TRUYỆN CỦA NGUYỄN HƯƠNG
“Em thì làm sao biết trượt băng?”
“Thì tập. Cô có thể lướt phăng trên sông hồ.”
“Cho đến khi băng tan?”
“Không bao giờ tan. Sáu tháng trời, mỗi sáng tôi thức dậy băng đều không tan.”
“Anh làm gì ở tận trên Alaska?”
“Tôi đi làm cua, hồi mới sang đây.”
“Anh nói bây giờ anh cần tiền làm gì?”
“Tôi cần tiền đổ xăng đi tìm nhà bạn.”
Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Xe tôi chạy phăng trên xa lộ đoạn cong đoạn thẳng lơ lửng trên thành phố Los Angeles đang bò tràn ra các vùng phụ cận. Nắng đỏ.
Đêm qua tôi đứng ở cửa căn phòng phủ bụi trắng có chiếc divan bằng kim loại bọc da nằm chênh ở giữa. Tôi hỏi mua. Không phải mọi thứ trên đời à trong phòng đều để bán hay sao? Bà chủ vỗ tay. Hai con tắc kè trên divan nhảy phóc xuống cắn nghiến hai mu bàn chân tôi. Tôi rẩy rẩy và hai con tắc kè quất qua quất lại. Quất qua quất lại.
Bây giờ thì xe tôi đang chạy phăng trên xa lộ. Mặt trời đứng lại ở cuối chân trời một giây. Mưa nắng. Tôi duyệt lại câu văn: tôi đi làm về chiều nay trời mưa máu. Mà hồng thủy trong thánh kinh thì màu gì?
“Mà em tên gì?”
“Sâm. Tên Mỹ là Samantha, tắt là Sam.”
“Trầm Sâm Trầm Sâm ơi / Anh ngậm ngải lên non mà hồng thủy bất ngờ.”
“Thôi đi cha nội. Tóc anh bạc lẫn lộn. Bữa nào có tiền lại em nhuộm rẻ cho.”
“Nhưng em làm nail mà. Với anh qua đây có một lần. Em cho anh mượn 5 đô chứ?”
“Nói qua có một lần làm sao trả?”
“Kiếm ra nhà thằng bạn nó trả. Nè em, phấn đổ trên giày anh.”
“Thì như bụi trắng. Giày anh có sạch gì? Khách em vô làm nail kìa. 5 đồng đây cha. Có trở lại thì dạy em trượt băng. Sân băng ở bên kia đường Knott.”
Sổ tay Tân
24 tháng 5, 00
Tôi kiểm lại một ngày làm việc ở toà án: Bị can tên Đại, ở Mỹ từ năm 15 tuổi, năm nay 18. Nó đeo dây chuyền mặt Phật, đầu cạo sát quanh chỏm để ngắn một phân. Nó nhìn tôi:
“Nhà em đụ mẹ có nuôi một con chó.”
Tôi dịch lại:
“Sáng nó kêu gấu gấu.”
Quan toà:
“Chiều nó kêu gầu gầu.”
Biện lý:
“Đại, mày đứng ở góc đường Baston và Fifth vào đêm 3 tháng 8, 1999 có phải không?”
Đại:
“Tôi đứng trong đêm.”
Biện lý:
“Để bán bạch phiến.”
Luật sư toà chỉ định:
“Phản đối. Biện lý suy diễn.”
Quan toà:
“Tối nó kêu ...”
Biện lý:
“Tối nó kêu con em chúng ta từ những mái nhà ngoại ô êm ấm bằng sức quyến rũ của bạch phiến như gã thổi sáo thành Hamlin.”
24 tháng 5, 00
Đêm qua tôi thấy hắn ngồi giữa căn phòng ngổn ngang bàn ghế cũ. Tôi mang đến cho hắn hai điếu thuốc. Một ngắn, một dài. Tôi chở hắn trên xe môtô dài theo con đường có nhà cửa nghèo nàn và lá điệp rũ ở hai bên. Bên phải là dãy phòng trống không bỏ ngỏ. Mỗi căn phòng chứa một tủ quần áo đàn ông. Mỗi căn phòng phía sau mở ra con lạch nước đục ngầu. Chúng tôi muốn dừng lại một căn phòng nào đó mà cả hai vẫn cứ đi. Qua dãy lều tị nạn ai nói: Dễ phải mười năm. Lều như trại tị nạn đảo Guam. Tôi chở hắn ra bãi sông nước lấp xấp trống trơn trải dài ra mãi.
Hắn ôm lưng tôi. Cả hai chờ nhau mà không ai tới. Cách một căn phòng ngổn ngang bàn ghế cũ. Cách ai nói đó Mười Năm. Hai hàng cây điệp bông chùm vàng lùi lại. Cả hắn và xe môtô của tôi đều biến mất. Chưa bao giờ tôi thấy hắn đi cạnh tôi ra tới mé nước, tới biển, tới nơi. Đường ngắn đường dài hắn đều biến mất ở nửa đường.
Đường ngắn đường dài anh đều biến mất ở nửa đường. Mười năm trước tôi đi làm về trễ như thế này là anh đã nói Tân ơi Tân ơi có cơm anh dọn sẵn.
Tôi hôm nay về trễ vì mưa. Mà trời có mưa không?
Tân ơi trời có mưa. Mưa mà nắng. Hồi trước mẹ tôi nói mưa nắng như vầy hanh lắm. Bức rức mà choá hết mắt. Vậy nên tôi không thấy Tân lúc ở tiệm nail ra. Tôi đâm vào Tân mà Tân cứ xin lỗi. Tôi nói tôi tên Cang. Tân nói xin lỗi ông, tôi mãi nhìn ra bãi sông nước lấp xấp.