao, ổ màu trắng, ở phía dưới ẩm thấp hơn thì ổ màu xám hay màu xanh lợt, màu da cam hoặc đỏ như máu. Ổ yến đỏ gọi là huyết yến là loại ổ quý nhất, vì người ta cho rằng: ổ sở dĩ đỏ là vì làm bằng nước dãi và máu của chim yến mẹ đã hy sinh làm ổ bằng máu của nó.
Ổ yến đỏ rất hiếm.
Thật ra ổ yến đỏ này không phải là do huyết mẹ mà có lẽ vì chim đã làm ổ này bằng một thứ rong biển đặc biệt lấy ở ngoài khơi, loại rong biển này màu đỏ. Cũng như những ổ khác màu trắng hay màu xanh lợt do chim đã làm bằng một thứ rong biển trắng như thạch, tìm ở ngoài biển rồi lấy nước dãi biến chế thành những sợi tơ trong. Đoạn chúng đem gắn chặt sợi nọ vào sợi kia thành một cái ổ xinh đẹp, rất nhẹ và bền.
Các nhà bác học phân chất trong ổ yến có nước vị toan của miệng và dạ dày chim là chất làm cho thức ăn dễ tiêu, lại có thêm chất đường, chất nhựa tròng trắng trứng gà là cu-bi-lêđo và sinh chất cùng hóa chất của muốn biển của loài hải rong là loại có nhiều i-ốt và lân tinh.
Muốn ăn yến, người ta ngâm yến vào nước nóng, nào là cho dầu phộng vào nước để lọc hết lông và chất dơ, nào là nhặt hết lông yến bằng tăm, nào là chế nước dùng bằng thịt gà, thịt chim hay đường phèn...
Có biết làm thì món yến sào quý giá kia mới trở nên ngon và bổ, xứng đáng là một món ăn đắt tiền nhứt mà xưa nay vua chúa cũng như những người mắc phải bịnh nặng hay những người muốn tẩm bổ cho thân thể khỏe mạnh và cường tráng... hay hơn nữa để đông con. Cũng như Tần Thủy Hoàng có trên 3000 cung nữ, và đã lấy món yến thay cơm hàng ngày; hay như vua Minh Mạng nước Việt Nam cũng lấy món yến làm món ăn thường nhựt, nên đã có tới 75 hoàng tử và 83 công chúa.
Trùng thảo Quảng Tây là gì?
Theo người dân vùng núi tỉnh Vân Nam thì đó là một thứ rễ cây tự nhiên biến đổi thành con sâu và sâu ấy có chất bổ đặc biệt. Ăn nó sẽ trừ được bá bịnh, nhứt là về lao lực. Nhưng có người lại cho rằng đó là hình con sâu sống ở trên loại cây bổ như cây nhân sâm trên rừng hay cây tam thất. Vì ăn nhiều chất bổ của hai loại thảo mộc ấy nên tự nhiên biến thể vào thành ra rễ cây giống như rễ cây sâm hay rễ cây tam thất.
Nhưng lại có thuyết cho rằng trùng thảo là một con tằm dại sống trên một vài cây thuộc loại nhân sâm, nhứt là cây đinh lăng rừng. Khi thời tiết đổi thay bất thường, có nhiều con sâu bị một thứ nấm (tống cú) xuất hiện, mọc trên đầu, trên cổ, dưới phía đuôi. Trước còn nhỏ, ngắn; sau dần mọc dài ra, con tằm dại ấy bị cây hút hết thịt rồi ít lâu chết lăn xuống đất. Trong giới lương y, người ta vào rừng nhặt các sâu ấy đem về sao tẩm thành một môn thuốc bổ và chữa những chứng nan y có công hiệu.
Món ăn trùng thảo khó tìm được, vì họa có năm tằm dại bị nấm ăn mới có, nên rất đắt tiền. Già trẻ trai gái đều ăn món trùng thảo được. Người ta thường bắt sâu tươi về phơi khô để dành hoặc làm món ăn. Họ nấu với vi yến hoặc đem chiên giòn với mỡ gà trống thiến.
Còn món trúc sáng Vân Nam thì làm bằng màng mỏng ở trong giống cây trúc rừng. Người ta cho rằng những khóm trúc nào đã mọc được 100 năm bên bờ suối thì mới có trúc sáng. Nhưng theo những nhà bác học thì trúc sáng không phải là màng mỏng ruột cây trúc mà là một thứ nấm mọc ở gốc cây tre, cây trúc.
Nấm này hình dài, mỏng như lụa, có trổ nhiều lỗ như màng nhện. Nếu ta thả vào chậu nước nóng ma xem thì thấy rõ hình cây nấm. Chân nấm dày, mình mỏng, lỗ hoa to lớn, đầu như chụp nón mỏng. Theo sách Đông y, người Trung Hoa biết lấy nấm trúc sáng để làm thuốc giải độc, lọc máu và nhuận trường từ thời xa xưa. Cũng như các vị thuốc quý, ngày nay trúc sáng đã thành món ăn ngon và bổ.
Tục truyền rằng: ngày xưa, hoàng hậu và cung phi cưng của Tần Thủy Hoàng hàng ngày ăn canh trúc sáng để cho da mặt được tươi đẹp.
Xe dê
"Xe dê" do chữ "Dương xa".
Ngày xưa, nhà vua nào cũng vậy, ngoài có hoàng hậu, thứ phi còn có hàng ngàn cung nữ, chọn lấy người đẹp trong toàn quốc để vào cung hầu hạ, làm vui cho nhà vua. Đời nhà Tần (221-209 trước D.L.), vua Tần Thủy Hoàng (246-209 trước D.L.) có trên 3000 cung nữ. Ở Việt Nam, đời nhà Lý (1010-1225), vua Lý Thái Tông (1028-1054) quy định số hậu phi và cung nữ: hậu và phi 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ 1000 người.
Đó là con số ít nhứt so với các triều vua, nhứt là các vua Tàu. Kể ra là một sự ... tiến bộ.
Cung của nhà vua chia làm từng phòng đặc biệt. Mỗi nàng cung phi ở riêng một phòng. Đêm đến, nhà vua muốn vui say với một cung phi nào thì vào cung đó. Vì nhiều cung phi quá, và nàng nào cũng sắc nước hương trời, nhà vua, rốt cuộc, trông ai cũng như ai rồi ... đêm nay, mình không biết là phải ngự ở cung nào?
Sách "Tấn thư" có chép: vua Võ Đế có nhiều cung nhân, mỗi đêm muốn đến với cung nhân nào thì vua ngồi trên một chiếc xe nhỏ khảm châu ngọc có con dê kéo, để tùy ý dê đi đến cung điện nào thì nhà vua vào đấy.
Xe dê gọi là "Xe dê", tên chữ là "Dương xa".
Con dê trở thành một tên hướng đạo quan trọng.
Rồi cứ chiều đến, hoàng hôn vừa buông mình rủ xuống nhà vua ngồi trên chiếc xe dê để dê lững thững kéo đi. Các cung phi vì muốn được hưởng ơn mưa móc của quân vương, muốn sưởi ấm thân để cõi lòng khỏi đơn côi trống trải, nhưng không biết tìm thế nào cho dê kéo xe ngừng lại trước cung mình. Sau, có vài nàng có sáng kiến, biết dê thích ăn lá dâu nên tìm lá dâu rắc trước cung để nhử dê dừng xe lại. Dần dần trước cung nào cũng thấy dẫy đầy lá dâu.
Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, đoạn nói về nàng cung nữ oán trách nhà vua ghẻ lạnh đối với mình, có câu:
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.
Ý nói duyên nợ với vua từ bao kiếp trước, chứ đâu như các cung phi khác, muốn được hầu vua thì tất phải rắc lá dâu cho xe dê vào rồi mới được gần vua.
"Xe dê" lấy ở điển tích trên
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: