TRUYỆN CỦA NGUYỄN HƯƠNG
meocon_thongminh93 16.02.2007 13:00:10 (permalink)




Thập niên ngũ tuần







 
“Em thì làm sao biết trượt băng?”
“Thì tập. Cô có thể lướt phăng trên sông hồ.”
“Cho đến khi băng tan?”
“Không bao giờ tan. Sáu tháng trời, mỗi sáng tôi thức dậy băng đều không tan.”
“Anh làm gì ở tận trên Alaska?”
“Tôi đi làm cua, hồi mới sang đây.”
“Anh nói bây giờ anh cần tiền làm gì?”
“Tôi cần tiền đổ xăng đi tìm nhà bạn.”
 
Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Xe tôi chạy phăng trên xa lộ đoạn cong đoạn thẳng lơ lửng trên thành phố Los Angeles đang bò tràn ra các vùng phụ cận. Nắng đỏ.
Đêm qua tôi đứng ở cửa căn phòng phủ bụi trắng có chiếc divan bằng kim loại bọc da nằm chênh ở giữa. Tôi hỏi mua. Không phải mọi thứ trên đời à trong phòng đều để bán hay sao? Bà chủ vỗ tay. Hai con tắc kè trên divan nhảy phóc xuống cắn nghiến hai mu bàn chân tôi. Tôi rẩy rẩy và hai con tắc kè quất qua quất lại. Quất qua quất lại.
Bây giờ thì xe tôi đang chạy phăng trên xa lộ. Mặt trời đứng lại ở cuối chân trời một giây. Mưa nắng. Tôi duyệt lại câu văn: tôi đi làm về chiều nay trời mưa máu. Mà hồng thủy trong thánh kinh thì màu gì?
 
“Mà em tên gì?”
“Sâm. Tên Mỹ là Samantha, tắt là Sam.”
“Trầm Sâm Trầm Sâm ơi / Anh ngậm ngải lên non mà hồng thủy bất ngờ.”
“Thôi đi cha nội. Tóc anh bạc lẫn lộn. Bữa nào có tiền lại em nhuộm rẻ cho.”
“Nhưng em làm nail mà. Với anh qua đây có một lần. Em cho anh mượn 5 đô chứ?”
“Nói qua có một lần làm sao trả?”
“Kiếm ra nhà thằng bạn nó trả. Nè em, phấn đổ trên giày anh.”
“Thì như bụi trắng. Giày anh có sạch gì? Khách em vô làm nail kìa. 5 đồng đây cha. Có trở lại thì dạy em trượt băng. Sân băng ở bên kia đường Knott.”
 
Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Tôi kiểm lại một ngày làm việc ở toà án: Bị can tên Đại, ở Mỹ từ năm 15 tuổi, năm nay 18. Nó đeo dây chuyền mặt Phật, đầu cạo sát quanh chỏm để ngắn một phân. Nó nhìn tôi:
“Nhà em đụ mẹ có nuôi một con chó.”
Tôi dịch lại:
“Sáng nó kêu gấu gấu.”
Quan toà:
“Chiều nó kêu gầu gầu.”
Biện lý:
“Đại, mày đứng ở góc đường Baston và Fifth vào đêm 3 tháng 8, 1999 có phải không?”
Đại:
“Tôi đứng trong đêm.”
Biện lý:
“Để bán bạch phiến.”
Luật sư toà chỉ định:
“Phản đối. Biện lý suy diễn.”
Quan toà:
“Tối nó kêu ...”
Biện lý:
“Tối nó kêu con em chúng ta từ những mái nhà ngoại ô êm ấm bằng sức quyến rũ của bạch phiến như gã thổi sáo thành Hamlin.”
 
24 tháng 5, 00
Đêm qua tôi thấy hắn ngồi giữa căn phòng ngổn ngang bàn ghế cũ. Tôi mang đến cho hắn hai điếu thuốc. Một ngắn, một dài. Tôi chở hắn trên xe môtô dài theo con đường có nhà cửa nghèo nàn và lá điệp rũ ở hai bên. Bên phải là dãy phòng trống không bỏ ngỏ. Mỗi căn phòng chứa một tủ quần áo đàn ông. Mỗi căn phòng phía sau mở ra con lạch nước đục ngầu. Chúng tôi muốn dừng lại một căn phòng nào đó mà cả hai vẫn cứ đi. Qua dãy lều tị nạn ai nói: Dễ phải mười năm. Lều như trại tị nạn đảo Guam. Tôi chở hắn ra bãi sông nước lấp xấp trống trơn trải dài ra mãi.
Hắn ôm lưng tôi. Cả hai chờ nhau mà không ai tới. Cách một căn phòng ngổn ngang bàn ghế cũ. Cách ai nói đó Mười Năm. Hai hàng cây điệp bông chùm vàng lùi lại. Cả hắn và xe môtô của tôi đều biến mất. Chưa bao giờ tôi thấy hắn đi cạnh tôi ra tới mé nước, tới biển, tới nơi. Đường ngắn đường dài hắn đều biến mất ở nửa đường.
Đường ngắn đường dài anh đều biến mất ở nửa đường. Mười năm trước tôi đi làm về trễ như thế này là anh đã nói Tân ơi Tân ơi có cơm anh dọn sẵn.
Tôi hôm nay về trễ vì mưa. Mà trời có mưa không?
 
Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Tân ơi trời có mưa. Mưa mà nắng. Hồi trước mẹ tôi nói mưa nắng như vầy hanh lắm. Bức rức mà choá hết mắt. Vậy nên tôi không thấy Tân lúc ở tiệm nail ra. Tôi đâm vào Tân mà Tân cứ xin lỗi. Tôi nói tôi tên Cang. Tân nói xin lỗi ông, tôi mãi nhìn ra bãi sông nước lấp xấp.
 
“Xin lỗi ông. Tôi mãi nhìn ra bãi sông nước lấp xấp.”
“Tôi tên Cang.”
“Xin lỗi.”
“Quanh đây đâu là bãi sông?”
“À tại tôi già rồi. Mười năm trước còn bãi sông nước lấp xấp.”
“Vậy sao? Bà tên gì?”
“Tân.”
 “Trăng năm mươi tuổi trăng già / Tân năm mươi tuổi vẫn là Tân ơi.”
“Mười năm trước chồng em cũng nói những câu tương tự.”
“Mười năm trước thì Tân đâu đã năm mươi.”
“Nhưng chồng em cũng nói bằng tiếng Việt và anh ấy dọn cơm những lúc em đi làm về trễ.”
“Giờ chồng em ở đâu?”
“Chồng em ký giấy ly hôn bằng tiếng Anh. Chồng em không bao giờ đi cạnh em ra tới mé nước tới biển tới nơi. Chồng em luôn biến mất ở nửa đường như . . . Tay anh lạnh lắm nhưng mông anh ấm.”
(Tân ơi mười năm trước anh có thể hoạ chăng đụ em lần nữa. Bây giờ thì sờ mông đủ ấm. Mà tới nơi thì có cái gì ngoài bãi nước lấp xấp trống trơn trải dài ra mãi?)
 Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Mười năm lê thê dài Tân ơi. Trong mười năm, anh đi làm cua ở Alaska (À anh chưa kể em nghe về chỗ này, vì là anh lạnh quá, không thấy gì hết, tối ngày trùm chăn thức thức ngủ ngủ tưởng tượng ra băng tuyết và những vũ công Eskimo cho tới khi bọn thầu thợ làm cua phải quẳng anh lên máy bay cho về Cali); anh làm thợ ráp điện tử xong lên chuyên viên điện tử ở Irvine; anh làm thợ đi dây điện cao ốc ở Houston; anh làm gác dan đêm cho hãng viết phần mềm điện toán ở Silicon Valley; và bây giờ thì anh lãnh hết tiền thất nghiệp rồi chưa biết đi đâu đây. Buổi sáng trong tuần anh lang thang ở khu thị chính những thành phố ngoại ô có công viên vườn cỏ mà vắng teo, chỉ thấy những thân hình cong quẹo của người không nhà và người tàn tật. Còn thì người lành lặn có công ăn việc làm chỉ lướt qua trong xe đóng kín.
Tóm lại là khoảng cách thời gian đo vậy không ra gì. Em thấy anh mười năm vẫn loay hoay không từ đâu tới đâu.
Và em thử tưởng ra cảnh tượng sau đây:
Tiếng bíp và chấm sáng trên màn ảnh ra đa. Họ liên lạc nhau qua máy truyền thông rất bình thường. Toạ độ, cao độ gì đó. Những con số thôi. Xong thì không nghe gì hết. Em thử hỏi:
“Bao lâu?”
“Khoảng 10 phút.”
“Rồi sao nữa?”
“Chiếc máy bay không có đó.”
 Em không biết 10 phút không nghe gì hay 10 phút không có gì lạ. Em nghĩ trong 10 phút tiếng con gái gọi em từ phòng ngủ — à em có con gái không nhỉ, hay lớn cả và đi rồi? 10 phút, tiếng gọi đứa nhỏ đi xuyên qua khoảng không giữa những bức tường, xuyên qua độ đặc của gạch, vôi, hay gỗ và bột giấy.
10 phút đủ khoảng cách thời gian để 217 hành khách đi từ sống tới không có gì, từ độ đặc của thể xác tới không có gì, từ đau sướng tới không có gì, từ thanh âm tới không có gì. Từ có đó tới không có đó.
Em thử nhìn xem hành khách có người đàn bà từ Victorville, Cali. Bà ta vừa nhớ ra nét mặt tươi cười của cặp vợ chồng Ả Rập trong tấm ảnh dán trên vách quán Baghdad Café mà thật ra là Roadside Coffee Shop. Bà ta thấy bụi dậy lên dưới bánh xe Chevy của tên bồ 30 năm trước ngoài cửa quán. Đám bụi dậy lên trong trí nhớ bà ta cùng lúc người đàn ông ngồi cạnh té khỏi ghế ngồi, làm căng ống plastic mặt nạ dưỡng khí treo từ trần máy bay. Một người đàn ông khác ngồi ở dãy nghế sau cùng vừa nếm lại mùi mật xanh lúc ông ta chồm qua mạn thuyền ói thốc xuống biển Nam Hải mà thật ra là Biển Đông. Thân máy bay đang bể. Tiếng động xé tai nhưng ông ta không nghe nữa vì ông đang nhìn thấy phẩm chất màu xanh của Thái Bình Dương.
217 hành khách biến mất trên, dưới Đại Tây Dương. Không ai, có mặt hay không có mặt, nhìn thấy quá trình nát thây hay mất xác.
10 phút từ có đó tới không có đó.
 Tân ơi, 10 năm của em chỉ là nhăng nhố. Ở cuối đường và cuối 10 năm không tới đâu. Bãi nước lấp xấp hay khu thị chính vắng người trải quá ngũ tuần của anh và của em.
Cám ơn em bao ăn bữa bò lúc lắc ngon và bao ngủ buổi đùi em ấm.
 Bưu thiếp
Sâm à,
Anh chạy xe kiếm nhà anh Kiệm cả ngày. Những cầu vòng xa lộ chạy ngoằn ngoèo, nhảy múa như những đường kẻ trên bản đồ Los Angeles và vùng phụ cận. Anh cứ nghĩ lơ mơ đến điệu múa Eskimo. Cô vũ công để lại những đường ngoằn ngoèo trên tuyết như cua bò. Anh lại lơ mơ nghĩ tới những con King Crab khổng lồ, mấy con Snow Crab que càng lêu khêu. Cái dạo rỉa thịt cua, tối nằm ngủ anh cứ thấy mình đang vác búa nện xuống mu con King Crab bể nát. Máu cô vũ công tràn xuống, lan trên tuyết. Cô ấy có người em gái cũng đi múa. Anh chắc phải trở lên đó kiếm cổ. Anh nghĩ nên học múa thay cổ để vẽ lên tuyết những đường cua bò cũng hay.
À cuối cùng rồi anh cũng không kiếm ra nhà anh Kiệm. Lên tới Alaska anh sẽ gửi bưu thiếp về cho Sâm.
Cang,
24 tháng 5, 00
 

 
 





Mô-tô bay






 
Tôi hỏi:
“Lỡ giàn sập thì sao hả cha?”
Cha nói:
“Đã dựng thì không sập.”
Chúng tôi ngồi sau thùng xe cam-nhông. Con đường dài ra sau xe, dậy bụi. Đoàn chúng tôi sắp tới thành phố. Chúng tôi sẽ đỗ xe lại bãi đất trống nào đó ở ngoại thành. Cha và các chú sẽ dựng giàn. Giàn đã dựng thì sẽ không sập. Tôi tin vậy. Tất cả những lần trước đều vậy. Tôi lên mười và chưa học phép xúc xắc.
 *
 Tôi đứng nhắp rượu nghe tiếng chuông reng, tiếng tiền cắc rớt lanh canh. Tôi sống ngoài ngoại ô Tucson, Arizona. Tối thứ Bảy, đi làm overtime ra, tôi hay lái xe qua cầu biên giới giữa hai tiểu bang, đến dãy khách sạn sòng bài dọc bờ sông Colorado, phía Laughlin, Nevada, kéo máy đánh bạc. Hên xui may rủi. Có được có thua. Tôi năm mươi và tôi đã học phép xúc xắc.
Hắn hỏi:
“Ăn thua?”
Tôi nói:
“Thì vừa hốt một bụm đồng 5 xu. Khoẻ không Eugene?”
Tôi vẫn gặp hắn ở đây mỗi tối thứ Bảy. Eugene làm người giữ trật tự, ăn mặc đồng phục, đeo dùi cui, mang súng. Nhiều lần tôi thấy Eugene bỏ đồng 25 xu vào máy mua thức ăn cho cá. Eugene búng từng hạt xuống nước. Bầy cá tai tượng trườn lên nhau. Da cá đen nhẩy cả một khoảng sông nước cạn trong tầm búng của Eugene.
Tôi bước ra trời đêm hực nóng. Eugene gọi tôi từ sau lưng:
“Có về hướng Bullhead không?”
“Bullhead?” Tôi không dừng lại.
Eugene theo sau. Hắn vừa đi vừa dí chân xuống đá vụn nghe rào rạo. Trời đứng gió. Một quãng sau, hắn hỏi:
“Cho đi nhờ xe có được không?”
Tôi quay lại. Eugene đang nhìn hút vào đất đá sa mạc trải dài ra phía trước. Tôi chỉ chiếc Lincoln: “Xe đây rồi.”
Tôi vào xe, nhoài người mở khóa phía hành khách cho Eugene. Bánh xe nghiến trên đường đá vụn. Hắn tự giới thiệu:
“Burns. Eugene Burns. Ông?”
“Kiên thôi là đủ.”
Eugene móc điếu Marlboro ra mồi lửa. Hắn hít sâu, thỉnh thoảng khịt khịt mũi giữa những lúc chỉ chỏ cho tôi quẹo phải quẹo trái. Tôi rẽ vào bãi xe trailer chỗ ở của hắn. Eugene mở cửa xe rồi quay sang tôi:
“Ở lại coi Marilyn.”
“Marilyn?”
“Ừ. Monroe.”
Tôi lắc đầu. Lúc tôi trở đầu xe xong thì Eugene đã leo lên ngồi ghế bành trên nóc xe trailer. Tôi nghểnh cổ nhìn lên. Eugene bấm nút màn ảnh tivi. Marilyn nẩy mông; Marilyn chồm tới cong môi giữa sa mạc. Eugene không mở tiếng nói. Marilyn trong những động tác câm lặng, nhấp nháy sáng trên mặt Eugene.
Tôi gọi với lên:
“Nhắn với Marilyn ngủ ngon nhé.”
Eugene nhìn xuống đưa ngón tay lên môi:
“Suỵt. Marilyn không bao giờ ngủ.”
Vợ tôi giờ này chắc đã vào giường. Nhưng Liên có lẽ đang trằn trọc. Liên làm chuyên viên hô hấp trong bệnh viện thành phố. Thường Liên về rất trễ. Có khi làm ca đêm đến sáng mới về. Bốn tháng trước. Liên mang cả chục tờ quảng cáo các khu nhà mới cất bày ra trên bàn phòng khách, trên thảm phòng ngủ, trên table de nuit đầu giường. Các khu nhà có tường bao quanh và có cổng an ninh. Chelsea. Woodbridge. Brookwillow. Phase I, II, III. Những tờ bươm bướm xanh mướt màu cỏ, màu cây, màu suối. Chúng tôi lặn lội đi xem nhà mẫu. Cỏ không chỉ xanh trên tờ bươm bướm. Cỏ xanh mượt từng khoảng có nước phun, có đá cụi trải dài lòng suối, giữa sa mạc.
Tôi kéo cần số. Eugene kêu:
“Ê Kiên.”
Tôi quay kiếng xuống thò đầu ra ngoài:
“Gì?”
“Đợi đó tôi lấy cho lon bia.”
“Thôi khỏi. Mai tôi phải dậy sớm.”
Tôi chưa nói hết câu là Eugene đã nhảy xuống biến mất vào trailer. Tôi gài số đậu nhưng không tắt máy. Eugene trở ra chạy ngang đầu xe sang phía bên tôi. Đèn xe quét ngang người hắn. Hắn khum xuống chống tay trên thành cửa kiếng chìa cho tôi lon bia không ra hiệu. Hẳn là loại rẻ tiền. Tôi đành cầm lấy. Hắn hỏi:
“Mai sáng Chủ Nhật sao lại dậy sớm? Không lẽ bọn bây cũng đi nhà thờ?”
“Không. Cù.”
Eugene lầm bầm:
“Cỏ sân cù chắc xanh mướt. Giữa sa mạc“
Tôi vừa kéo cần số vừa nói “Goodnight Eugene.“ Xe lăn bánh. Tôi vừa quay kiếng lên vừa nói “Goodnight Eugene.“ Trước đầu xe, Eugene đã đứng sững trong ánh đèn xe. Tôi đạp thắng. Bụi dậy quanh chân hắn. Tôi quay kiếng xuống thò đầu ra ngoài:
“Eugene! Gì nữa?”
Eugene vòng qua phía tôi, thò đầu vào xe. Bắp tay trái hắn chận ngang ngực tôi, tay phải hắn với vào tắt máy và rút chìa khóa ra khỏi ổ. Tóc hắn lùa vào mũi tôi ngai ngái mùi nước đái. Tôi há miệng, tóc hắn bệt vào lưỡi tôi. Tôi chợt nhớ tóc hắn màu vàng tro—dirty blond. Tôi đẩy cửa xô Eugene ra:
“Đừng ngu Eugene. Trả tao chìa khóa.”
Hắn cười. Tôi thấy hắn gập người xuống mà không nghe tiếng. Xung quanh là bóng đen những dãy đá lừng lững. Tôi dợm chạy. Eugene kêu với theo:
“Ê Kiên, tao khoe với mày sức phá của đạn magnum chưa?”
Tôi dừng lại. Trời đêm xa ra, cao vọi. Tôi muốn ngước nhìn mà người tôi đứng chựng. Ánh sáng sao trắng đục, tràn xuống cát đá, lan ra lan ra như sữa. Tôi nhìn thấy phía sau ót mình hẳn như Eugene đang nhìn thấy. Tôi thấy ngón trỏ bên phải của Eugene bóp cò trên khẩu magnum. Bình thường không thấy Eugene mang khẩu magnum. Nhưng tôi nhớ có lần thấy Eugene thọc tay xuống nước chộp một con tai tượng nguậy ngụa vứt độp vào ghềnh đá cho bầy mèo hoang vồ xé bên bờ sông Colorado, ngay ngoài dãy khách sạn sòng bài hừng hực đèn màu chớp tắt. Nhất định tôi có thấy. Phải là hắn. Bây giờ thì tôi thấy viên đạn trổ từ sau ra trước, phá vỡ hai lớp xương sọ, những mảnh vụn bắn ra, tia nhỏ như nước vòi phun tưới cỏ trên sân cù, sân cù xanh mướt giữa sa mạc một thành phố khác.
Ánh sáng sao trời tràn qua lỗ hổng giữa đầu tôi, đổ xuống cát đá, lan ra như máu.
 Tôi tỉnh dậy thấy mình nằm trên sàn trailer. Bóng đèn 60 watts vàng nghệch. Cách chân tôi 4 feet là mặt bàn vừa cho một người, bằng formica, màu luông luốc. Bầy dán to nhỏ đậm lợt thập thò quanh chân bàn. Phía đầu tôi là chiếc giường treo bằng giây xích, có thể xếp vào vách. Quanh giây xích bên trái buộc một khăn quàng trắng.
Chiếc khăn mỏng quá, dài quá, trắng quá. Như thể để dành bay phơi phới ngược gió ở đâu đó—xuyên mây trên máy bay một động cơ hồi đầu thế kỷ, hay xuyên sa mạc trên xe mô-tô cao phân khối hồi giữa thế kỷ. Thế kỷ trước.
Tôi đã chạm tay vào chiếc khăn như thế.
 *
 Tôi nhắm mắt đưa ra bàn tay phải. Mỗi lần Mẹ vù ngang trên xe mô-tô, khăn quàng cổ của Mẹ cuộn vào tay tôi. Khăn tơ. Tôi không dám nắm bắt, sợ làm Mẹ té. Làn vải trơn mát, tuột đi. Tôi nghe tiếng máy mô-tô, tiếng giàn gỗ rung chuyển dưới đoàn xe đuổi xoắn vào nhau. Tôi tưởng cả cấu trúc hình ống sắp sụp đi dưới đám đông hò hét. Nhưng khăn quàng của Mẹ lại bay quận vào những ngón tay tôi xoè rộng. Cứ vậy, ba bốn vòng trên miệng giàn. Xong xe Mẹ xuống thấp dần thấp dần. Tôi mở mắt tìm Mẹ với dải khăn trắng ở đáy giàn. Xe Mẹ lại bắt đầu xoắn lên, nương theo sức ly tâm, dính sát vào thành giàn. Lên dần, lên dần, cho đến khi khăn mẹ lại tuột qua tay tôi lần nữa.
Xong buổi trình diễn, Cha đứng dưới dòng chữ sơn đỏ đã phai màu “Phi Yến và Đoàn Mô-tô Bay Vạn Niên.” Cha kêu: “Yến ơi Yến ơi vô ngủ giờ này còn đi đâu nữa.” Nhưng Mẹ không bao giờ ngủ sau buổi trình diễn. Mẹ không nói không rằng, cứ đi. Cha đứng cạnh giàn gỗ tối đen, hình ống, cao bằng hai tầng nhà. Giữa đồng trống.
Tôi nằm trong thùng xe cam-nhông nhìn ra, thấp thỏm. Cha lục đục dọn dẹp một lúc sau thì chui vô nằm bên tôi. Tôi nghe hơi Cha thở trên gáy. Tôi nghe Cha chặc lưỡi. Tôi hỏi: “Cha, sao thằn lằn chặc lưỡi?” Cha nói: “Tầm phào. Ngủ đi.”
Hừng đông là cha trở dậy. Tôi nằm trong thùng xe cam-nhông nhìn ra, thấp thỏm. Mẹ ngồi đong đưa hai chân trên giàn gỗ. Khăn quàng Mẹ nhét túi, một đoạn thòng ra, phấp phới trắng. Cha kêu: “Say không đó? Xuống đi coi chừng té Yến ơi.” Chân trời màu cam lạt, ở xa.
 *
 Eugene thò đầu vào trailer nói:
“Đồ lại cái. Đéo đụng mày đã té xỉu. Tao làm gì có khẩu magnum. Tao chỉ có cây shotgun thôi. Ở khoảng cách 60 feet như nãy, sức phá hạt đạn bung ra trong vòng đường kính 1 foot. Đầu mày lúc đó đã lỗ chỗ đầy sao rồi.”
Eugene cười cười cúi xuống kéo tôi ngồi dậy:
“Lên nóc ngồi coi Marilyn với tao. Lon bia của mày tao để trên đó. Hết lạnh mẹ nó rồi.”
Tôi chồm lên đè Eugene xuống sàn thảm cũ, ngai ngái mùi nước đái. Người hắn dài hơn tôi, âm ấm.
“Trả tao chìa khóa xe.”
Eugene nhìn tôi. Hắn cười ngất, đẩy tôi ra, đứng dậy dí mũi giày xuống con gián màu hung to bằng ngón chân cái đang núp ở chân bàn. Hắn đẩy cửa ra ngoài, leo thang trên nóc trailer bằng kim loại tanh tanh, trơn tuột. Đầu tôi còn choáng váng.
“Chó má. Trả tao chìa khóa xe.”
Eugene đứng sững trên nóc trailer, cạnh Marilyn trên màn ảnh nhỏ, nhấp nháy sáng. Hắn chỉ ra sa mạc:
“Tao quăng mẹ nó ra đó rồi. Mày làm Moses mà tìm. Mò ra được mày cứ về với vợ. Tao đéo cản.”
Eugene cúi xuống gạt mũi giày ở nấc thang trên cùng. Xác gián nhèm nhẹp dính vào thành kim loại.
Tôi tuột xuống đứng tựa chiếc Lincoln mồi thuốc. Gió rin rít tràn qua lỗ hổng trong đầu. Bây giờ trăng mới mọc.
 *
 Tối hôm đó trăng mọc trễ. Lúc mẹ trở dậy ra ngoài, trăng còn lừng lững phương đông, vàng bệt mà mỏng lắm. Mẹ thấy cha. Tôi biết mẹ thấy cha. Lưng áo cha trắng mờ. Cha lom khom trên đất, cúi đi càng lúc càng xa. Mẹ bước theo, cỏ khô dợm theo gấu quần. Mẹ đi mấy mươi bước thì dừng. Dưới chân mẹ, rãnh đất mới vỡ sẫm đen, chạy dài tới lưng áo cha phía trước. Mẹ quì xuống bốc lên mớ đất ẩm. Mẹ sàn đất qua kẽ tay, dính lại mấy hạt đậu nhỏ xíu trong lòng tay. Mẹ biết đậu màu xanh. Lúc mẹ ngẩng lên, cha đang bước về phía mẹ. Cha lầm lũi hốt đất rải đều trên rãnh đậu xanh. Mẹ nhìn giá mọc trắng rãnh đất. Cha lấp đất đến đâu, giá đâm chồi đội đất lên đến đấy, những cọng giá non mọng nước, sáng mờ.
Tôi nhìn thấy rãnh đất vào ban ngày. Những vạt giá bị dẫm nát, đầu giá thè ra cặp lá nhỏ xíu, vàng xanh. Nắng đổ xuống bãi đất trống. Xe an ninh bao quanh. Họ đào lên từ rãnh đất 6 khẩu carbine quấn giấy dầu. Cha bị lôi đi.
Hay là tôi nhìn thấy rãnh đất vào ban đêm? Không có an ninh. Chỉ có cha và các chú. Họ chuyển giao carbine gói giấy dầu. Không ai biết. Chỗ đất mới đào, cha lại trải đậu xanh. Tôi chưa hề nhìn thấy giá đâm lá thành giàn đậu xanh um như cha hứa hẹn về tương lai những người cùng khổ.
 *
 Tôi rít hơi chót, búng tàn vào sa mạc. Ánh lửa đánh vòng, tắt ngúm trong bóng tối. Marilyn của Eugene cũng tắt ngúm. Hắn tuột xuống đất vào trailer mò ra cây đèn bấm.
“Lại cái máy phát điện cứt.”
Tôi ngồi đong đưa trên đầu xe, xem Eugene sửa máy. Đèn hắn hết pin, mờ đi lúc máy bắt chạy. Điện xẹt từng tia, ngoằn ngoèo, cong vòng rồi tắt ngúm.
“Cứt. Bọn gook tụi bây giỏi sửa máy, xuống đây phụ tao một tay.”
“Trả tao chìa khóa xe, tao sửa cho.”
“Mày đéo biết sửa. Nếu không mày đã nối dây công-tắc xe dông mất rồi.”
Đêm sa mạc tối thui, im phắc. Eugene ngã ngửa ra đất, nghiêng người quăng cây đèn bấm vào vách trailer đánh xoảng.
 *
 Đêm trước khi an ninh (hay cha?) đào carbine dưới rãnh giá, trời cũng tối thui. Mẹ đứng nhìn sét loé lên. Tôi đứng sau lưng mẹ. Sét trắng, như dải khăn. Mẹ chạy theo, băng ngang bãi đất hoang, ra trời đêm. Trong ánh chớp, tôi thấy mẹ xổ tóc dẫm nát rãnh giá của cha. Những cọng giá non trắng.
Cha thấy giá nát. Cha thấy đêm tối lắm, sau cơn sấm chớp. Cha cho đốt đèn măng xông treo quanh giàn mô-tô bay. Cha đi quanh giàn kiểm soát lại mấu chốt, sờ vào những thanh gỗ chống giàn. Khách tụ tập không còn đông. Phi Yến và Đoàn Mô-tô Bay Vạn Niên dựng giàn trên bãi đất đã gần nửa tháng.
Tôi chạy vòng kiếm mẹ. Mẹ đứng cạnh xe cam-nhông nhìn giàn gỗ chăm chăm, tay vuốt lại chiếc khăn quàng trắng. Mẹ có lẽ đang thấy chiếc khăn phấp phới trắng lúc mẹ bay. Nhưng tôi thì chỉ thấy lúc khăn bị dạt về phía vách dàn, như chiếc thòng, giữ mẹ lại. Tôi chạy đến nắm tay mẹ. Mẹ nói Thằng chó, mẹ có mua cho mày ly chè đậu đen để trong cam-nhông.
Tôi chạy chơi lúc mẹ rồ máy mô-tô. Tiếng giàn gỗ gầm lên rầm rập. Tôi nhảy tửng, hét to: Tay trắng tay đen/Chè đậu đen nấu đường cát trắng. Ly chè đậu đen mẹ mua cho tôi có ướp đá. Đêm nóng hực. Tôi nghĩ đường cát trắng chắc trắng như khăn mẹ. Mỏng, trơn, mát lạnh.
Xe mẹ leo giàn, lên cao. Dân chúng vỗ tay. Xe mẹ ép sát vào vách giàn. Mẹ bay. Mẹ thấy giá trắng đâm chồi đội đất, ngập rãnh, kéo dài mãi về chân trời màu cam lạt. Mẹ bay theo đường giá trắng. Mẹ đứng trên yên xe, giơ tay khỏi đầu. Khách vỗ tay; giá vé năm cắc. Năm cắc còn hơn khơi tiêm đèn ngó nhau trong đêm tù mù tỉnh lẻ.
Mẹ bay không khỏi giàn cha dựng. Xe mẹ dán sát vào vách dàn. Xe mẹ chồm lên. Tôi nghe tiếng xe mẹ chồm lên. Mẹ thấy ra đường giá trắng của cha trồng chỉ tới bìa bãi đất hoang đầy sạn đá. Đường giá trắng của cha chôn carbine gói giấy dầu. Mẹ biết giá chỉ èo uột trên sạn đá, chỉ chạy đến bìa những bãi đất hoang, và sẽ không bao giờ thành giàn đậu.
Nhưng giàn cha đã dựng thì không sập. Cha bảo thế. Mẹ biết thế. Mẹ không cần biết phép tính xúc xắc. Cha bảo ngoài màn trình diễn của mẹ thì bên ngoài kia chỉ là sạn đá. Mẹ biết thế.
Nên mẹ bay khỏi giàn cha dựng.
 *
 Eugene kêu:
“Ê Kiên, tao có khoảng đất cạnh bờ sông, đặt máy bơm nước trồng bí rợ. Tao lấy chà che bớt nắng. Tháng này dây bí đang trườn trên sa mạc, nẩy trái màu xanh.”
Giọng Eugene hơi nhỏ lại:
“Tới lễ Halloween tháng Mười bí tao trái nặng sẽ trên 20 cân, ửng màu vàng cam. Mày đến trick-or-treat, tao cho bí.”
Tôi nói:
“Tao thì làm gì với bí rợ? Đúc bánh pumpkin pie à?”
“Bọn mày không biết thưởng thức pumpkin pie.”
“Mày láo, không có cái gì mọc nổi trong chỗ sạn đá này. Mày không có xe để vượt khoảng cách của sa mạc. Dây bí của mày không bò trên sa mạc, xanh um, trái bí không chín. Chúng èo uột, chết khô trong nắng.”
Eugene chồm dậy với lấy cây shotgun. Hắn ôm súng như cha ôm khẩu carbine. Mà mẹ vẫn bay. Khỏi giàn cha dựng.
Tôi nói:
“Mày cứ bắn đi. Những hạt đạn sẽ túa vào sa mạc. Mất hút. Tao không cần chìa khóa xe. Tao vẫn đi ra khỏi tầm đạn của mày.”
Tôi có thể nối dây điện công tắc. Tôi có thể chạy xe vượt chân trời của sa mạc. Tôi biết thứ Bảy tuần tới vào sòng bài, tôi sẽ nói: “Khoẻ không Eugene.” Và có thể sẽ cho hắn đi nhờ xe về nhà. Eugene sẽ ngồi nghế bành uống bia trên nóc trailer xem Marilyn nẩy mông, ôm váy, cong môi. Mặt Eugene sẽ nhấp nháy sáng giữa sa mạc.
Tôi nhảy xuống khỏi đầu xe Lincoln, bước đến gần Eugene.
Tôi và Eugene nằm ngửa nhìn trời, cách nhau 6 feet. Sao sà xuống nhấp nháy. Tôi hỏi:
“Khăn quàng trắng buộc ở đầu giường là của mày?”
Eugene quay về phía tôi hồi lâu. Chắc hắn không thấy rõ mặt tôi trong tối.
“Của mẹ tao. Lúc sống trong viện dưỡng lão, bả thỉnh thoảng quàng khăn. Ai hỏi thì nói chuẩn bị cho sẵn sàng. Mẹ gặp ai cũng kể: Khi chết, mới đầu mình chìm xuống, co rụt vào thân xác, sau đó thì nổi phình như bột bánh mì dậy men, cảm giác sẽ như bay... Mẹ tao lúc chết cổ buộc khăn quàng trắng. Như Amelia Earhart lúc đi bay.”
“Bao lâu rồi?”
“6 tháng. Về sau bà ấy ở mãi trong phòng, khui đồ hộp ăn một mình, không thích có người vào. Mẹ chết cả 3 ngày nhân viên viện mới hay. Xác đã bắt đầu nổi phình.”
“Mẹ mầy tên gì?”
“Bà ấy tên Lucy Louise (ngắn là Lucy Lu), lúc sống vẫn ngồi nhìn ra cửa sổ đón ông bạn già Robert trần truồng đứng trên nóc toa xe lửa chuyến 11 giờ, chạy vụt ngang bên ngoài phòng viện dưỡng lão hằng đêm.”
Eugene tả người Robert bệu trắng, khôi hài. Robert vẫy vẫy tay. Lucy Lu vẫy lại bằng chiếc khăn quàng trắng. Lucy Lu không có cảm giác mất mát vì bà không có trí nhớ. Mọi điều xuyên qua tâm thức bà như màu trắng bệt trên thân hình Robert vụt ngang hằng đêm ngoài cửa sổ. Hy vọng không nằm ở tương lai. Nó chỉ màu trắng, bôi trắng trí nhớ về tương lai. Lucy Lu hay chửi thề. Eugene nói Mẹ nói tục. Lucy Lu hỏi tục so với cái gì?
Tôi ngồi dậy lui cui tìm cây đèn bấm, và tìm pin mới trong cốp chiếc Lincoln. Tôi gọi Eugene đến cầm đèn cho tôi sửa máy.
Eugene hỏi: Nên mong gì? Mong gì đây khi toàn bộ thời gian đã diễn ra? Marilyn sẽ đã trải qua mọi kết cục. Mọi chuyện sẽ đã xảy ra. Marilyn sẽ nuốt hết bao nhiêu đó viên thuốc của nàng. Hay Marilyn đã nuốt những viên thuốc của nàng, cách đây lâu lắm rồi, những mấy mươi năm trước? Ở thời điểm tương lai đó, Eugene đã hoàn thành gói bom chất đạm lấy từ phân bón; và hắn đã cho nổ đập Davis. Nước hồ Mojave đổ vào sông, tràn bờ dòng Colorado, lênh láng chảy qua sa mạc. Marilyn sẽ chỉ bàng quan trông xuống từ nóc trailer.
 Điện vụt sáng. Trên nóc trailer, Marilyn hiện ra như tự chồm dậy một mình, giữa sa mạc, trong đêm tối. Marilyn tóc vàng phới và mông nẩy. Marilyn váy gió tốc. Marilyn môi cong.
 
2001
 

 
 





Thời hậu chiến






 
1867
 
Điền cười khúc khích: “Tối như mực mà anh sáng mắt như thể người mắt sáng.” Tôi vuốt dài theo sống lưng Điền. Áo Điền vải thô, nham nhám, cứng khựng dưới tay tôi. Nhưng dưới là da thịt Điền chỗ mềm chỗ chắc. Tôi lần tay vào áo. Bắp tay bắp chân Điền từ hồi còn ở Bình Vi đã chắc vì Điền phải gánh nước, giặc giũ, trồng rau, con bảy đứa tay bồng tay ẵm. Núm vú Điền tròn to, bình thường hơi trễ xuống theo con đứa ngậm đứa nhai đứa mút, đứa nào cũng ra năm mới dứt. Nhưng lúc này thì núm vú Điền săn lên đụng vào đầu ngón tay tôi di di nhè nhẹ vòng từ sau lưng ra trước ngực. Khoảng bụng Điền mềm, lớp da tràn trễ khi tôi ấn nhẹ; hơi ấm Điền lan tỏa vào lòng tay tôi. Điền không còn trẻ. Thân thể Điền tôi thấy rõ như thể ban ngày, như thể tôi là người sáng mắt. Điền nói đúng. Như thể.
Điền thở dài. Hơi thở Điền nóng.
Tôi lần theo ống tre ra giếng nước. Ở nhà tôi không cần những vật đánh dấu vị trí và phương hướng. Nhưng đây không phải Bình Vi, Gia Định. Đây là tị địa. Thành giếng trơn rong, sần sùi. Tôi bỏ gàu xuống giếng. Tiếng đáy gàu đập vào mặt nước nghe như cái tát. Ngày xưa, Điền thở hắt, hơi thở Điền nóng. Tôi xối nước xuống đầu. Nước chảy thành sợi xuống mặt, xuống ngực, xuống chân. Nước không mát, tanh tanh mùi bùn Ba tri.
Cá rô nhảy dưới mương nghe lách tách. Đêm lan rộng vào ngày.
Điền nói đúng. Tôi viết như thể tôi là người sáng mắt: Đồng-nai tranh ngói nhuốm màu mây. Tôi nằng nặc rằng tôi thấy mây bằng chữ. Như thể.
Tôi nghe súng nổ. Tôi ngửi mùi khét hỏa mai nghĩa quân đánh bằng rơm đốt nhà xóm đạo. Lửa tôi thấy là lửa nghĩa nhân. Như thể.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh
    nào hay da ngựa bọc thây
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy
    nào đợi gươm hùm treo mộ
Đoái sông Cần-giuộc
    cỏ cây muôn dặm sầu giăng
Nhìn chợ Trường-bình
    già trẻ hai hàng lụy nhỏ
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, căm bởi một câu vương thổ
 
Nhưng tôi không thấy thời sau—thời mà Tây mang đến, đánh dấu bằng cờ tam sắc, đang mở về phía tương lai. Tôi đứng lại đây, cạnh giếng nước tị địa, trăm tuổi cho tròn phận tóc da.
Ngày chảy vào đêm. Nước nhỏ giọt. Điền trở mình, kêu:
“Anh Chiểu.”
Tôi giật mình: Tôi năm nay bốn mươi sáu tuổi. Dân xóm đạo, những kẻ chết cháy, họ bao nhiêu tuổi?
 
 
1917
 
Ở Istanbul nho chùm nhiều màu từ xanh nhạt cho đến tím thẫm. Sau này tôi sẽ nhớ mình đã bước theo những ngọn đèn lồng lập lòe trong đêm Ramazan thời thế chiến. Tôi chưa nhớ vì Istanbul chỉ mới ngỡ ngàng trước biến cố vừa xảy ra ở phía tương lai, ở Mos-cơ-va.
Hai năm nữa tôi sẽ dắt được Marika ra vườn thủy tiên. Ở chân tường nhà nàng, tôi sẽ hỏi:
“Thủy tiên nở mùa nào?”
“Thì mùa này, ngốc. Ngoài Kadikoy.”
“Hoa thủy tiên màu gì?”
“Màu trắng.”
“Không, màu vàng.”
“Nazim!”
“Marika!”
“Không, tôi nói màu hoa kia. Đừng cãi bậy.”
“Đi Kadikoy, xem ai đúng.”
Ở Kadikoy hoa thủy tiên màu vàng, nhạt, cánh nhọn, cành cao. Trời đứng gió mà hoa nghiêng ngả. Tôi hôn Marika môi thơm mùi hạnh nhân. Ở cánh rừng ngoài xa, lá đậm nhạt lật sấp lật ngửa. Nắng bạc.
 
 
1867
 
Điền kêu. Nàng đánh dấu sinh thì của tôi bằng giọng khi chua khi ngọt. Tôi quay lưng lại với đêm, men theo thanh tre tròn láng, mắt thưa mắt nhặt. Lúc vào lều, Điền biểu:
“Mai kiếm người lợp lại mái cho kịp mưa đám tới.”
“Tiền kiếm đâu ra?”
“Thì tranh, thì nứa. Thì rơm thì rạ.”
Ai đời đòi lợp nhà lúc cuối mùa mưa. Tôi với tìm cổ tay Điền. Điền giằng nhẹ, đưa tay sờ lên mắt tôi. Mắt tôi không biết có đục sữa như những thằng mù ngày xưa tôi thấy ăn xin ngoài chợ Gia Định? Tôi không thấy nhưng tôi biết Điền đang bĩu môi: Anh đồ.
Buổi trưa Điền ra chợ chưa về. Gió từ phía trước thổi qua đồn Tây ở trên đồi. Nhưng chỗ tôi đứng không có gió. Tôi đứng giữa đồng sau vụ gặt, ngửa mặt nghe tiếng cờ Tây bay phần phật ở xa.
Tiếng ếch nhái trổi lên. Ra rả như bọn trung thần theo lệnh triều đình Huế đầu Tây, bỏ cho hết Nam Kỳ Lục Tỉnh. Thằng Tôn Thọ Tường sẽ ồm ộp mà trêu trò ẩn sĩ: Ở đời há dễ quên đời được. Nó không quên được vì nó đã đứng về phía tương lai, ở phía Chớp nhoáng thẳng bon giây thép kéo. Mây tuôn đen kịt khói tàu bay. Nó không quên vì cả tổ tông, nó đã đem gói ghém thành hành trang mà mang theo lăn vào chỗ công danh, cơm áo. Nó bò, nó lết, nó lăn vào thời sau.
Nó nhớ vì thế giới của tôi, đối với nó đã là quá khứ, như một món đồ.
Tôi không nhớ được vì tôi không có gì để quên.
Tôi mong trời mưa. Mùa mưa đang qua hay mùa mưa sắp tới tôi không cần biết. Sao Điền không gọi tôi về? Sao Điền bỏ tôi đứng ở chốn này?
“Ông làm gì mà bò mà lết vậy?”
Thôi thôi em hỡi Kim Liên
“Mày biểu tao làm gì?”
Đẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê
“Cháu tưởng ông bắt ếch. Đây nè, ông phải nằm yên.”
Tôi nằm ngửa.Tôi nằm sấp. Tôi trườn trên đất đã lầy. Gốc rạ cào vào mặt. Chỗ thơm mùi rơm ướt, chỗ khét mùi rạ cháy dở. Trời thấp xuống, rì rầm, nhỏ giọt. Những vết sướt ran rát trên da.
Trải qua dấu thỏ đàng dê
“Đợi nó kêu. Ông chụp như vầy, nè nè ông.”
Chim kêu vượn hú tư bề nước non
Tôi bấu, tôi siết. Đứa con gái kêu:
“Buông ra ông, nó chết rồi kìa.”
Phan Thanh Giản cũng chết, tự sát, sau khi ký nhường ba tỉnh miền Tây, cho trọn cái Nam Kỳ. Giản chắc chết tím chết bầm. Và những người dân xóm đạo chết cháy thì đen hay đỏ? Tôi không biết ếch chết màu gì. Nhưng tôi sẽ mang về cho Điền xào bữa ăn chiều. Xác nhái sẽ tuột da, trơn nhẩy, đùi dạng như người.
Thời tôi đã là lịch sử, thì tôi sống bằng sờ, bằng nghe, bằng ngửi. Tôi sống cho tròn phận tóc da.
 
 
1917
 
Không ai nên nhớ ngược về tương lai. Nhất là những người duy vật. Tôi không cần biết. Tôi nhớ ngược, vì tương lai đã đến, ở Mos-cơ-va. Sau này tôi sẽ tới Mos-cơ-va. Nhưng từ bây giờ đến đó và sau đó nữa, tôi còn bao nhiêu thế giới để mở ra:
Ở Istanbul, lao phổi tràn lan cùng cẩm chướng. Môi Marika đỏ. Marika trên lưng lạc đà, tàu hỏa, xe Ford, hay những con lừa bệnh hoạn đi khắp những con đường. Công nhân vẫy gọi tôi ở xưởng thợ, người hái bông vải ở miền Nam có đôi bàn tay rỉ máu đứng mấp máy môi dưới nắng. Và nắng bóng bẩy lướt trên những cánh đồng mượt mà vàng chín.
Ở năm 1917, tôi chưa thấy Mos-cơ-va và tôi chưa đặt chân tới cách mạng , như thể cách mạng là một quê hương. Vì năm 1917, tôi còn quê hương ở Istanbul.
Ở Istanbul, người ta bỏ tù tôi, một lần, hai lần, ba lần, bao nhiêu lần nhỉ tổng cộng 18 năm của đời tôi. Tôi ở xa Istanbul 13 năm và chết cũng ở xa. Có lần nhà tù tôi nằm trên dốc đá, bên dưới là biển, bên dưới là những con cá lượn sấp lượn ngửa như những chiếc lá bạc trong tranh của họa sĩ Pháp. Tranh Pháp thì tôi sẽ thấy, lúc sông Seine chảy bọc hai bên nhà thờ Đức Bà sau này lâu lắm, sau trận thế chiến tới. Buổi tối năm 1961, bạn tôi sẽ cho xem Matisse làm gã bán hàng rong bày trái cây hái từ những ngân hà. Còn cá thì tôi thấy lúc nhìn lên trời ngoài song sắt nhà tù vì tôi không thể kiễng cổ ra ngoài nhìn xuống biển.
Ở năm 1938, quê hương tôi tuyên án 28 năm tù trong phiên tòa trên chiến thuyền có cầu tiêu cứt cao nửa mét họ nhét tôi vào những lúc giải lao. Vì một bài thơ. Không hề gì đâu không nên ái ngại vì chỉ 12 năm sau tôi đã được ra tù một phần nhờ bên ngoài người ta phát động tranh đấu cứu tôi và sau đó tôi âm mưu vượt biên đến Bảo Gia Lợi ngang biển Bosporus giữa cơn bão trên chiếc thuyền máy bé tí. Thuyền vượt biên sắp đắm gặp tàu bỏ đi là chuyện thường phải không, cho dù tàu đó có treo cờ một nhà nước cách mạng. Nhưng mà tôi không bỏ cuộc đòi hỏi con người chịu trách nhiệm với con người nên chỉ hai tiếng sau họ đã phải vớt tôi lên. Trên vách phòng thủy thủ đoàn là bức ảnh của tôi phóng lớn với hàng chữ:
HÃY CỨU NAZIM
Không ai hay tôi đã ra tù cả năm nay.
Cũng không ai nhận ra tôi.
Tôi là Nazim, tôi lấy vợ năm lần, đến 60 tuổi còn yêu Vera tóc vàng rơm như năm 17 tuổi yêu mùi hạnh nhân trên hơi thở Marika. Tôi không viết về những tiếng gào và những cái tát vào mặt tôi là kẻ bao giờ cũng phản bội bao giờ cũng thủy chung. Cũng như tôi không viết về những căn nhà vôi vữa lả tả rơi theo nước rịn trên tường lúc gió như băng thổi dọc theo những con lộ soviet không có thức ăn cho bọn trẻ mồ côi đùa nghịch trên đường rày xe lửa chở cha mẹ chúng về những quần đảo ngục tù thời hậu chiến. Tôi không viết những điều như thế vì thế giới tương lai tôi nhìn thấy ở năm 1917 có rất nhiều lối rẽ—lối nào cũng mang câu hỏi: bao giờ thì không còn ai đói trên mặt đất hay hãi sợ kẻ khác đuổi xô và cướp đi hy vọng?
Tôi đáp lại và người ta gọi tôi là người cộng sản. Tôi đáp lại và tôi thành người của thời hiện đại. Tôi đáp lại và tôi đứng về phía tương lai. Tôi đáp lại cho đến chết. Tôi đáp lại ở Leningrad sau cuộc vây thành thế chiến thứ hai người ta lột lá mà ăn và sau những đợt đấu tranh giai cấp. Tôi đáp lại ở Leningrad năm 1958...
 
 
1945
 
Ở cuối cuộc chiến, Gabriel Herrera trở về Quận Cam với huy chương anh dũng bội tinh do Quốc Hội liên bang trao tặng. Cha Gariel kêu:
“Ê, mejicano.”
Mẹ kéo ống quần Gabriel:
“Đâu, cho tao coi.”
Cha Gabriel trêu:
“Làm sao nó cho bà coi được. Bà để mà hỏi con Pilar.”
Lạy Chúa tôi là người có tội.
Hôm cưới, Pilar mặc áo trắng, đội khăn trắng, đeo găng tay trắng, đi giày trắng. Cô cháu nhỏ xách giỏ hoa màu trắng đi trước. Sau lễ nhà thờ, Gabriel ngồi cạnh Pilar ở băng sau chiếc xe Ford màu trắng.
Đường phố Santa Ana nhạt màu như thể xe hoa đang chạy giữa phim đen trắng. Gabriel nhìn thẳng đằng trước. Hector, anh họ Gabriel vừa lái xe vừa cười:
“Ê mejicano, salsa làm sao? Cà ớt ngò thái nhỏ vắt chanh bỏ muối.”
“Im đi Hector.”
Pilar quay lại nhìn Gabriel lúc Hector huýt sáo. Gabriel choàng tay ôm Pilar đang lồng phồng trong ba lần vải mỏng như một đám mây màu trắng.
Lạy Chúa tôi là người có tội. Nhắm mắt, tôi thấy ba ngôi: Chúa, tôi, và tội.
Pilar loay hoay trong chiếc áo cưới kêu: “Gabriel.” Gabriel nhấp nhổm chồm sang phụ Pilar mở cúc. Pilar cười khúc khích. Gabriel nằm đè lên người nàng. Da thịt Pilar mềm mềm đục sữa. Pilar kêu: “Nặng.” Gabriel nhắm mắt. Chiếc thánh giá gỗ treo đầu giường nhịp nhẹ vào tường vôi nhạt.
Lạy Chúa tôi là người có tội. Nhắm mắt, tôi thấy ba ngôi: Chúa, tôi, và tội.
Ở ngoài Rosenkrantz, Pháp, đơn vị tôi án binh chờ quân Quốc Xã. Xác đồng đội chúng tôi để dựa lưng vào vách chiến hào. Bọn còn sống thì úp người trong tư thế chiến đấu. Mùi khói súng gần gụi, mùi mồ hôi, mùi xác chết, mùi bùn, bùn, bùn. Bùn trên mặt đất cuối tháng Ba ở cái xứ này giòn như vỏ trứng. Nhưng bùn trong chiến hào thì sệt lại. Angel được lệnh tiến lên vị trí 500 yards về phía trước. Nhìn thấy chiến xa địch cách đó 75 yards, Angel chồm lên mở súng liên thanh. Địch quân rút lui. Chúng tôi không nghe gì nữa. Cách rừng thưa im lặng. Tôi nghe tiếng thở của chính mình. Angel.
Có tiếng trả súng liên thanh. Địch quân gửi lính bộ ra để đẩy lùi tuyến phòng thủ. Angel. Tôi chồm lên về phía vị trí Angel. Angel đang bắn trả vào ba địch quân ở khoảng cách 30 yards.
Angel 19 tuổi.
Pilar trở mình. Thân thể Pilar mềm, lông cứng sậm màu mọc lan ra ngoài viền quần lót mỏng. Lạy chúa. Chỗ lông xoắn xít mềm từ dưới bụng men lên đến giữa ngực Angel. Thân thể Angel rắn chắc, có mùi bùn.
Lạy Chúa, giữa tôi với Người là khoảng cách 30 yards chiến tuyến.
 
 
1975
 
Từ gốc Lampson/Nutwood đến Garden Grove/Nutwood là nửa dặm đường. 1.082 bước từ căn nhà tôi ở với Mẹ và Phan đến trại dưỡng lao. Phan nói:
“Tôi phải đếm bước để lần sau không phải quờ quạng.”
Cô y tá đi ngang bảo:
“Ông che mũi nhé. Và 20 phút thôi.”
Liễu rũ thưa thớt, không xanh. Hai tuần rồi tôi mới được phép có người thăm.
“Đêm hôm gió quá em sợ hôm nay không ai tới.”
“335 bước từ nhà tới đường xe lửa, và 747 bước từ đó đến đây. Cô biết không, xe lửa không chạy ban ngày.”
“Xe lửa không chạy nữa. Đường rày bỏ hoang.”
Phan quay đi:
“Đêm qua tôi còn nghe xe rầm rập trên đường.”
Đêm qua Mẹ nằm đâu trong căn nhà đó? Mẹ có nghe những toa xe rầm rập trên đường? Tôi rũ ra ho, nước mắt ràn rụa. Cơn sốt mỗi buổi chiều đã nhẹ, nhưng tôi đang bắt đầu thấy hơi lạnh rùng rùng chạy dọc theo xương cổ dài xuống theo lưng.
Hôm cô người Việt từ sở y tế xuống thu dọn đồ chở tôi vào trại dưỡng, Phan chồm tới bảo:
“Con mụ hàng xóm báo chứ ai. Hai vợ chồng cú vọ. Niên nó mới ho vài tiếng, tại khói thôi.”
Cô sở y tế nhìn Phan ái ngại:
“Ông khéo té.”
Phan gượng lại vịn vào cột hàng ba nói vọng vào nhà.
“Hay cứ để nó lại nhà tôi nhắc uống thuốc.”
“Ông và bà ở nhà nhớ uống thuốc đều, không khỏi cũng ngã bệnh như Niên. Bốn tuần đến clinic chụp hình phổi một lần. Ông nhé?”
Cô vịn tôi ra tới cửa thì quay lại:
“Ông đừng lo. Niên chỉ mới nhuốm bệnh. Vài tuần, hai tháng là cùng Niên sẽ về nhà uống nốt 6 tháng thuốc. Hơn nữa, trại ngay Nutwood/Garden Grove, ông hay bà cứ đi bộ mà thăm Niên hằng ngày.”
Lúc cô loay hoay giúp tôi lên xe tải thương, tôi nói:
“Phan không phải là cậu em đâu.”
Cô y tế quay đi lên ngồi cạnh tài xế.
Tôi cố mà không tài nào nhớ được hôm đó Mẹ đâu.
Ở nhà, Phan hay gọi:
“Chị Liên ơi, chiều nay ăn gì để em nấu.”
Mẹ hay nói:
“Cậu khéo. Thì còn ăn gì nữa.”
Cứ vậy mà ngày nào Phan cũng réo. Đi chợ là việc của tôi. Phan không theo vì tôi đi dọc theo đường rày xe lửa ra chợ Vons ở ngoài Brookhurst. Như thế gần hơn. Một tuần hai lần, bận về bụi dậy hơn bận đi. Phan nói tại bận về tôi phải ôm đồ nặng. Lúc về ngang nhà hai vợ chồng bên cạnh trên đường Lampson, người vợ tóc vàng rơm hay đứng tưới cỏ nhìn theo. Tôi ít khi chào.
Trong bao đồ chợ của tôi ngoài những thứ lỉnh kỉnh là 5 bó cải xanh và 4 vĩ cổ gà. Cổ gà 7 xu một pound trong khi ức gà tới 98 xu. Cổ gà còn da. Phan lấy ra rửa, chặt mỗi khúc cổ ra làm hai. Phan đập gừng, thắng đường, cho tỏi, đổ nước mắm vào kho. Nước mắm và gạo thì chúng tôi lâu lâu cuối tuần nhờ xe Ford Thunderbird đời 1955 màu hồng đã rỉ của Henry ở kế bên nhà chở ra chợ Thái mua về. Tuần nào cũng cổ gà kho đến 4 – 5 ngày. Có hôm Phan bảo tôi mua thịt bacon về ngâm nước kho như ba rọi, nhưng ăn mặn chát, lại có mùi xông khói. Buổi trưa xong, Mẹ xúc cơm để chiều mang theo vào sở tối ăn. Mẹ làm ca chiều ở sở đóng thùng cam và hạt hạnh nhân. Cam chạy trên bàn kéo, ngang chỗ ngồi mẹ chỉ việc lựa theo cỡ, và vất đi những quả ung. Cam Valencia quả đỏ như máu. Mùi the xông lên nhức đầu. Tôi biết vì đã có hôm tôi theo Mẹ vào làm thế chỗ cô Khê bệnh nghỉ. Những khuya Mẹ đi làm về ghé sang giường tôi, Mẹ không có mùi the. Mẹ mùi hạnh nhân.
Trưa tôi đi học về và chiều tôi với Phan ăn cơm ở nhà. Hôm ra trại tị nạn người bảo lãnh chở Mẹ và tôi đi ghi danh học lớp 10, trường đã tựu được mấy ngày, trời còn nóng. Hai tháng sau trời đã tụ sương buổi sáng. Trưa tôi về là Mẹ đã đón xe buýt đi làm. Sau mấy đợt gió Santa Ana, vườn sau đầy lá. Có khi trời sương đặc như mưa bụi. Mùi lá ướt ngọt ngấy. Phan kêu tôi ra gom lá. Henry râu ria xồm xoàm đứng dựa rào chỉ trỏ. Nhà Henry cũng ngay bên cạnh nhưng xoay về phía đường Nutwood. Nhà tôi ở ngay gốc, mái lệch, ngói vỡ nhiều mảng. Ống khói bằng gạch đỏ sụp bể một bên. Henry nói không kêu chủ lợp lại mái đến mùa mưa tháng tới dột tha hồ. Tôi hiểu loáng thoáng thôi. Phan hỏi tôi Henry nói gì. Mẹ sẽ không đòi chủ lợp nhà dù Mẹ có đủ tiếng để diễn tả viễn ảnh mái dột. Chủ cho mướn 375 đô một tháng với điều kiện không đòi hỏi quấy rầy. Lương Mẹ 2 đô 10 xu một giờ, một tháng 336 đô nên Phan ở để phụ thêm 125 đô một tháng với số tiền tàn tật Phan lãnh nhà nước.
Phan mù. Không, thật ra Phan chỉ đang mù dần. Tôi không biết Phan chỉ thấy đường viền như biên giới giữa khoảng không và vật thể, hay Phan chỉ thấy ánh sáng. Có lần tôi đưa tay sờ mắt Phan tìm vết thẹo. Phan gạt nhẹ, nắm tôi lại ở cổ tay. Phan nói “Không phải đạn,” và đứng dậy bỏ vào phòng.
Buổi chiều tháng 11, chúng tôi ngồi ở bàn ăn. Cổ gà béo da nhầy nhầy, trong là xương. Chúng tôi nhằn xương. Tôi thích bẻ đôi khúc cổ, kéo sợi tủy trắng béo tuột ra khỏi ống xương đầy khớp. Phan không thích tôi ăn như thế nên Phan chặt đôi cổ gà trước khi kho. Tôi cầm từng vụn cổ, bẻ từng khớp xương lấy ra cho được sợi tủy. Tôi nói:
“Anh có thấy gì đâu mà khó chịu. Em thích vậy.”
“Cậu. Gọi cậu Phan.” Phan chồm qua bàn dằn lấy khúc xương ra khỏi tay tôi.
Tôi ghị lại, móng bấu lún vào tay Phan. Phan xô tôi. Ghế ngã, tôi té ngửa xuống sàn. Phan chạy vòng sang mò tìm tôi trên đất.
 
 
1945
 
Ảnh chụp từ cao: khoảng đất được ủi bằng, và phân lô. Giữa khu là căn nhà mẫu Verano: 3 phòng ngủ, 1,75 phòng tắm, garage 2 xe. Lệch sang bên là căn mẫu Walden: 4 phòng ngủ, 2 phòng tắm, phòng ăn riêng, phòng khách có lò sưởi, cửa sổ Tây, garage 2 xe. Trong chu vi một dặm vuông, hơn nghìn căn sẽ theo mẫu Verano, và 400 căn theo mẫu Walden. Năm 1954 thời hậu chiến, mỗi ngày có đến 700 căn nhà ‘tract-homes’ như thế được hoàn tất ở một thành phố trong quận.
Trong ảnh, vài gốc cây trơ trụi đây đó không đủ sức nhắc nhớ gì đến những ruộng dâu hay những vườn cam đã san bằng. Cha mẹ Gabriel thời trước chiến tranh đã từng đi làm công ở những chỗ như thế theo mùa: củ cải đường, đậu ván, rau cần, cà chua, và dâu đỏ. Chưa kể là những vườn cam và vườn hạnh nhân. Trước năm 1932, có được việc còng lưng suốt 10 tiếng một ngày đã là may. Nhưng vào thời chiến, công việc làm không hết, nhà nước còn đưa cả tù binh Đức đến làm cho các vườn trong quận.
Năm trước, Gabriel tìm được chân thợ tiện ở hãng đóng máy bay hợp đồng nhà nước. Sau 3 tháng tập sự, cha vỗ vai Gabriel:
“Mày đến rồi đấy con ạ.”
Ông quay đi sau câu nói. Những luống dâu đậu đầy muỗi mòng chạy dài ở sau lưng.
Ảnh Gabriel chụp năm 1954: Pilar bụng tròn nhô trong chiếc đầm bầu, tay vẫy, cười nhênh nhếch góc môi trái, mắt nheo. Sau lưng Pilar, người ta sắp hàng dài ngoằn để ghi tên mua những căn hộ mẫu Verano hay mẫu Walden sẽ cất, những căn hộ rẻ tiền cho giới lao động áo xanh sống theo lối trung lưu hạng thấp. Nắng tháng Bảy gay gắt sáng.
Đêm tháng Chín, Gabriel đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra khu nhà mới thẳng hàng sân chưa mọc cỏ. Dưới ánh đèn mù mù dọc theo những con đường mới tráng, Gabriel thấy những hàng cam chạy tít vào đêm, những hàng cam biết đi đang trở về chờ người hái trái. Cam Valencia quả mọng nắng như thể chúng đã mọc lên từ những trang nhật ký mê sảng trên thuyền Tây Ban Nha vượt đại dương tìm thuộc địa ở cuối thế kỷ 15. Gabriel muốn chạy dọc hàng cây hái cam cho tới sáng. Những quả cam rực đỏ Gabriel xẻ đôi đưa tận miệng Angel. Nắng ối California chảy thành dòng trên da Angel nhợt nhạt, nhỏ giọt xuống mặt đất bùn lẫn vào với tuyết ngoài mặt trận Tây Âu. Gabriel sẽ lái máy bay một động cơ ngang qua vòm trời, để lại một vệt khói mỏng như mây. Bên dưới là chiến trường. Bên dưới là khu nhà track-homes đất ủi.
Angel 19 tuổi. Lúc tôi tới được vị trí phòng tuyến, da Angel đã tái màu.
Lạy Chúa, tôi nói gì được với Người đây khi ngôn ngữ duy nhất giữa chúng ta là những tội danh?
Trời sáng từ vòng chân trời. Pilar tóc xõa đứng chiên trứng, nướng bánh mì trét bơ mứt và pha cà phê cho bữa sáng. Xong Pilar gói sandwich bỏ vào hộp cho tôi mang vào sở ăn trưa. Chiều về, Pilar sẽ bày xong bữa cơm chiều lúc tôi uống lon bia. Pilar sẽ nói vọng ra từ nhà bếp: “Cái máy giặt anh hứa với em, ngày mai thứ Bảy mình đi mua cho kịp trước ngày em sinh, nha anh.” Tôi sẽ nói vọng vào: “Sure, Pilar.”
Lạy Chúa, tôi nói gì được với Người đây khi ngôn ngữ giữa chúng ta là những tội danh? Trước Người, tôi đành xưng tên bằng xưng tội.
Ở sở, tôi lánh mặt John Hirose lúc giờ ăn trưa. Tôi rủ Hector sang sân cỏ bên hông ngồi ăn bánh mì kẹp thịt Pilar đã tế nhị làm đủ cho cả hai. Hirose tần ngần gọi lúc tôi đang kéo Hector ra khỏi xưởng. Hirose vừa được nhận vào làm trong đội tiện của tôi nên hắn chưa có bạn ăn trưa. Hắn nhận ra tôi hôm đầu vào sở: “Gabriel? Nhớ tao không, lớp 6 thầy Jameson.” Mùi ngai ngái tỏa ra từ tóc hắn.
Sông Santa Ana chảy từ đâu, đổ ra biển chỗ nào ngày xưa tôi không biết. Nhưng gần như trưa nào tôi cũng chạy dọc theo con sông nước thấp, khúc chảy ngang đường Fairview. Đó là đường từ trường về ruộng nhà Hirose. Nó lúc nào cũng quần cọc, áo sơ mi thẳng thóm, vừa đi vừa chạy trên đê, tay xách chồng sách nịt dây da. Theo sau là bọn trẻ da trắng đứa đạp xe, đứa chạy bộ. Tiếng bọn chúng hét Hirose, Hirose vang vang trong nắng. Tôi ghét đôi chân ngắn, cong cong của Hirose chạy huỳnh huỵnh trên đất. Tôi nghét tóc nó đen cứng chải dầu tém xuống hai bên thái dương.
Buổi trưa tháng Năm nắng đã hơi gắt, hoa tím nhạt mùi nồng nở kín hai hàng cây ở trên cao. Dây morning glory tím đậm leo phủ qua rào sau những căn nhà dọc theo sông. Bọn trẻ phía trước tôi đã bắt đầu nhặt đá liệng về phía Hirose. Tôi nhặt đá lúc đầu nhỏ sau tròn to. Tôi bỏ đá vào cặp, tim đập thình thịch. Hoa tím rụng đầy đất, mùi ngái của nước đái và nồng của rượu. Tôi cầm viên đá, to bằng quả trứng chim, nhắm về phía Hirose đang chạy. Phía trước tôi, bọn trẻ có đứa quay lại:
“Ê thằng Mexican, mày làm gì vậy?”
Chúng cười rú. Tôi đứng khựng.
Buổi trưa hôm đó tôi ngồi trong bụi morning glory. Sông Santa Ana nước cạn, chảy qua đường Fairview không nghe tiếng.
Hôm tôi ở lại làm overtime, Hirose ra tìm tôi ngoài cửa sau lúc giờ break. Hắn thọc tay vào túi quần:
“Cho xin điếu thuốc.”
Tôi quẹt diêm cho hắn. Đóm lửa lóe lên lúc Hirose nghiêng đầu vào tay tôi mồi thuốc. Tóc hắn lòa xòa rơi xuống mắt. Tôi nói:
“Tóc mày không tém nữa?”
Hirose cười:
“Mày nhớ? Vào lính nó gọt đầu, còn gì tém.”
“Lính?”
“Lữ Đoàn 442, Thung lũng Po, Ý.”
Hôm núp trong bụi morning glory, tôi thấy những chân đá tay đấm của lũ con trai đập vào người Hirose. Nó co lại, hai tay ôm đầu, không rên la. Bọn trẻ cũng không đứa nào hò hét. Một cuộc ấu đả trong đoạn phim câm. Tôi nghĩ đến nước sông Santa Ana, đầy cá sáng bạc, trôi tuột ra biển.
“Gabriel, hồi ngoài mặt trận, có lần tao nằm mơ thấy mẹ.”
“Ừ.”
“Không phải tao nhớ mẹ. Tao thấy tao đứng nhìn mẹ tao bước rất chậm, theo sau là chiếc cùi giấy vệ sinh lăn long lóc xuống những bậc tam cấp thấp. Mẹ tao phấn son tươm tất, mặc bộ đầm cổ trắng to bản như những người đàn bà da trắng đi lễ nhà thờ vào sáng chúa nhật. Mẹ tao cứ thế đi giữa phố. Không ai chào, không ai tiễn. Cùi giấy vệ sinh lăn chầm chậm theo sau.”
Tôi thọc tay vào túi quần, nắm chặt hộp diêm. Vỏ hộp nham nhám, không nhẵn như những hòn đá trứng chim. Mùi tóc Hirose ngai ngái ở gần.
“Mà mày biết không Gabriel, chưa bao giờ tao nhìn thấy mẹ tao rõ như lần đó.”
Buổi tối Gabriel lái chiếc xe Ford Thunderbird đời 1955 về nhà. Xe Gabriel vững chải lăn bánh về phía tương lai của một người Mỹ con di dân gốc Mexico. Cha Gabriel đã có thể hãnh diện hay thở dài. Con Gabriel sẽ sinh ở nhà thương; và vài ngày sau đó Pilar sẽ rạng rỡ vén tóc đặt nó vào nôi trong căn phòng mới sơn màu trời non bên cạnh phòng master bedroom. Gió Santa Ana bắt đầu thổi. Những sân nhà tract-homes chưa mọc cỏ, bụi rít vào đêm tháng Chín.
 
 
1975
 
Tôi chỉ dãy nhà thẳng hàng, giống nhau, ở dọc những con đường xe Henry chạy ngang. Henry nói:
“Tract-homes.”
Tôi lặp lại.
Henry nói:
“Nhà cha mẹ tôi cũng là tract-home cất thời hậu chiến. Còn nhà cô đang ở cũ hơn nhiều.”
Những căn nhà cách nhau đều đặn như những dãy lều trại tị nạn, giữ nhịp dọc theo những con đường thành phố.
Chiều hôm đó, lúc Phan loay hoay dán giấy che chỗ kính vỡ ở cửa sổ phòng, tôi nói:
“Những căn nhà giống nhau dọc theo đường, họ gọi là tract-homes.”
Phan không ngẩng lên. Tôi nói:
“Mai mốt Mẹ sẽ mua một căn nhà như thế.”
Lúc chúng tôi lăn từ giường xuống đất, lưng bàn tay Phan rà ngang má tôi, Phan thở rút:
“Anh không đi đâu hết. Mà anh cũng không phải hạng đàn ông đó.”
Lưỡi Phan dí nhẹ xuống giữa lưng tôi, lê dài xuống kẽ mông, xoáy vào môi, chạy vòng lên bụng. Tôi xoắn tay vào tóc Phan, kéo Phan lên ngang mặt. Tôi không cảm thấy sức nặng của Phan trên người. Môi Phan ấm. Tôi không cảm thấy gì ngoài hơi ấm. Tôi ghị Phan xuống. Phan tuột khỏi tay tôi.
“Sao vậy, Phan?”
“Nghe kìa.”
“Không phải xe lửa đâu. Henry tập trống đó mà. Nghe kìa, theo nhịp.”
Phan gục đầu xuống bụng tôi.
“Anh.”
“Gì?”
“Những người đàn ông khác, họ có như thế không?”
Phan ngừng lại trên đầu ngón chân tôi.
“Anh.”
“Gì?”
“Sao anh không vào em được?”
“Sao cô nói nhiều vậy? Những người đàn bà khác, họ chỉ rên, và thở gấp, và kêu tên tôi, và...”
Tôi cười rũ, chuyển thành cơn ho thốc lên từ dưới bụng. Đèn xe ngoài đường quét ngang tường vôi ố.
Sáng thứ Bảy Mẹ nghỉ ở nhà. Mẹ ra ngồi bậc tam cấp vườn sau. Hoa cẩm chướng trái mùa mọc quanh chân Mẹ. Mùi hoa trắng toát. Như trên đời không còn mùi gì khác. Như tóc Mẹ áo Mẹ da Mẹ không toát mùi hạnh nhân. Tiếng trống của Henry nhịp đều. Cây birch lá tròn rũ như bầy cá rô sấp ngửa, bơi ngược dòng từ giữa thân cây lên tận ngọn. Nắng lung linh bạc, đổ xiêng.
Tôi đứng trong bếp nhìn ra chỗ Mẹ ngồi. Phan từ phía phòng bước ra đặt tay lên vai Mẹ. Mẹ níu lấy tay Phan. Phan rụt tay lại quay vào. Mẹ cười:
“Ở đây Phan. Đừng vô ra mãi như Vân Tiên cõng mẹ.”
Cả hai khúc khích cười.
Mùi cẩm chướng tràn lan vào tới bếp.
Tôi gọi vọng ra:
“Cậu Phan nói bữa nay hốt lá vườn rồi sang nhờ xe Henry đi chợ.”
Tôi bương ra, lấn vào Phan trên bậc tam cấp.
Mẹ ngẩng lên nhìn tôi. Tôi với lấy bừa cào lá. Lá nâu đậm nhạt mục rửa ngập sân. Phan quay vào nhà. Tôi xoay đi bĩu môi. Mẹ không nói gì bước xuống giúp tôi hốt lá. Tôi dồn hết vào góc sân, chạy vào tìm diêm quẹt. Mẹ kêu theo:
“Không đốt được, bỏ vào bao thôi.”
Tôi không nói gì, trở ra quẹt lửa châm vào đống lá.
Mẹ nắm tay tôi:
“Niên, con sao vậy?”
Lửa không bắt ngọn nhưng khói ngùn ngùn tỏa. Mùi khét như cẩm chướng. Người đàn bà tóc vàng nhà bên hét lên, tiếng cao the thé.
Phan chạy ra phụ Mẹ tạt nước vào đống lá. Mẹ líu ríu nói với người đàn bà hàng xóm:
“Con bé không biết. Nó không làm thế nữa đâu.”
Phan bước đến tát vào mặt tôi. Những ngón tay Phan bỏng rát trên má, không ấm như lúc Phan đặt ngón tay vào chỗ trũng ở cổ tôi. Tai tôi ù. Tôi lên cơn ho rũ. Tôi không ngừng. Tôi gập người ho thốc xuống mớ cẩm chướng. Để chúng đừng trắng nữa đừng thơm ngát đừng tràn lan.
 
 Nhà dưỡng lao gọi là sanatorium, em đọc được trên bảng nhỏ ngoài sân trước. Anh ngồi im lắng nghe tiếng tíc tắc đồng hồ giữ nhịp như tiếng trống của Henry. Nắng xế rọi từ sau làm mặt anh tối quá em không đọc được.
“Làm sao anh vượt qua đường rày?”
“335 bước thôi Niên, và tôi bước thêm bước 336.”
Anh nghĩ gì mặt anh tối quá em không đọc được. Anh không còn sợ nghe xe lửa chạy ban đêm, tiếng vòng bánh nghiến trên đường sắt?
“Ngày mai anh lại đến?”
“Liên nói mai Liên tới thăm cô.”
Anh nghĩ gì nắng xế chói quá em không đọc được, anh thấy không anh đôi bàn chân em đang bắt đầu tan thành những con cá rô vẩy bạc lội tứ tán. Anh không là hạng đàn ông như thế là hạng nào chắc không phải hạng con trai bản xứ cười rú rúc lúc em mặc áo ngủ dài em tưởng đầm maxi đi học lũ con trai bản xứ rà xe theo huýt sáo lúc em mặc đầm carô xanh dương Mẹ lựa ở Goodwill dọc đường xe lửa về cắt phần dưới rách lên lai thành mini cũn cỡn cho em mang giày cao gót cũng mua ở Goodwill lội bộ dự lễ trao giải toán học ở trường hay còn hạng đàn ông nào còn hạng đàn ông nào nữa?
“Buông ra, Niên.”
Nhưng môi anh ấm quá lưỡi anh êm quá và anh ôm em nhẹ như không da anh mùi cẩm chướng anh không nhớ sao anh không nhớ sao?
“Không phải tình yêu đâu Niên. Hơn nữa cô còn nguyên đó mà.”
Đầu xe lửa đen ngòm kéo theo sau một trăm toa container chở da bò rỉ nước vàng đục dọc dài những đường sắt ra tới bến tàu về các nước Thái Bình Dương. Ngày xưa, những bộ da bò mới lột trong quận người ta cũng kéo bằng đường sắt ra tới vách núi Dana Point xô xuống bãi cho tàu biển chở vòng sang xưởng đóng giày ở New England bên bờ Đại tây Dương. Đoàn xe lửa rầm rập chạy vào đêm. Mất hút.
Hôm tôi trở về căn nhà lệch mái, mưa tuôn theo tường vôi vữa.
Trong ảnh phóng sự di tản chụp từ cao, giấy vụn tụ thành dòng giữa xác xe la liệt—pháo xa, chiến xa, thiết vận xa—rụi đen, tràn ra khỏi khung hình. Phía sau là biển Đà Nẳng. Giấy trắng xóa, như xác cá mắc cạn.
 
 
1867
 
lạ chừng đường sá
          bơ vơ
có bầy đom đóm sáng nhờ      đi theo
qua truông      rồi lại lên đèo
dế kêu
     giăng giỏi
sương gieo lạnh lùng
 
(Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên, thập kỷ 1850) 
 
2003
 
Mưa thánh kinh trút xuống giữa Nasiriya và Najaf. Phóng viên chiến trường theo đoàn First Expeditionary Force đã tường trình như thế trên radio giữa những cơn bão cát. Mưa thánh kinh là sao?
Sáng Thứ Bảy, ngày 5 tháng 4, năm 2003, 60 chiến xa Đồng Minh lăn bánh vào Bá-đa. Đường lố nhố người. Có người vẫy tay. Nhiều tiếng nổ vang lên mà thật ra chưa hề dứt từ lúc những phi đạn Tomahawk tinh khôn bay vào 17 ngày trước đó. Người đàn ông bên đường bay nửa khuôn mặt. Ở thế kỷ mới, người ta chết như đã chết ở thế kỷ trước. Trong vòng 3 tiếng đồng hồ sáng ngày hôm đó, quân Đồng Minh ước lượng đã tiêu diệt được 3.000 người trên đường vòng Bá-đa.
Mưa hạt to, trút xuống trong cơn bão cát đã ở lại đâu đó giữa Nasiriya và Najaf, phía tây sông Euphrates, phía nam thành Bá-đa. Nước sông tràn lan sa mạc. Cá đổ ra đầm khô, giẫy lấp sấp.
Tôi đứng giữa cuộc, và rồi sau đó nữa, giữa thời hậu chiến.
 
 
1917
 
This Journey
 
We open doors,
close doors,
pass through doors,
and reach at the end of our only journey
                    no city,
                    no harbor—
the train derails,
the ship sinks
the plane crashes.
The map is drawn on ice.
But if I could
     begin this journey all over again,
                         I would.
 
Leningrad1958(thơ Nazim Hikmet; Randy Blasing và Mutlu Konuk chuyển ngữ từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ) 

 
 
nguồn :tienve.org
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9