(url) “Nhân Văn Giai Phẩm”
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 47 bài trong đề mục
LXMai 21.03.2007 19:48:17 (permalink)
Nhân Văn giai phẩm
 
Những nhà văn:
 
Cao Niên: Phan Khôi.

Trung Niên: Văn Cao,Trần Duy, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Như Mai.

Thanh niên: Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Đoài, Minh Hoàng, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Hoàng Tích Linh.

Học giả: Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường,Trần Đức Thảo.



Một số văn nghệ sĩ trong phong trào












http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
 
>>>>>>>>>>>>
 
Kết án NVGP: Tố Hữu; Nguyễn Tuân, Hồng Vân.... 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2007 01:06:26 bởi LXMai >
#16
    LXMai 23.03.2007 01:12:40 (permalink)

     
     
    Mở lại hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm
     
    Tấm lòng muốn đổi mới, đòi trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ của những người chủ trương đã chuyển hoá thành sự náo nức của người dân thành thị đón chào một luồng gíó mới đầy hứng khởi, và khơi dậy niềm khát khao dân chủ tự do nơi không ít thành phần trí thức.
    Phong trào bùng phát mạnh mẽ, nhưng chỉ sau ba tháng đã bị dập tắt và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trở thành vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bởi tất cả những ai liên hệ sau đó đều chìm vào cơn ác mộng đoạ đầy suốt mấy chục năm. Ban Việt ngữ nhân dịp này mở lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này bằng một loạt 10 bài do Nguyễn An thực hiện. Mời quý thính giả nghe bài thứ nhất do Thy Nga trình bày.

    Một kỷ lục

    Báo Nhân văn và các ấn bản Giai Phẩm có mặt tại miền Bắc Việt nam, lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đúng 50 năm trước.
    Nhân Văn là một bán nguyệt san xuất bản tại Hà nội, và sống vỏn vẹn chưa đến ba tháng với năm số báo, tính từ số 1 ra ngày 15 tháng 9 năm 1956 và số sáu chưa in xong thì báo bị đóng cửa ngày 15 tháng chạp cùng năm.


    Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!
    Nhà thơ Lê Đạt

    Trước đó, vào tháng hai năm 1956, đã xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng ấn bản này bị tịch thu ngay. Cuối tháng tám, xuất hiện Giai Phẩm mùa Thu, 10 ngày sau tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân, rồi cuối tháng 10, lại có Giai phẩm Mùa Thu tập 2. Qua tháng 11 thì có Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 và đến tháng 12 là Giai Phẩm Mùa Đông.
     
    Phải nói thêm một tờ báo nữa xuất hiện đồng thời với Giai phẩm Mùa Thu tập 2, nhưng do giới sinh viên đại học thực hiện, và chỉ ra được đúng một số duy nhất, là tờ Đất Mới, và môt tờ báo khác cũng nương theo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm mà mạnh dạn ăn nói là tờ Trăm Hoa của nhà thơ Nguyễn Binh.
    Tính theo thời gian, thì tuổi thọ của Nhân Văn Giai Phẩm chưa đầy một năm. Nói chính xác là chỉ có hơn 10 tháng, kể từ lúc xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân cho đến lúc báo Nhân
     
     Văn bị đóng cửa. Tính theo số ấn phẩm, thì chỉ có 10, gồm 5 Giai Phẩm và 5 số báo Nhân Văn.
    Tuy nhiên, Nhân Văn Giai Phẩm đã ghi lại những kỷ lục mà cho đến nay, với 61 năm lịch sử của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chưa có một diễn biến nào vượt qua được. Riêng nhà văn Hoàng Tiến trong bài viết gần cuối thế kỷ 20 đã gọi đây là một “vụ án văn học, có thể nói là kinh thiên động địa, chưa bao giờ xẩy ra ở Việt Nam với tầm vóc quy mô như thế.”

    Tác động mạnh mẽ đến xã hội

    Nhân Văn Giai Phẩm thường được nói đến như một phong trào, nhưng nếu coi đó là một phong trào, thì phải nói là thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo, và thiếu cả phương tiện.
    Mặc dù thế, Nhân Văn Giai Phẩm đã tác động mạnh mẽ đến xã hội đến nỗi ngày đầu tiên phát hành báo Nhân Văn tại Hà nội đã là một ngày hội của quần chúng, như lời nhà thơ Lê Đạt, một trong những người chủ trương kể lại, trong cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thụy Khuê thực hiện tại Paris năm 1999 cho tạp chí Văn học của đài RFI như sau:
     
    “Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!
     
    Lúc đó tôi đứng đấy tôi nhìn thì tôi mới thấy đúng là " ngày hội của quần chúng", không biết ngày hội ấy có kéo dài nhiều không nhưng đúng là ngày hội của quần chúng thật, tức là: không thể đi được! Bản thân tôi, tôi cũng không đi được.


    Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.
    Nhà thơ Lê Đạt

    Cứ ra thì người ta lấy hết báo, lại vào, lại cứ liên tục như thế mà chẳng phải quảng cáo gì cả. Số 1 báo Nhân Văn ấy, sau khi nó ra rồi, đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc lại hai câu thơ của tôi:
    Ðem bục công an đặt giữa trái tim người
    Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
    Nhất là sinh viên ủng hộ rất nhiều. Tờ báo Nhân Văn số 1 lập tức là phải in lại sau đâu có một hai ngày gì đó.”


    Bị tiêu diệt, đầy đoạ

    Đáp lại, nhà nước Cộng sản tại miền Bắc thời bấy giờ đã huy động toàn bộ lực lượng để đối phó, nói thẳng ra là để tiêu diệt. Người trực tiếp đứng ra thực hiện chiến dịch này là nhà thơ Tố Hữu, lúc ấy là trưởng ban Tuyên Huấn trung ương của đảng. Không có ai bị lãnh án tử hình theo nghĩa là đem ra pháp trường bắn, nhưng tất cả những ai liên quan đến Nhân Văn Giai Phẩm đều bị đầy đọa. Đầy đoạ nhiều ít tuỳ theo mức độ liên quan.
     
    Người liên quan nhiều thì bị đầy đọa nhiều, ít thì bị đầy đọa ít. Nhiều có nghĩa là bị đưa ra toà kết án tù, bị khóa sổ sáng tác, bị gạt ra ngoài lề mọi sinh họat văn học nghệ thuật và bị bao vây kinh tế - nghĩa là đói, còn ít thì bị đưa đi lao động cải tạo, gọi là để xâm nhập thực tế, rồi cho sống lay lất, và cũng bị gạt ra khỏi sinh họat văn học nghệ thuật, còn nếu chỉ đụng đến nhưng thật nhẹ, như là từng đọc qua một hai bài, từng phát biểu một ý kiến không tích cực chống, thì lý lịch cũng bị coi là có tì vết và ảnh huởng suốt đời.
     
    Số người nằm trong trường hợp này không phải là ít, nhưng không rõ là bao nhiêu. Mời quý thính giả nghe nhà thơ Lê Đạt nói về chuyện này như sau, cũng trong một cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê thực hiện năm 1999:
     
    “Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.
     
    Chính bây giờ tôi cũng tự hỏi đấy: "Không biết là mình đối với họ mình có tội gì không?" Lẽ dĩ nhiên là trong một cuộc đấu tranh cho cái mới thì chúng ta mỗi người phải chịu một ít. Nhưng họ, đúng là họ không có ý thức gì cả, họ chỉ ham muốn, ham muốn tự do, thì không có gì sai lầm cả; đọc một tờ báo, gửi một cái viện trợ... mà sau này nó kéo, nó kéo có khi cả một đời họ...


    “Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.
    Nhà văn Hoàng Tiến

    Cho nên đến bây giờ tôi vẫn không biết là công mình nhiều hay tội mình nhiều và lúc nào tôi cũng nghĩ đến họ. Mà ở Việt Nam thì không có gì rõ ràng cả. Cái chữ nó rất neutre mà lại rất gay go, người ta gọi là liên quan. Liên quan là dính líu đấy thôi. Nhưng mà anh đã liên quan là anh... gay go lắm.
    Liên quan với Nhân Văn, liên quan với địa chủ, liên quan với tư sản... thì tất cả những người này cũng là một thứ liên quan mới; liên quan với Nhân Văn là khổ lắm, nhất là lớp sinh viên trẻ, đi lao động, đi cải tạo... mà có phải chỉ Hà Nội đâu, ở những các nơi, các tỉnh đều có người ủng hộ cả. Thì những người đó mình không bao giờ biết thân phận họ ra sao.”


    Một vụ án kỳ quặt

    Vì có người bị tù tội, bị trừng phạt, nên Nhân Văn Giai Phẩm còn là một vụ án. Chỉ có trên dưới một chục người bị lãnh án, và không một ai bị nêu tội danh là Nhân Văn Giai Phẩm, cả mặc dù ai cũng biết đó là lý do đích thực.
     
    Còn lại hầu hết không bị tuyên án chính thức, không bị bỏ tù, nhưng bị đưa đi lao động cải tạo tại các công nông trường. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sau này nhớ lại, trong cuộc chuyện trò với một phái viên của RFA:
     
    “Lúc bấy giờ là năm 1958. Chúng tôi năm người là Nguyễn Huy Tưởng, bí thư đảng đoàn hội nhà văn, Hùynh văn Đứng phụ trách hội Mỹ thuật, là đại biểu quốc hội, Nguyễn Tuân, phó chủ tịch hội nhà văn, Văn Cao và tôi được lệnh đi thực tế lao động ở quân khu Tây bắc.
     
    Khi đến nơi thì ông Chu Huy Mân đưa cho coi giấy của trung ương gửi, chỉ vỏn vẹn có mấy câu thôi, như thế này: Đây là năm người lãnh đạo có vấn đề, nhờ anh chăm sóc, dưới ký tên, Lành, tức là ông Tố Hữu. Đây là một chuyến đi lạ lùng vì văn nghệ sĩ chúng tôi không bao giờ phải đi lâu như thế cả, nhưng lần này là vì “có vấn đề”, vấn đề gì thì anh biết rồi đấy.”
     
    Ngoài ra, họ đều bị kết án tử hình tinh thần. Đối với những người trực tiếp liên quan, thì tác phẩm của họ không được xuất hiện với công chúng 30 năm, 40 năm, tức là suốt thời gian mà sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, và có thể đóng góp nhiều nhất cho đời sống, cho xã hội. Khi họ được phục hồi trở lại, thì hầu hết sức khỏe đã tàn tạ và có những người tinh thần đã suy sụp.
     
    Nhà văn Hoàng Tiến 40 năm sau vụ án phát biểu: “Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.


    Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org
    Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

    Kéo dài hàng 30 năm trời. Không có cái vụ án nào mà kỳ quặc đến như thế. Đấy là cái nỗi oan khuất mà nhiều anh em văn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, tiếp quản Hà nội xong thì đến cái vụ Nhân Văn Giai Phẩm ấy thì không thể nào quên được.”


    Trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ

    Điều mà những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm mong muốn và đạo đạt lên Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay từ đầu chỉ là trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ. Họ đạo đạt một cách rất nhẹ nhàng, lịch sự, có rào trước đón sau và luôn luôn xác nhận sự lãnh đạo của đảng, nhưng đáp lại, đảng đã quyết tâm tiêu diệt không chỉ Nhân Văn Giai Phẩm, mà cả những gì được gọi là “nọc độc của Nhân Văn Giai Phẩm” nữa.
    Không chỉ đánh tờ báo lúc nó đang sống, mà vài năm sau vẫn còn đánh. Không phải chỉ đánh bằng các biện pháp hành chính và cô lập, mà còn vận dụng tất cả mọi thế lực xã hội, từ các văn nghệ sĩ đến công nhân để dồn những ai dám chân thành góp ý, hay dám đồng tình với sự góp ý ấy vào chân tường. Còn yêu cầu được nêu ra từ 50 năm trước, thì nay, 50 năm sau vẫn chưa giải quyết, và những ai thẳng thắn góp ý xây dựng thì vẫn bị trù dập, mặc dù không toàn diện và triệt để như trước kia.
    Đó chính là lý do khiến ban Việt ngữ chúng tôi mở lại hồ sơ này, hồ sơ của những vấn đề cũ mà vẫn mới, của những người ôm mối oan khuất trong suốt mấy chục năm trời. Có những người đã chết, có những người đã suy sụp hoàn toàn, nhưng cũng có những người còn đang sống những năm tháng cuối cùng của cụôc đời, và cần một trái tim thanh thản để về với vĩnh cửu. Họ xứng đáng được như vậy, bởi họ đã hành động theo lương tri.
     
    Loạt bài này sẽ kéo dài 10 kỳ, mở đầu là phần bối cảnh với cụôc phỏng vấn nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng, sau đó là diễn tiến vụ án qua lời kể của ông Nguyễn Minh Cần, khi đó là phó chủ tịch uỷ ban hành chánh Hà nội và cũng là chủ nhiệm báo Thủ Đô, của các vị chủ chốt trong Nhân Văn Giai Phẩm bao gồm nhà thơ Lê Đạt, ông Nguyễn Hữu Đang, nhà thơ Hoàng Cầm, cũng như qua tài liệu “ Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc của cụ Hoàng Văn Chí,”
     
    Chúng tôi cũng sẽ có phát biểu của một số văn nghệ sĩ mà chính bản thân, hay bằng hữu có liên hệ với phong trào như nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, nhạc sĩ Tô Vũ, nhạc sĩ Văn Cao, qua người con trai của ông là ông Văn Thao.
     
    Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin trước hết cảm ơn các quý vị đã tích cực giúp đỡ trong việc mở lại bộ hồ sơ này, đặc biệt là nhà nghiên cứu, nhà báo Thuỵ Khuê của đài RFI tại Paris, Pháp quốc. Chúng tôi cũng mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng.

     
    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/nhanvangiaiphamP1_NAn/
    #17
      LXMai 30.03.2007 01:43:49 (permalink)
      Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm
       
      Cơ quan ngôn luận của phong trào này là Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm chủ nhiệmTrần Duy làm thư kí toà soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
      Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng 3 năm 1956, do nhà thơ Hoàng CầmLê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, với hai câu thơ nổi tiếng:

      Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
      Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.
      Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trong Giai phẩm Mùa thu.
      Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân trong khiếm khuyết về dân chủ:

      a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.

      b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.//
      Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v., nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
      Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 5 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
      Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành.
      Sau đó, các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương. Một số còn bị đem đi thủ tiêu[cần chú thích]. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm".

       Một số văn nghệ sĩ trong phong trào













      [sửa] "Tác giả" của việc dập tắt phong trào
      Người được coi là "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm thường quy về cho Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

      Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).

      Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
      Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

      Những tư tưởng chính trị thù địch
      1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
      2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
      3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
      4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.


      Những quan điểm văn nghệ phản động
      1. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
      2. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
      3. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
      4. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.


      [sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
      Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

      Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.

       Giải thưởng Nhà nước
      Tháng 2 năm 2007, 4 nhà văn thuộc Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm gồm Lê Đạt, Trần Dần, Phùng QuánHoàng Cầm được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định tặng thưởng giải thưởng Nhà nước [3].

       Chú giải

      Tiếng Pháp, ý nói Trường Chinh.
      Đại từ tiếng Pháp "lui", tức ông ấy.
      Công bố danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước trên trang chủ của Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, 13 tháng 2, 2007.

       Xem thêm


      Liên kết ngoài

      Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_tr%C3%A0o_Nh%C3%A2n_V%C4%83n-Giai_Ph%E1%BA%A9m
       
       
      http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
      #18
        silverbullet 30.03.2007 05:56:41 (permalink)
        Chào LXMai,
        Đã đọc những bài bạn đăng.  Cám ơn bạn và xin phép cho có chút ý kiến. 
        Kính, SB

        ****

        LXMai
        [sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
        Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

        Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.



        Wikipedia
        Nhà thơ là người sáng tác thơ - một thể loại khác với văn xuôi hay kịch. Nhà thơ thường bị chi phối bởi nền văn hóa và tri thức truyền thống và viết ra ngôn ngữ đặc biệt (gọi là thơ).
        Khả năng Nhà thơ
        • Khả năng cảm xúc, tư duy và ngôn ngữ phong phú được diễn tả bằng thơ do khả năng bẩm sinh và do sự rèn luyện mà có.

        • Khả năng gắn kết cuộc sống, xã hội, thiên nhiên... cái hay, cái đẹp và cả những điều xấu, cả những vật vô tri vô giác cũng được nhà thơ làm sống động và có hồn.


        Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệtiến bộ cũng như hạnh phúc của con người.
      • Anh Thơ
      • Bùi Giáng
      • Chế Lan Viên
      • Du Tử Lê
      • Đinh Hùng
      • Hồ Xuân Hương
      • Nguyễn Bính
      • Nguyễn Du
      • Nguyễn Nhược Pháp
      • Hàn Mặc Tử
      • Huy Cận
      • Thế Lữ
      • Tố Hữu
      • Xuân Diệu
      • Vũ Hoàng Chương
      • Trần Ngọc Trác

      • Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_th%C6%A1
         

        wikipedia
        Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệtiến bộ cũng như hạnh phúc của con người.

        Vài ý kiến :

        1) Nhận xét của Văn Cao (được gán cho Văn Cao và chưa được kiểm chứng) đổ lỗi cho Trường Chinh là người đàng sau vụ Nhân Văn - Giai Phẩm . Nếu nói theo luận điệu này thì  tất cả  những lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam là những người phải chịu trách nhiệm. Và cái người phải đứng ra gánh trách nhiệm nhiều nhất phải là  Hồ chí Minh . Bất cứ luận điệu nào dùng để bào chửa là Hồ chí Minh không hề biết mà là lỗi của Trường Chinh hay của cấp thừa hành  là ngụy biện và không thành thật ... Những sai lầm trong  vụ "Cải Cách Ruộng Đất" cũng như trong  vụ "Nhân văn Giai Phẩm" ... Người có tội nhiều nhất phải là Hồ Chí Minh . Và vâng,  những cấp thừa hành như Trường Chinh, Tố Hữu ... cũng là những kẻ có tội luôn ... Không ai có thể dùng bất cứ luận điệu nào để bào chửa cho  tội của Hồ Chí Minh với lịch sử và dân Việt Nam về việc hủy diệt nền văn học Việt Nam trong giai đoạn đó cho suông sẻ và có thể chấp nhận được với dân Việt Nam. Hiện giờ thì  đảng cộng sản  đang nắm quyền ... nên những người cầm bút hoặc vì sợ sệt hoặc vì lý do nào đó không dám đụng chạm đến thần tượng được đảng cộng sản đánh bóng ...  Nhưng sẽ không có chi là bí mật dưới ánh sáng mặt trời.  Công cũng như tội của Tần Thủy Hoàng, của Hitler, của Stalin, của Mao Trạch Đông, ...  với nhân loại nói chung đã được ghi vào lịch sử thì cũng sẽ như vậy cho Hồ Chí Minh. Dù cho đảng công sản có dùng mọi thủ đoạn để đánh bóng hay che dấu.  Lịch sử sẽ rất công bằng.

        2) Dựa vào định nghĩa "nhà thơ" của chính Wikipedia thì Tố Hữu không đủ tiêu chuẩn, không xứng đáng để được gọi là nhà thơ ...  Wikipedia định nghĩa "nhà thơ" như đã "trích" ở trên mà lại sắp Tố Hữu vào "danh sách nhà thơ": Đây là 1 việc làm tự mâu thuẫn của Wikipedia. 

        "Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
        Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
        Cho Đảng bền lâu... cùng rập bước chung lòng
        Thờ Sit-ta-lin thờ Mao chủ tịch bất diệt "  (Tố Hữu)


        Vì chỉ cần đọc cái đoạn ở trên  thôi.   Dù  Tố Hữu có thể là cái giống chi của đảng cộng sản Việt Nam cũng được (tùy họ). Nhưng dựa trên định nghĩa nhà thơ (như của Wikipedia)  thì Tố Hữu có phục vụ cho:

        a) Chân, thiện, mỹ ?
        b) Ánh sáng?
        c) Lương tâm, trí tụê, tiến bộ, hạnh phúc?

        Căn cứ theo định nghĩa của Wikipedia. Câu trả lời rất rõ ràng là không, không và không. => Tố Hữu chẳng xứng đáng với chữ NHÀ THƠ . Chấm hết!!!
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2007 10:10:48 bởi silverbullet >
        #19
          LXMai 05.04.2007 02:17:46 (permalink)

          silverbullet

           
          Thân chào Bạn Thâm Giao
           
          Chúc Vui
          #20
            LXMai 05.04.2007 02:27:32 (permalink)
             
             
            Sự thật ở đâu ?
            Nhà văn Hoàng Tiến

            (Nhân đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi)
            Năm 1997, tôi có viết một tiểu luận “Nhìn lại vụ án Nhân văn-Giai phẩm cách đây 40 năm”. Dưới con mắt của người nghiên cứu, tôi đặt ra một vấn đề: trên cái bề mặt nổi của đấu tranh giai cấp về quan điểm tư tưởng vô sản và quan điểm tư tưởng tư sản trong văn nghệ, giấu một cái mạch ngầm là lòng đố kỵ tài năng, là sự đố kỵ của Tố Hữu với những tài năng trong văn nghệ. Đó là cách nhìn của tôi về vụ án văn học kỳ dị nhất trong lịch sử văn chương xứ ta, với mức án không thành văn kéo dài hàng 30 năm. Đến khi được cởi trói (1986 Đại hội Đảng lần VI) thì nhiều người tóc đã bạc phơ, nhiều người đã chết. Cách nhìn nhận ấy đúng hay không đúng, mong được bàn bạc. Chính vì vậy trong tiểu luận tôi phải chỉ ra được những yếu kém trong thơ Tố Hữu, điều mà lâu nay như cấm kỵ; và đi theo nó phải chứng minh được những cái hay của các nhà thơ bị đánh trong vụ án Nhân Văn. Phần phụ lục trích mỗi nhà thơ Nhân Văn hai bài, nhằm cung cấp tư liệu để độc giả tự đánh giá.
             
            Bạn bè thân quen bảo: “Ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp chết anh bất cứ lúc nào.
            Tôi đã trả lời: “Tôi hiểu điều ấy. Chính đấy là lý do khiến tôi phải viết khi ông ấy còn sống.” Bạn cứ lắc đầu hoài. Tôi phải nói thêm: “Nếu không thì trả lời thế nào với câu hỏi của người sau: “Sao khi ông ấy sống không thấy ai viết gì ?”
             
            Tôi đã chính thức gửi bài viết đến Tạp chí Văn học của Viện Văn học và vài tờ báo khác, cũng như gửi đến nhà thơ Tố Hữu. Không thấy đâu đăng, cũng không thấy đâu trả lời.
            Không sao! Không đăng là quyền của họ, trách nhiệm phải viết là quyền của tôi. Cho nên khi Tố Hữu mất, tôi đã không viết gì nữa, cho rằng trách nhiệm của mình đã xong. Nhân đọc trên báo Lao Động thấy nhà thơ Hoàng Cầm, người bị điêu đứng trong vụ án Nhân Văn, có bài thương cảm viếng nhà thơ Tố Hữu, gây cảm xúc mà bật ra mấy câu sau:

            Tố Hữu mất đi
            Hoàng Cầm viết lời ai điếu
            Đăng đầu tiên, báo Lao Động, trang 5.
            Ông trời xanh rõ thật oái oăm
            Khiến dân đen bật cười khúc khích.

            Hoàng Cầm vị thuốc đắng
            Nên giã tật rất tài.
            Chuyện thế gian,
            thôi, gác bỏ ngoài tai
            Phất tay áo,
                      đến Trúc Lâm:
            “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
            Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
            (*)




            (*): Bài “Cư trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm thiền phái. Người viết xin phép đảo câu đầu và câu cuối.
            (Tạm dịch:)
                 Trước cảnh, tâm không, hỏi gì thiền
                 Ở đời vui đạo cứ tùy duyên

            (Xin được nối thêm:)
                 Lòng không thù hận, hồn trong sáng
                 Mở rộng yêu thương tới mọi miền.

                 (12 – 12 – 2002)


            Gần đây, trong dịp toàn dân tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi có được đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” của Nhật Hoa Khanh ghi, và các báo Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội.... trích đăng vài phần, nhất là phần nói về đại tướng Võ Nguyên Giáp (báo Quân Đội Nhân Dân đăng 3 số liền), bỗng lại thấy rằng mình chưa thể thôi viết được. Với góc độ của người nghiên cứu đã viết về Tỗ Hữu, tôi thấy cần phải bàn cho ra sự thật.
             
            Tâm sự Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh ghi hoàn toàn khác với Tố Hữu đã sống trước đây.
            Bản thảo được hoàn thành tháng 2 – 2004, đã được thông qua bà Vũ Thị Thanh, vợ ông Tố Hữu, được tung ra vào dịp cả nước hoan hỉ kỷ niệm Điện Biên Phủ, nhằm cái gì? Muốn thanh minh với đại tướng Võ Nguyên Giáp chăng? Võ đại tướng trong kỷ niệm 50 Điện Biên Phủ, có thể nói ông đã lại thắng một trận Điên Biên Phủ thứ hai. Cả nước ghi ơn ông. Tên tuổi ông và đức độ của ông sống lại, chói ngời trên cả nước.
             
            Một câu hỏi được đặt ra với người nghiên cứu, bản thảo thực sự đã viết xong từ tháng 5 – 1997 (theo Nhật Hoa Khanh), nghĩa là gần 6 năm sau Tố Hữu mới mất. Sao không công bố trong chuỗi thời gian ấy, lại để đến tận bây giờ ? Liệu có sâu xa tính toán gì như thơ di cảo của Chế Lan Viên ?
            Đã từ lâu nhiều người rất mong muốn nhà thơ Tố Hữu hãy xin lỗi anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Như nhiều anh em văn nghệ khác đã hùa theo đánh anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, đã đến xin lỗi từng cá nhân. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm. Nhưng Tố Hữu đã không làm.
             
            Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của Đại hội Đảng lần VI, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh; người đẫ giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ” “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” “không bẻ cong ngòi bút” “dũng cảm trình bày sự thật” ..vv...
             
            Trong cái không khĩ cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" bây giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói: “Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng Cầm, có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao thất bản.
             
             
            Chuyện rỉ tai văn nghệ sĩ về Tố Hữu thì nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng phụ trách giá-lương-tiền, rồi đồn thổi có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn và ông Thọ đưa ra, có thể đã làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, và có thể hồi ấy đã phải biểu lộ những cư xử với Võ đại tướng để chứng tỏ lập trường của mình đứng về phía bên nào, nên sau này hối hận, cứ phải thanh minh trong lời tâm sự với Nhật Hoa Khanh, nói khá kỹ về lòng yêu quý đại tướng Võ Nguyên Giáp, chiếm khá nhiều trang giấy, hai lần viện đến vợ là bà Vũ Thị Thanh làm chứng, không tin xin cứ đến hỏi.
             
            Chuyện rỉ tai từ Đại hội Đảng III (1961), phía ông Duẩn ông Thọ thuộc phái dùng bạo lực quân sự giải phóng miền Nam, được Tố Hữu ủng hộ, thắng thế. Ông Duẩn làm tổng bí thư. Cụ Hồ và ông Giáp là phía chủ trương hoà bình thống nhất đất nước, bị thiểu số, phải phục tùng theo đa số. Điều thực hư diễn biến ra sao thì sau này các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng sẽ phải làm rõ. Đây chỉ là chuyện rỉ tai, ngoài lề cuộc họp. Nhưng nhờ đó có căn cứ để nhìn nhận được thái độ chuyển biến của từng người.
            Chuyện rỉ tai về Tố Hữu nói tổng tư lệnh thực sự công cuộc đánh Mỹ giải phóng miền Nam là đồng chí Lê Duẩn chứ không phải Võ Nguyên Giáp.
             
            Chuyện rỉ tai Tố Hữu xoá câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”.
             
            Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu nhân một chuyến công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến Võ Nguyên Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem cùng tôi bình phẩm: “Quá lắm! Thiếu lịch sự quá lắm!
             
            Tổng tấn công Mậu Thân (1968) ông Duẩn điều ông Giáp đi Đông Âu, điều cụ Hồ sang Trung Quốc nghỉ ngơi, để rảnh tay tổng tiến công nổi dậy đồng loạt bao vây Khe Sanh (định tái diễn Điện Biên Phủ) và đánh vào Sài Gòn dứt điểm giải phóng miền Nam. (Thất bại. Sự việc này rồi lịch sử sẽ định giá).
             
            Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, có vài bài trên báo, nhưng chỉ nói đến Sở chỉ huy chiến dịch chung chung, không nhắc đến tên ông Giáp. Đến Chúc văn giỗ tổ vua Hùng cũng bỏ đi hai câu nói về Điện Biên Phủ và Giải phóng Sài Gòn 30/4, thành ra bài Chúc văn 100 câu để ứng với huyền thoại 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu.
             
            Ông Giáp hồi ấy được phân công phụ trách sinh đẻ kế hoạch. Bỗng lưu truyền những câu ca dao trôi nổi: “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em.”, “Người đi từ cây đa Tân Trào đến cây đa Nhà Bò” (Cây đa Nhà Bò—cơ sở hộ sinh của quận Hai Bà, ở phố Lò Đúc, Hà Nội).
            Rồi những chuyện ông Giáp sợ Mỹ, sợ bom nguyên tử, ông Giáp với Khơ-rúp-sốp, ông Giáp lý lịch mờ ám, chuyện Năm Châu-Sáu Sứ khai báo vu vơ... Lại tin rỉ tai, đảo Tuần Châu tỉnh Quảng Ninh đã được chuẩn bị để ông Giáp ra sống biệt lập, giống Napoléon ở đảo Sainte Hélène. Có cả một cuốn hồi ký của ông phó thủ tướng thời ông Duẩn, khen ông Duẩn hết lời, chê ông Giáp quá đáng được in phôtô chuyền tay nhau ..vv...
            Thái độ ông Giáp là im lặng. Ông ngồi thiền. Lấy chữ Nhẫn của người xưa di dưỡng tinh thần.
            Và bây giờ thì ông sống lại, như một ngọn đèn rực sáng giây phút cuối, ông đã 94 tuổi trời, lá thư ông viết gửi Hội nghị Trung ương 9 Khoá IX đầu năm 2004, có thể coi là những lời tâm huyết cuối đời của vị tướng tài ba lỗi lạc; trong đó về đề mục an ninh nội bộ, ông khẩn thiết đề nghị Trung ương giải quyết dứt điểm vụ T4, một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng từ trước đến nay, và yêu cầu kỷ luật những ai vi phạm bất kể ở cương vị nào. (Không biết Bộ Chính trị sẽ giải quyết ra sao trước khi đại tướng về trời?)
            Ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương Khoá VI (1986), mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, và sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.

            Một tiếng đờn
            Mới bình minh đó đã hoàng hôn
            Đang nụ cười tươi lệ bỗng tuôn
            Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
            Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.

            Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày
            Trời xanh không gợn áng mây bay
            Thủy chung son sắt nên tình bạn
            Êm ấm lòng ta mỗi phút giây.

            Còn khổ đau nào đau khổ hơn
            Trái tim luôn sát muối oán hờn
            Còn đây một chút trong đêm lạnh
            Đầm ấm bên em một tiếng đờn.


            Bài thơ trên được giải thưởng văn học ASEAN. Họ trao giải cũng không phải là vô cớ. Có nhiều bài hoạ lại, vô danh, xin trích một bài trong số đó để bạn đọc được nghe nhiều tiếng chuông:

            Nắng hè sao đã vội hoàng hôn ?
            Sao nụ cười tươi lệ bỗng tuôn ?
            Mới hay nhân quả là như vậy,
            Vui lắm thì ra cũng lắm buồn.

            Danh lợi đua chen được mấy ngày ?
            Phù vân một thoáng gió xua bay.
            Thủy chung không có, đâu bè bạn ?
            Êm ấm làm sao được phút giây ?

            Đúng vậy còn gì đau khổ hơn!
            Đời luôn khơi dậy những oán hờn,
            Còn đây một chút trong cô lạnh,
            Mới thấm Nhân Văn một tiếng đờn.


            Ông Tố Hữu về nghỉ. Sống cô đơn. Giấc mộng quyền lực không thành. Tôi tin là ông đã hối hận. Cho nên trong Lời tâm sự Nhật Hoa Khanh ghi, ông nói nhiều về ông Giáp, ca ngợi ông Giáp hết lời, như muốn thanh minh những điều gì không phải trước đây đã cư xử với ông Giáp. Đúng như một câu châm ngôn của phương Tây: Qui s’excuse s’accuse (Kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận).
            Đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng như thế. Qua “Lời tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi thì tất cả đều là tốt, là đáng ca ngợi, là không ai đáng phải chê trách điều gì cả. Xin trích vài người:

            1). Về cụ Phan Khôi “Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân Văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.” (trg 39. Lời tâm sự)

            2). Về ông Trương Tửu “Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lý luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lý luận văn học.” (trg 39. Lời tâm sự)

            3). Về ông Trần Đức Thảo được Tố Hữu dùng cụm từ người trí thức yêu nước lỗi lạc, rồi tiếp: “Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lý luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.” (trg 51. Lời tâm sự)

            4). Về ông Nguyễn Hữu Đang “người được Bác Hồ trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập mồng 2-9-1945. Anh Đang suốt đời trung thành với Bác Hồ và với lý tưởng Độc lập-Tự do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách mạng nhưng đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng qúy. Những hy sinh ấy chính là tấm gương sáng ngời treo cao trước mắt chúng ta.” (trg 54. Lời tâm sự)

            5). Về ông Đào Duy Anh “Tôi sẽ thiếu sót rất nặng nếu không bày tỏ cảm nghĩ của mình về học giả lớn và nhà yêu nước Đào Duy Anh. Từng là tổng bí thư và sau đó, là một trong những người thuộc bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng, Đào Duy Anh đã lặng lẽ và bền bỉ hiến dâng toàn bộ tài năng và nhiệt huyết của mình cho độc lập và tự do của dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Hàng chục tác phẩm của ông bao gồm các loại từ điển và các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam ..vv... trở nên một hạt ngọc trong chuỗi ngọc di sản văn hoá dân tộc. Hồi ký của ông là hình ảnh trung thực của chính ông và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng thế hệ ông suốt mấy chục năm bão táp đấu tranh cứu nước. Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng Việt Nam thế kỷ 20, Đào Duy Anh được nhìn nhận như một nhà yêu nước, một nhà đạo đức, một bậc hiền tài.” (trg 55. Lời tâm sự)

            6). Nhắc đến các văn nghệ sĩ "Nhân Văn - Giai Phẩm" bị đánh tơi bời Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: “Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.” (trg 34. Lời tâm sự)


            Ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với những lời rất tốt đẹp. Tôi chỉ xin trích vài trường hợp, để làm một việc so sánh, với những nhận xét của Tố Hữu trước đây, khi ông còn đương quyền đương chức, đang chỉ đạo cuộc đánh phá anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm".
            Tài liệu sau đây lấy trong báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm”, do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia.
            Nhận định tổng quát về “Nhân Văn - Giai Phẩm” Tố Hữu viết:

            + Lật bộ áo “Nhân Văn - Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật tham, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)

            + Trong cái công ty phản động “Nhân Văn - Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ. (trg 17. Sđd)

            + Với sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân Văn cũng “chuyển mạnh sang chính trị”, nghĩa là đi đến “hành động quần chúng”. Những bài đánh vào nền chuyên chính, đòi phát triển tự do tư sản, đòi cho hoa độc, hoa thối tự do đua nở và đả kích từ quân đội, công an, mậu dịch, sở báo chí, cho đến cả quốc hội cũng không đủ nữa [ .... ] Chúng muốn gì? Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang và cả bọn họ luôn luôn tuyên truyền “sẽ có biến động lớn”. Rõ ràng chúng không muốn gì khác hơn Mỹ-Diệm: lật đổ chế độ dân chủ cộng hoà và Đảng lãnh đạo. (trg 18. Sđd)

            + Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn, Sĩ Ngọc ở Hội Mỹ thuật, Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ sân khấu, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ .... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn trốt-kít Trương Tửu, “quân sư”Trần Đức Thảo, và những kẻ khác ... (trg 21. Sđd)

            + Không thể che giấu được cái lịch sử phản cách mạng của Phan Khôi một đời những 5 lần phản bội, phá hoại phong trào cách mạng; không thể che giấu được cái dã tâm của tên đầu cơ cách mạng Nguyễn Hữu Đang hơn 10 năm trời vì cái đầu óc cường hào xôi thịt như cái gốc của hắn, mà luôn luôn bất mãn, kèn cựa, hằn học, dần dần đi vào con đường làm phản, bán mình cho kẻ địch, đánh lại nhân dân, tổ quốc, đánh lại chế độ chúng ta; không thể che giấu được cái chân tướng trốt-kít thâm căn ngót 20 năm nay của Trương Tửu và cái cốt cách đen tối của Trần Đức Thảo “đứa con nuôi của đế quốc” như y đã tự nhận; cũng không thể che giấu được chân tướng của bọn gián điệp như Thụy An, mật thám như Trần Duy, trước kia đã từng “lập công” với bọn chủ Pháp, nay lại ngựa quay về đường cũ; và những phần tử phản động trong giai cấp tư sản tích cực ủng hộ bọn chúng như Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) .... (trg 43. Sđd)


            Cũng xin trích dẫn một số đề mục của bản báo cáo tổng kết để bạn đọc thấy cuộc đấu tranh chống “Nhân Văn - Giai Phẩm” dữ dội đến thế nào:

            [.....] Những tư tưởng chính trị thù địch

            1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.

            2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.

            3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.

            4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.

            Những quan điểm văn nghệ phản động

            1. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực té là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “ sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.

            2. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.

            3. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.

            4. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. [......]

            Còn có thể trích dẫn nhiều nữa, nhưng thiết tưởng đã đủ để bạn đọc nhận ra: đã có hai Tố Hữu, khác hẳn nhau như nước với lửa, như lòng bàn tay với mu bàn tay.
            Vậy Tố Hữu nào mới là thật Tố Hữu ?
            Trong bản báo cáo tổng kết về “Nhân Văn - Giai Phẩm” (1958), Tố Hữu có hai lần trích lời Lê Duẩn. Mặc dù lúc ấy Lê Duẩn chưa làm tổng bí thư, nhưng chiều hướng đang lên, rồi sẽ làm. Những câu trích ấy cũng bình thường, chưa phải lời vàng ý ngọc gì - nhưng Tố Hữu cứ trích, vì ông là người khôn ngoan, tính được nước cờ.

            Ví dụ 1: Đúng như đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong kháng chiến chủ nghĩa cá nhân chưa bị đánh tan, nó mới bị dồn ép lại một góc, nên đến khi có điều kiện, thì nó vùng dậy một cách hờn giận.” (trg 31. Sđd)

            Ví dụ 2: Như đồng chí Lê Duẩn nói: “Phải biết thấy cái chồi xanh mọc lên dưới chân cây chuối úa vàng. Nếu không, sẽ chỉ thấy những lá úa che lấp mà không thấy chồi non, sẽ bi quan thất vọng.” (trg 33. Sđd)


            Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi năm 1997, không thấy trích dù một lời của ông Lê Duẩn nữa. Vì ông Duẩn (và cả ông Thọ) đã mất, để lại nhiều tai tiếng. Còn ông Giáp vẫn sống, uy tín ngày càng cao, nhất là trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, tên tuổi ông lại rực sáng lên như một ngọn hải đăng.
            Con người biết sám hối là điều rất đáng được trân trọng. Biết sám hối, biết hối hận làm con người trong trắng hơn lên, cao đẹp hơn lên. Nhưng cần sám hối thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình.
            Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được ông Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng ông Tố Hữu rất tốt với mọi người, rất đáng kính và rất đáng yêu, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được ? Ông Tố Hữu đã viết trong Lời tâm sự:

            Bất cứ một người nào, nếu tìm cách này hoặc cách khác “đánh” đồng đội và đồng nghiệp thì người đó sớm muộn sẽ chết trong trái tim của thế hệ cùng thời hoặc các thế hệ mai sau” (trg 64. Sđd)

            Rất tiếc là ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã mất rồi. Nếu các ông sống lại và được đọc những dòng trên, và tự liên hệ bản thân, thì phải khen ông Tố Hữu nói giỏi, nói rất giỏi.
            Phần viết thêm:
            Chúng tôi phải cảm ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì biết công sức anh bỏ ra thật là không nhỏ cho bài viết “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”dài 67 trang vi tính khổ A4. Tôi hình dung anh phải gỡ những băng ghi âm cuộc hỏi chuyện kéo dài 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối) vất vả đến thế nào, sắp xếp lại câu chữ gọn gàng cho lọt mắt người đọc, vì văn viết khác với văn nói.
            Và như vậy phải thấy là ông Tố Hữu có một trí nhớ phi thường. Người già 77 tuổi, lại đau ốm, cứ ho luôn trong buổi hỏi chuyện, mà nhớ được như vậy, các sự việc, tên người, rất nhiều tên người và tên tác phẩm của từng người, ông Tố Hữu nhớ lại được hết trong một buổi nói chuyện, mạch lạc, đâu ra đó. Thật khó mà tuởng tượng nổi. (Người có trí nhớ như vậy hẳn ông Tố Hữu khó có thể quên những gì ông đã kết tội anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” trước đây.)
            Qua lời văn mà lột tả được tính cách con người, tôi thấy anh Nhật Hoa Khanh thành công ở đoạn Tố Hữu nói về Phạm Duy:
            (Xin trích một chút) Nhật Hoa Khanh hỏi Tố Hữu:

            “- Thưa anh, trong hồi ký về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhac sĩ Phạm Duy có kể: tại hội tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948) Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.

            Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:
            - Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi ký. Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.” (trg 4. Lời tâm sự)


            Một đối thoại nhỏ vậy, bộc lộ hết tính cách của Tố Hữu. Một con người rât vụ vào quyền lực. Khá lạnh lùng với anh em. Có thể Nhật Hoa Khanh không cố ý nhưng anh đã lột tả đúng chân tướng của Tố Hữu. Thật tài tình. Thời xưa là khuyên đỏ, bây giờ thì rất đáng điểm 10.
            Chúng tôi còn phải cám ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì nhờ bài viết của anh mà tôi lại có dịp được bàn thêm về Tố Hữu và anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Ở bài viết này tôi chỉ xin cung cấp một ít tư liệu xưa về “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để độc giả ngày nay tự phán xét.
            Cuối cùng, điều tôi muốn nói là ông Tố Hữu sám hối thật hay chưa thành thật, điều ấy không quan trọng, sự thực là ông đã thanh minh với ông Giáp và với anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”, có nghĩa là trong thâm tâm ông đã nhận ra cái sai của mình trước đây.
             
            Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.
             
            Cái sai của vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, 30 năm sau Đảng đã nhận ra, với lời tuyên bố của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Cởi trói cho văn nghệ sĩ” (1986). Tuy không chính thức xin lỗi, nhưng đã sửa sai, anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được phục hồi công việc, được xuất bản những sáng tác phẩm.
            Thế mà phải 40 năm sau (1997) ông Tố Hữu mới có lời tâm sự để Nhật Hoa Khanh ghi, đã không nhận lỗi phần mình mà chỉ ra sức thanh minh. Thế mới biết tư tưởng con người thay đổi chậm chạp, nhất là những người một thời có quyền lực lớn.
            Còn vụ án Xét Lại - Chống Đảng những năm 1966—1968, thì sau này ông Nguyễn Trung Thành người phụ trách công tác bảo vệ Đảng hồi bấy giờ, người đứng vị trí thứ hai sau ông Lê Đức Thọ thụ lý vụ án Xét lại-Chống Đảng, đã chính thức gửi đơn minh oan cho 38 cán bộ Đảng trung cao cấp bị kết tội oan.
             
            Vậy là trong quá trình cư xử với nhau chúng ta đã có những sai lầm. Đã làm tổn hại đến những thành phần tinh hoa của đất nước.
             
            Tôi tha thiết đề nghị các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay nên rút những kinh nghiệm xưa, để đừng mắc phải những sai lầm đáng tiếc bây giờ. Trước mắt là vụ bắt bớ giam cầm những người lên tiếng về dân chủ, về chống tham nhũng, về đất đai biên giới ..v.v..... vu cho họ tội gián điệp, kết án nặng nề như các ông: cựu chiến binh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Khắc Toàn, cử nhân luật Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình; và đang giam giữ chờ xét xử là các ông: nhà nghiên cứu văn hoá Hán Nôm Trần Khuê, đại tá tổng biên tập tạp chí Lịch sử quân sự, nhà báo Phạm Quế Dương, nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng bác sĩ Nguyễn Đan Quế ...vv...
             
            Những con người ưu tú kể trên mà bị quàng tội là gián điệp thì thật không thể nào hiểu nổi.
            Chúng ta đã nhận ra phần dân chủ của đất nước còn yếu kém. Nên Đại hội Đảng IX đã phải đưa hai chữ dân chủ vào nghị quyết. Có nghị quyết rồi thì phải thi hành. Hiểu đơn giản về dân chủ là phải biết lắng nghe những ý kiến khác với chủ kiến của mình. Nên chấm dứt dùng bạo lực đàn áp những người khác chính kiến. Nên tạo một thói quen bàn bạc, tranh luận, tìm ra đồng thuận.
            Kẻo rồi sau này lại phải hối hận, rằng, bước vào thế kỷ thứ 21, nước ta sao mà lắm gián điệp đến thế ???
            Nói lại chuyện “Nhân Văn - Giai Phẩm” xưa kia, để rút kinh nghiệm cho công việc đất nước hôm nay, như thế gọi là ôn cố tri tân (ôn cũ biết mới), nó là điều cần thiết để đất nước đi lên vậy.
             
            Tôi kính chuyển bài viết này tới các vị lãnh đạo Đảng - Nhà nước, và kính chuyển tới tất cả bạn đọc. Có điều gì không phải mong được thứ lỗi trước.
             
            Hà Nội ngày 6 tháng 6 năm 2004

            Hoàng Tiến, nhà văn

            Địa chỉ:
                 Nhà A 11 Phòng 420
                 Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.

            Nơi gửi:
                 - Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
                 - Ban Tư tưởng—Văn hoá
                 - Bộ Văn Hoá
                 - Bộ Công an
                 - Hội Nhà văn Việt Nam
                 - Hội Nhà văn Hà Nội
                 - Các cơ quan báo chí, thông tấn
                 - Bè bạn văn nghệ sĩ
                 - Các bạn đọc quan tâm

             
            Hoàng Tiến
             
             
            http://anhduong.net/LinhTinh/Aug06/HoangTien-ToHuu.htm
            #21
              LXMai 06.04.2007 02:20:41 (permalink)
              Nhân Văn-Giai Phẩm
               
               
              Có thể nhìn thấy ảnh hưởng của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm trên ba bình diện: cá nhân, nền văn học và cả xã hội. Về ảnh hưởng trên các cá nhân, chúng tôi đã có dịp trình bày hoàn cảnh của một số văn nghệ sĩ mà hoạt động sáng tác của họ bị ngưng trệ trong ba bốn chục năm, và như một phép lạ, một số vị đã vượt thoát đựoc cái định mệnh oan nghiệt để lại vươn lên khi đựơc phục hồi. Tiếc rằng một số vị đã ngã gục và một số đã qua đời.
               
              Trong số những văn nghệ sĩ là nạn nhân và có dịp nói lên tâm trạng và hoàn cảnh của mình trong suốt mấy chục năm bị vứt ra ngoài lề xã hội, chúng tôi chú ý đặc biệt đến nhà thơ Lê Đạt. Ông mô tả cái tâm trạng lúc nào cũng e ngại, sợ hãi của người bị “giang sơn ruồng bỏ giống nòi khinh”, và ông sử dụng từ “rẻ rách hoá” thật là tài tình mà cũng thật là đau xót:
              Ông Nguyễn Minh Cần, trong thời gian xẩy ra vụ án là phó bí thư thành uỷ Hà nội phụ trách tuyên huấn thì nói lên hoàn cảnh của lụât sư Nguyễn Mạnh Tường để minh hoạ tình cảnh bị bao vây chẳng những về chính trị mà cả về kinh tế nữa.
               
              Ông cũng nói lên ảnh hưởng của vụ án đối với nền văn học Việt Nam: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)


              Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org
              Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

              Về điểm này, thì nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng từng sống ở miền Nam sau năm 1954 cũng nhận xét: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)
              Và sau hết là ảnh hưởng về lâu về dài của vụ án, xét như một phần trong kế hoạch rộng lớn đã đựơc đảng Lao động Việt Nam hoạch định và thi hành mấy chục năm qua: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

              Theo dòng câu chuyện:

              - Vai trò của nhạc sĩ Văn Cao trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 9)
              - Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 8)
              - Những nhân vật trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần 7)
              - Sắc lệnh Báo chí bóp chết các tờ Trăm Hoa, Giai Phẩm, và Đất Mới không kèn không trống (phần 6)
              - Giai Phẩm Mùa Thu ra đời với những bài vở nặng về chính trị hơn (phần 5)
              - Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp về diễn tiến của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (phần 4)
              - Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3)
              - Phỏng vấn ông Trần Gia Phụng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 2)
              - Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)
               
              http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/20/nhanvangiaiphamP10_NAn/
              #22
                LXMai 19.04.2007 02:30:34 (permalink)

                Nhân Văn Giai Phẩm

                 
                Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
                 1   2   45   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   52   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   120121   122123   124125   126127   128129   130131   132133   134135   136137   138139   140141 
                8.1.2007
                 Hữu LoanTự phỏng vấn Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19 năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.
                talawas





                Nhà thơ Hữu Loan (ảnh: talawas)Tiểu sử

                Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.

                Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường.

                Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.

                Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .

                Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3]

                Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?

                Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.

                Phóng viên: Bác ngại sao?

                Hữu Loan: Cũng ngại chứ!

                Phóng viên: Vì sao vậy?

                Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.

                Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.

                Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:

                “Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng.”

                Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:

                “Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương.”


                Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:

                “Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”

                Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:

                “Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”

                Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?

                Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.

                Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?

                Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.

                Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…

                Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.

                Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:

                “Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”

                “Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”

                “Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”

                Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”:

                “Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”

                “Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…”

                Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.

                Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.

                Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.

                Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.

                Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…

                Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.

                Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".

                Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….

                Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết [4] .

                Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ).

                Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?

                Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ [5] .

                Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

                Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]

                Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

                Một người nhà báo hỏi ông:

                “Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”

                Ông Trương Chinh sửng sốt:

                “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.”

                Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.

                Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.

                Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.

                Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn".

                Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.

                Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.

                Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về…

                Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.

                Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.

                Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.

                Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:

                “Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.”

                Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ.

                Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn.

                Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.

                Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"

                Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.

                Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.

                Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?

                Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:

                Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha.

                Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.

                Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.

                Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.

                Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…

                Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.



                *

                Phụ lục:

                Hữu Loan
                Giai thoại về một bài thơ

                Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì chưa thể làm người được".

                Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…

                Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.

                Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:

                “Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”

                Xuân Diệu trấn an ngay:

                "Bài thơ hay quá!"

                Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà không khỏi hoảng.

                “Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”

                Tôi vội hỏi:

                “Câu nào?”

                “Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"

                Tôi hơi bực:

                “Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có câu ấy.”

                Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:

                “Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần chúng à?”

                Tôi khẳng định:

                “Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”

                Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.

                © 2007 talawas





                [1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).
                [2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn.
                [3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học."
                [4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956
                [5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày 20.9.1956
                [6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956
                [7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956
                http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8950&rb=0102
                #23
                  LXMai 27.04.2007 01:38:06 (permalink)
                  Khởi nguồn
                   
                  Cơ quan ngôn luận của phong trào này là Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm chủ nhiệmTrần Duy làm thư kí toà soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
                  Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng 3 năm 1956, do nhà thơ Hoàng CầmLê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, với hai câu thơ nổi tiếng:

                  Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
                  Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.
                  Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trong Giai phẩm Mùa thu.
                  Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân trong khiếm khuyết về dân chủ:

                  a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.

                  b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.//
                  Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v., nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
                  Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 5 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
                  Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành.
                  Sau đó, các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương. Một số còn bị đem đi thủ tiêu[cần chú thích]. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm".

                   Một số văn nghệ sĩ trong phong trào













                   "Tác giả" của việc dập tắt phong trào
                  Người được coi là "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm thường quy về cho Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

                  Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).

                  Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
                  Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

                  Những tư tưởng chính trị thù địch
                  1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
                  2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
                  3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
                  4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.


                  Những quan điểm văn nghệ phản động
                  1. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
                  2. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
                  3. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
                  4. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.


                  [sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
                  Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

                  Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.

                   Giải thưởng Nhà nước


                   Chú giải

                  Tiếng Pháp, ý nói Trường Chinh.
                  Đại từ tiếng Pháp "lui", tức ông ấy.
                  Công bố danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước trên trang chủ của Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, 13 tháng 2, 2007.
                   
                  http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_v%C4%83n_giai_ph%E1%BA%A9m
                  #24
                    LXMai 03.05.2007 03:27:27 (permalink)
                    Paris By Night và Nhân Văn Giai Phẩm
                     
                    Đỗ Thái Nhiên

                    Paris By Night, Asia Productions, và Nhân Văn Giai Phẩm
                     
                    .....
                     
                    Từ cuộc thi tuyển ca sĩ tại hải ngoại, chúng ta hãy hướng mắt nhìn về một cuộc thi đặc biệt ở Việt Nam. Có hai hình thức thi đua: thi có tổ chức và thi tự phát. Người bộ hành bị một tên trộm giật mất cái ví tiền. Người này lập tức rượt đưổi tên trộm. Như vậy là có cuộc thi chạy bộ giữa nạn nhân và tên trộm. Đó là thi tự phát. Năm 1956 tại Bắc VN, do bị CS tước đoạt quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, giới văn nghệ sĩ miền Bắc đã thành lập nhóm Nhân Văn để đòi lại những nhân quyền đã mất. Từ đó đã khởi sự một cuộc thi tự phát giữa Nhân Văn và CSVN. Đôi bên đều lấy nhân quyền làm đối tượng để thi đua. Nhóm Nhân Văn xem quyền tự do sáng tác là nhân quyền hàng đầu của công dân. CSVN xem nhân quyền là tài sản riêng của đảng CSVN. Trong cuộc thi này CSVN vừa là thí sinh bất đắc dĩ vừa là giám khảo. Qua đến năm 1958, CSVN quyết định thẳng tay đàn áp Nhân Văn, thay vì tiếp tục thi đua tranh cãi về nhân quyền... Cuộc đàn áp này cực kỳ tàn ác, kéo dài nhiều thập niên.
                     
                     
                    Trần Dần và vợ
                    Nguồn: vnn.vn

                    Thế rồi, 49 năm sau (1958 – 2007), ngày 13/2/2007, CSVN công bố giải thưởng cho bốn người trong nhóm Nhân Văn: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán...
                    Xin được nhắc lại nhóm Nhân Văn gồm: Cụ Nguyễn Hữu Đang (trụ cột của nhóm), cụ Phan Khôi (chủ nhiệm Nhân Văn Giai Phẩm), kế đó là các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Dần ... Vào lúc CSVN công bố giải thưởng cho Nhân Văn thì toàn bộ nhóm này đã qua đời, ngoại trừ hai nhân vật tương đối ôn hòa là Hoàng Cầm và Lê Đạt vẫn còn sống. Nhân dịp công bố giải thưởng cho Nhân Văn, nhà văn Đỗ Chu, thành viên của hội đồng giải thưởng chuyên ngành văn học, đã nói với báo chí rằng có thể xem giải thưởng này như là “lời xin lỗi của anh em đối với các anh.” Dư luận gần như không chú ý đến lời xin lỗi quá nguội kia. Dư luận chỉ ghi nhận: giải thưởng cho Nhân Văn đã nhắc nhở quần chúng là tuyệt đa số thành viên Nhân Văn đã qua đời. Công bố giải thưởng dành cho Nhân Văn chính là lời cáo phó đối với Nhân Văn. Ngay khi Nhân Văn bị đàn áp tàn tệ, cụ Phan Khôi đã tiên liệu một ngày kia CSVN sẽ phải xin lỗi Nhân Văn nhưng thể thức xin lỗi sẽ rất lơ mơ và vô nghĩa. Cụ Phan Khôi viết:

                    “Làm sao cũng chẳng làm sao
                    Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
                    Làm chi cũng chẳng làm gì
                    Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao.”

                    Phan Khôi

                    Những trình bày về cuộc thi của Paris by Night , Asia Productions và cuộc thi tự phát của nhóm Nhân Văn đã dẫn đến bốn nhận định chủ yếu:

                    - CSVN thường xuyên lớn tiếng kêu gọi hòa hợp hòa giải. CSVN có tòa đại sứ và sứ quán trên khắp thế giới, có dư giả phương tiện tài chánh. Tại sao họ không tổ chức những cuộc thi kiểu Paris by Night, Asia Productions để tạo liện hệ tốt đẹp với người Việt trên khắp thế giới? Câu trả lời nằm ở tâm lý hèn nhát của CSVN: họ không dám để cho người dân được quyền tự do ca hát!

                    - CSVN phải chờ cho đến ngày nhóm Nhân Văn qua đời gần hết mới dám công bố giải thưởng, họ sợ nếu còn sống, nhiều người trong Nhân Văn sẽ từ chối giải thưởng của CS. Mặt khác CSVN bắt buộc phải làm hòa với nhóm Nhân Văn để tạo cho dư luận ảo tưởng rằng CSVN ngày nay đã thực sự tiến bộ. Trong thực tế khi công bố giải thưởng cho Nhân Văn, CSVN đã đóng vai con sói già trong câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” .

                    - So sánh công việc thi tuyển ca sĩ của Paris by Night và Asia Productions với kiểu công bố giải Nhân Văn của CSVN, công luận nhận biết thật rõ ràng tính trong sáng, minh bạch của sinh hoạt dân chủ và bản chất đen tối, phản văn minh ẩn náu đaằng sau mọi hành động của CS độc tài, tham ô. Đó là lý do giải thích tại sao lời kêu gọi “ mọi người VN hãy đoàn kết sau lưng đảng CSVN để xây dựng quê hương” đã và sẽ chẳng bao giờ được người VN hưởng ứng.

                    - Sau cùng, cả Paris by Night lẫn Asia Productions qua việc thi tuyển ca sĩ dành cho người Việt Nam trên toàn Thế giới (nhất là người Việt đang sống trên quê hương) đồng loạt đạt được ba hệ quả rất quan trọng. Một là nuôi dưỡng và phát triển lòng yêu nước, nhớ nhà trong sinh hoạt tình cảm của người Viêt ly hương. Hai là tạo nhịp cầu thương yêu và thông cảm giữa người Việt trong và ngoài nước. Ba là làm cho hoạt động dân chủ trở nên đơn giản và dễ hiểu. Dân chủ là dân chủ, không hề có vấn đề dân chủ Á Châu khác với dân chủ Âu Châu. Quả thực Paris by Night và Asia Productions hoàn toàn xứng đáng dược vinh danh bằng những lời lẽ trang trọng nhất.

                    http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3077
                    http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3077
                    #25
                      LXMai 24.05.2007 02:22:13 (permalink)
                      http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/TranGiaPhung150.jpg

                       
                      Tiếp tục loạt bài về Nhân Văn Giai Phẩm, chúng tôi xin trình bày bối cảnh xuất hiện của phong trào qua cuộc trao đổi với hai ông Trần Gia Phụng và Nguyễn Minh Cần.

                      Ông Trần Gia Phụng là một nhà nghiên cứu Sử sinh sống tại miền Nam Việt Nam, và ông Nguyễn Minh Cần là một nhân chứng sống, có mặt tại miền Bắc, ở ngay trung tâm của cơn bão Nhân Văn.

                      Nhận định của hai ông do đó mà có những điểm nhấn khác nhau mặc dù về đại thể thì tương tự. Lý do là bởi mỗi vị nhìn vấn đề từ những góc độ khác nhau.

                      Chúng tôi sẽ trình bày quan điểm của cả hai ông để quý thính già rộng đường thẩm định. Kỳ này, xin gửi đến quý vị nhận định của nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng qua cuộc trao đổi với BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ.
                      Ông Trần Gia Phụng tốt nghiệp đại học sư phạm Huế và cử nhân giáo khoa khoa Sử trường đại học Văn khoa Huế.

                      Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org

                      Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

                      (Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên)
                      Quý thính giả vừa nghe cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về bối cảnh của phong trào và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Kỳ tới, chúng tôi sẽ gửi đến quý thính giả ý kiến của ông Nguyễn Minh Cần cũng về vấn đề này. Mong quý thính giả đón nghe.

                      Theo dòng câu chuyện:

                      - Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3)
                      - Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)


                      Những bài liên quan


                      http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/nhanvangiaiphamP2_NAn/



                       

                       

                       


                       
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2007 10:14:57 bởi LXMai >
                      #26
                        LXMai 25.05.2007 01:28:14 (permalink)
                        Mở lại hồ sơ:
                         Vụ án Nhân Văn Giai Phẩm
                        2006.09.15  Nguyễn An, phóng viên đài RFA
                         
                              
                         
                         
                        Ngày này đúng 50 năm trước, Bán nguyệt san Nhân Văn số 1 ra mắt tại thủ đô Hà nội của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, mở đầu cho giai đoạn hai của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

                        Tấm lòng muốn đổi mới, đòi trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ của những người chủ trương đã chuyển hoá thành sự náo nức của người dân thành thị đón chào một luồng gíó mới đầy hứng khởi, và khơi dậy niềm khát khao dân chủ tự do nơi không ít thành phần trí thức.
                        Phong trào bùng phát mạnh mẽ, nhưng chỉ sau ba tháng đã bị dập tắt và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trở thành vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bởi tất cả những ai liên hệ sau đó đều chìm vào cơn ác mộng đoạ đầy suốt mấy chục năm.

                        Một kỷ lục
                        Báo Nhân văn và các ấn bản Giai Phẩm có mặt tại miền Bắc Việt nam, lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đúng 50 năm trước.
                        Nhân Văn là một bán nguyệt san xuất bản tại Hà nội, và sống vỏn vẹn chưa đến ba tháng với năm số báo, tính từ số 1 ra ngày 15 tháng 9 năm 1956 và số sáu chưa in xong thì báo bị đóng cửa ngày 15 tháng chạp cùng năm.



                        Trước đó, vào tháng hai năm 1956, đã xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng ấn bản này bị tịch thu ngay. Cuối tháng tám, xuất hiện Giai Phẩm mùa Thu, 10 ngày sau tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân, rồi cuối tháng 10, lại có Giai phẩm Mùa Thu tập 2. Qua tháng 11 thì có Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 và đến tháng 12 là Giai Phẩm Mùa Đông.

                        Phải nói thêm một tờ báo nữa xuất hiện đồng thời với Giai phẩm Mùa Thu tập 2, nhưng do giới sinh viên đại học thực hiện, và chỉ ra được đúng một số duy nhất, là tờ Đất Mới, và môt tờ báo khác cũng nương theo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm mà mạnh dạn ăn nói là tờ Trăm Hoa của nhà thơ Nguyễn Binh.


                        Tính theo thời gian, thì tuổi thọ của Nhân Văn Giai Phẩm chưa đầy một năm. Nói chính xác là chỉ có hơn 10 tháng, kể từ lúc xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân cho đến lúc báo Nhân Văn bị đóng cửa. Tính theo số ấn phẩm, thì chỉ có 10, gồm 5 Giai Phẩm và 5 số báo Nhân Văn.


                        Tuy nhiên, Nhân Văn Giai Phẩm đã ghi lại những kỷ lục mà cho đến nay, với 61 năm lịch sử của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chưa có một diễn biến nào vượt qua được. Riêng nhà văn Hoàng Tiến trong bài viết gần cuối thế kỷ 20 đã gọi đây là một “vụ án văn học, có thể nói là kinh thiên động địa, chưa bao giờ xẩy ra ở Việt Nam với tầm vóc quy mô như thế.”

                        Tác động mạnh mẽ đến xã hội
                        Nhân Văn Giai Phẩm thường được nói đến như một phong trào, nhưng nếu coi đó là một phong trào, thì phải nói là thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo, và thiếu cả phương tiện.


                        Mặc dù thế, Nhân Văn Giai Phẩm đã tác động mạnh mẽ đến xã hội đến nỗi ngày đầu tiên phát hành báo Nhân Văn tại Hà nội đã là một ngày hội của quần chúng, như lời nhà thơ Lê Đạt, một trong những người chủ trương kể lại, trong cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thụy Khuê thực hiện tại Paris năm 1999 cho tạp chí Văn học của đài RFI như sau:
                        “Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!


                        Lúc đó tôi đứng đấy tôi nhìn thì tôi mới thấy đúng là ' ngày hội của quần chúng ', không biết ngày hội ấy có kéo dài nhiều không nhưng đúng là ngày hội của quần chúng thật, tức là: không thể đi được! Bản thân tôi, tôi cũng không đi được.


                        Cứ ra thì người ta lấy hết báo, lại vào, lại cứ liên tục như thế mà chẳng phải quảng cáo gì cả. Số 1 báo Nhân Văn ấy, sau khi nó ra rồi, đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc lại hai câu thơ của tôi:


                        Ðem bục công an đặt giữa trái tim người

                        Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
                        Nhất là sinh viên ủng hộ rất nhiều. Tờ báo Nhân Văn số 1 lập tức là phải in lại sau đâu có một hai ngày gì đó.”

                        Bị tiêu diệt, đầy đọa
                        Đáp lại, nhà nước Cộng sản tại miền Bắc thời bấy giờ đã huy động toàn bộ lực lượng để đối phó, nói thẳng ra là để tiêu diệt. Người trực tiếp đứng ra thực hiện chiến dịch này là nhà thơ Tố Hữu, lúc ấy là trưởng ban Tuyên Huấn trung ương của đảng. Không có ai bị lãnh án tử hình theo nghĩa là đem ra pháp trường bắn, nhưng tất cả những ai liên quan đến Nhân Văn Giai Phẩm đều bị đầy đọa. Đầy đoạ nhiều ít tuỳ theo mức độ liên quan.
                        Người liên quan nhiều thì bị đầy đọa nhiều, ít thì bị đầy đọa ít. Nhiều có nghĩa là bị đưa ra toà kết án tù, bị khóa sổ sáng tác, bị gạt ra ngoài lề mọi sinh họat văn học nghệ thuật và bị bao vây kinh tế - nghĩa là đói, còn ít thì bị đưa đi lao động cải tạo, gọi là để xâm nhập thực tế, rồi cho sống lay lất, và cũng bị gạt ra khỏi sinh họat văn học nghệ thuật, còn nếu chỉ đụng đến nhưng thật nhẹ, như là từng đọc qua một hai bài, từng phát biểu một ý kiến không tích cực chống, thì lý lịch cũng bị coi là có tì vết và ảnh huởng suốt đời.


                        Số người nằm trong trường hợp này không phải là ít, nhưng không rõ là bao nhiêu. Mời quý thính giả nghe nhà thơ Lê Đạt nói về chuyện này như sau, cũng trong một cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê thực hiện năm 1999:


                        “Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.


                        Chính bây giờ tôi cũng tự hỏi đấy: 'Không biết là mình đối với họ mình có tội gì không?' Lẽ dĩ nhiên là trong một cuộc đấu tranh cho cái mới thì chúng ta mỗi người phải chịu một ít. Nhưng họ, đúng là họ không có ý thức gì cả, họ chỉ ham muốn, ham muốn tự do, thì không có gì sai lầm cả; đọc một tờ báo, gửi một cái viện trợ... mà sau này nó kéo, nó kéo có khi cả một đời họ...


                        Cho nên đến bây giờ tôi vẫn không biết là công mình nhiều hay tội mình nhiều và lúc nào tôi cũng nghĩ đến họ. Mà ở Việt Nam thì không có gì rõ ràng cả. Cái chữ nó rất neutre mà lại rất gay go, người ta gọi là liên quan. Liên quan là dính líu đấy thôi. Nhưng mà anh đã liên quan là anh... gay go lắm.


                        Liên quan với Nhân Văn, liên quan với địa chủ, liên quan với tư sản... thì tất cả những người này cũng là một thứ liên quan mới; liên quan với Nhân Văn là khổ lắm, nhất là lớp sinh viên trẻ, đi lao động, đi cải tạo... mà có phải chỉ Hà Nội đâu, ở những các nơi, các tỉnh đều có người ủng hộ cả. Thì những người đó mình không bao giờ biết thân phận họ ra sao.”

                        Một vụ án kỳ quặt
                        Vì có người bị tù tội, bị trừng phạt, nên Nhân Văn Giai Phẩm còn là một vụ án. Chỉ có trên dưới một chục người bị lãnh án, và không một ai bị nêu tội danh là Nhân Văn Giai Phẩm, cả mặc dù ai cũng biết đó là lý do đích thực.
                        Còn lại hầu hết không bị tuyên án chính thức, không bị bỏ tù, nhưng bị đưa đi lao động cải tạo tại các công nông trường. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sau này nhớ lại, trong cuộc chuyện trò với một phái viên của RFA:
                        “Lúc bấy giờ là năm 1958. Chúng tôi năm người là Nguyễn Huy Tưởng, bí thư đảng đoàn hội nhà văn, Hùynh văn Đứng phụ trách hội Mỹ thuật, là đại biểu quốc hội, Nguyễn Tuân, phó chủ tịch hội nhà văn, Văn Cao và tôi được lệnh đi thực tế lao động ở quân khu Tây bắc.


                        Khi đến nơi thì ông Chu Huy Mân đưa cho coi giấy của trung ương gửi, chỉ vỏn vẹn có mấy câu thôi, như thế này: Đây là năm người lãnh đạo có vấn đề, nhờ anh chăm sóc, dưới ký tên, Lành, tức là ông Tố Hữu. Đây là một chuyến đi lạ lùng vì văn nghệ sĩ chúng tôi không bao giờ phải đi lâu như thế cả, nhưng lần này là vì “có vấn đề”, vấn đề gì thì anh biết rồi đấy.”
                        Ngoài ra, họ đều bị kết án tử hình tinh thần. Đối với những người trực tiếp liên quan, thì tác phẩm của họ không được xuất hiện với công chúng 30 năm, 40 năm, tức là suốt thời gian mà sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, và có thể đóng góp nhiều nhất cho đời sống, cho xã hội. Khi họ được phục hồi trở lại, thì hầu hết sức khỏe đã tàn tạ và có những người tinh thần đã suy sụp.


                        Nhà văn Hoàng Tiến 40 năm sau vụ án phát biểu: “Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.


                        Kéo dài hàng 30 năm trời. Không có cái vụ án nào mà kỳ quặc đến như thế. Đấy là cái nỗi oan khuất mà nhiều anh em văn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, tiếp quản Hà nội xong thì đến cái vụ Nhân Văn Giai Phẩm ấy thì không thể nào quên được.”

                        Trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ
                        Điều mà những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm mong muốn và đạo đạt lên Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay từ đầu chỉ là trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ. Họ đạo đạt một cách rất nhẹ nhàng, lịch sự, có rào trước đón sau và luôn luôn xác nhận sự lãnh đạo của đảng, nhưng đáp lại, đảng đã quyết tâm tiêu diệt không chỉ Nhân Văn Giai Phẩm, mà cả những gì được gọi là “nọc độc của Nhân Văn Giai Phẩm” nữa.


                        Không chỉ đánh tờ báo lúc nó đang sống, mà vài năm sau vẫn còn đánh. Không phải chỉ đánh bằng các biện pháp hành chính và cô lập, mà còn vận dụng tất cả mọi thế lực xã hội, từ các văn nghệ sĩ đến công nhân để dồn những ai dám chân thành góp ý, hay dám đồng tình với sự góp ý ấy vào chân tường. Còn yêu cầu được nêu ra từ 50 năm trước, thì nay, 50 năm sau vẫn chưa giải quyết, và những ai thẳng thắn góp ý xây dựng thì vẫn bị trù dập, mặc dù không toàn diện và triệt để như trước kia.


                        Đó chính là lý do khiến ban Việt ngữ chúng tôi mở lại hồ sơ này, hồ sơ của những vấn đề cũ mà vẫn mới, của những người ôm mối oan khuất trong suốt mấy chục năm trời. Có những người đã chết, có những người đã suy sụp hoàn toàn, nhưng cũng có những người còn đang sống những năm tháng cuối cùng của cụôc đời, và cần một trái tim thanh thản để về với vĩnh cửu. Họ xứng đáng được như vậy, bởi họ đã hành động theo lương tri.

                        ***
                        Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm
                        Báo Nhân Văn bị đóng cửa vào giữa tháng 12 năm 1956. Hơn hai năm sau đó, những người liên quan đến Nhân Văn hay bị ảnh hưởng của Nhân Văn, mà nói theo ngôn ngữ thời đó, là bị “nọc độc của Nhân Văn” mới bị kỷ luật.
                        Trong cuốn sách dày 370 trang mang tựa đề “Bọn Nhân Văn giai phẩm trứơc toà án dư luận” do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành vào tháng sáu năm 1959 tại Hà nội, nội dung chung của tất cả các bài viết ấy là những lời lên án, thóa mạ, hạ nhục không tiêc lời những nhà văn, nhà thơ Nhân Văn Giai Phẩm, từng có thời là bạn đồng hội đồng thuyền với các tác giả.
                        Văn phong của họ khác nhau, và theo nhận xét của nhà nghiên cứu Thụy Khuê, thì qua những “văn bản tố, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc.” Bà cũng ngậm ngùi nhận định rằng quyển sách đã “ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đạt tới đáy sâu của sự tha hóa”.
                        Cuốn sách ghi rõ tên của 83 văn nghệ sĩ đã có những bài viết về Nhân Văn Giai Phẩm và những người chủ trương đựơc gọi là “bọn đầu sỏ nhóm Nhân Văn Giai Phẩm”.
                        Những người bị kết án tù là Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung, Trần Thiếu Bảo chủ nhà xuất bản Minh Đức còn các văn nghệ sĩ đều bị đưa đi lao động cải tạo, bị cô lập và không có một tác phẩm nào được xuất hiện trước công chúng trong ít nhất 30 năm.

                        Nhà thơ Hoàng Cầm thì kể lại với nhà nghiên cứu Thụy Khuê rằng không ngờ cái kỷ luật ấy kéo quá dài, chứ không phải chỉ ba năm lao động như đã tưởng lúc ban đầu. Ông nói là “thời gian cứ thể kéo đi, nó kéo thế nào mà cho đến năm 1988. Tức là kỷ luật suốt 30 năm. Năm người Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, và Hoàng Cầm, Đặng đình Hưng không đựơc in một cái gì cả trong suốt 30 năm, trong thời gian đó, nhà thơ phải lao động đủ mọi cách để sống còn, kể cả rủ Trần Dần đi làm nghề kéo xe bò. Một kết quả của những năm tháng đọa đầy đó là nhà thơ bị bệnh tâm thần, cụ thể là hỏang lọan và trầm uất mãi cho đến cuối năm 1988 mới tự phục hồi.
                        Bệnh bắt đầu từ sau khi nhà thơ bị bắt giam 18 tháng sau vụ bản thảo “Về Kinh Bắc”. Lúc ấy, Lê Đạt đến thăm và ông mô tả lại rằng Hoàng Cầm đúng là “một cái rẻ rách”. Sau này, khi đã đựơc phục hồi về cả sức khỏe lẫn vị trí trong nền văn học, Nhà thơ vẫn không dấu đựơc ngậm ngùi khi nhìn lại quãng đời đã qua của mình.
                        Nhà văn Phan Khôi và các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh đều bị cách chức, bao vây kinh tế và quản thúc cho đến khi qua đời. Nhưng đó không phải là hết.
                        Còn không biết bao nhiêu người khác bị hệ lụy chỉ vì có liên quan nào đó với Nhân Văn Giai Phẩm mà sự liên quan đơn giản nhất có khi chỉ là đọc một tờ báo Nhân Văn thôi.
                        Người bị đánh nhẹ nhất có lẽ là nhạc sĩ Văn Cao, bởi ông là tác giả của bản quốc ca. Ông chưa hề bị khai trừ khỏi đảng, chỉ phải đi lao động công nông trên Tây Bắc, nhưng một thời gian thì đựơc về vì xuất huyết bao tử. Ông liên quan vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm tại Hà nội trong năm 1956, nhưng đến tháng bẩy năm 1958, ông mới phải chịu đựng đợt kỷ luật đầu tiên, là “cho rút khỏi ban chấp hành hội nhạc sĩ” và sau đó đi thực tế lao động. Từ đó cho đến khi qua đời tại Hà nội vào năm 1995, ông không còn sáng tác được gì nữa.

                        Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đưa đến vụ án Nhân Văn Giai phẩm với con số không nhỏ cả văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hoá lẫn người dân bình thường bị đầy đoạ vì có liên quan nhưng không rõ là bao nhiêu. Ảnh hưởng của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm không chỉ trên bình diện cá nhân mà còn trên bình diện văn học và xã hội Việt Nam
                        __________________________________
                        Sau đây là lời kể của Ông Nguyễn Minh Cần 
                        Ông Nguyễn Minh Cần là một nhân chứng tại chỗ vì lúc đó ông là phó bí thư thành ủy Hà nội phụ trách tuyên huấn, đồng thời là chủ nhiệm báo Thủ Đô. Để câu chuyện được liên tục, ông Cần bắt đầu bằng những chi tiết xẩy ra từ năm 1955, một năm trước khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời vào cuối tháng hai năm 1956.

                        Ông Nguyễn Minh Cần kể: Phải nói thật rằng vụ Nhân Văn Giai Phẩm thì anh em Việt Nam lúc bấy giờ không hề có một tổ chức, một âm mưu, hay là một kế hoạch cụ thể để đấu tranh chống lại đảng lao động Việt Nam.
                        Thật tâm mà nói thì họ không hề có ý định như vậy. Nhưng hoàn cảnh sau khi hòa bình lập lại, người văn nghệ sĩ cảm thấy cần có tự do sáng tác hơn, không phải bị chèn ép, kèm cặp như trước nữa.

                        Chính vì vậy, cuối năm 1954 và đầu năm 1955, một nhóm nhỏ văn nghệ sĩ trong quân đội làm một bản đề nghị gọi là cải tiến công tác văn nghệ cấp quân đội, trong đó có nhiều điều với nội dung cơ bản chung là kêu gọi Ðảng giảm nhẹ việc kiểm soát, giảm bớt việc sửa chửa thô bạo đối với các tác phẩm văn nghệ, yêu cầu trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ.
                        Nhưng mà những thành phần lãnh đạo khác, nhất là Tố Hữu, cho là những văn nghệ sĩ này là tư sản, thành phần phản động, dám chống lại sự lãnh đạo của Ðảng. Thêm nữa, Trần Dần hồi đó đang gặp một bi kịch lớn trong cuộc đời riêng của mình.Tức là khi về thành, anh lại yêu một phụ nữ ở vùng tạm chiếm, mà chị phụ nữ đó lại là người Công giáo, và được người ta chuyển giao lại một vài ngôi nhà nào đấy. Thế là Trần Dần bị nghi ngờ cho là mất lập trường, bị ảnh hưởng bởi tư sản, và nói theo lối nói thông thường hồi đó là bị “ăn viên đạn bọc đường”. Vì vậy, anh xin lập gia đình với chị ấy.

                        Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp
                        : Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu nhưng người ta vẫn không nản chí. Ðến ngày 29-8-1956, lúc bấy giờ là tinh thần của đại hội 20 cộng thêm tinh thần sự sôi sục ở trong dân chúng và ở trong cán bộ về sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất. Tinh thần đòi hỏi có dân chủ, cho nên người ta ra một tác phẩm Giai phẩm mùa thu tập 1.
                        Trong giai phẩm mùa thu tập 1 lần này có những bài khá mạnh hoặc là rất mạnh. Chẳng hạn như bài thứ nhất của Trương Tùng trong giới lãnh đạo văn nghệ. Bài thứ hai tức là “Bức thư gửi một người bạn cũ”. của Trần Lê Văn. Và bài thứ ba là chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, bài này đánh vào giới lãnh đạo rất nhiều, làm cho người ta tức giận.

                        Và đặc biệt là bài phê bình giới lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi thì người ta coi rằng bài này giống như một quả bom tạ rơi xuống hạ thành lúc bấy giờ, đấy là câu ở trong báo Thời Mới. Bởi vì ở trong đó, ông Phan Khôi vạch trần tình bè phái, việc bất công trong việc chấm giải thưởng của văn nghệ, việc bè phái binh che cho nhau trong văn nghệ.
                        #27
                          LXMai 31.05.2007 01:17:02 (permalink)

                          Hồ sơ Nhân văn – Giai phẩm trên talawas

                           
                          Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
                           45   2   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   120121   122123   124125   126127   128129   130131   132133   134135   136137   138139   140141   142143   144145   146147   148149   150151   152153   154155   156157 
                           
                          19.1.2003Phạm Thị HoàiThủ lĩnh trong bóng tối Ðúng mười năm trước tôi được đưa đến ra mắt Trần Dần, sau khi ông đọc bản thảo một số truyện ngắn đầu tay chưa công bố của tôi. Làng văn Hà Nội khi ấy, trong đêm trước của cuộc cởi trói ngắn ngủi, có một không khí nhộn nhịp nhất định. Dân văn chạy ngược xuôi trong văn, không tất tả việc khác như bây giờ. Cả người viết lẫn người đọc đều chờ một cái gì không rõ, nhưng sẽ đến, và có lẽ vì thế mà háo hức, không lãnh-đạm-biết-rồi như hiện tại. Khi đó chưa nhà nào có điện thoại riêng, muốn trò chuyện phải tìm nhau tận mặt, rượu tây chưa phổ biến, thức nhắm còn nghèo nàn, thuốc lá Liên Xô Ấn Ðộ đã là sang, đi xe máy là ngoại hạng, và mọi người đều viết tay trên giấy xấu... Cảnh hàn vi đó nuôi lớn một thứ chủ nghĩa lãng mạn giản dị, đầy tính lý tưởng và cũng đầy ảo tưởng mà giờ đây đã biến mất. Hà Nội, khi Trần Dần qua đời, khác xa mười năm trước, khi tôi hồi hộp đến gặp ông như gặp một thủ lĩnh văn chương trong bóng tối.
                           
                          Không người viết nào muốn thuộc về phía tối của đời sống văn học, song khi phía được chiếu sáng quá tầm thường thì được khuất mặt có thể là một hãnh diện chính đáng. Trước khi ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đại náo làng văn thì Nhân Văn Giai Phẩm với mọi huyền thoại của mình đã luôn là một trong những cái chợ đuổi có sức mê hoặc lớn hơn cửa hàng văn học mậu dịch nhiều. Văn học của NVGP tập trung ở những tác giả và tác phẩm cụ thể của nhóm ấy thời ấy, nhưng tôi quan niệm tinh thần NVGP rộng hơn, bao trùm một số quan niệm, phong cách, nguyên tắc, thái độ ứng xử, đề tài... nhất định, có thể tìm thấy ở những chỗ khác thời khác, ở độc giả, ở các nhà phê bình, thậm chí ở những người từng quyết liệt chống NVGP hoặc rất sợ dính vào đó. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn luôn ký tên hàng đầu trong các bản án chống NVGP, song chính cái tinh thần NVGP trong ông được kết hợp ở thế chân kiềng với tài năng và lòng biết sợ đã tạo cho ông một đặc cách trong văn học chính thống. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự như vậy. Song sau nhiều chục năm, số tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh như thế không còn đọng lại bao nhiêu. Như thể không ai chết được nhiều lần, mà trong tinh thần NVGP ấy, các chiến sĩ ưu tú nhất đã ngã xuống cho những lý tưởng khác trước khi kịp hi sinh cho nghệ thuật. Khi tiếp xúc với thế giới của họ, tôi đã hy vọng là sẽ trèo qua nhanh cái nấc thang thứ nhất đương nhiên là rất quan trọng, vì nếu không thì chẳng vào với nhau được: đó là bi kịch mà ai cũng biết ít nhiều về NVGP. Trèo qua nhanh, vì đã bận tâm vào đó thì không thể chỉ rỏ nước mắt vào rửa những vết thương bên ngoài. Tôi hình dung rằng những vị tử vì đạo rất ghét kẻ nào chạy lăng xăng quanh nỗi đau của họ, ăn theo những thăng trầm của họ. Mà tôi lại chú tâm vào những bi kịch văn học hơn, cho nên nấc thang sau và sau nữa là cái đích của tôi.
                           
                          Văn học không chỉ sinh ra từ cuộc đời bên ngoài, mà còn sinh ra từ chính văn học. Khi bước vào nghề văn, tôi muốn biết cái nồi văn mà tôi đang nấu, hoặc định nấu, được kê bằng cái gì, được đun bằng cái gì. Trừ ngoại lệ lớn nhất và bền bỉ nhất là Trần Dần cùng một vài người chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông, tôi luôn có cảm giác rằng giữa những người theo tinh thần NVGP và tôi có trò chuyện, nhưng hầu như không có một đối thoại thật sự, và những cuộc trò chuyện giữa đôi bên bao giờ cũng chỉ dừng ở một chiều sâu lịch sự, dễ chịu, không thể đi quá một chút nào, và luôn luôn quanh quẩn ở cái nấc thang thứ nhất kia. Dường như thời gian ở chỗ họ từ lâu lắm rồi đã không nhích thêm gang tấc nào, tôi thì đầy sự nôn nóng của tuổi trẻ, mà lại phải rất cẩn thận để không làm tổn thương ai. Luật của chúng ta dường như là vậy. Ðày đọa, thanh trừng, xoá sổ kẻ khác thì được, nhưng làm mất lòng thì không. Tôi không thể nói thẳng với họ, rằng tôi không nhất thiết phải đọc họ chỉ để biết rằng, nhà văn cần yêu ai cứ nói là yêu, ghét ai cứ nói là ghét, điều đó tôi được học ở nhiều chỗ khác rồi, mà không phải là học qua văn chương. Nói như thế là bạc, là phản bội, là rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của người khác. Nhưng có lẽ tôi đã kỳ vọng ở họ nhiều quá. Khi tuổi trẻ bị bịt đường lên phía trước thì nó ngoảnh lại phía sau mãi như vậy và thành những ông cụ bà cụ non. Tôi đã tìm một lối để thoát khỏi văn học Việt Nam đương đại. Cái văn học đó  buồn tẻ, nhưng cuối cùng thì lối thoát của nó không phải là giật lùi về đỉnh cao của những năm 50. Cũng như vậy, văn học đổi mới hiện tại chẳng còn gì đáng nói nhiều nữa, song nó không nên ngoảnh lại tiếc nuối cao trào 1988-1989.
                           
                          Trong những điểm cốt yếu, văn học của nhóm NVGP cùng một bản chất với văn học chính thống sau này. Có thể coi đó là sơ kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Còn phần lớn các tác phẩm cuối những năm 80 mà trong nước tuy gọi đùa, nhưng có lý của nó, là Nhân Văn 2, ngoài nước gọi là văn học phản kháng, là mạt kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thực ra những người làm nhiệm vụ duy trì và bảo vệ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể yên tâm lâu dài: một mạt kỳ có thể kéo thêm cả thế kỷ, mà theo tôi thì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hoặc một cái gì na ná như vậy còn có tương lai vô tận ở Việt Nam. 500 hội viên này của Hội nhà văn Việt Nam có thể được thay bằng 500 hội viên khác, song 50 triệu người đọc thì không bãi đi để bầu mới nhanh như vậy được. Nền văn học này cũng đẻ ra một số tài năng và những tác phẩm có thể xúc động lòng người. Nhưng các tác giả và tác phẩm của nó giống nhau, hoàn toàn không có cá tính, đúng như Trần Dần đã nhận xét, năm 1955, về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rằng thậm chí những câu hay của Tố Hữu cũng không có chữ ký riêng, có thể ký ở dưới là Nguyễn Du, Tản Ðà, hay Ca Dao đều được. Những người có tên tuổi ở thời NVGP cũng không tránh được điều đó. Một số bài thơ của Lê Ðạt và Phùng Quán thuở ấy có thể ký lộn cho nhau, sau này thì Lê Ðạt tách hẳn ra để có một chữ ký độc đáo cho riêng mình, và lịch sử quả thật thích đùa khi ông bị Trần Mạnh Hảo, một nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa mạt kỳ phủ đầu, chính vì đoạn sau này. Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, hay Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đi vào lòng người vì những lý do khác, chứ không phải vì đạt tới cái mà Trần Dần đòi hỏi, ngay từ thuở ấy, rằng nhà thơ trước hết phải có được cái chữ ký riêng của mình. Ông cũng chua ngay rằng đương nhiên còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy. Lịch sử văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua cho thấy, cái tối thiểu mà Trần Dần yêu cầu ấy đã hầu như không đạt được. Cho nên phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm. Ở ông là một bi kịch văn học lớn mà cái bi kịch chính trị của NVGP chỉ là một trong những bè đệm, còn ở một số người khác thì NVGP là sân khấu, thậm chí có sự trình diễn của các vai nạn nhân, văn chương chỉ đóng một vai rất phụ. Cho nên, nói về ông bây giờ mà không qua cái nấc thang thứ nhất kia cùng là tí ti minh oan, tí ti phục hồi, tí ti thương cảm, thì khác nào nhổ sơ sơ vài ngọn cỏ cho sạch vài phân vách đá, nhưng đằng sau đó là Ăng-co, để dùng lại một biểu tượng mà ông ưa dùng. Bất hạnh lớn của Trần Dần là NVGP, nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông là ông đã quẳng gánh NVGP từ lâu lại sau lưng, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh mãi. Sự nghiệp của ông không chấm dứt với năm 1958, mà mở đầu từ đó, và đạt tới cao trào trong khoảng 15 năm, từ giữa những năm 70, nghĩa là liên quan không nhỏ tới việc Sài Gòn thất thủ, đến cuối những năm 80, khi ông ngã bệnh.
                           
                          Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua. Việc ông đi theo cuộc cách mạng của Ðảng cộng sản cho đến NVGP là việc dễ hiểu, bởi đôi bên khi ấy cùng chung nhau một chữ cách: cách mạng, cách tân, cùng chung nhau một ý tưởng đổi mới. Việc diễn ra sau đó đối với ông, theo tôi, cũng là một tất yếu. Tôi không cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu nhầm. Hiểu nhầm còn chữa lại được, không hiểu thì khó thay đổi hơn nhiều. Một người như thế sống ở bất kỳ đâu cũng khó. Còn ở một nơi mà tính đại chúng là tiêu chuẩn tối thượng của văn chương nghệ thuật, một nơi mà sự phục tùng tổ chức, quyền uy, thế lực là kim chỉ nam cho mọi hành vi văn chương thì một người như thế phải bị đày đọa, bị tảy chay, hoặc nhẹ nhất là bị bỏ qua. Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Ông có 4 kiểu chữ hoàn toàn khác cách nhau: cho giai đoạn đến NVGP những năm 50 là một, giai đoạn ngắn sau đó, đầu những năm 60 là hai, giai đoạn đến đầu những năm 80 là ba, từ đó đến nay tuy chung một kiểu chữ là bốn, nhưng ngay trong một kiểu này cũng có nhiều phát triển khác nhau, kèm theo một khoa chính tả khác thường và một thư pháp, hay thư họa rất đặc trưng Trần Dần. Chỉ riêng điều có thể coi là nhỏ nhặt trong cái khối khổng lồ là ông- để dùng lại chữ của Dương Tường- đã làm việc đọc ông rất phức tạp, mà lại càng không thể công bố nhiều tác phẩm của ông ở dạng in ấn bằng những con chữ thông thường.
                           
                          Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu.” Khi ông tuyên bố: “Cái đèm đẹp giết chết cái đẹp”, thì một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những ai chưa bao giờ nghĩ ngợi về cái “đèm đẹp”. Cái xinh xinh không thể đẹp, ý này có thể của ai khác, có thể từ tư duy trong tiếng nuớc ngoài, song vào tay Trần Dần thì thành cách nói đặc biệt Trần Dần, nhanh, mạnh, lột trần, độc đáo, không lặp lại ai và không tự lặp, rất Việt và rất hiện đại. Ðồng nghiệp của ông yêu cách nói này thì ít, mà sợ thì nhiều. Nguyễn Khải đã tả về hai con mắt “hiếp đáp thiên hạ” của Trần Dần. Không ít người suốt đời hậm hực về một lời phê thường cộc lốc nghiệt ngã của ông. Song một nhận định phát ra từ bóng tối và cõi im lặng của Trần Dần có cái uy dũng mà người ta tuy hãi nhưng thèm. Ai chịu trận được thì mang ơn ông mãi. Tôi được ông ưu ái khi vừa mon men vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi những bài học càng lâu càng ngấm.    
                           
                          Người ta coi Trần Dần là lập dị. Nhưng trong một môi trường mà chỉ riêng chiếc ba toong của cụ Nguyễn chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi là biểu tượng của khác thường, thì sự lập dị của Trần Dần là vượt ra mọi cách. Chúng ta có thể tôn sùng kẻ đứng đầu một cách, nhưng kẻ vượt ra mọi cách thì không có chỗ đứng. Cho nên Trần Dần nằm. Thơ ông là thơ nằm. Mọi bản thảo của ông là bản thảo nằm. Hàng chục sổ thơ của ông là sổ nằm, ông đặt tên là sổ bụi, và khi hết sổ phải dùng đến vở tự khâu, thì đấy là vở bụi. Vả lại, khí chất của Trần Dần là cái khí chất không thuận với mọi cách, may ra ông gần hơn cả, gần chứ không thuận, với cách thi trung hữu qủy, và tự gọi mình là một thi tặc. Tôi chưa thấy ai trong lịch sử thi ca Việt Nam dám như vậy, đường hoàng như vậy: Thi tặc! Thơ ca của chúng ta có hay thì cốt hay-mãi-ngàn-năm theo hướng thánh thi, tiên thi, đạo thi, có đẹp thì đẹp theo cách tròn đầy nhã nhặn mà Trần Dần tuy ghi nhận nhưng không rung động. Nếu ai hoảng sợ trước cái khái niệm thi tặc ấy thì tốt nhất đừng đọc Trần Dần. Còn đã quyết định đến với ông thì xin đừng coi trọng quá những hành trang tinh thần mà mình đương nhiên khuân theo, vì Trần Dần thật lắm bất ngờ. Và nhất là, ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa. Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới. Những người xung quanh ông, người nào cũng xin được, có khi trộm được, ít nhất là một vài con chữ từ cái lò luyện chữ của Trần Dần như vậy. Những chữ rất hiện đại và đầy truyền thống. Cách ông đối xử với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách “yêu ai thì người đó nhỏ lại” như ông đã từng phê rất đích đáng một nhà thơ nổi tiếng. Là những chữ rất hàn lâm uyên bác mà cực nôm. Cái sướng nôm của ông, nôm hiện đại của “1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú đít 1 lít nách”, lây mạnh sang những người xung quanh, thành những ca vô cùng đặc sắc, thành một thứ tiếng Việt hiện đại và đầy phiêu lưu kỳ thú. Ông thậm duy mỹ mà sâu xa và có một giác quan không thể đánh lừa cho mọi giá trị thực. Ðiều đó kéo theo sự trân trọng và ngưỡng mộ, rất bất chấp, rất hồn nhiên của ông trước những tài năng và nhân cách thật. Ông đã nâng niu thơ Ðặng Ðình Hưng như thơ ruột, dù quan hệ đôi bên không phải lúc nào cũng êm. Ðồng thời, sự thẳng thắn đến phũ phàng của ông trước những thứ của rởm cũng không chừa bạn bè thân thích. Trước những con chữ, lòng ông khăng khăng trong sạch. Chỉ có điều, tất cả những thứ ấy đóng kín trước một số đông, một số rất đông, không phải của riêng thời NVGP, mà cả bây giờ và sẽ rất lâu sau này vẫn thế. Bây giờ, nếu một phần di cảo của ông có được đưa ra nghiên cứu và sử dụng, cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay số người có thể đọc xuyên qua được những trang bản thảo ấy. Sau ba mươi lăm năm, một trong hơn ba chục tác phẩm của Trần Dần mới ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu thuyết Cổng Tỉnh, và được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sự công nhận muộn mằn này dừng lại ở mức một cử chỉ thiện chí, với một quá khứ oan khiên, với một nhà thơ lớn khi ấy đã gần đất xa trời. Song nó không mang lại cho Trần Dần nhiều người đọc hơn. Khi cái lưỡi của đám đông đã hoàn toàn thoái hoá thì cao lương mỹ vị bày ra cho ai? Một phần ba thế kỷ văn vần quốc doanh, văn xuôi mậu dịch trên môi và trong lòng người đọc Việt Nam đã khiến ít ai vượt qua chỉ cái tựa đề Cổng Tỉnh. Tôi mở trang đầu, đọc những dòng đầu mạnh mẽ mộc mạc:


                          Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ!
                          Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
                          Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương...
                          qua những dòng bồng bột lạ lẫm:
                          Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
                          Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...
                          những dòng ngọt lịm:
                          Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
                          Có sương sớm đọng trên đèn muộn...
                          những dòng Trần Dần huyền thoại:
                          Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
                          ò..ò đêm đi như một cỗ quan tài...
                          những dòng tha thiết:
                          Ở đâu? ở đâu có ngụm đèn xanh
                          Rèm che nhoè cửa sổ?...
                          Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây
                          Ðừng sa sút lá
                          Ðể ta còn khuyên gió...gió đừng rung cây...
                          những dòng khinh bạc quay quắt:
                          Tôi ơi! Tôi ơi!... Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù...
                          Tôi càng đứng bơ vơ đầu cổng tỉnh..
                          Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống
                          Tôi không có đủ tình yêu
                          Yêu trái đất lục đục thế này...
                          rồi lại ngọt đắng:
                          Gió ơi đừng vội tủi
                          Khuya rồi! Hãy tới khóc ở hom sông...
                          Có lẽ thu rồi em nhỉ
                          Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa...

                          Chỗ nào ông cũng thổi một sự sống khác thường vào những con chữ, chỗ nào cũng dành cho ta một bất ngờ. Biết bao giờ số đông người đọc Việt Nam mới dọn lòng, dành cho tài năng ghồ ghề jờ joạcx này một chỗ?
                           
                          Số phận của Trần Dần là số phận hoàn toàn cô đơn và trong bóng tối theo mọi nghĩa của một người dốc hết mình vào thửa ruộng thử nghiệm của văn học, đặc biệt là của thi ca, một người, để dùng lại chữ của NVGP mà chắc sau này ông cho là mauvais gout lắm, moi tim moi óc làm thơ, một Tư Mã-như tên ông đặt cho mình và bạn bè- suốt nửa thế kỷ không chịu lùi một ly chữ, để làm cái việc mà ông gọi là thồ thơ tự xứ này lên. Một người đi suốt ván chiêm bao của những cái bị nợ và tự nợ, đánh suốt một ván đời với cái biết và cái chưa biết. Ông nói rằng, cái biết là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.Tôi không dám nói ông đã thành công trong bao nhiêu mùa thử nghiệm của mình. Chỉ biết rằng, những ai may mắn đến lấy một hạt giống ở ông, rồi đem về đất của chính mình, đổ sức của chính mình vào đó thì ắt là thành công, trong những trường hợp hiếm hoi như Ðặng Ðình Hưng thì là một thành công lớn. Còn nếu không cũng được một mùa, theo chữ của ông, là mùa sạch.
                           
                          Trần Dần từng nói, “tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn chúng tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.” Nhưng trong một sổ bụi ông lại tự hỏi: lớp trẻ liệu có còn được một cơ hội mấy chục năm quốc nạn như mình không để làm cái việc ấy? Ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cũng linh cảm nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của quốc nạn. Văn chương bây giờ có vẻ như chưa cần đày đọa đã ngắc ngoải tự hủy, chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai?
                           
                          Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu tôi phải có được một văn cách.
                           
                          1997 Nguồn: Đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học, 1997 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=900&rb=0102 
                          #28
                            LXMai 01.06.2007 01:24:31 (permalink)
                            Trần Dần
                            Thơ lảy
                             
                             tôi thú thật, tất cả chúng mình là những tồi năng 
                             
                            sinh ra tôi 
                            chuyên đề thất vọng mọi người 
                             

                            thằng truồng bị vây trong vòng
                            tròn. 
                             
                            sáng bảnh-bành-banh
                            mày vẫn ngủ-ngù-ngu 
                             

                            sinh tôi làm gì
                            tôi không hợp grammaire nào cả
                            sinh tôi đã có grammaire cho tất cả
                            ắt là không juýt cho tôi 
                             

                            tóm lấy tu từ vặn nghoẹo cổ
                            viết như khạc nhổ mọi tu từ 
                             
                            tôi thích viết cái chưa biết
                            mặc các ông viết cái đã biết 

                            ai cũng có ngày
                            ngày của mình
                            tôi không có ngày nào hết 
                             
                            tôi còn trẻ tôi còn đi với ma quỷ
                            cứ chia cho tôi những ma quỷ nào hung dữ nhất năm canh
                            tôi kiếp trước tội gì thế nhỉ
                            sao có quê hương thịt rất buồn? 
                             
                            đối với tôi, mất nước văn học là mất nước nhất 
                             

                            anh cứ mó thử một dấu phẩy văn phạm xã hội
                            vuốt râu hùm xám còn đỡ nguy hơn 
                             
                            hiện thực là một hư cấu từ đầu chí cuối, từ dưới lên đầu 
                             

                            sáng tạo là một hành vi tổng lực và bất ngờ. Cả cái dái cũng tham gia sáng tạo.
                            xây một tập thơ là phá một nhà tù 
                             
                            chân lí là một lỗi thời không buông tha nhân thế 
                             

                            mĩ học đòi hỏi các giấu diếm và thưởng lệ nó
                            đạo lí đòi hỏi biểu lộ và trừng phạt giấu diếm 
                             

                            nói tao biết mày viết thế nào, tao sẽ nói mày sống chết ra sao 
                             
                            tôi thích những đàn ông vẫn cả đôi vai, cả đời mình, gánh vác một ý kiến, một giấc mơ 
                             

                            thà thắp một tia đom đóm
                            còn hơn ngồi thở dài khan 
                             
                            rượu cay xé mồm (nhịn xé lồn) mới thích 
                             

                            tự do là vi phạm chứ không tuân theo tất yếu. 
                             

                            tôi như có lời hứa chưa xong. Có lời nguyền chưa trọn. Có câu thề còn trăn trở nơi tim. Thơ là trò rồ của những kẻ như tôi 
                             

                            tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng, mây phơi dằng dặc khắp chân trời

                            văn chương lom khom
                            sao lại cho tôi nhiều xương sống thế? 
                             

                            từ đó chó
                            tốc đã đi qua một nước sủa 
                             

                            kể từ lăn lóc rôck
                            vén váy văn chương chiều dọc
                            cả nhà xô lắc lốc
                            ngộc thần kinh 
                             

                            trang giấy trắng quá, trắng quá, đến nước chỉ có sữa mới đen hơn. 
                             
                            con trắng bước đi trắng, trắng đến nỗi chỉ bóng nó mới tím hơn
                            hôm nay
                            tôi vẫn crucifix mỏm - AH
                            tôi sột soạt sóng ngắn
                            tôi zột zoạt mộng vắn
                                                    mộng dài
                                                    tam thiên thế giới 
                             

                            hai mắt đen ngàn lệ nhé
                            tôi vẫn thõng tay trong chợ bụi đông người 
                             
                            nhân loại- tôi không chơi với các anh nữa
                            ván nào anh cũng ăn gian 
                             
                            cứ hai người đi với nhau, tôi gọi một hàn lâm 
                              

                            sờ mà xem không khí không
                            có sẹo
                            hoạ chăng đầu vú là những cái sẹo của tình mẫu tử, và
                            mặt người
                            toàn bộ cái mặt là
                            sẹo ngoài của những cái sẹo
                            cụ thể bên trong
                             
                            *
                            ai xuất bản nhiều đêm thế nhỉ?
                             
                            *
                            tôi đứng tuổi mà không đứng gió
                             
                            *
                            lo quá
                            phải lên Thiên Ðường
                            một mình
                            hết sức một mình 
                             
                            được ván cờ thua
                            thu hoạch bụi hồng 
                             
                            chỗ nào Tư Mã cũng bơ vơ
                            rồi một hôm, lỗ chỗ gió, buổi chiều như một chương trình đục lỗ
                            nhà mồ Tư Mã cư tang

                            ngán cho những ván đàn ông
                            không hơn những kiếp anh hùng-lom khom 
                             
                            ai người bình giá cơn mưa 
                             

                            lời nói bao giờ cũng là một hối hận 
                             

                            mưa rơi không cần phiên dịch 
                             

                            thức khuya mới biết đêm ngắn
                            kẻ ngỡ đêm dài là chửa thức khuya

                            thế giới
                            nơi con chữ lẩm bẩm
                            buổi chiều lẩn thẩn
                            nơi Tư Mã lẩm cẩm 
                             

                            làm lại thở dài
                            làm lại thơ ngây 
                             
                            không khóc nước này cạn lộc
                            khóc nước này cạn khát vọng mà thôi 
                             

                            ai chẳng có nhà nước của mình để khốn đốn với
                            nó.
                            ôi
                            đi đâu thoát được mùa người? 
                              

                            tôi rủ tôi đi vào cửa khó
                            dễ ăn, dễ ngủ
                            siêu lạm phát
                            động vật dễ dàng 
                             

                            ngày ngày nhấm nháp chân mây 
                             

                            mỗi ngày thu dọn một chân mây 
                             
                            mỗi ngày ăn vụng một mini 
                             

                            khi cây khóc hết lá
                            ngày khóc hết khói
                            tôi về 
                             

                            càng chết tôi càng bất tử
                            eo ôi
                            chết vẫn không yên

                            cô gì đêm ấy
                            bỏ chồng chưa? 
                             

                            thế là tôi vẫn lạc quan đen
                            đâu phải tôi bôi đêm đen
                            vào ánh sáng mọi điện đèn. 
                             
                            không khóc không cười tôi vẫn chỉ lạc quan đen 
                             
                            đen đến mức chỉ mỗi trắng mới óng ả hơn 
                             
                            đừng tha thứ cho tôi nếu một chiều nào yếu đuối
                            tôi tắt tôi đi trong dàn nhạc áy náy các vì sao. 
                             
                            vắng lặng tôi ra khỏi trời.
                            bước lặng tôi về tuổi muội. 
                             
                            gió tha người, ở các ngã ba. 
                             
                            tôi đau ở
                            mỗi người một vụ án
                            mỗi người
                                        chôn
                                        sống
                            một chân mây
                             
                            tôi đau ở
                                    tôi thồ văn tự xứ này lên. 
                             
                            tất cả diễn ra trong khói một tia nhìn.
                            tất cả diễn ra trong lá vắng một tia nhìn. 
                             

                            tôi đã hát những ngày mai - không hát
                            bây giờ tôi hát - lạc quan đen 
                             

                            mất ngủ hàng đèn
                            trong một thủ đô đen
                             
                            ngã ba đen
                            ngã ba đen
                            sự vật không đèn 
                             

                            noel
                            hồ sơ đen
                            màng nhện bóng đèn
                            vẫn có nhưng mũ trùm đen đưa đám đám tang đen. 
                             
                            một đám ma đen đi mãi không tới huyệt 
                             
                            rồi ra tôi sẽ buồn như núi
                            lặng như ngày
                            đau đáu như mây 
                             

                            tuổi cuối đi về xứ cuối
                            có còn tia cuối nào không?
                             
                            tim cuối lê về phố cuối
                            hay là tia khói cuối đã tan đi? 
                             

                            nghi gì
                            xá gì khi khói - cuối đã bay đi
                                        mây cuối của lòng
                                        con mắt cuối vẫn chong chong
                             
                            cho tôi ngồi phố khói
                            ga khói của lòng, bướm khói liệng sân ga
                            tầu khói
                            chung nhau mầu tuổi khói
                            đâu dè mắt khói chói chiêm bao/ mây bay
                            chung đôi ngồi kể khói
                            mưa rất xưa mà thu rất xanh
                            mắt khói thế này - mắt khói để cho ai?                 
                             
                            hoa soi, hoa sói, hoa sòi
                            hoa khói
                            ga cuối của lòng
                            tim cuối
                            hai bàn chân cuối
                            khóc đi thôi 
                             
                            ga cuối của lòng
                                        chẳng nói
                            sợ rằng như khói
                            nói bay đi
                            sợ rằng như nói
                            khói bay đi
                            ga cuối của lòng

                             Phạm Thị Hoài chọn và biên tập © 2003 talawas http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=901&rb=0102
                            #29
                              LXMai 14.06.2007 18:54:15 (permalink)

                              Post #: 18
                               
                              Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm
                               
                              Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
                              (Đổi hướng từ Nhân Văn - Giai Phẩm)
                              Bước tới: menu, tìm kiếm
                              Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là phong trào có xu hướng chính trị, đòi tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958
                               
                              http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
                               
                              >>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>
                               

                              dân chủ

                               
                              Dân chủ
                              Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
                              Bước tới: menu, tìm kiếmDân chủ là một thể chế mà quyền thay đổi luật pháp và cơ cấu chính quyền thuộc về người dân. Trong hệ thống này, luật pháp được đặt ra do người dân hay những dân biểu được người dân bầu ra và mọi hoạt động xã hội đều tuân theo luật pháp.
                               
                               






                              Mục lục
                              //



                               Định nghĩa
                              Có rất nhiều biến thể của dân chủ, một số chỉ tồn tại trong giả thuyết và một số đã có thật.

                               Dân chủ kiểu Athena



                              Thờ AcropolisParthenon, đền của Athena, nữ thần bảo vệ thành phố Athena, nhìn xuống để theo dõi các bàn cãi chính trị. Ở dưới là bục giảng tại Pnyx, đất hội họp của hội đồng, ở đấy các tranh cãi chính trị lớn của Athena diễn ra trong "thời kỳ hoàng kim". Ở đây các chính khách của thành phố Athena đứng để biểu diễn, thí dụ PericlesAristides vào thế kỷ 5 TCNDemosthenesAeschines vào thế kỷ 4 TCN – cùng với rất nhiều người dân không có tiếng tăm.Từ "dân chủ" (tiếng Hy Lạp: δημοκρατíα) được đặt ra tại Athena (Hy Lạp) cổ trong thế kỷ thứ 5 TCN. Chính phủ đó được xem là hệ thống dân chủ đầu tiên. Tại đó, người dân bầu cho mọi việc. Nghĩa "dân chủ" này đã thay đổi qua thời gian, vì từ thế kỷ thứ 18 đã có nhiều chính phủ tự xưng là "dân chủ". Nhiều người không xem hệ thống tại Athena chỉ diễn tả một phần của nền dân chủ vì chỉ có một thiểu số được bầu cử, trong khi nữ giớidân nô lệ không được phép bầu.

                               Bầu cử
                              Việc bầu cử, tự nó, không phải là một điều kiện đủ cho nền dân chủ tồn tại.
                              Nhiều chế độ độc đoán hay độc tài thường tổ chức bầu cử để giả mạo một chế độ dân chủ. Tuy nhiên, trong các cuộc bầu cử, họ đã đặt ra nhiều hạn chế:

                              • hạn chế người đủ tiêu chuẩn ra ứng cử
                              • hạn chế quyền hạn của những đại biểu, hay những chính sách họ có thể lựa chọn
                              • bầu cử không tự do và công bằng (đe dọa những người bầu cho một ứng cử viên nào đó)
                              • giả mạo kết quả
                              Một số thí dụ trong lịch sử của những nền "dân chủ" này là Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trước khi sụp đổ trong năm 1991, Iraq dưới quyền Saddam Hussein, Philippines thời Ferdinand Marcos.

                               Dân chủ tự do
                              Theo định nghĩa ngày nay, "dân chủ" thường được hiểu là "dân chủ tự do". Trong khi dân chủ chỉ có nghĩa là một hệ thống chính phủ được thành lập và chính thống hoá bằng bầu cử, những nền dân chủ hiện đại còn được đặc trưng bởi những định chế sau đây:
                              • Một hiến pháp để giới hạn các quyền và kiểm soát hoạt động của chính phủ, có thể là hiến pháp thành văn, bất thành văn hoặc hỗn hợp cả hai loại.
                              • Bầu các ứng cử viên một cách tự do và công bằng.
                              • Quyền bầu cử và ứng cử của người dân.
                              • Quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội v.v.
                              • Quyền tự do báo chí và quyền truy cập thông tin từ nhiều nguồn.
                              • Quyền tự do giao thiệp.
                              • Quyền công bằng trước pháp luật và xét xử tuân theo quy tắc của pháp luật.
                              • Người dân được thông tin về quyền lợi và trách nhiệm dân sự.

                              Nghĩa này thường có hạn chế. Không phải ai cũng được ứng cử trong các cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng cử. Thêm vào đó, không phải ai cũng được đi bầu. Hầu hết các nước dân chủ chỉ cho phép những người dân đủ tuổi (thường là 18) bầu. Một số quốc gia không cho một số người khác bầu (chẳng hạn như người phạm tội).
                              Trong một số chính quyền, chế độ dân chủ tự do là chế độ thực tế, trong khi trong danh nghĩa là một chế độ khác; ví dụ Canada là một chế độ quân chủ, nhưng trong thực tế được lãnh đạo bởi một Nghị viện được bầu một cách dân chủ.
                              Một số người định nghĩa dân chủ là một "chế độ của đa số với một số quyền cho thiểu số".

                              "Dân chủ" và "Cộng hoà"
                              Nghĩa của từ "dân chủ" đã thay đổi nhiều lần từ thời Hy Lạp cổ đến nay. Trong cách sử dụng ngày nay, từ "dân chủ" chỉ đến một chính phủ được dân chọn, không cần biết bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
                              Chữ "dân chủ" còn có một định nghĩa khác, trong lý thuyết hiến pháp và trong thảo luận hồi xưa, đặc biệt là khi nghiên cứu về công việc của những "Khai quốc công thần Hoa Kỳ". Trong cách dùng này, thì chữ "dân chủ" để riêng chỉ đến "dân chủ trực tiếp", trong khi "dân chủ đại biểu" trong đó dân chúng bầu người thay mặt cai trị theo một hiến pháp thì lại dùng chữ "cộng hòa" (republic). Các danh từ cổ này vẫn còn chút thông dụng trong cách cuộc tranh biện giữa Phe bảo thủĐảng Libertarian tại Hoa Kỳ.
                               
                               
                              Những nhà lập hiến nguyên thủy của Hiến pháp Hoa Kỳ được ghi nhận là đã biết điều mà họ cho là cái nguy hiểm của cách cai trị theo đa số, là có thể đàn áp tự do cá nhân. (Xem thêm bên dưới.) Thí dụ, James Madison, trong Federalist Papers số 10 đã cổ võ cho nền cộng hòa hơn là nền dân chủ chính là để bảo vệ cá nhân chống lại đa số. [1] Tuy vậy, trong thời điểm đó, các nhà lập hiến đã cẩn tâm dựng nên những cơ quan dân chủ và cải cách xã hội quan trọng trong khuôn khổ của hiến pháp và Dự luật Dân quyền (Bill of Rights). Họ giữ lại những yếu tố hay nhất của thể chế dân chủ, sau khi đã sửa sai bằng cách cân bằng quyền lực và với một cơ cấu liên bang nằm lên trên.
                              Tuy nhiên, theo cách dùng hiện thời thì chữ "cộng hòa" dùng để chỉ bất cứ một quốc gia nào có một người quốc trưởng được bầu lên làm việc một thời gian có hạn, khác với hầu hết các chính phủ quân chủ cha truyền con nối hiện thời đều là các chính phủ dân biểu và hiến pháp quân chủ nhưng cai trị theo chế độ đại nghị (parliamentarism). (Các chế độ quân chủ đại biểu cũng không gọi là "cộng hòa".)
                              Theo như cách nói mạnh mẽ và sắc sảo của Thomas Jefferson thì lời hứa của dân chủ là “được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

                               Dân chủ xã hội chủ nghĩa
                              Chủ nghĩa vô chính phủchủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cuối cùng trong tiến trình xã hội trong học thuyết Marx) là những học thuyết chính trị trong giả thuyết có nền dân chủ trực tiếp, và không có một chính quyền độc lập từ người dân. Tuy thế, những chính phủ dưới sự lãnh đạo của một đảng cộng sản hiện nay đã chưa đến giai đoạn đó và đảng cộng sản vẫn giữ độc quyền trong lúc cầm quyền.

                               Văn hoá dân chủ
                              Tại các quốc gia không có truyền thống vững chắc của nền dân chủ đa số, chỉ riêng tự do bầu cử thì hiếm khi chuyển đổi được chế độ độc tài thành dân chủ, mà còn cần phải có sự thay đổi lớn trong nền nếp sinh hoạt chính trị và có tạo dựng được những định chế của một chính phủ dân chủ. Ta thấy như trong trường hợp Cách mạng Pháp hay Uganda hay Iran ngày nay, đều là chỉ đạt được dân chủ giới hạn một thời gian, cho đến khi xuất hiện những thay đổi lớn thì mới có được thực trạng đa số dân quyền.
                              Một yếu tố của nền nếp dân chủ là ý niệm "đối lập tốt, đối lập trung thành". Tại những quốc gia vốn vẫn thay đổi chính quyền bằng bạo lực, thì điều này hẳn nhiên rất khó. Danh từ này ý nói là mọi phe trong một quốc gia dân chủ đều một lòng chấp nhận một số giá trị căn bản. Tuy vẫn có bất đồng ý kiến, các phe tương tranh đều nhận chịu nhau và chấp nhận là mỗi phe đều có vai trò chính đáng, quan trọng. Những quy tắc căn bản của xã hội phải khuyến khích việc tranh cãi trong tinh thần chấp nhận và lịch sự. Trong những xã hội đó, người thua chấp nhận quyết xét của lá phiếu chung sau khi bầu cử, và trao chuyển quyền lực trong hòa bình. Người thua như vậy sẽ được yên lòng là sẽ không mất mạng hay mất tự do, và có thể tiếp tục tham dự vào công cuộc. Họ không phải là trung thành với những chính sách của chính phủ, mà là với căn bản hợp pháp của quốc gia và chính với tiến trình dân chủ.
                               
                              Một quyền cơ bản để tạo nên nền dân chủ là mọi cá nhân có quyền tự do hội họp, tự do tổ chức và thành lập các hội dưới nhiều dạng khác nhau của tổ chức phi chính phủ. Khi những người có cùng lợi ích tập hợp nhau lại, khi đó tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe và cơ hội để gây ảnh hưởng đối với các cuộc tranh luận về chính trị sẽ được tăng lên. Như Alexis de Tocqueville, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng thế kỷ 19 đã viết: “Không có một đất nước nào mà sự đòi hỏi cấp thiết phải có các hiệp hội để chống lại sự chuyên chế bè cánh và sự độc đoán lãnh đạo như một đất nước được xây dựng theo kiểu dân chủ”.

                               Đại biểu tỷ lệ hay đa số
                              Vài hệ thống bầu cử, như các hình thức đại biểu tỷ lệ, muốn nhắm chắc được là tất cả các nhóm chính trị kể cả nhóm thiểu số của các đảng nhỏ đều được có mặt "đồng đều" trong các cơ quan lập pháp, theo tỷ lệ số phiếu trong tay; thay vì theo hình thức đại biểu đa số tức là theo tỷ số của toàn bộ cử tri mà họ chiếm được trong một vùng nào đó.
                              Cái mâu thuẫn của tỷ lệ với đại biểu không phải chỉ là một vấn đề lý thuyết, vì thực ra cả hai hình thức rất thông dụng trên thế giới, mỗi hình thức dựng nên một loại chính phủ khác biệt. Một điểm chính hay được tranh biện là vấn đề có một người trực tiếp thay mặt cho vùng nho nhỏ của ta, trong quê nhà của ta, hay là để cho lá phiếu của mỗi người đều giống nhau, bất kể ta đang sống nơi nào trong quốc gia. Vài quốc gia như ĐứcTân Tây Lan muốn có cả đại biểu từng vùng lẫn đại biểu tỷ lệ, cả hai hiện diện song song mà không lấn át nhau. Hệ thống này thường được gọi là Mixed Member Proportional tạm dịch là Phân thân Tỷ lệ.

                               Các luận điểm ủng hộ và chống đối

                               Vai trò các đảng phái
                              Có người chỉ trích là trong đại biểu dân chủ, các phe phái chính trị sẽ khiến cho các đại biểu phải tuân theo đường hướng của đảng, thay vì đi theo ý muốn của cử tri hoặc chính lương tâm. Nhưng chính ra ta có thể nói là cử tri đã tỏ ý muốn của mình qua cuộc bầu cử, đã chú trọng đến những chương trình của người tranh cử, thì chỉ cần theo đó mà làm thôi.
                              Một khó khăn đang thấy trong các nền đại biểu dân chủ là phí tổn ngày càng cao của các mùa tranh cử, khiến cho ứng cử viên phải thương lượng với người giàu mua chuộc luật có lợi cho họ.
                              Les Marshall, chuyên gia nghiên cứu về dân chủ cho các xứ vốn chưa có dân chủ, ghi nhận rằng "trên toàn cầu, ngoài chính thể đại biểu dân chủ đa đảng, không còn cách nào khác" cho các xứ này có thể tạo dựng dân chủ cả. Thật ra điều này chẳng có gì khúc mắc: đại biểu dân chủ là chính thể duy nhất được dùng trong các quốc gia "dân chủ".

                               Đa số chuyên chế
                              Xin xem thêm bài về Thể chế đa số (Majoritarianism).
                              Người ta sợ rằng cai trị bằng đa số có thể đưa đến nạn "đa số chuyên chế", dù có được ủy quyền bởi số lớn từ mọi tầng lớp hay không. Đó là cái nạn xẩy ra khi một hệ thống dân chủ có thể trao quyền cho đại biểu dân cử để họ thay mặt hành động theo ý kiến của đa số, chống lại một thiểu số nào đó. Như vậy rõ ràng là có thể phá hỏng nguyện vọng dân chủ, là muốn trao quyền cho tất cả mọi công dân. Thí dụ, trên lý thuyết thì một chế độ dân chủ tự do có thể bầu lên những đại biểu và họ quyết định bắt tội một nhóm thiểu số (tôn giáo, chính trị, v.v.) nào đó, bằng cách trực hay gián tiếp.
                              Sau đây là vài trường hợp tỷ dụ mà sự đối xử của đa số với thiểu số cần được phân tích:
                              • Tại Pháp, có người cho rằng việc cấm biểu dương các dấu hiệu tôn giáo trong trường công là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của người dân.
                              • Tại Hoa Kỳ:
                                • lưu hành tài liệu khiêu dâm được coi là bất hợp pháp nếu các tài liệu này vi phạm những "tiêu chuẩn cộng đồng" trong vấn đề công xúc tu sỉ.
                                • các người sách động phe "duy sinh" (chống phá thai) gọi những đứa bé chưa sinh là một phe thiểu số vô cố vô thân bị áp bức.
                                • trong cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, chế độ quân dịch bị chỉ trích là áp bức một thiểu số bị mất quyền, là các người 18 đến 21 tuổi. Đáp lại, người ta nâng tuổi quân dịch lên 19 tuổi và tuổi đi bầu hạ xuống khắp nước (cùng với tuổi được uống rượu tại vài tiểu bang). Như vậy, tuy không còn bị mất quyền, số người tuổi quân dịch càng bị ít đi hơn.

                              • Phe đa số thường đánh thuế giới thiểu số giàu có với tỷ lệ cao hơn, với mục đích buộc giới giàu có phải gánh vác số thuế cao hơn để phục vụ những nhu cầu xã hội.
                              • Tại nhiều nước trên thế giới, những nguời nghiện thuốc cho vui thì được coi là một thiểu số đáng kể đang bị đa số áp bức qua luật pháp bắt tội nghiệp ngập. Tại nhiều nước, phạm luật nghiện ngập còn bị mất quyền bỏ phiếu.
                              • Trong vấn đề này, người ta cũng hay nói đến thái độ của xã hội với những người đồng tình luyến ái. Thí dụ là Anh Quốc trong thế kỷ 19 và hầu hết thế kỷ 20 đã ra hình sự hóa tôi tình dục của giới này, nổi tiếng nhất là vụ án Oscar WildeAlan Turing.
                              • Viện cớ nghịch đạo, nghĩa là bất đồng ý, nền dân chủ Athena đã xử tử Socrates. Đến nay vẫn chưa quyết được là việc này có làm tổn hại gì đến cho dân chủ không.
                              • Adolf Hitler đã đạt được nhiều nhất tổng số phiếu của các phe thiểu số trong nền dân chủ Cộng hòa Weimar năm 1933. Điều này đáng bàn đến vì Hitler đã chẳng bao giờ chiếm được đa số phiếu, cho nên vụ này có thể gọi là chuyên chế của một thiểu số. Sau khi hủy bỏ hệ thống dân chủ, thì chế độ này liền bắt đầu đàn áp.

                              Phe đề xướng dân chủ bào chữa như sau:
                              • Một thì nói là đã có hiến pháp bảo vệ phía sau chống lại nạn chuyên chế của đa số. Nói chung, muốn thay đổi hiến pháp cần phải có đa số tuyệt đối toàn đại biểu, hoặc cần thẩm phán và thẩm phán đoàn nhận là các tiêu chuẩn thủ tục và bằng cớ đã được thoả thuận, hoặc, trường hợp hiếm là cần một cuộc trưng cầu dân ý. Những điều kiện này thường được kết hợp với nhau.
                              • Ngoài ra, sự phân quyền thành lập pháp, hành pháptư pháp làm thiểu số khó có thể làm theo ý riêng. Như vậy, đa số vẫn có thể bắt buộc thiểu số một cách hợp pháp (tuy có thể là phi đạo), nhưng thiểu số đó phải là ít người lắm, và trên thực tế thì phải có một số đông người đồng ý điều đó.
                              • Một lý luận nữa là các nhóm, đa số hay thiểu số, tùy theo vấn đề, thường rất là những nhóm khác nhau; như vậy phe đa số phải cẩn thận cân nhắc ý kiến của thiểu số, đề phòng trường hợp tối hậu trở thành thiểu số.
                              • Một lý luận thường nghe nữa là: tuy có những bất trắc, cai trị theo đa số vẫn tốt hơn các chính thể khác, và đa số chuyên chế dù sao thì cũng là khá hơn là thiểu số chuyên chế.

                              Phe đề xướng dân chủ cho rằng bằng chứng theo thống kê rõ ràng chứng tỏ là càng nhiều dân chủ thì càng ít bạo động nội bộ và diệt chủng (democide). Điều này thường được gọi là Luật Rummel, rằng người dân càng ít tự do dân chủ thì càng dễ bị giới cai trị giết chết.

                               Ổn định chính trị
                              Vì hệ thống dân chủ cho phép công chúng có quyền tước bỏ giới cầm quyền mà không cần thay đổi căn bản luật pháp của chính thể, nó làm cho công dân tin rằng họ có thể bất đồng với chính sách hiện thời, nhưng sẽ luôn có cơ hội thay đổi giới cầm quyền, hoặc thay đổi chính sách. Điều này có thể giảm bớt những bất trắc và bất an chính trị hơn là thay đổi chính trị bằng bạo động.

                               Nạn nghèo đói
                              Nơi nào có dân chủ thì càng nâng cao Tổng sản phẩm quốc nội trên mỗi đầu người và chỉ số phát triển nhân sinh (human development index), và chỉ số nghèo thì càng thấp.
                              Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý là những cái hay này là đều nhờ vào dân chủ. Có người cho là hầu hết chứng cớ lại đưa đến kết luận là chính nhờ tư bản (đo bằng Chỉ số Tự do Kinh tế chẳng hạn) đã tạo ra nhiều phát triển kinh tế làm dân giàu có hơn đưa đến dân chủ hóa.
                              Kinh tế gia nổi tiếng Amartya Sen ghi nhận là chưa có một chế độ dân chủ thực sự đã từng bị nạn đói lớn, kể cả những nước dân chủ vốn không giàu có suốt lịch sử, như Ấn Độ.

                               Chiến tranh
                              Lý thuyết dân chủ hoà bình cho rằng chứng cớ thực tế cho thấy là hầu như không bao giờ có chiến tranh giữa các nước dân chủ.
                              Thí dụ là một công trình nghiên cứu vế những chiến tranh từ 1816 đến 1991 -- định nghĩa chiến tranh là khi nào có quân lính đánh nhau làm cho hơn 1000 người chết trận, và định nghĩa dân chủ là khi hơn 2/3 đàn ông có quyền bầu cử. Nghiên cứu này tìm ra 198 chiến tranh giữa các nước không dân chủ, 155 giữa các nước dân chủ đánh với các nước không dân chủ, và không có chiến tranh nào giữa những nước dân chủ với nhau. [2]

                               Dân chủ ở Việt Nam
                              Theo điều 4 Hiến pháp 1992, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của xã hội. Theo Hiến pháp thì người dân Việt Nam bầu ra Quốc hội là những người đại diện cho dân để họ bầu ra chủ tịch nước và chính phủ. Theo lời dẫn giải của Đảng Cộng Sản về dân chủ thì Việt Nam không có "tranh cử" mà chỉ chó "vận động bầu cử". (nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/05/070502_na_elex_webchat.shtml)

                               http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 47 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9