Truyện ngắn sưu tầm
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 31 bài trong đề mục
mssthuan 12.03.2007 14:31:08 (permalink)
Bông hồng muộn
 
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
 

Buổi sáng chị vào trường, thấy cơ man là hoa. Hoa tươi trên các bàn giáo viên, hoa trên tay các em học sinh nam, hoa đầy sân trường và ngoài cổng trường. Đám sinh viên càng ngày càng biết cách làm ăn, không bỏ qua một ngày lễ nào, tiếp thị hoa hồng đến tận trường, thậm chí cả các trường cấp 2. Nào ngày Tết thầy cô 20-11, nào ngày lễ tình nhân 14-2 và hôm nay, đúng ngày quốc tế phụ nữ 8-3.
Nhìn những bó hoa, đa số là hoa hồng nhung trên tay các học sinh nam, chị không khỏi chạnh nghĩ đến những lớp học trò hàng mươi năm trước. Có đứa hái cho cô một vài cành bông bụp ở vườn nhà, có đứa gom góp đâu đó mấy chùm hoa dại nhưng rất đẹp tặng cô. Những cánh hoa ướt đẫm sương và tươi tắn như chính tâm hồn bọn trẻ khiến đêm về nhìn bình hoa đủ loại cô giáo cứ tủm tỉm cười một mình. Hồi ấy đám học trò của chị ngờ nghệch mà dễ thương làm sao! Giờ thì bọn chúng “điệu đàng” lắm rồi.  Những bông hồng đỏ thắm đều được gói giấy thật đẹp, thật sang trọng. Mỗi bông hồng trong những ngày này có khi đến mươi, mười lăm ngàn đồng chứ ít đâu! Đúng là hình thức có tiến bộ hơn nhiều nhưng chả biết tấm lòng người trao tặng có tương xứng vậy không? Bởi “của cho không bằng cách cho” mà!
Vừa bước vào văn phòng, chị chủ tịch công đoàn đã chận lại hỏi:
- Sao, hôm qua em theo cô Thủy ra tòa thế nào rồi?
Chị lắc đầu, ngao ngán :
- Vẫn là chuyện muôn thuở đó mà. Anh quyết ly hôn, chị quyết không chịu. Hai bên kể xấu nhau nghe mà bắt mệt!  Em không hiểu nhỏ Thủy nghĩ sao, thằng chồng “cạn tàu ráo máng” vậy mà nó cứ khư khư là còn thương!
- Đã bảo nó “tâm thần” mà. Chứ em không thấy chồng nó đưa lý do đó để xin ly dị sao ?
- Thì vậy. Em khuyên nó đồng ý thôi đi, nó lại bảo “Không muốn sau này chồng ân hận”. Mà ngó bộ thằng cha đó thì làm sao ân hận được. Thoát khỏi nhỏ Thủy và hai đứa con nó mừng còn không kịp. Nghe Thủy nói nó đã có sẵn người đàn bà khác rồi mà!
Chị chủ tịch công đoàn cũng lắc đầu:
- Thiệt, hết hiểu nổi mấy cô bây giờ!  Cô Thủy mới ngoài ba mươi thôi, ráng chịu đau một lần, vẫn còn cả cuộc đời trước mặt. Hay nó muốn kéo nhùng nhằng cho đã nư?
Không dám lần chần ở những chuyện “rối như canh hẹ” này, chị bước ra ngoài, nhớ hôm nay mình còn rất nhiều chuyện phải làm. Là tổ trưởng nữ công trong ngôi trường có hàng trăm giáo viên mà hơn nửa là nữ, chị phải tổ chức, điều động biết bao thứ trong ngày lễ này. Mỗi năm phải đổi mới trò chơi, đổi mới hình thức đón mừng ngày phụ nữ. Đâu chỉ là những bó hoa được trao tặng cho các cô giáo và các nữ sinh mà còn là các cuộc thi nữ công gia chánh, thi cắm hoa, thi hùng biện hay giới thiệu tuyên truyền sách, có năm lại tổ chức diễn đàn về “tình bạn, tình yêu” cho học sinh, về “ứng xử trong gia đình” cho các chị em trong trường...
Đang đi dài theo hành lang bỗng có tiếng gọi giật ngược:
- Chị Nhân ơi!
Chị quay lại, một thầy giáo trẻ đang nhìn chị cười vui:
- Năm nay sao mình không tổ chức cho các thầy nấu ăn nữa hả chị?
Chị cũng cười, biết là anh chàng chỉ hỏi đùa thôi, chứ không thì mặt hắn ta đâu có tươi tỉnh thế kia.
- Thôi đi ông!  Cho mấy ông làm bếp còn mệt hơn tụi tôi tự làm. Phục vụ gì mấy ông!
Nhìn anh bạn đồng nghiệp trẻ đi khuất sau dãy phòng lớp học, chị nhớ lại mấy năm trước mình đã vận động các thầy trong trường thi nấu ăn để mừng ngày 8-3. Thôi thì mỗi tổ đăng ký làm khéo một món, tổ chiên chả giò, tổ mì xào giòn, cá lóc nướng, gà rô ti... Các ông hăng hái lắm, thiện chí lắm nhưng cuối cùng vẫn là các cô trong tổ xúm nhau làm trước cả dù luật thi “cấm phụ nữ rớ vào”!  Khổ nỗi đến cả việc sắp mâm, bày biện ra dĩa cũng phải các cô “cố vấn”. Thi xong, các tổ ngồi xuống liên hoan, các ông thầy hí hửng vênh váo còn các đồng nghiệp nữ, chủ nhân của ngày 8-3 thì phờ phạc, nuốt không vô. Các cô giáo khiếu nại:
- Thôi, không tổ chức kiểu này nữa nghe, mệt muốn chết!
Đúng là như câu hát đùa mấy anh chàng hay nghêu ngao:
Hôm nay ngày 8 tháng 3
Tui giặt dùm bà cái áo của tui. ..
Vậy mà họ còn bày đặt than phiền :
- Sao năm nào cũng có ngày 8-3 rộn ràng khí thế như vậy, còn bọn tôi sao không có ngày “Phụ nam” ?
Tuy biết chỉ là đùa vui nhưng đôi lúc chị cũng chạnh lòng. Cứ nghĩ giá như không còn ngày lễ phụ nữ này thì mới thực sự là nam nữ bình đẳng phải không? Cứ hô hào, cứ nhắc nhở để nhớ đến vai trò, vị trí người phụ nữ trong gia đình, trong xã hội cũng chính vì họ chưa được coi trọng, chưa có chỗ đứng xứng đáng như lẽ ra phải có. Nghĩ vậy chỉ thêm buồn thôi! Nhớ có lần, cách đây lâu lắm rồi, khi còn đầy nhiệt huyết, chị đã phát biểu với các học trò nữ của mình trên một diễn đàn:
- Các em phải làm sao cho ngày nào cũng là ngày 8-3 chứ đừng để người ta tổ chức cho mình. Làm sao cho sự bình đẳng về giới tính phải trở thành chuyện tất yếu và bình thường. ..
Giờ nghĩ lại, chị mỉm cười, bâng khuâng tiếc nhớ một thời sôi nổi, tràn đầy khát vọng mà cũng thật đáng yêu. Cuộc sống đã mài giũa, gạn lọc và mở ra cho chị nhiều điều. Cái ông thầy thời gian ấy thật khắc nghiệt mà cũng thật sâu sắc làm sao!

*
* *


Căn phòng của câu lạc bộ nữ công đông nghẹt người, đa số là các cô giáo và các em nữ sinh tham gia cuộc thi làm thiệp, cắm hoa. Chị đi qua một vòng, nhìn từng chiếc bình hoa vừa hoàn tất đang đợi giám khảo chấm điểm. Đúng là sức sáng tạo của học trò thật phong phú. Mỗi bình hoa một chủ đề, một cách chưng cắm khác nhau.  Có bình hoa như “Suối nguồn tuôn chảy” khắc ghi công ơn mẹ, có bình phơi phới vươn lên như “Tuổi thanh xuân”, có những bông hoa cắm trong cát, trong gai góc như tinh thần “vượt khó”, rồi tình yêu, tình bạn, tình thầy trò hòa quyện trong từng cách cắm, từng loại hoa, cành nhánh sử dụng. Rồi thiệp chúc nữa, muôn màu muôn vẻ từ bàn tay khéo léo của các em nữ. Có thiệp giấy, thiệp vải, thiệp tre trúc... Những bông hoa nhỏ xinh xinh, mấy chú bướm xòe cánh sặc sỡ, mấy cành thủy trúc cứng cáp, cành lan mềm mại, cành hồng kiêu sa... Hình như mỗi lần ngắm nhìn những công trình của học trò, người giáo viên trong chị lại thêm chút niềm tin. Tuổi trẻ vẫn còn đó, sự trong sáng vẫn còn đó trong tâm hồn học trò chị... Những bão giông, cuồng loạn dường như chưa thấm thấu sâu vào mái trường này? Chẳng biết chị có “lạc quan tếu” không đây!
Cũng giống như bây giờ vậy, nhìn mấy cô giáo đang tíu tít ngắm nghía, chấm điểm từng tác phẩm, cô nào cũng hân hoan cười cười nói nói, ai biết được trong lòng họ giấu kín bao nỗi buồn đau, vật vã. Như cô Hạnh, cô giáo dạy nữ công gia chánh đó, cô vừa chia tay với ông chồng tệ bạc, ôm hai đứa con còn trong độ tuổi tiểu học lầm lũi đi về trong căn nhà nhỏ. Đứng kế bên là cô Lan, một cô giáo lớn tuổi sắp hưu, năm vừa qua cô đã phải “đầu bạc khóc đầu xanh” khi thằng con trai gặp tai nạn xe cộ. Còn cô giáo xinh xắn, nhanh nhẩu như lẫn vào đám học sinh nữ kia là cô Thoa, vui vẻ, nhí nhảnh vậy nhưng về nhà là tất bật với bà mẹ nằm liệt giường suốt mấy năm nay, phải gởi hàng xóm trông chừng mỗi khi đi làm... Mỗi người một cảnh đời, một nỗi lo toan phiền muộn mà chị, người tổ trưởng nữ công phải nắm rõ để sẻ chia, an ủi, giúp đỡ. Gánh nặng công việc quả nhiều lúc khiến chị oằn vai, muốn vứt bỏ nhưng lại không đành, bởi suy cho cùng, chị có khác gì đâu!

*
* *


Mãi đến tối mịt chị mới về nhà. Dư vị của buổi tiệc còn đọng trên môi và nỗi mệt mỏi càng lúc càng lan dần lan dần khiến chị lơ mơ, ngớ ngẩn thế nào. Cổng nhà đã khóa, thằng con trai chắc đang say giấc nồng. Chị mở cửa phòng, nhè nhẹ bước vào. Mình thật tệ, bận đến nỗi không hỏi được con trai coi hôm nay nó tặng hoa cho ai? Nó đã kết thân với bạn gái nào chưa? Năm nay nó đã 19 tuổi rồi chứ nhỏ nhít gì đâu. Vậy mà...
Nỗi áy náy, ray rứt càng rõ hơn khi chị bước vào phòng mình. Trên bàn làm việc của chị, một đóa hồng vàng trong chiếc bình nhỏ đang nhìn chị,  thoang thoảng hương. Ôi chao, lại bông hồng vàng!  Sao mà thằng nhỏ hiểu ý mẹ đến vậy!  Chị cúi nhìn bông hồng vàng trong tay mình, bông hồng chị vừa ghé mua ở đầu chợ. Không năm nào chị mang những bó hoa của học trò tặng về nhà. Ở trường suốt cả ngày, sợ hoa héo khô nên chị thường gởi cho các cô khác mang về cắm hộ. Năm nào chị cũng tự mua cho mình một cành hoa hồng vàng cắm vào bình bởi người đàn ông có thể tặng hoa cho chị đã ở một phương trời xa lắc. Ôi, người đàn ông của đời chị! Hình như đã lâu lắm rồi từ khi anh trao cho chị cành hoa hồng vàng cuối cùng, để sau đó chị chỉ cắm toàn hoa hồng vàng trong chiếc bình hoa nhỏ của mình.
Chị khẽ khàng cắm bông hồng vàng mới mua vào bình hoa, cạnh bông hồng của con trai, lòng nhẹ tênh. Bao nỗi nhọc mệt trong ngày như tan biến hết. Đêm nay, người phụ nữ đã có đến hai đóa hoa hồng vàng. Và những đêm của năm tới, năm tới nữa, đóa hồng vàng trong chiếc bình hoa nhỏ sẽ không còn đứng lặng lẽ, cô đơn. Mặc cho ai đó cho rằng màu vàng là màu của sự phản bội trong tình yêu, chị vẫn yêu thích, vẫn trung thành với nó từ khi đọc truyện “Bông hồng vàng” của nhà văn Nga K.Pau-xtop-xki. Bông hồng vàng của người hốt rác già Samet với ước mơ hạnh phúc cho nàng Suzanne yêu thương, bông hồng vàng từ những nhà văn biết bòn đãi những hạt rất nhỏ của bụi vàng để làm thành tác phẩm của mình, “Bông hồng vàng” của truyện, của thơ...
Và, chị đã từng có những ngày hạnh phúc rạng ngời như chính những bông hồng vàng chị từng chắt chiu. Một bông, rồi hai bông, ba bông... Bao nhiêu đóa hoa anh chiều theo ý thích của người yêu trao tặng chị trong ngày lễ tình nhân, ngày tôn vinh phụ nữ, ngày sinh nhật và... bao nhiêu ngày khác nữa, những ngày chị đắm say trong “Hoa vàng mấy độ” ấy. Lâu lắm rồi chị không muốn nhớ, không muốn ngoái đầu nhìn lại. Vậy sao đêm nay, từ một bông hồng muộn màng khuya khoắt chị lại ngậm ngùi xao xuyến thế kia?
Người phụ nữ lặng lẽ thay quần áo, mở ngọn đèn ngủ màu xanh nhạt rồi lên giường nằm, thao thức bồi hồi như cô gái trẻ thuở nào xa. Trong bóng đêm, hai đóa hồng vàng trong chiếc bình nhỏ vẫn lung linh, lung linh như một điểm sáng nồng ấm, thân thuộc đưa chị vào giấc ngủ an lành.
 
 

Nguồn: baocantho.com.vn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2007 14:33:14 bởi mssthuan >
#1
    mssthuan 12.03.2007 14:38:56 (permalink)
    Xuân muộn
    Phạm Văn Thúy
     
     
    Vừa lau bộ lư đồng ông Tư vừa ngóng ra ngõ, bồn chồn:
    - Hai chín tết rồi mà thằng Tuấn chưa về! Không hiểu có chuyện gì?
    Bà Tư thở dài:
    - Ông à, tui thấy lo lo! Tết này mình đã hứa với anh chị Hai, dẫn thằng Tuấn sang cho giáp mặt với con Tú nhà người ta. Nó không về. Việc lỡ dở. Biết ăn nói với họ sao đây?
    - Thôi, bà cứ lo gần lo xa. Để tôi tính. Chắc có chuyện gì nó mới về trễ.
    Không lẽ nó chưa muốn lấy vợ...
    * * *
    Trong lúc đó, Tuấn đang bị bác sĩ thụ lý ca chấn thương, cật vấn:
    - Cậu là người nhà của bệnh nhân?
    Bị hỏi bất ngờ, Tuấn lúng túng:
    - Dạ, thưa... không... à phải.
    - Vậy là sao? - Vị bác sĩ ngạc nhiên.
    - Dạ, cháu là người nhà. - Tuấn bạo miệng.
    - Bệnh nhân đang hôn mê sâu. Vết thương kín. Qua hội chẩn, cần phải mổ ngay. Để lâu sẽ đe dọa đến tính mạng. Cậu chuẩn bị làm thủ tục mổ và tiền để lo thuốc men...
    Giọng bác sĩ đều đều, tự nhiên và pha chút lạnh lùng. Những sóng âm đó vô hình trung làm trái tim Tuấn rung lên những nhịp quặn thắt, rối bời, lo lắng...
    Ngồi ngoài phòng mổ, ruột gan Tuấn như tơ vò: Tết này về trễ, chắc ba má giận lắm đây. Ngặt nỗi, còn việc sang thăm nhà ông Hai để gặp Tú, người mà Tuấn chưa hề biết mặt, Tuấn chỉ nghe qua sự giới thiệu của ba má. Vạn sự khởi đầu nan! Lần đầu thất hứa, liệu chuyện tình duyên có êm xuôi? Năm tới là năm Đinh Hợi, mình tròn hai con giáp. Năm tuổi, chắc xui xẻo lắm đây...
    Còn cô gái kia là ai? Nhà cửa, quê quán ở đâu? Người gì mà đi ra đường chẳng có một mảnh giấy lận lưng! Biết đâu mà lần ra tung tích? Thế mới gay go chứ! Càng nghĩ mông lung, Tuấn càng thấy rối. Tuấn thầm tự trách: ma sui quỷ khiến thế nào, mình lại đi cùng chuyến xe lôi với cô ấy. Hai chín tết còn gặp xui! Cô ta bị tai nạn, chưa biết sống chết thế nào. Người thân không có ở đây, mình bỏ sao đành! Thôi, đâm lao thì phải theo lao. Làm phước hãy làm cho trót. Kẻo tội với trời...
    Đêm Hai chín tết. Tuấn thức để nuôi hy vọng và cầu nguyện sao cho lưỡi hái tử thần không đến viếng thăm cô - người bạn đường bất đắc dĩ. Sau hơn ba giờ phẫu thuật, cô gái được đưa về phòng hồi sức. Theo bác sĩ, bệnh nhân đã qua cơn nguy kịch. Người nhà phải luôn có mặt, để đáp ứng mọi yêu cầu của thầy thuốc và bệnh nhân. Thế là Tuấn chưa thể rời khỏi cô gái, ít nhất cũng là lúc này, để báo tin mình mắc kẹt cho ba má yên tâm. Còn chuyện tiền bạc, đối với Tuấn cũng tạm ổn. Cả năm làm việc, tích cóp được dăm triệu đồng, tết này Tuấn định mang về giúp ba má sửa sang nhà cửa. Ai dè lại gặp phải cảnh này... Thôi, mặc! Suy nghĩ nhiều cho mệt! Người làm ra tiền, chứ tiền đâu có làm ra người. Giúp người mà tính đơn tính kép thì còn gì gọi là giúp!
    Mãi sáng mồng Một Tết, cô gái mới tỉnh lại. Tuấn mừng khôn xiết. Chỉ mong có thế, Tuấn mới giải tỏa được bao câu hỏi đang vặn xoắn trong đầu. Tuấn sẽ đi báo tin. Tuấn sẽ “bàn giao” bệnh nhân cho người nhà của cô ta. Tuấn được giải phóng. Tuấn kịp về đón tết với ba má và sang nhà người ta... Niềm vui của Tuấn bỗng như ngọn đèn gặp gió. Bởi cô gái đã tỉnh nhưng trí nhớ vẫn chưa hồi phục. Cô đờ đẫn nhìn Tuấn ngơ ngơ vô hồn, vô cảm. Hỏi hoài cô cũng không nói, kêu gì cô cũng chẳng nghe. Vậy là niềm vui đến với Tuấn sao mà ngắn ngủi và mong manh quá thể! Rối lòng, chưa biết tính sao, Tuấn chỉ còn biết đợi chờ, hy vọng và cậy nhờ vào sự can thiệp của các y, bác sĩ.
    * * *
    Trưa Hai mươi chín Tết, bà Tư rầu rĩ, bảo:
    - Ông nè, có lẽ thằng Tuấn không về thiệt? Hay là ông sang nói với ông bà Hai cho phải đạo. Không khéo người ta bảo mình ba xí ba xáo...
    Ông Tư gạt mạnh tàn thuốc đang hút dở xuống cạnh bàn, những đốm sáng lóe lên tứ tán.
    - Bà nghĩ cũng phải. Nhà ông Hai ở cuối xã, bơi xuồng biết chừng nào tới!
    - Thì ông kêu thằng cháu, đèo ông bằng xe gắn máy qua...
    Chân bước lên hàng ba nhà ông Hai, ông Tư bỗng chột dạ, khi thấy trong nhà im phắc, không có vẻ gì là tết nhứt. Ông Tư chủ động lên tiếng:
    - Tết nhứt đến nơi rồi, anh Hai chưa chuẩn bị gì sao?
    Giọng ông Hai rầu rầu:
    - Anh Tư sang chơi! Vợ chồng tôi đang rối hết cả ruột gan. Sáng qua biểu con Ba đưa quà tết cho dì Năm nó ở Cần Thơ. Biểu đi về trong ngày. Không hiểu sao bây giờ nó chưa về...
    Ông Tư lặng thinh, đợi ông Hai nói xong, bảo:
    Vợ chồng tôi cũng đang lo chẳng kém gì anh chị. Nói thiệt, giờ này thằng Tuấn nhà tôi, cũng chưa về. Sợ thất hứa, tôi sang thưa với anh chị trước. Có gì... xin thứ lỗi.
    Mỗi ông một tâm trạng, mỗi ông một nỗi niềm. Nhưng, dường như ý nghĩ của họ lại gặp nhau ở một điểm: nhất định có chuyện xảy ra đối với con của họ rồi! Ngồi nhà mà lo nghĩ, chẳng giải quyết được gì, chỉ làm cho đầu óc rối thêm. Lo lắng lại chồng lên lo lắng!... ông Tư chợt nảy ra “sáng kiến”. Ông đề nghị: “Anh Hai nè! Giờ này còn kịp, tôi và anh cùng lên Cần Thơ kiếm chúng nó xem sao? Tôi có linh cảm chuyện chẳng lành...”.
    Nghe lọt cái lỗ tai, ông Hai gật đầu. Họ gấp gáp ra lộ, bắt xe lên Cần Thơ.
    * * *
    Đêm cuối năm dần buông. Cái đêm khép lại mọi sự may rủi, buồn vui, phúc họa... của mỗi con người. Cái đêm mở ra một năm mới đầy sôi động, thách thức và bao ước mơ, hy vọng tốt lành. Song, giờ đây, Tuấn chỉ mong ước có một điều thiệt giản dị: cầu nguyện cho cô gái mau phục hồi. Để Tuấn còn...
    Trong bệnh viện, vắng lặng đến xao lòng. Ngoài đường ồn ã, náo nhiệt bao nhiêu thì trong bệnh viện ngược lại bấy nhiêu. Thỉnh thoảng có những tà áo trắng của y, bác sĩ như cánh thiên nga lướt qua trước mặt Tuấn. Tuấn miên man nhớ lại.
    ... Trưa Hai tám Tết, Tuấn giao chìa khóa phòng cho chủ nhà trọ. Anh háo hức vẫy xe lôi để ra bến xe, về quê ăn Tết và sẽ sang chơi nhà cô gái mà Tuấn chưa hề biết mặt. Trên xe lôi đã có một cô gái. Cô ý tứ dịch sang bên cho Tuấn ngồi. Tuấn nhìn cô, thăm dò: “Em cũng ra bến xe?”. Cô gật đầu: “Dạ!  Còn anh?”. “Anh cũng ra bến. Em về đâu?”. “Em về Vĩnh Thạnh”. Tuấn hồ hởi: “Anh cũng về Vĩnh Thạnh nè...”. Hai người mải mê trò chuyện như đôi bạn thân. Xe vừa qua khỏi cầu Nhị Kiều. Bỗng rầm một cái, xe lôi mất thăng bằng, đổ nghiêng. Cô gái văng ra khỏi xe, ngất xỉu. Rất may Tuấn kịp nắm được thành xe lôi nên chỉ xây xước qua loa. Tuấn vội vàng đưa cô gái vào bệnh viện...
    Còn hơn hai giờ nữa đến giao thừa. Tuấn chưa bao giờ thấy mình trống vắng và thèm khát sự sẻ chia, giúp đỡ như lúc này. Niềm an ủi duy nhất đối với Tuấn là cô gái đã phục hồi trí nhớ. Cô đã “biết” khóc, cười. Cô gọi ba kêu má. Cô đã nhận ra Tuấn và cô hỏi cô đang ở đâu? Cô bảo tên cô là Ba, quê ở... Song, những điều cô nói mới chỉ là chuỗi hỗn tạp những sắc màu sáng, tối đan xen. Nhưng dù sao cũng là những tín hiệu tốt lành, là “món quà” để Tuấn và cô mừng đón giao thừa.
    Bên giường bệnh, Tuấn đang đắm mình trong suy tư. Bất chợt cửa phòng bật mở. Y sĩ trực đưa hai ông già vào. Quá bất ngờ, Tuấn nhảy dựng ôm chầm lấy ba, mắt đỏ hoe, rưng rưng sung sướng:
    - Ba à! Con vướng phải cái cô nầy nên lỡ hẹn... Mong ba thứ lỗi...
    Ông Tư tìm thấy con trai, mắt cũng rơm rớm, tay chỉ sang ông Hai:
    - Mầy có biết ai đây không? ông Hai - cha con Tú, ba vợ tương lai...
    Tuấn ngơ ngác chưa hiểu sao, anh chỉ kịp khoanh tay: “Cháu chào bác!”.
    Ông Hai ngồi xuống bên con gái. Cô nức nở: “Ba ơi, con bị tai nạn... Nhờ có anh Tuấn giúp... Tuấn tốt lắm... Không có Tuấn, chắc con...”. ông Hai xoa xoa đầu con gái, mắng yêu: “Tổ cha mi! Mi làm ba má và em Tú ở nhà lo hết hồn! Ba và ông Tư đây đi tìm tụi bay. Đến nhà trọ kiếm thằng Tuấn, chủ nhà bảo nó về từ trưa Hai tám tết rồi! Đến dì Năm tìm, dì bảo nó cơm xong rồi về ngay... Hai đứa làm hai già nầy tá hỏa tam tinh, chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khắp. Rồi mọi người bình tĩnh đoán ngược đoán xuôi: có thể nó bị tai nạn giao thông, chắc nằm trong bệnh viện không chừng! Quả nhiên, kiếm được hai đứa ở đây. Mừng hết chỗ nói!”.
    Ông Hai siết chặt tay Tuấn nói lời cảm ơn, rồi bảo.
    - Ba cháu nói về cháu đã lâu, nhưng bữa nay bác mới gặp cháu. Người mà cháu cứu giúp chính là chị con Tú. Tết này ba cháu và bác định cho cháu và Tú giáp mặt.... Thôi, chuyện đó tính sau, hai cha con mau về nhà để đón giao thừa, kẻo chị Tư lo...
    Ông Tư nhìn đồng hồ, bảo. “Về sao kịp, sắp giao thừa rồi! Ông, tôi và tụi nó đón giao thừa ở bệnh viện xem có vui hơn ở nhà không? Tết này hai gia đình đón xuân muộn một chút nhưng mà vui, chắc vui nhất là thằng Tuấn nhà tôi và con Tú nhà ông”.
    Mọi người cười vui vẻ, cũng vừa lúc chuông giao thừa ngân vang.
     
    Nguồn: baocantho.com.vn
    #2
      mssthuan 12.03.2007 14:46:19 (permalink)
      Bên lề một đám cưới
      TÔN NỮ THANH YÊN
       
       
      Đã gần đến ngày thím Hồng lên máy bay đi Úc thăm con gái sắp sinh con đầu lòng, mà chuyện hôn nhân của Thịnh chưa trù tính được gì. Thịnh muốn cưới vợ vào cuối năm nay. Thím Hồng lại đi nước ngoài với thời hạn sáu tháng. Thịnh muốn gì thì cũng phải chờ mẹ trở về. Thím Hồng còn nói để coi qua bển có con gái nhà nào tử tế sẽ cưới về cho Thịnh. Thịnh vùng vằng không chịu nghe. Hai mẹ con cứ vậy mà cãi lẫy nhau. Chung quy cũng vì thím Hồng không chấp thuận, lấy lý do thân thế, địa vị và gia sản của gia đình Liễu không tương xứng với gia đình mình. Đây không phải là lần đầu, đã một lần cách đây sáu năm, thím Hồng từng viện lý do “môn đăng hộ đối” để ngăn cản Thịnh nên vợ nên chồng với cô gái là mối tình đầu của Thịnh. Thế, em của Thịnh, đã yên bề gia thất mà Thịnh còn lần lữa, hôn sự coi mòi chẳng được hanh thông, suôn sẻ.
      Đến ngày thím Hồng chuẩn bị hành lý, Thịnh mới về nhà sau mấy ngày bỏ đi đâu biệt tăm, gia đình nhắn tin gọi điện mấy cũng tắt máy không trả lời. Thịnh về, tránh không nhìn vào mặt mẹ, chỉ lẳng lặng giúp mẹ đóng gói hành lý. Thím Hồng đang tíu ta tíu tít lo bao nhiêu chuyện cho chuyến đi xa nên có vẻ chẳng để ý bận tâm gì đến cậu con lớn. Chú Thiệp, Thịnh và vợ chồng Thế đi thành phố Hồ Chí Minh tiễn thím Hồng ra sân bay. Tôi ở nhà một mình trông coi ngôi nhà lầu đồ sộ. Cảm giác rằng khối bê tông nặng nề, trầm lắng này cần có tiếng chân người, giọng người cười nói, tiếng khóc nữa, cho vang động lên, ồn ào lên âm thanh của cuộc sống. Ngôi nhà lộng lẫy tân kỳ này đã không níu được chân Thế và Loan. Lấy cớ là con gái duy nhất nên Thế ở rể, tình thực là Loan né tránh chuyện sống chung với gia đình chồng. Chỉ còn chờ Thịnh “đưa nàng về dinh”. Vậy mà...
      Thím Hồng vắng nhà vừa đúng một tháng thì có chuyện xảy ra... Dì Hảo, người chị cả của thím Hồng từ thành phố Hồ Chí Minh về chơi. Tôi ở trọ học trong nhà này đã hai năm, thỉnh thoảng vẫn nghe mọi người nhắc đến dì Hảo, đến nay mới gặp mặt. Thím mỗi khi nói đến người chị của mình thường tỏ lòng kính trọng, yêu quý. Chính điều này khiến tôi kiêng dè sự xuất hiện của dì Hảo.
      Chú Thiệp xin nghỉ phép ở cơ quan, lấy xe máy chở dì Hảo đi đi về về như thoi đưa. Chị vợ và em rể cứ rầm rầm rì rì bàn bạc với nhau có vẻ tương đồng tương đắc. Lại thấy chú Thiệp gọi Thịnh đến cùng ngồi nghe. Thím Hồng đi, giao phận sự cơm nước chợ búa, nên đi học về là tôi túi bụi dưới bếp. Chẳng biết được những người ngồi trên phòng khách đang bàn tính việc gì. Thật không ngờ, dì Hảo và chú Thiệp đã đi đến quyết định tiến hành lễ đính hôn cho Thịnh và Liễu, trong lúc thím Hồng vắng mặt! Thịnh phóng xe đi về tất bật, mặt mày chàng ta bơ phờ nhưng không che giấu được sự vui sướng hài lòng lộ ra nơi cái miệng cứ cười cười. Vợ chồng Thế – Loan cũng đến góp tay vào việc sắm sanh sính lễ hỏi vợ cho anh trai. Dì Hảo huy động vợ chồng cậu Hiển, em kế dì Hảo, đi họ đàng trai. Chú Thiệp thì mời ba má tôi. Kể ra mới thấy sự trọng thị của dì Hảo lẫn chú Thiệp đối với cuộc hôn nhan của Thịnh. Lễ đính hôn được diễn ra suôn sẻ tốt đẹp. Gia đình Liễu được thông báo về sự vắng mặt của người mẹ bên đàng trai như là một điều bất đắc dĩ. Ngày lành tháng tốt được chọn cho đám cưới sẽ là cuối năm, khi ấy sẽ có mặt mẹ của Thịnh. Thịnh cũng không cho Liễu biết đám hỏi này là một sự “thông đồng, âm mưu”, vì ngại rằng Liễu sẽ mặc cảm hoặc tự ái. Tôi thì nghĩ, giống như một trận đánh úp, chưa biết kết quả sẽ được gì.
      Thím Hồng trở về sau sáu tháng sống với gia đình con gái và thăm thú các thắng cảnh xứ người. Dư vị của chuyến du lịch còn say lòng thím Hồng cho đến ngày bà biết được chuyện xảy ra ở nhà trong lúc bà vắng mặt. Chưa bao giờ tôi thấy thím Hồng lồng lộn như vậy. Thím đập bàn. Thím xô ghế. Thím dằn chén cơm. Thím quăng đôi đũa. Đứng ngồi không yên, thím đi đi lại lại, rồi chửi mắng Thịnh té tát, rồi cãi cọ to tiếng với chú Thịnh. Cũng là lẽ thường tình, thử đặt mình vào tình huống của thím, ai cũng phải tức tối giận dữ. Lạ một điều, thím Hồng oán trách dằn vặt chồng con luôn mồm, ngày này sang ngày khác, nhưng tuyệt nhiên chẳng đả động gì đến dì Hảo. Tôi đem thắc mắc đó ra hỏi chú Thiệp. Chú giải thích: Dì Hảo là một người quyết đoán, đảm đang và tận tụy. Cha mẹ mất sớm, mới mười chín tuổi xuân đã một mình bươn chải nuôi năm em nhỏ. Dì Hảo có tài kinh doanh, biết làm lợi từ đồng vốn nhỏ, biết tích lũy mà thành sản nghiệp lớn. Một tay dì Hảo chu toàn cho các em ăn học rồi dựng vợ gả chồng cho. Em út ai nấy yên bề gia thất, dì Hảo ngoảnh lại mình đã luống tuổi, chịu ở vậy với danh phận một nhà doanh nghiệp thành đạt. Năm người em từ nhỏ đã sợ oai chị, gọi dạ bảo vâng, nhất nhất việc gì cũng nghe theo, vì nói chung điều gì dì Hảo làm đều là muốn tốt đẹp cho đàn em của mình. Những người em dâu, em rể cũng theo đó mà có sự kính nể đối với dì Hảo... Ức bà chị lắm, nhưng thím Hồng cất trong bụng không nói ra lời xúc phạm. Cho đến ngày dì Hảo lại xuất hiện...
      Sau một bữa ăn, đề tài mấu chốt được đưa ra. Dì Hảo nói:
      - Chúng ta nên bàn tính chuyện đám cưới của cháu Thịnh. Thịnh đã chững chạc trưởng thành; cháu muốn lấy vợ là lẽ tự nhiên và cháu đã có sự lựa chọn, dượng dì không nên ép uổng hay ngăn cản. Chị đã có tìm hiểu về gia đình và bản thân cháu Liễu. Họ có nề nếp gia giáo, ăn ở hiền lành thuần hậu; cháu Liễu bản tính dịu dàng hiền thục, nói năng nhỏ nhẹ lễ độ. Cháu về làm dâu thì không đến nỗi nào đâu, chỉ cần dì bảo ban rèn cặp cho cháu hợp với nếp nhà mình. Gia đình mình đã đem sính lễ đến hỏi con gái người ta, bây giờ đã đến lúc bàn đến lễ cưới... Ý kiến của chị là tán thành cháu Thịnh kết hôn với cháu Liễu.
      Chú Thịnh nói rõ từng tiếng:
      - Thưa chị, em cũng tán thành.
      Mặt thím Hồng sa sầm u ám, giọng của thím nghe rung như đang dằn đang nén nỗi buồn giận:
      - Em không tán thành. Lễ hỏi đó không có mặt em, nên em không có ý kiến. Nhưng, bây giờ em phải thưa cho chị biết: em không bằng lòng cái cách chị đã hành động áp đặt đối với em, cho em một sự đã rồi. Em vẫn còn quyền quyết định của mình; em là mẹ, em không cho phép con trai em lấy đứa con gái mà em không bằng lòng.
      Dì Hảo nhìn thẳng vào mặt em gái, giọng điềm đạm:
      - Em không bằng lòng cháu Liễu ở điểm nào?
      Câu hỏi đưa ra như một khối u cần được mổ xẻ. Âm thanh, ngôn ngữ dậy lên, vỡ òa một cuộc tranh cãi. Tôi khép nép đi vào phòng mình. Một lúc, chú Thiệp và Thịnh lần lượt đứng dậy, đi lên lầu, ai về phòng nấy... Căn phòng của tôi, có ba bề tường không xây kín giáp trần nhà, lại có mấy vuông gạch gió, vì vậy, có đóng kín cửa phòng âm thanh vẫn lọt vào. Nỗi tò mò lại xui khiến tôi nghe ngóng câu chuyện rồi sẽ đi đến đâu. Hai người đàn bà ruột thịt ngồi lại với nhau. Sự im lặng nặng nề chen giữa họ. Rồi, dì Hảo cất giọng trầm trầm:
      - Chị muốn kể cho em nghe câu chuyện này... Ngày xưa, chị có yêu một người (khi đó em mới lên bảy tuổi, chắc là không biết gì đâu!). Ừm, chị đã yêu một người. Anh ta đã ước hẹn với chị về một cuộc sống lứa đôi. Nhà anh mở tiệm buôn tạp hóa, cũng kể vào hàng giàu có. Năm đó, anh ta bị động viên, gia đình phải tốn nhiều tiền của chạy chọt mới không phải ra trận, chỉ làm lính kiểng. Chị thì cha mẹ mất sớm, để lại một đàn em lau chau, sống trong một căn nhà dột nát. Ước hẹn với nhau nhưng chị vẫn cứ dùng dằng lần lữa mỗi khi anh ta đề cập đến chuyện đưa cha mẹ đến xem mặt. Rồi... lần đầu.
      Rồi... lần đầu chị đến nhà anh là khi hay tin ba anh vừa té ngã cầu thang. Anh đi đâu vắng. Hai người chị của anh nhìn từ bộ đồ chị mặc cho đến đôi guốc mộc chị mang bằng ánh mắt soi mói khinh thị. Mẹ anh thì cầm cây chổi quét qua quét lại mặt sân chỗ chị đứng. Nếp xưa ông bà dạy: khách đến nhà đừng cầm chổi quét nhà là có ý gì em biết đó! Vậy, lòng chị cay đắng đến chừng nào, em biết không?... Rồi, anh ta thưa dần những lần đến nhà mình. Lần cuối cùng, anh ta đến để nói lời chia tay. Chị hỏi: “Em đã làm điều gì lầm lỗi?”. Anh ta nói, câu nói trắng trợn và tàn nhẫn, câu nói mà chị đặt vào tim óc để lưu giữ suốt cuộc đời chị: “Mẹ anh không bằng lòng em... vả lại, anh không còn yêu em nữa... Anh không yêu ai ngoài yêu chính bản thân anh và gia đình anh”. Lạ lùng lắm em à, chị trơ trơ ra, không khóc lóc kể lể, không oán than trách móc, như là điều đó hiển nhiên sẽ xảy đến và chị đã chờ đợi để đương đầu với nó. Rồi, chị một thân một mình với cái gánh nặng, không một điểm tựa, không một bờ vai san sẻ... Chị làm việc để tìm quên, xoay xở bon chen khắp cùng phố chợ để kiếm ra tiền; gom góp được tí vốn, chị tính toán cách làm giàu. May sao, đồng tiền của chị cũng biết sinh sôi nảy nở. Chị tâm niệm một điều: quyết chí lo cho các em của chị được ăn no mặc đủ, học hành đến nơi đến chốn và tậu một ngôi nhà bề thế cho chị em mình. Chị làm tất cả những điều đó chỉ vì để cho các em của chị đến tuổi tìm đôi gặp lứa không bị gia đình người ta khinh khi rằng con nhà nghèo. Em ơi, có ai muốn cái nghèo đâu. Nhưng muôn đời nó vẫn là cái nhục, là sự thua thiệt của những người trót mang thân phận đó. Chị không muốn các em chịu nhục, chịu thua thiệt, không muốn các em phải mang nỗi mặc cảm tự ti. Và, chị đã hy sinh khoảng đời thanh xuân, hạnh phúc riêng của mình. Chuyện này, chị giấu kín bốn mươi năm nay, đến anh Hiển, chị Hoa của em cũng biết mập mờ... Bây giờ, em bình phẩm đánh giá về cái nghèo kém của gia đình người ta... là em đã chạm vào nỗi đau cũ của chị đó!...
      Giọng kể ngưng bặt. Không nghe thím Hồng nói gì. Đột nhiên, thím Hồng bật khóc hu hu như trẻ con. Tiếng khóc rõ to, nức nở. Rồi, giọng thím mếu máo:
      - Em xin lỗi chị... Em xin lỗi chị...
      Tôi nghĩ ngay đến sự an bài cho đám cưới của Thịnh. Tự dưng, nước mắt tôi ứa ra.
       
      Nguồn: baocantho.com.vn
      #3
        mssthuan 12.03.2007 14:52:27 (permalink)
        Bộ lư đèn
        HUỲNH VĂN QUỐC
         
         
        Những người muôn năm cũ
        Hồn ở đâu bây giờ
        (Vũ Đình Liên)
         
        Mới bảnh mắt, người ta đã ới nhau: “Còn một ngày nay thôi đấy. Cứ rề rà rồi gác việc đến sang năm!”. Phải, hôm nay đã là ba mươi tết, qua một đêm sẽ là... sang năm! Cái sang năm xa lắc xa lơ trong ký ức, cái sang năm chầm chậm ngày nào giờ đang rõ dần, nhanh dần trong mắt, trong tai và cả trong tâm trí Thuận. Mẹ anh càu nhàu: “Một tháng ba mươi ngày, không có lấy ở nhà một ngày. Hôm nay còn bộ lư đèn làm sao chà bóng cho kịp”. Ừ nhỉ! cái bộ lư đèn bằng đồng đặt trên tủ thờ từ khi Thuận mới đi lẫm chẫm đã nhìn thấy nó, qua bao nhiêu năm vẫn đứng lặng lẽ chứng kiến mọi thăng trầm trong gia đình. Bộ lư có từ thời ông nội. Hồi đó cả nhà còn phải lo toan đủ thứ chuyện, không ai nghĩ gì về một món “xa xỉ , nào khác không thiết thực với đời sống hàng ngày. Thiếu mấy thứ đó cũng chẳng sao, cái ăn cái mặc mới gớm, cái bệnh cái nạn lại càng gớm vô cùng.
        Dạo ấy ông nội Thuận bị bệnh cũng kha khá, người cứ lọm khọm, vàng vọt chẳng cách nào chữa dứt. Mẹ phải bán hai con heo tạ, gác việc lo tết, đưa hết để ông đi chạy bệnh. Đi từ sáng tới chiều, thấy ông mang về bộ lư đồng do anh xe thồ đèo, trông hớn hở ra mặt. Cho đến giờ, Thuận vẫn nhớ như in cái “sự kiện” nhỏ nhoi mà vô cùng quan trọng đó của gia đình, cho dù sau này trong đời Thuận có nhiều chuyện “to tát” hơn nhưng chưa chắc đã quan trọng bằng. Lúc bấy giờ là cháu út, Thuận cứ chạy lăng xăng tíu tít cả lên:
        - Cái gì vậy ông nội? Cái gì đẹp quá hè!
        Ông nội cười chúm chím, vuốt chòm râu lơ thơ rồi âu yếm nhìn cháu:
        - À, bộ lư đó con. Cái này để trên bàn thờ lổ tiên ông bà cho ấm cúng, một đời ông nội mới sắm được đó. Con biết nó được làm bằng gì không? Bằng vỏ đạn đó.
        Ông lẩm bẩm như nói một mình- Nghĩ cũng hay thiệt, hồi xưa mình góp lư đồng đúc đạn, bây giờ lại lấy vỏ đạn làm lư đồng!
        Thấy đôi mắt thơ ngây của Thuận tròn xoe chẳng hiểu chuyện gì, nội ôm cháu vào lòng như cố truyền niềm vui của mình sang:
        - Ngày xưa chống Pháp, Chính phủ phát động tuần lễ vàng và tuần lễ đồng. Nhà mình nghèo chỉ có mỗi bộ lư, ông thuyết phục mãi, bà cố con mới chịu cho góp vào kháng chiến. Nội hứa hòa bình sẽ sắm lại để thờ phụng ông bà. Nhưng rồi lại tiếp tới chiến tranh, cha con phải ra trận rồi không về. Nội chưa có dịp thực hiện lời hứa với bà cố. Bây giờ sắp theo bà rồi, may gặp một đồng đội cũ làm nghề này, vậy là nội mua luôn. Cháu biết không, trong làng chẳng mấy nhà có bộ này đâu. Dành dụm mãi ông mới sắm được đó. Sau này con lớn, con có cái mà thắp nhang cho ông, hỉ ?
        Từ nãy giờ mẹ Thuận như lặng đi, nghe đến đây không kìm nổi nữa, chen vào góp lời, không ra trách móc cũng chẳng ra tán đồng, cái thứ tiếng nói bị kẹt giữa đêm và ngày, giữa kìm nén và bùng nổ:
        - Con không hiểu cha nghĩ làm sao lại lấy tiền chạy thuốc đi mua ba cái thứ này. Cha không tiếc thân mình thì cũng nghĩ tới tụi con một chút chớ. Lúc này chưa sắm được thì lúc khác, cái sức khỏe là quan trọng hơn hết...
        Ông nội lại thong thả vê một điếu thuốc (cái này ông không bỏ được!), tay run run bật mãi, cái máy lửa cũ kỹ mới khẹc khẹc một chút vào tim gòn đã có mòi khô dầu:
        - Tao không biểu tụi bây lo. Tao mua cái này, chết có đem theo được đâu mà tụi bây cự. Nó còn đấy tụi bây không ưng thì bán lại, nhưng tao còn sống được ngày nào để tao ngó qua một chút, tao thờ ông bà. Bệnh không còn chữa được thì phí tiền làm chi cho mệt.
        Nói xong, ông bước lại tủ thờ, dọn dẹp để đặt bộ lư lên. Dù sao việc cũng đã rồi, mẹ bỏ đi xuống bếp, chuẩn bị bữa chiều, vừa làm vừa lẩm bẩm: “Khổ quá, có ai tiếc gì với cha đâu. Nhưng bệnh còn nước còn tát chớ, ai làm vậy bao giờ!”.
        Cái tủ thờ bám đầy bụi giờ được quan tâm đặc biệt, sao cho xứng với báu vật mà nội đem về. Tủ này cũng đã lỗi thời, nhưng mẹ Thuận bảo phải đổi mấy chục giạ lúa mới có được. Nó được làm bởi một anh thợ vụng trong họ. Anh này không có đạo đức nghề nghiệp gì ráo, cứ quan trọng hóa vấn đề lên để đòi thêm tiền, kết cuộc là giao lại chiếc tủ rất giản đơn, không chạm trổ gì cả. Để cho dễ lau chùi, cái mà các người gọi là đẹp chỉ rườm rà bụi đóng mà thôi! “-Anh ta biện bác. “Thôi, cho qua - cha Thuận về phép tặc lưỡi - chẳng lẽ trả tủ đòi lại tiền để nó hẹn đến mồng thất, rồi cuối cùng tủ chẳng có, tiền cũng không?”. Thế là cái tủ ung dung ngự ở giữa nhà, nơi trang trọng nhất của gia đình. Lúc đó ông nội chẳng bình luận gì về cái tủ, chỉ vu vơ: “Còn thiếu có bộ lư!”.
        Tưởng ông nói có vậy rồi thôi, không ngờ cái “khát vọng” ấy nó cứ canh cánh trong lòng ông mà không ai hay. Ý tưởng dù hay dù dở, hễ có nung nấu ắt có thực hiện khi gặp dịp. Thế nên nội đã chẳng ngần ngại khi dùng tiền chạy bệnh đưa bộ lư về - cái mà lúc đó dân làng còn cho là “xa xỉ”-mặc cho mẹ Thuận có phiền lòng vì nội sử dụng tiền sai mục đích, như cách nói của cánh ngân hàng ngày nay!
        Và bây giờ bộ đèn-lư đồng đã ngự trên tủ thờ trông khá... hoành tráng, thỏa lòng ao ước ấp ủ bấy lâu của nội. Mẹ Thuận đã dọn cơm lên, nhưng ông không ăn, hình như không còn thấy đói là gì, không biết vì giận mẹ hay vì vui với bộ lư đồng.
        Thuận cũng không ăn mà mon men theo nội. Ông đưa tay rờ rẫm từng bộ phận món đồ, nét mặt như giãn ra, thư thái. Bộ đồ đồng không chỗ nào còn ám bụi, vậy mà nội cứ săm soi rồi lau hoài. Hình như được chăm sóc, thậm chí nhọc công về một vật gì mình thích, con người lại thấy sung sướng hơn là được nghỉ ngơi (như sau này Thuận sắm được chiếc xe máy đầu tiên, tối ngày cứ săm soi lau chùi mãi!).
        Thế nên nội lau hoài, lau hoài... Bộ đèn-lư như còn bóng hơn cả lúc mới mua, nếu ai nhìn gần có thể thấy rõ mắt mình từ trong ấy đang chớp chớp nhìn ra, đen láy.
        *
        * *
        Những cái tết tuổi thơ Thuận trôi qua êm đềm như cuộc sống làng quê. Mẹ và các chị thường chạy việc tối ngày. Nhà chỉ còn hai ông cháu lo dọn dẹp, sắp xếp lại mọi thứ để đón tết. Cũng chẳng có gì nhiều, chỉ rong cái hàng rào tre, quét mấy chòm mạng nhện, nhổ mấy bụi cỏ bên hàng vạn thọ trước thềm, vậy mà sao cảnh nhà như mới hẳn ra, sáng sủa hẳn lên. Tết rồi đấy, nội bảo. Ờ, nghĩ cũng lạ, chỉ bớt cái này thêm cái kia cho khác với thường ngày đã là tết. Kỳ diệu mà đơn giản làm sao.
        - À chưa thiệt là tết đâu, còn một việc nữa!- Đang lom khom dọn cỏ nội bỗng nhớ ra.
        - Gì vậy nội?
        - Bộ đèn-lư. Ông cháu mình còn phải chà bóng nữa chớ!
        Thuận biết, chẳng phải đợi đến lúc ấy nội mới nhớ ra, mà từ mấy hôm trước, ông đã đi gom lá thơm, lá me, khế chua... đập dập ngâm nước với bộ đồ đồng để chúng kịp “nhả” lớp bụi thời gian của một năm trời, rồi sau đó hai ông cháu mới dùng tro bếp kỳ cọ cho đến bóng lộn mới thôi. Công việc này không mấy nặng nề nhưng chóng mỏi tay đối với Thuận, thành ra thuở nhỏ trong các khâu chuẩn bị tết, Thuận chán nhất là cái khoản chà đèn. Trong bộ đồ đồng ấy, công việc mà Thuận vừa thấy nhọc lại vừa thích làm là kỳ cọ con kỳ lân. Sau này đi học, có “thuyết” cho rằng đó là con sư tử, và múa lân dịp rằm Trung thu lại được nhà trường gọi là múa sư tử! Thuận thắc mắc, sư tử làm gì phun lửa được như lời ông nội bảo. Với lại trong tứ linh, long và lân là hai loại thuộc về truyền thuyết kia mà? Thôi, ai muốn kéo lân về làm sư tử thì kệ họ, riêng Thuận chẳng muốn theo. Kỳ lân thổi lửa pho pho, ông nội hay nói câu này lắm, cũng như hễ là rồng thì phải biết phun nước làm mưa vậy. Thuận tin điều ấy bằng tất cả sự hồn nhiên trong sáng của tuổi thơ. Vậy nên công việc chà đèn có đôi phần thú vị khi Thuận gọi đó là “tắm lân”. Từ cái vành tai, kẽ mắt, chiếc đuôi đến bộ vó của lân, Thuận say mê, chà xát tỉ mẩn đến sạch bóng. Hai mái đầu một già một trẻ chụm lại kỳ cọ từng kẽ lư, từng vòng đèn mất cả buổi mới xong việc. Khi bày lên tủ thờ, màu đồng của bộ lư đèn tỏa ra một thứ ánh sáng vừa ấm cúng vừa trang nghiêm, làm cho gian nhà trở nên “bề thế” hơn, tạo ra cảm giác có không khí của ngày tết. Quả như lời ông nói, tết vẫn chưa phải là tết khi bộ lư đèn chưa chà xong.
        *
        * *
        - A, cậu út đây rồi, mẹ bảo cậu đưa bộ lư cho tụi cháu mang đi chà máy luôn thể.
        Hai đứa cháu nhìn Thuận chờ đợi. Ngần ngừ giây lát, anh lắc đầu:
        - Thôi, bữa nay rảnh, để cậu chà tay.
        Tụi cháu tròn mắt nhìn anh, không hiểu. Nhưng nhiều việc bận bịu rộn ràng của mùa xuân đang đến đã giục chân chúng chạy đi.
        Thằng con trai mới lên ba bi bô theo anh, lại có vẻ thích thú với cái mớ ngổn ngang đồng thau này. Nó lấy que gõ keng keng lên thành đèn, lên nắp lư rồi cười sằng sặc. Bộ này không có “chức năng” của chuông khánh, vậy mà âm thanh của nó cũng vui tai ra phết, nhưng phải là thằng nhóc lẫm chẫm gõ vào mới rộn ràng giục giã, mới gọi lòng người (nếu tuổi như Thuận mà ngồi gõ thì chẳng ra làm sao!). Nhưng bây giờ tiếng đồng kêu của thằng cu đã lay Thuận về với những ngày bên nội. Lúc ấy anh ngồi chồm hổm, đôi tay đầy tro và lá dập xanh lè, vẫn không quên gõ vào thành đèn khi bên trong khi bên ngoài thau nước : keng . . . keng . . . cạch! Khuôn mặt nhăn nheo của nội bị xẹt đầy nước ngâm! Mẹ Thuận đang theo chảo rim gừng trong bếp, nhìn ra quát: “Cái thằng! Mày phá ông nội quá vậy? Hỗn!”. Thuận lo lắng nhìn nội. Không ngờ ông lại cười dễ dãi, lắc đầu, nói như để cho mẹ Thuận nghe: Không sao, có phá mới có lớn chớ!”. Nội ít nói, mà nói câu nào Thuận thấy cũng hạp bụng mình cả, thiệt là mát ruột. Nghĩ đến đó, Thuận bỗng mỉm cười với thằng con trai. Nó tưởng anh khích lệ lại càng gõ dồn. Không sao, những vật bấy lâu im lìm cũng nên giúp chúng reo vui với đời một chút. Cũng như bộ lư đèn, mọi vật vô tri giờ bỗng như có hồn trước không khí tết. Chúng như bừng thức sau chuỗi ngày bị quên lãng, có đó mà không ai để ý tới vì còn bận nhiều việc phải làm. Giờ đây mỗi thứ đều kêu gọi, mời mọc mùa xuân theo cách của mình, nhắc nhở người ta quan tâm tới chúng.
        *
        * *
        Những năm sau này, Thuận vẫn duy trì việc chà đèn thủ công bằng thuốc tẩy. Nhắc lại chuyện đánh bóng bằng lá cây, bạn bè Thuận giễu: “Ông quê bỏ mẹ, chỉ cần mươi ngàn, thuê máy nó cạo cho một loáng là bóng rạnh”. Thuận chỉ cười, không cãi lại. Chúng nó nói đâu có gì sai, cũng hợp với quy luật phát triển cả mà. Nhưng cái lạ là Thuận thấy mình cũng không sai, không sai nhưng không cắt nghĩa được cho chúng hiểu. À phải rồi, mỗi năm một lần, khi ngồi cặm cụi với bộ đèn lư đón tết, bóng dáng ông nội như vẫn ngồi bên Thuận, lặng lẽ cùng Thuận gột rửa lớp bụi thời gian phủ trên mặt đồng, tìm lại mùa xuân, tìm lại bóng hình bà cố, bóng hình cha Thuận, và bây giờ là bóng hình ông nội... Mà điều này thì mấy ai hiểu. Chỉ có mùa xuân hiểu cho lòng Thuận là ấm áp lắm rồi.
         
        Nguồn: baocantho.com.vn
        #4
          mssthuan 12.03.2007 14:57:16 (permalink)
          Hồn đất
          TRẦM NGUYÊN Ý ANH
           
          Vầng trăng mười sáu đã vành vạnh ở một góc trời. Gió chiều thổi lộng. Cả cánh đồng không còn một vạt lúa, chỉ lỗ chỗ những khoảnh đất vừa được đào lên khảo nghiệm. Không còn cánh đồng cò bay thẳng cánh. Không còn sóng lúa rập rờn... và cây ô môi già mấy chục năm tuổi, dễ chừng gần bằng tuổi ông Tư cũng bị đốn hạ hôm qua rồi. Đám công nhân đã bẻ hết trái, chỉ còn thân cây với những nhánh đen chỏng chơ nằm như một người vừa bị trợt té. Ông Tư đứng trầm ngâm. Gió thổi lộng làm mái tóc sớm bạc của ông lòa xòa thêm. Từ lúc người ta đồn đại đất nhà ông cùng với gần hai mươi hộ gia đình khác sẽ bị giải tỏa để xây dựng một nhà máy đường quy mô, ông đã nghe buồn. Nhưng ông không ngờ công trình lại làm mau đến vậy. Từ lúc mười mấy hộ gia đình nhận được thông báo họp mặt chính thức để chánh quyền công bố lịnh giải tỏa cho đến lúc phải ra đi, thời gian chưa đầy một năm. Bây giờ, nhà ở mới đã xây cất xong. Nhà tường lợp tôn hẳn hoi. Hai thằng con trai ông, mỗi đứa một chiếc xe gắn máy đời mới đàng hoàng. Tụi nó thì vui mừng tở mở, còn ông thì buồn đau đến đứt ruột mà chúng đâu hay. Đứa con gái út đang học lớp mười vui vì nhà đã ở gần trường. Vợ ông cũng tỏ ra nhạy bén không kém mấy người ở chợ. Nhà vừa xây cất xong đã mở liền một quán cà phê. Thằng Hai mau mắn đi rinh về cái máy hát với cặp thùng và suốt mấy ngày liền ông không làm gì được khi bên tai cứ ầm ào tiếng nhạc. Bà Tư có vẻ cũng thông cảm với ông, bà nhỏ nhẻ:
          - Phải ráng thôi ông. Hoàn cảnh bây giờ khác rồi. “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Nắng bề nào che bề nấy”. Ông phải quen đi mới được. Với lại tui với ông bây giờ già rồi, sức đâu làm ruộng nữa. Còn mấy đứa nhỏ, nó sống theo thời, miễn có tiền sống no đủ là được. Ông buồn hoài sanh bịnh còn khổ nữa.
          Ông nghe bà nói một hơi mà không trả lời một tiếng, chỉ lặng lẽ vấn thuốc hút. Từ ngày dọn nhà về đây, ông càng hút nhiều hơn. Buồn thì cứ vấn, cứ hút. Có ngày, ông không ăn được cơm. Con út đi học về phụ với bà bán quán. Khách cũng lai rai đủ tiền chợ. Thằng Hai, thằng Ba sáng xách xe ra chợ kiếm khách. Chạy xa chưa dám vì chưa quen đường lại chưa có bằng lái, tụi nó chạy gần. Mỗi ngày phụ thêm tiền gạo. Ông thấy mình là người dư thừa ra trong cái nhà nầy. Loanh quanh, luẩn quẩn ông đi kiếm tre làm một mớ cần câu cắm và bắt đầu với công việc mới của mình. Bà Tư biết chồng buồn nên thông cảm. Sáng ra, bà dậy sớm bắc nồi cơm lên bếp. Quán dọn xong thì cơm chín. Ông không ăn sớm nên giở cơm theo. Buổi trưa, ông tìm một chỗ ngồi. Nước trà nguội ngắt nhưng cũng không sao. Quan trọng là ông đã tìm lại được cái không khí của mình, tìm được cái khoảng không quen thuộc từ khi ông còn là một thằng nhỏ chăn trâu. Từ cánh đồng, con sông tới những chiếc cầu khỉ, cầu ván ông đã thuộc nằm lòng. Chỗ nào nước cạn, chỗ nào nước sâu. Chỗ nào nhiều cá, chỗ nào có tôm cua ông đều biết rõ. Nhà nghèo, hồi nhỏ ông không được đi học, ông đi giữ trâu cho nhà Sáu Đảnh, người khá nhứt trong xóm. Rồi lớn lên, ông cưới vợ. Vợ chồng siêng năng tằn tiện mua được mấy công ruộng, sắm được đôi trâu. Đời ông còn mong gì nữa. Ba đứa con ông đều được đi học. Thằng Hai tới lớp bảy thì cà trật cà vuột đòi thôi. Kệ nó, lớp bảy cũng được. Cũng hơn ông rồi. Nó làm ruộng giỏi và phụ được ông. Thằng Ba hơn anh nó, tới lớp chín, cũng nghỉ. Nó lại giỏi bắt cá, bắt cua. Ông thấy đời mình cũng đỡ vất vả rồi, còn mong gì nữa. Ba mươi mấy tuổi mới lấy vợ. Bây giờ, chỉ mong con nó có đôi có bạn để mình có cháu bồng ẵm cho vui tuổi già. Thằng Hai đã hai mươi hai mà cứ trắm trơ trắm trất ra đó. Ông biểu coi chỗ nào được thì cưới để có con. Nó cười: “Ba mua cho con chiếc xe còn có lý hơn”. Ông đâm quạu: “Mua xe rồi nó đẻ con cho mầy chắc? Bao nhiêu tuổi rồi mà chưa biết lo liệu chuyện gia đình!”. Nó cười chọc ông “Hồi đó, ba cưới má không phải tới hai mươi bốn tuổi sao? Con mới hai mươi hai mà sợ nỗi gì!”. Ông đuối lý nhưng cũng chống chế: “Hồi đó tao nghèo, đi làm kiếm ăn còn khó, nói gì tới vợ con. Còn bây giờ, tao có tiền lo, mầy sung sướng quá rồi có biết gì đâu!”. Ông nói rồi lại buồn. Năm mươi sáu tuổi rồi còn gì. Mấy người bạn đã một bầy cháu chớ ai như ông. Cũng may, tụi nó biết phụ cha mẹ kiếm tiền, chớ nếu tụi nó lại cờ bạc rượu chè hư thân, chắc ông còn khổ nữa. Ông đi cắm câu tưởng để khuây khỏa mà lại hay. Cá đem về ăn không hết lại bán cho lối xóm. Ông ra đi từ sáng. Siêng thì ở tới chiều. Bữa nào thấy uể oải thì về sớm. Từ ngày bắt đầu đi câu, ông đã tránh không đi về phía đất nhà cũ của mình. Ông không muốn nhìn thấy cảnh cũ mà thêm đau lòng. Nhưng hồi đêm nầy, ông mơ một giấc mơ lạ lắm: ông thấy mình đánh trâu cày trên đất cũ. Đằng kia, bà Tư đang cho gà ăn. Nhưng bà bỗng xa dần xa dần. Ông chạy theo, bà cứ như một làn khói... biến đi. Ông la ơi ới, tay ông đập mạnh trúng vô vách tường, đau điếng và ông choàng tỉnh. Bà Tư từ trong buồng đi ra. Bà mở công tắc đèn và thấy ông Tư ngồi chình ình trong mùng.
          - Ông thấy gì mà mớ dữ vậy?
          Bà vừa nói vừa rót cho ông ly trà nguội. Cả nhà đều thức. Thằng Hai chọc ông:
          - Ba thấy ăn trộm hả? Sao ba la lớn quá vậy? Ba đập muốn bể tường luôn kìa. Ông đón ly nước từ tay bà Tư uống cạn rồi lại ra ngoài đi tiểu.
          - Thôi! Có gì đâu, ngủ đi! Bà Tư vừa trở vô trong vừa biểu mấy đứa nhỏ đi ngủ. Con Út nằm thỏ thẻ:
          - Chắc tại ba đi suốt ngày mệt quá nên mớ. Má nói với ba đi một buổi thôi, dang nắng tối ngày rồi bịnh.
          Bà Tư nằm gác tay lên trán mà thấy thương chồng quá. Thôi thì tìm cách xoay xở kiếm lại một miếng đất cho ông, không chừng ông lại vui.
          * **
          Bà Tư âm thầm thực hiện ý định của mình. Tiền bồi thường còn dư một ít bà vẫn dành khi hữu sự. Còn số nữ trang của bà với con Út cũng bộn chớ, mà toàn là vàng 24. Bà không thích vàng 18, theo cách nghĩ của bà, rủi ro cần thiết thì không xài được. Bà nhờ Năm Miên, người em bà con dò hỏi giùm. Đất bây giờ hơi mắc, nhưng đất ruộng vẫn chưa mắc lắm, kiếm lại cho ổng có bùn mà lội, chắc ổng hết buồn. Bà mua lại được hai công đất ruộng hơi xa nhà một chút nhưng nghĩ tới nỗi vui mừng của ông, bà lại thấy vui lây. Bữa nay ông đã đi suốt ngày chưa về. Bà định chồng tiền xong mới nói để ông bất ngờ.
          Ông Tư đi suốt ngày và cá cũng nhiều lắm. Lúc ông vừa định quay về thì nhìn thấy mặt trăng. Trời đất! Sao trong đời ông, đã bao nhiêu lần ngắm trăng mà ông có thấy nó đẹp như vầy đâu. Thêm nỗi, cả cánh đồng cứ trơ trơ ra đó, nham nhở như một chiếc chiếu đã nhàu nát. Ông lại thấy tội nghiệp mặt trăng. Nó cô đơn quá! Cô đơn cũng như ông. Ngày xưa đâu vậy, trăng mọc thì gió hây hây, sóng lúa rập rờn... Lúa chín thì thảm lúa vàng. Mạ còn xanh non thì cả cánh đồng nõn nà như con gái vừa mới lớn. Đâu như bây giờ, nó chẳng còn nơi còn chốn để khoe vẻ đẹp mà tạo hóa đã khéo ban cho. Ông Tư thẫn thờ đứng ngắm trăng như một họa sĩ đang say sưa ngắm nhìn tác phẩm của mình. Ông nhớ lại từ chặng đời ông đã sống, đã lớn lên như thế nào trên mảnh đất này. Nhớ cái ngày mua được hai công ruộng đầu tiên, ông đã móc một nắm đất trên tay mà đưa lên mũi. Cái mùi bùn cũng quen thuộc như mùi rơm rạ trong sân. Rồi mấy công ruộng kế tiếp, rồi đôi trâu. Ông đã rớt nước mắt ngày người ta tới dắt tụi nó đi. Hai con trâu cố ghì dây gàm lại, tụi nó cũng đâu muốn xa ông. Ruộng đất đã không còn thì để trâu lại làm gì. Ông bất chợt thở dài khi nhớ lại mấy ngày trước lúc ông tình cờ đi ngang chỗ người chủ mới đang cày. Đôi trâu nhìn ra ông, tụi nó rống lên mấy tiếng nghe buồn quá! Ông cắm đầu cắm cổ bước mà nghe mắt cay cay.
          Trời đã thẫm màu, trăng đã lên cao hơn, gió lồng lộng thổi. Ông Tư ngồi phịch xuống đất, cái giỏ cá và mấy cần câu ông đặt kế bên. Ông móc thuốc ra vấn rồi cứ vậy mà ngồi ngắm trăng, quên cả việc về nhà, quên cả bà vợ hiền đang thắc thỏm chờ ông bên mâm cơm đã nguội lạnh.
          Bà Tư thấy trời đã tối mà ông Tư vẫn chưa về, đâm lo. Thằng Hai vừa dừng xe trước nhà bà đã biểu:
          - Chạy đi kiếm ba mầy coi, sao tới giờ nầy chưa về, không biết có chuyện gì đây!
          - Chắc ba ghé nhà ai đó nhậu nhẹt chút thôi, có gì đâu mà má lo, lớn rồi đi lạc đâu mà sợ.
          - Mầy còn ở đó nói chơi. Ba mầy lúc nầy lạ lắm, tao hổng lo sao được.
          - Thôi thì để con đi.
          Thằng Hai vòng xe lại, nó nghĩ thế nào mà lại chạy về hướng đất cũ. Ông Tư đã vấn tới điếu thứ năm rồi. Ông hút thì ít mà gió thổi làm cháy thuốc thì nhiều. Cây ô môi nằm chỏng gọng làm ông buồn không ít. Lúc nhỏ, ông cùng mấy đứa bạn chăn trâu đã coi nơi này là điểm hẹn. Cả đám cột trâu lại rồi chơi đánh nhau. Bẻ cọng u du làm đạn bắn bằng những sợi dây thun thắt lại thành bím. Cọng u du nhỏ vậy mà với tốc độ bay nhanh, khi trúng vô mặt thì đau thấu trời thấu đất chớ vừa đâu. Cây ô môi như một vị thần đã uy nghi đứng đó hằng mấy chục năm rồi. Bây giờ thần lại nằm chỏng gọng thật đau lòng. Ông Tư nghe như mình đã mất đi cái gì đó trong lòng. Cái mất không nhìn thấy và không giải thích được. Thằng Hai đã nhìn thấy ông từ đằng xa. Nó cũng hiểu được nỗi buồn của ba nó nhưng nó không đồng cảm. Có gì đâu mà tới như vậy. Lội ruộng cực khổ muốn chết mà lại ham. Về chợ ở, chưn giầy chưn dép chẳng sướng hơn sao. Nó dựng xe rồi đi về phía ông. Ông Tư vẫn chưa hay thằng Hai tới, ông vẫn trầm ngâm lắng nghe hơi thở của đất trời chan hòa trong cõi mênh mông tịch lặng.
          - Ba ơi! Về thôi, má chờ ba từ chiều tới giờ, má lo lắm!
          Ông Tư như vừa bị kéo về thực tại. Thằng Hai đã tới bên và nắm lấy tay ông. Hai bàn tay ông lạnh ngắt. Nó cũng thấy sợ. Đúng là ba nó lạ quá! Nó đâu hiểu được cái hồn của đất đai đã thấm đẫm đời ông. Chỉ có ai lớn lên từ đất mới hiểu được nỗi đớn đau đến dường nào khi phải xa nó.
          * * *
          Ông Tư nằm vùi luôn mấy ngày và thỉnh thoảng lại mê sảng. Những người nhẹ dạ, mê tín thì cho là ông bị quở vì đã xúc phạm tới những vong hồn lúc ông lang thang trên những cánh đồng từ tờ mờ sáng đến tối. Bà Tư thì hiểu ông đang mắc tâm bịnh. Sáng nay, bà nấu xong nồi cháo rồi múc ra tô, để trên bàn và khẽ khàng:
          - Ông dậy rửa mặt rồi ăn cháo. Bữa nay có vợ chồng Năm Miên qua chơi, ráng tỉnh táo chút đi.
          Ông Tư giựt mình, vợ chồng Năm Miên ít tới lui nhà ông, bữa nay lại tới, có chuyện gì đây. Ông xuống nhà dưới rửa mặt rồi trở lên. Bà Tư đã xếp xong mùng mền và rót sẵn cho ông ly nước. Ông Tư ngồi xuống ghế, nhắp một ngụm trà rồi chậm rãi:
          - Vợ chồng Năm Miên có chuyện gì mà qua đây?
          - Thì chút nữa ông biết, gấp gì. Ông ăn cháo đi cho khỏe.
          Thằng Hai vừa dừng xe trước nhà. Hai người khách bước xuống xe. Ông Tư nhìn thấy vợ chồng Năm Miên xăng xái bước vô. Năm Miên lên tiếng trước:
          - Anh bịnh gì vậy anh Hai (Bà Tư vốn thứ Hai, thứ Tư là thứ của chồng)? Bữa nay tui trị cho dứt luôn nghe!
          Ông Tư ngơ ngác vẫn chưa hiểu điều gì. Thằng Hai dựng xe xong đã tới sau lưng bà Tư:
          - Má nói mau đi cho ba mừng đặng hết bịnh.
          Bà Tư chưa lên tiếng. Năm Miên vừa kéo ghế ngồi vừa mau mắn:
          - Bữa nay tui qua lấy tiền đất. Tui sang lại cho chị Hai hai công ruộng đầu hồi. Chị Hai thấy anh cứ buồn bã hoài nên mua ruộng để anh lội cho vui vậy mà.
          Ông Tư chầm chậm đặt ly trà xuống bàn. Ông nhìn vợ, người vợ hiền từ bao năm nay đã là người hiểu ý ông nhứt và cũng là người đã kề vai chia sẻ bao nhiêu khó khăn vất vả từ ngày lấy ông. Ông bỗng nhớ lại cái ngày đầu tiên ông mua được ruộng và cái mùi bùn ngay ngáy lại phảng phất đâu đây.
           
          Nguồn: baocantho.com.vn
           

          #5
            mssthuan 12.03.2007 15:02:56 (permalink)
            Tiếng sáo vui của ông già mù
            DIỆP HỒNG PHƯƠNG
             
            Gió chướng thổi mạnh hơn thường ngày. Bụi và mấy miếng giấy vụn, bao nhựa cuốn bay theo hè phố đông người. Nắng chiều vàng rực nhưng không chói chang dễ gợi nỗi buồn cho người xa xứ.
            Sắp Tết rồi!
            Bên lề đường, cạnh ngôi đình Ngọc Hoàng cổ xưa có hai ông bà già ngồi trầm tư. Bằng đôi mắt buồn, bà già nhìn chợ Tết đang diễn ra với các cửa hàng bán nhiều hàng hóa, bánh mứt; với hàng dưa hấu bên kia đường, điểm bán hoa và trái cây như khóm, mãng cầu để chưng bàn thờ; sạp gỗ nhỏ treo đầy giấy lì xì, liễn, câu đối đỏ.
            Còn ông già với cây sáo trúc và đôi mắt mù nên không thể nhận diện đường phố những ngày giáp Tết mà ông lắng nghe bằng đôi tai mớ âm thanh ồn ào, lộn xộn của góc phố quen thuộc... Rồi ông nhận ra ngoài tiếng ồn của xe cộ, của tiếng kèn xe, tiếng nhạc xập xình từ quán cà phê gần đó... còn có thứ âm thanh khác dễ chịu hơn, cuốn hút hơn: “Hàng giảm giá bà con ơi. Mười lăm ngàn áo sơ mi, hai chục ngàn quần dài... Tết tới rồi”. Tiếng rao hàng xuất phát từ anh thanh niên đổ quần áo ra bán xổ gần đó.
            - Người ta bán quần áo gì vậy bà?
            -Ông già mù mân mê cây sáo trúc hỏi. Nhìn đôi mắt ông trắng dã không biết ông đang vui hay đang buồn.

            - Đồ Sida – Bà già tỏ ra rành rẽ mọi chuyện diễn ra trên lề đường.
            - Là đồ gì? Sao bán rẻ vậy?
            - Ờ! Quần áo đẹp mà ế, bán rẻ cho hết...
            - Phải chi... - Ông già mù nói được hai tiếng thì ngập ngừng rồi lặng im. Ông thở dài thật khẽ...
            Bà già day lại nhìn ông bằng đôi mắt tội nghiệp nhưng đầy cảm thông. Trong thâm tâm bà cũng muốn mua cho ông một bộ đồ mặc vào Tết nầy. Đồ cũ của ông đã rách, vá víu nhiều chỗ. Nhưng nói là giảm giá mà quần áo đó vẫn còn mắc so với mấy đồng tiền kiếm được nhờ vất vả ăn xin của ông. Bà già nghĩ bụng sẽ dè xẻn hơn để làm vui lòng người bạn già không có chút ánh sáng trong cuộc đời. Còn bây giờ thì... Bà già lắc vai ông nói:
            - Mình đi ông ! Xế chiều... lâu rồi.
            Bà già lết ra sau lưng ông già mù. Lúc nầy mới thấy hai chân của bà không đi được, nó bị teo rút. Ông già ngồi xổm lưng lấy thế cho người bạn già chồm lên lưng mình. Ông đứng lên cõng bà dò từng bước đi dọc theo hè phố dần tắt ánh nắng chiều.
            Cõng người bạn già nhẹ tênh trên lưng, ông già lần bước theo sự chỉ dẫn của bà. Rồi họ dừng lại bên một góc phố đông người. Bà già ngồi dưới đất, ông già đứng thẳng người bắt đầu thổi sáo. Hai bàn tay với những ngón tay khẳng khiu nhỏ xíu của ông như nhảy nhót trên mấy lỗ sáo tròn. Từng chuỗi âm thanh nhẹ như gió thoát ra. Tiếng sáo trúc của ông già mù bay khắp phố xuân, lúc dìu dặt, lúc du dương, khi trầm khi bổng buồn bã làm sao.
            Người buôn bán dọc hai bên hè phố quá quen thuộc với hình ảnh hai ông bà già ăn xin nầy. Ông già mù còn đôi chân, bà già què còn đôi mắt sáng. Họ nương tựa nhau đi xin, nương tựa nhau ăn gởi nằm nhờ bên đình Ngọc Hoàng, tuy hai nhưng chỉ là một. Và có một điều mà nhiều người chưa biết về họ. Họ không phải là vợ chồng mà chỉ là bạn. Gió bụi phố phường đưa đẩy họ tới gần nhau, dựa vào nhau để sống nốt những ngày cuối cuộc đời.
            * * *
            Chiều ba mươi Tết. Phố phường vắng vẻ. Mấy sạp hàng cuối cùng đang được dọn dẹp. Mấy chị công nhân đang quét rác, xe đi lấy rác lăn bánh chầm chậm theo lề đường. Vài chiếc xe gắn máy chạy qua. Mấy cánh chim én chao lượn trên đường nhựa rồi vọt lên đảo quanh mái nhà.
            Gió chướng thổi qua hè phố xôn xao nỗi buồn...
            - Tết, cậu... về quê hả? - Bà già què hỏi cậu thanh niên bán quần áo Sida đang sắp xếp quần áo lại để dồn vô cái bao nhựa. Ông già mù ngồi cạnh bên bà nghiêng nghiêng cái đầu dường như muốn lắng nghe.
            - Dạ không! Quê cháu ở đây! - Anh thanh niên bán đồ Sida trả lời, tay vẫn tiếp tục gom áo quần lại xếp sơ sài rồi nhét đại vô bao. Cậu ta chợt hỏi - Còn hai ông bà, nhà cửa ở đâu?
            - Kia cà! - Bà già hất đầu về hướng đình Ngọc Hoàng - Tối nào tui với ổng cũng ngủ ở trỏng. Khuya nay giao thừa người ta đi cúng đình nhiều, chắc kiếm ăn được.
            - Tết, người ta ăn xài rộng rãi hơn ngày thường - cậu thanh niên nhận xét - Hàng hóa cái gì cũng lên giá mà bán như tôm tươi. Chỉ có đồ Sida thì... giảm giá mà... còn ế!
            Nghe vậy, bà già vội lên tiếng:
            - Có bộ nào... rẻ hết sức rẻ không cậu? Tui muốn “sắm” cho ổng một bộ... mặc Tết !
            - Ông già mặc đồ Sida... coi mắc cười lắm ha! – Nghe hỏi vậy, cậu thanh niên cười khà, đùa vui – Quần áo loại nầy của người trẻ tuổi như tụi cháu mặc. Cỡ ông già thì...
            - Thây kệ! Miễn đồ mới... - Bà già thở ra.
            - Ờ! Tui mặc gì cũng được mà... - Lúc nầy ông già mù mới lên tiếng.
            Nghe ông nói, giọng run run, cậu thanh niên biết ông đang mang niềm hy vọng, như trẻ con, sẽ có bộ quần áo tươm tất hơn các bộ đồ mà ông đã mặc. Cậu ta nhìn ông rồi trút hết quần áo trong bao ra. Bà già lết lại gần cùng với anh thanh niên xốc mớ quần áo lên lựa đồ cho ông già mù.Một cái quần dài màu nâu, một chiếc áo sơ mi màu trắng mỏng dính. Chỉ có bộ nầy là hợp với ông già. Ông già đưa hai bàn tay sờ mó bộ đồ mới. Nói là đồ Sida nhưng nó còn lành lặn, vải mới còn kêu sột sột và nghe thơm mùi vải... Ông khẽ gật đầu, ưng bụng lắm.
            - Ông già biết bài “Ly rượu mừng” không? Thổi bài đó nghe chơi. Còn bộ đồ nầy... cháu tặng ông!
            - Ý đâu được cậu- Bà già mừng lắm nhưng thấy ngại - Tui hỏi mua mà... Mắc rẻ gì cũng mua...
            Nhét bộ đồ vô tay ông già, cậu thanh niên giục ông thổi sáo:
            - Thôi mà. Nói tặng là tặng! Thổi bài đó... đi “bố”!
            Ông già mù lúng túng một hồi mới nâng cây sáo trúc lên. Ông dò mấy ngón tay định vị trí trên lỗ sáo rồi đưa cây sáo lên môi. Ông làm công việc nầy hết sức nghiêm túc. Đây là một bài nhạc dù đã xưa nhưng rất hay và ông thổi bài nầy để tặng một người tốt bụng.
            Bài nhạc được ông diễn tấu trong tâm trạng hân hoan, vui mừng và tràn đầy hy vọng. Cậu thanh niên hát khẽ theo tiếng sáo của ông trong lúc thu dọn quần áo nhét vô bao. Còn bà già què, bà vẫn ngồi bên hè đường nhìn qua dãy phố đối diện, đôi mắt vô hồn.
            * * *
            Đêm giao thừa.
            Đình Ngọc Hoàng tràn ngập khói nhang. Người đến cúng đình rất đông. Họ thắp những bó nhang lớn với tàn nhang đỏ rực. Họ bỏ tiền thật ra mua tiền giả, rồi đốt.
            Ngay cổng chính vào đình, bà già què ngồi dưới đất chìa chiếc nón lá ra cầu xin: “Ông đi qua, bà đi lại thí chút lòng thương”.
            Còn ông già mù thì khác.
            Ông già với bộ đồ Sida còn mới, đứng cạnh cổng đình say sưa thổi sáo. Ông thổi lại nhiều lần bài nhạc mà hồi chiều cậu thanh niên bán đồ Sida yêu cầu. Đó là bài nhạc về mùa xuân đầy tin yêu, hy vọng; bài nhạc đã khiến ông cảm thấy cuộc đời nầy-dù sao đi nữa- cũng rất đáng yêu, đáng sống...
             
            Nguồn: baocantho.com.vn
            #6
              mssthuan 12.03.2007 15:11:36 (permalink)
              Ông lão nằm viện
              NGUYỄN TRỌNG HOẠT
               
              “Anh Năm ơi ! Mẹ bệnh nặng, nhập viện Hương An rồi, anh về ngay đi!”. Giọng thảng thốt của em gái trong ống nghe khiến tôi đứng sững với nỗi lo chợt đến. Sau khi gặp anh trưởng phòng xin nghỉ, tôi hộc tốc lao xuống cầu thang, thẳng đến nhà để xe máy. Chỉ kịp ghi lại mấy chữ cho vợ để trên bàn ăn, tôi vơ vội bộ đồ nhét vô túi xách rồi lên xe, vù ga.
              Đập vào mắt tôi toàn màu trắng đến lạnh người. Từ tường và trần nhà đến ra, gối, nệm và cả những bộ đồ của bệnh nhân tuyền một màu tinh khiết. Tôi thở phào, lấy lại bình tâm khi biết huyết áp mẹ tôi đã được chế ngự. Ngồi bên mẹ, canh bình đạm chầm chậm nhỏ giọt, tôi lặng lẽ nhìn quanh. Buồng bệnh nhân có bốn giường. Nằm đối diện với mẹ tôi là cụ bà chín hai tuổi, đang kéo dài sự sống nhờ bình ôxy. Phía cửa ra vào là cậu bé với cái chân bó bột trắng toát, gác trên thành giường; cạnh đó là giường của ông cụ có nước da mai mái, với đôi chân đã bắt đầu phù lên. Ông rên khe khẽ, chốc chốc lại phều phào gọi người nhà.
              Buồng bệnh mất sự tĩnh lặng vốn có khi con gái, con rể và hai cháu ngoại của bà cụ chín hai tuổi tới thăm. Qua nghe chuyện và cả giọng nói, tôi biết họ vừa từ miền trong về, xuống xe đò và bắt xe ôm tới bệnh viện luôn. Người con gái ấp bàn tay mẹ trong tay mình, cúi xuống ghé vào tai mẹ gọi những lời thân thương. Bà cụ vẫn nhắm mắt, đáp lại lời con là những nhịp thở khó nhọc. Người con gái ngồi bần thần, buồn rầu nhắc lại kỷ niệm trong lần gặp mẹ hồi năm trước rồi quay đi, lén giấu những giọt nước mắt. Có lẽ chưa dự cảm được điều đáng sợ nhất đang đến với bà, hai cháu gái cứ tía lia hỏi về sức khỏe của ngoại. Sự cả nể ngăn tôi có lời nhắc hai cháu nhưng ông cụ nằm cùng phòng thì khác. Ông kêu lên, vẻ bực tức: “Nói gì to dữ vậy?!”. Im lặng được vãn hồi và tôi chú tâm tới ông từ đó.
              Hỏi chuyện khi cùng ngồi trên ghế băng ngoài hành lang, tôi biết người cháu nội của ông cụ tên Hiệp. Hiệp đang học năm thứ tư đại học bách khoa, vì ông ốm nên đành lỡ hẹn với những hoạt động hè “sinh viên tình nguyện”. Những đêm mất ngủ khiến khuôn mặt trẻ hốc hác, đôi mắt thâm quầng cùng dáng vẻ uể oải. Ngồi chưa nóng chỗ, Hiệp đã phải đứng lên, khi thì cho ông uống nước, uống thuốc, lúc đỡ ông ngồi dậy hoặc xoa bóp rồi thay đồ, đổ bô. Hiệp làm những việc đó nhuyễn như một hộ lý và kiên trì đến đáng nể.
              Khoảng mươi lăm phút, ông cụ lại bảo Hiệp đỡ ngồi dậy. Mỗi lần như thế, ông nhăn nhó rên rỉ, cứ như toàn thân bị đau đớn. Đốt chưa tàn điếu thuốc, ông đã bảo cháu đỡ nằm xuống, lại rên la như bị cực hình. Cái điệp khúc ngồi lên nằm xuống đồ chừng không dày bằng nhu cầu tiểu tiện của ông cụ. Mỗi khi thấy ông nghiêng người, đưa tay xuống quần là Hiệp nhanh chóng lấy bô rồi cầm tấm chăn căng ra che cho ông. Không thấy Hiệp trong chốc lát, ông đã gọi, có khi chỉ vì “sao ông thấy vắng vẻ quá!”. Những lần không có cháu, ông không ngần ngại vẫy tôi lại, nhờ việc gì đó; nhờ nhưng nếu làm trái ý, ông cũng chẳng khách sáo: “Sao lại thế này?!”. Hiệp rỉ tai tôi, giọng hệt như của cậu bé đang học mẫu giáo “Lúc bình thường, ông cháu dễ thương lắm, chú ạ”.
              Mũi thuốc giảm đau cùng cơn mưa cuối ngày hình như làm ông cụ dễ chịu. Bằng chứng là từ tối ông không còn rên la và trở mình vật vã. Nghe tiếng thở đều đều báo hiệu giấc ngủ mong đợi đã đến với ông và nhìn Hiệp ngon giấc trên ghế xếp cạnh đó, tôi cảm thấy nhẹ lòng. Tầm ba giờ sáng, ông cụ thức, khó nhọc chống tay ngồi dậy. Ông cầm khăn mặt, cúi xuống xua đám muỗi đang vây lấy đứa cháu rồi ngồi lặng nhìn ánh trăng ngời ngợi ngoài ô cửa. Trăng lung linh trên những vòm lá trong khuôn viên bệnh viện đang hả hê sau trận mưa rào. Nét mặt tươi tỉnh bỗng hiện nỗi lo bất chợt, ông cụ xuýt xoa giữa trời: “Chà, bọn trẻ chất rơm kịp không hay là ướt nhẹp cả rồi?!”. Không cau có, khuôn mặt ông cụ phúc hậu vô cùng. Ông tựa lưng vào tường, hết nhìn khoảng đêm lại nhìn đứa cháu, mắt buồn rười rượi. Ông nghĩ gì mà trầm tư trước một ngày mới đang đến?
              Ông vừa xong bữa sáng với mấy thìa cháo thì chị gái Hiệp cùng bạn trai tới “thay ca”. Chỉ lên mấy bịch sữa tươi, nước yến và trái cây để trên tủ nhỏ sát đầu giường, ông bảo Hiệp đem về phân phát cho các cháu ở nhà. Chàng trai bảo đừng; khuyên ông chịu khó ăn uống để hồi phục sức khỏe. Nhưng cậu không thể trái ý ông, sau lời trách xót xa: “Cháu sao lại cãi ông nhem nhẻm thế kia?!”.
              Không biết do cháu gái khéo chiều hay cơn bệnh tạm thời “hưu chiến” mà ông cụ bất ngờ dễ tính, ít “yêu sách” hẳn. Nhìn cháu lăng xăng, làm không ngơi tay, ông tỏ vẻ ái ngại “vì ông mà các cháu vất vả quá!”. Rảnh rỗi, cô cháu ngồi tỉ tê, trò chuyện. Giọng con gái dễ thương chắc tác dụng không kém những liều thuốc giảm đau ông vẫn được chích. Khi bạn trai của cháu chào để về, ông bảo cháu đỡ ngồi dậy. Thoáng chút đắn đo rồi ông hỏi thẳng: “Hai cháu quen nhau đã lâu, thế định bao giờ... tổ chức?”. Cô gái ngước nhìn chàng trai chờ đợi. “Thấy ông yếu nên tụi con chưa dám nghĩ đến chuyện vui, ông ạ”. Ông cụ đưa bàn tay run run nắm lấy bàn tay chàng trai, giọng rời rạc nhưng rõ ràng: “Các cháu đừng vì ông mà lỡ chuyện của mình - Ngừng, thở dồn dập một hồi, ông tiếp - Nếu ông có “ngủ” các cháu cũng đừng câu nệ, đừng chờ đến mãn tang...”. Ông cụ chưa nói hết, cô cháu om lấy ông, khóc. Nhưng ông vẫn cố nói tiếp điều đang nghĩ: “Con gái có thì, cháu ạ”.
              Quá ngọ, bố cô gái đến thay con, chăm sóc cha. Ông cụ luôn miệng hỏi con trai chuyện nhà, chuyện xóm. Ông sửng sốt, hỏi dồn khi biết một người ở cạnh nhà vừa mất vì tai nạn xe máy. Người con vỗ về: “Thôi, ba nghỉ cho khỏe”. Ông cụ gác tay lên trán, nằm im. Chốc chốc, sực nhớ điều gì, ông lại nhỏm dậy, nói với con. Ông bảo, sao không kiến nghị để người ta sớm hoàn thành con đường ngang qua làng; cứ để đường nham nhở, sống chung với bụi đến bao giờ. Ông lại dặn: cải tạo vườn tạp nhưng nhớ để lại mấy bụi tre, vườn quê mà không có tre thì còn ý nghĩa gì !? Người con liên tục vâng, dạ và khuyên cha “đừng nghĩ đâu đâu nữa”.
              Buổi chiều, khi bác sĩ đến khám bệnh lần thứ hai trong ngày, ông cụ bất ngờ quyết định xin ra viện. Anh con trai cùng những người trong phòng, kể cả bác sĩ xúm vào ngăn nhưng không chuyển được ý ông. Người con băn khoăn: “Hay con cháu đã làm gì khiến ba không vui?”. Ông xua tay. Người con kiên trì năn nỉ cha đổi ý, với cái lý “còn nước còn tát”. Giọng ông cụ buồn buồn: “Ung thư dạ dày thì khỏi sao được, hả con?!”. Người con giật mình, hốt hoảng: “Ai bảo ba vậy?”. “Ba biết rồi, đừng giấu nữa!”. Im lặng. Người con bối rối quay đi. Ông cụ rầu rầu giảng giải: “Ba nằm đây, cả nhà phải khổ nhưng bệnh thì không khỏi, phỏng ích gì? Nhà dồn hết tiền lo cho ba, rồi ăn, học bằng gì? Vả lại các con, các cháu còn đi học, đi làm, không thể suốt ngày trực ở bệnh viện - Ông kết thúc - Ba không đành lòng nằm mãi ở đây. Thôi, đưa ba về, được ngày nào hay ngày đó, con ạ”. Người con đứng lặng, không giấu được nước mắt.
              Hôm sau, chờ cháu thanh toán viện phí xong, ông cụ về. Cứ nghĩ tạm biệt cũng đồng nghĩa vĩnh biệt người bệnh già chưa kịp biết tên, tôi cảm thấy nao lòng. Trước khi được dìu ra xe tắc-xi đỗ sát cửa, ông cụ bảo Hiệp lấy đường sữa và mấy trái cam cho cậu bé gãy chân nằm cùng phòng. Ông đưa tôi hai tờ báo Sức khỏe và Đời sống: “Trong này có mấy bài thuốc Nam của Giáo sư Đỗ Tất Lợi hay lắm, cháu xem đi”. Tôi rưng rưng, nắm chặt bàn tay gầy, ấm áp.
              Ông cụ đi rồi, một góc phòng bỏ trống. Tôi ngẩn ngơ, chốc chốc lại nhìn vào khoảng trống ấy.
               
              Nguồn: baocantho.com.vn
              #7
                mssthuan 12.03.2007 15:16:54 (permalink)
                Thầy trò
                NGUYỄN NGỌC TUYẾT
                 


                Buổi lễ mừng Ngày Nhà giáo 20-11 vừa bắt đầu chưa đầy nửa tiếng, học trò đã chộn rộn, ồn ào bên dưới. Thầy giáo điều khiển chương trình đã mấy lần nhắc nhở mà cũng như không. Bọn học trò đúng là càng ngày càng vô kỷ luật, càng thiếu ý thức tự giác. Cứ mỗi lần tổ chức lễ lạt ở sân cờ là phải la rầy chúng bở cả hơi tai. Chợt, trong đám thầy cô ngồi trên lễ đài có ai đó buột miệng:
                - Thầy Nguyện đâu rồi? Nhờ thầy Nguyện dẹp yên bọn học trò đi! Thầy Nguyện đâu?
                Lại có ai đó nói nhỏ:
                - Suỵt! Đừng la lớn. Thầy Nguyện có còn dạy thể dục nữa đâu mà lo việc ổn định trật tự, nề nếp này.
                Đúng rồi! Hình như mọi người đều quên hay có lẽ chưa quen với việc thay đổi công tác của ông thầy dạy thể dục. Mới năm trước thầy Nguyện đã lên thư viện làm phụ tá cho cô Lý, quản thủ thư viện rồi còn gì. Vậy mà, cứ mỗi lúc học trò “dậy giặc” lên như hôm nay, cái tên thầy Nguyện vẫn thường được nhắc tới. Cũng dễ hiểu thôi, thầy Nguyện vốn rất có uy với học trò, không chỉ trong môn thể dục thầy dạy suốt mấy mươi năm nay mà còn do cách thức giáo dục kỷ cương, nề nếp của thầy ở mọi lúc, mọi nơi. Bởi thế từ khi thầy lên thư viện, mỗi buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, mỗi kỳ lễ lớn, cả trường vẫn cảm thấy sự thiếu vắng con người “hét ra lửa” khiến bọn học trò phải răm rắp nghe theo ấy. Như buổi sinh hoạt sáng nay vậy, “giá như thầy Nguyện ra tập hợp học sinh rồi đi tới đi lui quanh sân trường nãy giờ thì đỡ biết mấy”, không ít bạn đồng nghiệp của thầy lúc này đang nghĩ thế!
                Mà ông thầy dạy thể dục cũng có muốn lên thư viện làm bạn với sách vở đâu. Thầy đã từng than thở khi chuyển công tác:
                - Thiệt tình, tôi mà lên thư viện thì sách nó không “quen” tôi mà tôi cũng không “nhìn” ra nó. Hồi nào giờ tôi có thích đọc sách đâu, chỉ toàn coi báo thể thao không thôi.
                Giờ thì thầy Nguyện đang ngồi ở thư viện của trường. Thầy đang sắp xếp lại các loại sách tham khảo, sách giáo khoa theo phân loại của cô Lý. Lẽ ra thầy cũng xuống sân dự lễ, Ngày Nhà giáo mà, nhưng trong lòng thầy sao cứ man mác buồn. Mình có còn học trò nữa đâu mà ngồi trên lễ đài! Một lát nữa khi từng đám học sinh lên tặng hoa cho các thầy cô chắc gì mình không chạnh lòng. Thôi thì vào đây làm việc còn tốt hơn.
                Có tiếng chân bước lẹp xẹp trên cầu thang. Ai mà lên đây giờ này vậy kìa. Quay lại, một cô học trò áo dài trắng đứng trước mặt.
                - À, Nga đó hả con.
                Cô nữ sinh nhỏ nhắn, rụt rè chìa ra một cành hoa hồng tươi:
                - Con kính tặng thầy nhân Ngày Nhà giáo.
                Trời, con bé mới chu đáo, mới dễ thương làm sao! Sao nó lại nghĩ đến việc mang hoa lên tận đây, mình có phải là thầy dạy nó đâu! Mà nó lại tật nguyền thế kia.
                Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của cô học trò, thầy Nguyện vẫn chưa hết xúc động. Thầy nghĩ đến cơ duyên thầy trò của thầy và cô gái nhỏ mới vào lớp 10 năm học này. Còn nhớ, thầy bị chuyển lên đây với lý do: “Trường đã là trường chuẩn quốc gia, mọi thứ đều phải chuẩn”. Mà ông thầy dạy thể dục tuy có nhiều kinh nghiệm, từng dẫn dắt học sinh đạt rất nhiều giải trong các cuộc thi “Hội khỏe Phù Đổng” cấp thành phố nhưng vẫn chưa đủ chuẩn để dạy cấp trung học phổ thông. Nếu muốn theo chuyên môn thầy phải xin xuống cấp trung học cơ sở. Mà như thầy hiệu trưởng góp ý thì... lớn tuổi như thầy Nguyện chắc khó có trường nào chịu nhận.
                Vậy là với bao bỡ ngỡ, thầy Nguyện đành phải làm quen với cái thư viện đầy sách báo này. Công việc nhẹ nhàng, lại được một mình một cõi trong phòng đọc sách kế bên thư viện, ông thầy vốn quen với những động tác nhảy cao, nhảy dài, cử tạ... dần dần cũng nguôi ngoai nỗi buồn nhớ học trò và sự ngứa ngáy chân tay. Trong đám học trò hay lên thư viện, con bé Nga hồi nãy là đứa siêng nhất. Cứ sáng học ở lớp là chiều cô bé lên thư viện mượn báo, mượn sách đọc mê mải. Qui định trường chỉ cho cán bộ lớp, cán bộ Đoàn mượn sách về nhà, Nga phải đọc sách tại chỗ rồi gởi trả. Thấy cô học trò mê sách, chuyên cần, lại bị khuyết tật, đi lại khó khăn, thỉnh thoảng thầy Nguyện cũng phá lệ cho con bé mượn sách về nhà, cứ đúng hẹn là nó mang trả, chưa lần nào để thầy phải nhắc.
                Chỉ vậy mà có cành hoa hồng này đây. Thầy Nguyện nhìn xuống cánh hoa trong tay mình, thấy vui trong lòng. Hình như đóa hồng hôm nay là bông hoa có ý nghĩa nhất trong cuộc đời đi dạy của thầy. Nhớ mấy năm trước, ngày 20-11 này, ông thầy dạy thể dục ngực gắn đầy hoa, các bạn đồng nghiệp đã vẫn thường đùa thầy Nguyện là “rừng hoa biết đi”. Các tiết thể dục đều ghép ít nhất hai lớp, mỗi thầy bình quân phải dạy trên mười lớp, bởi thế mà học trò gắn hoa đầy áo là chuyện bình thường trong ngày lễ này. Ấy vậy mà bao nhiêu bông hoa những năm trước không làm rưng rưng cảm động như đóa hồng tươi của cô học trò nhỏ sáng nay. Thầy Nguyện lắc đầu, tự khiển trách mình: “Tệ thật! Sao mình phải mặc cảm, sao mình lại trốn trong gian phòng này, mình có làm gì xấu hổ với nghề này đâu”. Lời tự trách lại đưa thầy về những năm tháng đã qua...
                ***
                Trước năm 1975, thầy Nguyện chỉ là thầy giáo tiểu học ở một trường trong thành phố. Thầy phấn đấu học thêm lấy bằng cử nhân, được chuyển lên dạy môn toán cấp 2, tức trung học cơ sở bây giờ. Trời xui đất khiến thế nào thầy lại rất giỏi các môn thể thao như bóng chuyền, bóng bàn và các môn điền kinh khác do sở thích từ nhỏ. Các trường lúc đó thiếu vô cùng các thầy cô dạy bộ môn này nên thầy giáo trẻ Nguyện được cử đi học một khóa cấp tốc rồi trường cấp 3 này xin thầy về phụ trách môn thể dục cho đến giờ. Tuy chẳng có cấp bằng, chẳng có cầu chứng về chuyên môn nhưng toàn trường đều biết những tiết thể dục của thầy Nguyện là những tiết dạy tốt nhất, hiệu quả nhất của bộ môn này. Đám học trò lúc mới vào thấy mặt thầy là “ớn” lắm,  chúng bảo nhau:
                - Thầy Nguyện trừng mắt một cái là hồn vía học trò bay hết!
                Có điều chỉ qua vài tuần học là thầy trò “bắt nhịp” được với nhau ngay. Hai lớp nhập lại có khi lên đến hàng trăm học trò mà đâu vào đó, răm rắp tập luyện, nhất là rất vui vẻ, sinh động. Phần lớn là bởi dẫu nghiêm khắc nhưng thầy Nguyện rất biết nói đùa. Một nam sinh tập luyện uể oải ư? Thầy hét:
                - Trò kia, biểu diễn thời trang cho ai coi vậy?
                Một nữ sinh chạy xong hai vòng sân, mệt thở hào hễn chỉ chực chờ đến mức là ngồi phệt xuống nghỉ, thầy hét:
                - Em kia, không được ngừng, xỉu bây giờ! Chạy chậm chậm thêm một khúc nữa...
                Thế đấy, hình ảnh ông thầy thể dục và “ngọn roi thân ái” trong tay đã trở nên quen thuộc với học sinh và các thầy cô giáo trong trường. Nói hơi quá một chút, thầy Nguyện như người giữ gìn nề nếp trong môi trường sư phạm này. Có điều những giờ khắc này, thầy vẫn không khỏi chạnh lòng dù vẫn tự nhủ “mình sắp về hưu rồi, một hai năm còn lại, có chút đóng góp vẫn còn hơn không”...
                Ý nghĩ ấy giờ đây lại thấp thoáng trong đầu, thầy Nguyện bước xuống cầu thang nhưng không đi về hướng sân trường mà bước vào phòng truyền thống. Hôm nay, phòng này cũng được chuẩn bị chu đáo để quan khách tham quan. Thầy Nguyện đến cuối phòng, nhìn lên bàn thờ các thầy cô quá vãng. Sáng sớm nay, một lớp học trò đại diện cho toàn trường đã đến thắp hương trước khi tiến hành lễ. Ba chữ “Sư đạo tôn” được mạ vàng trong khung kính trên bàn thờ rõ vành vạnh. Dưới hàng chữ ấy là một tấm bảng lớn với những décal ghi tên từng thầy cô của trường đã về cõi vĩnh hằng. Bao nhiêu năm qua, thầy trò trường này vẫn tự hào về nghi thức “nhập môn” đầy ý nghĩa của học sinh mới mỗi ngày khai giảng. Các em sẽ được thầy cô chủ nhiệm dẫn lên đây bái tế các bậc tôn sư quá cố rồi mới về làm lễ khai trường. Hình ảnh hàng hàng lớp lớp học trò nối chân nhau vào phòng truyền thống bao giờ cũng gợi những cảm xúc đẹp trong lòng mọi người ngày đầu năm học. Có phải vì vậy mà thầy Nguyện không muốn rời xa trường dù phải chuyển sang công tác khác?
                ***
                Mấy ngày nay không thấy bé Nga lên thư viện đọc sách, thầy Nguyện thắc mắc tìm xuống lớp, hóa ra cô bé bệnh, nghỉ học. Qua cô Liên, chủ nhiệm lớp, thầy Nguyện biết hoàn cảnh bé Nga rất bất hạnh. Cha làm công nhân xí nghiệp cơ khí, mới mất mấy năm trước vì bệnh phổi, mẹ một nách ba con buôn bán lây lất, lúc xôi, lúc chè, lúc tàu hủ... Chị gái Nga mới 18 tuổi phải đi phụ bán quán phở tiếp mẹ nuôi em, đứa em trai út mới học lớp ba. Lẽ ra Nga cũng phải nghỉ học nhưng vốn tật nguyền vì bị sốt tê liệt từ nhỏ, có ở nhà cũng chẳng được việc gì, nên mẹ nó gắng gượng cho con tiếp tục học, tới đâu hay tới đó. Được cái cô bé học rất chăm, ngoan và giỏi, thầy cô bạn bè ai cũng thương.
                Đứng trước căn nhà sâu hút trong hẻm phải hỏi thăm gần chục bận mới tìm ra, thầy Nguyện cũng không biết tại sao mình tìm đến tận đây. Cô bé có phải học trò thầy đâu! Hay hoàn cảnh em khiến mình chạnh lòng? Bây giờ thì quả là thầy thực sự chạnh lòng. Căn nhà, nếu có thể gọi là nhà, chắp vá bởi bao nhiêu thứ bà rằn, cây có, tôn có, tre lá có, cốt để che kín một khoảnh đất nhỏ cho mấy con người chui vào, chui ra. Có cánh cửa bằng nẹp tre bên ngoài là còn tương đối giống cửa. Nhưng thầy Nguyện không đi vào, không dám đi vào trong khi lòng tràn đầy thương xót cô học trò chăm học, mê sách. Giờ này chắc Nga có nhà. Vị thầy dạy thể dục từng “hét ra lửa” bỗng thấy lòng mềm nhũn, sợ sệt một điều gì không rõ. Thầy rón rén lùi lại, bước trở ra con đường lớn, chân nặng trĩu, người bần thần, cảm giác ớn lạnh như người bệnh mới hết. Vì cớ gì mà mình vào đây? Câu hỏi lại xuất hiện trong đầu. Vô duyên hơn nữa là vì sao đến nhà rồi mình lại không vào, thăm con bé một chút cũng là chuyện bình thường, phải không. Xưa nay ông thầy thể dục tính tình vốn bộc trực, dứt khoát lắm mà.
                Ngồi nói chuyện với thầy Nguyện trong thư viện, cô Liên, chủ nhiệm lớp 10A2, thở ra:
                - Em Nga có được trợ cấp của Hội Chữ thập đỏ do lớp đề nghị nhưng như “muối bỏ biển” ấy thôi. Tình cảnh em bấp bênh quá, ngày nào đến trường thì biết ngày nấy, còn tùy việc bán buôn của mẹ nó, chị nó nữa.
                Thầy Nguyện trầm ngâm một hồi rồi nói với cô Liên, giọng thật trầm:
                - Cô vui lòng giúp tôi việc này, được không cô?
                Cô giáo chủ nhiệm chăm chú nghe, chẳng biết thầy Nguyện nói gì mà cô gật đầu lia lịa, miệng cười tủm tỉm:
                - Được, được! Thầy cứ yên chí, vậy là tốt lắm rồi.
                Nói xong cô đứng lên, nhìn thầy Nguyện đăm đăm như nhìn một người lạ mới gặp lần đầu. Nhưng chỉ một thoáng, cô trở lại vẻ thân mật như trước:
                - Cứ thế nhé, cảm ơn thầy nhiều.
                Mấy ngày sau, cô học trò lớp 10A2 được cô giáo chủ nhiệm gọi lại:
                - Từ học kỳ này, mỗi lần sơ kết học kỳ, cô sẽ đưa cho em năm trăm ngàn đồng. Đó là tiền trợ cấp của chi hội phụ huynh lớp mình dành để giúp em, hy vọng em cố gắng học hành.
                Nói vậy rồi cô Liên quay đi ngay, không kịp nhìn niềm vui rạng ngời trên mặt, trong mắt đứa học trò nghèo chăm học. Cô sợ mình sẽ không giữ vững được lòng trước cái nhìn trong sáng của con bé chăng?
                ***
                Thầy Nguyện mất thật đột ngột khiến cả trường xôn xao. Trông thầy vẫn còn khỏe dù sắp bước vào tuổi sáu mươi. Nghe nói thầy bị đột quỵ. Ôi, người thầy thường khi rất chú ý đến sức khỏe, thể lực của học trò, của mình, sao lại bị thế kia.
                Đám tang thầy Nguyện diễn ra trang trọng, êm ả. Hầu như cả trường đủ mặt. Phải vậy thôi! Thầy đã hơn ba mươi năm gắn bó với trường, dạy bao lớp học trò, bao lần dẫn quân đi “đánh đấm” mang thành tích về cho trường. Rất nhiều học trò trong đám vận động viên thể dục của thầy cũng tìm về đưa tang, đứng chật cả hẻm. Điều làm một số thầy trò trường trung học phổ thông chuẩn quốc gia này ngạc nhiên là cô bé Nga, em học sinh khuyết tật đang học lớp 12 năm này cũng bịt khăn tang trắng như hai đứa con gái thầy Nguyện. Con bé gục bên quan tài thầy, khóc sưng cả mắt. Con nhỏ hay lên thư viện mượn sách về đọc, thầy trò tình cảm sâu nặng nên nó xin để tang ư? Mà không có lý, đến tiễn thầy, lo tiếp việc nhà là được rồi mà... đâu đến phải để tang như con ruột. Hình như mọi người đều nghĩ vậy.
                Chỉ có cô giáo chủ nhiệm lớp 12A2, cô Liên, là hiểu rõ và cô cũng đang nước mắt giàn giụa. Câu chuyện trong thư viện hai năm trước cô vẫn còn nhớ như mới ngày hôm qua. Đã năm lần sơ kết học kỳ, năm lần món tiền nhỏ mang tấm lòng người thầy được trao tay cô học trò, thêm một chút tiền sách vở, một chút niềm tin yêu cho cô gái tật nguyền. Chỉ đến tối hôm qua, trước khi tẩm liệm thầy Nguyện, cô Liên mới gọi Nga đến, cho biết về người tặng cho cô bé món trợ cấp suốt ba năm nay. Và, chiếc khăn tang trắng trên đầu cô học trò chính là để trả nghĩa cho người thầy, người cha giờ Nga mới biết. Ngoài đương sự, cô giáo Liên đã không nói cùng ai việc này, năm xưa cô chẳng từng hứa với thầy Nguyện rồi đó sao. Nhưng nếu để con bé không biết lúc này thì thật cô không đang tâm! Chắc thầy Nguyện cũng không nỡ trách mình đâu. Mà nếu mọi người biết thì sao nhỉ? Ai cũng tưởng ông thầy dạy thể dục một thời “hét ra lửa” kia chắc là người cứng cỏi, sắt thép lắm, đâu ngờ bên trong con người ấy là con tim nhân hậu, chan chứa yêu thương. Cô học trò nhỏ rồi sẽ ra trường, khó khăn vẫn còn trùng trùng phía trước nhưng ít nhất con bé cũng biết đã từng có một người thầy dạy thể dục thật bình thường trong ngôi trường này đã xót xa vì cô và muốn nâng cánh ước mơ cho cô bằng cả tấm lòng. Mong sao điều đó sẽ giúp con bé Nga của mình cứng cáp hơn, cô giáo Liên nghĩ thế.
                Cô giáo Liên thấm nước mắt, vuốt nhẹ vai cô học trò đang lúi húi đốt bó chân nhang trong cái thau nhỏ dưới đất rồi lại đầu quan tài, thắp thêm một cây nhang cho thầy Nguyện trước khi ra về, lầm thầm khấn vái:
                - Xin thầy cứ yên nghỉ, học kỳ cuối cùng này em Nga vẫn sẽ nhận đủ món tiền trợ cấp như mọi khi. Đó sẽ là tấm lòng của thầy để lại, xin thầy yên tâm!  
                Ngước nhìn lên, trong khói nhang nghi ngút, thầy Nguyện đang cười thật tươi trong khuôn hình. 
                Nguồn: baocantho.com.vn
                #8
                  mssthuan 12.03.2007 15:22:49 (permalink)
                  Chuyện ngày qua
                  TRẦN QUỐC CƯỠNG
                   


                  Chị Nữ là người “đổ bộ” đến xóm Gò đầu tiên, chị viết đơn xin đất gửi chính quyền xã ngót ba năm, đi chừng chục lần. Lần nào ông chủ tịch cũng đon đả: “Chị cứ yên tâm về đi, nay mai chúng tôi giải quyết”. Cái điệp khúc bất thành văn từ cửa miệng của ông chủ tịch xã đã khiến chị nản lòng. Cuối cùng, chị âm thầm đưa vật liệu đến vùng đất gò xa ngái dựng căn nhà lá đơn sơ. Tới nước ấy ủy ban xã đành cấp giấy tờ cho chị. Có điều lạ là khi thấy căn nhà của chị Nữ dựng lên, ông chủ tịch xã cũng không làm khó dễ gì. Chắc ông nghĩ, gò đất ấy cằn cỗi, đèo heo hút gió, nên không thèm để mắt tới.
                  Chị Nữ cất nhà tròn năm thì Thắm - cô bạn cựu thanh niên xung phong thời chống Mỹ tuổi quá lứa, không chồng không con - lui tới. Có lẽ cái mùi khăn khẳn chua của xác rạ rữa rã và tiếng ếch ạ uôm đồng vọng níu chân người đàn bà quen sống cô đơn chưa từng biết hơi hám đàn ông là gì, chị Thắm trở thành “phó thổ địa” xóm Gò.
                  Chị Nữ ngồi chằm nón, cánh mũi phập phồng, vài giọt mồ hôi như sương mai ngấn trên má, gần cận tuổi năm mươi rồi mà cái duyên còn phảng phất trên nét mặt, làn môi. Đám thiếu phụ và cánh con gái lỡ thì ngồi trong vuông sân nghe chị kể về những ngày bám trụ xóm Gò. Chị Nữ dừng tay đưa vạt áo quệt mồ hôi nhoẻn cười e ấp như con gái mới lớn: “Không hiểu sao ngày ấy tao liều thế. Hẳn do những lời bóng gió xa xôi của mấy đứa cháu sợ tao báo cô. Thật tình bấy lâu tao đâu mặn nồng gì với cách sống bòn mót chỗ dựa. Tụi mày chưa nếm trải hết nỗi cô đơn chứ tao thì nó đã ngấm sâu vào máu thịt lâu rồi, sự trống trải là một hình phạt ghê gớm đối với người đàn bà sống độc thân. Nửa đêm, sấm chớp đùng đùng, gió mưa ào ào như tiếng gào rú của lũ quỷ đói. Ngọn đèn run rẩy, nỗi sợ hãi lớn dần”.
                  *
                  * *
                  Cái gò đất lẻ loi, khỉ ho, cò gáy của làng Thượng có duyên lạ lùng với những kẻ không chồng. Sau chị Nữ, chị Thắm còn có chị Thuận, chị Rả và những thiếu phụ trẻ một lần tan đàn xẻ nghé. Có vài cô đã làm mẹ, nhưng chưa từng làm vợ. Hơn mười nóc nhà mọc lên xúm xít. Những mảnh đời lỡ làng đan tựa vào nhau. Từ sáng sớm họ lọ mọ rời khỏi nhà, người làm phu hồ, đánh vữa, người đội mẹt bánh kẹo, kẻ lặc lè gồng gánh rau dưa... Đến lúc nhọ mặt người họ mới hối hả trở về... Được cái, lũ trẻ con dường như cũng hiểu thân phận. Chúng chơi với nhau rất đỗi thân tình. Đứa lớn nhất chỉ huy đám trẻ nhỏ nghe răm rắp. Cuộc sống của xóm Gò thật sự bắt đầu vào lúc sẩm tối. Cơm nước xong xuôi họ dắt díu nhau đến vuông sân nhà chị Nữ rôm rả chuyện trò. Xóm Gò là lãnh địa xa khu dân cư với những cuộc đời như ngả rẽ dòng sông.
                  Một hôm vào lúc nửa đêm, chị Oanh - một thiếu phụ trẻ đẹp giật mình thức giấc bởi tiếng gõ cửa gấp gáp. Chị hỏi, người gọi cửa không thưa. Thế là chị la toáng lên. Chị em hàng xóm bật dậy kẻ cây, người gậy bao quanh vây bắt gọn kẻ gian trói gô lại. Khi bưng đèn ra mới rõ mặt gã sửa đồng hồ ở dưới huyện. Hôm sau chuyện bắt “gian phu” đến tai mụ vợ. Mụ ta xai xải tìm đến xóm Gò, đứng ngoài sân nhà chị Oanh, tru tréo: “Con nào lấy chồng bà ra đây cho bà gọt đầu, trát dầu rái”. Chị Oanh ức lòng, “đáp lễ”: “Bà về mà răn dạy cái thằng chồng mèo mả gà đồng của bà. Gái đây có ế thì phơi chứ không thèm phường ấy”.
                  Nghe động, chị Nữ và chị em ]áng giềng rùng rùng kéo tới bao vây kẻ ác khẩu. “Chánh thổ địa” mặt nóng phừng phừng, vung tay, trợn mắt làm dữ... Mụ vợ gã sửa đồng hồ mặt cắt không còn giọt máu, lấm lét lủi đi không một lần nhìn ngoái lại.
                  *
                  * *
                  Trong bốn chị em bạn thanh niên xung phong cùng thời thì chị Thuận còn có chỗ trông tuổi già. Thằng Khánh - con trai chị không những là niềm an ủi của riêng chị mà còn là niềm tự hào chung của cả xóm. Năm nay nó học năm thứ tư đại học y khoa. Mỗi lần về, nó như viên ngọc tỏa sáng cả xóm nghèo. Các mẹ, chị theo vuốt ve, chăm sóc, yêu thương. Biết chị Thuận không đủ tiền chu cấp cho nó ăn học, chị Thắrn cởi phăng chiếc nhẫn vàng - vật kỷ niệm - tặng nó. Chị Nữ thì tóm ráo mấy ổ gà đem bán. Còn chị Rả đập con heo đất. Má nó nhìn chị Thắm rơm rớm nước mắt: “Vật đó của thằng Nhữ tặng cho em...”. Chị Thắm cười hềnh hệch, tiếng cười của chị nghe cay đắng khôn cùng: “Người ta chê mình thanh niên xung phong, là gái già, người ta có gia đình yên ấm, em còn giữ vật đó làm gì”. Thằng Khánh nghe chị Thắm nói, nó quay mặt đi vì xúc động. Chuyện hồi có mang thằng Khánh, chị Thuận kể như một giai thoại vừa bi, vừa hài:
                  Năm 1970, cô Thuận mắt lá răm, mặt đẹp, tánh tình dễ thương và nổi tiếng dũng cảm bỗng dưng... có chửa. Cả đơn vị bàng hoàng. Lúc đầu ai cũng ngỡ có người ganh ghét Thuận rồi gắp lửa bỏ tay người. Khổ thay trong một cuộc họp chi đoàn chính ‘I’huận thừa nhận cô mang thai. Mọi người ngẩn ngơ, ấm ớ... Bí thư chi đoàn mặt hằm hằm mai mỉa: “Đồng chí Thuận làm tốt mặt chi đoàn quá ha! Đồng chí có thai với ai, phải thành khẩn?”. Người con gái bật dậy, cứng cỏi: “Tôi có thai với ai đấy là chuyện riêng của tôi”. Vị chủ trì không còn giữ được sự bình tĩnh, anh ta đập bàn đánh sầm, quát: “Đồng chí có còn là một đoàn viên nữa không? Đồng chí quan hệ bất chính, hủ hóa làm ảnh hưởng đến danh dự của đơn vị lại còn lý sự, ngoan cố. Tôi yêu cầu đồng chí nghiêm túc khai báo đã quan hệ với ai có thai?”. Cô gái cười lạt: “Trong đêm tối mông lung tôi không biết ai cả”. Có tiếng cười rúc rích của các nữ thanh niên. Bí thư chi đoàn có phần nguôi giận. Song, anh ta vẫn chì chiết: “Cô nói vậy mà nghe được à? Cô không biết mặt người quan hệ mà cô vẫn...”.
                  Chị Thuận đột ngột dừng lời, tay phe phẩy chiếc quạt nan, ngước nhìn ánh trăng vàng vặc như hoài niệm điều gì. Các thiếu phụ trẻ hể hả cười, thúc giục: “Cô kể tiếp đi! Nghe nửa vời tức lắm”.
                  Một cô giật chiếc quạt trên tay chị quạt ào ào cười giòn tan: “Cháu quạt cho cô đây này, cô kể mau lên!?”. Chị Thuận cười hiền, giọng đều đều: “Mấy đứa biết cô đáp thế nào không? Sau này mỗi lần nhớ đến những lời trần trụi ấy cô ngượng chín người - Cô đáp với anh chàng bí thư thế này: “Vâng! Tôi không hề biết mặt anh ta là ai. Chiến tranh giữa cái sống và cái chết chỉ là ranh giới mỏng manh. Tôi là con gái đang độ xuân thì dạt dào nhựa sống. Tôi khao khát... theo bản năng... Các đồng chí muốn kỷ luật tôi thế nào cũng được”. Nói xong cô quay lưng đi về lán trại ôm mặt khóc òa”.
                  - Ơ hay, sao cô không khai người đã ân ái với cô cho nhẹ tội?
                  - Vì người ấy đã hy sinh sau trận đánh trả máy bay Mỹ cháu à.
                  - Trời đất!
                  - Cô đã tính sẵn, nếu anh ấy còn sống, cô cũng nhất quyết không khai. Tội nghiệp gia đình anh ấy có ba người con trai thì đã hy sinh hết hai. Trước khi anh lên đường đi B, ba mẹ anh đau đáu mong có đứa cháu nội. Anh gạt nước mắt dứt áo ra đi báo thù. Cô ân hận là lúc đã mang thai với anh một tháng cô chần chừ không báo tin cho anh biết.
                  Chị Thuận ngừng kể, có tiếng sụt sùi khóc...
                  Nguồn: baocantho.com.vn
                   

                  #9
                    mssthuan 12.03.2007 15:29:09 (permalink)
                    Chuyến đò
                    TRẦM NGUYÊN Ý ANH
                     
                    Vừa từ nhà người em chồng bước ra, bà Quang kêu mệt. Không biết họ chưa từng được ăn hay sao mà cứ và cứ gắp, y như đã bị bỏ đói lâu ngày. Thằng cháu Việt kiều thì cứ mải lo huyên thuyên khoe khoang cái chỗ nó vừa từ đó trở về. Nó khoe từ cái ăn, cái mặc, cái làm, cái chơi..., cái nào cũng hơn hẳn xứ sở nghèo nàn đã sinh ra nó. Bà Năm Thịnh đã mấy lần kéo tay, ý muốn nó ngưng nói để hỏi thăm bà bác dâu từ Sài Gòn về mà nó cứ vờ không biết. Khách thì cứ ăn. Chủ thì cứ nói. Đồ ăn bao nhiêu cũng hết. Nhà sau lại nghe tiếng heo kêu la inh ỏi, chắc họ sắp làm thêm một con nữa. Bà Quang ngồi nói chuyện với bà Năm Thịnh một lúc thấy bực bội. “Mình cất công từ Sài Gòn về đây thăm nó là nghĩ  tình họ hàng chẳng còn ai. Mà nó cứ như người dưng nước lã thì ngồi lâu làm gì”. Nghĩ như vậy, bà nói lời từ giã với người em dâu. Bà dùng những lời ngọt ngào, thận trọng chứ thật tình trong bụng chẳng chút vấn vương. Một người đàn ông trạc hơn ba mươi nãy giờ đứng xớ rớ, khách chẳng ra khách, mà chủ cũng không ra chủ, đến bên bà:
                    - Mẹ định về sao mẹ?
                    - Ừ! Xuống nhà dưới kêu vú con sửa soạn về!
                    Gã chen trong đám người đang miệt mài ăn uống, xuống nhà ngang. Lát sau, một người đàn bà ăn mặc xuề xòa theo gã lên nhà trước.
                    - Vú mày đã ăn chưa? Bà Quang hỏi.
                    - Dạ! Em ăn rồi. Chị tính về bây giờ sao?
                    - Về! Để cháu nó còn tiếp khách. Mình ở đây chỉ làm chật nhà.
                    Bà Năm Thịnh biết bà chị dâu giận nhưng cũng không biết làm sao. Hai ông chồng đã chết, chỉ còn hai chị em bạn dâu mà kẻ quê người chợ. Mấy năm nay ai cũng bận bịu chẳng được viếng thăm nhau. Kỳ này, thằng Thuận con bà về nước, tưởng bác cháu gặp nhau vui vẻ, ai ngờ thằng con bà quá quắt, luôn khoe mình giàu. Bà Quang lại quen thói kẻ cả. Thôi thì, chị ấy về cũng tốt. Bà Năm Thịnh đưa ba người tới bến đò rồi quay lại sau khi nói vài câu xin lỗi.
                    - Thân à! Bây giờ về Sài Gòn cũng trễ, hay là mình bao đò đi chơi một buổi. Tối về thị trấn thuê phòng ngủ rồi mai về sớm- Bà Quang gợi ý với con trai.
                    - Dạ! Mẹ tính như vậy cũng tiện. Con thấy chú Thuận cũng quá đáng thiệt. Dầu gì cũng là cháu mà không kể gì tới mẹ hết.
                    - Mặc kệ nó! Tao về cũng không vì nó. Nghĩ mồ mả ông bà với ba mày còn nằm đó mới về. Chứ cái thứ rác rưởi đó, ai thèm nói tới.
                    Hai người bàn bạc xong, kêu người lái đò xách giùm đồ đạc xuống. Người đàn bà được Thân gọi bằng vú vẫn lặng im. Thân lấy từ trong túi xách ra chai nước khoáng, gã mở nắp rồi đưa bà Quang:
                    - Mẹ uống đi! Hồi nãy chắc mẹ chưa ăn gì hả? Mẹ có ăn bánh ngọt không, con lấy cho! Gã vừa nói vừa soạn kiếm bọc bánh trong túi xách.
                    Họ đã xuống đò. Giờ này nước đang lớn. Người chèo đò cặn dặn:
                    - Ra tới đầu doi hơi có sóng, hai bà với cậu ngồi kỹ chút nghe!
                    Thân cười, trán gã lấm tấm mồ hôi. Bà vú móc từ túi áo bà ba của mình cái khăn tay đã ố vàng, vói tay lau mồ hôi cho gã. Thân gạt ra. Gã móc khăn giấy từ trong xách đưa bà Quang một bịch. Rồi chừng như nhớ ra, gã hỏi:
                    - Hồi nãy vú có ăn cơm chưa? Cứ ở đó lo làm!
                    - Rồi! Vú ăn rồi mà!
                    Bà vú nói thì nói vậy, chớ đã ăn uống gì đâu. Mới tờ mờ sáng, bà đã xuống bếp phụ làm. Bà Quang ở nhà trên chắc còn ngủ được. Còn bà nằm chèo queo ở bộ vạt nhà dưới nghe đám thanh niên đánh bài, đánh lô tô cười nói sáng đêm nên đâu chợp mắt được. Bà lại sợ thằng Thân bị người ta ép uống rượu nên cứ giở mùng dòm ra hoài. Rốt cuộc thì trời sáng. Thằng Thân tuy do bà mang nặng đẻ đau, nuôi nó tới ngày khôn lớn nó vẫn chưa bao giờ kêu bà một tiếng má ngọt ngào. Âu cũng là kiếp số. Còn người đàn bà không chung cùng một giọt máu, không cực khổ một ngày vì nó, lại được nó luôn miệng kêu tiếng “mẹ” thương yêu. Thằng Thân bao nhiêu tuổi thì nỗi đắng cay đau đớn trong lòng bà cũng bao nhiêu năm. Mười tám tuổi, bà vào nấu ăn cho nhà ông Quang, con trai một địa chủ có tiếng trong vùng. Ông Quang mở rộng làm ăn, có nhiều nhà máy ở khắp huyện. Bà Quang lại là người đàn bà đầy tham vọng. Bà quán xuyến công việc hơn cả chồng. Trong tay vợ chồng bà có cả trăm người phụ việc. Chính vì ham mê công việc, nên bà thường xuyên vắng nhà. Bà vú thuở ấy lại là người con gái dễ coi. Cái ngày phát hiện người làm có thai với chồng mình, bà Quang đã ngồi lì trong phòng một buổi. Cuối cùng, bà nói với chồng: “Em biết em có lỗi đã để mình phải chăn đơn gối chiếc. Nhưng dù sao, cô ấy cũng là người làm, để bên ngoài biết, thiên hạ sẽ cười chê. Bây giờ, tạm đưa cô ấy về quê em, chờ sinh nở xong rồi tính”. Không một ai biết chuyện ngoài vợ chồng bà, bà vú và lão quản gia. Hai đứa con bà Quang đứa mười, đứa sáu tuổi đã reo mừng khi thấy mẹ chúng đem về một đứa em trai. Thằng Quân hỏi:
                    - Ủa! Mẹ đẻ em hồi nào hả mẹ?
                    Còn thằng Quỳnh ngọng nghịu:
                    - Em... em “ngỏ khíu” hà!
                    Bà Quang cười với con:
                    - Đây là em của hai đứa con, vú sẽ nuôi em thay cho mẹ. Mai mốt, tụi con có ba đứa, mặc sức mà chơi mà giỡn.
                    Vậy là bà vú lại được nuôi con mình và gần người chồng hờ của bà. Ông Quang từ đó thêm nể vì người vợ biết cư xử và cũng không mặn mòi với bà vú nữa. Thằng Thân không được đặt cho những cái tên rất kêu của dòng họ chỉ đơn giản là Văn Thân, theo họ bà vú, cha vô danh. Đó là ý của bà Quang và ông Quang không một lời phản đối. Thằng Thân vẫn kêu cha gọi mẹ và vẫn mang cái lý lịch “tréo cẳng ngỗng” đó đến ngày ông Quang mất. Bà vú không đòi hỏi gì hơn là được gần con và thấy con mỗi ngày khôn lớn, lại được ăn học đàng hoàng. Với thiên hạ ở bên ngoài thì Thân là đứa con nuôi. Với ông bà Quang, gã là đứa con ngoài ý muốn. Nhưng với bà vú, đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời bà. Mãi đến năm lên tám, Thân mới biết bà vú là mẹ ruột, là người đã sinh ra gã. Lẽ ra, càng lớn, gã càng phải biết thương yêu người đàn bà khốn khổ đã rứt ruột đẻ ra mình, đã chịu bao nhiêu đắng cay trong đời tôi tớ chỉ để được gần con. Quân và Quỳnh trực tiếp quản lý công việc làm ăn với mẹ. Thân chỉ làm những việc vòng ngoài. Gã biết cái thân chẳng đáng giá của mình từ sau khi cha chết và gã đã làm đủ mọi cách để có tên trong giấy tờ chia gia tài của bà Quang.
                    * * *
                    Con đò đã xuôi dòng nước. Dòng sông càng gần ngã ba càng mở rộng ra. Sóng nhấp nhô, nắng trải một màu vàng lụa. Bà Quang đã lâu không còn hưởng cái thú điền viên dân dã. Mỗi ngày của bà đều hái ra tiền. Từ lúc bà quyết định bán hết đất đai, nhà máy để về Sài Gòn mở rộng kinh doanh thì bà đã là người dân thành thị chính hiệu rồi. Ở tuổi sáu mươi ba mà bà vẫn điều hành công việc làm ăn đạt nhiều thành quả. Bà là cái đầu, hai thằng con trai là hai cánh tay đắc lực. Bà vú vẫn yên phận quản gia và bếp núc. Chỉ còn Thân, gã vẫn đang cố tạo cho mình một chỗ đứng trong lòng bà Quang và trong gia tộc. Gã vẫn biết Quân và Quỳnh không thương mình như ruột thịt và quyền hành vẫn còn trong tay người đàn bà bản lĩnh này. Vậy nên, gã đã không ngần ngại khi tự cho mình cái quyền là con của bà. Đi đâu cũng “mẹ”, làm gì cũng “mẹ”. Còn đối với bà vú, gã đã quên hay cố tình quên người đã tạo ra mình.
                    Càng ra tới ngã ba sông, gió càng thổi lộng. Những lượn sóng lớn hơn. Bà vú dựa lưng vô vách ghe, thiu thiu ngủ. Thân nhìn nét mặt khắc khổ già nua của bà rồi so sánh với bà Quang sang trọng, đẫy đà. Gã càng nghĩ càng thấy không cam tâm. Mới tuần trước, gã đã nghe phong phanh bà Quang đang nhờ luật sư làm di chúc. Gã bỗng bồn chồn. Gã không biết bà có nghĩ chút công lao và tấm lòng “hiếu thảo” của gã mà chia cho một ít. Một ít thôi trong cái gia tài của bà cũng bằng cả đống của cải thiên hạ. Cho nên khi bà vừa cho biết sẽ về quê và kêu gã đi theo, gã đã vui mừng tở mở. Gã đã mua những thức ăn đồ uống mà bà thích, đã chuẩn bị mọi thứ cho bà. Còn bà vú, chỉ mấy bộ đồ cũ mèm trong giỏ, bà đã quen rồi nên cũng chẳng buồn chẳng tủi. Bà Quang đang say sưa ngắm cảnh vật hai bên bờ sông. Hồi tối bà ngủ được nên bây giờ thấy tỉnh táo lắm. Thân ngồi bên vú đối diện với bà Quang để chuyện trò.
                    - Đi chuyến này chắc mẹ vui lắm! Thỉnh thoảng cũng nên về quê đổi gió hả mẹ?
                    - Mẹ thì công chuyện không dứt, rảnh đâu mà đi chơi. Họa chăng, chừng nào thu xếp cho tụi nó xong rồi, mẹ mới yên.
                    Thân thấy thất vọng. “Thu xếp cho tụi nó” nghĩa là Quân và Quỳnh chớ không có gã. Tuy vậy, gã cũng gượng cười:
                    - Anh hai, anh ba thì giỏi rồi, mẹ cũng đừng lo quá!
                    Từ đằng xa bỗng có tiếng động cơ thật lớn, một chiếc vỏ lãi đang lao hết tốc độ về phía con đò. Người lái đò biến sắc, anh khoát tay ra dấu biểu nó tránh ra. Chiếc vỏ lãi chẳng thay đổi luồng chạy, vẫn phóng như bay trên mặt nước. Một đợt sóng rồi hai ba đợt xô chiếc đò giạt ngang. Một đợt nữa đẩy nó lên cao. Tiếng người lái đò thất thanh: “Chết rồi! Đò chìm rồi!”. Bà vú choàng tỉnh chụp lấy cánh tay con như bản năng của một người mẹ. Ngay trong phút giây kinh hoàng đó Thân lại nảy ra cái ý nghĩ tuyệt vời - phải cứu bà Quang. Gã gỡ mấy ngón tay của bà vú ra lúc chiếc ghe đã lật ngang. Gã nắm lấy cánh tay bà Quang bằng tất cả sức lực của mình. Và để biện minh cho việc làm của mình, gã nghĩ “người lái đò sẽ cứu bà vú thôi!”.
                    * * *
                    Người ta huy động tới mấy chiếc ghe cào để tìm xác bà vú. Bà Quang đã được Thân hết lòng cứu sống. Gã đã bơi bằng hai lần sức lực của mình khi nghĩ đến tên mình trong tờ di chúc. Người lái đò thấy bà vú chìm xuống nhưng anh không nắm được. Những con sóng cứ bổ tới đẩy bà xa anh. Bà vú được đặt nằm trên bờ sông chờ chính quyền tới xác minh sự việc. Một người tốt bụng đã lót cho bà chiếc chiếu bông. Bà Quang vẫn chưa hoàn hồn và bà đã khóc khi nhìn thấy bà vú nằm đó như đang ngủ. Bà nhìn Thân thầm nghĩ: “Lẽ ra nó phải cứu mẹ nó” và bà ngờ ngợ một điều gì đó trong đầu:“Trời ơi! Không lẽ là như vậy!”. Thân đứng cách đó không xa. Gã nhìn người đẻ ra mình nằm đó giống như nhìn một xác người xa lạ. Trong đầu gã lúc này là cái ơn gã đã cứu sống bà Quang và gã mường tượng những ngày giàu sang sắp tới.
                    Nguồn: baocantho.com.vn
                    #10
                      mssthuan 12.03.2007 15:37:02 (permalink)
                      Mùa lũ
                      ĐẶNG HOÀNG THÁM
                       
                      Cô gái đứng hồi lâu trên cầu bỗng leo qua lan can rồi gieo mình xuống dòng nước đang chảy băng băng.
                      - Có người tự tử! Mau lên Đực ơi...
                      Đực đang tóm mấy lưỡi câu để tối đi cắm, vội vàng vất cuộn dây gân vào khoang ghe, cởi nhanh áo quăng xuống sạp, nhảy tùm xuống nước. Đực sải tay bơi hết tốc lực xuôi theo dòng nước đang chảy cuồn cuộn. Anh chụp được cánh tay của người con gái, xốc ngang hông cô ta, nương dòng nước, vào bờ. Ông già Tám chống ghe vô tiếp Đực.
                      - Hừ... con cái nhà ai mà dại dột quá! Chắc thất tình hay thi rớt gì đây!
                      Ông già lầm bầm khi kéo cô con gái mình mẩy mềm dượi và ướt mem lên sạp ghe: “ Đực! Mầy sốc nước nhanh lên!”. Đực hai tay ấn vào ngực cô. Lát sau, nước từ trong họng cô trào ra. Cô gái mở cặp mắt lờ đờ. “Hết chết rồi! Mầy lau mình cho nó. Tao nấu miếng nước, châm trà đậm đổ cho nó uống”. Đực ngại ngần: “Ông ngoại ơi! Ông... ông lau cho cổ đi, con là con trai mà...!”. “Có lau không? Một hồi nó trúng gió chết bây giờ. Tao với mầy mang họa!”. Ông già gân cổ quát lên. Đực hoảng sợ, vội vã lấy cái áo cũ...
                      Cô gái tỉnh lại sau khi được đổ mấy chung trà ấm đậm có pha đường cát. Cô lạ lẫm nhìn Đực và ông già Tám: “Trời ơi!... Mấy người cứu tôi làm chi vậy? Tôi muốn chết mà...”. Cô gái mệt nhọc ứa hai hàng nước mắt. Đực quay mặt đi chỗ khác. “Cháu có việc gì buồn mà muốn chết! Có việc gì cũng thong thả thôi, sao lại dại dột như vậy?”. “Cháu... cháu buồn lắm! Cháu khổ lắm ông ơi!”. Cô gái thều thào. “Ông ngày xưa cũng khổ lắm nhưng ông đâu có muốn chết. Bây giờ già rồi ông cũng chưa muốn chết. Con trùn, con kiến cũng còn muốn sống kia mà!”. Đực lui cui sau lái canh nồi cháo cá. Nước sôi bùm bụp...
                      Cô gái quấn đỡ chiếc khăn tắm, ngồi thu lu. Cô xanh xao với tóc tai rũ rượi. “Cô ăn đi... ăn cho lại sức...”. Cô gái im lặng thẫn thờ múc vài muỗng cháo cho vào miệng. Hình như hơi nóng, vị ngọt của cháo cá nấu với ít gừng, chút tiêu sọ, vài cọng hành lá thơm phức làm cho cô tỉnh táo lại. “Cô ráng ăn đi... Cháo nấu nhiều lắm” - Đực thật thà nói với cô gái. Cô gái nhìn ông Tám và Đực với cặp mắt biết ơn, húp nhỏ nhẻ từng muỗng cháo trông có vẻ khá ngon miệng.
                      Chiếc thuyền của hai ông cháu người chài lưới chở theo cô gái ngược dòng sông trở về nhà họ. Xa xa, bên phải phía hạ nguồn, có vầng sáng rộng, ánh lên trên khoảng không của thành phố. Ngọn đèn của cái tháp đài truyền hình như cục than đỏ hồng lẻ loi giữa bầu trời nhàn nhạt ánh sao. Cô gái cho biết nhà cô ở xa lắm. Cô không thể trở về nhà. Những đứa em cung cha khác mẹ với cô đã xua đuổi cô. Cha cô bị tai biến nằm một chỗ. Mẹ kế cô là một người đàn bà chua chanh chát khế. Cô buồn rầu nhớ lại...
                      - Mầy đi cho đã rồi trở về đây làm gì? Tao đã khổ sở với thằng cha mầy, giờ lại thêm mầy! Lấy Đài Loan không được thì ở bển làm gái cũng có tiền, cũng sướng, sao lại trồi đầu về. Về rồi lại đi. Sao không đi luôn mà trở lại đây để báo cô, báo kiếp tao à? - Người phụ nữ đẫy đà, miệng quang quác.
                      - Con về để thăm ba con và mấy em... thưa dì...
                      - Không cần đâu. Nhà nầy không chứa gái - người mẹ kế xua tay, giọng chanh chảnh.
                      Mai chẳng biết về đâu khi cô chẳng còn nơi nương tựa. Mẹ chết khi cô mới mười ba tuổi. Mẹ kế của cô lúc mới về đây giả vờ thương yêu, chiều chuộng đứa con riêng của chồng, để làm vừa lòng người đàn ông góa vợ. Nhưng đã có lần cha nàng đòi đuổi bà ta ra khỏi nhà khi bắt gặp bà ấy đánh chửi Mai... Mai lớn dần thành thiếu nữ, xinh đẹp hẳn ra. Bà Giang cũng có hai đứa con với cha cô. Tình yêu của cha đối với cô hình như cũng nhạt dần theo năm tháng. Một phần vì ông ấy bận bịu công việc làm ăn. Một phần ông cũng thương hai đứa con sau. Mai dần dần sống âm thầm như chiếc bóng trong ngôi nhà có nhiều kỷ niệm vui buồn nầy. Những lúc hồi tưởng về mẹ, cô lặng lẽ khóc! Nếu mẹ còn sống thì cô đâu phải như thế nầy...
                      Cha Mai bị tai biến rồi nằm một chỗ. Bà Giang dịu ngọt dụ dỗ Mai, gả cô cho một người Đài Loan đã lớn tuổi. Cô thương cha, muốn có tiền chữa bệnh cho cha nên ưng thuận. Mười tám tuổi tròn, Mai lấy chồng xa xứ với một sự thật phũ phàng, nghiệt ngã. Vợ của chồng Mai đã chết từ lâu. Mấy đứa con của ông ta khinh khi cô ra mặt. Một gã em chồng thường nhìn cô lom lom, không giấu sự thèm khát. Một hôm, nhà vắng vẻ, hắn đã dùng sức mạnh cưỡng bức Mai... Chuyện ấy thỉnh thoảng tái diễn! Chồng Mai có lần bắt gặp nhưng lại dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mai rất đau đớn, nhục nhã. Mai bị ám ảnh, hoang mang và sợ hãi trong ngôi nhà u ám ấy. Một hôm, thừa cơ hội đi chợ, Mai đã tìm đến cơ quan trợ giúp những người cùng xứ sở và đã được giúp đưa về quê hương... Khi trở về, Mai có chút đỉnh tiền bạc mà cô đã lén lút dành dụm lúc còn ở bên ấy. Bà Giang vẽ duyên tiền thuốc men, khóc than khoản nợ nần trị bệnh cho cha cô. Cuối cùng, Mai trắng tay sau một thời gian trở về quê. Mai không thể ở với người mẹ kế cay nghiệt nếu không có tiền. Cô lên thành phố xin vào một quán cà phê làm tiếp viên với số lương bèo - bốn trăm ngàn đồng một tháng. Cái giá ấy giữa chốn phồn hoa đô hội chẳng đủ cho Mai chi dùng. Một vài cô tiếp viên cũ, từng trải đời, đã rủ rê Mai cách kiếm tiền nhanh từ những ông khách ham của lạ. Nàng lần bước đi vào con đường u ám với ý nghĩ: “ Mình chẳng còn gì để mất, để tiếc!”.
                      Trong một lần cơ quan chức năng kiểm tra một khách sạn, Mai được đưa vào trại phục hồi nhân phẩm. Người ta khám sức khỏe cho cô để phân loại những người bị nhiễm và không nhiễm HIV. Rất may, cô không dính vào căn bệnh thế kỷ nầy. Ra trại, Mai trở về quê và lại bị bà mẹ kế cùng những đứa con của bà xua đuổi.
                      ***
                      - Cháu tạm thời cứ ở lại đây. Chừng nào muốn đi thì đi... Ôi! Trên đời sao có những số phận đáng thương như vậy! - Ông già Tám bùi ngùi.
                      - Nếu ông cho cháu ở lại... cháu sẽ nấu cơm cho ông và anh Đực ăn. Cháu sẽ...
                      - Có cháu càng thêm vui cửa vui nhà. Thằng Đực mồ côi từ nhỏ. Ông lượm nó trên bờ mẫu ở ngoài ruộng đem về nuôi lúc nó còn đỏ hỏn. Tội nghiệp bà ngoại nó! Thương nó hơn con đẻ. Nhưng bả đã đi theo ông bà mấy năm nay rồi! - Ông già Tám nhìn lên bàn thờ vợ.
                      - Sao anh Đực lại kêu ông bằng ông ngoại mà không kêu bằng cha?
                      - Hồi đó, ông có đứa con gái nhỏ, nếu tính ra phải bằng tuổi mẹ thằng Đực - ông chỉ đoán vậy - Nhưng con gái ông đã sẩy chân chết đuối khi ông chở nó đi giăng câu. Ông sơ ý để nó ra mũi ghe rồi lọt xuống sông bị nước lũ cuốn trôi. Năm đó lũ lớn lắm, nước chảy dữ lắm! Cá tôm từ Biển Hồ về nhiều lắm...” - Ông già Tám bùi ngùi kể - Vợ ông đi chợ bán cá về hay được, bả chết lên chết xuống! Về sau, cách đây hơn hai mươi năm, ông lượm được thằng Đực. Bà ấy nói trời cho. Trời đền lại cho bả... Thằng Đực chắc là cháu ngoại của bả.
                      Những ngày sống nơi cuối cái xóm vắng vẻ nầy, Mai cảm thấy tâm hồn mình yên ắng lại. Những buổi sáng nắng vàng tươi thật đẹp trải dài trên cánh đồng mênh mông rập rờn lúa xanh. Những buổi trưa, tiếng gà gáy gợi nhớ êm đềm về một tuổi thơ đã đi qua trong quá khứ. Và những lúc hoàng hôn, ráng chiều đỏ ửng phía chân trời xa đẹp nôn nao bụng dạ... Mai sống trong khung cảnh êm ả này cùng với ông Tám và Đực. Nghĩ tới Đực, Mai thầm nhủ: “Người đâu mà hiền như cục đất. Mình nói gì ảnh cũng nghe, chỉ nhăn miệng cười vui”...
                      Chừng tuần sau, anh công an ấp tới nhà ông Tám:
                      - Ông muốn cho cô nầy ở đây thì phải có giấy tạm vắng để xin tạm trú. Tôi có nghe dư luận không mấy tốt về cô gái nầy!
                      - Dạ thưa... Cổ có hoàn cảnh tội nghiệp lắm! Chú thông cảm, để từ từ tụi tui tính. Tui xin bảo lãnh cho cô ấy. Nếu cô ta có làm gì sai trái, tui hoàn toàn chịu trách nhiệm.
                      Rồi ông già Tám kể cho anh cán bộ nghe chuyện của Mai. Anh cán bộ suy nghĩ một chút rồi nói:
                      - Chúng tôi cũng du di cho cô ấy một thời gian... Về lâu, về dài, phải có giấy tờ mới được. Đó là qui định chung.
                      - Dạ, tôi cũng biết... nhưng... - Ông già Tám có vẻ rầu rĩ.
                      Khi anh cán bộ về rồi, Mai rưng rưng nói với ông Tám:
                      - Chắc cháu phải đi thôi... Cháu ở đây làm phiền ông với anh Đực quá!
                      - Cô cứ ở lại đây, tụi tui sẽ tính sau... Cô đi... biết đi về đâu? - Đực nhìn trời nói, lòng buồn hiu hắt.
                      - Phải. Cháu cứ ở lại... Rồi mình sẽ liệu lo giấy tờ - Ông Tám cứ nói đại như thế vì xưa nay ông và Đực có biết gì đâu chuyện giấy tờ! Hai ông cháu họ năm dài tháng rộng lênh đênh trên sông chài cá, câu tôm rồi quanh quẩn xóm giềng!
                      ***
                      - Tôi bày cho ông một kế. Việc nầy cũng bình thường thôi! - Chú Ba trưởng ấp nói với ông già Tám.
                      - Dạ... chú ráng giúp tôi. Sao tôi thấy thương con nhỏ quá!
                      - Tôi có để ý con nhỏ nầy, từ lúc nó về đây ở. Con nhỏ làm gì tôi không cần biết nhưng qua lời ăn tiếng nói, tôi thấy nó cũng đàng hoàng. Chắc khong phải là người xấu... Nếu có gì thì cũng do hoàn cảnh mà thôi. Những người như vậy ta nên giúp đỡ. Bây giờ tôi nói như vầy ông chịu không. Ông cưới nó cho thằng cháu ngoại ông đi, ráng làm vài mâm qua quýt cho làng xóm biết. Rồi sau đó kiếm ít tiền cho vợ chồng nó về xứ con nhỏ, xin giấy tờ chuyển về đây.
                      - Cậu Ba nó nói nghe chí lý quá. Tôi sẽ bàn với thằng Đực và con Mai xem ý tụi nó ra sao - Mặt ông già Tám rạng rỡ hẳn lên.
                      Đám cưới của Đực và Mai chỉ có vài mâm, diễn ra ấm cúng và khá vui vẻ. Năm sau, Đực dẫn vợ về quê làm thủ tục giấy tờ. Ông Tân - cha Mai đã mất chừng nửa tháng sau ngày cô đi khỏi nhà lần thứ ba. Bà Giang xởi lởi. Nhưng ai mà biết trong bụng bà ấy nghĩ gì! Có điều bà ta - tạm gọi là biết điều - đã an táng ông chồng cạnh ngôi mộ người vợ trước của ông theo lời trăn trối.
                      Vợ chồng Mai ra mộ đốt nhang khấn vái cha mẹ cô. Buổi chiều dần khép lại. Nắng vàng nhạt như mành lưới giăng trùm lên cánh đồng mênh mông hiu quạnh. Mai lưu luyến nhìn đôi mả đất cha mẹ mình lơ thơ mấy đám cỏ may. Mai bùi ngùi, đỏ hoe đôi mắt. Cô bỗng thấy như in ngày còn bé. Cô đội cái mũ vải tròn, cặp ba lô trên lưng, ngang hông đeo bình nước có sợi dây vắt chéo. Cha cô cõng cô đến trường trong mùa nước lũ. Mẹ cô thường gói cho cô những củ khoai nóng hổi thật ngon trong giấy báo rồi cẩn thận bỏ vào bọc cho cô đem theo để ăn. Trống trường tan, Mai thấp thỏm trông cha đến đón về. Mai nhớ những mùa đông thời thơ ấu. Cô nằm giữa, cha cô một bên, mẹ cô một bên, ủ ấm cho cô. Nước mắt Mai lăn lã chã trên gò má bao giờ cô cũng chẳng hay...
                      Mai và Đực xuống ghe, trở về xóm Muồng Cụt để chuẩn bị cho mùa giăng câu, đặt lưới, bởi lũ thượng nguồn đã tràn về mênh mông bờ bãi. Cuộc đời của những người dân quê ở đây thầm lặng trong thanh bình và yên ả. Có lẽ, họ đã biết chung sống với lũ từ bao đời nay...
                      Nguồn: baocantho.com.vn
                      #11
                        mssthuan 12.03.2007 15:44:14 (permalink)
                        Bóng chiều
                        TRẦN MINH THUẬN
                         
                        Sơn đã ngồi một mình cô độc dưới hoàng hôn không biết bao nhiêu lần mà nỗi buồn hình như chưa bớt đi một chút nào. Cuộc sống của anh giờ đây đã mất hết ý nghĩa khi bên mình không còn một người thân nào. Ba má đã chết trong uất hận, đau buồn, mọi người xung quanh thì thờ ơ, lạnh nhạt, họ xem như không có anh trên đời. Hồi ra trại, anh mới về đến đầu xóm đã nghe bà con xôn xao:
                        - Thằng Sơn “giang hồ” dìa, mọi người cẩn thận đồ đạc, vòng vàng coi chừng nó cướp hết đó. Ba má nó nó còn không từ nữa là bà con mình. Bao nhiêu tiền cũng không đủ cho nó chích xì ke đâu. Nó mà nổi cơn ghiền có khi giết người như chơi...
                        Sơn bước đi mà hai chân không cất lên nổi, lê lết từng bước nặng nề về căn nhà mà má anh mua sau này, bên bờ sông. Căn nhà trống hoác không có vật dụng gì, chỉ có một cái võng lác giăng qua hai gốc cột. Trên vách chỉ còn mấy cái bằng khen, huân chương kháng chiến và mấy tấm hình của ba má anh bị tơ nhện bủa giăng. Nhìn ảnh của ba má mình một hồi, Sơn bật khóc như thằng con nít mới vừa mất mẹ. Nhìn thành quả phấn đấu cả đời của cha mẹ mình có được, sự hối hận cứ lớn dần trong Sơn, anh nói lẩm bẩm một mình mà như nói cho cha mẹ mình nghe:
                        - Ba má ơi! Con dìa rồi, thằng Sơn hư hỏng đã dìa rồi mà ba má bỏ đi luôn thì còn ai để mà tha thứ cho con. Con đã phá hết những thứ mà ba má phấn đấu cả đời mình, để cuối cùng con mất tất cả, mất ba má và mất cả tình thương của bà con chòm xóm.
                        Gia đình Sơn là một gia đình có truyền thống cách mạng. Ông bà cha mẹ đều là những người từng tham gia kháng chiến để giành độc lập cho đất nước. Sau ngày giải phóng, cha mẹ anh đều giữ những chức vụ quan trọng: cha anh là chủ tịch huyện, còn mẹ là giám đốc ngân hàng. Cuộc sống gia đình ngày một khá hơn nhưng chính cuộc sống khá giả này mà đứa con duy nhất của họ đã trở nên hư hỏng. Ba má anh tốn nhiều thời gian cho công việc nhà nước, ít có thời gian chăm sóc, khuyên bảo anh. Nhưng điều đó có chắc là lỗi do ba má anh không? Anh bỏ học khi đang lớp mười hai vì không đủ năng lực để theo tiếp. Ba anh khuyên nhủ cả ngày, má anh khóc sáng đêm vẫn không sao lay chuyển được đứa con cứng đầu, cứng cổ! Sau đó, Sơn lao vào những cuộc ăn chơi trác táng giống như hầu hết những “cậu ấm, cô chiêu” khác. Hết tiền lại về nhà xin má. Chỉ có một đứa con duy nhất nên bà hết mực chiều con nhưng rồi bà cũng không còn chịu nổi phải rầy la. Thế là đồ đạc trong nhà lần lượt đội nón ra đi. Cuối cùng, Sơn bỏ nhà đi biệt. Má Sơn không cầm được nước mắt, đêm nào cũng trông chờ con, khóc đến khô nước mắt. Ba Sơn giận dữ đập đồ thề không bao giờ tha thứ cho anh. Rồi căn bệnh tim quái ác đã khiến ông không còn trụ nổi trên cuộc đời. Hôm đó, ông uống cà phê, đọc báo sáng. Đang đọc, tự dưng ông buông rơi tách cà phê, ngồi chết trân trên ghế mà như không tin vào cặp mắt của mình. Ông gọi bà trong hoảng loạn:
                        - Má thằng Sơn! Bà ra coi nè!
                        Má Sơn từ bếp chạy lên, thấy mặt ông tái mét bà quơ vội chai dầu gió xoa cho ông lia lịa:
                        - Gì! Có gì mà ông hoảng dữ vậy, từ từ bình tĩnh nói tui nghe coi.
                        Ông không nói ra lời, đưa ngón tay run rẩy chỉ vào tờ báo. Đến lượt bà muốn khuỵu xuống khi nhìn tờ báo trên bàn, có hàng tít lớn: Vụ cướp táo bạo giữa ban ngày, tên cướp là một người nghiện ma túy. Cạnh đó là ảnh tên hung thủ mà bà dễ dàng nhận ra cậu con trai duy nhất của mình mà không cần nhìn tên của nó: Trường Sơn. Đây là cái tên ông bà đặt cho con để kỷ niệm những năm tháng gian lao, oai hùng trên dãy Trường Sơn hùng vĩ của mình. Bây giờ cái tên này lại mang đến cho ông bà một nỗi buồn vô tận. Ông ôm lấy ngực đứng lên rồi té xuống nằm dài trên chiếc ghế xô-pha. Trên đường được đưa đến bệnh viện, ông đã trút hơi thở cuối cùng. Người vợ, người mẹ đau khổ tột độ khi cả hai người thân của mình, một người chết, một người tù. Không còn tâm trí làm việc nữa, bà xin về hưu sớm. Bà mất sau hơn một năm sống trong buồn khổ, trong sự cô độc. Rất may, hàng xóm thương tình an táng bà chu đáo.
                        Ở trong tù Sơn hay được tin này qua một người bạn cũ vô thăm. Thằng Thống nói trong sự giận dữ:
                        - Ba má mày chết là do mầy chớ không ai khác. Tao muốn mầy lao động tốt, mau ra tù để lo hương khói cho hai bác. Chỉ có như vậy, mới mong ở dưới đó ba má mầy thanh thản mà tha thứ cho mầy.
                        Suốt mấy đêm liền Sơn không thể nào ngủ được, hình ảnh người cha chết trong tức tưởi, khuôn mặt má anh buồn buồn như oán trách luôn hiện ra mỗi khi anh chợp mắt. Anh suy nghĩ nhiều thứ lắm, càng suy nghĩ càng giận bản thân mình. Bây giờ có hối hận thì đã quá muộn rồi. Nghe lời thằng Thống, mình phải cai nghiện để chia tay với loại bột trắng khủng khiếp, lao động thật tốt để sớm ngày được sống cuộc đời tự do và phấn đấu thành người có ích. Anh luôn nhắc mình như vậy và cố gắng thực hiện thật tốt giấc mơ muộn màng của mình. Ở tù được bốn năm, cai hẳn ma túy, anh được trả tự do.
                        Nhưng mà những ước mơ đó trở nên quá xa vời với Sơn khi anh về đến quê cũ. Tất cả mọi người trong xóm từ già đến trẻ đều khinh ghét lẫn lo sợ, không ai nói với anh một lời. Anh tự an ủi mình, dù sao như vậy cũng tốt, anh muốn sống một mình để có nhiều thời gian sám hối, lo nhang khói cho ba má mình. Thế rồi anh lặng lẽ dọn mảnh vườn, sẽ trồng những thứ cây mà khi còn sống má rất thích. Bên ngôi mộ của má bao giờ cũng có hoa thơm. Chờ đến ngày tốt anh sẽ lấy cốt của ba về đặt bên cạnh má cho chồng vợ có nhau.
                        Cuộc sống cứ trôi qua một cách hờ hững, hàng ngày anh chăm sóc mớ rau và vườn cây. Nhiều tháng sau Sơn có thể sống được với mớ rau trồng trên mấy bờ đất. Sự chí thú làm ăn của anh dần dần tạo được niềm tin trong lòng những người lối xóm. Càng ngày họ càng nhìn anh bằng con mắt thiện cảm và dần trở nên thân mật. Sau những giờ quần quật lao động, anh vẫn giữ thói quen khi còn ở trong trại là mỗi ngày dành hai tiếng đồng hồ ngồi tập thở theo phương pháp dưỡng sinh. Cứ bốn giờ chiều là anh ra bờ sông ngồi tập cho đến khi mặt trời lặn. Sau đó anh ra mộ má đốt một nén nhang và thường nói đùa trong xót xa:
                        - Má mất rồi ai lo cưới vợ cho con đây? Mong hương hồn má phù hộ cho con có được một người vợ tốt và hiền lành như má. Con nói cho đỡ buồn thôi chớ con làm gì có được phúc phận đó!
                        Không biết có phải má anh phù hộ hay không mà điều anh mong ước bấy lâu hình như sắp thành sự thật, tự dưng anh thấy con tim mình thổn thức tình cảm lạ lùng với một cô gái. Đó là buổi chiều, anh đang ngồi tĩnh lặng thì nghe ở dưới sông có một giọng rao hàng ngọt sớt của một cô gái vang lên:
                        - Ai ăn dưa hường hôn. Ba ngàn một ký, mua giùm đi bà con cô bác ơi!
                        Giọng nói duyên dáng khiến Sơn mở mắt nhìn. Một cô gái nhỏ nhắn, gọn gàng trong bộ bà ba màu xanh đang đẩy nhẹ mái chèo của chiếc xuồng ba lá. Trên xuồng có một số hàng bông, cá, tương, chao, hột vịt, hành tỏi. Trong ánh nắng chiều tàn lụi, bóng cô in trên mặt nước sao mà đẹp đến lạ lùng. Sơn nhìn kỹ, cô gái cũng không có gì đặc biệt. Da ngăm đen, tóc cháy nắng vàng hoe nhưng bù lại có một cái răng lòi xỉ lấp ló ở khóe môi khi cô cất giọng rao hàng. Sơn buột miệng kêu:
                        - Cô gì ơi, còn bao nhiêu dưa hường tui mua hết cho.
                        Cô gái đang cho xuồng vào bờ, đột nhiên xê ra. Cô vừa nhìn thấy những hình xăm dữ tợn trên cánh tay và một bên ngực hở áo của người vừa gọi. Cô nghĩ thầm: Ở đây, hơi vắng vẻ mà trời lại sắp tối rồi, bộ dạng ổng như vậy chắc không phải là người tốt. Sơn không bất ngờ trước cử chỉ đó nên nhỏ nhẹ:
                        - Cô chọi nguyên bịch dưa hường lên cho tui, bao nhiêu tiền tui thẩy xuống xuồng cho, cô khỏi vào bờ. Vậy nghen. Mà cô tên gì, mơi mốt cô còn bán ngang đây hôn.
                        Nghe anh nói một cách hiền từ, cô gái hình như bớt sợ nhưng vẫn không tấp xuồng vào mà ném nguyên bịch dưa hường lên cho anh chụp rồi nói gọn lỏn:
                        - Tám ngàn. Quyên.
                        Anh vói tay, thẩy tám ngàn đồng gói trong miếng lá chuối khô cột chặt bằng sợi thun vào khoang xuồng. Cô gái đẩy mạnh mái chèo, chiếc xuồng khuất dần ngoài sông cái. Sơn ngồi thẫn thờ nhìn theo bóng cô dần xa rồi ra sau vườn thắp cho má nén nhang, cầu mong bà phù hộ cho Quyên ngày mai quay lại khúc sông này. Suốt đêm anh trằn trọc không ngủ được. Hơn bốn năm qua anh không nhớ nổi mình đã bao đêm thức trắng. Nhưng đêm nay khác những đêm anh mất ngủ vì nhớ nhà, nhớ ba má với niềm hối hận dâng cao. Đêm nay, anh thức vì hình bóng một người con gái chưa quen. Anh nhớ mái tóc vàng hoe vì cuộc đời bươn chải, nhớ cái răng lòi xỉ duyên ngầm giúp cô mua may bán đắt. Con tim tưởng đã chai sần theo năm tháng của anh đã thổn thức một cách tội nghiệp, không lẽ...
                        Mới sáng sớm anh đã ra mé sông ngồi ngó chăm chăm về phía sông cái mong chờ một bóng dáng nho nhỏ, dễ thương... Suốt ngày anh thấp thỏm ngó ra sông. Chưa tới bốn giờ chiều, anh đã ra mé sông, ngồi tập mà trong bụng rối bời, mắt cứ ngóng chừng ngoài sông cái. Chạng vạng, giọng rao hàng của Quyên mới văng vẳng trong gió, nghe ngọt lịm:
                        - Nước rằm chảy thấu Nam Vang, sầu đâu chín rụng sao chàng bặt tăm. Còn mấy bó sầu đâu cuối cùng bà con làm ơn mua giùm đi, sầu đâu xào rắn nhậu “bắt” lắm mấy anh ơi, gió chướng dìa lạnh lắm rồi.
                        Sơn đứng dậy, giơ tay ngoắc:
                        - Cô ơi! Mấy bó sầu đâu bán cho tui. Cô bán sầu đâu mà cô có sầu ai hông, sao mà giọng cô rao nghe đứt ruột vậy?
                        Lần này Quyên cho chiếc xuồng ba lá tấp sát vào bờ, đưa cho anh năm bó sầu đâu cuối cùng:
                        - Anh mua hết thiệt hả? Nguyên bịch dưa hường mới hôm qua anh ăn hết rồi sao? Gì mà nhanh vậy? Nè, năm bó năm ngàn, lấy anh bốn thôi.
                        Sơn lóng ngóng đưa tay đỡ mớ sầu đâu rồi hỏi một câu lảng nhách:
                        - Cô có chồng chưa?
                        Quyên bật cười khi thấy hai cái lỗ tai anh đỏ chạch:
                        - Hỏi làm gì! Có chồng rồi mà phải cực vậy sao, ai nuôi nổi tui tui mới ưng. Má tui già rồi hổng ai nuôi, chưa lấy chồng được đâu.
                        Tự dưng Sơn nhớ đến hoàn cảnh của mình mà chua chát. Một cô gái mảnh mai như Quyên còn phải một nắng hai sương tảo tần nuôi mẹ, đến chuyện chồng con mà còn chưa dám tính. Còn anh, cái tướng “cọp ăn mắc hâm” mà chỉ biết long nhong, phá của, tạo cho ba má biết bao nhiêu buồn tủi!
                        Quyên rất lấy làm lạ lẫm khi nhìn thấy giọt nước mắt trên khóe mắt anh. Một người nhìn đàn ông bậm trợn như thế làm sao khóc được chớ? Ủa, mà sao ổng sống một mình vậy cà, ổng có chuyện gì mà mặt buồn hắt hiu như thế? Mà sao mình tào lao quá vậy nè? Chuyện của ổng mắc gì mình! Cô nhìn Sơn một cái kín đáo rồi từ từ chèo xuồng ra giữa dòng mà nghe có sự thay đổi gì đó đang diễn ra mãnh liệt trong lòng mình. Cô linh cảm người đàn ông này chắc đã có nhiều sóng gió trong cuộc đời, tuy bề ngoài dữ dằn nhưng đôi mắt như biết nói, nó mang một nỗi cô đơn chất ngất và một tình cảm chân thành. Mình sẽ bán ngang đó mỗi bữa coi người ta như thế nào, có thiệt thương mình không, biết đâu mình sẽ tìm được một tấm chồng tốt, biết đâu cô sẽ có người chia bớt nỗi đau trong cuộc sống khó nhọc này. Ờ, biết đâu...
                        Nghĩ tới đây, tự dưng cô bối rối đẩy nhẹ mái chèo:
                        - Thôi, tui về, mặt trời lặn rồi...
                        Nhìn chiếc xuồng xa dần trong bóng chiều phủ xuống rồi mất dạng sau mấy đám dừa nước, Sơn thấy tim mình le lói một niềm vui...
                         
                        Nguồn:baocantho.com.vn
                        #12
                          mssthuan 12.03.2007 15:57:05 (permalink)
                          Đằng sau mỗi đóa hoa
                          HUỲNH VĂN QUỐC
                           


                          Quen Hiền đã lâu, nhưng mãi đến hôm nay tôi mới đưa được nàng đi dạo lần đầu. Đối với tôi, Hiền vẫn luôn luôn giấu một nỗi buồn phảng phất trên gương mặt. Nàng ít nói, chỉ mỉm cười mỗi khi không muốn trả lời tôi một điều gì. Cái vẻ duyên dáng e lệ đến khó hiểu ấy càng làm cho tôi thêm yêu mến bội phần.
                          Trời Đà Lạt đêm nay không mưa. Chỉ có những làn mây mỏng hòa quyện với sương đêm giăng thành một màn bạc, huyền ảo. Khung trời lốm đốm những vì sao và một nửa trăng mờ. Giữa khu đồi cao đang đắm mình trong im vắng, tôi với Hiền ngồi bên nhau, mơ màng và lặng lẽ. Thỉnh thoảng, từng làn gió rét thổi đến đã làm bật ra những tiếng xuýt xoa, nhưng chúng tôi dường như càng cảm thấy ấm lòng. Đêm nay sương giăng dày quá. Sương ngập tràn khắp thung lũng như dòng sông bạc bọc quanh ngọn đồi. Sương phủ xuống mấy rặng thông đang im lìm trong giấc ngủ. Sương phả vào làn tóc chúng tôi một hơi lạnh tê người. Tôi tưởng chừng như hai đứa tách biệt hẳn với phố xá dưới kia, mà hoàn toàn hòa lẫn vào thiên nhiên huyền ảo.
                          - Giữa một khung cảnh thế này, em buồn không hở Hiền? – Tôi gợi chuyện.
                          - Không! – Giọng Hiền êm mượt như nhung – Có anh thì làm sao buồn được.
                          - Nhưng mà, em thấy chúng mình nhỏ nhoi quá.
                          - Không nhỏ đâu! Các nhà thơ thường bảo cả thế gian này chỉ có hai ta!
                          Hiền phản đối:
                          - Đừng nói vậy, anh! Đằng sau chúng mình còn có nhiều người nữa…
                          - Nhưng tốt nhất là đừng nghĩ ai trong lúc này.
                          - Tại sao?
                          - Vì anh không muốn cái kỳ diệu của giây phút này phải nhường chỗ cho những ý nghĩ không hay. Ví dụ như anh đang nghĩ về một con người cô độc, tự nhiên anh không còn thấy vui nữa!
                          Câu nói này hình như làm Hiền chú ý, nàng nhỏ nhẹ hỏi tôi:
                          - Vậy anh nghĩ về ai nào?
                          - Một bà lão nhặt phân! Chiều nào ở cư xá nhìn ra bãi cỏ, anh cũng gặp bà ta cắm cúi đi nhặt từng mẩu phân ngựa hoặc phân bò. Có lẽ bà ta cứ sống mãi như vậy trong cảnh cô đơn, héo hắt.
                          - Thật tội nghiệp! - Hiền buông một câu như buông tiếng thở dài.
                          Tôi định kéo dài câu chuyện, nhưng chợt thấy Hiền có vẻ khang khác. Đôi mắt Hiền chớp nhanh, làn mi ươn ướt. Cô ta khóc à? Hay là sương đêm nơi một cành cây nào đã gửi ở má cô ta một vài giọt nước? Không, Hiền khóc thật! Đôi mắt Hiền nhìn xuống và chớp chớp kia mà! Tôi cuống lên:
                          - Em làm sao vậy?
                          - Không sao cả!
                          - Vậy sao em khóc?
                          Hiền nhìn tôi vẻ như giận dỗi, vẻ như trách móc:
                          - Ai bảo anh nói tới chuyện buồn?
                          - Thôi, nay anh không nói nữa. - Tôi dỗ dành – có vậy mà cũng khóc!
                          Hiền vùng vằng:
                          - Anh không biết em thường hay buồn sao?
                          - À, ừ… anh biết…
                          Tôi biết lúc này phải ngậm bồ hòn làm ngọt mới mong cứu vãn tình thế. Nhưng chưa kịp nói gì thêm, Hiền đã đứng dậy:
                          - Thôi, về đi anh!
                          Mặc dù vẫn còn luyến tiếc những giây phút thần tiên nhưng tôi phải đứng lên theo.
                          Sương bạc đã phủ kín cả lối đi. Chúng tôi như phải dò dẫm từng bước. Hơi lạnh ngấm vào chân, tê buốt. Xế sang Đoài, từng lượt mây đủng đỉnh bước qua trăng. Mảnh trăng nhợt nhạt lại cứ như đang bồng bềnh giữa khung trời mờ ảo.
                          * * *
                          Bầu trời thấp dần mãi xuống. Mưa bắt đầu rơi. Tôi vừa cắm cúi rảo bước, vừa đưa mắt nhìn quanh để tìm nơi trú ẩn gần nhất. Nhưng mưa càng lúc càng nhặt mà quãng đường lại không có nhà. Trời Đà Lạt mấy hôm nay thường mưa, nhất là vào những buổi hoàng hôn như thế này.
                          Đang đi, tôi chợt nghe tiếng ai gọi đằng sau:
                          - Anh Huy!
                          Tôi ngạc nhiên quay lại:
                          - A, Hiền! May cho anh quá!
                          Hiền bước nhanh đến. Dưới chiếc dù màu tím sẫm, hai đứa lại đi bên nhau. Tôi vẫn còn răng đánh vào nhau cầm cập. Hiền cười:
                          - Anh lạnh lắm phải không?
                          - Ừ, lạnh!
                          - Đáng đó! Ai bảo anh không chờ em.
                          - Biết đâu mà chờ?
                          Hiền lảng sang chuyện khác:
                          - Anh đưa em về nha?
                          - Dĩ nhiên rồi!
                          Được Hiền mời về nhà lần đầu, tôi phấn khởi đến quên cả lạnh. Đã lâu nàng cứ hẹn với tôi là: “Đừng vội tới nhà, khi mà anh vẫn chưa hiểu kỹ em!”. Chẳng lẽ hôm nay tôi đã hiểu kỹ nàng rồi chăng? Thật khó hiểu quá. Tôi đang suy nghĩ để tìm câu trả lời, chợt nghe tiếng gọi khàn khàn ở phía đồi bên trái:
                          - Trai ơi, lại giúp tôi một tí?
                          Tôi bảo Hiền:
                          - Em đứng đây đợi anh nghen!
                          Hiền mỉm cười gật đầu. Nàng nhìn tôi chăm chú. Đến bên người vừa gọi, tôi ngạc nhiên nhận ra bà lão hàng ngày vẫn thường nhặt phân bò. Bà nhìn tôi móm mém cười:
                          - Tôi giữ miệng bao, còn cậu bưng rổ phân này đổ vào giùm nhé!
                          Nhìn rổ phân đầy ắp và nhão nhoẹt dưới nước mưa, tôi thoáng rùng mình. Nước phân chảy ra đỏ quạch. Phân bám vào vành rổ, làm cáu đen như hắc ín nhưng bị nước mưa làm cho nhầy nhụa. Chẳng hiểu bà lão đã quen chịu đựng thì cảm thấy như thế nào, chứ còn đối với tôi lúc này, tôi hãi lắm. Vốn từ nhỏ sống ở thành phố rồi lên đây học, tôi có bao giờ mó vào những việc như thế này đâu! Nhưng lúc này thật khó mà chối từ. Tôi đành lựa chỗ ít bẩn nhất ở vành rổ mà miễn cưỡng đặt tay vào, bưng lên. Bà cụ cũng đã chực sẵn miệng bao bên cạnh. Khổ cho tôi, khi vừa bưng lên đã bị mất thăng bằng, chiếc rổ chúc xuống và đổ ngay phân lên nền cỏ. Bà cụ buông thỏng tay, ngẩn người nhìn tôi rồi tặc lưỡi thất vọng:
                          - Khổ thật, tôi mượn cậu làm gì không biết!
                          Tôi cảm thấy nóng bừng mặt, vừa bực bội vừa xấu hổ. Thấy tôi còn đứng tần ngần, bà cụ thương hại bảo:
                          - Thôi, cậu đi đi. Để đó, tôi làm một lát là xong.
                          Tôi nặng nề bước đi. Vừa ra đến đường cái đã thấy Hiền cau mày châm chọc:
                          - Gớm! Bộ anh bón phân cho cỏ hay sao ấy?
                          Tuy ngượng chín người nhưng tôi cố bào chữa:
                          - Anh không quen!
                          Hiền bảo:
                          - Anh nên chịu khó một chút chứ.
                          Tôi lắc đầu:
                          - Nhưng việc ấy kinh tởm thật!
                          Hiền tròn xoe mắt:
                          - Anh kinh tởm?
                          Tôi gật đầu. Hiền buồn bã bảo:
                          - Thôi, anh về đi. Để em ra làm cái việc kinh tởm ấy.
                          Vành môi thắm đỏ của Hiền mím chặt lại như mếu làm như tôi vừa xúc phạm đến chính nàng không bằng. Nhìn vành môi cong dễ hờn dễ mếu ấy, tôi hỏi:
                          - Anh đưa em về chứ?
                          - Không cần!
                          Hiền giận dỗi bỏ mặc tôi đứng đó và bước nhanh về phía bà cụ nhặt phân. Thật ngạc nhiên quá! Tôi không hiểu làm sao một người con gái như Hiền lại chịu khó đến thế. Chính mắt tôi trông thấy Hiền xắn tay giúp bà cụ hốt phân ở cỏ lên mà không hề ngần ngại. Còn bà cụ nhìn Hiền như bảo ban điều gì đó tôi không nghe rõ. Cơn mưa hoàng hôn lúc này tuy nhỏ hạt nhưng vẫn không dứt. Bóng bà cụ và bóng Hiền cúi lom khom bên nhau, mờ dần trong mưa xám.
                          * * *
                          Thế là tôi vẫn chưa biết nhà Hiền. Chiều nay tôi ngồi một mình trong phòng ngắm cảnh mưa rơi. Thật lạ! Qua màn mưa xám ngắt, tôi thấy bà cụ nhặt phân bò vẫn cứ cắm cúi đều đặn. Bà mặc một chiếc áo đi mưa xám mốc, cũ kỹ. Đôi găng tay và đôi giày cũng mang một màu đen đúa, kỳ dị. Bóng đen mờ mờ của bà cụ cứ di chuyển trong mưa, tìm kiếm từng mẩu phân để nhặt một cách cần mẫn. Trông thấy bà, người ta cứ tưởng đâu bà đang kiếm một cái gì đã đánh rơi. Bà làm việc thui thủi một mình bất chấp cả mưa hay nắng, như thể bà không muốn công việc gián đoạn phút nào. Thỉnh thoảng, bà dừng tay ngồi bệt xuống cỏ, ra dáng đăm chiêu suy nghĩ đến thừ cả người ra. Thật kỳ quặc! Một cuộc đời lạ lùng và buồn tẻ hết sức, vậy mà sao bà cụ vẫn chịu nổi từ tháng này sang tháng khác chẳng quản mưa hay nắng! Đứng ngoài nhìn vào, người ta dễ có cảm tưởng đó là một cuộc đời lẻ loi hiu hắt trong tháng ngày cô quạnh. Vậy mà không hiểu sao Hiền lại giận tôi về “vụ” người nhặt phân này? Lạ lùng quá. Tôi phải tìm cách truy hiểu căn do mới được.
                          Mưa ngớt, tôi mon men đến chỗ bà cụ nhặt phân lúc nãy đang thừ người ra để suy nghĩ. Bà cụ suy nghĩ lung lắm, đến nỗi tôi đã tới sát bên mà bà cũng không hay.
                          - Này, cụ ơi! Cụ đang nghĩ gì đấy? – Tôi lên tiếng.
                          Bà cụ giật mình đánh thót, hệt như người mộng du khi nghe phải tiếng động. Thấy tôi, cụ thoáng ngớ người rồi ném một cái nhìn châm chọc:
                          - Cậu định tới để đổ phân nữa đấy à?
                          Tôi cười cầu hòa:
                          - Không, hôm nay cháu đến giúp cụ để bù lỗi. Cụ có muốn nhờ việc gì nữa không?
                          - Chẳng dám, tôi đang suy nghĩ…
                          - Vậy cụ nhặt phân để làm gì?
                          - Để vun bón những cây xanh trong vườn cậu ạ.
                          - Nhà cụ ở đâu?
                          - Ở dưới gốc cây ngo, cách trường học hơn cây số về phía mặt trời mọc.
                          Sau khi bà cụ bỏ đi đã lâu, tôi bắt đầu lang thang một mình trên con đường loáng nước. Lúc ngang qua một quán cà phê quen thuộc, tôi nghe giọng nữ ca trong vắt: “Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ…”. Tôi nghĩ, ở xứ này thực và mơ cứ như lẫn lộn.
                          Thành phố đã lên đèn. Tôi bước mãi vẫn chẳng thấy cây ngo đâu. Đang lúc phân vân, tôi chợt trông thấy cái dáng lom khom của bà cụ nhặt phân đang quảy gánh đi đằng trước. Tôi lặng lẽ đi theo. A! Cây ngo đây rồi. Đó là một cây thông to đang đứng lặng lẽ trước cổng ngõ của ngôi nhà bằng ván. Tôi định bụng đợi bà ta vào nhà rồi mới xuất hiện. Lúc bà vừa bước vào, một giọng nữ nhỏ nhẹ cất lên:
                          - Nội đã về đấy ư?
                          Ủa, sao tiếng nghe quen quá! Tôi hồi hộp gõ cửa. Bà cụ gọi: “Vào đi”! Khi trông thấy tôi, bà cười:
                          À! Cậu đến chơi đấy hả? Hiền ơi, lên chơi với bạn con đi!
                          Thật bất ngờ quá! Hiền bước lên nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt không giấu nỗi sự ngạc nhiên:
                          - Sao anh biết nhà em?
                          - Bà cụ chỉ cho anh đấy! Anh hỏi thăm cụ tới đây chơi, đâu ngờ lại gặp em đây.
                          - Anh khéo lắm!
                          - Bây giờ anh đã hiểu được em chưa? Tôi nhắc.
                          - Tạm gọi là được – Hiền đáp, đôi mắt nhìn xa xăm.
                          Tôi chợt nghĩ đến những cơn mưa giăng mờ trong suốt mấy chiều nay. Nào ai có thể thấy được những gì đang ẩn chứa trong làn mưa xám?
                          Hiền rủ tôi ra vườn. Nàng chỉ cho tôi những luống hoa và những cây ăn quả mà hai bà cháu đã trồng:
                          - Anh đừng cười nhé! Công lao nhặt phân của bà em đã gây được khu vườn này đấy. Hai bà cháu em đều nhờ vào nó để sống.
                          Bây giờ đã là tháng Chạp, hoa cúc trắng tinh khiết, hoa hồng nhung đỏ thắm... tất cả đều đang vươn cành đơm bông để hướng về một mùa xuân không xa. Bên Hiền, tôi hiểu đằng sau những bông hoa trong vườn còn có biết bao những mẩu phân bò, phân ngựa. Không biết từ lúc nào, tay Hiền đã để trong tay tôi, ấm áp.
                          Nguồn: baocantho.com.vn
                          #13
                            mssthuan 12.03.2007 16:05:35 (permalink)
                            Hạnh phúc thật gần
                            TRẦM NGUYÊN Ý ANH
                             
                            Không ngày nào anh không bị vợ chửi. Sáng ra, cầm cái ca múc nước và chụp lấy cái khăn lau mặt là bị trận mở màn:
                            - Bộ đui sao không thấy ca nước ấm của con nhỏ. Khăn đó của mấy người sao? Mình mẩy đầy lang ben, đụng khăn ai cũng chụp đặng lây cho cả nhà à!
                            Anh vờ như không nghe. Mới bắt đầu một ngày mà cãi vã thì không nên. Anh mặc đồ. Thằng con trai lớn thò đầu ra khỏi mùng:
                            - Ba đừng mặc lộn quần con nữa nghe! Với lại, bữa nay cho con tiền thay ruột xe đạp.
                            Anh nhìn xuống và thấy mình không mặc quần của con. Móc trong túi ra còn mấy tờ giấy bạc, anh lấy đủ số mua cái ruột xe, bỏ vào túi áo sơ-mi của nó treo gần đó. Chị vợ liếc một cái:
                            - Sao hôm qua nói không còn một đồng, bữa nay lại có, tiền giựt của ai?
                            Anh lấy mười ngàn từ mấy tờ còn lại cho vào túi quần để đi đường, số còn lại, anh đưa vợ:
                            - Tui gom ba cái phế liệu bán được mấy chục, hồi tối tính đưa mình mà quên.
                            Anh ôm hôn đứa con gái lên ba một cái rồi dắt cái xe cà tàng ra ngõ. Chị vợ lầm bầm mấy câu trong miệng rồi nhìn lại mấy tờ giấy bạc anh đưa. Ra tới đường lớn, anh ghé quán cà phê bình dân kêu một cái đen, trả bù hôm qua thiếu ruột ly, vậy là hết bốn ngàn. Anh nghe đói. Hôm qua, ông thầu mời ăn giỗ và đám thợ thầy cứ chén chú chén anh, anh không ăn được gì lại bị uống. Bình sinh, anh không thích rượu nhưng không dám từ chối sợ mất lòng người trên. Rốt cuộc, chiều về với cái mặt đỏ lừng, anh nằm lăn ra ngủ. Bây giờ thì đói, thôi kệ, gói xôi một ngàn đỡ bụng. Anh vừa đạp xe vừa ăn. Nghĩ tới thằng con trai mới mười lăm đã lớn ngồn ngộn bằng ba, năm nay bước vào lớp tám, không biết học hành ra sao. Anh chỉ biết đọc, biết viết. Con mồ côi mà! Ở với bà ngoại tới mười tuổi thì ngoại qua đời. Ăn chực ăn nhờ nhà dì nhà cậu thì phải làm, ai đâu có tiền lo cho đi học. Từ mười ba tuổi, anh đã làm quen với cái thùng hồ. Bắt đầu làm hồ, làm chỉ để ăn ba bữa. Nhưng anh siêng năng lại hiền. Ai kêu gì cũng làm, ai sai gì cũng được. Miệt mài được bảy năm, anh đã làm thợ. Trong đám con gái xách hồ, anh chấm đứa coi được nhất, cho dù nó là đứa dữ dằn có tiếng. Con nhỏ thấy anh hiền lại siêng năng và không biết nhậu nhẹt bê tha như những người thợ khác, nó chịu. Đám cưới đãi được bốn mâm: hai mâm nhà trai nhà gái và hai mâm bạn bè. Thôi thì, giàu cũng cưới, nghèo cũng cưới. Cho dầu xe hoa, cho dầu kèn trống, cho dầu đãi ở nhà hàng, cho dầu cô dâu có thay bao nhiêu lần áo đi nữa thì hạnh phúc vẫn là điều quan trọng. Đám cưới không rước dâu. Cái nhà lá nhỏ của vợ anh đang ở trở thành tổ ấm. Anh không nhà nên ở luôn bên vợ... ông già vợ anh ngày xưa cũng là thợ hồ. Thời trẻ làm lụng quá sức tới già sanh đủ thứ bịnh. Thằng con trai lớn của anh vừa được năm tuổi, ông ngoại ra đi. Từ lúc vợ có thai thằng con lớn, anh đã không cho làm hồ nữa. Anh ráng làm để vợ được yên ổn đẻ con và nuôi con. Anh vui mỗi khi về nhà nhìn thấy vợ, thấy con. Anh không biết nói lời hoa mỹ, anh chỉ nói thật lòng. Anh làm lụng vất vả để vợ con được cái ăn, cái mặc. Anh không dám ăn ngon, không đàn đúm bạn bè. Cuối tuần, lãnh tiền xong, đám bạn kéo nhau đi làm một chầu bồi dưỡng. Anh ra chợ mua chút bánh cho con, cục xà bông thơm cho vợ. Tiền lãnh bao nhiêu anh đưa hết cho chị cất giữ. Thấy nhà hàng xóm có cái ti-vi, anh ao ước sao mua được một cái để vợ con không phải đi coi ké nhà người ta. Nhưng như vậy chừng như cũng chưa vừa lòng chị. Chị bực tức cái nghèo của anh. Chị bực tức cái khờ khạo của anh. Chị muốn được chở đi chơi vào mỗi chiều. Còn anh về tới nhà, cơm nước xong đã nằm lăn ra ngủ. Cả ngày phải vật lộn với công việc, buổi trưa, anh thường lãnh làm thêm công chuyện để có thêm tiền. Anh không dám than thở. Mình là đàn ông, làm không nuôi nổi vợ con thì để mặt mũi đâu.
                            Từ lúc thằng con lên cấp II, anh thường lén vợ cho tiền nó. Tội nghiệp, lớn rồi mà cứ ăn cơm nguội đi học, cũng phải có tiền uống nước chớ. Chị cằn nhằn những tuần anh đưa tiền ít: “Ăn xài cho dữ, mai mốt vợ con đi ăn mày cho vừa bụng mấy người nghe!”. Anh chỉ cười. Những lần đó, anh cho tiền con mua thêm tập sách. Thằng bé thương ba, nhưng lại sợ người mẹ dữ dằn. Nó ráng lắm mà không học giỏi được có lẽ cái gien di truyền? Nó muốn nghỉ học đi làm hồ nhưng anh không chịu: “Con cứ ráng học hết cấp III đi, ba ráng làm nuôi con nổi mà!”.
                            ***
                            Anh vừa về tới nhà đã thấy đứa con nhỏ mếu máo khóc. Nhìn thấy vợ ăn mặc như chuẩn bị đi đâu, anh ngạc nhiên:
                            - Giờ nầy mà mình sửa soạn đi đâu?
                            - Tôi đi kiếm việc làm. Ở nhà trông vô mấy đồng lương chết đói của anh, tôi chịu hết nổi rồi!
                            - Mình... mình đi làm việc gì? Anh ngạc nhiên há hốc miệng...
                            - Chị Sáu giới thiệu tôi làm ở một quán nhậu. Chỉ làm mấy tiếng ban đêm thôi mà bằng lương cả ngày của anh đó! Được chưa? Bây giờ ăn cơm rồi coi con nhỏ giùm tôi. Tôi đi làm mới có thêm cái ăn cái mặc. Con cái ngày một lớn mà trong nhà trống hoác như vầy, ai chịu nổi!
                            - Nhưng sao mình không bàn với tôi. Con còn nhỏ, mình bỏ nó ở nhà tội nghiệp lắm!
                            - Bởi vậy tôi mới đi buổi tối. Anh về giữ con. Anh giữ con không được sao?
                            Chị nói rồi, quơ cái túi xách bước ra cửa. Con bé khóc thét lên. Anh ẵm xốc con lên dỗ dành: “Nín đi con! Ba ẵm con đi chơi nghe! Đừng khóc!”. Thằng con trai vừa về tới cửa, vẻ mặt buồn hiu, nó đã biết chuyện:
                            - Con thấy mấy bữa nay dì Sáu qua nói gì với má. Con không dè má đi làm ở quán nhậu. Con đã nói ba cho con nghỉ học theo ba đi làm hồ mà ba không chịu.
                            Mấy cái quán đó phức tạp lắm. Con không muốn má đi làm ở đó đâu!
                            - Con còn ở tuổi đi học thì cứ ráng học. Biết chữ rồi làm được công chuyện nhẹ nhàng hơn, chứ như đời ba thì cực khổ lắm.
                            Thằng con buồn ra mặt. Nó nhìn ba bằng ánh mắt cảm thông. Con nhỏ đã nín khóc. Anh ẵm con đi dài theo con hẻm. Một vài người nhìn anh ái ngại.
                            ***
                            Chị đi làm được một tuần. Đêm nào về cũng đầy mùi bia, rượu. Chị có vẻ ngượng ngùng với anh: “Khách ép thì mình phải chiều! Đi làm thì phải được lòng khách, chủ người ta mới mướn mình”. Anh buồn bã không nói gì. Anh không lạ gì cái cảnh trong các quán rượu nhưng anh không quen cãi lẫy với vợ. Và anh cũng hiểu chị muốn chia sẻ cái gánh nặng gia đình với anh. Anh tuy không vừa ý công việc chị đang làm mà lại không có giải pháp nào tốt hơn. Hôm kia, chị đã mua cho anh bộ đồ, thằng lớn bộ đồng phục. Anh không vui gì khi nhận quà từ những đồng tiền của chị làm ra. Đêm nay, con bé bị sốt, nó không ngủ mà cứ vật vã khóc. Biểu thằng lớn giữ em, anh chạy ra hiệu thuốc đầu hẻm mua cho con một liều. Đã chín giờ rồi. Anh độ chừng chắc một tiếng đồng hồ nữa chị về. Anh cho con uống thuốc và thắc thỏm ngồi chờ.
                            Đồng hồ nhà bên gõ đều mười hai tiếng, anh giựt mình ngơ ngác. Mòn mỏi quá nên anh đã ngủ quên trên ghế. Chị vẫn chưa về. Anh giở mùng con, con bé chừng chịu thuốc đã ngủ say. Anh bỗng lo sợ, không biết có chuyện gì mà tới giờ này chị vẫn chưa về. Anh khép cửa, đi ra đường. Trời dường như sắp mưa. Hơi nước lành lạnh trong không gian tĩnh mịch làm anh dứt cơn buồn ngủ. Anh ra tới đường lớn. Có bóng một người đàn bà bước chếnh choáng như một người đang say rượu. Anh ngờ ngợ rồi đi nhanh tới. Người đàn bà quỵ xuống đường. Anh tới gần, sao giống vợ mình quá, nhưng quần áo thì không giống. Anh cúi sát xuống thì chị đã ngã vật ra đường. Ánh đèn đường vừa sáng trên gương mặt người đàn bà ấy. Anh thảng thốt: “Trời ơi! Đúng là mình rồi!”. Bằng tất cả sức lực đàn ông, anh ẵm xốc chị như ẵm một đứa bé rồi bước nhanh về nhà.
                            ***
                            Khi đã được lau mặt bằng nước ấm, đã được uống chút nước trà gừng, chị tỉnh lại và thút thít khóc. Thằng con trai đã thức dậy từ lúc ba nó ẵm má vô nhà. Nó lăng xăng nấu nước giúp ba và bây giờ ngồi bó gối. Anh ngồi kế bên và cứ để yên cho chị khóc. Anh chưa biết chuyện gì xảy ra. Nhưng thấy chị như vầy, anh không nỡ hỏi. Chị vẫn khóc, tiếng khóc phát ra từ cái miệng lúc nào cũng la cũng chửi, bây giờ sao cam chịu quá, tội nghiệp quá! Mãi một lúc, chị đã bớt xúc động, anh khẽ khàng:
                            - Chuyện gì vậy? Mình nói tôi nghe coi!
                            Chị nhìn anh như nhìn một người mới gặp. Anh ngồi đó, tay nắm lấy bàn tay chị, chị cảm nhận được những vết chai trong lòng bàn tay anh. Bàn tay đã làm biết bao việc để vợ con đỡ nhọc nhằn vất vả. Bàn tay đã đem cơm, đem áo về nhà dù chỉ là những bữa cơm đạm bạc, những chiếc áo rẻ tiền. Chị ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn anh. Tại sao anh không mắng chửi chị, tại sao anh không bỏ mặc chị - con đàn bà hư hỏng, con đàn bà chưa từng ngọt ngào với chồng. Cứ mở miệng là chị mắng chửi anh. Sống với nhau bao nhiêu năm, anh chưa từng la rầy chị. Lẽ ra, chị phải biết thương anh, phải thấy mình có phước hơn biết bao người đàn bà khác. Từ khi cưới nhau, tuy nghèo nhưng chị cũng chưa thiếu ăn thiếu mặc. Có một năm, anh đã làm tới gần giao thừa mới bước thấp bước cao về nhà vì đã gần kiệt sức. Anh đã lãnh quét vôi gấp cho một căn nhà. Anh đã đứng suốt mười hai tiếng đồng hồ để nhận số tiền công hậu hĩ của chủ với đôi chân sưng vù vì tụ máu. Bây giờ nghĩ lại, nước mắt chị lại chảy dài trên má. Chị đi làm trong quán nhậu mới ba ngày đã có người để ý. Đó là một tay chủ tiệm buôn hàng điện tử. Cái nhan sắc mặn mòi của chị, của người đàn bà vừa bước qua tuổi ba mươi đã làm gã động lòng. Biết chị không phải gái làng chơi mà chỉ vì hoàn cảnh mới đi làm việc này, gã quăng lưới. Mấy lần mời chị ăn khuya. Mấy lần đưa về để tạo thiện cảm, chị đã xiêu lòng. Chị cứ nghĩ gã tốt, thấy hoàn cảnh nghèo của chị mà thương. Và đêm nào chị cũng đi ăn với gã. Đêm nay, gã đem đến một gói quà gồm mấy bộ đồ đắt tiền và một số mỹ phẩm. Gã xin cho chị nghỉ sớm và cũng đi ăn. Xong, gã đưa chị tới một nhà nghỉ ở ngoại ô. Lẽ ra chị phải từ chối. Lẽ ra câu chuyện phải dừng lại ở đây. Anh chưa bao giờ có lỗi với chị ngoài chuyện anh nghèo. Chị đi làm cũng vì muốn kiếm tiền thôi. Chị vẫn chưa là người xấu mà! Nhưng điều gì đã khiến chị bước vào nhà nghỉ với gã. Nhìn căn phòng sạch sẽ với chiếc giường nệm trắng tinh, cặp gối, cái mền... mọi thứ đều đẹp, đều hơn hẳn cái giường ngủ tồi tàn của vợ chồng chị, chị thấy xót xa cho mình nhưng cũng gờn gợn một cảm giác lo sợ phập phồng. Gã chủ tiệm mở bọc đồ ra để chị no mắt với những bộ quần áo đắt tiền mà chị chỉ thấy trong mơ. Gã biểu chị đi tắm. Chị nghe lời gã như một người máy. Chị không còn là chị nữa.
                            Đúng lúc chị vừa bước ra khỏi phòng tắm với bộ đồ ngủ tuyệt đẹp thì có tiếng đập cửa, tiếng một người đàn bà nào đó la ó khóc lóc và còn tiếng nhiều người nữa. Gã chủ tiệm không còn hồn vía gì khi nghe tiếng vợ. Gã mở cửa và cả đám người ùa vào. Chị bị người đàn bà với thân hình hộ pháp túm lấy trước tiên: “Đồ giựt chồng người ta nè! Mầy ăn gan trời rồi!”. Ả vừa chửi vừa đấm túi bụi vô người chị. Chị đưa tay chống đỡ và nước mắt trào ra. Người ta cố can ngăn, cố ôm ghì lấy người đàn bà đang trong cơn ghen hừng hực. Gã đàn ông đứng như trời trồng không dám xông vô. Người chủ nhà nghỉ phải dùng hết sức mới kéo được người đàn bà đó ra. Y cũng tìm cách đẩy chị ra cửa rồi biểu: “Về mau đi! Còn ở đó làm gì!”, rồi y xởi lởi phân bua: “Chị bớt giận! Làm ầm lên mọi người biết chỉ thêm mất mặt chồng rồi còn làm ăn gì được. Đàn ông ai mà không tằng tịu bên ngoài đôi chút, miễn là biết lo cho gia đình thì tốt rồi! Chị nghe tôi đi!”.
                            Chị đi như chạy ra khỏi nhà nghỉ, mãi một lúc mới định được hướng về nhà. Chị đi như sợ người ta đuổi theo. Nỗi đau thân xác đâu sánh bằng nỗi đau đang giày vò lương tâm chị. Chị bỗng thấy thương anh, bỗng thấy cuộc đời này anh mới là người chồng xứng đáng nhất. Chị chắc chắn anh sẽ không làm cái việc có lỗi với chị và chị nhớ lại những gì mình đã cư xử với anh. Chị mường tượng giờ này chắc anh đang lo lắng, nước mắt chị lại trào ra. Dường như có một vết thương trên môi. Chị đưa tay sờ và thấy máu. Chị bật khóc thành tiếng và lủi thủi bước đi trong nỗi đau đớn ê chề. Chị chỉ mong có anh bên cạnh lúc này để chị được chở che. Cái ý nghĩ về anh đã giúp chị có thêm sức mạnh. Bước ngã bước xiêu, cuối cùng chị cũng về được để gặp anh.
                            ***
                            Trời mưa giông rồi cũng dứt. Những hục hặc trong căn nhà ọp ẹp của anh chị cũng không còn nữa từ sau cái đêm kinh hoàng đó. Chị nghỉ làm và mua một chút bánh kẹo bán cho đám con nít trong xóm. Người trong xóm cũng không còn nghe tiếng chị chửi chồng chan chát từ lúc vừa thức dậy. Chị đã thay đổi, thay đổi đến thằng con trai cũng ngạc nhiên. Chị thấy thương chồng biết bao khi so sánh anh với những người đàn ông chị đã gặp. Chị muốn bù đắp lại những tổn thương mà chị đã gây ra cho anh. Còn anh, khỏi phải nói cũng biết anh hạnh phúc đến dường nào. Trời đã thương và đền trả cho anh. Anh đã không trách cái việc làm nông nổi của chị. Anh biết chị không là người xấu, chị cũng vì gia đình mà phải dấn thân. Trái tim biết yêu thương và biết tha thứ của anh đã thức tỉnh con người chị. Chị đã cảm nhận được thế nào là hạnh phúc và chị sẽ gìn giữ nó. Thằng con trai bỗng dưng học khá lên. Chính tình thương yêu của ba má và không khí vui vẻ, ấm cúng của gia đình đã tiếp thêm lòng tin và sức mạnh cho nó. Chỉ còn một nguyện vọng vô cùng chính đáng của chị mà anh phải thực hiện cho bằng được: “Em thích được anh chở đi chơi vào mỗi chiều, cho dù là trên chiếc xe đạp chẳng mới mẻ gì của anh!”. Và dĩ nhiên là anh đồng ý.
                             
                            Nguồn: baocantho.com.vn
                            #14
                              mssthuan 12.03.2007 16:11:17 (permalink)
                              "Nắng trên sân trường"
                              NGUYỄN NGỌC TUYẾT
                               
                              Phương về tới bến đò thì trời đã sụp tối. Mới hơn năm giờ nhưng ở quê trời tối rất nhanh. Bước lên bờ đã thấy mẹ ra đứng trước cửa ngóng xuống bến.
                              - Sao mẹ ra ngoài này? Buổi chiều gió lớn lắm!
                              Vẫn nụ cười thật hiền trên môi bà mẹ:
                              - Thấy trời tối mà sao con chưa về, không biết có việc gì...
                              - Con xuống trường họp mà. Mấy hôm nữa con đi thì sao?
                              - Ừ, con đi hẳn thì khác, ít ra mẹ biết con đang ở đâu.
                              Phương dìu mẹ vào nhà, lòng nao nao. Ừ, mình còn chưa quen chuyện xa nhà, huống hồ là mẹ... Nhưng rồi sẽ quen thôi mà!
                              Không muốn mà Phương vẫn nhớ những ngày đi học ở ngôi trường bên kia sông. Nhà chỉ cách trường một con sông, con đò chỉ quẫy vài mái chèo là tới nơi. Rồi đậu vào đại học, trường có xa hơn nhưng đạp xe hơn nửa giờ cũng tới. Mẹ con hủ hỉ có nhau trong gian nhà nhỏ, thật êm đềm, ấm cúng. Chị Hai lấy chồng xa, lâu lâu tạt về vẫn ganh tị:
                              - Út thiệt sướng!  Tối ngày được ở với mẹ.
                              Vậy mà ra trường rồi út cưng lại phải xa mẹ. Dù mỗi tuần cố về nhà một lần với mẹ nhưng sao cho bằng mỗi trưa, mỗi tối được ngồi bên mâm cơm cùng mẹ, ăn những món mẹ nấu, húp một ngụm nước canh ngọt tận ruột gan bởi đó là canh rau của vườn nhà, là trái bầu trái mướp tươi xanh từ bàn tay chăm sóc chắt chiu của bà mẹ nghèo.
                              - Hay là con cứ ở lại công ty đó nghe mẹ?
                              - Không được đâu con, làm việc mà không gắn bó với nghề, không thật sự tôn trọng nó thì làm sao tiến được hả con ?
                              - Nhưng... trường xa quá! Mẹ lại một thân, một mình...
                              - Xa gần là do lòng mình con à. Bộ con tính đi luôn sao ? Mấy mươi cây số thôi mà!
                              Cuộc nói chuyện của hai mẹ con trước khi Phương dứt khoát đi vào ngả rẽ quan trọng của đời mình đã cách đây một năm mà dường như mới hôm qua đây thôi.
                              ***
                              Ngày đó, Phương học rất giỏi ở trường trung học, bạn bè, thầy cô đều nghĩ con bé sẽ thi vào một ngành gì đó “sáng giá” ở đại học. Nhưng cuối cùng Phương đã chọn vào sư phạm, lại là sư phạm Văn, một nghề chẳng hứa hẹn gì ở tương lai theo quan niệm của đa số bạn bè và thầy cô. Nhưng, cô giáo chủ nhiệm suốt ba năm cấp ba, người Phương yêu kính nhất trong ngôi trường này có lần đã dạy:
                              - Quan trọng nhất là làm bất cứ việc gì cũng phải toàn tâm, toàn ý các em à. Phải nhớ trong cuộc đời, không có nghề nào bạc bẽo đâu, chỉ có người bạc hay không thôi!
                              Ngày Phương đậu vào đại học với số điểm rất cao, bạn bè vẫn xì xào:
                              - Con nhỏ thật dại!  Học như nó thi gì mà không đậu.
                              Cũng chính cô giáo đã cười thật tươi khi nắm chặt tay Phương:
                              - Chúc mừng em, cuối cùng em đã dám chọn và dám đi trên con đường của chính mình. Những người như các em rồi sẽ tỏa nắng trên sân trường, sẽ thắp lên hy vọng cho các thầy cô đấy.
                              Lúc đó, cô học trò cũng không hiểu hết lời cô giáo, không hiểu sao cô lại vui mừng đến thế. Cũng như nhiều lần đến nhà cô, Phương không hiểu sao trên bàn cô chỉ một bông hồng vàng cắm mãi trong chiếc bình nhỏ, không bao giờ là một loài hoa khác. Đám học trò thắc mắc, cô giáo chỉ cười, hóm hỉnh:
                              -Thì tại cô thích, có vậy thôi!
                              Nhưng ý nghĩa của “Nắng trên sân trường” thì Phương hiểu, các bạn trong lớp cũng hiểu. Bởi đó là tựa đề bài viết của cô mà! Cái bọn đứng thứ ba sau quỷ, ma này vẫn hay mè nheo với cô:
                              - Cô ơi, cho tụi em một chút “Nắng trên sân trường” đi!
                              Và, như một qui ước “Nắng trên sân trường” chính là tình cảm ấm áp, thương yêu giữa cô trò dưới mái trường thân thiết. Phải chăng vì chút nắng tươi đẹp ấy, vì ảnh hưởng của cô trong cả một thời thiếu nữ ấy mà Phương quyết đi đúng sở nguyện của mình: Cô giáo dạy văn!
                              Và, cũng như một qui ước, mỗi lần sinh nhật cô, đám học trò cưng vẫn mang đến tặng cô những bông hồng vàng để nhà cô ngày hôm ấy rực rỡ hoa vàng, bất chấp ý nghĩa của chúng. Cả bọn đều tâm niệm: “Tại cô thích mà!”. ..
                              Chính vì tâm niệm ấy, Phương đã gắng sức học thật đàng hoàng, thật tốt suốt ba năm đại học. Mình phải ra dạy lớp, phải đứng trên bục giảng, chịu trách nhiệm trước bao nhiêu học sinh. Lơ mơ là không được đâu! Ở đâu còn gian dối được, chứ nghề dạy học làm sao sai được, làm sao dốt được phải không?
                              Cứ thế, cô học trò nhà bên kia sông, mỗi ngày phải bước xuống phà đạp xe đến trường ấy năm nào cũng học giỏi, cũng được bạn bè trầm trồ khen ngợi. Ra trường với tấm bằng loại giỏi, cô tưởng con đường trước mặt mình sẽ thênh thang rộng mở, nào ngờ... Bây giờ nhớ lại Phương vẫn tự chế giễu mình ngây thơ, lẫn trong nụ cười vẫn còn chút man mác, bùi ngùi.
                              Tiếng là ngành sư phạm, có học bổng, có cam kết ra trường sẽ phục vụ ngành giáo dục ít nhất mười năm nhưng hầu hết các bạn cùng khóa đều xoay xở, chạy vạy vào những nơi không dính líu gì đến chuyện dạy học.
                              -Miễn sao có bằng đại học thôi,  làm gì cho kha khá một chút chứ. Đi xin việc thì “nhất thân nhì thế” mà.
                              Đám bạn vẫn “lên lớp” cô bé nhà quê như vậy. Bù lại, những sinh viên muốn xin xuống trường dạy như Phương cũng đâu phải dễ. Nghe nói hồ sơ xin việc cũng chất chồng cao nghệu, nhiều đứa cứ đợi được phân công, đợi mãi đến thua buồn rồi cũng phải tự thân vận động để sống còn thôi. Có đứa cũng được gọi lên, đề nghị đi dạy ở một trường xa tít tắp, nghe nói tới đã giật mình, thấy quyết định không dám cầm. Thế là “Kháng lệnh điều động công tác”, mai mốt đừng hòng được phân công lại. Mà có chịu đi xa thì bao giờ mới được về gần trong tình hình khủng hoảng giáo viên vừa thừa vừa thiếu một cách kỳ cục này?
                              Cả một năm trời, Phương không hề nghe một chút tăm hơi nào về đơn xin dạy học của mình. Chỉ những câu trả lời chung chung “chưa có nhu cầu, cứ chờ đã”, còn chờ tới bao giờ thì không ai trả lời. Đến nỗi Phương đã xin thử việc ở một công ty trách nhiệm hữu hạn, chỉ mong được gần nhà. Nhớ lại, cô gái vẫn còn phập phồng, hoang mang...
                              Vị trưởng phòng nhân sự hỏi cộc lốc:
                              - Biết vi tính không?
                              - Dạ biết.
                              - Trình độ ngoại ngữ?
                              - Em có bằng B Anh văn.
                              Lúc này, ông ta mới ngước lên nhìn, cái nhìn như xuyên qua người Phương, rồi ngừng lại hồi lâu trên gương mặt.
                              - Được. Ngó bộ cũng xinh đấy, cứ thử việc ba tháng đã.
                              Thế là sắm sửa lệ bộ hăm hở đi làm. Còn nhớ mẹ Phương sáng sáng vui vẻ chuẩn bị quà sáng, ủi sẵn quần áo, chăm chút cho cô út cưng chu đáo thế nào mới biết mẹ mừng lắm vì con gái làm việc gần nhà.  Phương cũng vậy. Nỗi buồn không được đi đúng nghề dường như có nguôi ngoai trước niềm vui của mẹ. Nhưng bước “vào đời” sao mà trắc trở!
                              Công ty Phương xin vào là một công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh vật liệu xây dựng, công việc buôn bán khá phát đạt, văn phòng có mấy nhân viên toàn là nữ, lại rất xinh đẹp, đúng “mốt”.  Công việc thì nhẹ nhàng, chỉ trực điện thoại và nói chuyện với khách trước khi dẫn vào phòng trong. Mấy chị cũng “cưng” cô em nhỏ nhít lắm, nhưng vì con bé chỉ ở vòng ngoài nên lúc thì:
                              - Phương ơi, pha giùm chị tách cà phê sữa đi. Cà phê và bình thủy nước sôi trên bàn nước đó!
                              Lúc thì:
                              - Phương ơi, qua bên đường kêu cho chị tô bún riêu đi, sáng chị đi vội quá, chưa ăn gì. Em có ăn gọi luôn đi nhé, chị bao!
                              Và đương nhiên, khi có khách đến làm việc cùng ông chủ thì bưng bê trà nước là việc của con bé mới vào làm rồi! Vậy mà, qua phỏng vấn, Phương cứ lo là mình không đủ sức để làm tốt công việc!
                              Cuối cùng, sau ba tháng thử việc, không cần đợi ý kiến của phòng nhân sự, Phương đã xin rút lui. Đến giờ cô cũng không biết nếu tiếp tục ở lại mình sẽ thế nào.  Mấy chị văn phòng thì ra vẻ quyến luyến cô bé dễ sai, dễ mến:
                              - Khờ quá, sao em lại thôi ? Trước sau gì em cũng được vào chính thức mà. Thời buổi này việc làm có phải dễ tìm đâu!
                              ***
                              Ngôi trường cách thành phố hơn bốn mươi cây số, phải đi qua hai chặng xe buýt và rẽ vào một con đường trải đá dăm, đi bộ một khoảng mới tới, được cái chung quanh rất yên tĩnh. Thầy hiệu trưởng tuổi trung niên đưa cô giáo mới vào mấy căn phòng trong khu tập thể giáo viên và giới thiệu:
                              - Trường mới mở hai năm nay thôi. Trước chỉ có trường cấp 2. Thầy cô đa số cũng từ thành phố xuống cả nên phải ở lại tại trường. Cô giáo đừng lo không có bạn...
                              Phương ngắm nghía ngôi trường, nơi đầu tiên mình sẽ bước lên bục giảng,
                              lòng bồi hồi. Hình như cô đã trải qua một quãng đường xa, bụi bặm, gió cát để đến được nơi này. So với ngôi trường Phương từng học tập thì ngôi trường hiện ra trước mắt thật nhỏ nhoi, khiêm tốn làm sao. Một dãy phòng lớp lợp mái tôn, những chiếc bàn chiếc ghế đóng bằng cây tạp. Mấy tấm bảng có vẻ còn tạm bợ chưa đúng qui cách. Bên kia là văn phòng nối liền một phòng rộng dùng làm phòng giáo viên và thư viện.  Bốn năm máy vi tính nằm trong một phòng bộ môn chật hẹp... May mà đã từng đi làm và từng thất vọng nên Phương không thấy hụt hẫng.
                              - Trường mới nên cần giáo viên. Em muốn đi dạy thì phải chịu đi xa thôi. Mới ra trường ai cũng vậy mà...
                              Dĩ nhiên Phương biết không phải “mới ra trường ai cũng vậy” đâu! Một vài bạn cùng khóa vẫn được ở thành phố đó thôi. Nhưng đã quyết đến với trường lớp rồi thì có hay không những lời vỗ về ấy cũng chẳng nghĩa lý gì!
                              Và, sau một năm đi dạy, Phương biết rằng mình đúng. Nói như lời cô giáo cũ thì chính những đứa học trò dễ thương đã “tỏa nắng” trong lòng cô giáo trẻ. Lần đầu tiên bước vào lớp, khi bốn chục đứa đứng lên chào rền vang: “Chúng em kính chào cô”, Phương nghe như có tiếng reo vui trong lòng. Rồi nhìn xuống, thương quá những khuôn mặt ngây thơ, những bộ quần áo đủ màu, đủ loại. “Học sinh là con em lao động nghèo cả, trường không bắt mặc đồng phục được”, thầy hiệu trưởng đã báo trước vậy mà sao Phương vẫn thấy rưng rưng.  Và ngay từ đó, một sợi dây êm ái đã cột chặt cô trò rồi...
                              ***
                              Hết kỳ nghỉ hè cô giáo Phương lại từ biệt mái nhà yêu dấu bên bờ sông, bước xuống đò sang thành phố trở lại trường. Hình ảnh người mẹ đứng trên bến một mình ngó theo vẫn khiến Phương chạnh lòng, nao nao. Sao mẹ không vào nhà đi mẹ, mai mốt con về mà. Nhưng Phương biết, mẹ đang mừng cho con gái đã dám thực hiện mơ ước của mình. Mấy đứa bạn cũ gặp lại vẫn cười nhạo:
                              - Mày gan thật! Thời buổi này mà đâm đầu vào nghề giáo!
                              Chắc bọn chúng muốn “dọa” Phương về sự xuống dốc của giáo dục, về những tiêu cực đăng trên các báo đài, về sự tha hóa của ai đó trong những người đứng lớp... Phương biết, bục giảng đang ngửa nghiêng, uy tín của người thầy đang bị sa sút từng ngày, từng ngày. Nhưng chẳng phải hôm rồi về thăm, cô giáo mình đã nói:
                              - Vàng thật thì không sợ lửa em à. Cứ làm hết lòng mình, hết sức mình đi đã. Cuộc hành trình đi vào cuộc sống là vô cùng vô tận mà...
                              Chiếc xe buýt chạy băng băng đưa cô giáo trẻ trở lại ngôi trường vùng huyện xa, trở lại với những khuôn mặt học trò thân yêu để kịp lễ khai giảng niên học mới ngày mai. Ngồi trên xe, đột nhiên Phương nhớ đến lời phát biểu chắc nịch của cô nàng Scarlett O’ Hara - nhân vật yêu thích của mình trong “Cuốn theo chiều gió”: “Ngày mai sẽ là một ngày mới”!
                              Cô giáo trẻ trên đường trở về bục giảng hôm nay rất muốn tin như thế!
                               
                              Nguồn:baocantho.com.vn
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 31 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9