Hiện nay việc lạm dụng kháng sinh và cách sử dụng kháng sinh chưa hợp lý trong cộng đồng đang diễn ra phổ biến, dẫn đến hiệu quả điều trị không cao, làm tăng cao tỉ lệ kháng thuốc của vi khuẩn đối với kháng sinh. Để khắc phục tình trạng trên chúng tôi khái quát một số nguyên tắc trong việc sử dụng kháng sinh như sau:
Chỉ sử dụng kháng sinh khi nào?
- Bạn chỉ sử dụng kháng sinh khi bạn chắc chắn mình bị nhiễm khuẩn.
Làm thế nào để biết mình bị nhiễm khuẩn hay không?
- Sốt là dấu hiệu điển hình khi có nhiễm khuẩn, vì vậy việc đo nhiệt độ góp phần quan trọng để khẳng định nhiễm khuẩn. Sốt do vi khuẩn thường gây tăng thân nhiệt trên 39oC trong khi sốt do virus chỉ có nhiệt độ khoảng 380-38,50C. Các trường hợp nhiễm khuẩn ngoài da thường có các triệu chứng như viêm tấy đỏ, sưng, phù nề tại chỗ. Trong một số trường hợp còn nghi ngờ cần phải thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm cụ thể như làm công thức máu, chụp X quang, làm các xét nghiệm sinh hoá để góp phần khẳng định chẩn đoán của thầy thuốc.
Lựa chọn kháng sinh như thế nào là hợp lý?
Lựa chọn kháng sinh phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh với kháng sinh: Mỗi loại kháng sinh có tác dụng tốt trên một số loài vi khuẩn khác nhau, để đánh giá độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh tốt nhất là dựa vào kháng sinh đồ, vì nhiều lý do nên không phải trường hợp nào cũng làm xét nghiệm vi khuẩn được, do đó thăm khám lâm sàng để định hướng mầm bệnh sẽ giúp ta lựa chọn kháng sinh hợp lý.
- Vị trí nhiễm khuẩn: Muốn điều trị thành công, kháng sinh phải thấm được vào ổ nhiễm khuẩn, như vậy phải nắm được các đặc tính dược động học của thuốc mới có thể chọn được kháng sinh thích hợp. Ví dụ:
+ Với những trường hợp nhiễm khuẩn tiêu hoá nặng, đặc biệt ở người già, trẻ nhỏ hoặc người suy giảm miễn dịch có thể sử dụng kháng sinh đường uống loại ít hấp thu qua ruột.
+ Với những nhiễm khuẩn da và mô mềm nên tận dụng thuốc sát khuẩn sau khi đã làm sạch vết thương bằng phẫu thuật loại bỏ tổ chức hoại tử hoặc mổ dẫn lưu mủ và bôi các kháng sinh tại chỗ.
+ Với nhiễm khuẩn tai-mũi- họng, có thể dùng các kháng sinh phun tại chỗ, dạng súc miệng, dạng viên ngậm hoặc các loại dung dịch để nhỏ trực tiếp vào tai, mũi...
+ Với nhiễm khuẩn âm đạo, ngoài việc sử dụng kháng sinh toàn thân, dạng đặt tại chổ có vai trò rất quan trọng vì với những nhiễm khuẩn nhẹ có thể chỉ cần dùng những dạng này là đủ.
+ Với nhiễm khuẩn mắt, nên tận dụng kháng sinh nhỏ hoặc tra mắt, bôi vào mí mắt (chữa viêm mí mắt) và cũng chỉ được phép sử dụng các dạng sản xuất vì mục đích này.
- Cơ địa bệnh nhân: Những khác biệt về sinh lý ở trẻ nhỏ, người cao tuổi hoặc ở phụ nữ có thai...đều có ảnh hưởng đến dược động học của kháng sinh. Những thay đổi bệnh lý như suy giảm miễn dịch, bệnh gan, thận nặng làm giảm rõ rệt chuyển hoá và bài xuất thuốc gây tăng một cách bất thường nồng độ kháng sinh có thể dẫn tới ngộ độc và tăng tác dụng phụ. Các trạng thái bệnh lý khác như bệnh nhân bị nhược cơ, thiếu men G6DP...đều có thể làm nặng thêm các tai biến và tác dụng phụ của thuốc. Vì những lý do vừa nêu trên, việc lựa chọn kháng sinh theo cá thể người bệnh cũng là một vấn đề rất quan trọng của nguyên tắc sử dụng kháng sinh.
Liều dùng kháng sinh?
- Khi sử dụng kháng sinh cần tuân thủ nghiêm ngặt theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc: Cần dùng đúng thuốc, đúng liều, đủ thời gian quy định.
Sử dụng kháng sinh bao nhiêu ngày là đủ?
- Nguyên tắc chung là phải sử dụng kháng sinh đến khi hết vi khuẩn trong cơ thể (đến khi hết sốt) cộng với 2-3 ngày ở người bình thường và 5-7 ngày ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Hướng dẫn của Xí Nghiệp Dược Phẩm Trung Ương I