Truyện ngắn sưu tầm

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 31 bài trong đề mục
Tác giả Bài
mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 14:31:08
Bông hồng muộn
 
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
 

Buổi sáng chị vào trường, thấy cơ man là hoa. Hoa tươi trên các bàn giáo viên, hoa trên tay các em học sinh nam, hoa đầy sân trường và ngoài cổng trường. Đám sinh viên càng ngày càng biết cách làm ăn, không bỏ qua một ngày lễ nào, tiếp thị hoa hồng đến tận trường, thậm chí cả các trường cấp 2. Nào ngày Tết thầy cô 20-11, nào ngày lễ tình nhân 14-2 và hôm nay, đúng ngày quốc tế phụ nữ 8-3.
Nhìn những bó hoa, đa số là hoa hồng nhung trên tay các học sinh nam, chị không khỏi chạnh nghĩ đến những lớp học trò hàng mươi năm trước. Có đứa hái cho cô một vài cành bông bụp ở vườn nhà, có đứa gom góp đâu đó mấy chùm hoa dại nhưng rất đẹp tặng cô. Những cánh hoa ướt đẫm sương và tươi tắn như chính tâm hồn bọn trẻ khiến đêm về nhìn bình hoa đủ loại cô giáo cứ tủm tỉm cười một mình. Hồi ấy đám học trò của chị ngờ nghệch mà dễ thương làm sao! Giờ thì bọn chúng “điệu đàng” lắm rồi.  Những bông hồng đỏ thắm đều được gói giấy thật đẹp, thật sang trọng. Mỗi bông hồng trong những ngày này có khi đến mươi, mười lăm ngàn đồng chứ ít đâu! Đúng là hình thức có tiến bộ hơn nhiều nhưng chả biết tấm lòng người trao tặng có tương xứng vậy không? Bởi “của cho không bằng cách cho” mà!
Vừa bước vào văn phòng, chị chủ tịch công đoàn đã chận lại hỏi:
- Sao, hôm qua em theo cô Thủy ra tòa thế nào rồi?
Chị lắc đầu, ngao ngán :
- Vẫn là chuyện muôn thuở đó mà. Anh quyết ly hôn, chị quyết không chịu. Hai bên kể xấu nhau nghe mà bắt mệt!  Em không hiểu nhỏ Thủy nghĩ sao, thằng chồng “cạn tàu ráo máng” vậy mà nó cứ khư khư là còn thương!
- Đã bảo nó “tâm thần” mà. Chứ em không thấy chồng nó đưa lý do đó để xin ly dị sao ?
- Thì vậy. Em khuyên nó đồng ý thôi đi, nó lại bảo “Không muốn sau này chồng ân hận”. Mà ngó bộ thằng cha đó thì làm sao ân hận được. Thoát khỏi nhỏ Thủy và hai đứa con nó mừng còn không kịp. Nghe Thủy nói nó đã có sẵn người đàn bà khác rồi mà!
Chị chủ tịch công đoàn cũng lắc đầu:
- Thiệt, hết hiểu nổi mấy cô bây giờ!  Cô Thủy mới ngoài ba mươi thôi, ráng chịu đau một lần, vẫn còn cả cuộc đời trước mặt. Hay nó muốn kéo nhùng nhằng cho đã nư?
Không dám lần chần ở những chuyện “rối như canh hẹ” này, chị bước ra ngoài, nhớ hôm nay mình còn rất nhiều chuyện phải làm. Là tổ trưởng nữ công trong ngôi trường có hàng trăm giáo viên mà hơn nửa là nữ, chị phải tổ chức, điều động biết bao thứ trong ngày lễ này. Mỗi năm phải đổi mới trò chơi, đổi mới hình thức đón mừng ngày phụ nữ. Đâu chỉ là những bó hoa được trao tặng cho các cô giáo và các nữ sinh mà còn là các cuộc thi nữ công gia chánh, thi cắm hoa, thi hùng biện hay giới thiệu tuyên truyền sách, có năm lại tổ chức diễn đàn về “tình bạn, tình yêu” cho học sinh, về “ứng xử trong gia đình” cho các chị em trong trường...
Đang đi dài theo hành lang bỗng có tiếng gọi giật ngược:
- Chị Nhân ơi!
Chị quay lại, một thầy giáo trẻ đang nhìn chị cười vui:
- Năm nay sao mình không tổ chức cho các thầy nấu ăn nữa hả chị?
Chị cũng cười, biết là anh chàng chỉ hỏi đùa thôi, chứ không thì mặt hắn ta đâu có tươi tỉnh thế kia.
- Thôi đi ông!  Cho mấy ông làm bếp còn mệt hơn tụi tôi tự làm. Phục vụ gì mấy ông!
Nhìn anh bạn đồng nghiệp trẻ đi khuất sau dãy phòng lớp học, chị nhớ lại mấy năm trước mình đã vận động các thầy trong trường thi nấu ăn để mừng ngày 8-3. Thôi thì mỗi tổ đăng ký làm khéo một món, tổ chiên chả giò, tổ mì xào giòn, cá lóc nướng, gà rô ti... Các ông hăng hái lắm, thiện chí lắm nhưng cuối cùng vẫn là các cô trong tổ xúm nhau làm trước cả dù luật thi “cấm phụ nữ rớ vào”!  Khổ nỗi đến cả việc sắp mâm, bày biện ra dĩa cũng phải các cô “cố vấn”. Thi xong, các tổ ngồi xuống liên hoan, các ông thầy hí hửng vênh váo còn các đồng nghiệp nữ, chủ nhân của ngày 8-3 thì phờ phạc, nuốt không vô. Các cô giáo khiếu nại:
- Thôi, không tổ chức kiểu này nữa nghe, mệt muốn chết!
Đúng là như câu hát đùa mấy anh chàng hay nghêu ngao:
Hôm nay ngày 8 tháng 3
Tui giặt dùm bà cái áo của tui. ..
Vậy mà họ còn bày đặt than phiền :
- Sao năm nào cũng có ngày 8-3 rộn ràng khí thế như vậy, còn bọn tôi sao không có ngày “Phụ nam” ?
Tuy biết chỉ là đùa vui nhưng đôi lúc chị cũng chạnh lòng. Cứ nghĩ giá như không còn ngày lễ phụ nữ này thì mới thực sự là nam nữ bình đẳng phải không? Cứ hô hào, cứ nhắc nhở để nhớ đến vai trò, vị trí người phụ nữ trong gia đình, trong xã hội cũng chính vì họ chưa được coi trọng, chưa có chỗ đứng xứng đáng như lẽ ra phải có. Nghĩ vậy chỉ thêm buồn thôi! Nhớ có lần, cách đây lâu lắm rồi, khi còn đầy nhiệt huyết, chị đã phát biểu với các học trò nữ của mình trên một diễn đàn:
- Các em phải làm sao cho ngày nào cũng là ngày 8-3 chứ đừng để người ta tổ chức cho mình. Làm sao cho sự bình đẳng về giới tính phải trở thành chuyện tất yếu và bình thường. ..
Giờ nghĩ lại, chị mỉm cười, bâng khuâng tiếc nhớ một thời sôi nổi, tràn đầy khát vọng mà cũng thật đáng yêu. Cuộc sống đã mài giũa, gạn lọc và mở ra cho chị nhiều điều. Cái ông thầy thời gian ấy thật khắc nghiệt mà cũng thật sâu sắc làm sao!

*
* *


Căn phòng của câu lạc bộ nữ công đông nghẹt người, đa số là các cô giáo và các em nữ sinh tham gia cuộc thi làm thiệp, cắm hoa. Chị đi qua một vòng, nhìn từng chiếc bình hoa vừa hoàn tất đang đợi giám khảo chấm điểm. Đúng là sức sáng tạo của học trò thật phong phú. Mỗi bình hoa một chủ đề, một cách chưng cắm khác nhau.  Có bình hoa như “Suối nguồn tuôn chảy” khắc ghi công ơn mẹ, có bình phơi phới vươn lên như “Tuổi thanh xuân”, có những bông hoa cắm trong cát, trong gai góc như tinh thần “vượt khó”, rồi tình yêu, tình bạn, tình thầy trò hòa quyện trong từng cách cắm, từng loại hoa, cành nhánh sử dụng. Rồi thiệp chúc nữa, muôn màu muôn vẻ từ bàn tay khéo léo của các em nữ. Có thiệp giấy, thiệp vải, thiệp tre trúc... Những bông hoa nhỏ xinh xinh, mấy chú bướm xòe cánh sặc sỡ, mấy cành thủy trúc cứng cáp, cành lan mềm mại, cành hồng kiêu sa... Hình như mỗi lần ngắm nhìn những công trình của học trò, người giáo viên trong chị lại thêm chút niềm tin. Tuổi trẻ vẫn còn đó, sự trong sáng vẫn còn đó trong tâm hồn học trò chị... Những bão giông, cuồng loạn dường như chưa thấm thấu sâu vào mái trường này? Chẳng biết chị có “lạc quan tếu” không đây!
Cũng giống như bây giờ vậy, nhìn mấy cô giáo đang tíu tít ngắm nghía, chấm điểm từng tác phẩm, cô nào cũng hân hoan cười cười nói nói, ai biết được trong lòng họ giấu kín bao nỗi buồn đau, vật vã. Như cô Hạnh, cô giáo dạy nữ công gia chánh đó, cô vừa chia tay với ông chồng tệ bạc, ôm hai đứa con còn trong độ tuổi tiểu học lầm lũi đi về trong căn nhà nhỏ. Đứng kế bên là cô Lan, một cô giáo lớn tuổi sắp hưu, năm vừa qua cô đã phải “đầu bạc khóc đầu xanh” khi thằng con trai gặp tai nạn xe cộ. Còn cô giáo xinh xắn, nhanh nhẩu như lẫn vào đám học sinh nữ kia là cô Thoa, vui vẻ, nhí nhảnh vậy nhưng về nhà là tất bật với bà mẹ nằm liệt giường suốt mấy năm nay, phải gởi hàng xóm trông chừng mỗi khi đi làm... Mỗi người một cảnh đời, một nỗi lo toan phiền muộn mà chị, người tổ trưởng nữ công phải nắm rõ để sẻ chia, an ủi, giúp đỡ. Gánh nặng công việc quả nhiều lúc khiến chị oằn vai, muốn vứt bỏ nhưng lại không đành, bởi suy cho cùng, chị có khác gì đâu!

*
* *


Mãi đến tối mịt chị mới về nhà. Dư vị của buổi tiệc còn đọng trên môi và nỗi mệt mỏi càng lúc càng lan dần lan dần khiến chị lơ mơ, ngớ ngẩn thế nào. Cổng nhà đã khóa, thằng con trai chắc đang say giấc nồng. Chị mở cửa phòng, nhè nhẹ bước vào. Mình thật tệ, bận đến nỗi không hỏi được con trai coi hôm nay nó tặng hoa cho ai? Nó đã kết thân với bạn gái nào chưa? Năm nay nó đã 19 tuổi rồi chứ nhỏ nhít gì đâu. Vậy mà...
Nỗi áy náy, ray rứt càng rõ hơn khi chị bước vào phòng mình. Trên bàn làm việc của chị, một đóa hồng vàng trong chiếc bình nhỏ đang nhìn chị,  thoang thoảng hương. Ôi chao, lại bông hồng vàng!  Sao mà thằng nhỏ hiểu ý mẹ đến vậy!  Chị cúi nhìn bông hồng vàng trong tay mình, bông hồng chị vừa ghé mua ở đầu chợ. Không năm nào chị mang những bó hoa của học trò tặng về nhà. Ở trường suốt cả ngày, sợ hoa héo khô nên chị thường gởi cho các cô khác mang về cắm hộ. Năm nào chị cũng tự mua cho mình một cành hoa hồng vàng cắm vào bình bởi người đàn ông có thể tặng hoa cho chị đã ở một phương trời xa lắc. Ôi, người đàn ông của đời chị! Hình như đã lâu lắm rồi từ khi anh trao cho chị cành hoa hồng vàng cuối cùng, để sau đó chị chỉ cắm toàn hoa hồng vàng trong chiếc bình hoa nhỏ của mình.
Chị khẽ khàng cắm bông hồng vàng mới mua vào bình hoa, cạnh bông hồng của con trai, lòng nhẹ tênh. Bao nỗi nhọc mệt trong ngày như tan biến hết. Đêm nay, người phụ nữ đã có đến hai đóa hoa hồng vàng. Và những đêm của năm tới, năm tới nữa, đóa hồng vàng trong chiếc bình hoa nhỏ sẽ không còn đứng lặng lẽ, cô đơn. Mặc cho ai đó cho rằng màu vàng là màu của sự phản bội trong tình yêu, chị vẫn yêu thích, vẫn trung thành với nó từ khi đọc truyện “Bông hồng vàng” của nhà văn Nga K.Pau-xtop-xki. Bông hồng vàng của người hốt rác già Samet với ước mơ hạnh phúc cho nàng Suzanne yêu thương, bông hồng vàng từ những nhà văn biết bòn đãi những hạt rất nhỏ của bụi vàng để làm thành tác phẩm của mình, “Bông hồng vàng” của truyện, của thơ...
Và, chị đã từng có những ngày hạnh phúc rạng ngời như chính những bông hồng vàng chị từng chắt chiu. Một bông, rồi hai bông, ba bông... Bao nhiêu đóa hoa anh chiều theo ý thích của người yêu trao tặng chị trong ngày lễ tình nhân, ngày tôn vinh phụ nữ, ngày sinh nhật và... bao nhiêu ngày khác nữa, những ngày chị đắm say trong “Hoa vàng mấy độ” ấy. Lâu lắm rồi chị không muốn nhớ, không muốn ngoái đầu nhìn lại. Vậy sao đêm nay, từ một bông hồng muộn màng khuya khoắt chị lại ngậm ngùi xao xuyến thế kia?
Người phụ nữ lặng lẽ thay quần áo, mở ngọn đèn ngủ màu xanh nhạt rồi lên giường nằm, thao thức bồi hồi như cô gái trẻ thuở nào xa. Trong bóng đêm, hai đóa hồng vàng trong chiếc bình nhỏ vẫn lung linh, lung linh như một điểm sáng nồng ấm, thân thuộc đưa chị vào giấc ngủ an lành.
 
 

Nguồn: baocantho.com.vn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.03.2007 14:33:14 bởi mssthuan >
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 14:38:56
Xuân muộn
Phạm Văn Thúy
 
 
Vừa lau bộ lư đồng ông Tư vừa ngóng ra ngõ, bồn chồn:
- Hai chín tết rồi mà thằng Tuấn chưa về! Không hiểu có chuyện gì?
Bà Tư thở dài:
- Ông à, tui thấy lo lo! Tết này mình đã hứa với anh chị Hai, dẫn thằng Tuấn sang cho giáp mặt với con Tú nhà người ta. Nó không về. Việc lỡ dở. Biết ăn nói với họ sao đây?
- Thôi, bà cứ lo gần lo xa. Để tôi tính. Chắc có chuyện gì nó mới về trễ.
Không lẽ nó chưa muốn lấy vợ...
* * *
Trong lúc đó, Tuấn đang bị bác sĩ thụ lý ca chấn thương, cật vấn:
- Cậu là người nhà của bệnh nhân?
Bị hỏi bất ngờ, Tuấn lúng túng:
- Dạ, thưa... không... à phải.
- Vậy là sao? - Vị bác sĩ ngạc nhiên.
- Dạ, cháu là người nhà. - Tuấn bạo miệng.
- Bệnh nhân đang hôn mê sâu. Vết thương kín. Qua hội chẩn, cần phải mổ ngay. Để lâu sẽ đe dọa đến tính mạng. Cậu chuẩn bị làm thủ tục mổ và tiền để lo thuốc men...
Giọng bác sĩ đều đều, tự nhiên và pha chút lạnh lùng. Những sóng âm đó vô hình trung làm trái tim Tuấn rung lên những nhịp quặn thắt, rối bời, lo lắng...
Ngồi ngoài phòng mổ, ruột gan Tuấn như tơ vò: Tết này về trễ, chắc ba má giận lắm đây. Ngặt nỗi, còn việc sang thăm nhà ông Hai để gặp Tú, người mà Tuấn chưa hề biết mặt, Tuấn chỉ nghe qua sự giới thiệu của ba má. Vạn sự khởi đầu nan! Lần đầu thất hứa, liệu chuyện tình duyên có êm xuôi? Năm tới là năm Đinh Hợi, mình tròn hai con giáp. Năm tuổi, chắc xui xẻo lắm đây...
Còn cô gái kia là ai? Nhà cửa, quê quán ở đâu? Người gì mà đi ra đường chẳng có một mảnh giấy lận lưng! Biết đâu mà lần ra tung tích? Thế mới gay go chứ! Càng nghĩ mông lung, Tuấn càng thấy rối. Tuấn thầm tự trách: ma sui quỷ khiến thế nào, mình lại đi cùng chuyến xe lôi với cô ấy. Hai chín tết còn gặp xui! Cô ta bị tai nạn, chưa biết sống chết thế nào. Người thân không có ở đây, mình bỏ sao đành! Thôi, đâm lao thì phải theo lao. Làm phước hãy làm cho trót. Kẻo tội với trời...
Đêm Hai chín tết. Tuấn thức để nuôi hy vọng và cầu nguyện sao cho lưỡi hái tử thần không đến viếng thăm cô - người bạn đường bất đắc dĩ. Sau hơn ba giờ phẫu thuật, cô gái được đưa về phòng hồi sức. Theo bác sĩ, bệnh nhân đã qua cơn nguy kịch. Người nhà phải luôn có mặt, để đáp ứng mọi yêu cầu của thầy thuốc và bệnh nhân. Thế là Tuấn chưa thể rời khỏi cô gái, ít nhất cũng là lúc này, để báo tin mình mắc kẹt cho ba má yên tâm. Còn chuyện tiền bạc, đối với Tuấn cũng tạm ổn. Cả năm làm việc, tích cóp được dăm triệu đồng, tết này Tuấn định mang về giúp ba má sửa sang nhà cửa. Ai dè lại gặp phải cảnh này... Thôi, mặc! Suy nghĩ nhiều cho mệt! Người làm ra tiền, chứ tiền đâu có làm ra người. Giúp người mà tính đơn tính kép thì còn gì gọi là giúp!
Mãi sáng mồng Một Tết, cô gái mới tỉnh lại. Tuấn mừng khôn xiết. Chỉ mong có thế, Tuấn mới giải tỏa được bao câu hỏi đang vặn xoắn trong đầu. Tuấn sẽ đi báo tin. Tuấn sẽ “bàn giao” bệnh nhân cho người nhà của cô ta. Tuấn được giải phóng. Tuấn kịp về đón tết với ba má và sang nhà người ta... Niềm vui của Tuấn bỗng như ngọn đèn gặp gió. Bởi cô gái đã tỉnh nhưng trí nhớ vẫn chưa hồi phục. Cô đờ đẫn nhìn Tuấn ngơ ngơ vô hồn, vô cảm. Hỏi hoài cô cũng không nói, kêu gì cô cũng chẳng nghe. Vậy là niềm vui đến với Tuấn sao mà ngắn ngủi và mong manh quá thể! Rối lòng, chưa biết tính sao, Tuấn chỉ còn biết đợi chờ, hy vọng và cậy nhờ vào sự can thiệp của các y, bác sĩ.
* * *
Trưa Hai mươi chín Tết, bà Tư rầu rĩ, bảo:
- Ông nè, có lẽ thằng Tuấn không về thiệt? Hay là ông sang nói với ông bà Hai cho phải đạo. Không khéo người ta bảo mình ba xí ba xáo...
Ông Tư gạt mạnh tàn thuốc đang hút dở xuống cạnh bàn, những đốm sáng lóe lên tứ tán.
- Bà nghĩ cũng phải. Nhà ông Hai ở cuối xã, bơi xuồng biết chừng nào tới!
- Thì ông kêu thằng cháu, đèo ông bằng xe gắn máy qua...
Chân bước lên hàng ba nhà ông Hai, ông Tư bỗng chột dạ, khi thấy trong nhà im phắc, không có vẻ gì là tết nhứt. Ông Tư chủ động lên tiếng:
- Tết nhứt đến nơi rồi, anh Hai chưa chuẩn bị gì sao?
Giọng ông Hai rầu rầu:
- Anh Tư sang chơi! Vợ chồng tôi đang rối hết cả ruột gan. Sáng qua biểu con Ba đưa quà tết cho dì Năm nó ở Cần Thơ. Biểu đi về trong ngày. Không hiểu sao bây giờ nó chưa về...
Ông Tư lặng thinh, đợi ông Hai nói xong, bảo:
Vợ chồng tôi cũng đang lo chẳng kém gì anh chị. Nói thiệt, giờ này thằng Tuấn nhà tôi, cũng chưa về. Sợ thất hứa, tôi sang thưa với anh chị trước. Có gì... xin thứ lỗi.
Mỗi ông một tâm trạng, mỗi ông một nỗi niềm. Nhưng, dường như ý nghĩ của họ lại gặp nhau ở một điểm: nhất định có chuyện xảy ra đối với con của họ rồi! Ngồi nhà mà lo nghĩ, chẳng giải quyết được gì, chỉ làm cho đầu óc rối thêm. Lo lắng lại chồng lên lo lắng!... ông Tư chợt nảy ra “sáng kiến”. Ông đề nghị: “Anh Hai nè! Giờ này còn kịp, tôi và anh cùng lên Cần Thơ kiếm chúng nó xem sao? Tôi có linh cảm chuyện chẳng lành...”.
Nghe lọt cái lỗ tai, ông Hai gật đầu. Họ gấp gáp ra lộ, bắt xe lên Cần Thơ.
* * *
Đêm cuối năm dần buông. Cái đêm khép lại mọi sự may rủi, buồn vui, phúc họa... của mỗi con người. Cái đêm mở ra một năm mới đầy sôi động, thách thức và bao ước mơ, hy vọng tốt lành. Song, giờ đây, Tuấn chỉ mong ước có một điều thiệt giản dị: cầu nguyện cho cô gái mau phục hồi. Để Tuấn còn...
Trong bệnh viện, vắng lặng đến xao lòng. Ngoài đường ồn ã, náo nhiệt bao nhiêu thì trong bệnh viện ngược lại bấy nhiêu. Thỉnh thoảng có những tà áo trắng của y, bác sĩ như cánh thiên nga lướt qua trước mặt Tuấn. Tuấn miên man nhớ lại.
... Trưa Hai tám Tết, Tuấn giao chìa khóa phòng cho chủ nhà trọ. Anh háo hức vẫy xe lôi để ra bến xe, về quê ăn Tết và sẽ sang chơi nhà cô gái mà Tuấn chưa hề biết mặt. Trên xe lôi đã có một cô gái. Cô ý tứ dịch sang bên cho Tuấn ngồi. Tuấn nhìn cô, thăm dò: “Em cũng ra bến xe?”. Cô gật đầu: “Dạ!  Còn anh?”. “Anh cũng ra bến. Em về đâu?”. “Em về Vĩnh Thạnh”. Tuấn hồ hởi: “Anh cũng về Vĩnh Thạnh nè...”. Hai người mải mê trò chuyện như đôi bạn thân. Xe vừa qua khỏi cầu Nhị Kiều. Bỗng rầm một cái, xe lôi mất thăng bằng, đổ nghiêng. Cô gái văng ra khỏi xe, ngất xỉu. Rất may Tuấn kịp nắm được thành xe lôi nên chỉ xây xước qua loa. Tuấn vội vàng đưa cô gái vào bệnh viện...
Còn hơn hai giờ nữa đến giao thừa. Tuấn chưa bao giờ thấy mình trống vắng và thèm khát sự sẻ chia, giúp đỡ như lúc này. Niềm an ủi duy nhất đối với Tuấn là cô gái đã phục hồi trí nhớ. Cô đã “biết” khóc, cười. Cô gọi ba kêu má. Cô đã nhận ra Tuấn và cô hỏi cô đang ở đâu? Cô bảo tên cô là Ba, quê ở... Song, những điều cô nói mới chỉ là chuỗi hỗn tạp những sắc màu sáng, tối đan xen. Nhưng dù sao cũng là những tín hiệu tốt lành, là “món quà” để Tuấn và cô mừng đón giao thừa.
Bên giường bệnh, Tuấn đang đắm mình trong suy tư. Bất chợt cửa phòng bật mở. Y sĩ trực đưa hai ông già vào. Quá bất ngờ, Tuấn nhảy dựng ôm chầm lấy ba, mắt đỏ hoe, rưng rưng sung sướng:
- Ba à! Con vướng phải cái cô nầy nên lỡ hẹn... Mong ba thứ lỗi...
Ông Tư tìm thấy con trai, mắt cũng rơm rớm, tay chỉ sang ông Hai:
- Mầy có biết ai đây không? ông Hai - cha con Tú, ba vợ tương lai...
Tuấn ngơ ngác chưa hiểu sao, anh chỉ kịp khoanh tay: “Cháu chào bác!”.
Ông Hai ngồi xuống bên con gái. Cô nức nở: “Ba ơi, con bị tai nạn... Nhờ có anh Tuấn giúp... Tuấn tốt lắm... Không có Tuấn, chắc con...”. ông Hai xoa xoa đầu con gái, mắng yêu: “Tổ cha mi! Mi làm ba má và em Tú ở nhà lo hết hồn! Ba và ông Tư đây đi tìm tụi bay. Đến nhà trọ kiếm thằng Tuấn, chủ nhà bảo nó về từ trưa Hai tám tết rồi! Đến dì Năm tìm, dì bảo nó cơm xong rồi về ngay... Hai đứa làm hai già nầy tá hỏa tam tinh, chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khắp. Rồi mọi người bình tĩnh đoán ngược đoán xuôi: có thể nó bị tai nạn giao thông, chắc nằm trong bệnh viện không chừng! Quả nhiên, kiếm được hai đứa ở đây. Mừng hết chỗ nói!”.
Ông Hai siết chặt tay Tuấn nói lời cảm ơn, rồi bảo.
- Ba cháu nói về cháu đã lâu, nhưng bữa nay bác mới gặp cháu. Người mà cháu cứu giúp chính là chị con Tú. Tết này ba cháu và bác định cho cháu và Tú giáp mặt.... Thôi, chuyện đó tính sau, hai cha con mau về nhà để đón giao thừa, kẻo chị Tư lo...
Ông Tư nhìn đồng hồ, bảo. “Về sao kịp, sắp giao thừa rồi! Ông, tôi và tụi nó đón giao thừa ở bệnh viện xem có vui hơn ở nhà không? Tết này hai gia đình đón xuân muộn một chút nhưng mà vui, chắc vui nhất là thằng Tuấn nhà tôi và con Tú nhà ông”.
Mọi người cười vui vẻ, cũng vừa lúc chuông giao thừa ngân vang.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 14:46:19
Bên lề một đám cưới
TÔN NỮ THANH YÊN
 
 
Đã gần đến ngày thím Hồng lên máy bay đi Úc thăm con gái sắp sinh con đầu lòng, mà chuyện hôn nhân của Thịnh chưa trù tính được gì. Thịnh muốn cưới vợ vào cuối năm nay. Thím Hồng lại đi nước ngoài với thời hạn sáu tháng. Thịnh muốn gì thì cũng phải chờ mẹ trở về. Thím Hồng còn nói để coi qua bển có con gái nhà nào tử tế sẽ cưới về cho Thịnh. Thịnh vùng vằng không chịu nghe. Hai mẹ con cứ vậy mà cãi lẫy nhau. Chung quy cũng vì thím Hồng không chấp thuận, lấy lý do thân thế, địa vị và gia sản của gia đình Liễu không tương xứng với gia đình mình. Đây không phải là lần đầu, đã một lần cách đây sáu năm, thím Hồng từng viện lý do “môn đăng hộ đối” để ngăn cản Thịnh nên vợ nên chồng với cô gái là mối tình đầu của Thịnh. Thế, em của Thịnh, đã yên bề gia thất mà Thịnh còn lần lữa, hôn sự coi mòi chẳng được hanh thông, suôn sẻ.
Đến ngày thím Hồng chuẩn bị hành lý, Thịnh mới về nhà sau mấy ngày bỏ đi đâu biệt tăm, gia đình nhắn tin gọi điện mấy cũng tắt máy không trả lời. Thịnh về, tránh không nhìn vào mặt mẹ, chỉ lẳng lặng giúp mẹ đóng gói hành lý. Thím Hồng đang tíu ta tíu tít lo bao nhiêu chuyện cho chuyến đi xa nên có vẻ chẳng để ý bận tâm gì đến cậu con lớn. Chú Thiệp, Thịnh và vợ chồng Thế đi thành phố Hồ Chí Minh tiễn thím Hồng ra sân bay. Tôi ở nhà một mình trông coi ngôi nhà lầu đồ sộ. Cảm giác rằng khối bê tông nặng nề, trầm lắng này cần có tiếng chân người, giọng người cười nói, tiếng khóc nữa, cho vang động lên, ồn ào lên âm thanh của cuộc sống. Ngôi nhà lộng lẫy tân kỳ này đã không níu được chân Thế và Loan. Lấy cớ là con gái duy nhất nên Thế ở rể, tình thực là Loan né tránh chuyện sống chung với gia đình chồng. Chỉ còn chờ Thịnh “đưa nàng về dinh”. Vậy mà...
Thím Hồng vắng nhà vừa đúng một tháng thì có chuyện xảy ra... Dì Hảo, người chị cả của thím Hồng từ thành phố Hồ Chí Minh về chơi. Tôi ở trọ học trong nhà này đã hai năm, thỉnh thoảng vẫn nghe mọi người nhắc đến dì Hảo, đến nay mới gặp mặt. Thím mỗi khi nói đến người chị của mình thường tỏ lòng kính trọng, yêu quý. Chính điều này khiến tôi kiêng dè sự xuất hiện của dì Hảo.
Chú Thiệp xin nghỉ phép ở cơ quan, lấy xe máy chở dì Hảo đi đi về về như thoi đưa. Chị vợ và em rể cứ rầm rầm rì rì bàn bạc với nhau có vẻ tương đồng tương đắc. Lại thấy chú Thiệp gọi Thịnh đến cùng ngồi nghe. Thím Hồng đi, giao phận sự cơm nước chợ búa, nên đi học về là tôi túi bụi dưới bếp. Chẳng biết được những người ngồi trên phòng khách đang bàn tính việc gì. Thật không ngờ, dì Hảo và chú Thiệp đã đi đến quyết định tiến hành lễ đính hôn cho Thịnh và Liễu, trong lúc thím Hồng vắng mặt! Thịnh phóng xe đi về tất bật, mặt mày chàng ta bơ phờ nhưng không che giấu được sự vui sướng hài lòng lộ ra nơi cái miệng cứ cười cười. Vợ chồng Thế – Loan cũng đến góp tay vào việc sắm sanh sính lễ hỏi vợ cho anh trai. Dì Hảo huy động vợ chồng cậu Hiển, em kế dì Hảo, đi họ đàng trai. Chú Thiệp thì mời ba má tôi. Kể ra mới thấy sự trọng thị của dì Hảo lẫn chú Thiệp đối với cuộc hôn nhan của Thịnh. Lễ đính hôn được diễn ra suôn sẻ tốt đẹp. Gia đình Liễu được thông báo về sự vắng mặt của người mẹ bên đàng trai như là một điều bất đắc dĩ. Ngày lành tháng tốt được chọn cho đám cưới sẽ là cuối năm, khi ấy sẽ có mặt mẹ của Thịnh. Thịnh cũng không cho Liễu biết đám hỏi này là một sự “thông đồng, âm mưu”, vì ngại rằng Liễu sẽ mặc cảm hoặc tự ái. Tôi thì nghĩ, giống như một trận đánh úp, chưa biết kết quả sẽ được gì.
Thím Hồng trở về sau sáu tháng sống với gia đình con gái và thăm thú các thắng cảnh xứ người. Dư vị của chuyến du lịch còn say lòng thím Hồng cho đến ngày bà biết được chuyện xảy ra ở nhà trong lúc bà vắng mặt. Chưa bao giờ tôi thấy thím Hồng lồng lộn như vậy. Thím đập bàn. Thím xô ghế. Thím dằn chén cơm. Thím quăng đôi đũa. Đứng ngồi không yên, thím đi đi lại lại, rồi chửi mắng Thịnh té tát, rồi cãi cọ to tiếng với chú Thịnh. Cũng là lẽ thường tình, thử đặt mình vào tình huống của thím, ai cũng phải tức tối giận dữ. Lạ một điều, thím Hồng oán trách dằn vặt chồng con luôn mồm, ngày này sang ngày khác, nhưng tuyệt nhiên chẳng đả động gì đến dì Hảo. Tôi đem thắc mắc đó ra hỏi chú Thiệp. Chú giải thích: Dì Hảo là một người quyết đoán, đảm đang và tận tụy. Cha mẹ mất sớm, mới mười chín tuổi xuân đã một mình bươn chải nuôi năm em nhỏ. Dì Hảo có tài kinh doanh, biết làm lợi từ đồng vốn nhỏ, biết tích lũy mà thành sản nghiệp lớn. Một tay dì Hảo chu toàn cho các em ăn học rồi dựng vợ gả chồng cho. Em út ai nấy yên bề gia thất, dì Hảo ngoảnh lại mình đã luống tuổi, chịu ở vậy với danh phận một nhà doanh nghiệp thành đạt. Năm người em từ nhỏ đã sợ oai chị, gọi dạ bảo vâng, nhất nhất việc gì cũng nghe theo, vì nói chung điều gì dì Hảo làm đều là muốn tốt đẹp cho đàn em của mình. Những người em dâu, em rể cũng theo đó mà có sự kính nể đối với dì Hảo... Ức bà chị lắm, nhưng thím Hồng cất trong bụng không nói ra lời xúc phạm. Cho đến ngày dì Hảo lại xuất hiện...
Sau một bữa ăn, đề tài mấu chốt được đưa ra. Dì Hảo nói:
- Chúng ta nên bàn tính chuyện đám cưới của cháu Thịnh. Thịnh đã chững chạc trưởng thành; cháu muốn lấy vợ là lẽ tự nhiên và cháu đã có sự lựa chọn, dượng dì không nên ép uổng hay ngăn cản. Chị đã có tìm hiểu về gia đình và bản thân cháu Liễu. Họ có nề nếp gia giáo, ăn ở hiền lành thuần hậu; cháu Liễu bản tính dịu dàng hiền thục, nói năng nhỏ nhẹ lễ độ. Cháu về làm dâu thì không đến nỗi nào đâu, chỉ cần dì bảo ban rèn cặp cho cháu hợp với nếp nhà mình. Gia đình mình đã đem sính lễ đến hỏi con gái người ta, bây giờ đã đến lúc bàn đến lễ cưới... Ý kiến của chị là tán thành cháu Thịnh kết hôn với cháu Liễu.
Chú Thịnh nói rõ từng tiếng:
- Thưa chị, em cũng tán thành.
Mặt thím Hồng sa sầm u ám, giọng của thím nghe rung như đang dằn đang nén nỗi buồn giận:
- Em không tán thành. Lễ hỏi đó không có mặt em, nên em không có ý kiến. Nhưng, bây giờ em phải thưa cho chị biết: em không bằng lòng cái cách chị đã hành động áp đặt đối với em, cho em một sự đã rồi. Em vẫn còn quyền quyết định của mình; em là mẹ, em không cho phép con trai em lấy đứa con gái mà em không bằng lòng.
Dì Hảo nhìn thẳng vào mặt em gái, giọng điềm đạm:
- Em không bằng lòng cháu Liễu ở điểm nào?
Câu hỏi đưa ra như một khối u cần được mổ xẻ. Âm thanh, ngôn ngữ dậy lên, vỡ òa một cuộc tranh cãi. Tôi khép nép đi vào phòng mình. Một lúc, chú Thiệp và Thịnh lần lượt đứng dậy, đi lên lầu, ai về phòng nấy... Căn phòng của tôi, có ba bề tường không xây kín giáp trần nhà, lại có mấy vuông gạch gió, vì vậy, có đóng kín cửa phòng âm thanh vẫn lọt vào. Nỗi tò mò lại xui khiến tôi nghe ngóng câu chuyện rồi sẽ đi đến đâu. Hai người đàn bà ruột thịt ngồi lại với nhau. Sự im lặng nặng nề chen giữa họ. Rồi, dì Hảo cất giọng trầm trầm:
- Chị muốn kể cho em nghe câu chuyện này... Ngày xưa, chị có yêu một người (khi đó em mới lên bảy tuổi, chắc là không biết gì đâu!). Ừm, chị đã yêu một người. Anh ta đã ước hẹn với chị về một cuộc sống lứa đôi. Nhà anh mở tiệm buôn tạp hóa, cũng kể vào hàng giàu có. Năm đó, anh ta bị động viên, gia đình phải tốn nhiều tiền của chạy chọt mới không phải ra trận, chỉ làm lính kiểng. Chị thì cha mẹ mất sớm, để lại một đàn em lau chau, sống trong một căn nhà dột nát. Ước hẹn với nhau nhưng chị vẫn cứ dùng dằng lần lữa mỗi khi anh ta đề cập đến chuyện đưa cha mẹ đến xem mặt. Rồi... lần đầu.
Rồi... lần đầu chị đến nhà anh là khi hay tin ba anh vừa té ngã cầu thang. Anh đi đâu vắng. Hai người chị của anh nhìn từ bộ đồ chị mặc cho đến đôi guốc mộc chị mang bằng ánh mắt soi mói khinh thị. Mẹ anh thì cầm cây chổi quét qua quét lại mặt sân chỗ chị đứng. Nếp xưa ông bà dạy: khách đến nhà đừng cầm chổi quét nhà là có ý gì em biết đó! Vậy, lòng chị cay đắng đến chừng nào, em biết không?... Rồi, anh ta thưa dần những lần đến nhà mình. Lần cuối cùng, anh ta đến để nói lời chia tay. Chị hỏi: “Em đã làm điều gì lầm lỗi?”. Anh ta nói, câu nói trắng trợn và tàn nhẫn, câu nói mà chị đặt vào tim óc để lưu giữ suốt cuộc đời chị: “Mẹ anh không bằng lòng em... vả lại, anh không còn yêu em nữa... Anh không yêu ai ngoài yêu chính bản thân anh và gia đình anh”. Lạ lùng lắm em à, chị trơ trơ ra, không khóc lóc kể lể, không oán than trách móc, như là điều đó hiển nhiên sẽ xảy đến và chị đã chờ đợi để đương đầu với nó. Rồi, chị một thân một mình với cái gánh nặng, không một điểm tựa, không một bờ vai san sẻ... Chị làm việc để tìm quên, xoay xở bon chen khắp cùng phố chợ để kiếm ra tiền; gom góp được tí vốn, chị tính toán cách làm giàu. May sao, đồng tiền của chị cũng biết sinh sôi nảy nở. Chị tâm niệm một điều: quyết chí lo cho các em của chị được ăn no mặc đủ, học hành đến nơi đến chốn và tậu một ngôi nhà bề thế cho chị em mình. Chị làm tất cả những điều đó chỉ vì để cho các em của chị đến tuổi tìm đôi gặp lứa không bị gia đình người ta khinh khi rằng con nhà nghèo. Em ơi, có ai muốn cái nghèo đâu. Nhưng muôn đời nó vẫn là cái nhục, là sự thua thiệt của những người trót mang thân phận đó. Chị không muốn các em chịu nhục, chịu thua thiệt, không muốn các em phải mang nỗi mặc cảm tự ti. Và, chị đã hy sinh khoảng đời thanh xuân, hạnh phúc riêng của mình. Chuyện này, chị giấu kín bốn mươi năm nay, đến anh Hiển, chị Hoa của em cũng biết mập mờ... Bây giờ, em bình phẩm đánh giá về cái nghèo kém của gia đình người ta... là em đã chạm vào nỗi đau cũ của chị đó!...
Giọng kể ngưng bặt. Không nghe thím Hồng nói gì. Đột nhiên, thím Hồng bật khóc hu hu như trẻ con. Tiếng khóc rõ to, nức nở. Rồi, giọng thím mếu máo:
- Em xin lỗi chị... Em xin lỗi chị...
Tôi nghĩ ngay đến sự an bài cho đám cưới của Thịnh. Tự dưng, nước mắt tôi ứa ra.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 14:52:27
Bộ lư đèn
HUỲNH VĂN QUỐC
 
 
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
(Vũ Đình Liên)
 
Mới bảnh mắt, người ta đã ới nhau: “Còn một ngày nay thôi đấy. Cứ rề rà rồi gác việc đến sang năm!”. Phải, hôm nay đã là ba mươi tết, qua một đêm sẽ là... sang năm! Cái sang năm xa lắc xa lơ trong ký ức, cái sang năm chầm chậm ngày nào giờ đang rõ dần, nhanh dần trong mắt, trong tai và cả trong tâm trí Thuận. Mẹ anh càu nhàu: “Một tháng ba mươi ngày, không có lấy ở nhà một ngày. Hôm nay còn bộ lư đèn làm sao chà bóng cho kịp”. Ừ nhỉ! cái bộ lư đèn bằng đồng đặt trên tủ thờ từ khi Thuận mới đi lẫm chẫm đã nhìn thấy nó, qua bao nhiêu năm vẫn đứng lặng lẽ chứng kiến mọi thăng trầm trong gia đình. Bộ lư có từ thời ông nội. Hồi đó cả nhà còn phải lo toan đủ thứ chuyện, không ai nghĩ gì về một món “xa xỉ , nào khác không thiết thực với đời sống hàng ngày. Thiếu mấy thứ đó cũng chẳng sao, cái ăn cái mặc mới gớm, cái bệnh cái nạn lại càng gớm vô cùng.
Dạo ấy ông nội Thuận bị bệnh cũng kha khá, người cứ lọm khọm, vàng vọt chẳng cách nào chữa dứt. Mẹ phải bán hai con heo tạ, gác việc lo tết, đưa hết để ông đi chạy bệnh. Đi từ sáng tới chiều, thấy ông mang về bộ lư đồng do anh xe thồ đèo, trông hớn hở ra mặt. Cho đến giờ, Thuận vẫn nhớ như in cái “sự kiện” nhỏ nhoi mà vô cùng quan trọng đó của gia đình, cho dù sau này trong đời Thuận có nhiều chuyện “to tát” hơn nhưng chưa chắc đã quan trọng bằng. Lúc bấy giờ là cháu út, Thuận cứ chạy lăng xăng tíu tít cả lên:
- Cái gì vậy ông nội? Cái gì đẹp quá hè!
Ông nội cười chúm chím, vuốt chòm râu lơ thơ rồi âu yếm nhìn cháu:
- À, bộ lư đó con. Cái này để trên bàn thờ lổ tiên ông bà cho ấm cúng, một đời ông nội mới sắm được đó. Con biết nó được làm bằng gì không? Bằng vỏ đạn đó.
Ông lẩm bẩm như nói một mình- Nghĩ cũng hay thiệt, hồi xưa mình góp lư đồng đúc đạn, bây giờ lại lấy vỏ đạn làm lư đồng!
Thấy đôi mắt thơ ngây của Thuận tròn xoe chẳng hiểu chuyện gì, nội ôm cháu vào lòng như cố truyền niềm vui của mình sang:
- Ngày xưa chống Pháp, Chính phủ phát động tuần lễ vàng và tuần lễ đồng. Nhà mình nghèo chỉ có mỗi bộ lư, ông thuyết phục mãi, bà cố con mới chịu cho góp vào kháng chiến. Nội hứa hòa bình sẽ sắm lại để thờ phụng ông bà. Nhưng rồi lại tiếp tới chiến tranh, cha con phải ra trận rồi không về. Nội chưa có dịp thực hiện lời hứa với bà cố. Bây giờ sắp theo bà rồi, may gặp một đồng đội cũ làm nghề này, vậy là nội mua luôn. Cháu biết không, trong làng chẳng mấy nhà có bộ này đâu. Dành dụm mãi ông mới sắm được đó. Sau này con lớn, con có cái mà thắp nhang cho ông, hỉ ?
Từ nãy giờ mẹ Thuận như lặng đi, nghe đến đây không kìm nổi nữa, chen vào góp lời, không ra trách móc cũng chẳng ra tán đồng, cái thứ tiếng nói bị kẹt giữa đêm và ngày, giữa kìm nén và bùng nổ:
- Con không hiểu cha nghĩ làm sao lại lấy tiền chạy thuốc đi mua ba cái thứ này. Cha không tiếc thân mình thì cũng nghĩ tới tụi con một chút chớ. Lúc này chưa sắm được thì lúc khác, cái sức khỏe là quan trọng hơn hết...
Ông nội lại thong thả vê một điếu thuốc (cái này ông không bỏ được!), tay run run bật mãi, cái máy lửa cũ kỹ mới khẹc khẹc một chút vào tim gòn đã có mòi khô dầu:
- Tao không biểu tụi bây lo. Tao mua cái này, chết có đem theo được đâu mà tụi bây cự. Nó còn đấy tụi bây không ưng thì bán lại, nhưng tao còn sống được ngày nào để tao ngó qua một chút, tao thờ ông bà. Bệnh không còn chữa được thì phí tiền làm chi cho mệt.
Nói xong, ông bước lại tủ thờ, dọn dẹp để đặt bộ lư lên. Dù sao việc cũng đã rồi, mẹ bỏ đi xuống bếp, chuẩn bị bữa chiều, vừa làm vừa lẩm bẩm: “Khổ quá, có ai tiếc gì với cha đâu. Nhưng bệnh còn nước còn tát chớ, ai làm vậy bao giờ!”.
Cái tủ thờ bám đầy bụi giờ được quan tâm đặc biệt, sao cho xứng với báu vật mà nội đem về. Tủ này cũng đã lỗi thời, nhưng mẹ Thuận bảo phải đổi mấy chục giạ lúa mới có được. Nó được làm bởi một anh thợ vụng trong họ. Anh này không có đạo đức nghề nghiệp gì ráo, cứ quan trọng hóa vấn đề lên để đòi thêm tiền, kết cuộc là giao lại chiếc tủ rất giản đơn, không chạm trổ gì cả. Để cho dễ lau chùi, cái mà các người gọi là đẹp chỉ rườm rà bụi đóng mà thôi! “-Anh ta biện bác. “Thôi, cho qua - cha Thuận về phép tặc lưỡi - chẳng lẽ trả tủ đòi lại tiền để nó hẹn đến mồng thất, rồi cuối cùng tủ chẳng có, tiền cũng không?”. Thế là cái tủ ung dung ngự ở giữa nhà, nơi trang trọng nhất của gia đình. Lúc đó ông nội chẳng bình luận gì về cái tủ, chỉ vu vơ: “Còn thiếu có bộ lư!”.
Tưởng ông nói có vậy rồi thôi, không ngờ cái “khát vọng” ấy nó cứ canh cánh trong lòng ông mà không ai hay. Ý tưởng dù hay dù dở, hễ có nung nấu ắt có thực hiện khi gặp dịp. Thế nên nội đã chẳng ngần ngại khi dùng tiền chạy bệnh đưa bộ lư về - cái mà lúc đó dân làng còn cho là “xa xỉ”-mặc cho mẹ Thuận có phiền lòng vì nội sử dụng tiền sai mục đích, như cách nói của cánh ngân hàng ngày nay!
Và bây giờ bộ đèn-lư đồng đã ngự trên tủ thờ trông khá... hoành tráng, thỏa lòng ao ước ấp ủ bấy lâu của nội. Mẹ Thuận đã dọn cơm lên, nhưng ông không ăn, hình như không còn thấy đói là gì, không biết vì giận mẹ hay vì vui với bộ lư đồng.
Thuận cũng không ăn mà mon men theo nội. Ông đưa tay rờ rẫm từng bộ phận món đồ, nét mặt như giãn ra, thư thái. Bộ đồ đồng không chỗ nào còn ám bụi, vậy mà nội cứ săm soi rồi lau hoài. Hình như được chăm sóc, thậm chí nhọc công về một vật gì mình thích, con người lại thấy sung sướng hơn là được nghỉ ngơi (như sau này Thuận sắm được chiếc xe máy đầu tiên, tối ngày cứ săm soi lau chùi mãi!).
Thế nên nội lau hoài, lau hoài... Bộ đèn-lư như còn bóng hơn cả lúc mới mua, nếu ai nhìn gần có thể thấy rõ mắt mình từ trong ấy đang chớp chớp nhìn ra, đen láy.
*
* *
Những cái tết tuổi thơ Thuận trôi qua êm đềm như cuộc sống làng quê. Mẹ và các chị thường chạy việc tối ngày. Nhà chỉ còn hai ông cháu lo dọn dẹp, sắp xếp lại mọi thứ để đón tết. Cũng chẳng có gì nhiều, chỉ rong cái hàng rào tre, quét mấy chòm mạng nhện, nhổ mấy bụi cỏ bên hàng vạn thọ trước thềm, vậy mà sao cảnh nhà như mới hẳn ra, sáng sủa hẳn lên. Tết rồi đấy, nội bảo. Ờ, nghĩ cũng lạ, chỉ bớt cái này thêm cái kia cho khác với thường ngày đã là tết. Kỳ diệu mà đơn giản làm sao.
- À chưa thiệt là tết đâu, còn một việc nữa!- Đang lom khom dọn cỏ nội bỗng nhớ ra.
- Gì vậy nội?
- Bộ đèn-lư. Ông cháu mình còn phải chà bóng nữa chớ!
Thuận biết, chẳng phải đợi đến lúc ấy nội mới nhớ ra, mà từ mấy hôm trước, ông đã đi gom lá thơm, lá me, khế chua... đập dập ngâm nước với bộ đồ đồng để chúng kịp “nhả” lớp bụi thời gian của một năm trời, rồi sau đó hai ông cháu mới dùng tro bếp kỳ cọ cho đến bóng lộn mới thôi. Công việc này không mấy nặng nề nhưng chóng mỏi tay đối với Thuận, thành ra thuở nhỏ trong các khâu chuẩn bị tết, Thuận chán nhất là cái khoản chà đèn. Trong bộ đồ đồng ấy, công việc mà Thuận vừa thấy nhọc lại vừa thích làm là kỳ cọ con kỳ lân. Sau này đi học, có “thuyết” cho rằng đó là con sư tử, và múa lân dịp rằm Trung thu lại được nhà trường gọi là múa sư tử! Thuận thắc mắc, sư tử làm gì phun lửa được như lời ông nội bảo. Với lại trong tứ linh, long và lân là hai loại thuộc về truyền thuyết kia mà? Thôi, ai muốn kéo lân về làm sư tử thì kệ họ, riêng Thuận chẳng muốn theo. Kỳ lân thổi lửa pho pho, ông nội hay nói câu này lắm, cũng như hễ là rồng thì phải biết phun nước làm mưa vậy. Thuận tin điều ấy bằng tất cả sự hồn nhiên trong sáng của tuổi thơ. Vậy nên công việc chà đèn có đôi phần thú vị khi Thuận gọi đó là “tắm lân”. Từ cái vành tai, kẽ mắt, chiếc đuôi đến bộ vó của lân, Thuận say mê, chà xát tỉ mẩn đến sạch bóng. Hai mái đầu một già một trẻ chụm lại kỳ cọ từng kẽ lư, từng vòng đèn mất cả buổi mới xong việc. Khi bày lên tủ thờ, màu đồng của bộ lư đèn tỏa ra một thứ ánh sáng vừa ấm cúng vừa trang nghiêm, làm cho gian nhà trở nên “bề thế” hơn, tạo ra cảm giác có không khí của ngày tết. Quả như lời ông nói, tết vẫn chưa phải là tết khi bộ lư đèn chưa chà xong.
*
* *
- A, cậu út đây rồi, mẹ bảo cậu đưa bộ lư cho tụi cháu mang đi chà máy luôn thể.
Hai đứa cháu nhìn Thuận chờ đợi. Ngần ngừ giây lát, anh lắc đầu:
- Thôi, bữa nay rảnh, để cậu chà tay.
Tụi cháu tròn mắt nhìn anh, không hiểu. Nhưng nhiều việc bận bịu rộn ràng của mùa xuân đang đến đã giục chân chúng chạy đi.
Thằng con trai mới lên ba bi bô theo anh, lại có vẻ thích thú với cái mớ ngổn ngang đồng thau này. Nó lấy que gõ keng keng lên thành đèn, lên nắp lư rồi cười sằng sặc. Bộ này không có “chức năng” của chuông khánh, vậy mà âm thanh của nó cũng vui tai ra phết, nhưng phải là thằng nhóc lẫm chẫm gõ vào mới rộn ràng giục giã, mới gọi lòng người (nếu tuổi như Thuận mà ngồi gõ thì chẳng ra làm sao!). Nhưng bây giờ tiếng đồng kêu của thằng cu đã lay Thuận về với những ngày bên nội. Lúc ấy anh ngồi chồm hổm, đôi tay đầy tro và lá dập xanh lè, vẫn không quên gõ vào thành đèn khi bên trong khi bên ngoài thau nước : keng . . . keng . . . cạch! Khuôn mặt nhăn nheo của nội bị xẹt đầy nước ngâm! Mẹ Thuận đang theo chảo rim gừng trong bếp, nhìn ra quát: “Cái thằng! Mày phá ông nội quá vậy? Hỗn!”. Thuận lo lắng nhìn nội. Không ngờ ông lại cười dễ dãi, lắc đầu, nói như để cho mẹ Thuận nghe: Không sao, có phá mới có lớn chớ!”. Nội ít nói, mà nói câu nào Thuận thấy cũng hạp bụng mình cả, thiệt là mát ruột. Nghĩ đến đó, Thuận bỗng mỉm cười với thằng con trai. Nó tưởng anh khích lệ lại càng gõ dồn. Không sao, những vật bấy lâu im lìm cũng nên giúp chúng reo vui với đời một chút. Cũng như bộ lư đèn, mọi vật vô tri giờ bỗng như có hồn trước không khí tết. Chúng như bừng thức sau chuỗi ngày bị quên lãng, có đó mà không ai để ý tới vì còn bận nhiều việc phải làm. Giờ đây mỗi thứ đều kêu gọi, mời mọc mùa xuân theo cách của mình, nhắc nhở người ta quan tâm tới chúng.
*
* *
Những năm sau này, Thuận vẫn duy trì việc chà đèn thủ công bằng thuốc tẩy. Nhắc lại chuyện đánh bóng bằng lá cây, bạn bè Thuận giễu: “Ông quê bỏ mẹ, chỉ cần mươi ngàn, thuê máy nó cạo cho một loáng là bóng rạnh”. Thuận chỉ cười, không cãi lại. Chúng nó nói đâu có gì sai, cũng hợp với quy luật phát triển cả mà. Nhưng cái lạ là Thuận thấy mình cũng không sai, không sai nhưng không cắt nghĩa được cho chúng hiểu. À phải rồi, mỗi năm một lần, khi ngồi cặm cụi với bộ đèn lư đón tết, bóng dáng ông nội như vẫn ngồi bên Thuận, lặng lẽ cùng Thuận gột rửa lớp bụi thời gian phủ trên mặt đồng, tìm lại mùa xuân, tìm lại bóng hình bà cố, bóng hình cha Thuận, và bây giờ là bóng hình ông nội... Mà điều này thì mấy ai hiểu. Chỉ có mùa xuân hiểu cho lòng Thuận là ấm áp lắm rồi.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 14:57:16
Hồn đất
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
Vầng trăng mười sáu đã vành vạnh ở một góc trời. Gió chiều thổi lộng. Cả cánh đồng không còn một vạt lúa, chỉ lỗ chỗ những khoảnh đất vừa được đào lên khảo nghiệm. Không còn cánh đồng cò bay thẳng cánh. Không còn sóng lúa rập rờn... và cây ô môi già mấy chục năm tuổi, dễ chừng gần bằng tuổi ông Tư cũng bị đốn hạ hôm qua rồi. Đám công nhân đã bẻ hết trái, chỉ còn thân cây với những nhánh đen chỏng chơ nằm như một người vừa bị trợt té. Ông Tư đứng trầm ngâm. Gió thổi lộng làm mái tóc sớm bạc của ông lòa xòa thêm. Từ lúc người ta đồn đại đất nhà ông cùng với gần hai mươi hộ gia đình khác sẽ bị giải tỏa để xây dựng một nhà máy đường quy mô, ông đã nghe buồn. Nhưng ông không ngờ công trình lại làm mau đến vậy. Từ lúc mười mấy hộ gia đình nhận được thông báo họp mặt chính thức để chánh quyền công bố lịnh giải tỏa cho đến lúc phải ra đi, thời gian chưa đầy một năm. Bây giờ, nhà ở mới đã xây cất xong. Nhà tường lợp tôn hẳn hoi. Hai thằng con trai ông, mỗi đứa một chiếc xe gắn máy đời mới đàng hoàng. Tụi nó thì vui mừng tở mở, còn ông thì buồn đau đến đứt ruột mà chúng đâu hay. Đứa con gái út đang học lớp mười vui vì nhà đã ở gần trường. Vợ ông cũng tỏ ra nhạy bén không kém mấy người ở chợ. Nhà vừa xây cất xong đã mở liền một quán cà phê. Thằng Hai mau mắn đi rinh về cái máy hát với cặp thùng và suốt mấy ngày liền ông không làm gì được khi bên tai cứ ầm ào tiếng nhạc. Bà Tư có vẻ cũng thông cảm với ông, bà nhỏ nhẻ:
- Phải ráng thôi ông. Hoàn cảnh bây giờ khác rồi. “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Nắng bề nào che bề nấy”. Ông phải quen đi mới được. Với lại tui với ông bây giờ già rồi, sức đâu làm ruộng nữa. Còn mấy đứa nhỏ, nó sống theo thời, miễn có tiền sống no đủ là được. Ông buồn hoài sanh bịnh còn khổ nữa.
Ông nghe bà nói một hơi mà không trả lời một tiếng, chỉ lặng lẽ vấn thuốc hút. Từ ngày dọn nhà về đây, ông càng hút nhiều hơn. Buồn thì cứ vấn, cứ hút. Có ngày, ông không ăn được cơm. Con út đi học về phụ với bà bán quán. Khách cũng lai rai đủ tiền chợ. Thằng Hai, thằng Ba sáng xách xe ra chợ kiếm khách. Chạy xa chưa dám vì chưa quen đường lại chưa có bằng lái, tụi nó chạy gần. Mỗi ngày phụ thêm tiền gạo. Ông thấy mình là người dư thừa ra trong cái nhà nầy. Loanh quanh, luẩn quẩn ông đi kiếm tre làm một mớ cần câu cắm và bắt đầu với công việc mới của mình. Bà Tư biết chồng buồn nên thông cảm. Sáng ra, bà dậy sớm bắc nồi cơm lên bếp. Quán dọn xong thì cơm chín. Ông không ăn sớm nên giở cơm theo. Buổi trưa, ông tìm một chỗ ngồi. Nước trà nguội ngắt nhưng cũng không sao. Quan trọng là ông đã tìm lại được cái không khí của mình, tìm được cái khoảng không quen thuộc từ khi ông còn là một thằng nhỏ chăn trâu. Từ cánh đồng, con sông tới những chiếc cầu khỉ, cầu ván ông đã thuộc nằm lòng. Chỗ nào nước cạn, chỗ nào nước sâu. Chỗ nào nhiều cá, chỗ nào có tôm cua ông đều biết rõ. Nhà nghèo, hồi nhỏ ông không được đi học, ông đi giữ trâu cho nhà Sáu Đảnh, người khá nhứt trong xóm. Rồi lớn lên, ông cưới vợ. Vợ chồng siêng năng tằn tiện mua được mấy công ruộng, sắm được đôi trâu. Đời ông còn mong gì nữa. Ba đứa con ông đều được đi học. Thằng Hai tới lớp bảy thì cà trật cà vuột đòi thôi. Kệ nó, lớp bảy cũng được. Cũng hơn ông rồi. Nó làm ruộng giỏi và phụ được ông. Thằng Ba hơn anh nó, tới lớp chín, cũng nghỉ. Nó lại giỏi bắt cá, bắt cua. Ông thấy đời mình cũng đỡ vất vả rồi, còn mong gì nữa. Ba mươi mấy tuổi mới lấy vợ. Bây giờ, chỉ mong con nó có đôi có bạn để mình có cháu bồng ẵm cho vui tuổi già. Thằng Hai đã hai mươi hai mà cứ trắm trơ trắm trất ra đó. Ông biểu coi chỗ nào được thì cưới để có con. Nó cười: “Ba mua cho con chiếc xe còn có lý hơn”. Ông đâm quạu: “Mua xe rồi nó đẻ con cho mầy chắc? Bao nhiêu tuổi rồi mà chưa biết lo liệu chuyện gia đình!”. Nó cười chọc ông “Hồi đó, ba cưới má không phải tới hai mươi bốn tuổi sao? Con mới hai mươi hai mà sợ nỗi gì!”. Ông đuối lý nhưng cũng chống chế: “Hồi đó tao nghèo, đi làm kiếm ăn còn khó, nói gì tới vợ con. Còn bây giờ, tao có tiền lo, mầy sung sướng quá rồi có biết gì đâu!”. Ông nói rồi lại buồn. Năm mươi sáu tuổi rồi còn gì. Mấy người bạn đã một bầy cháu chớ ai như ông. Cũng may, tụi nó biết phụ cha mẹ kiếm tiền, chớ nếu tụi nó lại cờ bạc rượu chè hư thân, chắc ông còn khổ nữa. Ông đi cắm câu tưởng để khuây khỏa mà lại hay. Cá đem về ăn không hết lại bán cho lối xóm. Ông ra đi từ sáng. Siêng thì ở tới chiều. Bữa nào thấy uể oải thì về sớm. Từ ngày bắt đầu đi câu, ông đã tránh không đi về phía đất nhà cũ của mình. Ông không muốn nhìn thấy cảnh cũ mà thêm đau lòng. Nhưng hồi đêm nầy, ông mơ một giấc mơ lạ lắm: ông thấy mình đánh trâu cày trên đất cũ. Đằng kia, bà Tư đang cho gà ăn. Nhưng bà bỗng xa dần xa dần. Ông chạy theo, bà cứ như một làn khói... biến đi. Ông la ơi ới, tay ông đập mạnh trúng vô vách tường, đau điếng và ông choàng tỉnh. Bà Tư từ trong buồng đi ra. Bà mở công tắc đèn và thấy ông Tư ngồi chình ình trong mùng.
- Ông thấy gì mà mớ dữ vậy?
Bà vừa nói vừa rót cho ông ly trà nguội. Cả nhà đều thức. Thằng Hai chọc ông:
- Ba thấy ăn trộm hả? Sao ba la lớn quá vậy? Ba đập muốn bể tường luôn kìa. Ông đón ly nước từ tay bà Tư uống cạn rồi lại ra ngoài đi tiểu.
- Thôi! Có gì đâu, ngủ đi! Bà Tư vừa trở vô trong vừa biểu mấy đứa nhỏ đi ngủ. Con Út nằm thỏ thẻ:
- Chắc tại ba đi suốt ngày mệt quá nên mớ. Má nói với ba đi một buổi thôi, dang nắng tối ngày rồi bịnh.
Bà Tư nằm gác tay lên trán mà thấy thương chồng quá. Thôi thì tìm cách xoay xở kiếm lại một miếng đất cho ông, không chừng ông lại vui.
* **
Bà Tư âm thầm thực hiện ý định của mình. Tiền bồi thường còn dư một ít bà vẫn dành khi hữu sự. Còn số nữ trang của bà với con Út cũng bộn chớ, mà toàn là vàng 24. Bà không thích vàng 18, theo cách nghĩ của bà, rủi ro cần thiết thì không xài được. Bà nhờ Năm Miên, người em bà con dò hỏi giùm. Đất bây giờ hơi mắc, nhưng đất ruộng vẫn chưa mắc lắm, kiếm lại cho ổng có bùn mà lội, chắc ổng hết buồn. Bà mua lại được hai công đất ruộng hơi xa nhà một chút nhưng nghĩ tới nỗi vui mừng của ông, bà lại thấy vui lây. Bữa nay ông đã đi suốt ngày chưa về. Bà định chồng tiền xong mới nói để ông bất ngờ.
Ông Tư đi suốt ngày và cá cũng nhiều lắm. Lúc ông vừa định quay về thì nhìn thấy mặt trăng. Trời đất! Sao trong đời ông, đã bao nhiêu lần ngắm trăng mà ông có thấy nó đẹp như vầy đâu. Thêm nỗi, cả cánh đồng cứ trơ trơ ra đó, nham nhở như một chiếc chiếu đã nhàu nát. Ông lại thấy tội nghiệp mặt trăng. Nó cô đơn quá! Cô đơn cũng như ông. Ngày xưa đâu vậy, trăng mọc thì gió hây hây, sóng lúa rập rờn... Lúa chín thì thảm lúa vàng. Mạ còn xanh non thì cả cánh đồng nõn nà như con gái vừa mới lớn. Đâu như bây giờ, nó chẳng còn nơi còn chốn để khoe vẻ đẹp mà tạo hóa đã khéo ban cho. Ông Tư thẫn thờ đứng ngắm trăng như một họa sĩ đang say sưa ngắm nhìn tác phẩm của mình. Ông nhớ lại từ chặng đời ông đã sống, đã lớn lên như thế nào trên mảnh đất này. Nhớ cái ngày mua được hai công ruộng đầu tiên, ông đã móc một nắm đất trên tay mà đưa lên mũi. Cái mùi bùn cũng quen thuộc như mùi rơm rạ trong sân. Rồi mấy công ruộng kế tiếp, rồi đôi trâu. Ông đã rớt nước mắt ngày người ta tới dắt tụi nó đi. Hai con trâu cố ghì dây gàm lại, tụi nó cũng đâu muốn xa ông. Ruộng đất đã không còn thì để trâu lại làm gì. Ông bất chợt thở dài khi nhớ lại mấy ngày trước lúc ông tình cờ đi ngang chỗ người chủ mới đang cày. Đôi trâu nhìn ra ông, tụi nó rống lên mấy tiếng nghe buồn quá! Ông cắm đầu cắm cổ bước mà nghe mắt cay cay.
Trời đã thẫm màu, trăng đã lên cao hơn, gió lồng lộng thổi. Ông Tư ngồi phịch xuống đất, cái giỏ cá và mấy cần câu ông đặt kế bên. Ông móc thuốc ra vấn rồi cứ vậy mà ngồi ngắm trăng, quên cả việc về nhà, quên cả bà vợ hiền đang thắc thỏm chờ ông bên mâm cơm đã nguội lạnh.
Bà Tư thấy trời đã tối mà ông Tư vẫn chưa về, đâm lo. Thằng Hai vừa dừng xe trước nhà bà đã biểu:
- Chạy đi kiếm ba mầy coi, sao tới giờ nầy chưa về, không biết có chuyện gì đây!
- Chắc ba ghé nhà ai đó nhậu nhẹt chút thôi, có gì đâu mà má lo, lớn rồi đi lạc đâu mà sợ.
- Mầy còn ở đó nói chơi. Ba mầy lúc nầy lạ lắm, tao hổng lo sao được.
- Thôi thì để con đi.
Thằng Hai vòng xe lại, nó nghĩ thế nào mà lại chạy về hướng đất cũ. Ông Tư đã vấn tới điếu thứ năm rồi. Ông hút thì ít mà gió thổi làm cháy thuốc thì nhiều. Cây ô môi nằm chỏng gọng làm ông buồn không ít. Lúc nhỏ, ông cùng mấy đứa bạn chăn trâu đã coi nơi này là điểm hẹn. Cả đám cột trâu lại rồi chơi đánh nhau. Bẻ cọng u du làm đạn bắn bằng những sợi dây thun thắt lại thành bím. Cọng u du nhỏ vậy mà với tốc độ bay nhanh, khi trúng vô mặt thì đau thấu trời thấu đất chớ vừa đâu. Cây ô môi như một vị thần đã uy nghi đứng đó hằng mấy chục năm rồi. Bây giờ thần lại nằm chỏng gọng thật đau lòng. Ông Tư nghe như mình đã mất đi cái gì đó trong lòng. Cái mất không nhìn thấy và không giải thích được. Thằng Hai đã nhìn thấy ông từ đằng xa. Nó cũng hiểu được nỗi buồn của ba nó nhưng nó không đồng cảm. Có gì đâu mà tới như vậy. Lội ruộng cực khổ muốn chết mà lại ham. Về chợ ở, chưn giầy chưn dép chẳng sướng hơn sao. Nó dựng xe rồi đi về phía ông. Ông Tư vẫn chưa hay thằng Hai tới, ông vẫn trầm ngâm lắng nghe hơi thở của đất trời chan hòa trong cõi mênh mông tịch lặng.
- Ba ơi! Về thôi, má chờ ba từ chiều tới giờ, má lo lắm!
Ông Tư như vừa bị kéo về thực tại. Thằng Hai đã tới bên và nắm lấy tay ông. Hai bàn tay ông lạnh ngắt. Nó cũng thấy sợ. Đúng là ba nó lạ quá! Nó đâu hiểu được cái hồn của đất đai đã thấm đẫm đời ông. Chỉ có ai lớn lên từ đất mới hiểu được nỗi đớn đau đến dường nào khi phải xa nó.
* * *
Ông Tư nằm vùi luôn mấy ngày và thỉnh thoảng lại mê sảng. Những người nhẹ dạ, mê tín thì cho là ông bị quở vì đã xúc phạm tới những vong hồn lúc ông lang thang trên những cánh đồng từ tờ mờ sáng đến tối. Bà Tư thì hiểu ông đang mắc tâm bịnh. Sáng nay, bà nấu xong nồi cháo rồi múc ra tô, để trên bàn và khẽ khàng:
- Ông dậy rửa mặt rồi ăn cháo. Bữa nay có vợ chồng Năm Miên qua chơi, ráng tỉnh táo chút đi.
Ông Tư giựt mình, vợ chồng Năm Miên ít tới lui nhà ông, bữa nay lại tới, có chuyện gì đây. Ông xuống nhà dưới rửa mặt rồi trở lên. Bà Tư đã xếp xong mùng mền và rót sẵn cho ông ly nước. Ông Tư ngồi xuống ghế, nhắp một ngụm trà rồi chậm rãi:
- Vợ chồng Năm Miên có chuyện gì mà qua đây?
- Thì chút nữa ông biết, gấp gì. Ông ăn cháo đi cho khỏe.
Thằng Hai vừa dừng xe trước nhà. Hai người khách bước xuống xe. Ông Tư nhìn thấy vợ chồng Năm Miên xăng xái bước vô. Năm Miên lên tiếng trước:
- Anh bịnh gì vậy anh Hai (Bà Tư vốn thứ Hai, thứ Tư là thứ của chồng)? Bữa nay tui trị cho dứt luôn nghe!
Ông Tư ngơ ngác vẫn chưa hiểu điều gì. Thằng Hai dựng xe xong đã tới sau lưng bà Tư:
- Má nói mau đi cho ba mừng đặng hết bịnh.
Bà Tư chưa lên tiếng. Năm Miên vừa kéo ghế ngồi vừa mau mắn:
- Bữa nay tui qua lấy tiền đất. Tui sang lại cho chị Hai hai công ruộng đầu hồi. Chị Hai thấy anh cứ buồn bã hoài nên mua ruộng để anh lội cho vui vậy mà.
Ông Tư chầm chậm đặt ly trà xuống bàn. Ông nhìn vợ, người vợ hiền từ bao năm nay đã là người hiểu ý ông nhứt và cũng là người đã kề vai chia sẻ bao nhiêu khó khăn vất vả từ ngày lấy ông. Ông bỗng nhớ lại cái ngày đầu tiên ông mua được ruộng và cái mùi bùn ngay ngáy lại phảng phất đâu đây.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
 

"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:02:56
Tiếng sáo vui của ông già mù
DIỆP HỒNG PHƯƠNG
 
Gió chướng thổi mạnh hơn thường ngày. Bụi và mấy miếng giấy vụn, bao nhựa cuốn bay theo hè phố đông người. Nắng chiều vàng rực nhưng không chói chang dễ gợi nỗi buồn cho người xa xứ.
Sắp Tết rồi!
Bên lề đường, cạnh ngôi đình Ngọc Hoàng cổ xưa có hai ông bà già ngồi trầm tư. Bằng đôi mắt buồn, bà già nhìn chợ Tết đang diễn ra với các cửa hàng bán nhiều hàng hóa, bánh mứt; với hàng dưa hấu bên kia đường, điểm bán hoa và trái cây như khóm, mãng cầu để chưng bàn thờ; sạp gỗ nhỏ treo đầy giấy lì xì, liễn, câu đối đỏ.
Còn ông già với cây sáo trúc và đôi mắt mù nên không thể nhận diện đường phố những ngày giáp Tết mà ông lắng nghe bằng đôi tai mớ âm thanh ồn ào, lộn xộn của góc phố quen thuộc... Rồi ông nhận ra ngoài tiếng ồn của xe cộ, của tiếng kèn xe, tiếng nhạc xập xình từ quán cà phê gần đó... còn có thứ âm thanh khác dễ chịu hơn, cuốn hút hơn: “Hàng giảm giá bà con ơi. Mười lăm ngàn áo sơ mi, hai chục ngàn quần dài... Tết tới rồi”. Tiếng rao hàng xuất phát từ anh thanh niên đổ quần áo ra bán xổ gần đó.
- Người ta bán quần áo gì vậy bà?
-Ông già mù mân mê cây sáo trúc hỏi. Nhìn đôi mắt ông trắng dã không biết ông đang vui hay đang buồn.

- Đồ Sida – Bà già tỏ ra rành rẽ mọi chuyện diễn ra trên lề đường.
- Là đồ gì? Sao bán rẻ vậy?
- Ờ! Quần áo đẹp mà ế, bán rẻ cho hết...
- Phải chi... - Ông già mù nói được hai tiếng thì ngập ngừng rồi lặng im. Ông thở dài thật khẽ...
Bà già day lại nhìn ông bằng đôi mắt tội nghiệp nhưng đầy cảm thông. Trong thâm tâm bà cũng muốn mua cho ông một bộ đồ mặc vào Tết nầy. Đồ cũ của ông đã rách, vá víu nhiều chỗ. Nhưng nói là giảm giá mà quần áo đó vẫn còn mắc so với mấy đồng tiền kiếm được nhờ vất vả ăn xin của ông. Bà già nghĩ bụng sẽ dè xẻn hơn để làm vui lòng người bạn già không có chút ánh sáng trong cuộc đời. Còn bây giờ thì... Bà già lắc vai ông nói:
- Mình đi ông ! Xế chiều... lâu rồi.
Bà già lết ra sau lưng ông già mù. Lúc nầy mới thấy hai chân của bà không đi được, nó bị teo rút. Ông già ngồi xổm lưng lấy thế cho người bạn già chồm lên lưng mình. Ông đứng lên cõng bà dò từng bước đi dọc theo hè phố dần tắt ánh nắng chiều.
Cõng người bạn già nhẹ tênh trên lưng, ông già lần bước theo sự chỉ dẫn của bà. Rồi họ dừng lại bên một góc phố đông người. Bà già ngồi dưới đất, ông già đứng thẳng người bắt đầu thổi sáo. Hai bàn tay với những ngón tay khẳng khiu nhỏ xíu của ông như nhảy nhót trên mấy lỗ sáo tròn. Từng chuỗi âm thanh nhẹ như gió thoát ra. Tiếng sáo trúc của ông già mù bay khắp phố xuân, lúc dìu dặt, lúc du dương, khi trầm khi bổng buồn bã làm sao.
Người buôn bán dọc hai bên hè phố quá quen thuộc với hình ảnh hai ông bà già ăn xin nầy. Ông già mù còn đôi chân, bà già què còn đôi mắt sáng. Họ nương tựa nhau đi xin, nương tựa nhau ăn gởi nằm nhờ bên đình Ngọc Hoàng, tuy hai nhưng chỉ là một. Và có một điều mà nhiều người chưa biết về họ. Họ không phải là vợ chồng mà chỉ là bạn. Gió bụi phố phường đưa đẩy họ tới gần nhau, dựa vào nhau để sống nốt những ngày cuối cuộc đời.
* * *
Chiều ba mươi Tết. Phố phường vắng vẻ. Mấy sạp hàng cuối cùng đang được dọn dẹp. Mấy chị công nhân đang quét rác, xe đi lấy rác lăn bánh chầm chậm theo lề đường. Vài chiếc xe gắn máy chạy qua. Mấy cánh chim én chao lượn trên đường nhựa rồi vọt lên đảo quanh mái nhà.
Gió chướng thổi qua hè phố xôn xao nỗi buồn...
- Tết, cậu... về quê hả? - Bà già què hỏi cậu thanh niên bán quần áo Sida đang sắp xếp quần áo lại để dồn vô cái bao nhựa. Ông già mù ngồi cạnh bên bà nghiêng nghiêng cái đầu dường như muốn lắng nghe.
- Dạ không! Quê cháu ở đây! - Anh thanh niên bán đồ Sida trả lời, tay vẫn tiếp tục gom áo quần lại xếp sơ sài rồi nhét đại vô bao. Cậu ta chợt hỏi - Còn hai ông bà, nhà cửa ở đâu?
- Kia cà! - Bà già hất đầu về hướng đình Ngọc Hoàng - Tối nào tui với ổng cũng ngủ ở trỏng. Khuya nay giao thừa người ta đi cúng đình nhiều, chắc kiếm ăn được.
- Tết, người ta ăn xài rộng rãi hơn ngày thường - cậu thanh niên nhận xét - Hàng hóa cái gì cũng lên giá mà bán như tôm tươi. Chỉ có đồ Sida thì... giảm giá mà... còn ế!
Nghe vậy, bà già vội lên tiếng:
- Có bộ nào... rẻ hết sức rẻ không cậu? Tui muốn “sắm” cho ổng một bộ... mặc Tết !
- Ông già mặc đồ Sida... coi mắc cười lắm ha! – Nghe hỏi vậy, cậu thanh niên cười khà, đùa vui – Quần áo loại nầy của người trẻ tuổi như tụi cháu mặc. Cỡ ông già thì...
- Thây kệ! Miễn đồ mới... - Bà già thở ra.
- Ờ! Tui mặc gì cũng được mà... - Lúc nầy ông già mù mới lên tiếng.
Nghe ông nói, giọng run run, cậu thanh niên biết ông đang mang niềm hy vọng, như trẻ con, sẽ có bộ quần áo tươm tất hơn các bộ đồ mà ông đã mặc. Cậu ta nhìn ông rồi trút hết quần áo trong bao ra. Bà già lết lại gần cùng với anh thanh niên xốc mớ quần áo lên lựa đồ cho ông già mù.Một cái quần dài màu nâu, một chiếc áo sơ mi màu trắng mỏng dính. Chỉ có bộ nầy là hợp với ông già. Ông già đưa hai bàn tay sờ mó bộ đồ mới. Nói là đồ Sida nhưng nó còn lành lặn, vải mới còn kêu sột sột và nghe thơm mùi vải... Ông khẽ gật đầu, ưng bụng lắm.
- Ông già biết bài “Ly rượu mừng” không? Thổi bài đó nghe chơi. Còn bộ đồ nầy... cháu tặng ông!
- Ý đâu được cậu- Bà già mừng lắm nhưng thấy ngại - Tui hỏi mua mà... Mắc rẻ gì cũng mua...
Nhét bộ đồ vô tay ông già, cậu thanh niên giục ông thổi sáo:
- Thôi mà. Nói tặng là tặng! Thổi bài đó... đi “bố”!
Ông già mù lúng túng một hồi mới nâng cây sáo trúc lên. Ông dò mấy ngón tay định vị trí trên lỗ sáo rồi đưa cây sáo lên môi. Ông làm công việc nầy hết sức nghiêm túc. Đây là một bài nhạc dù đã xưa nhưng rất hay và ông thổi bài nầy để tặng một người tốt bụng.
Bài nhạc được ông diễn tấu trong tâm trạng hân hoan, vui mừng và tràn đầy hy vọng. Cậu thanh niên hát khẽ theo tiếng sáo của ông trong lúc thu dọn quần áo nhét vô bao. Còn bà già què, bà vẫn ngồi bên hè đường nhìn qua dãy phố đối diện, đôi mắt vô hồn.
* * *
Đêm giao thừa.
Đình Ngọc Hoàng tràn ngập khói nhang. Người đến cúng đình rất đông. Họ thắp những bó nhang lớn với tàn nhang đỏ rực. Họ bỏ tiền thật ra mua tiền giả, rồi đốt.
Ngay cổng chính vào đình, bà già què ngồi dưới đất chìa chiếc nón lá ra cầu xin: “Ông đi qua, bà đi lại thí chút lòng thương”.
Còn ông già mù thì khác.
Ông già với bộ đồ Sida còn mới, đứng cạnh cổng đình say sưa thổi sáo. Ông thổi lại nhiều lần bài nhạc mà hồi chiều cậu thanh niên bán đồ Sida yêu cầu. Đó là bài nhạc về mùa xuân đầy tin yêu, hy vọng; bài nhạc đã khiến ông cảm thấy cuộc đời nầy-dù sao đi nữa- cũng rất đáng yêu, đáng sống...
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:11:36
Ông lão nằm viện
NGUYỄN TRỌNG HOẠT
 
“Anh Năm ơi ! Mẹ bệnh nặng, nhập viện Hương An rồi, anh về ngay đi!”. Giọng thảng thốt của em gái trong ống nghe khiến tôi đứng sững với nỗi lo chợt đến. Sau khi gặp anh trưởng phòng xin nghỉ, tôi hộc tốc lao xuống cầu thang, thẳng đến nhà để xe máy. Chỉ kịp ghi lại mấy chữ cho vợ để trên bàn ăn, tôi vơ vội bộ đồ nhét vô túi xách rồi lên xe, vù ga.
Đập vào mắt tôi toàn màu trắng đến lạnh người. Từ tường và trần nhà đến ra, gối, nệm và cả những bộ đồ của bệnh nhân tuyền một màu tinh khiết. Tôi thở phào, lấy lại bình tâm khi biết huyết áp mẹ tôi đã được chế ngự. Ngồi bên mẹ, canh bình đạm chầm chậm nhỏ giọt, tôi lặng lẽ nhìn quanh. Buồng bệnh nhân có bốn giường. Nằm đối diện với mẹ tôi là cụ bà chín hai tuổi, đang kéo dài sự sống nhờ bình ôxy. Phía cửa ra vào là cậu bé với cái chân bó bột trắng toát, gác trên thành giường; cạnh đó là giường của ông cụ có nước da mai mái, với đôi chân đã bắt đầu phù lên. Ông rên khe khẽ, chốc chốc lại phều phào gọi người nhà.
Buồng bệnh mất sự tĩnh lặng vốn có khi con gái, con rể và hai cháu ngoại của bà cụ chín hai tuổi tới thăm. Qua nghe chuyện và cả giọng nói, tôi biết họ vừa từ miền trong về, xuống xe đò và bắt xe ôm tới bệnh viện luôn. Người con gái ấp bàn tay mẹ trong tay mình, cúi xuống ghé vào tai mẹ gọi những lời thân thương. Bà cụ vẫn nhắm mắt, đáp lại lời con là những nhịp thở khó nhọc. Người con gái ngồi bần thần, buồn rầu nhắc lại kỷ niệm trong lần gặp mẹ hồi năm trước rồi quay đi, lén giấu những giọt nước mắt. Có lẽ chưa dự cảm được điều đáng sợ nhất đang đến với bà, hai cháu gái cứ tía lia hỏi về sức khỏe của ngoại. Sự cả nể ngăn tôi có lời nhắc hai cháu nhưng ông cụ nằm cùng phòng thì khác. Ông kêu lên, vẻ bực tức: “Nói gì to dữ vậy?!”. Im lặng được vãn hồi và tôi chú tâm tới ông từ đó.
Hỏi chuyện khi cùng ngồi trên ghế băng ngoài hành lang, tôi biết người cháu nội của ông cụ tên Hiệp. Hiệp đang học năm thứ tư đại học bách khoa, vì ông ốm nên đành lỡ hẹn với những hoạt động hè “sinh viên tình nguyện”. Những đêm mất ngủ khiến khuôn mặt trẻ hốc hác, đôi mắt thâm quầng cùng dáng vẻ uể oải. Ngồi chưa nóng chỗ, Hiệp đã phải đứng lên, khi thì cho ông uống nước, uống thuốc, lúc đỡ ông ngồi dậy hoặc xoa bóp rồi thay đồ, đổ bô. Hiệp làm những việc đó nhuyễn như một hộ lý và kiên trì đến đáng nể.
Khoảng mươi lăm phút, ông cụ lại bảo Hiệp đỡ ngồi dậy. Mỗi lần như thế, ông nhăn nhó rên rỉ, cứ như toàn thân bị đau đớn. Đốt chưa tàn điếu thuốc, ông đã bảo cháu đỡ nằm xuống, lại rên la như bị cực hình. Cái điệp khúc ngồi lên nằm xuống đồ chừng không dày bằng nhu cầu tiểu tiện của ông cụ. Mỗi khi thấy ông nghiêng người, đưa tay xuống quần là Hiệp nhanh chóng lấy bô rồi cầm tấm chăn căng ra che cho ông. Không thấy Hiệp trong chốc lát, ông đã gọi, có khi chỉ vì “sao ông thấy vắng vẻ quá!”. Những lần không có cháu, ông không ngần ngại vẫy tôi lại, nhờ việc gì đó; nhờ nhưng nếu làm trái ý, ông cũng chẳng khách sáo: “Sao lại thế này?!”. Hiệp rỉ tai tôi, giọng hệt như của cậu bé đang học mẫu giáo “Lúc bình thường, ông cháu dễ thương lắm, chú ạ”.
Mũi thuốc giảm đau cùng cơn mưa cuối ngày hình như làm ông cụ dễ chịu. Bằng chứng là từ tối ông không còn rên la và trở mình vật vã. Nghe tiếng thở đều đều báo hiệu giấc ngủ mong đợi đã đến với ông và nhìn Hiệp ngon giấc trên ghế xếp cạnh đó, tôi cảm thấy nhẹ lòng. Tầm ba giờ sáng, ông cụ thức, khó nhọc chống tay ngồi dậy. Ông cầm khăn mặt, cúi xuống xua đám muỗi đang vây lấy đứa cháu rồi ngồi lặng nhìn ánh trăng ngời ngợi ngoài ô cửa. Trăng lung linh trên những vòm lá trong khuôn viên bệnh viện đang hả hê sau trận mưa rào. Nét mặt tươi tỉnh bỗng hiện nỗi lo bất chợt, ông cụ xuýt xoa giữa trời: “Chà, bọn trẻ chất rơm kịp không hay là ướt nhẹp cả rồi?!”. Không cau có, khuôn mặt ông cụ phúc hậu vô cùng. Ông tựa lưng vào tường, hết nhìn khoảng đêm lại nhìn đứa cháu, mắt buồn rười rượi. Ông nghĩ gì mà trầm tư trước một ngày mới đang đến?
Ông vừa xong bữa sáng với mấy thìa cháo thì chị gái Hiệp cùng bạn trai tới “thay ca”. Chỉ lên mấy bịch sữa tươi, nước yến và trái cây để trên tủ nhỏ sát đầu giường, ông bảo Hiệp đem về phân phát cho các cháu ở nhà. Chàng trai bảo đừng; khuyên ông chịu khó ăn uống để hồi phục sức khỏe. Nhưng cậu không thể trái ý ông, sau lời trách xót xa: “Cháu sao lại cãi ông nhem nhẻm thế kia?!”.
Không biết do cháu gái khéo chiều hay cơn bệnh tạm thời “hưu chiến” mà ông cụ bất ngờ dễ tính, ít “yêu sách” hẳn. Nhìn cháu lăng xăng, làm không ngơi tay, ông tỏ vẻ ái ngại “vì ông mà các cháu vất vả quá!”. Rảnh rỗi, cô cháu ngồi tỉ tê, trò chuyện. Giọng con gái dễ thương chắc tác dụng không kém những liều thuốc giảm đau ông vẫn được chích. Khi bạn trai của cháu chào để về, ông bảo cháu đỡ ngồi dậy. Thoáng chút đắn đo rồi ông hỏi thẳng: “Hai cháu quen nhau đã lâu, thế định bao giờ... tổ chức?”. Cô gái ngước nhìn chàng trai chờ đợi. “Thấy ông yếu nên tụi con chưa dám nghĩ đến chuyện vui, ông ạ”. Ông cụ đưa bàn tay run run nắm lấy bàn tay chàng trai, giọng rời rạc nhưng rõ ràng: “Các cháu đừng vì ông mà lỡ chuyện của mình - Ngừng, thở dồn dập một hồi, ông tiếp - Nếu ông có “ngủ” các cháu cũng đừng câu nệ, đừng chờ đến mãn tang...”. Ông cụ chưa nói hết, cô cháu om lấy ông, khóc. Nhưng ông vẫn cố nói tiếp điều đang nghĩ: “Con gái có thì, cháu ạ”.
Quá ngọ, bố cô gái đến thay con, chăm sóc cha. Ông cụ luôn miệng hỏi con trai chuyện nhà, chuyện xóm. Ông sửng sốt, hỏi dồn khi biết một người ở cạnh nhà vừa mất vì tai nạn xe máy. Người con vỗ về: “Thôi, ba nghỉ cho khỏe”. Ông cụ gác tay lên trán, nằm im. Chốc chốc, sực nhớ điều gì, ông lại nhỏm dậy, nói với con. Ông bảo, sao không kiến nghị để người ta sớm hoàn thành con đường ngang qua làng; cứ để đường nham nhở, sống chung với bụi đến bao giờ. Ông lại dặn: cải tạo vườn tạp nhưng nhớ để lại mấy bụi tre, vườn quê mà không có tre thì còn ý nghĩa gì !? Người con liên tục vâng, dạ và khuyên cha “đừng nghĩ đâu đâu nữa”.
Buổi chiều, khi bác sĩ đến khám bệnh lần thứ hai trong ngày, ông cụ bất ngờ quyết định xin ra viện. Anh con trai cùng những người trong phòng, kể cả bác sĩ xúm vào ngăn nhưng không chuyển được ý ông. Người con băn khoăn: “Hay con cháu đã làm gì khiến ba không vui?”. Ông xua tay. Người con kiên trì năn nỉ cha đổi ý, với cái lý “còn nước còn tát”. Giọng ông cụ buồn buồn: “Ung thư dạ dày thì khỏi sao được, hả con?!”. Người con giật mình, hốt hoảng: “Ai bảo ba vậy?”. “Ba biết rồi, đừng giấu nữa!”. Im lặng. Người con bối rối quay đi. Ông cụ rầu rầu giảng giải: “Ba nằm đây, cả nhà phải khổ nhưng bệnh thì không khỏi, phỏng ích gì? Nhà dồn hết tiền lo cho ba, rồi ăn, học bằng gì? Vả lại các con, các cháu còn đi học, đi làm, không thể suốt ngày trực ở bệnh viện - Ông kết thúc - Ba không đành lòng nằm mãi ở đây. Thôi, đưa ba về, được ngày nào hay ngày đó, con ạ”. Người con đứng lặng, không giấu được nước mắt.
Hôm sau, chờ cháu thanh toán viện phí xong, ông cụ về. Cứ nghĩ tạm biệt cũng đồng nghĩa vĩnh biệt người bệnh già chưa kịp biết tên, tôi cảm thấy nao lòng. Trước khi được dìu ra xe tắc-xi đỗ sát cửa, ông cụ bảo Hiệp lấy đường sữa và mấy trái cam cho cậu bé gãy chân nằm cùng phòng. Ông đưa tôi hai tờ báo Sức khỏe và Đời sống: “Trong này có mấy bài thuốc Nam của Giáo sư Đỗ Tất Lợi hay lắm, cháu xem đi”. Tôi rưng rưng, nắm chặt bàn tay gầy, ấm áp.
Ông cụ đi rồi, một góc phòng bỏ trống. Tôi ngẩn ngơ, chốc chốc lại nhìn vào khoảng trống ấy.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:16:54
Thầy trò
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
 


Buổi lễ mừng Ngày Nhà giáo 20-11 vừa bắt đầu chưa đầy nửa tiếng, học trò đã chộn rộn, ồn ào bên dưới. Thầy giáo điều khiển chương trình đã mấy lần nhắc nhở mà cũng như không. Bọn học trò đúng là càng ngày càng vô kỷ luật, càng thiếu ý thức tự giác. Cứ mỗi lần tổ chức lễ lạt ở sân cờ là phải la rầy chúng bở cả hơi tai. Chợt, trong đám thầy cô ngồi trên lễ đài có ai đó buột miệng:
- Thầy Nguyện đâu rồi? Nhờ thầy Nguyện dẹp yên bọn học trò đi! Thầy Nguyện đâu?
Lại có ai đó nói nhỏ:
- Suỵt! Đừng la lớn. Thầy Nguyện có còn dạy thể dục nữa đâu mà lo việc ổn định trật tự, nề nếp này.
Đúng rồi! Hình như mọi người đều quên hay có lẽ chưa quen với việc thay đổi công tác của ông thầy dạy thể dục. Mới năm trước thầy Nguyện đã lên thư viện làm phụ tá cho cô Lý, quản thủ thư viện rồi còn gì. Vậy mà, cứ mỗi lúc học trò “dậy giặc” lên như hôm nay, cái tên thầy Nguyện vẫn thường được nhắc tới. Cũng dễ hiểu thôi, thầy Nguyện vốn rất có uy với học trò, không chỉ trong môn thể dục thầy dạy suốt mấy mươi năm nay mà còn do cách thức giáo dục kỷ cương, nề nếp của thầy ở mọi lúc, mọi nơi. Bởi thế từ khi thầy lên thư viện, mỗi buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, mỗi kỳ lễ lớn, cả trường vẫn cảm thấy sự thiếu vắng con người “hét ra lửa” khiến bọn học trò phải răm rắp nghe theo ấy. Như buổi sinh hoạt sáng nay vậy, “giá như thầy Nguyện ra tập hợp học sinh rồi đi tới đi lui quanh sân trường nãy giờ thì đỡ biết mấy”, không ít bạn đồng nghiệp của thầy lúc này đang nghĩ thế!
Mà ông thầy dạy thể dục cũng có muốn lên thư viện làm bạn với sách vở đâu. Thầy đã từng than thở khi chuyển công tác:
- Thiệt tình, tôi mà lên thư viện thì sách nó không “quen” tôi mà tôi cũng không “nhìn” ra nó. Hồi nào giờ tôi có thích đọc sách đâu, chỉ toàn coi báo thể thao không thôi.
Giờ thì thầy Nguyện đang ngồi ở thư viện của trường. Thầy đang sắp xếp lại các loại sách tham khảo, sách giáo khoa theo phân loại của cô Lý. Lẽ ra thầy cũng xuống sân dự lễ, Ngày Nhà giáo mà, nhưng trong lòng thầy sao cứ man mác buồn. Mình có còn học trò nữa đâu mà ngồi trên lễ đài! Một lát nữa khi từng đám học sinh lên tặng hoa cho các thầy cô chắc gì mình không chạnh lòng. Thôi thì vào đây làm việc còn tốt hơn.
Có tiếng chân bước lẹp xẹp trên cầu thang. Ai mà lên đây giờ này vậy kìa. Quay lại, một cô học trò áo dài trắng đứng trước mặt.
- À, Nga đó hả con.
Cô nữ sinh nhỏ nhắn, rụt rè chìa ra một cành hoa hồng tươi:
- Con kính tặng thầy nhân Ngày Nhà giáo.
Trời, con bé mới chu đáo, mới dễ thương làm sao! Sao nó lại nghĩ đến việc mang hoa lên tận đây, mình có phải là thầy dạy nó đâu! Mà nó lại tật nguyền thế kia.
Nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của cô học trò, thầy Nguyện vẫn chưa hết xúc động. Thầy nghĩ đến cơ duyên thầy trò của thầy và cô gái nhỏ mới vào lớp 10 năm học này. Còn nhớ, thầy bị chuyển lên đây với lý do: “Trường đã là trường chuẩn quốc gia, mọi thứ đều phải chuẩn”. Mà ông thầy dạy thể dục tuy có nhiều kinh nghiệm, từng dẫn dắt học sinh đạt rất nhiều giải trong các cuộc thi “Hội khỏe Phù Đổng” cấp thành phố nhưng vẫn chưa đủ chuẩn để dạy cấp trung học phổ thông. Nếu muốn theo chuyên môn thầy phải xin xuống cấp trung học cơ sở. Mà như thầy hiệu trưởng góp ý thì... lớn tuổi như thầy Nguyện chắc khó có trường nào chịu nhận.
Vậy là với bao bỡ ngỡ, thầy Nguyện đành phải làm quen với cái thư viện đầy sách báo này. Công việc nhẹ nhàng, lại được một mình một cõi trong phòng đọc sách kế bên thư viện, ông thầy vốn quen với những động tác nhảy cao, nhảy dài, cử tạ... dần dần cũng nguôi ngoai nỗi buồn nhớ học trò và sự ngứa ngáy chân tay. Trong đám học trò hay lên thư viện, con bé Nga hồi nãy là đứa siêng nhất. Cứ sáng học ở lớp là chiều cô bé lên thư viện mượn báo, mượn sách đọc mê mải. Qui định trường chỉ cho cán bộ lớp, cán bộ Đoàn mượn sách về nhà, Nga phải đọc sách tại chỗ rồi gởi trả. Thấy cô học trò mê sách, chuyên cần, lại bị khuyết tật, đi lại khó khăn, thỉnh thoảng thầy Nguyện cũng phá lệ cho con bé mượn sách về nhà, cứ đúng hẹn là nó mang trả, chưa lần nào để thầy phải nhắc.
Chỉ vậy mà có cành hoa hồng này đây. Thầy Nguyện nhìn xuống cánh hoa trong tay mình, thấy vui trong lòng. Hình như đóa hồng hôm nay là bông hoa có ý nghĩa nhất trong cuộc đời đi dạy của thầy. Nhớ mấy năm trước, ngày 20-11 này, ông thầy dạy thể dục ngực gắn đầy hoa, các bạn đồng nghiệp đã vẫn thường đùa thầy Nguyện là “rừng hoa biết đi”. Các tiết thể dục đều ghép ít nhất hai lớp, mỗi thầy bình quân phải dạy trên mười lớp, bởi thế mà học trò gắn hoa đầy áo là chuyện bình thường trong ngày lễ này. Ấy vậy mà bao nhiêu bông hoa những năm trước không làm rưng rưng cảm động như đóa hồng tươi của cô học trò nhỏ sáng nay. Thầy Nguyện lắc đầu, tự khiển trách mình: “Tệ thật! Sao mình phải mặc cảm, sao mình lại trốn trong gian phòng này, mình có làm gì xấu hổ với nghề này đâu”. Lời tự trách lại đưa thầy về những năm tháng đã qua...
***
Trước năm 1975, thầy Nguyện chỉ là thầy giáo tiểu học ở một trường trong thành phố. Thầy phấn đấu học thêm lấy bằng cử nhân, được chuyển lên dạy môn toán cấp 2, tức trung học cơ sở bây giờ. Trời xui đất khiến thế nào thầy lại rất giỏi các môn thể thao như bóng chuyền, bóng bàn và các môn điền kinh khác do sở thích từ nhỏ. Các trường lúc đó thiếu vô cùng các thầy cô dạy bộ môn này nên thầy giáo trẻ Nguyện được cử đi học một khóa cấp tốc rồi trường cấp 3 này xin thầy về phụ trách môn thể dục cho đến giờ. Tuy chẳng có cấp bằng, chẳng có cầu chứng về chuyên môn nhưng toàn trường đều biết những tiết thể dục của thầy Nguyện là những tiết dạy tốt nhất, hiệu quả nhất của bộ môn này. Đám học trò lúc mới vào thấy mặt thầy là “ớn” lắm,  chúng bảo nhau:
- Thầy Nguyện trừng mắt một cái là hồn vía học trò bay hết!
Có điều chỉ qua vài tuần học là thầy trò “bắt nhịp” được với nhau ngay. Hai lớp nhập lại có khi lên đến hàng trăm học trò mà đâu vào đó, răm rắp tập luyện, nhất là rất vui vẻ, sinh động. Phần lớn là bởi dẫu nghiêm khắc nhưng thầy Nguyện rất biết nói đùa. Một nam sinh tập luyện uể oải ư? Thầy hét:
- Trò kia, biểu diễn thời trang cho ai coi vậy?
Một nữ sinh chạy xong hai vòng sân, mệt thở hào hễn chỉ chực chờ đến mức là ngồi phệt xuống nghỉ, thầy hét:
- Em kia, không được ngừng, xỉu bây giờ! Chạy chậm chậm thêm một khúc nữa...
Thế đấy, hình ảnh ông thầy thể dục và “ngọn roi thân ái” trong tay đã trở nên quen thuộc với học sinh và các thầy cô giáo trong trường. Nói hơi quá một chút, thầy Nguyện như người giữ gìn nề nếp trong môi trường sư phạm này. Có điều những giờ khắc này, thầy vẫn không khỏi chạnh lòng dù vẫn tự nhủ “mình sắp về hưu rồi, một hai năm còn lại, có chút đóng góp vẫn còn hơn không”...
Ý nghĩ ấy giờ đây lại thấp thoáng trong đầu, thầy Nguyện bước xuống cầu thang nhưng không đi về hướng sân trường mà bước vào phòng truyền thống. Hôm nay, phòng này cũng được chuẩn bị chu đáo để quan khách tham quan. Thầy Nguyện đến cuối phòng, nhìn lên bàn thờ các thầy cô quá vãng. Sáng sớm nay, một lớp học trò đại diện cho toàn trường đã đến thắp hương trước khi tiến hành lễ. Ba chữ “Sư đạo tôn” được mạ vàng trong khung kính trên bàn thờ rõ vành vạnh. Dưới hàng chữ ấy là một tấm bảng lớn với những décal ghi tên từng thầy cô của trường đã về cõi vĩnh hằng. Bao nhiêu năm qua, thầy trò trường này vẫn tự hào về nghi thức “nhập môn” đầy ý nghĩa của học sinh mới mỗi ngày khai giảng. Các em sẽ được thầy cô chủ nhiệm dẫn lên đây bái tế các bậc tôn sư quá cố rồi mới về làm lễ khai trường. Hình ảnh hàng hàng lớp lớp học trò nối chân nhau vào phòng truyền thống bao giờ cũng gợi những cảm xúc đẹp trong lòng mọi người ngày đầu năm học. Có phải vì vậy mà thầy Nguyện không muốn rời xa trường dù phải chuyển sang công tác khác?
***
Mấy ngày nay không thấy bé Nga lên thư viện đọc sách, thầy Nguyện thắc mắc tìm xuống lớp, hóa ra cô bé bệnh, nghỉ học. Qua cô Liên, chủ nhiệm lớp, thầy Nguyện biết hoàn cảnh bé Nga rất bất hạnh. Cha làm công nhân xí nghiệp cơ khí, mới mất mấy năm trước vì bệnh phổi, mẹ một nách ba con buôn bán lây lất, lúc xôi, lúc chè, lúc tàu hủ... Chị gái Nga mới 18 tuổi phải đi phụ bán quán phở tiếp mẹ nuôi em, đứa em trai út mới học lớp ba. Lẽ ra Nga cũng phải nghỉ học nhưng vốn tật nguyền vì bị sốt tê liệt từ nhỏ, có ở nhà cũng chẳng được việc gì, nên mẹ nó gắng gượng cho con tiếp tục học, tới đâu hay tới đó. Được cái cô bé học rất chăm, ngoan và giỏi, thầy cô bạn bè ai cũng thương.
Đứng trước căn nhà sâu hút trong hẻm phải hỏi thăm gần chục bận mới tìm ra, thầy Nguyện cũng không biết tại sao mình tìm đến tận đây. Cô bé có phải học trò thầy đâu! Hay hoàn cảnh em khiến mình chạnh lòng? Bây giờ thì quả là thầy thực sự chạnh lòng. Căn nhà, nếu có thể gọi là nhà, chắp vá bởi bao nhiêu thứ bà rằn, cây có, tôn có, tre lá có, cốt để che kín một khoảnh đất nhỏ cho mấy con người chui vào, chui ra. Có cánh cửa bằng nẹp tre bên ngoài là còn tương đối giống cửa. Nhưng thầy Nguyện không đi vào, không dám đi vào trong khi lòng tràn đầy thương xót cô học trò chăm học, mê sách. Giờ này chắc Nga có nhà. Vị thầy dạy thể dục từng “hét ra lửa” bỗng thấy lòng mềm nhũn, sợ sệt một điều gì không rõ. Thầy rón rén lùi lại, bước trở ra con đường lớn, chân nặng trĩu, người bần thần, cảm giác ớn lạnh như người bệnh mới hết. Vì cớ gì mà mình vào đây? Câu hỏi lại xuất hiện trong đầu. Vô duyên hơn nữa là vì sao đến nhà rồi mình lại không vào, thăm con bé một chút cũng là chuyện bình thường, phải không. Xưa nay ông thầy thể dục tính tình vốn bộc trực, dứt khoát lắm mà.
Ngồi nói chuyện với thầy Nguyện trong thư viện, cô Liên, chủ nhiệm lớp 10A2, thở ra:
- Em Nga có được trợ cấp của Hội Chữ thập đỏ do lớp đề nghị nhưng như “muối bỏ biển” ấy thôi. Tình cảnh em bấp bênh quá, ngày nào đến trường thì biết ngày nấy, còn tùy việc bán buôn của mẹ nó, chị nó nữa.
Thầy Nguyện trầm ngâm một hồi rồi nói với cô Liên, giọng thật trầm:
- Cô vui lòng giúp tôi việc này, được không cô?
Cô giáo chủ nhiệm chăm chú nghe, chẳng biết thầy Nguyện nói gì mà cô gật đầu lia lịa, miệng cười tủm tỉm:
- Được, được! Thầy cứ yên chí, vậy là tốt lắm rồi.
Nói xong cô đứng lên, nhìn thầy Nguyện đăm đăm như nhìn một người lạ mới gặp lần đầu. Nhưng chỉ một thoáng, cô trở lại vẻ thân mật như trước:
- Cứ thế nhé, cảm ơn thầy nhiều.
Mấy ngày sau, cô học trò lớp 10A2 được cô giáo chủ nhiệm gọi lại:
- Từ học kỳ này, mỗi lần sơ kết học kỳ, cô sẽ đưa cho em năm trăm ngàn đồng. Đó là tiền trợ cấp của chi hội phụ huynh lớp mình dành để giúp em, hy vọng em cố gắng học hành.
Nói vậy rồi cô Liên quay đi ngay, không kịp nhìn niềm vui rạng ngời trên mặt, trong mắt đứa học trò nghèo chăm học. Cô sợ mình sẽ không giữ vững được lòng trước cái nhìn trong sáng của con bé chăng?
***
Thầy Nguyện mất thật đột ngột khiến cả trường xôn xao. Trông thầy vẫn còn khỏe dù sắp bước vào tuổi sáu mươi. Nghe nói thầy bị đột quỵ. Ôi, người thầy thường khi rất chú ý đến sức khỏe, thể lực của học trò, của mình, sao lại bị thế kia.
Đám tang thầy Nguyện diễn ra trang trọng, êm ả. Hầu như cả trường đủ mặt. Phải vậy thôi! Thầy đã hơn ba mươi năm gắn bó với trường, dạy bao lớp học trò, bao lần dẫn quân đi “đánh đấm” mang thành tích về cho trường. Rất nhiều học trò trong đám vận động viên thể dục của thầy cũng tìm về đưa tang, đứng chật cả hẻm. Điều làm một số thầy trò trường trung học phổ thông chuẩn quốc gia này ngạc nhiên là cô bé Nga, em học sinh khuyết tật đang học lớp 12 năm này cũng bịt khăn tang trắng như hai đứa con gái thầy Nguyện. Con bé gục bên quan tài thầy, khóc sưng cả mắt. Con nhỏ hay lên thư viện mượn sách về đọc, thầy trò tình cảm sâu nặng nên nó xin để tang ư? Mà không có lý, đến tiễn thầy, lo tiếp việc nhà là được rồi mà... đâu đến phải để tang như con ruột. Hình như mọi người đều nghĩ vậy.
Chỉ có cô giáo chủ nhiệm lớp 12A2, cô Liên, là hiểu rõ và cô cũng đang nước mắt giàn giụa. Câu chuyện trong thư viện hai năm trước cô vẫn còn nhớ như mới ngày hôm qua. Đã năm lần sơ kết học kỳ, năm lần món tiền nhỏ mang tấm lòng người thầy được trao tay cô học trò, thêm một chút tiền sách vở, một chút niềm tin yêu cho cô gái tật nguyền. Chỉ đến tối hôm qua, trước khi tẩm liệm thầy Nguyện, cô Liên mới gọi Nga đến, cho biết về người tặng cho cô bé món trợ cấp suốt ba năm nay. Và, chiếc khăn tang trắng trên đầu cô học trò chính là để trả nghĩa cho người thầy, người cha giờ Nga mới biết. Ngoài đương sự, cô giáo Liên đã không nói cùng ai việc này, năm xưa cô chẳng từng hứa với thầy Nguyện rồi đó sao. Nhưng nếu để con bé không biết lúc này thì thật cô không đang tâm! Chắc thầy Nguyện cũng không nỡ trách mình đâu. Mà nếu mọi người biết thì sao nhỉ? Ai cũng tưởng ông thầy dạy thể dục một thời “hét ra lửa” kia chắc là người cứng cỏi, sắt thép lắm, đâu ngờ bên trong con người ấy là con tim nhân hậu, chan chứa yêu thương. Cô học trò nhỏ rồi sẽ ra trường, khó khăn vẫn còn trùng trùng phía trước nhưng ít nhất con bé cũng biết đã từng có một người thầy dạy thể dục thật bình thường trong ngôi trường này đã xót xa vì cô và muốn nâng cánh ước mơ cho cô bằng cả tấm lòng. Mong sao điều đó sẽ giúp con bé Nga của mình cứng cáp hơn, cô giáo Liên nghĩ thế.
Cô giáo Liên thấm nước mắt, vuốt nhẹ vai cô học trò đang lúi húi đốt bó chân nhang trong cái thau nhỏ dưới đất rồi lại đầu quan tài, thắp thêm một cây nhang cho thầy Nguyện trước khi ra về, lầm thầm khấn vái:
- Xin thầy cứ yên nghỉ, học kỳ cuối cùng này em Nga vẫn sẽ nhận đủ món tiền trợ cấp như mọi khi. Đó sẽ là tấm lòng của thầy để lại, xin thầy yên tâm!  
Ngước nhìn lên, trong khói nhang nghi ngút, thầy Nguyện đang cười thật tươi trong khuôn hình. 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:22:49
Chuyện ngày qua
TRẦN QUỐC CƯỠNG
 


Chị Nữ là người “đổ bộ” đến xóm Gò đầu tiên, chị viết đơn xin đất gửi chính quyền xã ngót ba năm, đi chừng chục lần. Lần nào ông chủ tịch cũng đon đả: “Chị cứ yên tâm về đi, nay mai chúng tôi giải quyết”. Cái điệp khúc bất thành văn từ cửa miệng của ông chủ tịch xã đã khiến chị nản lòng. Cuối cùng, chị âm thầm đưa vật liệu đến vùng đất gò xa ngái dựng căn nhà lá đơn sơ. Tới nước ấy ủy ban xã đành cấp giấy tờ cho chị. Có điều lạ là khi thấy căn nhà của chị Nữ dựng lên, ông chủ tịch xã cũng không làm khó dễ gì. Chắc ông nghĩ, gò đất ấy cằn cỗi, đèo heo hút gió, nên không thèm để mắt tới.
Chị Nữ cất nhà tròn năm thì Thắm - cô bạn cựu thanh niên xung phong thời chống Mỹ tuổi quá lứa, không chồng không con - lui tới. Có lẽ cái mùi khăn khẳn chua của xác rạ rữa rã và tiếng ếch ạ uôm đồng vọng níu chân người đàn bà quen sống cô đơn chưa từng biết hơi hám đàn ông là gì, chị Thắm trở thành “phó thổ địa” xóm Gò.
Chị Nữ ngồi chằm nón, cánh mũi phập phồng, vài giọt mồ hôi như sương mai ngấn trên má, gần cận tuổi năm mươi rồi mà cái duyên còn phảng phất trên nét mặt, làn môi. Đám thiếu phụ và cánh con gái lỡ thì ngồi trong vuông sân nghe chị kể về những ngày bám trụ xóm Gò. Chị Nữ dừng tay đưa vạt áo quệt mồ hôi nhoẻn cười e ấp như con gái mới lớn: “Không hiểu sao ngày ấy tao liều thế. Hẳn do những lời bóng gió xa xôi của mấy đứa cháu sợ tao báo cô. Thật tình bấy lâu tao đâu mặn nồng gì với cách sống bòn mót chỗ dựa. Tụi mày chưa nếm trải hết nỗi cô đơn chứ tao thì nó đã ngấm sâu vào máu thịt lâu rồi, sự trống trải là một hình phạt ghê gớm đối với người đàn bà sống độc thân. Nửa đêm, sấm chớp đùng đùng, gió mưa ào ào như tiếng gào rú của lũ quỷ đói. Ngọn đèn run rẩy, nỗi sợ hãi lớn dần”.
*
* *
Cái gò đất lẻ loi, khỉ ho, cò gáy của làng Thượng có duyên lạ lùng với những kẻ không chồng. Sau chị Nữ, chị Thắm còn có chị Thuận, chị Rả và những thiếu phụ trẻ một lần tan đàn xẻ nghé. Có vài cô đã làm mẹ, nhưng chưa từng làm vợ. Hơn mười nóc nhà mọc lên xúm xít. Những mảnh đời lỡ làng đan tựa vào nhau. Từ sáng sớm họ lọ mọ rời khỏi nhà, người làm phu hồ, đánh vữa, người đội mẹt bánh kẹo, kẻ lặc lè gồng gánh rau dưa... Đến lúc nhọ mặt người họ mới hối hả trở về... Được cái, lũ trẻ con dường như cũng hiểu thân phận. Chúng chơi với nhau rất đỗi thân tình. Đứa lớn nhất chỉ huy đám trẻ nhỏ nghe răm rắp. Cuộc sống của xóm Gò thật sự bắt đầu vào lúc sẩm tối. Cơm nước xong xuôi họ dắt díu nhau đến vuông sân nhà chị Nữ rôm rả chuyện trò. Xóm Gò là lãnh địa xa khu dân cư với những cuộc đời như ngả rẽ dòng sông.
Một hôm vào lúc nửa đêm, chị Oanh - một thiếu phụ trẻ đẹp giật mình thức giấc bởi tiếng gõ cửa gấp gáp. Chị hỏi, người gọi cửa không thưa. Thế là chị la toáng lên. Chị em hàng xóm bật dậy kẻ cây, người gậy bao quanh vây bắt gọn kẻ gian trói gô lại. Khi bưng đèn ra mới rõ mặt gã sửa đồng hồ ở dưới huyện. Hôm sau chuyện bắt “gian phu” đến tai mụ vợ. Mụ ta xai xải tìm đến xóm Gò, đứng ngoài sân nhà chị Oanh, tru tréo: “Con nào lấy chồng bà ra đây cho bà gọt đầu, trát dầu rái”. Chị Oanh ức lòng, “đáp lễ”: “Bà về mà răn dạy cái thằng chồng mèo mả gà đồng của bà. Gái đây có ế thì phơi chứ không thèm phường ấy”.
Nghe động, chị Nữ và chị em ]áng giềng rùng rùng kéo tới bao vây kẻ ác khẩu. “Chánh thổ địa” mặt nóng phừng phừng, vung tay, trợn mắt làm dữ... Mụ vợ gã sửa đồng hồ mặt cắt không còn giọt máu, lấm lét lủi đi không một lần nhìn ngoái lại.
*
* *
Trong bốn chị em bạn thanh niên xung phong cùng thời thì chị Thuận còn có chỗ trông tuổi già. Thằng Khánh - con trai chị không những là niềm an ủi của riêng chị mà còn là niềm tự hào chung của cả xóm. Năm nay nó học năm thứ tư đại học y khoa. Mỗi lần về, nó như viên ngọc tỏa sáng cả xóm nghèo. Các mẹ, chị theo vuốt ve, chăm sóc, yêu thương. Biết chị Thuận không đủ tiền chu cấp cho nó ăn học, chị Thắrn cởi phăng chiếc nhẫn vàng - vật kỷ niệm - tặng nó. Chị Nữ thì tóm ráo mấy ổ gà đem bán. Còn chị Rả đập con heo đất. Má nó nhìn chị Thắm rơm rớm nước mắt: “Vật đó của thằng Nhữ tặng cho em...”. Chị Thắm cười hềnh hệch, tiếng cười của chị nghe cay đắng khôn cùng: “Người ta chê mình thanh niên xung phong, là gái già, người ta có gia đình yên ấm, em còn giữ vật đó làm gì”. Thằng Khánh nghe chị Thắm nói, nó quay mặt đi vì xúc động. Chuyện hồi có mang thằng Khánh, chị Thuận kể như một giai thoại vừa bi, vừa hài:
Năm 1970, cô Thuận mắt lá răm, mặt đẹp, tánh tình dễ thương và nổi tiếng dũng cảm bỗng dưng... có chửa. Cả đơn vị bàng hoàng. Lúc đầu ai cũng ngỡ có người ganh ghét Thuận rồi gắp lửa bỏ tay người. Khổ thay trong một cuộc họp chi đoàn chính ‘I’huận thừa nhận cô mang thai. Mọi người ngẩn ngơ, ấm ớ... Bí thư chi đoàn mặt hằm hằm mai mỉa: “Đồng chí Thuận làm tốt mặt chi đoàn quá ha! Đồng chí có thai với ai, phải thành khẩn?”. Người con gái bật dậy, cứng cỏi: “Tôi có thai với ai đấy là chuyện riêng của tôi”. Vị chủ trì không còn giữ được sự bình tĩnh, anh ta đập bàn đánh sầm, quát: “Đồng chí có còn là một đoàn viên nữa không? Đồng chí quan hệ bất chính, hủ hóa làm ảnh hưởng đến danh dự của đơn vị lại còn lý sự, ngoan cố. Tôi yêu cầu đồng chí nghiêm túc khai báo đã quan hệ với ai có thai?”. Cô gái cười lạt: “Trong đêm tối mông lung tôi không biết ai cả”. Có tiếng cười rúc rích của các nữ thanh niên. Bí thư chi đoàn có phần nguôi giận. Song, anh ta vẫn chì chiết: “Cô nói vậy mà nghe được à? Cô không biết mặt người quan hệ mà cô vẫn...”.
Chị Thuận đột ngột dừng lời, tay phe phẩy chiếc quạt nan, ngước nhìn ánh trăng vàng vặc như hoài niệm điều gì. Các thiếu phụ trẻ hể hả cười, thúc giục: “Cô kể tiếp đi! Nghe nửa vời tức lắm”.
Một cô giật chiếc quạt trên tay chị quạt ào ào cười giòn tan: “Cháu quạt cho cô đây này, cô kể mau lên!?”. Chị Thuận cười hiền, giọng đều đều: “Mấy đứa biết cô đáp thế nào không? Sau này mỗi lần nhớ đến những lời trần trụi ấy cô ngượng chín người - Cô đáp với anh chàng bí thư thế này: “Vâng! Tôi không hề biết mặt anh ta là ai. Chiến tranh giữa cái sống và cái chết chỉ là ranh giới mỏng manh. Tôi là con gái đang độ xuân thì dạt dào nhựa sống. Tôi khao khát... theo bản năng... Các đồng chí muốn kỷ luật tôi thế nào cũng được”. Nói xong cô quay lưng đi về lán trại ôm mặt khóc òa”.
- Ơ hay, sao cô không khai người đã ân ái với cô cho nhẹ tội?
- Vì người ấy đã hy sinh sau trận đánh trả máy bay Mỹ cháu à.
- Trời đất!
- Cô đã tính sẵn, nếu anh ấy còn sống, cô cũng nhất quyết không khai. Tội nghiệp gia đình anh ấy có ba người con trai thì đã hy sinh hết hai. Trước khi anh lên đường đi B, ba mẹ anh đau đáu mong có đứa cháu nội. Anh gạt nước mắt dứt áo ra đi báo thù. Cô ân hận là lúc đã mang thai với anh một tháng cô chần chừ không báo tin cho anh biết.
Chị Thuận ngừng kể, có tiếng sụt sùi khóc...
Nguồn: baocantho.com.vn
 

"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:29:09
Chuyến đò
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
Vừa từ nhà người em chồng bước ra, bà Quang kêu mệt. Không biết họ chưa từng được ăn hay sao mà cứ và cứ gắp, y như đã bị bỏ đói lâu ngày. Thằng cháu Việt kiều thì cứ mải lo huyên thuyên khoe khoang cái chỗ nó vừa từ đó trở về. Nó khoe từ cái ăn, cái mặc, cái làm, cái chơi..., cái nào cũng hơn hẳn xứ sở nghèo nàn đã sinh ra nó. Bà Năm Thịnh đã mấy lần kéo tay, ý muốn nó ngưng nói để hỏi thăm bà bác dâu từ Sài Gòn về mà nó cứ vờ không biết. Khách thì cứ ăn. Chủ thì cứ nói. Đồ ăn bao nhiêu cũng hết. Nhà sau lại nghe tiếng heo kêu la inh ỏi, chắc họ sắp làm thêm một con nữa. Bà Quang ngồi nói chuyện với bà Năm Thịnh một lúc thấy bực bội. “Mình cất công từ Sài Gòn về đây thăm nó là nghĩ  tình họ hàng chẳng còn ai. Mà nó cứ như người dưng nước lã thì ngồi lâu làm gì”. Nghĩ như vậy, bà nói lời từ giã với người em dâu. Bà dùng những lời ngọt ngào, thận trọng chứ thật tình trong bụng chẳng chút vấn vương. Một người đàn ông trạc hơn ba mươi nãy giờ đứng xớ rớ, khách chẳng ra khách, mà chủ cũng không ra chủ, đến bên bà:
- Mẹ định về sao mẹ?
- Ừ! Xuống nhà dưới kêu vú con sửa soạn về!
Gã chen trong đám người đang miệt mài ăn uống, xuống nhà ngang. Lát sau, một người đàn bà ăn mặc xuề xòa theo gã lên nhà trước.
- Vú mày đã ăn chưa? Bà Quang hỏi.
- Dạ! Em ăn rồi. Chị tính về bây giờ sao?
- Về! Để cháu nó còn tiếp khách. Mình ở đây chỉ làm chật nhà.
Bà Năm Thịnh biết bà chị dâu giận nhưng cũng không biết làm sao. Hai ông chồng đã chết, chỉ còn hai chị em bạn dâu mà kẻ quê người chợ. Mấy năm nay ai cũng bận bịu chẳng được viếng thăm nhau. Kỳ này, thằng Thuận con bà về nước, tưởng bác cháu gặp nhau vui vẻ, ai ngờ thằng con bà quá quắt, luôn khoe mình giàu. Bà Quang lại quen thói kẻ cả. Thôi thì, chị ấy về cũng tốt. Bà Năm Thịnh đưa ba người tới bến đò rồi quay lại sau khi nói vài câu xin lỗi.
- Thân à! Bây giờ về Sài Gòn cũng trễ, hay là mình bao đò đi chơi một buổi. Tối về thị trấn thuê phòng ngủ rồi mai về sớm- Bà Quang gợi ý với con trai.
- Dạ! Mẹ tính như vậy cũng tiện. Con thấy chú Thuận cũng quá đáng thiệt. Dầu gì cũng là cháu mà không kể gì tới mẹ hết.
- Mặc kệ nó! Tao về cũng không vì nó. Nghĩ mồ mả ông bà với ba mày còn nằm đó mới về. Chứ cái thứ rác rưởi đó, ai thèm nói tới.
Hai người bàn bạc xong, kêu người lái đò xách giùm đồ đạc xuống. Người đàn bà được Thân gọi bằng vú vẫn lặng im. Thân lấy từ trong túi xách ra chai nước khoáng, gã mở nắp rồi đưa bà Quang:
- Mẹ uống đi! Hồi nãy chắc mẹ chưa ăn gì hả? Mẹ có ăn bánh ngọt không, con lấy cho! Gã vừa nói vừa soạn kiếm bọc bánh trong túi xách.
Họ đã xuống đò. Giờ này nước đang lớn. Người chèo đò cặn dặn:
- Ra tới đầu doi hơi có sóng, hai bà với cậu ngồi kỹ chút nghe!
Thân cười, trán gã lấm tấm mồ hôi. Bà vú móc từ túi áo bà ba của mình cái khăn tay đã ố vàng, vói tay lau mồ hôi cho gã. Thân gạt ra. Gã móc khăn giấy từ trong xách đưa bà Quang một bịch. Rồi chừng như nhớ ra, gã hỏi:
- Hồi nãy vú có ăn cơm chưa? Cứ ở đó lo làm!
- Rồi! Vú ăn rồi mà!
Bà vú nói thì nói vậy, chớ đã ăn uống gì đâu. Mới tờ mờ sáng, bà đã xuống bếp phụ làm. Bà Quang ở nhà trên chắc còn ngủ được. Còn bà nằm chèo queo ở bộ vạt nhà dưới nghe đám thanh niên đánh bài, đánh lô tô cười nói sáng đêm nên đâu chợp mắt được. Bà lại sợ thằng Thân bị người ta ép uống rượu nên cứ giở mùng dòm ra hoài. Rốt cuộc thì trời sáng. Thằng Thân tuy do bà mang nặng đẻ đau, nuôi nó tới ngày khôn lớn nó vẫn chưa bao giờ kêu bà một tiếng má ngọt ngào. Âu cũng là kiếp số. Còn người đàn bà không chung cùng một giọt máu, không cực khổ một ngày vì nó, lại được nó luôn miệng kêu tiếng “mẹ” thương yêu. Thằng Thân bao nhiêu tuổi thì nỗi đắng cay đau đớn trong lòng bà cũng bao nhiêu năm. Mười tám tuổi, bà vào nấu ăn cho nhà ông Quang, con trai một địa chủ có tiếng trong vùng. Ông Quang mở rộng làm ăn, có nhiều nhà máy ở khắp huyện. Bà Quang lại là người đàn bà đầy tham vọng. Bà quán xuyến công việc hơn cả chồng. Trong tay vợ chồng bà có cả trăm người phụ việc. Chính vì ham mê công việc, nên bà thường xuyên vắng nhà. Bà vú thuở ấy lại là người con gái dễ coi. Cái ngày phát hiện người làm có thai với chồng mình, bà Quang đã ngồi lì trong phòng một buổi. Cuối cùng, bà nói với chồng: “Em biết em có lỗi đã để mình phải chăn đơn gối chiếc. Nhưng dù sao, cô ấy cũng là người làm, để bên ngoài biết, thiên hạ sẽ cười chê. Bây giờ, tạm đưa cô ấy về quê em, chờ sinh nở xong rồi tính”. Không một ai biết chuyện ngoài vợ chồng bà, bà vú và lão quản gia. Hai đứa con bà Quang đứa mười, đứa sáu tuổi đã reo mừng khi thấy mẹ chúng đem về một đứa em trai. Thằng Quân hỏi:
- Ủa! Mẹ đẻ em hồi nào hả mẹ?
Còn thằng Quỳnh ngọng nghịu:
- Em... em “ngỏ khíu” hà!
Bà Quang cười với con:
- Đây là em của hai đứa con, vú sẽ nuôi em thay cho mẹ. Mai mốt, tụi con có ba đứa, mặc sức mà chơi mà giỡn.
Vậy là bà vú lại được nuôi con mình và gần người chồng hờ của bà. Ông Quang từ đó thêm nể vì người vợ biết cư xử và cũng không mặn mòi với bà vú nữa. Thằng Thân không được đặt cho những cái tên rất kêu của dòng họ chỉ đơn giản là Văn Thân, theo họ bà vú, cha vô danh. Đó là ý của bà Quang và ông Quang không một lời phản đối. Thằng Thân vẫn kêu cha gọi mẹ và vẫn mang cái lý lịch “tréo cẳng ngỗng” đó đến ngày ông Quang mất. Bà vú không đòi hỏi gì hơn là được gần con và thấy con mỗi ngày khôn lớn, lại được ăn học đàng hoàng. Với thiên hạ ở bên ngoài thì Thân là đứa con nuôi. Với ông bà Quang, gã là đứa con ngoài ý muốn. Nhưng với bà vú, đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời bà. Mãi đến năm lên tám, Thân mới biết bà vú là mẹ ruột, là người đã sinh ra gã. Lẽ ra, càng lớn, gã càng phải biết thương yêu người đàn bà khốn khổ đã rứt ruột đẻ ra mình, đã chịu bao nhiêu đắng cay trong đời tôi tớ chỉ để được gần con. Quân và Quỳnh trực tiếp quản lý công việc làm ăn với mẹ. Thân chỉ làm những việc vòng ngoài. Gã biết cái thân chẳng đáng giá của mình từ sau khi cha chết và gã đã làm đủ mọi cách để có tên trong giấy tờ chia gia tài của bà Quang.
* * *
Con đò đã xuôi dòng nước. Dòng sông càng gần ngã ba càng mở rộng ra. Sóng nhấp nhô, nắng trải một màu vàng lụa. Bà Quang đã lâu không còn hưởng cái thú điền viên dân dã. Mỗi ngày của bà đều hái ra tiền. Từ lúc bà quyết định bán hết đất đai, nhà máy để về Sài Gòn mở rộng kinh doanh thì bà đã là người dân thành thị chính hiệu rồi. Ở tuổi sáu mươi ba mà bà vẫn điều hành công việc làm ăn đạt nhiều thành quả. Bà là cái đầu, hai thằng con trai là hai cánh tay đắc lực. Bà vú vẫn yên phận quản gia và bếp núc. Chỉ còn Thân, gã vẫn đang cố tạo cho mình một chỗ đứng trong lòng bà Quang và trong gia tộc. Gã vẫn biết Quân và Quỳnh không thương mình như ruột thịt và quyền hành vẫn còn trong tay người đàn bà bản lĩnh này. Vậy nên, gã đã không ngần ngại khi tự cho mình cái quyền là con của bà. Đi đâu cũng “mẹ”, làm gì cũng “mẹ”. Còn đối với bà vú, gã đã quên hay cố tình quên người đã tạo ra mình.
Càng ra tới ngã ba sông, gió càng thổi lộng. Những lượn sóng lớn hơn. Bà vú dựa lưng vô vách ghe, thiu thiu ngủ. Thân nhìn nét mặt khắc khổ già nua của bà rồi so sánh với bà Quang sang trọng, đẫy đà. Gã càng nghĩ càng thấy không cam tâm. Mới tuần trước, gã đã nghe phong phanh bà Quang đang nhờ luật sư làm di chúc. Gã bỗng bồn chồn. Gã không biết bà có nghĩ chút công lao và tấm lòng “hiếu thảo” của gã mà chia cho một ít. Một ít thôi trong cái gia tài của bà cũng bằng cả đống của cải thiên hạ. Cho nên khi bà vừa cho biết sẽ về quê và kêu gã đi theo, gã đã vui mừng tở mở. Gã đã mua những thức ăn đồ uống mà bà thích, đã chuẩn bị mọi thứ cho bà. Còn bà vú, chỉ mấy bộ đồ cũ mèm trong giỏ, bà đã quen rồi nên cũng chẳng buồn chẳng tủi. Bà Quang đang say sưa ngắm cảnh vật hai bên bờ sông. Hồi tối bà ngủ được nên bây giờ thấy tỉnh táo lắm. Thân ngồi bên vú đối diện với bà Quang để chuyện trò.
- Đi chuyến này chắc mẹ vui lắm! Thỉnh thoảng cũng nên về quê đổi gió hả mẹ?
- Mẹ thì công chuyện không dứt, rảnh đâu mà đi chơi. Họa chăng, chừng nào thu xếp cho tụi nó xong rồi, mẹ mới yên.
Thân thấy thất vọng. “Thu xếp cho tụi nó” nghĩa là Quân và Quỳnh chớ không có gã. Tuy vậy, gã cũng gượng cười:
- Anh hai, anh ba thì giỏi rồi, mẹ cũng đừng lo quá!
Từ đằng xa bỗng có tiếng động cơ thật lớn, một chiếc vỏ lãi đang lao hết tốc độ về phía con đò. Người lái đò biến sắc, anh khoát tay ra dấu biểu nó tránh ra. Chiếc vỏ lãi chẳng thay đổi luồng chạy, vẫn phóng như bay trên mặt nước. Một đợt sóng rồi hai ba đợt xô chiếc đò giạt ngang. Một đợt nữa đẩy nó lên cao. Tiếng người lái đò thất thanh: “Chết rồi! Đò chìm rồi!”. Bà vú choàng tỉnh chụp lấy cánh tay con như bản năng của một người mẹ. Ngay trong phút giây kinh hoàng đó Thân lại nảy ra cái ý nghĩ tuyệt vời - phải cứu bà Quang. Gã gỡ mấy ngón tay của bà vú ra lúc chiếc ghe đã lật ngang. Gã nắm lấy cánh tay bà Quang bằng tất cả sức lực của mình. Và để biện minh cho việc làm của mình, gã nghĩ “người lái đò sẽ cứu bà vú thôi!”.
* * *
Người ta huy động tới mấy chiếc ghe cào để tìm xác bà vú. Bà Quang đã được Thân hết lòng cứu sống. Gã đã bơi bằng hai lần sức lực của mình khi nghĩ đến tên mình trong tờ di chúc. Người lái đò thấy bà vú chìm xuống nhưng anh không nắm được. Những con sóng cứ bổ tới đẩy bà xa anh. Bà vú được đặt nằm trên bờ sông chờ chính quyền tới xác minh sự việc. Một người tốt bụng đã lót cho bà chiếc chiếu bông. Bà Quang vẫn chưa hoàn hồn và bà đã khóc khi nhìn thấy bà vú nằm đó như đang ngủ. Bà nhìn Thân thầm nghĩ: “Lẽ ra nó phải cứu mẹ nó” và bà ngờ ngợ một điều gì đó trong đầu:“Trời ơi! Không lẽ là như vậy!”. Thân đứng cách đó không xa. Gã nhìn người đẻ ra mình nằm đó giống như nhìn một xác người xa lạ. Trong đầu gã lúc này là cái ơn gã đã cứu sống bà Quang và gã mường tượng những ngày giàu sang sắp tới.
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:37:02
Mùa lũ
ĐẶNG HOÀNG THÁM
 
Cô gái đứng hồi lâu trên cầu bỗng leo qua lan can rồi gieo mình xuống dòng nước đang chảy băng băng.
- Có người tự tử! Mau lên Đực ơi...
Đực đang tóm mấy lưỡi câu để tối đi cắm, vội vàng vất cuộn dây gân vào khoang ghe, cởi nhanh áo quăng xuống sạp, nhảy tùm xuống nước. Đực sải tay bơi hết tốc lực xuôi theo dòng nước đang chảy cuồn cuộn. Anh chụp được cánh tay của người con gái, xốc ngang hông cô ta, nương dòng nước, vào bờ. Ông già Tám chống ghe vô tiếp Đực.
- Hừ... con cái nhà ai mà dại dột quá! Chắc thất tình hay thi rớt gì đây!
Ông già lầm bầm khi kéo cô con gái mình mẩy mềm dượi và ướt mem lên sạp ghe: “ Đực! Mầy sốc nước nhanh lên!”. Đực hai tay ấn vào ngực cô. Lát sau, nước từ trong họng cô trào ra. Cô gái mở cặp mắt lờ đờ. “Hết chết rồi! Mầy lau mình cho nó. Tao nấu miếng nước, châm trà đậm đổ cho nó uống”. Đực ngại ngần: “Ông ngoại ơi! Ông... ông lau cho cổ đi, con là con trai mà...!”. “Có lau không? Một hồi nó trúng gió chết bây giờ. Tao với mầy mang họa!”. Ông già gân cổ quát lên. Đực hoảng sợ, vội vã lấy cái áo cũ...
Cô gái tỉnh lại sau khi được đổ mấy chung trà ấm đậm có pha đường cát. Cô lạ lẫm nhìn Đực và ông già Tám: “Trời ơi!... Mấy người cứu tôi làm chi vậy? Tôi muốn chết mà...”. Cô gái mệt nhọc ứa hai hàng nước mắt. Đực quay mặt đi chỗ khác. “Cháu có việc gì buồn mà muốn chết! Có việc gì cũng thong thả thôi, sao lại dại dột như vậy?”. “Cháu... cháu buồn lắm! Cháu khổ lắm ông ơi!”. Cô gái thều thào. “Ông ngày xưa cũng khổ lắm nhưng ông đâu có muốn chết. Bây giờ già rồi ông cũng chưa muốn chết. Con trùn, con kiến cũng còn muốn sống kia mà!”. Đực lui cui sau lái canh nồi cháo cá. Nước sôi bùm bụp...
Cô gái quấn đỡ chiếc khăn tắm, ngồi thu lu. Cô xanh xao với tóc tai rũ rượi. “Cô ăn đi... ăn cho lại sức...”. Cô gái im lặng thẫn thờ múc vài muỗng cháo cho vào miệng. Hình như hơi nóng, vị ngọt của cháo cá nấu với ít gừng, chút tiêu sọ, vài cọng hành lá thơm phức làm cho cô tỉnh táo lại. “Cô ráng ăn đi... Cháo nấu nhiều lắm” - Đực thật thà nói với cô gái. Cô gái nhìn ông Tám và Đực với cặp mắt biết ơn, húp nhỏ nhẻ từng muỗng cháo trông có vẻ khá ngon miệng.
Chiếc thuyền của hai ông cháu người chài lưới chở theo cô gái ngược dòng sông trở về nhà họ. Xa xa, bên phải phía hạ nguồn, có vầng sáng rộng, ánh lên trên khoảng không của thành phố. Ngọn đèn của cái tháp đài truyền hình như cục than đỏ hồng lẻ loi giữa bầu trời nhàn nhạt ánh sao. Cô gái cho biết nhà cô ở xa lắm. Cô không thể trở về nhà. Những đứa em cung cha khác mẹ với cô đã xua đuổi cô. Cha cô bị tai biến nằm một chỗ. Mẹ kế cô là một người đàn bà chua chanh chát khế. Cô buồn rầu nhớ lại...
- Mầy đi cho đã rồi trở về đây làm gì? Tao đã khổ sở với thằng cha mầy, giờ lại thêm mầy! Lấy Đài Loan không được thì ở bển làm gái cũng có tiền, cũng sướng, sao lại trồi đầu về. Về rồi lại đi. Sao không đi luôn mà trở lại đây để báo cô, báo kiếp tao à? - Người phụ nữ đẫy đà, miệng quang quác.
- Con về để thăm ba con và mấy em... thưa dì...
- Không cần đâu. Nhà nầy không chứa gái - người mẹ kế xua tay, giọng chanh chảnh.
Mai chẳng biết về đâu khi cô chẳng còn nơi nương tựa. Mẹ chết khi cô mới mười ba tuổi. Mẹ kế của cô lúc mới về đây giả vờ thương yêu, chiều chuộng đứa con riêng của chồng, để làm vừa lòng người đàn ông góa vợ. Nhưng đã có lần cha nàng đòi đuổi bà ta ra khỏi nhà khi bắt gặp bà ấy đánh chửi Mai... Mai lớn dần thành thiếu nữ, xinh đẹp hẳn ra. Bà Giang cũng có hai đứa con với cha cô. Tình yêu của cha đối với cô hình như cũng nhạt dần theo năm tháng. Một phần vì ông ấy bận bịu công việc làm ăn. Một phần ông cũng thương hai đứa con sau. Mai dần dần sống âm thầm như chiếc bóng trong ngôi nhà có nhiều kỷ niệm vui buồn nầy. Những lúc hồi tưởng về mẹ, cô lặng lẽ khóc! Nếu mẹ còn sống thì cô đâu phải như thế nầy...
Cha Mai bị tai biến rồi nằm một chỗ. Bà Giang dịu ngọt dụ dỗ Mai, gả cô cho một người Đài Loan đã lớn tuổi. Cô thương cha, muốn có tiền chữa bệnh cho cha nên ưng thuận. Mười tám tuổi tròn, Mai lấy chồng xa xứ với một sự thật phũ phàng, nghiệt ngã. Vợ của chồng Mai đã chết từ lâu. Mấy đứa con của ông ta khinh khi cô ra mặt. Một gã em chồng thường nhìn cô lom lom, không giấu sự thèm khát. Một hôm, nhà vắng vẻ, hắn đã dùng sức mạnh cưỡng bức Mai... Chuyện ấy thỉnh thoảng tái diễn! Chồng Mai có lần bắt gặp nhưng lại dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mai rất đau đớn, nhục nhã. Mai bị ám ảnh, hoang mang và sợ hãi trong ngôi nhà u ám ấy. Một hôm, thừa cơ hội đi chợ, Mai đã tìm đến cơ quan trợ giúp những người cùng xứ sở và đã được giúp đưa về quê hương... Khi trở về, Mai có chút đỉnh tiền bạc mà cô đã lén lút dành dụm lúc còn ở bên ấy. Bà Giang vẽ duyên tiền thuốc men, khóc than khoản nợ nần trị bệnh cho cha cô. Cuối cùng, Mai trắng tay sau một thời gian trở về quê. Mai không thể ở với người mẹ kế cay nghiệt nếu không có tiền. Cô lên thành phố xin vào một quán cà phê làm tiếp viên với số lương bèo - bốn trăm ngàn đồng một tháng. Cái giá ấy giữa chốn phồn hoa đô hội chẳng đủ cho Mai chi dùng. Một vài cô tiếp viên cũ, từng trải đời, đã rủ rê Mai cách kiếm tiền nhanh từ những ông khách ham của lạ. Nàng lần bước đi vào con đường u ám với ý nghĩ: “ Mình chẳng còn gì để mất, để tiếc!”.
Trong một lần cơ quan chức năng kiểm tra một khách sạn, Mai được đưa vào trại phục hồi nhân phẩm. Người ta khám sức khỏe cho cô để phân loại những người bị nhiễm và không nhiễm HIV. Rất may, cô không dính vào căn bệnh thế kỷ nầy. Ra trại, Mai trở về quê và lại bị bà mẹ kế cùng những đứa con của bà xua đuổi.
***
- Cháu tạm thời cứ ở lại đây. Chừng nào muốn đi thì đi... Ôi! Trên đời sao có những số phận đáng thương như vậy! - Ông già Tám bùi ngùi.
- Nếu ông cho cháu ở lại... cháu sẽ nấu cơm cho ông và anh Đực ăn. Cháu sẽ...
- Có cháu càng thêm vui cửa vui nhà. Thằng Đực mồ côi từ nhỏ. Ông lượm nó trên bờ mẫu ở ngoài ruộng đem về nuôi lúc nó còn đỏ hỏn. Tội nghiệp bà ngoại nó! Thương nó hơn con đẻ. Nhưng bả đã đi theo ông bà mấy năm nay rồi! - Ông già Tám nhìn lên bàn thờ vợ.
- Sao anh Đực lại kêu ông bằng ông ngoại mà không kêu bằng cha?
- Hồi đó, ông có đứa con gái nhỏ, nếu tính ra phải bằng tuổi mẹ thằng Đực - ông chỉ đoán vậy - Nhưng con gái ông đã sẩy chân chết đuối khi ông chở nó đi giăng câu. Ông sơ ý để nó ra mũi ghe rồi lọt xuống sông bị nước lũ cuốn trôi. Năm đó lũ lớn lắm, nước chảy dữ lắm! Cá tôm từ Biển Hồ về nhiều lắm...” - Ông già Tám bùi ngùi kể - Vợ ông đi chợ bán cá về hay được, bả chết lên chết xuống! Về sau, cách đây hơn hai mươi năm, ông lượm được thằng Đực. Bà ấy nói trời cho. Trời đền lại cho bả... Thằng Đực chắc là cháu ngoại của bả.
Những ngày sống nơi cuối cái xóm vắng vẻ nầy, Mai cảm thấy tâm hồn mình yên ắng lại. Những buổi sáng nắng vàng tươi thật đẹp trải dài trên cánh đồng mênh mông rập rờn lúa xanh. Những buổi trưa, tiếng gà gáy gợi nhớ êm đềm về một tuổi thơ đã đi qua trong quá khứ. Và những lúc hoàng hôn, ráng chiều đỏ ửng phía chân trời xa đẹp nôn nao bụng dạ... Mai sống trong khung cảnh êm ả này cùng với ông Tám và Đực. Nghĩ tới Đực, Mai thầm nhủ: “Người đâu mà hiền như cục đất. Mình nói gì ảnh cũng nghe, chỉ nhăn miệng cười vui”...
Chừng tuần sau, anh công an ấp tới nhà ông Tám:
- Ông muốn cho cô nầy ở đây thì phải có giấy tạm vắng để xin tạm trú. Tôi có nghe dư luận không mấy tốt về cô gái nầy!
- Dạ thưa... Cổ có hoàn cảnh tội nghiệp lắm! Chú thông cảm, để từ từ tụi tui tính. Tui xin bảo lãnh cho cô ấy. Nếu cô ta có làm gì sai trái, tui hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Rồi ông già Tám kể cho anh cán bộ nghe chuyện của Mai. Anh cán bộ suy nghĩ một chút rồi nói:
- Chúng tôi cũng du di cho cô ấy một thời gian... Về lâu, về dài, phải có giấy tờ mới được. Đó là qui định chung.
- Dạ, tôi cũng biết... nhưng... - Ông già Tám có vẻ rầu rĩ.
Khi anh cán bộ về rồi, Mai rưng rưng nói với ông Tám:
- Chắc cháu phải đi thôi... Cháu ở đây làm phiền ông với anh Đực quá!
- Cô cứ ở lại đây, tụi tui sẽ tính sau... Cô đi... biết đi về đâu? - Đực nhìn trời nói, lòng buồn hiu hắt.
- Phải. Cháu cứ ở lại... Rồi mình sẽ liệu lo giấy tờ - Ông Tám cứ nói đại như thế vì xưa nay ông và Đực có biết gì đâu chuyện giấy tờ! Hai ông cháu họ năm dài tháng rộng lênh đênh trên sông chài cá, câu tôm rồi quanh quẩn xóm giềng!
***
- Tôi bày cho ông một kế. Việc nầy cũng bình thường thôi! - Chú Ba trưởng ấp nói với ông già Tám.
- Dạ... chú ráng giúp tôi. Sao tôi thấy thương con nhỏ quá!
- Tôi có để ý con nhỏ nầy, từ lúc nó về đây ở. Con nhỏ làm gì tôi không cần biết nhưng qua lời ăn tiếng nói, tôi thấy nó cũng đàng hoàng. Chắc khong phải là người xấu... Nếu có gì thì cũng do hoàn cảnh mà thôi. Những người như vậy ta nên giúp đỡ. Bây giờ tôi nói như vầy ông chịu không. Ông cưới nó cho thằng cháu ngoại ông đi, ráng làm vài mâm qua quýt cho làng xóm biết. Rồi sau đó kiếm ít tiền cho vợ chồng nó về xứ con nhỏ, xin giấy tờ chuyển về đây.
- Cậu Ba nó nói nghe chí lý quá. Tôi sẽ bàn với thằng Đực và con Mai xem ý tụi nó ra sao - Mặt ông già Tám rạng rỡ hẳn lên.
Đám cưới của Đực và Mai chỉ có vài mâm, diễn ra ấm cúng và khá vui vẻ. Năm sau, Đực dẫn vợ về quê làm thủ tục giấy tờ. Ông Tân - cha Mai đã mất chừng nửa tháng sau ngày cô đi khỏi nhà lần thứ ba. Bà Giang xởi lởi. Nhưng ai mà biết trong bụng bà ấy nghĩ gì! Có điều bà ta - tạm gọi là biết điều - đã an táng ông chồng cạnh ngôi mộ người vợ trước của ông theo lời trăn trối.
Vợ chồng Mai ra mộ đốt nhang khấn vái cha mẹ cô. Buổi chiều dần khép lại. Nắng vàng nhạt như mành lưới giăng trùm lên cánh đồng mênh mông hiu quạnh. Mai lưu luyến nhìn đôi mả đất cha mẹ mình lơ thơ mấy đám cỏ may. Mai bùi ngùi, đỏ hoe đôi mắt. Cô bỗng thấy như in ngày còn bé. Cô đội cái mũ vải tròn, cặp ba lô trên lưng, ngang hông đeo bình nước có sợi dây vắt chéo. Cha cô cõng cô đến trường trong mùa nước lũ. Mẹ cô thường gói cho cô những củ khoai nóng hổi thật ngon trong giấy báo rồi cẩn thận bỏ vào bọc cho cô đem theo để ăn. Trống trường tan, Mai thấp thỏm trông cha đến đón về. Mai nhớ những mùa đông thời thơ ấu. Cô nằm giữa, cha cô một bên, mẹ cô một bên, ủ ấm cho cô. Nước mắt Mai lăn lã chã trên gò má bao giờ cô cũng chẳng hay...
Mai và Đực xuống ghe, trở về xóm Muồng Cụt để chuẩn bị cho mùa giăng câu, đặt lưới, bởi lũ thượng nguồn đã tràn về mênh mông bờ bãi. Cuộc đời của những người dân quê ở đây thầm lặng trong thanh bình và yên ả. Có lẽ, họ đã biết chung sống với lũ từ bao đời nay...
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:44:14
Bóng chiều
TRẦN MINH THUẬN
 
Sơn đã ngồi một mình cô độc dưới hoàng hôn không biết bao nhiêu lần mà nỗi buồn hình như chưa bớt đi một chút nào. Cuộc sống của anh giờ đây đã mất hết ý nghĩa khi bên mình không còn một người thân nào. Ba má đã chết trong uất hận, đau buồn, mọi người xung quanh thì thờ ơ, lạnh nhạt, họ xem như không có anh trên đời. Hồi ra trại, anh mới về đến đầu xóm đã nghe bà con xôn xao:
- Thằng Sơn “giang hồ” dìa, mọi người cẩn thận đồ đạc, vòng vàng coi chừng nó cướp hết đó. Ba má nó nó còn không từ nữa là bà con mình. Bao nhiêu tiền cũng không đủ cho nó chích xì ke đâu. Nó mà nổi cơn ghiền có khi giết người như chơi...
Sơn bước đi mà hai chân không cất lên nổi, lê lết từng bước nặng nề về căn nhà mà má anh mua sau này, bên bờ sông. Căn nhà trống hoác không có vật dụng gì, chỉ có một cái võng lác giăng qua hai gốc cột. Trên vách chỉ còn mấy cái bằng khen, huân chương kháng chiến và mấy tấm hình của ba má anh bị tơ nhện bủa giăng. Nhìn ảnh của ba má mình một hồi, Sơn bật khóc như thằng con nít mới vừa mất mẹ. Nhìn thành quả phấn đấu cả đời của cha mẹ mình có được, sự hối hận cứ lớn dần trong Sơn, anh nói lẩm bẩm một mình mà như nói cho cha mẹ mình nghe:
- Ba má ơi! Con dìa rồi, thằng Sơn hư hỏng đã dìa rồi mà ba má bỏ đi luôn thì còn ai để mà tha thứ cho con. Con đã phá hết những thứ mà ba má phấn đấu cả đời mình, để cuối cùng con mất tất cả, mất ba má và mất cả tình thương của bà con chòm xóm.
Gia đình Sơn là một gia đình có truyền thống cách mạng. Ông bà cha mẹ đều là những người từng tham gia kháng chiến để giành độc lập cho đất nước. Sau ngày giải phóng, cha mẹ anh đều giữ những chức vụ quan trọng: cha anh là chủ tịch huyện, còn mẹ là giám đốc ngân hàng. Cuộc sống gia đình ngày một khá hơn nhưng chính cuộc sống khá giả này mà đứa con duy nhất của họ đã trở nên hư hỏng. Ba má anh tốn nhiều thời gian cho công việc nhà nước, ít có thời gian chăm sóc, khuyên bảo anh. Nhưng điều đó có chắc là lỗi do ba má anh không? Anh bỏ học khi đang lớp mười hai vì không đủ năng lực để theo tiếp. Ba anh khuyên nhủ cả ngày, má anh khóc sáng đêm vẫn không sao lay chuyển được đứa con cứng đầu, cứng cổ! Sau đó, Sơn lao vào những cuộc ăn chơi trác táng giống như hầu hết những “cậu ấm, cô chiêu” khác. Hết tiền lại về nhà xin má. Chỉ có một đứa con duy nhất nên bà hết mực chiều con nhưng rồi bà cũng không còn chịu nổi phải rầy la. Thế là đồ đạc trong nhà lần lượt đội nón ra đi. Cuối cùng, Sơn bỏ nhà đi biệt. Má Sơn không cầm được nước mắt, đêm nào cũng trông chờ con, khóc đến khô nước mắt. Ba Sơn giận dữ đập đồ thề không bao giờ tha thứ cho anh. Rồi căn bệnh tim quái ác đã khiến ông không còn trụ nổi trên cuộc đời. Hôm đó, ông uống cà phê, đọc báo sáng. Đang đọc, tự dưng ông buông rơi tách cà phê, ngồi chết trân trên ghế mà như không tin vào cặp mắt của mình. Ông gọi bà trong hoảng loạn:
- Má thằng Sơn! Bà ra coi nè!
Má Sơn từ bếp chạy lên, thấy mặt ông tái mét bà quơ vội chai dầu gió xoa cho ông lia lịa:
- Gì! Có gì mà ông hoảng dữ vậy, từ từ bình tĩnh nói tui nghe coi.
Ông không nói ra lời, đưa ngón tay run rẩy chỉ vào tờ báo. Đến lượt bà muốn khuỵu xuống khi nhìn tờ báo trên bàn, có hàng tít lớn: Vụ cướp táo bạo giữa ban ngày, tên cướp là một người nghiện ma túy. Cạnh đó là ảnh tên hung thủ mà bà dễ dàng nhận ra cậu con trai duy nhất của mình mà không cần nhìn tên của nó: Trường Sơn. Đây là cái tên ông bà đặt cho con để kỷ niệm những năm tháng gian lao, oai hùng trên dãy Trường Sơn hùng vĩ của mình. Bây giờ cái tên này lại mang đến cho ông bà một nỗi buồn vô tận. Ông ôm lấy ngực đứng lên rồi té xuống nằm dài trên chiếc ghế xô-pha. Trên đường được đưa đến bệnh viện, ông đã trút hơi thở cuối cùng. Người vợ, người mẹ đau khổ tột độ khi cả hai người thân của mình, một người chết, một người tù. Không còn tâm trí làm việc nữa, bà xin về hưu sớm. Bà mất sau hơn một năm sống trong buồn khổ, trong sự cô độc. Rất may, hàng xóm thương tình an táng bà chu đáo.
Ở trong tù Sơn hay được tin này qua một người bạn cũ vô thăm. Thằng Thống nói trong sự giận dữ:
- Ba má mày chết là do mầy chớ không ai khác. Tao muốn mầy lao động tốt, mau ra tù để lo hương khói cho hai bác. Chỉ có như vậy, mới mong ở dưới đó ba má mầy thanh thản mà tha thứ cho mầy.
Suốt mấy đêm liền Sơn không thể nào ngủ được, hình ảnh người cha chết trong tức tưởi, khuôn mặt má anh buồn buồn như oán trách luôn hiện ra mỗi khi anh chợp mắt. Anh suy nghĩ nhiều thứ lắm, càng suy nghĩ càng giận bản thân mình. Bây giờ có hối hận thì đã quá muộn rồi. Nghe lời thằng Thống, mình phải cai nghiện để chia tay với loại bột trắng khủng khiếp, lao động thật tốt để sớm ngày được sống cuộc đời tự do và phấn đấu thành người có ích. Anh luôn nhắc mình như vậy và cố gắng thực hiện thật tốt giấc mơ muộn màng của mình. Ở tù được bốn năm, cai hẳn ma túy, anh được trả tự do.
Nhưng mà những ước mơ đó trở nên quá xa vời với Sơn khi anh về đến quê cũ. Tất cả mọi người trong xóm từ già đến trẻ đều khinh ghét lẫn lo sợ, không ai nói với anh một lời. Anh tự an ủi mình, dù sao như vậy cũng tốt, anh muốn sống một mình để có nhiều thời gian sám hối, lo nhang khói cho ba má mình. Thế rồi anh lặng lẽ dọn mảnh vườn, sẽ trồng những thứ cây mà khi còn sống má rất thích. Bên ngôi mộ của má bao giờ cũng có hoa thơm. Chờ đến ngày tốt anh sẽ lấy cốt của ba về đặt bên cạnh má cho chồng vợ có nhau.
Cuộc sống cứ trôi qua một cách hờ hững, hàng ngày anh chăm sóc mớ rau và vườn cây. Nhiều tháng sau Sơn có thể sống được với mớ rau trồng trên mấy bờ đất. Sự chí thú làm ăn của anh dần dần tạo được niềm tin trong lòng những người lối xóm. Càng ngày họ càng nhìn anh bằng con mắt thiện cảm và dần trở nên thân mật. Sau những giờ quần quật lao động, anh vẫn giữ thói quen khi còn ở trong trại là mỗi ngày dành hai tiếng đồng hồ ngồi tập thở theo phương pháp dưỡng sinh. Cứ bốn giờ chiều là anh ra bờ sông ngồi tập cho đến khi mặt trời lặn. Sau đó anh ra mộ má đốt một nén nhang và thường nói đùa trong xót xa:
- Má mất rồi ai lo cưới vợ cho con đây? Mong hương hồn má phù hộ cho con có được một người vợ tốt và hiền lành như má. Con nói cho đỡ buồn thôi chớ con làm gì có được phúc phận đó!
Không biết có phải má anh phù hộ hay không mà điều anh mong ước bấy lâu hình như sắp thành sự thật, tự dưng anh thấy con tim mình thổn thức tình cảm lạ lùng với một cô gái. Đó là buổi chiều, anh đang ngồi tĩnh lặng thì nghe ở dưới sông có một giọng rao hàng ngọt sớt của một cô gái vang lên:
- Ai ăn dưa hường hôn. Ba ngàn một ký, mua giùm đi bà con cô bác ơi!
Giọng nói duyên dáng khiến Sơn mở mắt nhìn. Một cô gái nhỏ nhắn, gọn gàng trong bộ bà ba màu xanh đang đẩy nhẹ mái chèo của chiếc xuồng ba lá. Trên xuồng có một số hàng bông, cá, tương, chao, hột vịt, hành tỏi. Trong ánh nắng chiều tàn lụi, bóng cô in trên mặt nước sao mà đẹp đến lạ lùng. Sơn nhìn kỹ, cô gái cũng không có gì đặc biệt. Da ngăm đen, tóc cháy nắng vàng hoe nhưng bù lại có một cái răng lòi xỉ lấp ló ở khóe môi khi cô cất giọng rao hàng. Sơn buột miệng kêu:
- Cô gì ơi, còn bao nhiêu dưa hường tui mua hết cho.
Cô gái đang cho xuồng vào bờ, đột nhiên xê ra. Cô vừa nhìn thấy những hình xăm dữ tợn trên cánh tay và một bên ngực hở áo của người vừa gọi. Cô nghĩ thầm: Ở đây, hơi vắng vẻ mà trời lại sắp tối rồi, bộ dạng ổng như vậy chắc không phải là người tốt. Sơn không bất ngờ trước cử chỉ đó nên nhỏ nhẹ:
- Cô chọi nguyên bịch dưa hường lên cho tui, bao nhiêu tiền tui thẩy xuống xuồng cho, cô khỏi vào bờ. Vậy nghen. Mà cô tên gì, mơi mốt cô còn bán ngang đây hôn.
Nghe anh nói một cách hiền từ, cô gái hình như bớt sợ nhưng vẫn không tấp xuồng vào mà ném nguyên bịch dưa hường lên cho anh chụp rồi nói gọn lỏn:
- Tám ngàn. Quyên.
Anh vói tay, thẩy tám ngàn đồng gói trong miếng lá chuối khô cột chặt bằng sợi thun vào khoang xuồng. Cô gái đẩy mạnh mái chèo, chiếc xuồng khuất dần ngoài sông cái. Sơn ngồi thẫn thờ nhìn theo bóng cô dần xa rồi ra sau vườn thắp cho má nén nhang, cầu mong bà phù hộ cho Quyên ngày mai quay lại khúc sông này. Suốt đêm anh trằn trọc không ngủ được. Hơn bốn năm qua anh không nhớ nổi mình đã bao đêm thức trắng. Nhưng đêm nay khác những đêm anh mất ngủ vì nhớ nhà, nhớ ba má với niềm hối hận dâng cao. Đêm nay, anh thức vì hình bóng một người con gái chưa quen. Anh nhớ mái tóc vàng hoe vì cuộc đời bươn chải, nhớ cái răng lòi xỉ duyên ngầm giúp cô mua may bán đắt. Con tim tưởng đã chai sần theo năm tháng của anh đã thổn thức một cách tội nghiệp, không lẽ...
Mới sáng sớm anh đã ra mé sông ngồi ngó chăm chăm về phía sông cái mong chờ một bóng dáng nho nhỏ, dễ thương... Suốt ngày anh thấp thỏm ngó ra sông. Chưa tới bốn giờ chiều, anh đã ra mé sông, ngồi tập mà trong bụng rối bời, mắt cứ ngóng chừng ngoài sông cái. Chạng vạng, giọng rao hàng của Quyên mới văng vẳng trong gió, nghe ngọt lịm:
- Nước rằm chảy thấu Nam Vang, sầu đâu chín rụng sao chàng bặt tăm. Còn mấy bó sầu đâu cuối cùng bà con làm ơn mua giùm đi, sầu đâu xào rắn nhậu “bắt” lắm mấy anh ơi, gió chướng dìa lạnh lắm rồi.
Sơn đứng dậy, giơ tay ngoắc:
- Cô ơi! Mấy bó sầu đâu bán cho tui. Cô bán sầu đâu mà cô có sầu ai hông, sao mà giọng cô rao nghe đứt ruột vậy?
Lần này Quyên cho chiếc xuồng ba lá tấp sát vào bờ, đưa cho anh năm bó sầu đâu cuối cùng:
- Anh mua hết thiệt hả? Nguyên bịch dưa hường mới hôm qua anh ăn hết rồi sao? Gì mà nhanh vậy? Nè, năm bó năm ngàn, lấy anh bốn thôi.
Sơn lóng ngóng đưa tay đỡ mớ sầu đâu rồi hỏi một câu lảng nhách:
- Cô có chồng chưa?
Quyên bật cười khi thấy hai cái lỗ tai anh đỏ chạch:
- Hỏi làm gì! Có chồng rồi mà phải cực vậy sao, ai nuôi nổi tui tui mới ưng. Má tui già rồi hổng ai nuôi, chưa lấy chồng được đâu.
Tự dưng Sơn nhớ đến hoàn cảnh của mình mà chua chát. Một cô gái mảnh mai như Quyên còn phải một nắng hai sương tảo tần nuôi mẹ, đến chuyện chồng con mà còn chưa dám tính. Còn anh, cái tướng “cọp ăn mắc hâm” mà chỉ biết long nhong, phá của, tạo cho ba má biết bao nhiêu buồn tủi!
Quyên rất lấy làm lạ lẫm khi nhìn thấy giọt nước mắt trên khóe mắt anh. Một người nhìn đàn ông bậm trợn như thế làm sao khóc được chớ? Ủa, mà sao ổng sống một mình vậy cà, ổng có chuyện gì mà mặt buồn hắt hiu như thế? Mà sao mình tào lao quá vậy nè? Chuyện của ổng mắc gì mình! Cô nhìn Sơn một cái kín đáo rồi từ từ chèo xuồng ra giữa dòng mà nghe có sự thay đổi gì đó đang diễn ra mãnh liệt trong lòng mình. Cô linh cảm người đàn ông này chắc đã có nhiều sóng gió trong cuộc đời, tuy bề ngoài dữ dằn nhưng đôi mắt như biết nói, nó mang một nỗi cô đơn chất ngất và một tình cảm chân thành. Mình sẽ bán ngang đó mỗi bữa coi người ta như thế nào, có thiệt thương mình không, biết đâu mình sẽ tìm được một tấm chồng tốt, biết đâu cô sẽ có người chia bớt nỗi đau trong cuộc sống khó nhọc này. Ờ, biết đâu...
Nghĩ tới đây, tự dưng cô bối rối đẩy nhẹ mái chèo:
- Thôi, tui về, mặt trời lặn rồi...
Nhìn chiếc xuồng xa dần trong bóng chiều phủ xuống rồi mất dạng sau mấy đám dừa nước, Sơn thấy tim mình le lói một niềm vui...
 
Nguồn:baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 15:57:05
Đằng sau mỗi đóa hoa
HUỲNH VĂN QUỐC
 


Quen Hiền đã lâu, nhưng mãi đến hôm nay tôi mới đưa được nàng đi dạo lần đầu. Đối với tôi, Hiền vẫn luôn luôn giấu một nỗi buồn phảng phất trên gương mặt. Nàng ít nói, chỉ mỉm cười mỗi khi không muốn trả lời tôi một điều gì. Cái vẻ duyên dáng e lệ đến khó hiểu ấy càng làm cho tôi thêm yêu mến bội phần.
Trời Đà Lạt đêm nay không mưa. Chỉ có những làn mây mỏng hòa quyện với sương đêm giăng thành một màn bạc, huyền ảo. Khung trời lốm đốm những vì sao và một nửa trăng mờ. Giữa khu đồi cao đang đắm mình trong im vắng, tôi với Hiền ngồi bên nhau, mơ màng và lặng lẽ. Thỉnh thoảng, từng làn gió rét thổi đến đã làm bật ra những tiếng xuýt xoa, nhưng chúng tôi dường như càng cảm thấy ấm lòng. Đêm nay sương giăng dày quá. Sương ngập tràn khắp thung lũng như dòng sông bạc bọc quanh ngọn đồi. Sương phủ xuống mấy rặng thông đang im lìm trong giấc ngủ. Sương phả vào làn tóc chúng tôi một hơi lạnh tê người. Tôi tưởng chừng như hai đứa tách biệt hẳn với phố xá dưới kia, mà hoàn toàn hòa lẫn vào thiên nhiên huyền ảo.
- Giữa một khung cảnh thế này, em buồn không hở Hiền? – Tôi gợi chuyện.
- Không! – Giọng Hiền êm mượt như nhung – Có anh thì làm sao buồn được.
- Nhưng mà, em thấy chúng mình nhỏ nhoi quá.
- Không nhỏ đâu! Các nhà thơ thường bảo cả thế gian này chỉ có hai ta!
Hiền phản đối:
- Đừng nói vậy, anh! Đằng sau chúng mình còn có nhiều người nữa…
- Nhưng tốt nhất là đừng nghĩ ai trong lúc này.
- Tại sao?
- Vì anh không muốn cái kỳ diệu của giây phút này phải nhường chỗ cho những ý nghĩ không hay. Ví dụ như anh đang nghĩ về một con người cô độc, tự nhiên anh không còn thấy vui nữa!
Câu nói này hình như làm Hiền chú ý, nàng nhỏ nhẹ hỏi tôi:
- Vậy anh nghĩ về ai nào?
- Một bà lão nhặt phân! Chiều nào ở cư xá nhìn ra bãi cỏ, anh cũng gặp bà ta cắm cúi đi nhặt từng mẩu phân ngựa hoặc phân bò. Có lẽ bà ta cứ sống mãi như vậy trong cảnh cô đơn, héo hắt.
- Thật tội nghiệp! - Hiền buông một câu như buông tiếng thở dài.
Tôi định kéo dài câu chuyện, nhưng chợt thấy Hiền có vẻ khang khác. Đôi mắt Hiền chớp nhanh, làn mi ươn ướt. Cô ta khóc à? Hay là sương đêm nơi một cành cây nào đã gửi ở má cô ta một vài giọt nước? Không, Hiền khóc thật! Đôi mắt Hiền nhìn xuống và chớp chớp kia mà! Tôi cuống lên:
- Em làm sao vậy?
- Không sao cả!
- Vậy sao em khóc?
Hiền nhìn tôi vẻ như giận dỗi, vẻ như trách móc:
- Ai bảo anh nói tới chuyện buồn?
- Thôi, nay anh không nói nữa. - Tôi dỗ dành – có vậy mà cũng khóc!
Hiền vùng vằng:
- Anh không biết em thường hay buồn sao?
- À, ừ… anh biết…
Tôi biết lúc này phải ngậm bồ hòn làm ngọt mới mong cứu vãn tình thế. Nhưng chưa kịp nói gì thêm, Hiền đã đứng dậy:
- Thôi, về đi anh!
Mặc dù vẫn còn luyến tiếc những giây phút thần tiên nhưng tôi phải đứng lên theo.
Sương bạc đã phủ kín cả lối đi. Chúng tôi như phải dò dẫm từng bước. Hơi lạnh ngấm vào chân, tê buốt. Xế sang Đoài, từng lượt mây đủng đỉnh bước qua trăng. Mảnh trăng nhợt nhạt lại cứ như đang bồng bềnh giữa khung trời mờ ảo.
* * *
Bầu trời thấp dần mãi xuống. Mưa bắt đầu rơi. Tôi vừa cắm cúi rảo bước, vừa đưa mắt nhìn quanh để tìm nơi trú ẩn gần nhất. Nhưng mưa càng lúc càng nhặt mà quãng đường lại không có nhà. Trời Đà Lạt mấy hôm nay thường mưa, nhất là vào những buổi hoàng hôn như thế này.
Đang đi, tôi chợt nghe tiếng ai gọi đằng sau:
- Anh Huy!
Tôi ngạc nhiên quay lại:
- A, Hiền! May cho anh quá!
Hiền bước nhanh đến. Dưới chiếc dù màu tím sẫm, hai đứa lại đi bên nhau. Tôi vẫn còn răng đánh vào nhau cầm cập. Hiền cười:
- Anh lạnh lắm phải không?
- Ừ, lạnh!
- Đáng đó! Ai bảo anh không chờ em.
- Biết đâu mà chờ?
Hiền lảng sang chuyện khác:
- Anh đưa em về nha?
- Dĩ nhiên rồi!
Được Hiền mời về nhà lần đầu, tôi phấn khởi đến quên cả lạnh. Đã lâu nàng cứ hẹn với tôi là: “Đừng vội tới nhà, khi mà anh vẫn chưa hiểu kỹ em!”. Chẳng lẽ hôm nay tôi đã hiểu kỹ nàng rồi chăng? Thật khó hiểu quá. Tôi đang suy nghĩ để tìm câu trả lời, chợt nghe tiếng gọi khàn khàn ở phía đồi bên trái:
- Trai ơi, lại giúp tôi một tí?
Tôi bảo Hiền:
- Em đứng đây đợi anh nghen!
Hiền mỉm cười gật đầu. Nàng nhìn tôi chăm chú. Đến bên người vừa gọi, tôi ngạc nhiên nhận ra bà lão hàng ngày vẫn thường nhặt phân bò. Bà nhìn tôi móm mém cười:
- Tôi giữ miệng bao, còn cậu bưng rổ phân này đổ vào giùm nhé!
Nhìn rổ phân đầy ắp và nhão nhoẹt dưới nước mưa, tôi thoáng rùng mình. Nước phân chảy ra đỏ quạch. Phân bám vào vành rổ, làm cáu đen như hắc ín nhưng bị nước mưa làm cho nhầy nhụa. Chẳng hiểu bà lão đã quen chịu đựng thì cảm thấy như thế nào, chứ còn đối với tôi lúc này, tôi hãi lắm. Vốn từ nhỏ sống ở thành phố rồi lên đây học, tôi có bao giờ mó vào những việc như thế này đâu! Nhưng lúc này thật khó mà chối từ. Tôi đành lựa chỗ ít bẩn nhất ở vành rổ mà miễn cưỡng đặt tay vào, bưng lên. Bà cụ cũng đã chực sẵn miệng bao bên cạnh. Khổ cho tôi, khi vừa bưng lên đã bị mất thăng bằng, chiếc rổ chúc xuống và đổ ngay phân lên nền cỏ. Bà cụ buông thỏng tay, ngẩn người nhìn tôi rồi tặc lưỡi thất vọng:
- Khổ thật, tôi mượn cậu làm gì không biết!
Tôi cảm thấy nóng bừng mặt, vừa bực bội vừa xấu hổ. Thấy tôi còn đứng tần ngần, bà cụ thương hại bảo:
- Thôi, cậu đi đi. Để đó, tôi làm một lát là xong.
Tôi nặng nề bước đi. Vừa ra đến đường cái đã thấy Hiền cau mày châm chọc:
- Gớm! Bộ anh bón phân cho cỏ hay sao ấy?
Tuy ngượng chín người nhưng tôi cố bào chữa:
- Anh không quen!
Hiền bảo:
- Anh nên chịu khó một chút chứ.
Tôi lắc đầu:
- Nhưng việc ấy kinh tởm thật!
Hiền tròn xoe mắt:
- Anh kinh tởm?
Tôi gật đầu. Hiền buồn bã bảo:
- Thôi, anh về đi. Để em ra làm cái việc kinh tởm ấy.
Vành môi thắm đỏ của Hiền mím chặt lại như mếu làm như tôi vừa xúc phạm đến chính nàng không bằng. Nhìn vành môi cong dễ hờn dễ mếu ấy, tôi hỏi:
- Anh đưa em về chứ?
- Không cần!
Hiền giận dỗi bỏ mặc tôi đứng đó và bước nhanh về phía bà cụ nhặt phân. Thật ngạc nhiên quá! Tôi không hiểu làm sao một người con gái như Hiền lại chịu khó đến thế. Chính mắt tôi trông thấy Hiền xắn tay giúp bà cụ hốt phân ở cỏ lên mà không hề ngần ngại. Còn bà cụ nhìn Hiền như bảo ban điều gì đó tôi không nghe rõ. Cơn mưa hoàng hôn lúc này tuy nhỏ hạt nhưng vẫn không dứt. Bóng bà cụ và bóng Hiền cúi lom khom bên nhau, mờ dần trong mưa xám.
* * *
Thế là tôi vẫn chưa biết nhà Hiền. Chiều nay tôi ngồi một mình trong phòng ngắm cảnh mưa rơi. Thật lạ! Qua màn mưa xám ngắt, tôi thấy bà cụ nhặt phân bò vẫn cứ cắm cúi đều đặn. Bà mặc một chiếc áo đi mưa xám mốc, cũ kỹ. Đôi găng tay và đôi giày cũng mang một màu đen đúa, kỳ dị. Bóng đen mờ mờ của bà cụ cứ di chuyển trong mưa, tìm kiếm từng mẩu phân để nhặt một cách cần mẫn. Trông thấy bà, người ta cứ tưởng đâu bà đang kiếm một cái gì đã đánh rơi. Bà làm việc thui thủi một mình bất chấp cả mưa hay nắng, như thể bà không muốn công việc gián đoạn phút nào. Thỉnh thoảng, bà dừng tay ngồi bệt xuống cỏ, ra dáng đăm chiêu suy nghĩ đến thừ cả người ra. Thật kỳ quặc! Một cuộc đời lạ lùng và buồn tẻ hết sức, vậy mà sao bà cụ vẫn chịu nổi từ tháng này sang tháng khác chẳng quản mưa hay nắng! Đứng ngoài nhìn vào, người ta dễ có cảm tưởng đó là một cuộc đời lẻ loi hiu hắt trong tháng ngày cô quạnh. Vậy mà không hiểu sao Hiền lại giận tôi về “vụ” người nhặt phân này? Lạ lùng quá. Tôi phải tìm cách truy hiểu căn do mới được.
Mưa ngớt, tôi mon men đến chỗ bà cụ nhặt phân lúc nãy đang thừ người ra để suy nghĩ. Bà cụ suy nghĩ lung lắm, đến nỗi tôi đã tới sát bên mà bà cũng không hay.
- Này, cụ ơi! Cụ đang nghĩ gì đấy? – Tôi lên tiếng.
Bà cụ giật mình đánh thót, hệt như người mộng du khi nghe phải tiếng động. Thấy tôi, cụ thoáng ngớ người rồi ném một cái nhìn châm chọc:
- Cậu định tới để đổ phân nữa đấy à?
Tôi cười cầu hòa:
- Không, hôm nay cháu đến giúp cụ để bù lỗi. Cụ có muốn nhờ việc gì nữa không?
- Chẳng dám, tôi đang suy nghĩ…
- Vậy cụ nhặt phân để làm gì?
- Để vun bón những cây xanh trong vườn cậu ạ.
- Nhà cụ ở đâu?
- Ở dưới gốc cây ngo, cách trường học hơn cây số về phía mặt trời mọc.
Sau khi bà cụ bỏ đi đã lâu, tôi bắt đầu lang thang một mình trên con đường loáng nước. Lúc ngang qua một quán cà phê quen thuộc, tôi nghe giọng nữ ca trong vắt: “Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ…”. Tôi nghĩ, ở xứ này thực và mơ cứ như lẫn lộn.
Thành phố đã lên đèn. Tôi bước mãi vẫn chẳng thấy cây ngo đâu. Đang lúc phân vân, tôi chợt trông thấy cái dáng lom khom của bà cụ nhặt phân đang quảy gánh đi đằng trước. Tôi lặng lẽ đi theo. A! Cây ngo đây rồi. Đó là một cây thông to đang đứng lặng lẽ trước cổng ngõ của ngôi nhà bằng ván. Tôi định bụng đợi bà ta vào nhà rồi mới xuất hiện. Lúc bà vừa bước vào, một giọng nữ nhỏ nhẹ cất lên:
- Nội đã về đấy ư?
Ủa, sao tiếng nghe quen quá! Tôi hồi hộp gõ cửa. Bà cụ gọi: “Vào đi”! Khi trông thấy tôi, bà cười:
À! Cậu đến chơi đấy hả? Hiền ơi, lên chơi với bạn con đi!
Thật bất ngờ quá! Hiền bước lên nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt không giấu nỗi sự ngạc nhiên:
- Sao anh biết nhà em?
- Bà cụ chỉ cho anh đấy! Anh hỏi thăm cụ tới đây chơi, đâu ngờ lại gặp em đây.
- Anh khéo lắm!
- Bây giờ anh đã hiểu được em chưa? Tôi nhắc.
- Tạm gọi là được – Hiền đáp, đôi mắt nhìn xa xăm.
Tôi chợt nghĩ đến những cơn mưa giăng mờ trong suốt mấy chiều nay. Nào ai có thể thấy được những gì đang ẩn chứa trong làn mưa xám?
Hiền rủ tôi ra vườn. Nàng chỉ cho tôi những luống hoa và những cây ăn quả mà hai bà cháu đã trồng:
- Anh đừng cười nhé! Công lao nhặt phân của bà em đã gây được khu vườn này đấy. Hai bà cháu em đều nhờ vào nó để sống.
Bây giờ đã là tháng Chạp, hoa cúc trắng tinh khiết, hoa hồng nhung đỏ thắm... tất cả đều đang vươn cành đơm bông để hướng về một mùa xuân không xa. Bên Hiền, tôi hiểu đằng sau những bông hoa trong vườn còn có biết bao những mẩu phân bò, phân ngựa. Không biết từ lúc nào, tay Hiền đã để trong tay tôi, ấm áp.
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 16:05:35
Hạnh phúc thật gần
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
Không ngày nào anh không bị vợ chửi. Sáng ra, cầm cái ca múc nước và chụp lấy cái khăn lau mặt là bị trận mở màn:
- Bộ đui sao không thấy ca nước ấm của con nhỏ. Khăn đó của mấy người sao? Mình mẩy đầy lang ben, đụng khăn ai cũng chụp đặng lây cho cả nhà à!
Anh vờ như không nghe. Mới bắt đầu một ngày mà cãi vã thì không nên. Anh mặc đồ. Thằng con trai lớn thò đầu ra khỏi mùng:
- Ba đừng mặc lộn quần con nữa nghe! Với lại, bữa nay cho con tiền thay ruột xe đạp.
Anh nhìn xuống và thấy mình không mặc quần của con. Móc trong túi ra còn mấy tờ giấy bạc, anh lấy đủ số mua cái ruột xe, bỏ vào túi áo sơ-mi của nó treo gần đó. Chị vợ liếc một cái:
- Sao hôm qua nói không còn một đồng, bữa nay lại có, tiền giựt của ai?
Anh lấy mười ngàn từ mấy tờ còn lại cho vào túi quần để đi đường, số còn lại, anh đưa vợ:
- Tui gom ba cái phế liệu bán được mấy chục, hồi tối tính đưa mình mà quên.
Anh ôm hôn đứa con gái lên ba một cái rồi dắt cái xe cà tàng ra ngõ. Chị vợ lầm bầm mấy câu trong miệng rồi nhìn lại mấy tờ giấy bạc anh đưa. Ra tới đường lớn, anh ghé quán cà phê bình dân kêu một cái đen, trả bù hôm qua thiếu ruột ly, vậy là hết bốn ngàn. Anh nghe đói. Hôm qua, ông thầu mời ăn giỗ và đám thợ thầy cứ chén chú chén anh, anh không ăn được gì lại bị uống. Bình sinh, anh không thích rượu nhưng không dám từ chối sợ mất lòng người trên. Rốt cuộc, chiều về với cái mặt đỏ lừng, anh nằm lăn ra ngủ. Bây giờ thì đói, thôi kệ, gói xôi một ngàn đỡ bụng. Anh vừa đạp xe vừa ăn. Nghĩ tới thằng con trai mới mười lăm đã lớn ngồn ngộn bằng ba, năm nay bước vào lớp tám, không biết học hành ra sao. Anh chỉ biết đọc, biết viết. Con mồ côi mà! Ở với bà ngoại tới mười tuổi thì ngoại qua đời. Ăn chực ăn nhờ nhà dì nhà cậu thì phải làm, ai đâu có tiền lo cho đi học. Từ mười ba tuổi, anh đã làm quen với cái thùng hồ. Bắt đầu làm hồ, làm chỉ để ăn ba bữa. Nhưng anh siêng năng lại hiền. Ai kêu gì cũng làm, ai sai gì cũng được. Miệt mài được bảy năm, anh đã làm thợ. Trong đám con gái xách hồ, anh chấm đứa coi được nhất, cho dù nó là đứa dữ dằn có tiếng. Con nhỏ thấy anh hiền lại siêng năng và không biết nhậu nhẹt bê tha như những người thợ khác, nó chịu. Đám cưới đãi được bốn mâm: hai mâm nhà trai nhà gái và hai mâm bạn bè. Thôi thì, giàu cũng cưới, nghèo cũng cưới. Cho dầu xe hoa, cho dầu kèn trống, cho dầu đãi ở nhà hàng, cho dầu cô dâu có thay bao nhiêu lần áo đi nữa thì hạnh phúc vẫn là điều quan trọng. Đám cưới không rước dâu. Cái nhà lá nhỏ của vợ anh đang ở trở thành tổ ấm. Anh không nhà nên ở luôn bên vợ... ông già vợ anh ngày xưa cũng là thợ hồ. Thời trẻ làm lụng quá sức tới già sanh đủ thứ bịnh. Thằng con trai lớn của anh vừa được năm tuổi, ông ngoại ra đi. Từ lúc vợ có thai thằng con lớn, anh đã không cho làm hồ nữa. Anh ráng làm để vợ được yên ổn đẻ con và nuôi con. Anh vui mỗi khi về nhà nhìn thấy vợ, thấy con. Anh không biết nói lời hoa mỹ, anh chỉ nói thật lòng. Anh làm lụng vất vả để vợ con được cái ăn, cái mặc. Anh không dám ăn ngon, không đàn đúm bạn bè. Cuối tuần, lãnh tiền xong, đám bạn kéo nhau đi làm một chầu bồi dưỡng. Anh ra chợ mua chút bánh cho con, cục xà bông thơm cho vợ. Tiền lãnh bao nhiêu anh đưa hết cho chị cất giữ. Thấy nhà hàng xóm có cái ti-vi, anh ao ước sao mua được một cái để vợ con không phải đi coi ké nhà người ta. Nhưng như vậy chừng như cũng chưa vừa lòng chị. Chị bực tức cái nghèo của anh. Chị bực tức cái khờ khạo của anh. Chị muốn được chở đi chơi vào mỗi chiều. Còn anh về tới nhà, cơm nước xong đã nằm lăn ra ngủ. Cả ngày phải vật lộn với công việc, buổi trưa, anh thường lãnh làm thêm công chuyện để có thêm tiền. Anh không dám than thở. Mình là đàn ông, làm không nuôi nổi vợ con thì để mặt mũi đâu.
Từ lúc thằng con lên cấp II, anh thường lén vợ cho tiền nó. Tội nghiệp, lớn rồi mà cứ ăn cơm nguội đi học, cũng phải có tiền uống nước chớ. Chị cằn nhằn những tuần anh đưa tiền ít: “Ăn xài cho dữ, mai mốt vợ con đi ăn mày cho vừa bụng mấy người nghe!”. Anh chỉ cười. Những lần đó, anh cho tiền con mua thêm tập sách. Thằng bé thương ba, nhưng lại sợ người mẹ dữ dằn. Nó ráng lắm mà không học giỏi được có lẽ cái gien di truyền? Nó muốn nghỉ học đi làm hồ nhưng anh không chịu: “Con cứ ráng học hết cấp III đi, ba ráng làm nuôi con nổi mà!”.
***
Anh vừa về tới nhà đã thấy đứa con nhỏ mếu máo khóc. Nhìn thấy vợ ăn mặc như chuẩn bị đi đâu, anh ngạc nhiên:
- Giờ nầy mà mình sửa soạn đi đâu?
- Tôi đi kiếm việc làm. Ở nhà trông vô mấy đồng lương chết đói của anh, tôi chịu hết nổi rồi!
- Mình... mình đi làm việc gì? Anh ngạc nhiên há hốc miệng...
- Chị Sáu giới thiệu tôi làm ở một quán nhậu. Chỉ làm mấy tiếng ban đêm thôi mà bằng lương cả ngày của anh đó! Được chưa? Bây giờ ăn cơm rồi coi con nhỏ giùm tôi. Tôi đi làm mới có thêm cái ăn cái mặc. Con cái ngày một lớn mà trong nhà trống hoác như vầy, ai chịu nổi!
- Nhưng sao mình không bàn với tôi. Con còn nhỏ, mình bỏ nó ở nhà tội nghiệp lắm!
- Bởi vậy tôi mới đi buổi tối. Anh về giữ con. Anh giữ con không được sao?
Chị nói rồi, quơ cái túi xách bước ra cửa. Con bé khóc thét lên. Anh ẵm xốc con lên dỗ dành: “Nín đi con! Ba ẵm con đi chơi nghe! Đừng khóc!”. Thằng con trai vừa về tới cửa, vẻ mặt buồn hiu, nó đã biết chuyện:
- Con thấy mấy bữa nay dì Sáu qua nói gì với má. Con không dè má đi làm ở quán nhậu. Con đã nói ba cho con nghỉ học theo ba đi làm hồ mà ba không chịu.
Mấy cái quán đó phức tạp lắm. Con không muốn má đi làm ở đó đâu!
- Con còn ở tuổi đi học thì cứ ráng học. Biết chữ rồi làm được công chuyện nhẹ nhàng hơn, chứ như đời ba thì cực khổ lắm.
Thằng con buồn ra mặt. Nó nhìn ba bằng ánh mắt cảm thông. Con nhỏ đã nín khóc. Anh ẵm con đi dài theo con hẻm. Một vài người nhìn anh ái ngại.
***
Chị đi làm được một tuần. Đêm nào về cũng đầy mùi bia, rượu. Chị có vẻ ngượng ngùng với anh: “Khách ép thì mình phải chiều! Đi làm thì phải được lòng khách, chủ người ta mới mướn mình”. Anh buồn bã không nói gì. Anh không lạ gì cái cảnh trong các quán rượu nhưng anh không quen cãi lẫy với vợ. Và anh cũng hiểu chị muốn chia sẻ cái gánh nặng gia đình với anh. Anh tuy không vừa ý công việc chị đang làm mà lại không có giải pháp nào tốt hơn. Hôm kia, chị đã mua cho anh bộ đồ, thằng lớn bộ đồng phục. Anh không vui gì khi nhận quà từ những đồng tiền của chị làm ra. Đêm nay, con bé bị sốt, nó không ngủ mà cứ vật vã khóc. Biểu thằng lớn giữ em, anh chạy ra hiệu thuốc đầu hẻm mua cho con một liều. Đã chín giờ rồi. Anh độ chừng chắc một tiếng đồng hồ nữa chị về. Anh cho con uống thuốc và thắc thỏm ngồi chờ.
Đồng hồ nhà bên gõ đều mười hai tiếng, anh giựt mình ngơ ngác. Mòn mỏi quá nên anh đã ngủ quên trên ghế. Chị vẫn chưa về. Anh giở mùng con, con bé chừng chịu thuốc đã ngủ say. Anh bỗng lo sợ, không biết có chuyện gì mà tới giờ này chị vẫn chưa về. Anh khép cửa, đi ra đường. Trời dường như sắp mưa. Hơi nước lành lạnh trong không gian tĩnh mịch làm anh dứt cơn buồn ngủ. Anh ra tới đường lớn. Có bóng một người đàn bà bước chếnh choáng như một người đang say rượu. Anh ngờ ngợ rồi đi nhanh tới. Người đàn bà quỵ xuống đường. Anh tới gần, sao giống vợ mình quá, nhưng quần áo thì không giống. Anh cúi sát xuống thì chị đã ngã vật ra đường. Ánh đèn đường vừa sáng trên gương mặt người đàn bà ấy. Anh thảng thốt: “Trời ơi! Đúng là mình rồi!”. Bằng tất cả sức lực đàn ông, anh ẵm xốc chị như ẵm một đứa bé rồi bước nhanh về nhà.
***
Khi đã được lau mặt bằng nước ấm, đã được uống chút nước trà gừng, chị tỉnh lại và thút thít khóc. Thằng con trai đã thức dậy từ lúc ba nó ẵm má vô nhà. Nó lăng xăng nấu nước giúp ba và bây giờ ngồi bó gối. Anh ngồi kế bên và cứ để yên cho chị khóc. Anh chưa biết chuyện gì xảy ra. Nhưng thấy chị như vầy, anh không nỡ hỏi. Chị vẫn khóc, tiếng khóc phát ra từ cái miệng lúc nào cũng la cũng chửi, bây giờ sao cam chịu quá, tội nghiệp quá! Mãi một lúc, chị đã bớt xúc động, anh khẽ khàng:
- Chuyện gì vậy? Mình nói tôi nghe coi!
Chị nhìn anh như nhìn một người mới gặp. Anh ngồi đó, tay nắm lấy bàn tay chị, chị cảm nhận được những vết chai trong lòng bàn tay anh. Bàn tay đã làm biết bao việc để vợ con đỡ nhọc nhằn vất vả. Bàn tay đã đem cơm, đem áo về nhà dù chỉ là những bữa cơm đạm bạc, những chiếc áo rẻ tiền. Chị ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn anh. Tại sao anh không mắng chửi chị, tại sao anh không bỏ mặc chị - con đàn bà hư hỏng, con đàn bà chưa từng ngọt ngào với chồng. Cứ mở miệng là chị mắng chửi anh. Sống với nhau bao nhiêu năm, anh chưa từng la rầy chị. Lẽ ra, chị phải biết thương anh, phải thấy mình có phước hơn biết bao người đàn bà khác. Từ khi cưới nhau, tuy nghèo nhưng chị cũng chưa thiếu ăn thiếu mặc. Có một năm, anh đã làm tới gần giao thừa mới bước thấp bước cao về nhà vì đã gần kiệt sức. Anh đã lãnh quét vôi gấp cho một căn nhà. Anh đã đứng suốt mười hai tiếng đồng hồ để nhận số tiền công hậu hĩ của chủ với đôi chân sưng vù vì tụ máu. Bây giờ nghĩ lại, nước mắt chị lại chảy dài trên má. Chị đi làm trong quán nhậu mới ba ngày đã có người để ý. Đó là một tay chủ tiệm buôn hàng điện tử. Cái nhan sắc mặn mòi của chị, của người đàn bà vừa bước qua tuổi ba mươi đã làm gã động lòng. Biết chị không phải gái làng chơi mà chỉ vì hoàn cảnh mới đi làm việc này, gã quăng lưới. Mấy lần mời chị ăn khuya. Mấy lần đưa về để tạo thiện cảm, chị đã xiêu lòng. Chị cứ nghĩ gã tốt, thấy hoàn cảnh nghèo của chị mà thương. Và đêm nào chị cũng đi ăn với gã. Đêm nay, gã đem đến một gói quà gồm mấy bộ đồ đắt tiền và một số mỹ phẩm. Gã xin cho chị nghỉ sớm và cũng đi ăn. Xong, gã đưa chị tới một nhà nghỉ ở ngoại ô. Lẽ ra chị phải từ chối. Lẽ ra câu chuyện phải dừng lại ở đây. Anh chưa bao giờ có lỗi với chị ngoài chuyện anh nghèo. Chị đi làm cũng vì muốn kiếm tiền thôi. Chị vẫn chưa là người xấu mà! Nhưng điều gì đã khiến chị bước vào nhà nghỉ với gã. Nhìn căn phòng sạch sẽ với chiếc giường nệm trắng tinh, cặp gối, cái mền... mọi thứ đều đẹp, đều hơn hẳn cái giường ngủ tồi tàn của vợ chồng chị, chị thấy xót xa cho mình nhưng cũng gờn gợn một cảm giác lo sợ phập phồng. Gã chủ tiệm mở bọc đồ ra để chị no mắt với những bộ quần áo đắt tiền mà chị chỉ thấy trong mơ. Gã biểu chị đi tắm. Chị nghe lời gã như một người máy. Chị không còn là chị nữa.
Đúng lúc chị vừa bước ra khỏi phòng tắm với bộ đồ ngủ tuyệt đẹp thì có tiếng đập cửa, tiếng một người đàn bà nào đó la ó khóc lóc và còn tiếng nhiều người nữa. Gã chủ tiệm không còn hồn vía gì khi nghe tiếng vợ. Gã mở cửa và cả đám người ùa vào. Chị bị người đàn bà với thân hình hộ pháp túm lấy trước tiên: “Đồ giựt chồng người ta nè! Mầy ăn gan trời rồi!”. Ả vừa chửi vừa đấm túi bụi vô người chị. Chị đưa tay chống đỡ và nước mắt trào ra. Người ta cố can ngăn, cố ôm ghì lấy người đàn bà đang trong cơn ghen hừng hực. Gã đàn ông đứng như trời trồng không dám xông vô. Người chủ nhà nghỉ phải dùng hết sức mới kéo được người đàn bà đó ra. Y cũng tìm cách đẩy chị ra cửa rồi biểu: “Về mau đi! Còn ở đó làm gì!”, rồi y xởi lởi phân bua: “Chị bớt giận! Làm ầm lên mọi người biết chỉ thêm mất mặt chồng rồi còn làm ăn gì được. Đàn ông ai mà không tằng tịu bên ngoài đôi chút, miễn là biết lo cho gia đình thì tốt rồi! Chị nghe tôi đi!”.
Chị đi như chạy ra khỏi nhà nghỉ, mãi một lúc mới định được hướng về nhà. Chị đi như sợ người ta đuổi theo. Nỗi đau thân xác đâu sánh bằng nỗi đau đang giày vò lương tâm chị. Chị bỗng thấy thương anh, bỗng thấy cuộc đời này anh mới là người chồng xứng đáng nhất. Chị chắc chắn anh sẽ không làm cái việc có lỗi với chị và chị nhớ lại những gì mình đã cư xử với anh. Chị mường tượng giờ này chắc anh đang lo lắng, nước mắt chị lại trào ra. Dường như có một vết thương trên môi. Chị đưa tay sờ và thấy máu. Chị bật khóc thành tiếng và lủi thủi bước đi trong nỗi đau đớn ê chề. Chị chỉ mong có anh bên cạnh lúc này để chị được chở che. Cái ý nghĩ về anh đã giúp chị có thêm sức mạnh. Bước ngã bước xiêu, cuối cùng chị cũng về được để gặp anh.
***
Trời mưa giông rồi cũng dứt. Những hục hặc trong căn nhà ọp ẹp của anh chị cũng không còn nữa từ sau cái đêm kinh hoàng đó. Chị nghỉ làm và mua một chút bánh kẹo bán cho đám con nít trong xóm. Người trong xóm cũng không còn nghe tiếng chị chửi chồng chan chát từ lúc vừa thức dậy. Chị đã thay đổi, thay đổi đến thằng con trai cũng ngạc nhiên. Chị thấy thương chồng biết bao khi so sánh anh với những người đàn ông chị đã gặp. Chị muốn bù đắp lại những tổn thương mà chị đã gây ra cho anh. Còn anh, khỏi phải nói cũng biết anh hạnh phúc đến dường nào. Trời đã thương và đền trả cho anh. Anh đã không trách cái việc làm nông nổi của chị. Anh biết chị không là người xấu, chị cũng vì gia đình mà phải dấn thân. Trái tim biết yêu thương và biết tha thứ của anh đã thức tỉnh con người chị. Chị đã cảm nhận được thế nào là hạnh phúc và chị sẽ gìn giữ nó. Thằng con trai bỗng dưng học khá lên. Chính tình thương yêu của ba má và không khí vui vẻ, ấm cúng của gia đình đã tiếp thêm lòng tin và sức mạnh cho nó. Chỉ còn một nguyện vọng vô cùng chính đáng của chị mà anh phải thực hiện cho bằng được: “Em thích được anh chở đi chơi vào mỗi chiều, cho dù là trên chiếc xe đạp chẳng mới mẻ gì của anh!”. Và dĩ nhiên là anh đồng ý.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 16:11:17
"Nắng trên sân trường"
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
 
Phương về tới bến đò thì trời đã sụp tối. Mới hơn năm giờ nhưng ở quê trời tối rất nhanh. Bước lên bờ đã thấy mẹ ra đứng trước cửa ngóng xuống bến.
- Sao mẹ ra ngoài này? Buổi chiều gió lớn lắm!
Vẫn nụ cười thật hiền trên môi bà mẹ:
- Thấy trời tối mà sao con chưa về, không biết có việc gì...
- Con xuống trường họp mà. Mấy hôm nữa con đi thì sao?
- Ừ, con đi hẳn thì khác, ít ra mẹ biết con đang ở đâu.
Phương dìu mẹ vào nhà, lòng nao nao. Ừ, mình còn chưa quen chuyện xa nhà, huống hồ là mẹ... Nhưng rồi sẽ quen thôi mà!
Không muốn mà Phương vẫn nhớ những ngày đi học ở ngôi trường bên kia sông. Nhà chỉ cách trường một con sông, con đò chỉ quẫy vài mái chèo là tới nơi. Rồi đậu vào đại học, trường có xa hơn nhưng đạp xe hơn nửa giờ cũng tới. Mẹ con hủ hỉ có nhau trong gian nhà nhỏ, thật êm đềm, ấm cúng. Chị Hai lấy chồng xa, lâu lâu tạt về vẫn ganh tị:
- Út thiệt sướng!  Tối ngày được ở với mẹ.
Vậy mà ra trường rồi út cưng lại phải xa mẹ. Dù mỗi tuần cố về nhà một lần với mẹ nhưng sao cho bằng mỗi trưa, mỗi tối được ngồi bên mâm cơm cùng mẹ, ăn những món mẹ nấu, húp một ngụm nước canh ngọt tận ruột gan bởi đó là canh rau của vườn nhà, là trái bầu trái mướp tươi xanh từ bàn tay chăm sóc chắt chiu của bà mẹ nghèo.
- Hay là con cứ ở lại công ty đó nghe mẹ?
- Không được đâu con, làm việc mà không gắn bó với nghề, không thật sự tôn trọng nó thì làm sao tiến được hả con ?
- Nhưng... trường xa quá! Mẹ lại một thân, một mình...
- Xa gần là do lòng mình con à. Bộ con tính đi luôn sao ? Mấy mươi cây số thôi mà!
Cuộc nói chuyện của hai mẹ con trước khi Phương dứt khoát đi vào ngả rẽ quan trọng của đời mình đã cách đây một năm mà dường như mới hôm qua đây thôi.
***
Ngày đó, Phương học rất giỏi ở trường trung học, bạn bè, thầy cô đều nghĩ con bé sẽ thi vào một ngành gì đó “sáng giá” ở đại học. Nhưng cuối cùng Phương đã chọn vào sư phạm, lại là sư phạm Văn, một nghề chẳng hứa hẹn gì ở tương lai theo quan niệm của đa số bạn bè và thầy cô. Nhưng, cô giáo chủ nhiệm suốt ba năm cấp ba, người Phương yêu kính nhất trong ngôi trường này có lần đã dạy:
- Quan trọng nhất là làm bất cứ việc gì cũng phải toàn tâm, toàn ý các em à. Phải nhớ trong cuộc đời, không có nghề nào bạc bẽo đâu, chỉ có người bạc hay không thôi!
Ngày Phương đậu vào đại học với số điểm rất cao, bạn bè vẫn xì xào:
- Con nhỏ thật dại!  Học như nó thi gì mà không đậu.
Cũng chính cô giáo đã cười thật tươi khi nắm chặt tay Phương:
- Chúc mừng em, cuối cùng em đã dám chọn và dám đi trên con đường của chính mình. Những người như các em rồi sẽ tỏa nắng trên sân trường, sẽ thắp lên hy vọng cho các thầy cô đấy.
Lúc đó, cô học trò cũng không hiểu hết lời cô giáo, không hiểu sao cô lại vui mừng đến thế. Cũng như nhiều lần đến nhà cô, Phương không hiểu sao trên bàn cô chỉ một bông hồng vàng cắm mãi trong chiếc bình nhỏ, không bao giờ là một loài hoa khác. Đám học trò thắc mắc, cô giáo chỉ cười, hóm hỉnh:
-Thì tại cô thích, có vậy thôi!
Nhưng ý nghĩa của “Nắng trên sân trường” thì Phương hiểu, các bạn trong lớp cũng hiểu. Bởi đó là tựa đề bài viết của cô mà! Cái bọn đứng thứ ba sau quỷ, ma này vẫn hay mè nheo với cô:
- Cô ơi, cho tụi em một chút “Nắng trên sân trường” đi!
Và, như một qui ước “Nắng trên sân trường” chính là tình cảm ấm áp, thương yêu giữa cô trò dưới mái trường thân thiết. Phải chăng vì chút nắng tươi đẹp ấy, vì ảnh hưởng của cô trong cả một thời thiếu nữ ấy mà Phương quyết đi đúng sở nguyện của mình: Cô giáo dạy văn!
Và, cũng như một qui ước, mỗi lần sinh nhật cô, đám học trò cưng vẫn mang đến tặng cô những bông hồng vàng để nhà cô ngày hôm ấy rực rỡ hoa vàng, bất chấp ý nghĩa của chúng. Cả bọn đều tâm niệm: “Tại cô thích mà!”. ..
Chính vì tâm niệm ấy, Phương đã gắng sức học thật đàng hoàng, thật tốt suốt ba năm đại học. Mình phải ra dạy lớp, phải đứng trên bục giảng, chịu trách nhiệm trước bao nhiêu học sinh. Lơ mơ là không được đâu! Ở đâu còn gian dối được, chứ nghề dạy học làm sao sai được, làm sao dốt được phải không?
Cứ thế, cô học trò nhà bên kia sông, mỗi ngày phải bước xuống phà đạp xe đến trường ấy năm nào cũng học giỏi, cũng được bạn bè trầm trồ khen ngợi. Ra trường với tấm bằng loại giỏi, cô tưởng con đường trước mặt mình sẽ thênh thang rộng mở, nào ngờ... Bây giờ nhớ lại Phương vẫn tự chế giễu mình ngây thơ, lẫn trong nụ cười vẫn còn chút man mác, bùi ngùi.
Tiếng là ngành sư phạm, có học bổng, có cam kết ra trường sẽ phục vụ ngành giáo dục ít nhất mười năm nhưng hầu hết các bạn cùng khóa đều xoay xở, chạy vạy vào những nơi không dính líu gì đến chuyện dạy học.
-Miễn sao có bằng đại học thôi,  làm gì cho kha khá một chút chứ. Đi xin việc thì “nhất thân nhì thế” mà.
Đám bạn vẫn “lên lớp” cô bé nhà quê như vậy. Bù lại, những sinh viên muốn xin xuống trường dạy như Phương cũng đâu phải dễ. Nghe nói hồ sơ xin việc cũng chất chồng cao nghệu, nhiều đứa cứ đợi được phân công, đợi mãi đến thua buồn rồi cũng phải tự thân vận động để sống còn thôi. Có đứa cũng được gọi lên, đề nghị đi dạy ở một trường xa tít tắp, nghe nói tới đã giật mình, thấy quyết định không dám cầm. Thế là “Kháng lệnh điều động công tác”, mai mốt đừng hòng được phân công lại. Mà có chịu đi xa thì bao giờ mới được về gần trong tình hình khủng hoảng giáo viên vừa thừa vừa thiếu một cách kỳ cục này?
Cả một năm trời, Phương không hề nghe một chút tăm hơi nào về đơn xin dạy học của mình. Chỉ những câu trả lời chung chung “chưa có nhu cầu, cứ chờ đã”, còn chờ tới bao giờ thì không ai trả lời. Đến nỗi Phương đã xin thử việc ở một công ty trách nhiệm hữu hạn, chỉ mong được gần nhà. Nhớ lại, cô gái vẫn còn phập phồng, hoang mang...
Vị trưởng phòng nhân sự hỏi cộc lốc:
- Biết vi tính không?
- Dạ biết.
- Trình độ ngoại ngữ?
- Em có bằng B Anh văn.
Lúc này, ông ta mới ngước lên nhìn, cái nhìn như xuyên qua người Phương, rồi ngừng lại hồi lâu trên gương mặt.
- Được. Ngó bộ cũng xinh đấy, cứ thử việc ba tháng đã.
Thế là sắm sửa lệ bộ hăm hở đi làm. Còn nhớ mẹ Phương sáng sáng vui vẻ chuẩn bị quà sáng, ủi sẵn quần áo, chăm chút cho cô út cưng chu đáo thế nào mới biết mẹ mừng lắm vì con gái làm việc gần nhà.  Phương cũng vậy. Nỗi buồn không được đi đúng nghề dường như có nguôi ngoai trước niềm vui của mẹ. Nhưng bước “vào đời” sao mà trắc trở!
Công ty Phương xin vào là một công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh vật liệu xây dựng, công việc buôn bán khá phát đạt, văn phòng có mấy nhân viên toàn là nữ, lại rất xinh đẹp, đúng “mốt”.  Công việc thì nhẹ nhàng, chỉ trực điện thoại và nói chuyện với khách trước khi dẫn vào phòng trong. Mấy chị cũng “cưng” cô em nhỏ nhít lắm, nhưng vì con bé chỉ ở vòng ngoài nên lúc thì:
- Phương ơi, pha giùm chị tách cà phê sữa đi. Cà phê và bình thủy nước sôi trên bàn nước đó!
Lúc thì:
- Phương ơi, qua bên đường kêu cho chị tô bún riêu đi, sáng chị đi vội quá, chưa ăn gì. Em có ăn gọi luôn đi nhé, chị bao!
Và đương nhiên, khi có khách đến làm việc cùng ông chủ thì bưng bê trà nước là việc của con bé mới vào làm rồi! Vậy mà, qua phỏng vấn, Phương cứ lo là mình không đủ sức để làm tốt công việc!
Cuối cùng, sau ba tháng thử việc, không cần đợi ý kiến của phòng nhân sự, Phương đã xin rút lui. Đến giờ cô cũng không biết nếu tiếp tục ở lại mình sẽ thế nào.  Mấy chị văn phòng thì ra vẻ quyến luyến cô bé dễ sai, dễ mến:
- Khờ quá, sao em lại thôi ? Trước sau gì em cũng được vào chính thức mà. Thời buổi này việc làm có phải dễ tìm đâu!
***
Ngôi trường cách thành phố hơn bốn mươi cây số, phải đi qua hai chặng xe buýt và rẽ vào một con đường trải đá dăm, đi bộ một khoảng mới tới, được cái chung quanh rất yên tĩnh. Thầy hiệu trưởng tuổi trung niên đưa cô giáo mới vào mấy căn phòng trong khu tập thể giáo viên và giới thiệu:
- Trường mới mở hai năm nay thôi. Trước chỉ có trường cấp 2. Thầy cô đa số cũng từ thành phố xuống cả nên phải ở lại tại trường. Cô giáo đừng lo không có bạn...
Phương ngắm nghía ngôi trường, nơi đầu tiên mình sẽ bước lên bục giảng,
lòng bồi hồi. Hình như cô đã trải qua một quãng đường xa, bụi bặm, gió cát để đến được nơi này. So với ngôi trường Phương từng học tập thì ngôi trường hiện ra trước mắt thật nhỏ nhoi, khiêm tốn làm sao. Một dãy phòng lớp lợp mái tôn, những chiếc bàn chiếc ghế đóng bằng cây tạp. Mấy tấm bảng có vẻ còn tạm bợ chưa đúng qui cách. Bên kia là văn phòng nối liền một phòng rộng dùng làm phòng giáo viên và thư viện.  Bốn năm máy vi tính nằm trong một phòng bộ môn chật hẹp... May mà đã từng đi làm và từng thất vọng nên Phương không thấy hụt hẫng.
- Trường mới nên cần giáo viên. Em muốn đi dạy thì phải chịu đi xa thôi. Mới ra trường ai cũng vậy mà...
Dĩ nhiên Phương biết không phải “mới ra trường ai cũng vậy” đâu! Một vài bạn cùng khóa vẫn được ở thành phố đó thôi. Nhưng đã quyết đến với trường lớp rồi thì có hay không những lời vỗ về ấy cũng chẳng nghĩa lý gì!
Và, sau một năm đi dạy, Phương biết rằng mình đúng. Nói như lời cô giáo cũ thì chính những đứa học trò dễ thương đã “tỏa nắng” trong lòng cô giáo trẻ. Lần đầu tiên bước vào lớp, khi bốn chục đứa đứng lên chào rền vang: “Chúng em kính chào cô”, Phương nghe như có tiếng reo vui trong lòng. Rồi nhìn xuống, thương quá những khuôn mặt ngây thơ, những bộ quần áo đủ màu, đủ loại. “Học sinh là con em lao động nghèo cả, trường không bắt mặc đồng phục được”, thầy hiệu trưởng đã báo trước vậy mà sao Phương vẫn thấy rưng rưng.  Và ngay từ đó, một sợi dây êm ái đã cột chặt cô trò rồi...
***
Hết kỳ nghỉ hè cô giáo Phương lại từ biệt mái nhà yêu dấu bên bờ sông, bước xuống đò sang thành phố trở lại trường. Hình ảnh người mẹ đứng trên bến một mình ngó theo vẫn khiến Phương chạnh lòng, nao nao. Sao mẹ không vào nhà đi mẹ, mai mốt con về mà. Nhưng Phương biết, mẹ đang mừng cho con gái đã dám thực hiện mơ ước của mình. Mấy đứa bạn cũ gặp lại vẫn cười nhạo:
- Mày gan thật! Thời buổi này mà đâm đầu vào nghề giáo!
Chắc bọn chúng muốn “dọa” Phương về sự xuống dốc của giáo dục, về những tiêu cực đăng trên các báo đài, về sự tha hóa của ai đó trong những người đứng lớp... Phương biết, bục giảng đang ngửa nghiêng, uy tín của người thầy đang bị sa sút từng ngày, từng ngày. Nhưng chẳng phải hôm rồi về thăm, cô giáo mình đã nói:
- Vàng thật thì không sợ lửa em à. Cứ làm hết lòng mình, hết sức mình đi đã. Cuộc hành trình đi vào cuộc sống là vô cùng vô tận mà...
Chiếc xe buýt chạy băng băng đưa cô giáo trẻ trở lại ngôi trường vùng huyện xa, trở lại với những khuôn mặt học trò thân yêu để kịp lễ khai giảng niên học mới ngày mai. Ngồi trên xe, đột nhiên Phương nhớ đến lời phát biểu chắc nịch của cô nàng Scarlett O’ Hara - nhân vật yêu thích của mình trong “Cuốn theo chiều gió”: “Ngày mai sẽ là một ngày mới”!
Cô giáo trẻ trên đường trở về bục giảng hôm nay rất muốn tin như thế!
 
Nguồn:baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 16:18:30
Với tình yêu
NGUYỄN TRỌNG HOẠT
 
Tuy cùng lứa nhưng khi chúng tôi còn nhấp nháp vị ngọt tình yêu trong tưởng tượng thì Quang đã có “nửa kia” của đời mình. Đó là Dung, sinh viên năm thứ hai đại học kinh tế. Cô bé tóc dài, mắt to, thấm đẫm hương đồng gió nội ấy đã hút khá nhiều thời gian, tâm trí của bạn tôi. Nói yêu là khổ e làm nhụt chí những người đang mon men trên đường tình nhưng với Quang quả đúng thế.
Khi đất trời còn nhá nhem sáng tối, chiếc đồng hồ báo thức hình con thỏ ngồi thu lu trên đầu giường Quang đã réo vang. Cậu ta lật đật thức giấc, làm một cuốc xe ôm miễn phí đưa nàng tới trường. Lắm hôm cuộn mình trong chăn, nhìn bạn ra đi trong gió mưa tê tái, tôi vừa ái ngại vừa một lần nữa thấy sức mạnh kinh khủng của ái tình. Quang sớm bộc lộ tư chất người chồng tương lai chu đáo khi thiết kế cho nàng từ ổ cắm điện trên đầu giường đến hàng móc phơi quần áo, từ giá sách đến cái bàn học kê vừa khít trong căn phòng thuê chung chật đến ngộp thở. Sắm dần từng thứ một, đến cuối năm học thứ hai của Dung, kẻ say tình có tên là Quang đã trang bị cho nàng từ quạt điện đến đèn bàn, từ xe đạp đến cái cassette Walkman nhỏ xíu có phôn cắm vào tai để nghe nhạc và học tiếng Anh. Quang bao luôn cho nàng cả những khoản lệ phí thi lại, tức “tiền ngu” - như lời những kẻ đứng sau quỷ và ma vẫn nói. Ngoài những lúc đi làm, thời gian còn lại anh dành cho trọn cho nàng; tất nhiên thứ bảy, chủ nhật là ngày của hai người. Nhưng chàng vẫn rên rỉ “gặp nhau lần nào cũng vội”, nghe mà thê thảm. Chưa chi chàng đã lên kế hoạch, vạch từng giai đoạn để tiến tới ngày “đưa nàng về dinh”. Bởi thế khi nghe ai đó buông lời vu vơ “ công anh bắt tép nuôi cò...”, Quang đã trợn mắt, đỏ mặt. Tôi thì ngây thơ nghĩ đôi này phải dính nhau, trời gầm cũng không rời ra được.
Ra trường, Dung bay thẳng; nghe nói cô xuôi về phương Nam; tìm được việc làm ở thành phố to nhất nước. Đi qua trường đại học bằng cánh cửa hẹp bởi thường thiếu môn nọ, nợ môn kia nhưng đường vào đời của Dung thênh thang lắm. Chẳng biết với sắc đẹp làm đàn ông mê mẩn, đàn bà ghen ghét có giúp gì để Dung có được quyền nhiều bạn trẻ thèm muốn: thoải mái chọn việc. Cứ thế nàng nhìn lên, đi tới; để mặc bạn tôi ngẩn ngơ, buồn nhớ. Sự cách trở giữa hai người đã góp phần làm tăng doanh thu của ngành bưu chính viễn thông. Máy điện thoại nào của xí nghiệp cũng có hộp gỗ, ổ khóa, dễ gì “dĩ công vi tư” nên Quang đành ra bưu điện công cộng. Nói mất tiền nhưng hình như cầm được ống nghe là Quang quên luôn điều đó. Có lần tôi ngồi đợi, nhâm nhi ly cà phê và “bắn” liền hai điếu thuốc, Quang vẫn chưa xong cuộc gọi. Tôi cáu, nhưng nhìn khuôn mặt rạng rỡ của bạn, lại thấy thương. Những lần đi theo Quang sau đó, tôi chẳng phải chờ lâu và cũng không còn thấy bạn hớn hở đi ra từ bưu điện bởi chàng không gặp được nàng. Điệp khúc ấy dài dài lặp lại. Qua những người quen làm gần chỗ Dung, Quang kiểm tra “chéo” và tròn mắt nhận ra: nàng đã đổi lòng. Kẻ đánh bạt hình ảnh Quang trong tim nàng là một người nước ngoài cùng làm trong liên doanh với Dung. Bạn tôi ngơ ngác buồn, nhuệ khí đàn ông vơi đi thấy rõ. Tụi tôi xúm vào, những mong giúp Quang lấy lại thăng bằng: “Đã tắt lửa lòng thì giải tán, chèo kéo làm gì”; “phải xóa con người vô tình ấy khỏi bộ nhớ ngay!”; “Kẻ không yêu bằng trái tim ấy có đáng để cậu nhớ?!”. Quang thu mình, lặng lẽ niêm phong những dữ dội của nỗi đau riêng. Như con chim từng trúng tên, bạn tôi đâm sợ cả làn cây cong và từ đây anh dần mất những thứ không đong đếm được.
***
Tuổi ba mươi, chúng tôi lần lượt trao cho nhau thiệp hồng. Đã xa rồi những tháng ngày tự do với dọc ngang muôn nẻo đi về, giờ đây chúng tôi lo vun vén cho tổ ấm của mình. Đã xếp lại trong tâm trí chúng tôi những chiều đá banh đến quên cơm, những tối tụm lại đàn hát thông tầm đến gà gáy rồi những lần giao lưu, những chuyến picnic, thay vào đó là nỗi lo cơm áo thường ngày. Duy có Quang vẫn kiên trì “độc hành” một cách cố ý. Đàn hát một mình cũng nhạt, càng không thể một mình đá banh, chơi bài, thỉnh thoảng Quang ghé nhà tôi. Thấy Quang ôm thằng bé nhà tôi hôn hít, tôi bảo: “Cưới vợ đi”. Quang nhếch mép: “Rách như người tiền sử, có ma nó ưng?!”. “Nói như cậu, người nghèo ở ế cả?”. Tôi định chuyển đề tài thì cậu ta tuôn ra một tràng, chất chồng những chuyện tình oái ăm thời mở cửa. Thời nay, theo Quang, sự thổn thức của trái tim gắn liền với tiếng sột soạt của túi tiền. Đấy, một dạo là mốt Việt kiều, xấu đẹp không cần, già trẻ chẳng sao, các em cứ nhào vô như đi phá kho thóc của Nhật. Giờ thì khối em xếp hàng, nhăm nhăm xây mộng vàng với cả những thằng gù, chột, đui, thọt người ngoại quốc. Vì tình yêu chắc? Tôi cắt lời Quang: “Mày bị loạn thị rồi!”. Nhìn Quang cười cười, vẻ khinh bạc, tôi bực: “Đừng nhìn đời méo mó giống thầy bói xem voi thế”. Bạn tôi mắc chứng bi quan về phái đẹp từ đó. Với vẻ cao ngạo cùng cõi lòng u ám, chẳng biết đến bao giờ Quang mới tìm được bến đậu bình yên cho đời mình?
***
Hai năm sau ngày Dung xa bay, Quang lại có người yêu. Như người đang say, kẻ đang yêu không giấu được bao giờ nhưng lần này Quang có vẻ chừng mực hơn. Chẳng hiểu bằng cách nào mà Hạnh-cô nhân viên của một trường tiểu học nọ đã làm tan băng trong lòng bạn tôi. Nếu trước đây chàng say tình đến quên mình thì lần này chàng nặng về chăm chút cho bản thân. Đầu tiên là cuộc chỉnh trang về y phục. Xưa rồi những bộ đồ “si đa” với giá hạ bất ngờ, giờ chàng dùng toàn của gin, đập hộp hoặc những bộ cánh có số đo chính chủ được thửa từ những tiệm may nổi tiếng trong thành phố.
Cả con 81 với kim vàng giọt lệ, một thời làm bao người xuýt xoa mơ ước, giờ Quang cũng định thay. Tôi bảo: “Chỉ tại ống pô bể nên tiếng máy nó pạch pạch như xe công nông nhưng mông má lại, dùng tốt chán”. Quang lắc đầu. “Thế cậu định mua xe gì?”. “Tất nhiên là phiu-chờ”. Tôi ngớ người, hỏi dồn, tâm điểm vẫn là khoản “ đầu tiên”. Quang cười cười, giọng đầy tự tin: “Đã có cách”. Cách nào để chàng công nhân bậc thấp, mỗi tháng chỉ có việc làm mươi lăm ngày, thường xuyên bị quản lý nhà bếp nhắc nhở vì chậm nộp tiền ăn trong bỗng chốc xoay ra gần ba chục triệu đồng? Chẳng phải đợi lâu, ngay hôm sau tôi biết cái cách để có tiền của Quang khi anh phó giám đốc xí nghiệp gặp Quang, hỏi: “Cậu định làm gì mà nhờ xí nghiệp bảo lãnh để vay vốn xóa đói giảm nghèo?”. Quang ngớ người, mặt nghệch ra, miệng ú ớ. Rồi cậu cũng tìm được lý do khiến người lãnh đạo dễ thông cảm nhất: “Xí nghiệp ít việc, em cũng cần vốn để làm thêm chớ”. Anh phó giám đốc nghiêm khắc cảnh báo: “Trồng cây gì, nuôi con gì thì tùy cậu nhưng nuôi con bồ coi chừng có ngày mất vốn, ngân hàng không để cho yên đâu!”. Thế là khác với chúng tôi, người vay vốn để đóng chuồng nuôi chim cút hoặc gà công nghiệp, kẻ mở quầy tạp hóa hoặc mua tủ đá bán kem, Quang vay vốn để đầu tư cho “tương lai”. Chẳng rõ khi có thêm những trang bị mới, Quang có đẹp lên trong mắt nàng không nhưng tháng tháng anh phải đóng cho ngân hàng mấy trăm ngàn tiền lãi.
Để giải quyết khâu oai, Quang còn nghĩ ra những trò thoạt nghe tưởng bịa. Một sáng, tôi loáng thoáng nghe anh trưởng phòng tổ chức cự nự Quang, giọng hơi bực nhưng cố nén lại, ý chừng chỉ muốn gói gọn trong nội bộ hai người. Nắm được một đầu dây, cứ thế tôi lần tới và phát hiện ra câu chuyện bi hài, đáng kể lại cho các bạn. Số là mỗi lần đi với Hạnh, Quang đều mượn điện thoại di động của anh trưởng phòng tổ chức cầm theo. Quang “xi-nhan” trước với ai đó, cứ canh me đúng tầm chàng và nàng đang ngồi với nhau thì phôn tới. Tất nhiên chỉ cần nghe tiếng nhạc ò e của máy là đủ nhưng khổ nỗi do chưa được huấn luyện kỹ nên thay vì bấm nút đỏ-từ chối, Quang quýnh quáng bấm búa xua. Rút kinh nghiệm, những lần sau có tín hiệu gọi tới, Quang tranh thủ lên giọng sếp “chỉ đạo” hơi dài thành ra tốn tiền vô ích. Nhìn mấy cậu trong xí nghiệp diễn lại kiểu cách Quang nghe điện thoại khi bên người yêu, tôi không nhịn được cười, cười nhưng không thể vui được.
Với lý do giới thiệu Hạnh, Quang mời năm chúng tôi- những bạn thân cùng xí nghiệp đi ăn quán đúng vào ngày Tình yêu. Cái quán ăn bồng bềnh trên mặt sông ấy đẹp từ những bức thư họa treo tường đến hòn non bộ có tiếng nước róc rách đặt ngay lối vào và đến cả những người phục vụ nữa. Đã mấy lần cạn ly nhưng tôi vẫn chưa có được cảm giác tự nhiên khi nhìn tất cả quanh mình đều lộng lẫy và sang trọng. Với túi tiền teo tóp, tôi chưa một lần đến những nơi như thế. Tất nhiên giá cả cũng phải tương xứng với sự đẹp đẽ và sang trọng đó. Các bạn đừng cười khi nghe điều này, nếu người ta tính tiền trước, có lẽ tôi chẳng dám đụng đũa vào thức ăn và hẳn sẽ run tay khi nâng ly. Không để ý vẻ e dè của chúng tôi, Quang liến thoắng hết tiếp thức ăn cho mọi người, lại đưa ra lý do để mời uống. Trên đường về, tôi ghé tai Quang, hỏi nhỏ: “Tiền đâu mà cậu xông xênh thế”. Quang gạt đi : “Ối dào, cứ tẹp nhẹp hoài, chị em khinh cho”. Tôi đấu dịu: “Chẳng phải ai cũng khinh sự nghèo khó. Vả lại, điều cần cho tình yêu là sự chân thật chứ không phải là những ảo ảnh, cậu ạ”. Quang im.
Tình yêu của Quang đang trên đà phát triển bỗng khựng lại như chiếc xe lên đèo hỏng máy. Lần này chúng tôi chẳng bàn góp được cho Quang bởi cậu ta kín như ruột đá. Nhưng nhìn sắc mặt chỉ hơn người đưa đám là không rơi nước mắt kia, tôi biết ngay chàng và nàng đang có chuyện không vui. Đêm đêm, thay vì cỡi xe lao theo tiếng gọi của trái tim, Quang ôm ghi -ta bập bùng cho đến khi sương giăng mờ trên hàng phượng trước sân xí nghiệp. Rồi đến lúc Quang tự nói ra sau khi đã rào một câu lỏng lẻo: “Chỉ nói riêng với cậu thôi đấy”... Chuyện bắt đầu từ khoản vay xóa đói giảm nghèo của Quang dạo nọ, giờ trở thành món nợ khó trả. Qua người bạn làm ở ngân hàng chính sách xã hội thành phố, tình cờ Hạnh biết điều đó. Rồi nàng biết thêm nhiều điều về chàng mà lâu nay nàng tưởng thật. Nàng giận đến độ lánh mặt Quang. Tôi đau hết cả người khi đọc mấy dòng cuối trong bức thư dài nàng viết cho Quang: “Em nghĩ, hành trang của tình yêu không thể có những thứ ngụy tạo. Em yêu anh đâu phải vì vẻ hào nhoáng bên ngoài bởi vậy em xót xa khi cảm thấy chính mình bị xúc phạm... Sao anh lại ít bản lĩnh đến thế, Quang ơi!?”.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 12.03.2007 16:34:38
Nắng sớm mưa chiều
ĐẶNG HOÀNG THÁM
 
Cuộc đời có buồn, có vui. Có hạnh phúc và đau khổ. Cũng có khi chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn. Giữa bất hạnh và hạnh phúc chỉ cách nhau gang tấc, hoặc dài ra cả đời người. Phút chung cuộc giống như chuyện cuối, chuyện về sau của một đám cưới, có niềm vui hạnh phúc ngập tràn và cũng lắm khi là nước mắt não nề, cay đắng!
- Em có thấy mây trắng trên trời trôi không? Nó bay mãi đến ngàn năm nữa không thôi, dù anh và em... trăm năm sau không còn nữa!
- Anh lại nổi máu lãng mạn lên nữa rồi! - Phương Liên cấu vào vai tôi khiến tôi sực tỉnh:
- À... xin lỗi em! Anh hay méo mó nghề nghiệp. Anh viết văn, làm thơ riết rồi nhiều khi sinh lẩn thẩn!
- Hôm qua, đi đám cưới nhỏ Nguyên, anh có để ý gì không? – Phương Liên hỏi.
- Có thấy gì đâu.
- Con Nguyên nó khóc, lúc quay phim, chụp ảnh.
Tôi cười khà, đùa:
- Sao lại khóc? Nghe nói mấy cô... mê có chồng lắm mà!
- Anh lại “đâm hơi” nữa rồi... Vậy mấy ông có thèm cưới vợ không? Người ta khóc cũng là có chuyện chớ!
- À... à. Vui cũng khóc. Buồn cũng khóc! Có cả kiểu khóc... “vui sao nước mắt lại trào...”!
- Nó cắn răng bỏ thằng Toàn để lấy chồng Việt kiều Mỹ.
- Có chuyện đó sao? Anh cứ ngỡ Nguyên và Toàn chỉ là bạn bè. Nguyên có nhiều bạn lắm mà?
- Tụi nó yêu nhau từ lúc chưa ra trường. Tội nghiệp!
- Nhưng tại sao lại xảy ra chuyện đó? Nhà Nguyên cũng thuộc hàng khá giả mà!
- Ờ, ba nó làm giám đốc... Không biết sao vỡ nợ, có nguy cơ ra tòa!
Tôi hiểu ra:
- Nguyên ưng tay Việt kiều đáng tuổi cha chú mình nhằm mục đích cứu vãn tình thế phải không?
- Nhưng tội nghiệp con Nguyên quá! Ai làm nó lãnh! Nghe nói ba nó là tay phóng đãng, cặp bồ với ca sĩ phòng trà và mấy cô người mẫu thì tiền bạc chịu sao xiết!
- Anh có gặp ông ấy một vài lần đi chung với Khánh Vân ở khách sạn New Gold...
Phương Liên véo tôi:
- Anh đi đâu vào đó mà gặp ba con Nguyên?
- Ai da... Đi hội thảo!
***
Dòng đời lặng lẽ trôi như mây trắng ngàn năm bay mãi trên bầu trời. Những áng mây ấy trôi về đâu chẳng ai biết, còn người yêu tôi có chồng! Bạn tôi đi dự tiệc về nói với tôi, hôm ấy thấy mắt Phương Liên đo đỏ. Chắc nàng khóc! Phương Liên khóc cho cuộc tình với tôi dang dở chăng? Tôi cố tin như vậy để an ủi trái tim cô đơn, tan nát của mình. Rồi có phút nghi ngờ, tôi chợt nghĩ: “Biết đâu cô ấy khóc vì phải xa cha mẹ, người thân, hoặc có thể khóc vì được hạnh phúc! Vui cũng khóc. Buồn cũng khóc kia mà!”.
***
- Chú mua giúp tôi vài tờ vé số!
- Tôi không mua... Tôi không có chơi số!
- Chú mua thử một lần đi. Có khi chú sẽ trúng độc đắc cũng nên!
Tôi vất mẩu thuốc nhìn người bán vé số. Ông ta cao ráo, mặt vuông, càm bạnh, chiếc áo bạc màu, đội cái nón lưỡi trai cũ mèm. Đôi mắt ông tôi tối, có chút gì khá lạ lùng. “Thằng cha nầy bán vé số mà tướng giống mấy tay giám đốc quá vậy?” - tôi nhủ thầm.
- Ông đưa đây, tôi cũng đang khủng hoảng tài chánh, mua thử xem sao?
- Có khi trúng thì sao? Tôi đã từng trúng số, thú vị lắm!
- Ông trúng số sao bây giờ lại đi bán chi cho cực?
- Ấy, tại cái số tôi nó vậy. Đời mà, chuyện tôi lằng nhằng lắm.
Tôi bỗng muốn nghe một câu chuyện lạ. Biết đâu mình sẽ hư cấu thành một truyện ngắn cũng nên, kiếm vài trăm chữa cháy cái khoản cà phê, thuốc lá với nhậu bình dân!
- Ông còn bao nhiêu tờ? - Tôi nhìn xấp vé mỏng trên tay ông ta.
- Dạ, chín tờ, mới bán một tờ đây. Số chín là số hên!
- Được – tự nhiên tôi nổi hứng - tôi mua hết với điều kiện ông phải nhậu với tôi đứt hai xị rượu nầy.
Người bán vé số có vẻ vui khi gặp một khách hàng cởi mở như tôi. Ông ta nói:
- Nếu chú cho phép, tôi sẽ nán lại chơi với chú một chút cho vui. Mà sao chú lại nhậu một mình?
- Tôi uống với một thằng bạn. Vợ nó mới điện kêu nó về nhà có chuyện gấp.
Cuộc nhậu tiếp diễn. Người đàn ông bán vé số sau khi đã cưa với tôi vài ly rượu thuốc. “Rượu vào lời ra”, ông bắt đầu thố lộ:
- Cách đây chừng hai mươi năm, tôi là giám đốc một doanh nghiệp của Nhà nước.
- Giám đốc mà sao lại đến nông nỗi nầy. Mấy tay giám đốc thường khi về hưu giàu lắm kia mà?
- Tôi khác, tôi có vợ bé... tới những ba bà, không, ba cô thì đúng hơn. Cô nào cũng trẻ đẹp như tiên.
- Trời đất! Ông dữ thật!
Tôi nhìn kỹ người đàn ông, ngờ ngợ như có gặp ở đâu đó. Khá lâu, tôi mới đoán:
- Có phải ông tên Khanh không?
Người đàn ông giật mình, nhìn tôi:
- Sao chú biết tên tôi?
- Hồi đó tôi có làm báo, thường được cử đi dự hội thảo. Tôi còn biết ông có một người con gái tên là Thanh Nguyên, phải không?
- Đúng vậy. Nó bây giờ ở Mỹ.
- Sao cổ không nuôi ông?
- Nuôi gì! Tôi ép nó lấy chồng. Tôi bỏ mẹ nó. Mẹ nó buồn, rồi bịnh đến chết luôn. Tôi thật là tàn nhẫn! Con gái tôi nó oán hận tôi cũng phải.
- Thôi, vô một cái đi. Chuyện của ông cũng gay cấn đó!
- Lúc vợ tôi chưa mất, con tôi cũng có gởi tiền về cho tôi nộp trả Nhà nước. Tôi bị bốn năm tù vì tội tham nhũng, thâm lạm ngân quỹ. Thời gian tôi ở trong trại, bà xã tôi thăm nuôi tôi rất tử tế. Chết một cái là cô vợ bé thứ ba của tôi ở dưới Châu Thành cũng thăm nuôi tôi. Nếu cô ấy bỏ tôi như các cô vợ kia thì chuyện đã đơn giản lắm rồi - Người đàn ông bán vé số thở dài, rồi tiếp nối câu chuyện: Ra tù. Tôi về với vợ. Thỉnh thoảng tôi trốn xuống Châu Thành thăm cô vợ thứ ba cùng đứa con trai. Về sau, vợ tôi biết được chuyện nầy nên nhất quyết ly dị tôi.
- Còn chuyện ông trúng số?
- Cô vợ bé thứ ba của tôi bán cháo lòng, bún riêu ở chợ huyện. Buổi sáng tôi phụ cô ấy dọn bàn, rửa chén. Khoảng chín giờ, tôi đi vòng vòng chợ bán vé số kiếm thêm thu nhập. Hôm ấy, còn mười vé, năn nỉ không ai mua. Tôi “ôm” đại. May sao buổi chiều trúng ngay bóc độc đắc. Chú hiểu là tôi mừng như thế nào.
Người đàn ông nhấp ly rượu tôi đưa, rồi ông ta để cái ly xuống bàn, buồn bã:
- Chuyện đời của tôi nó giông giống như chuyện “Tái ông mất ngựa”. Nhưng Tái ông là chuyện có hậu, còn tôi thì kết cuộc đoản hậu! Có tiền rồi, vợ tôi không bán cháo lòng, bún riêu nữa. Không biết có ai xúi không mà cô ấy nhất quyết mở quán bia! Dần dần tôi cũng quen lại với cái môi trường ăn chơi ấy...
Ông Khanh cho biết thêm: sau khi thôi vợ bé, ông ta buồn quá, chơi số rất dữ rồi khánh kiệt, đi bán vé số với hy vọng trúng thêm lần nữa. “Nhưng lần nầy... tôi sẽ làm từ thiện rồi lên núi lập một cái am nhỏ để tu”. Ông Khanh nói với đôi mắt đo đỏ, bắt tay tôi, lặng lẽ bước đi. Tôi nhìn ông với mái tóc bạc trắng, liêu xiêu đi về phía cuối con đường đất trong nắng chiều sắp tắt.
***
Hôm nay là ngày cưới của con gái tôi. Lúc bé Vân - tôi thường gọi con gái rượu của tôi như vậy - thay đồ để ra quay phim, chụp ảnh, tôi hỏi vợ tôi:
- Em thấy con mình nó có... khóc không?
Bà xã tôi nhìn tôi:
- Anh hỏi lạ thật! Có chồng xứng đôi vừa lứa, thuận tình vừa ý, lại ở gần cha mẹ, vui không hết, sao lại khóc?
- Anh chỉ hỏi vậy thôi... Có nhiều khi vui, người ta cũng... khóc.
Tôi bỗng nói vu vơ:
- Hôm trước, anh có gặp ba của con Nguyên!
- Ba con Nguyên nào?... Em đâu có biết! - Vợ tôi hối hả bước ra phòng khách, khi nghe có ai đó, báo đàng trai sắp đến. Tôi cũng kịp tỉnh táo: “Chậc, không có gì”. Tôi lộn rồi, vợ tôi bây giờ là Thanh Thảo chứ không phải là Phương Liên của tôi ngày trước!
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:10:24
Đóa hồng của Kinh Kha
TRẦN PHƯƠNG LANG
 
Ông lão đi lên đỉnh núi, gần như chưa có bước chân tiều phu đặt đến. Nhìn vẻ bề ngoài của ông lão, nhiều người dễ lầm tưởng ông đã vào hàng tuổi đại thọ. Những bước chân vững chãi đi ngược triền dốc của ông lão, thanh niên khó theo kịp. Người biết chút võ nghệ đoán già đoán non, ông lão có thể đã đạt đến hàng cao thủ võ lâm.
Ông lão đưa mắt nhìn ngang dọc. Khi tìm được một tảng đá phẳng lì có hình dáng của một ngôi mộ, ông lão cởi tay nải cẩn thận đặt xuống đầu tảng đá. Ông lão chọn đúng trung tâm tảng đá, dùng trủy thủ khoét vào đó một khoảng trống vuông vức, sâu khoảng năm tấc. Mồ hôi trên trán ông lão rịn ra. Ánh nắng ban mai đã xua đi làn sương ẩm lạnh. Ông lão trịnh trọng mở tay nải lấy ra một chiếc hộp bằng vàng óng ánh, xung quanh cẩn nhiều viên ngọc quí và hoa văn tuyệt đẹp, mở ra. Trong chiếc hộp quí không chứa đựng châu báu như ý nghĩ của phàm nhân, là ông lão một thân một mình đến đỉnh núi hoang vu này để chôn cất báu vật. Đôi mắt ông buồn bã, tay run run nâng một khối tròn bọc trong lụa điều. Ông mở lớp lụa. Thì ra đó là chiếc đầu lâu trắng hếu, trên đỉnh hộp sọ có vết chém hằn sâu. Đầu lâu nhe răng như đang cười với ông lão. Sau khi đặt chiếc hộp quí có chứa chiếc đầu lâu vào huyệt đá, cẩn thận đắp lại và khuân một viên đá to dằn lên trên, ông lão đốt hương sụp lạy. Nước mắt tưởng chừng như khô cạn trên gương mặt nhăn nheo của ông lão giờ đã đầm đìa.
Mặt trời đứng bóng. Ông lão quì đã khá lâu trước ngôi mộ đá, ngửa mặt nhìn trời, miệng lầm bầm khấn vái. Chiếc trủy thủ trong tay ông lấp lánh dưới ánh mặt trời. Bất chợt ông đưa trủy thủ lên ngực, hai tay ấn lưỡi trủy thủ sắc bén vào thẳng tim mình. Ông dang hai tay ôm lấy huyệt đá, máu từ tim ông chảy ra thắm đỏ. Dường như ông chưa an tâm, cố thì thào nói gì đó với chiếc đầu lâu trong mộ. Một cơn bão khô từ đâu ập đến cuốn tung những chiếc lá rừng, xoáy tròn, xoáy tròn rồi phủ lấp hình hài của ông lão và huyệt đá.
* * *
Sau khi được đám quan hầu cận của thái tử Đan đưa từ tư dinh của Thái tử về trú quán sang trọng, tráng sĩ Kinh Kha được đám mỹ nữ dìu vào giường. Những bữa đại tiệc thừa mứa sơn hào hải vị; rượn quí tuôn như suối chảy thâu đêm, suốt sáng. Ai cũng nghĩ thái tử Đan biết trọng dụng người tài. Kinh Kha nể tình thái tử Đan tiếp đón mình quá trọng thị, nên không dám chối từ. Việc luyện võ công cả tháng nay có phần chểnh mảng. Và, hôm nay, cơ thể Kinh Kha đã suy kiệt vì rượu nên không thể tiếp tục đối ẩm cùng tri tửu. Thái tử Đan đành ép lòng cho người đưa Kinh Kha về quán dịch. Không quên cắt cả chục mỹ nữ theo hầu hạ. Kinh Kha lảm nhảm trong cơn mê tửu: “Kinh Kha này lãnh nhiệm vụ hành thích Tần Thủy Hoàng, dẫu có tan xương, nát thịt cũng không thể đền đáp ân tình của tri tửu...”. Nào ngờ, Kinh Kha bị ngộ độc rượu đi vào hôn mê đã ba ngày. Thái tử Đan nghe cấp báo, ngửa mặt lên trời than thở và tự trách mình. Ngày thuận lợi cho việc hành thích Tần Thủy Hoàng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Nhiều danh y được vời đến chữa trị cơn mê tửu của Kinh Kha. Ai nấy đều bó tay, đành chịu tống ngục.
Vào ngày thứ bảy, chỉ còn đúng một ngày Kinh Kha lãnh nhiệm vụ sang Tần. Kinh Kha choàng tỉnh, mở mắt nhìn quanh quất. Đám mỹ nữ hầu hạ nằm ngủ vạ vật khắp căn phòng sang trọng vì quá mệt mỏi. Kinh Kha ráng sức, một mình rời khỏi giường, bước liêu xiêu đến chiếc bàn nước, cố nâng bình lên rót một cốc đầy, nốc cạn. Nước sâm quí làm Kinh Kha hồi tỉnh. Kinh Kha cố nhớ lại diễn biến đã qua, nhưng không sao nhớ nổi. Trên bàn nước có một chiếc hộp bằng vàng ròng, cẩn ngọc quí, chạm trổ tinh xảo. Kinh Kha trong lòng xúc động: “Ôi, Thái tử quá trân trọng kẻ hàn sĩ này”. Ôm chiếc hộp báu về chiếc giường mở ra để xem báu vật thái tử Đan ban tặng, miệng lẩm bẩm: “Báu vật ơi, ngày mốt ta phải qua sông Dịch. Thân xác ta chưa chắc an toàn trở về. Ta còn cần chi đến mi nữa. Nhưng ta phải mở ra xem, để ghi nhớ ân tình của tri tửu dành cho ta. Có chết vì sự nghiệp mưu bá đồ vương của người, ta cũng thỏa lòng”.
Nắp hộp đựng báu vật vừa mở ra, một mùi hôi thối xông ra nồng nặc. Định thần nhìn kỹ báu vật của thái tử Đan ban tặng, mồ hôi lạnh Kinh Kha vã ra, tay run bần bật, mồm há hốc. Kinh Kha nôn ọe, tay run rẩy làm chiếc hộp rơi xuống đất. Hai bàn tay của con người đang kỳ phân hủy văng ra khỏi chiếc hộp đựng báu vật. Kinh Kha chợt nhớ và thảng thốt, nói như mê: “Trời! Đôi bàn tay đẹp tuyệt vời của người kỳ nữ có tiếng đàn mê đắm lòng người!”. Kinh Kha khóc rống lên, đưa hai tay ôm lấy mặt. Đám mỹ nữ hầu hạ giật mình thức giấc, hoảng hốt ùa đến: “Tráng sĩ đã tỉnh lại rồi!”. Tiếng đàn sáo từ tư dinh của thái tử Đan, hòa cùng tiếng cười vẫn vang vọng đêm khuya.
Được tin cấp báo, thái tử Đan gạt đổ rượu và mỹ nữ sang bên; tỉnh rượu, hối thúc tùy tùng hộc tốc đến quán dịch xem sự tình. Vừa gặp mặt Kinh Kha, thái tử Đan ào đến ôm chầm lấy tri tửu, ra chiều âu yếm. Ngay hôm sau, dù Kinh Kha chưa bình phục, thái tử Đan vẫn ấn vào tay Kinh Kha trủy thủ, vẻ ân cần: “Tráng sĩ đừng phụ lòng ta. Hãy lên đường làm nhiệm vụ giúp ta. Ta đợi ngày hành sự đã quá lâu rồi! Sẽ có người đưa tráng sĩ đến cạnh Tần vương. Với võ công của tráng sĩ, Tần vương đã tới ngày tận số. Vắng tráng sĩ rồi, ta biết lấy ai đối ẩm!”. Nước mắt thái tử Đan rơi lã chã. Cầm trủy thủ trong tay, Kinh Kha khẳng khái: “Anh hùng tử chí hùng nào tử!”. Thái tử Đan cười lớn: “Có vậy chớ! Trủy thủ này làm bằng hợp kim quí, rất bén nhọn và chém sắt như chém bùn, bảy lần áo giáp vẫn xuyên thủng. Lớp vàng óng ánh bên ngoài che vẻ tàn độc của nó bên trong. Chúc tri tửu thượng lộ bình an!”.
Tiếng đàn sáo, hát xướng và tiếng cười thỏa thuê hoan lạc từ tư dinh của thái tử Đan lại vang lên thâu đêm suốt sáng. Tay ôm mỹ nữ, tay cầm cốc rượu, thái tử Đan gật gù: “Ngày lễ đăng quang của ta làm sao có mặt mi, hỡi Kinh Kha. Dù thành công trong việc hành thích Tần Thủy Hoàng, nhưng mi làm sao thoát khỏi trăm đao của đám võ sĩ luôn túc trực bên Tần Thủy Hoàng. Thân xác mi sẽ trở thành món thịt băm. Ha... ha...!”. Thái tử Đan uống cạn chén rượu ngọc trong tâm trạng phấn chấn, với ước mơ ngày lên ngôi báu, sắp thành hiện thực.
* * *
Chuyến đò sang sông Dịch rời bến. Kinh Kha ngoái nhìn lại. Chỉ có người bạn thân thiết Cao Tiệm Ly tiễn đưa mình vào đất dữ. Cao Tiệm Ly nâng chiếc sáo lên. Tiếng sáo bay vút lên khoảng trời u ám. Cao Tiệm Ly tiễn biệt bạn hay tiễn biệt nỗi lòng u uất của mình. Cao Tiệm Ly tiễn bạn đi vào đất dữ, sao lại thổi khúc Phụng Cầu Hoàng. Nào ai biết cõi lòng Cao Tiệm Ly đang lịm chết và gởi lòng theo bóng dáng người kỳ nữ có đôi bàn tay tuyệt đẹp tài hoa và ngón đàn mê đắm lòng người. Người kỳ nữ tài hoa bạc phận. Chỉ vì lời khen của Kinh Kha trong cơn say về đôi bàn tay tài hoa tuyệt vời của nàng, mà thái tử Đan đã tàn độc hạ lệnh biến đôi tay sinh động của nàng thành vật vô tri. Cao Tiệm Ly và người kỳ nữ đã thầm yêu nhau. Họ đã thề nguyền sẽ đợi chờ nhau cho đến ngày nàng được thái tử Đan trả về cuộc sống đời thường, khi đã tàn phai hương sắc. Cao Tiệm Ly và nàng sẽ dắt nhau đi tìm một sơn thôn hẻo lánh nào đó, sống cuộc đời đạm bạc, hạnh phúc bên nhau. Tiếng sáo thần và tiếng đàn tuyệt vời, ngày ngày sẽ hòa quyện vào nhau dâng cho đời những âm thanh thánh thiện. Hạnh phúc đến với họ dẫu muộn màng. Chiếc đò đưa Kinh Kha xa khuất tầm nhìn, Cao Tiệm Ly đập vỡ chiếc sáo, lủi thủi cô độc bước đi. Từ đó, chẳng còn ai thấy bóng dáng Cao Tiệm Ly và được nghe tiếng sáo bay bổng nâng tâm hồn con người vươn tới thánh thiện.
Mưa lất phất. Đôi tay của người lái đò vẫn khoan nhặt đưa đẩy. Trong một sát na, Kinh Kha bỗng ngộ ra, khi nhớ lại gương mặt âu sầu của Cao Tiệm Ly và hai bàn tay phân hủy của người kỳ nữ. Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò bị người đời nguyền rủa là bạo chúa. Biết đâu, Tần vương có lý khi đem đốt những loại sách nhảm nhí, dâm thư và giết đám học trò giá áo túi cơm, có hại cho mọi người. Ôi, chỉ vì một lời khen trong cơn say của ta, đã mang đến bất hạnh cho một con người. Thái tử Đan chưa lên ngôi hoàng đế, đang thất thế sa cơ mà đã bộc lộ tâm địa độc ác, đối với thân phận của một con người. Một con người không có lòng nhân ái, khi nắm quyền lực trong tay sẽ là tai họa khôn lường cho trăm họ! Ta đã nhìn lầm người! Chân đã bước xuống thuyền mất rồi! Tiếng buột miệng than thở não lòng của Kinh Kha trong khoang thuyền lọt đến tai người lái đò. Gã dừng tay chèo, bước vào khoang quỳ sụp dưới chân Kinh Kha. Chiếc nón lá lột khỏi đầu người lái đò, trong ánh sáng nhạt nhòa, Kinh Kha nhìn thấy một gương mặt cương nghị. Một gương mặt vừa quen vừa lạ. Người lái đò cất giọng: “Tráng sĩ có còn nhớ kẻ hèn mọn này? Mẹ con tôi bị bọn cường hào bức hại, đánh đập để cướp đất. Ba tôi bị bọn chúng giết vì thân cô thế cô. Trong ngôi miếu hoang, tráng sĩ đã ra tay cưu mang, giúp đỡ. Trong đêm mưa đó, mẹ tôi đã không sống nổi với những vết thương của kẻ bạo tàn. Trước lúc mất, mẹ tôi căn dặn: “Dẫu có đầu thai ở kiếp sau, con phải cố trả được ân sâu!”. Kinh Kha nhìn thật kỹ gương mặt người lái đò. Trên đời lại có người giống mình đến thế ư! Người lái đò nắm tay. Kinh Kha van nài: “Tôi biết nhiệm vụ trọng đại của ân nhân. Sang sông Dịch e khó về! Một người có lòng nhân ái như tráng sĩ cần phải sống, tìm minh chúa phò giúp cho trăm họ được nhờ. Lái đò vô tích sự như tôi, mạng sống như cây cỏ. Trong hành trang nghèo khó của mẹ con tôi, chỉ có lưỡi trủy thủ gia bảo ba tôi để lại là đáng giá. Ba tôi thường dạy bảo: hung khí trong tay của người nhân ái cũng trở thành vật có ích cho mọi người. Tôi sẽ thay tráng sĩ sang Tần hành thích Tần Thủy Hoàng. Nếu tráng sĩ không vì trăm họ mà tìm minh quân để phò giúp, tôi sẽ chết dưới trủy thủ này trước mặt tráng sĩ. Dẫu có xuống suối vàng, tôi cũng không mặt mũi nào dám nhìn mặt mẹ!”. Người lái đò nước mắt đầm đìa van lơn Kinh Kha.
Kinh Kha nào phải là kẻ tham sống sợ chết khi nhận nhiệm vụ sang Tần! Thay đổi một bạo chúa bằng một bạo chúa, có thể tàn độc hơn, giang sơn xã tắc và trăm họ sẽ lại triền miên sống trong đau khổ. Kinh Kha sụp lạy người lái đò thế mạng cho mình với lời nguyền sẽ vì trăm họ mà tìm đấng minh quân phò giúp; để giang sơn xã tắc và trăm họ sống trong hạnh phúc ấm no.
Người lái đò chân chính đâu phải là một sát thủ có võ nghệ cao cường như Kinh Kha. Chính nhờ vậy mà mạng của Tần Thủy Hoàng mới còn. Người lái đò đã bỏ mạng dưới trăm đao. Kinh Kha nghe tin lòng bồi hồi xúc động, cải trang lén lút tìm thân xác người lái đò. Bọn chó ngao ngoài thành đã ăn mất phần thân thể đã bị băm nát. Duy nhất còn lại chiếc đầu người lái đò treo trên cọc để thị chúng. Kinh Kha trộm mang về và mang theo bên mình, quí hơn tất cả báu vật trên đời.
Sau khi đế chế nhà Tần sụp đổ, Kinh Kha từ quan lui về sống ẩn dật ở một sơn thôn nghèo. Bất chợt, chiều qua Kinh Kha nghe trong gió chiều đưa lại tiếng sáo của ai buồn da diết. Ôi, có phải tiếng sáo thần của người bạn thiết Cao Tiệm Ly đang bay theo gió, mong tìm đến với tiếng đàn huyễn hoặc của người kỳ nữ. Nước mắt già nua ứa ra. Kinh Kha thầm nhủ: “Chỉ có máu từ tim người mới có thể hóa giải những ân oán này!”.
* * *
Mãi sau này, có những người tiều phu thuộc thế hệ thứ ba đặt bước chân lên đỉnh núi. Lúc ngồi nghỉ chân bên tảng đá, họ mới phát hiện. Từ giữa tảng đá giống như một ngôi mộ có những đóa hồng nở tươi thắm. Nhưng ít ai biết rằng: những đóa hồng rực rỡ như màu lửa kia, kết tinh từ máu đào của tráng sĩ Kinh Kha như muốn mang lại tình yêu thương đến với mọi người.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:17:11
Hàng xóm
AN QUYÊN
 


Ở tuổi năm mươi sáu, làm bà của hai đứa cháu ngoại và một đứa cháu nội, bà đã về hưu được một năm rồi. Trong hơn ba mươi năm theo đuổi sự nghiệp trồng người, bà là cô giáo của nhiều thế hệ học sinh lớp 3... Học trò cũ, phụ huynh từng có con em được bà dạy dỗ, gặp lại bà luôn tỏ ra vui mừng và kính mến, chào hỏi trân trọng và gọi bà bằng cô. Những người hàng xóm trong khu phố cũng đã quen gọi tiếng cô thân thương mỗi khi gặp bà. Điều đó khiến cho bà thấy vui, giúp cho tâm trạng buồn nản có từ ngày hưu trí của bà, vơi đi phần nào mặc cảm mình đang độ tuổi xế chiều.
Bà vẫn cảm thấy mình còn sức lực, tâm huyết để bắt tay vào việc gì đó giúp đỡ, ích lợi cho người khác. Chồng bà là người hoan nghênh bà nghỉ hưu, vì lo cho sức khỏe của vợ. Ông muốn bà được thảnh thơi, ngơi nghỉ. Vườn cây cảnh nho nhỏ ở mảnh sân vuông vắn trước nhà, ông nhường cho bà chăm sóc, vui thú với thiên nhiên thu nhỏ. Bà còn có thú vui khác là trổ tài nấu ăn, điều mà trước đây bà không có thì giờ để thực hiện. Mỗi chủ nhật hàng tuần, bà nhắn gọi con trai con gái đưa con dâu con rể và cháu nội cháu ngoại đến sum họp, để cùng thưởng thức món ăn ngon bà nấu. Hạnh phúc chừng như chỉ cần những điều đơn giản như vậy. Nhưng vẫn còn thì giờ cho cuộc sống an nhàn của bà và bà muốn dành thì giờ đó cho cộng đồng, cho xã hội... Bà nhận dạy một lớp học tình thương mỗi tuần ba buổi tối cho các cháu trong phường có hoàn cảnh đặc biệt, không có điều kiện học hành ở trường. Cuộc sống hưu trí êm đềm, thanh thản trôi qua từng ngày, từng ngày...
Bây giờ bà mới có thì giờ để mắt tới những thay đổi của người của cảnh trong khu phố thân thuộc, nơi bà sinh sống mười năm nay từ khi chuyển đổi chỗ ở. Hồi đó, gia đình bà mua ngôi nhà chỉ mất hai cây vàng. Dù rằng nằm trong hẻm cụt nhưng được cái yên tĩnh, thích hợp với nếp sinh hoạt mô phạm của gia đình bà. Trước đây, sống ở khu tập thể, gia đình bà cũng bị cuốn theo cái nhịp xô bồ, chung đụng, ồn ào của một nơi đông đúc, người ta chen vai nhau mà sống. Muốn giữ được hòa khí, vợ chồng con cái nhà bà đã phải nhín nhường lời ăn tiếng nói để tránh tranh cãi, nhiều khi đành phải đóng hết cửa nẻo để cách ly với những chuyện chướng tai gai mắt bên ngoài... Mười năm nay thì khác. Cái xóm trong con hẻm cụt này thật yên bình, dân tình thân mật. Đi vào hẻm, bên phải là một dãy gồm năm căn nhà, nhà nào cũng có mảnh sân nhỏ phía trước; bên trái là bức tường dài, xám xịt màu xi măng của căn nhà lầu mặt tiền ở ngoài xóm. Dọc theo bức tường này, có mấy ô cửa sổ lá sách trổ ra để lấy ánh sáng. Mặt lưng của căn nhà này giáp với mảnh sân của nhà cuối hẻm. Cánh cổng nhà cuối hẻm là điểm chấm dứt của chiều dài con hẻm, bước vào trong cánh cổng sơn màu xanh dương ấy sẽ thấy nơi ăn chốn ở của hai vợ chồng bà. Con hẻm chỉ rộng hai mét nhưng lúc nào cũng sạch sẽ, thoáng đãng. Không có nước thải dơ bẩn, không có rác rến bừa bãi. Mới năm ngoái đây, sáu hộ gia đình đã thỏa thuận với nhau đóng góp tiền tráng xi măng nên con hẻm có được bộ cánh lịch sự mát mắt. Ngày ngày, mọi người đi ra đi vào gặp mặt nhau, trao đổi nhau câu chào câu hỏi thân thiện.
Vào một ngày trong mùa cưới, sáu cặp vợ chồng chủ nhân của những căn nhà trong hẻm cùng được mời dự bữa tiệc cưới của con trai ông bà Lâm Đường. Lâm Đường cũng là tên gọi của tiệm tạp hóa ngoài xóm, là căn nhà có bức tường xám xịt phía trái con hẻm. Hàng xóm láng giềng có dịp gặp mặt chung vui với nhau khá là hòa đồng, vui vẻ. Lâu nay, những người trong hẻm vốn là bạn hàng của tiệm tạp hóa, tiệc cưới này là dịp để nhà Lâm Đường củng cố mối quan hệ với khách hàng gần gũi lâu năm. Mọi người nâng ly chúc mừng nhà Lâm Đường đón dâu mới. Cô dâu xinh xắn lắm, da thịt mơn mởn tuổi hăm hai. Nghe rằng cô là con nhà đại lý bia - nước ngọt, nên cũng lanh lợi mua bán. Cô nàng này rồi đây sẽ trở thành người quen.
Chỉ ít ngày sau đã có chuyện xảy ra. Rác. Người phát hiện ra là cô giáo về hưu. Buổi sáng, người lớn trẻ con đi làm đi học cả rồi, con hẻm im vắng lắm, bà bước ra cổng định bụng đi mua quà ăn sáng. Cái gì kia!? Rác ư? Bà nhíu mày khi nhìn thấy mấy mẩu khăn giấy, mấy que tăm bông rơi vãi trên mặt đất phía dưới chân tường nhà Lâm Đường và chỉ cách cổng nhà bà hai mét. Ngước nhìn lên vách tường thì đúng là nơi có một ô cửa sổ lá sách, bà dễ đoán ra rằng thứ rác kia từ đâu thải ra. Hồi nào giờ đâu có vậy! Nhà Lâm Đường vẫn biết bên ngoài bức tường của nhà mình là đường đi lối lại, là mặt tiền của những nhà trong hẻm, và luôn tôn trọng nếp vệ sinh mà người khác giữ gìn. Những ô cửa sổ đã được thiết kế cao hơn tầm nhìn, cũng là một ý đồ tế nhị của nhà Lâm Đường. Nỗi bực bội xộc đến với bà. Quay vào nhà, bà lấy cây chổi và cái hốt rác đi ra xử lý mớ rác vô tội vạ. Con hẻm lại sạch bong. Nỗi bực bội của bà tan đi. Và bà cũng không nói chuyện này với ai.
Nhưng, sáng hôm sau chuyện lại tái diễn. Đúng ở vị trí cũ, lại thấy mấy mẩu khăn giấy và mấy que tăm bông. Những thứ sản phẩm phục vụ vệ sinh và lịch sự cho con người đã trở nên mất vệ sinh và bất lịch sự! Và, cũng chính bà là người phát hiện chứ không phải ai khác vì sáng nay bà ra khỏi nhà thật sớm để kịp đi đưa tang một người bạn vào lúc sáu giờ. Đang vội đi nên bà để yên cái mớ chướng mắt nằm đó. Bà cảm thấy bực mình như bị trêu ngươi. Đi đưa tang về, bà không thấy mớ rác ấy nữa. Hơi ngạc nhiên nhưng bà cũng nhẹ nhõm trong lòng. Ai đã quét dọn nhỉ? Chợt, có tiếng gọi bà từ phía trong bờ rào dâm bụt của căn nhà thứ năm, bà cụ Lũy vừa vẫy tay vừa nói thẻ thọt:
- Cô ơi, tôi nói cái này này...
Bà đến sát bờ rào, bà cụ Lũy vẫn thẻ thọt:
- Lúc sáng, tôi thấy có đống rác ở chỗ kia kìa, tôi đã dọn đi rồi... Có lẽ, ai đó bên nhà ấy vất ra đấy!
Ngón tay bà cụ Lũy chỉ về phía nhà Lâm Đường. Cô giáo về hưu thầm nghĩ: đã có người thứ hai biết chuyện, không khéo bé xé ra to. Bà cụ Lũy là người rỗi việc, ưa tán chuyện nhà người khác. Nghĩ vậy, nên bà làm ra vẻ thờ ơ, nói:
- Vậy hả, bà...
Rồi, quay người đi vào cổng.
... Lại một sáng sớm, vừa bước ra cổng, bà phải chạm mặt với nỗi bực mình. Thứ rác lì lợm ấy lại xuất hiện. Bên trong ô cửa sổ ấy còn nghe thấy tiếng ai sụt sịt mũi. Bà quay vào nhà lấy chổi và cái hốt rác... Bà nghĩ cách trị cái thói xả rác trơ trẽn của ai đó bên nhà Lâm Đường, mà bà đoán là thành viên mới của gia đình ấy, chứ bao lâu nay đâu có “tệ nạn” này. Nếu quả đúng là cô ấy thì cũng cần cho cô ta biết cái lẽ “đất lề quê thói”, nhưng phải bằng cách nào cho khéo, phải tế nhị để không ai bị bẽ mặt. Chuyện tuy nhỏ nhưng là một kiểu thói hư tật xấu, không thể dung túng, mãi sẽ lờn. Nghĩ ngợi một lúc, bà cũng tìm ra cách. Và, bà đã thực hiện vào lúc đèn đóm nhà nào cũng tắt hết, mọi người đang chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau, cô giáo về hưu nhè nhẹ từng bước đi ra cổng, lòng có gì như là hồi hộp. Không có một mẩu khăn giấy, một que tăm bông nào. Bà thở phào một cái vì vui, vì nhẹ nhõm trong lòng... Ngày hôm sau, hôm sau và nhiều ngày hôm sau đó, vẫn vắng bóng thứ rác ấy. Con hẻm sạch bong. Rất hài lòng với thành công của mình, bà đem chuyện kể với chồng. Bà kể rằng đã viết một thư ngỏ, đút vào cái cửa sổ lá sách ấy. Chồng bà hỏi: “Mình đã viết gì?”. Bà cười: “Em chẳng viết gì nhiều, chỉ là hai dòng chữ mực đỏ: Đừng xả rác qua bên này nữa! Đừng để phải nói ra mà mất lòng hàng xóm”... Chồng bà tủm tỉm: “Mình đúng là một nhà giáo”.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
 

"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:25:49
Lá trung quân
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
 
 
Hơn ba mươi năm chị mới có dịp trở lại căn cứ cũ. Nãy giờ đi cùng các bạn văn nghệ để thâm nhập thực tế sáng tác mà lòng chị cứ bồi hồi. Chị cố căng mắt để tìm lại những hình ảnh cũ, những dấu tích xưa của chiến khu, của Cục “R”, cơ quan đầu não cách mạng miền Nam trong chống Mỹ, cũng là nơi chị sống qua một thời tuổi trẻ khốc liệt mà đẹp đẽ của mình. Nhưng, dường như tất cả đều thay đổi. Từ con đường bon bon chạy vào rừng, từ những trảng rừng trống trải xe lướt ngang qua... đến mọi cảnh sắc chung quanh, chị vẫn chưa nhận ra vóc dáng, tiếng nói của rừng.
Có ai đó trong xe chợt la lên:
- Đường mòn! Đường mòn đi vào rừng kìa!
Vừa lúc chị cũng phát hiện ra những con đường nhỏ ấy hai bên con lộ xe. Đây rồi! Rừng của mình đây mà! Hình như rừng cũng đã nhận ra đứa con yêu của mình, rừng đang mở ra từng con đường mòn sau những tàn lá rậm rạp để đón chị trở về...
***
Mười ba tuổi, chị đã thoát ly gia đình theo cách mạng. Cái cơ duyên ấy chỉ từ một giọng hát.
- Con có chất giọng được lắm, có muốn theo bác không?
Và cái con bé nghèo khổ, thất học, da mốc cời của vùng đất Mỹ Tho ấy hí hửng cuốn đồ trốn nhà qua sông theo ông bác mà lúc đó nó cũng chưa biết tên, chỉ tin vào lời ông nói:
- Mình phải lên đường gấp. Rồi bác sẽ nói chuyện với ba con. Cũng người cách mạng cả mà!
Rồi cô bé vừa đi bộ theo bác, vừa được bác cõng trên lưng khi cô đã buồn ngủ nhíu cả mắt lại. Chừng thức dậy đã thấy mình nằm giữa một đám con nít trạc tuổi, chị chủ nhà đang lúi húi nấu cháo trắng ở góc nhà. Thế là bắt đầu cuộc sống tự lập.
Sau này, chị vẫn thấy mình may mắn. Nếu không có chất giọng “trời cho” làm sao chị được vào khu, được học hành, ca hát để thành nghệ sĩ như bây giờ. Và để mười sáu, mười bảy tuổi, chị đã được về đây, đã là thành viên Đoàn văn công Quân giải phóng.
Bước vào nhà truyền thống của Cục, đập vào mắt mọi người là tấm hình treo trên cao, ngay gian giữa. Chị bước lại gần, rưng rưng xúc động: Trời! Mình đó sao? Trong khuôn hình chính là chị, đứng hàng sau cùng các bạn trong đoàn văn công với đủ bộ kèn trống. Tấm hình như chứng tích của một thời. Ừ, khi chụp hình này mình bao nhiêu tuổi vậy kìa? Mười bảy hay mười tám?
Các bạn đồng hành xúm lại trầm trồ:
- Hình bấy nhiêu năm mà còn rõ quá! Nước thuốc tốt thiệt!
Còn chị, chị chăm chắm nhìn vào khuôn hình, tìm kiếm và đã thấy rồi. Anh vẫn ngồi đó, cây sáo đưa lên miệng, trẻ trung, mãi mãi tuổi hai mươi. Anh đó, mối tình đầu của chị, tuổi thanh xuân nồng nàn e ấp của chị, màu xanh bạt ngàn của rừng trong lòng chị... Tất cả, tất cả như ùa về, như chưa hề bị lãng quên...
***
Hai người ngồi đối diện bên chiếc bàn vuông bằng cây tạp, ngọn đèn dầu nhỏ để ở giữa, xa một chút trong góc nhà có lúc là một cô bạn cùng đơn vị, lúc là một chị lớn tuổi hơn làm cấp dưỡng trong cứ. Thỉnh thoảng hai đứa mới được gặp riêng như thế này sau khi báo cáo đơn vị về tình cảm của mình. Luật trong cứ rất nghiêm, dù vẫn tập dượt, học hành, hát hò chung nhưng chuyện trai gái gặp gỡ riêng thì tuyệt đối không. Có vậy mới giữ được sự trong sáng, an toàn cho đồng đội và giữ tiếng cho cách mạng.
Vậy mà mỗi lần gặp là mỗi lần ngượng nghịu, bối rối làm sao. Anh nhìn chị, ấp úng:
- Nói gì thì nói đi!
Còn chị, cúi đầu, se se miết vạt áo bà ba:
- Biết gì mà nói. Anh nói trước đi!
Chỉ tội cho người ngồi canh, ngáp vắn, ngáp dài, trong bụng chắc cũng rủa thầm bọn trẻ bày đặt yêu đương. Có khi đang ngập ngừng ngắc ngứ vậy thì bom dội xuống đùng đùng, mạnh ai nấy nhảy xuống hầm, chừng hết bom lại nối tiếp câu chuyện không đầu không đũa mà vui sướng lâng lâng.
Chị lén lau một giọt nước mắt vừa ứa ra để nó khỏi chảy dài xuống má. Ngày anh hy sinh tại cứ này chị khóc đã nhiều vậy mà nhớ lại vẫn không cầm lòng được. Mười chín tuổi, mối tình son trẻ ấy làm sao quên, dù sau cuộc chiến chị đã có gia đình, con cháu đề huề, chồng chị cũng là một trong những đồng đội năm xưa.
Theo chân cậu hướng dẫn viên trẻ măng luồn sâu vào cứ, những giao thông hào quanh co hiện ra như người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Mọi thứ tuy có sửa sang, có phục chế nhưng vẫn giữ nét xưa từ mỗi căn nhà của từng vị bí thư Trung ương Cục cho đến chiếc bàn, chiếc ghế, chiếc giường ngủ trong nhà. Những căn nhà vẫn lợp một thứ lá trung quân trên mái như ngày nào. Ừ, lá trung quân! Chẳng biết ai đặt tên cho nó mà khi về đây chị đã quen tên. Trong hồi ức chị lại hiện ra hình ảnh mình và đám bạn, những thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi hồn nhiên, tinh nghịch, tay hái lia lịa từng nắm lá rồi túm lại từng túm, giắt đầy vào sợi dây lác quấn ngang lưng để đem về chằm lại lợp nhà. Những chiếc lá suông dài, chi chít trên cây, nhiều không đếm xuể trong rừng già đã che mưa che nắng cho bao người trong chiến khu này. Loại lá lợp nhà này có chỗ rất hay là nếu bị bom lửa, lá chỉ ngún từ từ chứ không cháy bùng lên như lá dừa nước hay các loại lá khác ở đồng bằng quê chị. Trong lòng chị, trong lòng tất cả những ai từng sống ở chiến khu này thì mãi mãi đó vẫn là lá trung quân! Cái tên đẹp đẽ như tấm lòng trung với nước, với dân, với bạn bè đồng đội trong quân ngũ của “một thời khó quên”.
Chị cứ đi, cứ đi theo cậu hướng dẫn viên đang nhiệt tình thuyết minh về từng nơi bước qua. Qua cây vú sữa trước nhà đồng chí Phạm Hùng, qua cái hố bom nuôi cá của đồng chí Nguyễn Văn Linh, qua căn nhà có cái ban công nhô ra hơi đặc biệt của đồng chí Võ Văn Kiệt... và cặp theo con đường xi măng trơn láng hôm nay vẫn còn đó những giao thông hào với những ngách hầm, những ụ đất khoét sâu cho chiến sĩ ta vừa là hầm tránh bom vừa là ụ chiến đấu. Dù vậy, chị vẫn không thể nhận ra ở khúc đường nào sâu trong lòng đất này cô bạn thân nhất của mình đã hy sinh. Loạt bom nổ khi Hạnh chưa kịp nhảy xuống đã hất nó xuống giao thông hào, ngực đầy máu. Trong vòng tay chị nhỏ bạn chỉ kịp thì thào: “Mày ở lại, chiến đấu tốt nhé! Nhớ an ủi anh Văn giùm tao”.
Bây giờ đứng trên đường nhìn xuống từng đoạn giao thông hào, chị như sống lại nỗi đau xé lòng ngày đó, như thấy những giọt máu của bạn mình đang nhỏ xuống đỏ cả một vệt đất. Năm ấy Hạnh cũng mới mười chín tuổi!
Có lẽ vì lời nhắn gởi thiêng liêng đó mà chị đã đến với Văn, người yêu của Hạnh. Từng đau nỗi đau mất mát người yêu, hai người rất dễ cảm thông cho nhau bởi họ có bạn chung, kỷ niệm chung và cả một thời tuổi trẻ đầy lý tưởng sáng trong, nhiệt thành. Sau này sống cùng Văn những ngày hòa bình, rồi có con, có cháu, chị biết tình yêu mình vẫn dành cho người nằm xuống đất rừng này. Giữa họ, sợi dây cột chặt của tình đồng chí đồng đội còn chắc hơn, bền vững hơn tình nghĩa vợ chồng.
Cuối cùng rồi anh cũng đã rời bỏ chị và con. Cái mảnh đạn trong đầu đã thôi hành hạ anh những lúc trái gió trở trời. Chị đón nhận sự mất mát lần này có bình thản hơn, êm ả hơn chứ không bất ngờ thảng thốt như thời thiếu nữ. Có điều sự trống vắng, hụt hẫng không vì vậy mà nhẹ bớt. Tự nãy giờ, hình như chị không chỉ trở lại cứ cũ một mình. Hình như có chồng chị, có cô bạn, có người yêu năm xưa cùng ngắm nhìn mọi thứ cùng chị. Cảm giác vừa bâng khuâng, ngậm ngùi lại vừa ấm áp cả lòng.
Ra khỏi bìa rừng, đột nhiên nghe râm ran tiếng ve. Có lẽ nắng ấm đã hong khô những cặp cánh mỏng ướt sương của chúng. Lâu lắm rồi chị mới nghe inh ỏi tiếng ve như vậy. Âm thanh cứ rền khắp, vang vang như muốn níu chân người ở lại với rừng già, với cứ cũ, với những cây cổ thụ hàng chục người ôm không hết...
Đến trạm kiểm soát bên ngoài, cậu hướng dẫn viên theo tiễn đoàn chợt chỉ lên mái nhà, tươi cười:
- Các cô chú có thấy mái lợp ở đây không? Lá trung quân nhân tạo đó. Giống như thật vậy phải không? Nghe nói sắp tới sẽ nhân ra ở các mái lá trung quân phía trong cứ để tiện việc bảo quản.
Chị cảm nhận một sự lặng lẽ trùm lên cả đoàn. Rất lâu, rất lâu, một chú cựu chiến binh luống tuổi, mặt đầy vết nhăn thốt ra một câu:
- Sao vậy hả cháu? Cái gì cũng có thể giả nhưng lá trung quân thì không cần giả cháu à!
Ngồi trên xe, ngang qua tấm bia lớn dựng đầu ngõ vào “Di tích Lịch sử Văn hóa, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam”, câu nói của người cựu chiến binh già cứ vang mãi trong đầu chị. Ừ, trung quân làm sao mà giả được! Rồi chị lại bồi hồi. Trong số bạn bè mình năm ấy, ai còn, ai mất? Còn ai về thăm cứ cũ và giữ mãi trong lòng mình hình ảnh lá trung quân?
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:34:45
Cổ tích giang hồ
TRẦN MINH THUẬN
 
Lớp mà tôi giảng dạy là lớp đại học tại chức, học viên đa số là những người đang làm việc trong các cơ quan nhà nước. Trong suốt tiết học đầu tiên, tôi cảm thấy có chuyện gì đó không ổn: Cô học viên ngồi ở phía trong cùng bàn cuối cứ nhìn tôi chăm chăm có khuôn mặt quen quen. Tôi lục lọi quá khứ. Thời sinh viên nghèo khó, học bù đầu bù cổ đến tốt nghiệp mà chẳng có nổi một người yêu. Sau khi ra trường, tôi lao vào cuộc mưu sinh đầy gian khổ, rồi lấy vợ bốn năm sau - người yêu đầu tiên. Chắc chắn cô học viên này không thể có mối quan hệ tình cảm với tôi rồi.
Giờ giải lao, tôi xuống căng-tin trường kêu ly cà phê đen. Hút chưa hết điếu thuốc đã thấy cô học viên hồi nãy thụt thò ở cửa hình như kiếm tôi. Đúng rồi, cô tiến lại gần, nói nhỏ:
- Thầy! cho em ngồi với được không! Thầy không nhận ra em cũng phải, hơn chục năm rồi mừ!
Tôi vắt óc, thấy cô gái này đúng là quen, từ giọng nói đến khuôn mặt. Nhưng tôi vẫn chưa nhớ chính xác nên e dè:
- Xin lỗi, tôi không nhớ được! Cô nói rõ hơn một chút được không?
Cô gái cười, giọng buồn buồn:
- Em cho thầy xem cái này chắc chắn thầy nhớ liền! Mười năm nay ngoài chồng em ra, em không dám cho ai xem hết.
Cô gái vén tay áo bên phải lên và tôi giật nảy người. Hình xăm một con ngựa nhe răng, hai chân trước chồm lên dữ tợn, bên dưới có hai chữ “Ngựa Hoang”. Huê! Đúng Huê thật rồi. Tay tôi run lên vì mừng rỡ:
- Huê! Trời đất! Em học đại học rồi, hồi đó tôi cứ tưởng em nói chơi!
Huê cười muốn rơi nước mắt:
- Thầy! Bây giờ thầy là thầy em rồi, còn hơn ước mơ hồi đó của em. Em mừng quá, không ngờ nói chơi bậy bạ mà thành sự thật.
Huê bật khóc ngon lành, bàn bên kia có mấy học viên đang xầm xì rồi cười nho nhỏ. Chắc họ tưởng Huê là người yêu cũ của tôi.
Tan học, Huê đứng chờ tôi ngay cổng:
- Thầy dìa nhà em cho biết. Tụi em mời thầy ăn cơm, em đã kêu ổng chuẩn bị mồi màng hết rồi, thầy tới là nhậu liền. Hông phải ai lạ đâu thầy, chồng em là một người thầy từng biết. Cái ông đã từng kiếm chuyện rồi đánh lộn với thầy đó. Thầy nhớ hôn?
- Nhớ rồi. Vũ phải không? Chuyện sao mà lạ lùng như phim Hàn Quốc vậy. Tôi cũng đang muốn uống vài ly đây, hào hứng quá!
Căn nhà nhỏ của Huê trong một con hẻm nhỏ ở gần đấy. Chúng tôi thả bộ khoảng mười phút thì thấy Vũ đứng đón ngay đầu hẻm. Thấy chúng tôi, Vũ la rùm lên:
- Anh Long! Trái đất này nhỏ thiệt, ta lại gặp nhau, nhưng bi giờ khác rồi, giang hồ rẽ lối, em là công dân nghiêm túc!
Huê nhắc chận ngay cơn hứng khởi của chồng:
- Vô nhà đi! Đứng đó nói hoài. Vô nhà, tới tối, muốn nói gì thì nói.
Tôi và Vũ cưa gần đứt một lít “nước mắt quê hương” rồi mà câu chuyện dường như chưa dứt.
Tôi đang học năm cuối đại học, phải dọn chỗ ở, đến nơi xa hơn, yên tĩnh hơn để tập trung học, nhất là đỡ một ít nào tiền nhà. Nhà trọ mới có hơn chục phòng toàn nam. Đối diện, cách một hàng rào xi măng bên trên rào lưới B40, cũng là một dãy nhà trọ, nhưng là nhà trọ “không bình thường”. Bên đó, tiếng chửi thề, nói tục dường như không ngớt, trai gái gì cũng như nhau. Tâm, thằng bạn mới cùng phòng nói:
- Mấy “con gà” đó mà, đêm nào dìa cũng xỉn, chửi đã rồi ói, nghe ớn thấy bà. Em định dọn đi nè.
Tôi than thầm, đầu óc bị nhiễu sóng như vầy học sao nổi, chắc năm nay khó tốt nghiệp. Nhưng đã đóng tiền nhà trước ba tháng, khó quá! Cuối cùng tôi nghĩ ra một cách, khi nào bên đó ồn quá thì nhét bông gòn vô hai lỗ tai. Kệ, ráng chịu cực vài tháng nữa là ra trường rồi. Nghe thằng Tâm kể lại, ở nhà trọ này có nhiều thằng sinh viên bị cái đám “gà móng đỏ” dụ dỗ đến nước phải bỏ học, đi bụi, rồi thành bảo kê nhà hàng. Còn nhiều chuyện lắm!
Tôi thực hiện chủ trương, hễ nghe bên đó ồn ào, ngay lập tức tôi nhét bông gòn vô tai liền. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể thực hiện tốt, một lần tôi mới đi học về chưa kịp vô nhà thì thấy một cái đầu vàng khè ló lên từ hàng rào nhà trọ bên kia:
- Ê! Thằng nhỏ, mới tới ở sao không ra mắt chị, lại đây chị dạy cho vài chiêu.
Tôi thấy một gương mặt chỉ bằng con em út nhà mình, ít ra cũng nhỏ hơn mình cỡ sáu, bảy tuổi mà kêu mình bằng “thằng nhỏ”. Tôi im lặng vào phòng, đóng sầm cửa lại, nhét tai hai cục bông gòn. Tôi không còn nghe gì nữa đến lúc thằng Tâm khều khều vai tôi. Tôi lấy hai cục bông gòn ra, ngước mắt hỏi:
- Gì?
- Anh làm gì mà con nhỏ bên đó chửi quá trời vậy, coi anh nghiêm vậy mà cũng ghẹo tụi nó!
Tôi quạu:
- Thề có trời, tao không ghẹo tiếng nào, ờ có lẽ vậy mà nó nóng.
Bên đó lại có tiếng chửi thề, rồi tiếng cô gái hồi nãy vang lên:
- Ông hông ra nói chuyện với tui, tui chọi đá lên nóc nhà cho khỏi ngủ luôn. Bộ tui kinh dị lắm hả, ra hôn?
Sau đó là tiếng “ầm, ầm” trên mái tôn. Thằng Tâm nói nhỏ:
- Anh ra đại coi nó nói gì. Anh không ra nó chọi đá hoài ngủ sao được, đụng tụi này mình chỉ lỗ thôi.
Tôi bước ra ngoài. Tinh thần người lính trong tôi trỗi dậy, tôi nhìn thẳng vào mặt con bé, lạnh lùng hỏi:
- Tôi ra nè, cô muốn gì?
Nhìn vẻ bề ngoài đen đúa, rắn rỏi và bộ mặt ngầu ngầu của tôi, cô nhỏ hơi chột dạ:
- Tôi chỉ muốn nói chuyện với ông thôi, sao làm phách vậy? Tôi cũng từng học hành chớ hổng phải con dốt đâu nghen. Bộ sinh viên ngon lắm à, ra trường ông làm lương một tháng không bằng tôi “nằm ngửa” một đêm.
Tôi cảm giác hai lỗ tai mình nóng dần lên, nóng đến mức không còn chịu đựng được nữa. Tôi nhìn vào gương mặt non nớt, trong sáng và đẹp như thiên thần trong chuyện cổ tích đó mà rùng mình. Gương mặt đó làm sao mà chửi thề được, gương mặt đó làm sao nói những câu tục tĩu đến mức không thể tục tĩu hơn như vậy chớ! Không kiềm chế được chắc tôi đã tát mạnh cô ta một cái. Muốn kết thúc cuộc nói chuyện vô bổ này nên tôi quay lưng:
- Tôi không quen nói chuyện kiểu như vậy, cô vô ngủ đi. Cô nên để yên cho những người khác!
Cô nhỏ nghinh mặt:
- OK, tôi không làm phiền họ với điều kiện anh phải nói chuyện với tôi thêm một tiếng đồng hồ nữa, bây giờ tui có vô cũng không ngủ được, chán quá!
Cái vẻ bất cần đời dường như mất đi đôi chút, tôi không nghe cô chửi thề nữa và tự dưng tôi thấy tội nghiệp. Với tuổi này, đúng ra cô đang phải ngồi học trong một lớp nào đó, sao lại bỏ phí cuộc đời như vậy chớ?
- Anh tên gì, giang hồ gọi tôi là Ngựa Hoang, tên má tui đặt là Huê, anh thích tên nào thì cứ kêu.
Tất nhiên tôi thích cái tên quê mùa chân chất hơn.
- Cuộc đời ai cũng có lúc buồn, lúc vui. Không lẽ chỉ mình cô buồn, cái quan trọng là phải cố gắng vượt qua những nỗi đau để sống tốt hơn, tôi nghĩ cô làm được mà. Khi tinh thần yên ổn rồi thì cô thấy mình tồn tại trên đời này có ý nghĩa hơn.
Không hiểu sao tôi lại tuôn ra một hơi bài học của môn tâm lý học. Tôi nghĩ mình nói vậy cũng vô ích mà thôi, làm sao một cô gái giang hồ lại “thấm” được những câu nói “kinh điển” của tôi chớ. Cô nhỏ làm thinh ra chiều suy nghĩ một lúc lâu:
- Nhưng tui buồn hơn ông, ba tui, má tui biểu tui học bác sĩ. Tui tốt nghiệp tú tài là may phước lắm rồi, họ còn đòi gì nữa. Tui không làm bác sĩ được mà còn bị cả thiên hạ này “chích”, má nó cuộc đời!
Tôi chưa biết nói gì thì bên kia có tiếng đàn ông chửi thề rồi một giọng nói nhừa nhựa vang lên:
- Có khách kìa, vô giùm tui cái coi, mầy tào lao hoài chắc đói cả đám. Thằng nào vậy, muốn nói chuyện kêu nó nói với tao nè. Nó muốn “dù” với mầy thì đưa tiền đây, hai “lon” không thiếu một cắc.
Tôi lại nổi nóng:
- Tui có muốn nói chuyện với cổ đâu, anh kêu cổ vô giùm một cái, tui còn công việc của tui chớ đâu có rảnh.
Tôi quay lưng vào, nhưng mới đi được mấy bước thì nghe một tiếng bịch, hắn nhảy qua hàng rào:
- Đứng lại mầy, tao phải cho mày biết luật rừng là thế nào.
Hắn lao về phía tôi, vung nắm tay đấm thẳng vào mặt tôi. Tôi lùi một bước, phản công bằng một đòn số bốn của Taewondo vào ngực hắn. Sau tiếng “hự”, hắn lảo đảo lui về phía hàng rào. Lần này hắn không leo mà tắt xuống cái mương cuối hàng rào về bển. Tôi nghe hắn nói rất to:
- Mầy có ngon thì ra quán cà phê đầu hẻm. Mầy không ra đó thì dọn nhà đi, tao thề không để yên cho mầy.
Đến nước nầy, tôi thấy mình không còn cách nào khác. Chuyện không đâu vào đâu làm cả nhà trọ nhốn nháo. Mấy đứa chung nhà trọ đứa nào cũng muốn theo tôi ra quán cà phê để phòng khi bất trắc. Tôi trấn an họ:
- Cứ để anh ra một mình, mấy đứa ở nhà học bài đi, không có chuyện gì đâu.
Tôi thay bộ đồ, đi ra đầu hẻm, trong bụng cũng lo lắm, lỡ có bề gì chắc má ở dưới quê khổ, má bệnh tim mà. Tôi suy nghĩ tìm cách cho cuộc gặp gỡ này giải quyết êm đẹp. Khi vào quán, tôi thấy cô nhỏ - chắc bỏ “khách” - có vẻ lo lắng, còn hắn thì đằng đằng sát khí. Bên hông áo, nơi lưng quần hắn lú ra một cái cán dao hay mã tấu gì đó. Tôi kéo ghế ngồi, có lẽ cú phản đòn hồi nãy đã làm cho hắn dè dặt hơn. Tôi bắt đầu:
- Tui nghĩ chúng ta nên nói chuyện một cách đàng hoàng, chuyện gì sau đó tính. Anh đồng ý không?
Hắn nhếch mép:
- Mầy muốn gì nói tao nghe thử, tối nay giải quyết cho xong hết, không xong mầy đừng hòng trở vô.
Tôi bắt đầu câu chuyện bằng những lời khuyên. Tôi khuyên họ đủ điều, từ hiện tại đến tương lai, nhất là từ những người thân. Chẳng biết tôi có khiếu thuyết khách hay không mà càng nói càng thấy hắn lặng yên nghe và có vẻ suy nghĩ nhiều lắm, lâu lâu hắn lại chen vô:
- Tao biết, tao biết...
Còn cô nhỏ thì hai mắt bắt đầu hơi đo đỏ khi nghe tôi nói về gia đình. Không lẽ cô nhớ má? Có thể lắm chớ. Gạt bỏ những gai góc bên ngoài, ai cũng còn một vùng ký ức đầy yêu thương. Và bây giờ có lẽ cô đang sống trong vùng ký ức đó. Càng nói tôi càng có cảm giác như đang nói chuyện với những người bạn chứ không còn một khoảng cách thù hận nào. Chúng tôi nói chuyện một cách cởi mở hơn. Tôi biết được cả hai đều giận gia đình la rầy khi thi đại học rớt nên bỏ nhà đi hoang, sau đó lâm vào hoàn cảnh như hiện tại. Cả hai nương tựa vào nhau, bấp bênh với đầy rẫy những đau khổ cuộc đời. Tôi cũng nói hết những thăng trầm, khó nhọc của cuộc đời mình. Tôi thi đậu đại học mà không được đi học, má nghèo quá lại còn mấy đứa em. Tạm gác giấc mộng đại học lại, tôi đi vào quân đội với hy vọng quân trường sẽ làm cho con người mình có thêm nghị lực và sức chịu đựng. Sau khi xuất ngũ tôi thi lại vào đại học, rồi vừa làm vừa học vất vả gần bốn năm, bây giờ tôi sắp tốt nghiệp. Khi nghe tôi học sư phạm, cô nhỏ nói:
- Phải chi tui được học đại học, phải chi anh là thầy tui, tui học môn văn được lắm à nghen!
Tôi cười:
- Nếu hai người quyết tâm thì không chuyện gì không được. Tôi mất gần năm năm mới vào được đại học còn hai người chỉ mới mất một hai năm thôi mà, có gì đâu.
Mấy tháng sau đó, tôi linh cảm bên cái hàng rào B40 cao ngất kia có một sự thay đổi đang diễn ra. Hằng ngày, tôi không thấy Huê ở nhà mà đi đâu đó. Vũ cũng vậy, xách chiếc 67 đi từ sáng tới tối. Mỗi khi ăn cơm tối, tôi nghe họ nói cười. Tiếng Vũ, tiếng Huê hào hứng khoe số tiền kiếm được. Tôi vỡ lẽ, Vũ chạy xe ôm, còn Huê đi làm thuê gì đó.
Tôi thi tốt nghiệp xong, sắp về quê xin đi dạy nên có ý định mời “vợ chồng” Vũ một bữa cơm để chia tay. Tối đó, Huê giản dị trong bộ áo màu xanh nhẹ, tóc đen trở lại. Vũ với gương mặt hiền lành, lấp lánh niềm vui. Sau vài ly rượu, Vũ bộc bạch:
- Tụi em thiệt tình cám ơn anh nhiều lắm. Nửa năm nay tụi em thử sống theo ý anh khá yên ổn, dù hơi thiếu thốn. Mai anh dìa quê, chắc tụi em cũng dìa quê. Không đâu bằng quê mình, phải không anh.
Tôi về quê được hơn một tháng thì nhà trường kêu tôi trở lên dạy. Tôi ghé lại nhà trọ cũ nhưng không thấy Vũ và Huê đâu, hỏi thì biết họ đã về quê. Vậy mà mới đó đã hơn mười năm. Vũ mặt đỏ gay ôn lại kỷ niệm xưa, Huê ngồi trên võng lâu lâu lấy tay quẹt nước mắt. Vũ nói:
- Huê bây giờ làm ở hội phụ nữ phường, còn em làm bảo vệ ở nhà máy đông lạnh, sống ổn rồi anh, con tụi em học lớp một rồi. Lúc muốn có con tụi em sợ lắm, sau đó cả hai đứa liều mạng đi xét nghiệm, may mà không việc gì. Anh về thành phố hỏi giùm em xem có chỗ nào xóa vết xăm để Huê xóa bỏ quãng đời cũ.
Tôi hạnh phúc lây với cái hạnh phúc đơn sơ của họ, một hạnh phúc mà họ không dễ dàng gì tìm được.Vết xăm trong tâm hồn mình xóa xong rồi thì sá gì vết xăm trên da thịt.
Một tuần lễ ở Sóc Trăng đã trôi qua, tôi đã được đi tham quan hết các ngôi chùa ở thị xã với hai hướng dẫn viên miễn phí nhưng đầy nhiệt tình. Chia tay, Huê khóc nhưng bây giờ những giọt nước mắt chắc đã ngọt ngào hơn. Chiếc xe xa dần, tôi ngoái cổ nhìn lại những ngôi chùa Khmer ẩn hiện xa xa mà thấy lòng mình thật thanh thản, bình yên.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:43:43
Hai con đường
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
Con đường dẫn vào trại tạm giam lốc xốc những ổ gà. Mấy vũng nước mưa đọng lại từ trận mưa hồi đêm đục ngầu màu đất đỏ mà đơn vị thi công vừa rải tạm để nâng cấp con đường “đau khổ” nầy. Chiếc xe ôm chồm lên mỗi lần người lái xe gặp một tình huống phải xử lý: một vài con chó chạy rông, bầy vịt có lẽ của mấy hộ dân quanh đây nuôi để cải thiện bữa ăn gia đình... Nhung ngồi cách người lái xe qua cái giỏ đựng mấy cái khăn, mấy cái quần đùi và vài cái áo thun lót. Giỏ đồ ăn với mấy thứ cần thiết được treo trước xe để cô có thể kềm giữ cái thân mình đừng chạm vào người ngồi trước. Người lái xe ôm là một thanh niên có lẽ chưa qua tuổi ba mươi, vừa cẩn thận nhìn đường vừa gợi chuyện:
- Lần trước, chị cũng đi xe em mà! Bộ tới bây giờ chưa xử sao chị?
- Chưa! Hồ sơ cứ làm đi làm lại hoài? Cả nhóm bốn người không ai khai giống ai nên chưa xử được.
Anh chàng lái xe nhìn vào kiếng chiếu hậu và bắt gặp gương mặt buồn rười rượi của Nhung. Anh có vẻ cảm thông:
- Làm kinh tế thì sướng thiệt! Nhưng không khéo thì khổ lắm! Mà ngày xưa, ảnh làm tới chức vụ gì chị?
Mãi một lúc sau, Nhung mới đáp nhỏ: “Giám đốc”, tiếp theo là tiếng thở dài. Còn cách cổng trại chưa đầy năm trăm thước thì một chiếc xe du lịch mang bảng số đỏ trờ tới. Người lái xe có lẽ không nhìn thấy vũng nước trước mặt nên mấy cái bánh xe bên phải chạy tuồn qua mau “xoẹt... xoẹt...”. Anh lái xe ôm mất đà thắng gấp. Nhung ngã chúi vào lưng anh. Cả người cô, cả người anh xe ôm đầy những nước bùn màu đỏ. Chiếc du lịch dừng lại phía trước. Một bóng áo xanh bộ đội mang quân hàm thượng úy bước xuống xe. Anh tiến tới Nhung và anh lái xe ôm:
- Thật vô ý quá! Làm anh chị dính hết rồi? Tôi thành thật xin lỗi vì lái xe không nhìn thấy vũng nước.
Nhung quay ngoắt lại. Cô trừng mắt nhìn người đối diện:
- Trời ơi! Hiểu! Anh Hiểu!
Người sĩ quan được gọi là Hiểu cũng ngạc nhiên tới tột cùng:
- Nhung! Sao em lại tới trại giam! Em thăm ai ở trong nầy?
Ánh mắt Nhung chùng xuống và như đã chực chờ từ lâu rồi, mấy giọt nước đã ngân ngấn trong đôi mắt đẹp của cô. Người lái xe ôm lừng khừng:
- Bây giờ chị đi xe em nữa không? Hay chị quá giang xe của “sếp” đây?
Nhung chưa biết tính sao, Hiểu đã đỡ lời:
- Tụi tôi là bạn, để tôi cho cô ấy đi nhờ xe. À! Tôi gởi tiền xe anh luôn.
Hiểu móc bóp đưa tiền cho anh xe ôm. Nhung chưa kịp phản ứng gì, Hiểu lấy khăn tay:
- Em lau sạch nước bùn đi! Rồi anh đưa giúp vô trỏng. Mà em vẫn chưa nói em thăm ai!
Bây giờ thì hai dòng nước mắt đã chảy dài trên má. Nhung ngập ngừng:
- Em thăm anh Hưng!
- Thằng Hưng? Hiểu trợn trừng mắt như không tin ở tai mình.
Người lái xe nhắc:
- Tới giờ rồi anh. Tranh thủ làm việc trước đi rồi tính sau.
Hiểu nhìn Nhung:
- Thôi! Em lên xe vô trỏng luôn. Anh làm việc với mấy anh cỡ một giờ thôi. Em chờ anh ở căng-tin, anh phải biết cho tường tận. Thật tình, anh không tin được.
***
Ông Út đập tay xuống bàn. Cái đập mạnh đến nỗi mấy ly trà tưng lên rồi lăn lông lốc trên bàn. Gương mặt ông trắng bệch ra như mặt của một xác chết rồi thâm tím lại. Mấy cái cơ bên má giựt liên hồi.
- Thay đổi rồi! Thay đổi rồi! Không còn chút gì của thằng Tư ngày xưa nữa. Nó ăn trắng mặc trơn, nhà cao cửa rộng quen rồi - cái thời bận áo lính nó không còn nhớ nữa. Bây giờ mới lòi mấy cái mặt chuột ra. Tao thề từ đây về sau, không qua lại dính dấp gì tới quân phản bội đó nữa. Còn mầy - ông xoay qua, ném một cái nhìn dữ dội về Hiểu - cũng không cần xáp láp với con Nhung nữa. Đời mầy, không lẽ không có đứa con gái nào xứng đáng để thương sao? Cha nào, con nấy mà!
Nói một hơi rồi, ông vói lấy cái áo lính cũ, chụp lấy cái nón rơm đi tuốt ra vườn. Hiểu nhìn theo cái dáng khắc khổ của ba mà lòng buồn rười rượi. Nó chưa thấy ông giận dữ như vậy bao giờ. Ba nó là một người lính. Nó hiểu ông nhiều hơn những gì một đứa con có thể hiểu về ba mình. Nó hiểu nỗi đau ba nó mang sáng nay khi qua nhà Nhung bàn chuyện tụi nó. Thái độ của chú Tư làm ba nó hụt hẫng và đớn đau. Nó biết mình cũng có phần trách nhiệm. Nó cứ tưởng gia đình Nhung đã chấp nhận mình - đâu ngờ! Mấy câu nói nhẹ nhàng mà dứt khoát của ông Tư đã làm ba nó bị sốc. Nỗi đau của một người bạn về một người bạn của mình không sánh bằng nỗi đau của hai người đã từng là đồng chí, đã từng vào sanh ra tử, bây giờ phải ngỡ ngàng nhìn nhau.
Buổi sáng, lúc hai cha con tòn ten hai chiếc xe đạp qua nhà Nhung, ông Út còn hớn hở: “Năm năm nhằm gì? Hồi đó, tao thương má mầy chưa nói được tiếng nào đã đi tuốt chín năm. Chừng trở về, bả chưa lấy ai, tao mừng muốn chết, đi hỏi cưới luôn. Ý là lúc đó chiến tranh, chết sống còn không biết được. Bây giờ hòa bình rồi, năm năm lẹ lắm con ơi!”. Hiểu cũng vui, vui vì ba thông cảm cho mình. Nó đã quyết định thi vào Trường Sĩ quan Lục quân và đã trúng tuyển. Có điều, phải cho người lớn có đôi lời với nhau để danh chánh ngôn thuận vậy mà. Nhung là bạn học cùng lớp suốt bảy năm cấp hai, ba. Ba nó với chú Tư lại là đồng đội. Đâu có cái hợp lý nào bằng. Hai cha con bước vào nhà Nhung với khí thế tự tin vui vẻ bao nhiêu thì khi ra về lại đau đớn ê chề bấy nhiêu. Lời ông Tư vẫn còn văng vẳng bên tai nó: “Anh Út à? Chỗ anh em, tôi cũng không ngại mà nói thiệt lòng mình cho anh biết. Đời tôi cực khổ nhiều rồi! Nhưng đó là lúc chiến tranh, mình không được quyền lựa chọn. Còn bây giờ, tôi phải chọn cho con tôi con đường nào tốt nhứt. Tôi chỉ có mình nó, tôi không thể để nó sống nghèo sống khổ được. Đời lính, cho dẫu là sĩ quan thì được gì? Lương tháng có đủ no thân chưa, nói gì tới vợ con. Mà sao nó lại chọn con đường đó. Nó có thể học kinh tế mà! Đằng nào cũng phục vụ đất nước thôi! Nhưng chọn ngành kinh tế sẽ giàu hơn, sẽ làm cho vợ con được sung sướng hơn. Bây giờ, nó đã đậu sĩ quan rồi. Năm năm học đâu có ít. Bắt con Nhung chờ nó năm năm để ra trường gom mấy tháng lương chưa sắm được bộ đồ trang sức thì tội cho con tôi quá! Tôi nhứt quyết không gả con Nhung cho thằng Hiểu. Anh liệu mà kiếm chỗ khác đi”.
Lúc đó, gương mặt ông Út tái lại, mắt mở trừng. Ông vẫn chưa tin vào những gì mình vừa nghe từ cái miệng của thằng bạn thân đã từng sống chết bên nhau. Đồng tiền ghê gớm thiệt. Đồng tiền có thể thay đổi con người tới mức không ngờ. Ông Út vừa mở miệng, chưa kịp nói gì thì ông Tư đã tiếp: “Tôi đã hứa gả con Nhung cho thằng Hưng. Ngày mốt nầy làm đám giáp lời. Thằng Hưng thi đậu đại học kinh tế rồi. Nhà nó sẵn của, đời con tôi phải được sung sướng!”.
Ông Út nuốt nghẹn, ông chơi vơi như vừa hớp một ngụm Xuân Thạnh. Hai nắm tay siết chặt tưởng có thể đứt hết mấy mạch máu. Còn nỗi ê chề nào hơn. Ông trừng mắt nhìn ông Tư như để tìm từ gương mặt thân quen đó một cái gì để ông tin là ông Tư giỡn mình. Nhưng không, gương mặt y nghiêm nghị, khóe môi vểu lên một chút kiêu ngạo và tự tin nhưng đôi mắt y không dám nhìn thẳng thằng bạn của mình. Hiểu như rơi từ đỉnh cao xuống vực. Vậy là rõ ràng quá rồi còn gì! Thằng Hưng là con trai độc nhứt của ông Mười,  chủ mấy lò đường trong huyện. Ông Tư đã không lầm khi chọn chỗ đó gả con. Còn ba nó chỉ là một người lính về vườn, với thương tật khắp người thì có cơm ăn áo mặc đã quý lắm rồi. Hiểu đưa mắt tìm nhưng không thấy Nhung. Ông Út nắm tay nó lôi về, không nhớ tới chuyện phải chào chủ nhà nữa. Dọc đường, hai cha con không ai nói với ai tiếng nào. Ông Út chạy một mạch không tránh mấy cái ổ gà. Chiếc xe đạp sườn ngang nhảy lốc xốc như một người đang bị động kinh. Thấy chồng trở về với thái độ bán chết bán sống như vậy, bà Út không dám hỏi han gì (mà hỏi làm gì nữa, khi nét mặt của ông Út đã nói lên tất cả). Bà Út lặng lẽ châm trà rồi xuống nhà dưới nấu cơm.
Một tháng sau, thằng Hiểu nhập học. Ông Út làm một bữa tiệc nhỏ tiễn con với tấm lòng của một người cha. Buổi tối, khi mọi việc đã xong, ông kêu bà Út nấu giùm ấm nước, châm bình trà quạu. Hai cha con ngồi lại với nhau. Bây giờ, họ là hai người đồng chí. Ông Út khẽ khàng:
- Bỏ hết đi con. Ngày mai nầy, con phải là một người mới. Là một người lính thì mọi thứ phải dứt khoát, rạch ròi Ba biết con buồn. Nhưng người ta không thể sống bằng nỗi buồn và càng không thể thành công nhờ nỗi buồn. Con Nhung nó đã yên phận. Cái thằng Tư đã không còn là đồng chí của ba. Tụi nó đã bị biến chất, bị cám dỗ rồi. Con là con của ba, làm sao để ba đừng đau lòng, đừng để ba xấu hổ với mấy người anh em đã nằm xuống của mình.
Thằng Hiểu vô mùng cứ trằn trọc hoài không ngủ được. Nó lờ mờ cảm nhận được là nó yêu con Nhung nhiều hơn con Nhung yêu nó. Lá thơ nó viết gởi, con Nhung không trả lời. Có lẽ ba nó đã thuyết phục nó bằng cái giàu sang, bằng sự sung sướng khi về làm vợ Hưng. Gà đã gáy rộ, Hiểu vén mùng chun ra. Bà Út đang lui cui lo bữa cơm sáng cho nó lên đường. Hiểu bước lên nhà trên, ông Út đã dậy từ hồi nào, đang ngồi mân mê mấy cái huy chương, nét mặt trầm buồn xa vắng. Hiểu ra lu múc nước, nó cúi nhìn bóng mình lung linh và nó bỗng nhận ra, mình đã là một người mới.
***
Đã hai ngày rồi, Hưng không về nhà. Chuyện Hưng không ăn cơm nhà đã không còn là chuyện lạ với người làm vợ như Nhung. Nhưng Hưng không bỏ nhà qua đêm, trừ những lúc phải đi xa. Sống với nhau đã nhiều năm, Hưng vẫn giữ được cái nếp ấy. Đó là điều duy nhất cho thấy Hưng vẫn còn yêu thương vợ. Họ vẫn chưa có con dù đã gần mười năm chung sống. Nhung không thấy một trở ngại nào, có lẽ họ chậm con. Nhưng từ mấy tháng gần đây, Hưng có những biểu hiện lạ. Gã có vẻ lo lắng, bồn chồn. Có những người lạ mặt tới nhà. Họ xầm xì to nhỏ gì, Nhung không biết. Lò đường của ba má Hưng mấy mùa liên tiếp thua lỗ. Đồng tiền không còn chảy vào nhà họ như nước nữa. Cái thời các chủ lò tư nhân làm mưa làm gió đã chấm dứt. Nhà nước đã xây dựng một nhà máy quy mô, năng suất cao, có thể ngốn hết cả mấy vùng nguyên liệu mía của cả ba bốn tỉnh lân cận. Ông Hai lại qua một cơn bịnh nặng. “Cọp già rụng răng”. “Lão lai tài tận”, mọi người không thích ông thường nói như vậy. Nhung ra vô bồn chồn, lo lắng. Gọi cho Hưng, chỉ nghe câu trả lời: “Số máy vừa gọi, hiện không liên lạc được...”. Nhung chỉ còn biết chờ.
Nhung biết được tin dữ qua Hải, người bạn ở ngân hàng đã tới lui nhà cô như một người thân thiết nhất: “Anh Hưng bị bắt hồi sáng nầy rồi chị. Để tôi thu xếp nhờ người quen coi có cho chị thăm anh ấy được không. Công ty đã bị đình chỉ hoạt động để điều tra rồi!”. Nhung nghe choáng, cô phải vịn tay vào thành ghế. Sao chuyện tày trời như vậy mà người làm vợ như cô lại không hay biết chút gì. Hải từ giã: “Tôi về, nếu xin gặp mặt được, tôi sẽ cho chị hay”.
Buổi chiều, một phụ nữ cũng trạc tuổi Nhung nhưng ăn mặc kiểu cách, chở theo một bé trai chừng ba tuổi trên chiếc Dream mới toanh tìm đến nhà. Nhung ngỡ ngàng nhìn họ:
- Cô tìm ai? Nhung vừa hỏi vừa quan sát người đối diện.
- Chị là chị Nhung vợ anh Hưng? Cô gái không trả lời Nhung mà hỏi lại. Đôi mắt sắc sảo của ả nhìn khắp căn phòng như để quan sát tường tận mọi thứ có ở đây.
- Đúng là nhà của giám đốc. Chị có phước quá nên được chồng lo lắng như vầy. Còn tôi, cũng là vợ mà kém hơn nhiều.
Nhung tái mặt. Cô vừa nghe cô gái nầy nói gì? Vợ ai? Không lẽ lại là vợ của chồng mình? Nhung ấp úng:
- Tôi... tôi không biết cô nói gì? Cô tìm ai?
- Tôi tìm chị. Tìm chị để nói cho rõ ràng chuyện của tôi với anh Hưng. Đây là con anh ấy. Chúng tôi sống với nhau đã năm năm nay rồi. Chị đừng ngạc nhiên khi nghe tôi nói. Sở dĩ anh Hưng không quan tâm tới chuyện chị không có con là vì anh ấy đã có con với tôi, đó là điều hạnh phúc nhất cho ảnh. Nhưng tôi thật sự không ngờ, ảnh cũng lừa dối tôi. Tôi sanh con để nối dòng nối dõi cho ảnh mà tôi chỉ được một căn nhà nhỏ xíu, không bằng cái phòng khách sang trọng nầy. Phải rồi, dẫu sao chị cũng là người được cưới hỏi đàng hoàng mà. Nhưng bây giờ khác rồi. Cái nhà nhỏ của tôi thì không ảnh hưởng gì vì tôi là người đứng tên hợp pháp. Còn cái biệt thự nầy sẽ là tài sản bị niêm phong. Tôi không biết chị còn cất giấu của chìm của nổi nào không, ráng lo cho ảnh đi. Tôi phải lo nuôi con. Đằng nào cũng là chồng hợp pháp của chị. Tôi chỉ là người ngoài cuộc. Tôi cũng nói them cho chị chuẩn bị, với tội trạng của anh Hưng, ít nhất cũng là mười năm. Tôi không chờ ảnh được đâu!
Buông những lời đắng hơn thuốc xong, ả nắm tay thằng nhỏ bước xuống thềm. Nhung thấy như mọi thứ trong phòng đang quay cuồng. Cô chưa tin những gì vừa xảy ra là sự thật.
***
- Vậy là Hưng bị tạm giam ở đây? Còn em hiện giờ ở đâu? Hiểu hớp một ngụm nước, nhìn Nhung ái ngại.
- Em đã về quê ở với ba má em. Căn nhà bị kê biên rồi, chưa biết Nhà nước tính sao. Ba em buồn rầu và mắc cỡ với lối xóm nên không ra khỏi nhà nửa bước. Bây giờ ba già lắm!
Hiểu nghe một nỗi buồn len nhẹ vào hồn. Nhung nhìn Hiểu hồi lâu rồi ngập ngừng:
- Em nghe nói anh cũng lập gia đình rồi phải không? Có đứa nào chưa?
- Tụi anh sắp rồi. Vân sẽ sanh trong vòng một hai ngày nữa. Lẽ ra, anh đã nghỉ phép, nhưng phải xong công việc bữa nay. Vân là bác sĩ quân y. Tụi anh chưa có nhà cửa riêng gì, đang ở tập thể.
- Anh chị cưới lâu chưa?
- Hơn hai năm rồi. Lúc đó, anh bịnh một trận gần chết. Vân đã chăm sóc anh rất tận tình và tụi anh yêu nhau.
Nhung nhìn lãng qua chỗ khác, có chút gì nghèn nghẹn ở ngực. Ai cũng có con đường của mình. Cô đã chọn trước, giờ không trách ai. Đúng lúc đó, điện thoại trong túi Hiểu rung lên. Hiểu cầm máy:
- A-lô, anh Hiểu ơi! Chị Vân vừa sanh xong cháu trai 3,2kg. Cả mẹ con đều khỏe. Về ngay nhe anh!
Hiểu cười hớn hở:
- Về! Xong việc rồi à? Anh sẽ về ngay đây!
Rồi quay qua Nhung, Hiểu ân cần:
- Em về cùng anh luôn nghe! Anh cho em quá giang một khúc.
Nhung cười buồn:
- Không, em không về cùng đường với anh được.
Hiểu ái ngại:
- Anh sẽ thu xếp về thăm em với chú thím. Anh hứa đó! Em về cẩn thận nghe!
Hiểu lên xe. Chiếc xe vút đi, để lại mấy vũng nước đỏ ngầu trên đường. Nhung buồn bã đứng lên đi những bước chầm chậm, vô hồn. Một người xe ôm tới hỏi. Nhung lên ngồi đằng sau. Anh xe ôm quay lại:
- Chạy theo hướng chiếc du lịch kia hay rẽ trái?
- Rẽ trái? Nhung đáp như trong đầu đã có câu trả lời sẵn: Mình với anh ấy đã đi hai con đường khác nhau mà!
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 09:57:18
Thuốc đúng liều!
LÊ NGUYÊN NGỮ
 
Đầu năm nay do chị Khuê – bạn rất thân của Huyền - mách, hai vợ chồng Thấn tìm đến cụ Chế, người Nùng ở Sông Lũy. “Ông thầy thuốc này cực kỳ! Vợ chồng tao sở dĩ có một hơi hai thằng “tướng nhà trời” cũng là nhờ uống thuốc của ông ấy”.
Thầy Chế tuổi ngoại thất tuần, nom tướng tá rất tiên phong, đạo cốt. Khi nghe vợ chồng Thấn trình bày và Huyền nói là bạn thân của Khuê, cụ chăm chỉ bắt mạch hồi lâu cho Huyền, rồi cả cho anh. Đoạn bốc thuốc và gặp riêng Huyền để dặn dò. Cụ bảo: “Của anh anh uống, của chị chị dùng. Sau sáu tháng nếu không kết quả, anh chị nên đi khám ở Tây y”. Vậy mà bốn tháng sau, như thể là thuốc tiên, Huyền có thai thật! Ngày hai vợ chồng đến báo tin vui, cụ Chế chúc mừng, khuyên anh chị những điều nên giữ gìn, kiêng cữ ở bước đầu sản phụ và cắt cho mấy thang thuốc dưỡng thai. Tiền thuốc cụ chỉ lấy bình thường, có đưa lên thêm thế nào cũng chẳng nhận. “Tôi già rồi, lấy tiền nhiều làm gì. Chỉ xin vừa đủ để thu hái, chế biến thuốc tiếp thôi!”.
Vợ chồng Thấn đi lại thân tình với cụ Chế từ ấy. Cụ vừa như ân nhân, vừa như thầy thuốc riêng của gia đình anh. Vợ chồng anh, nhất là Huyền có thể nói rất “mê tín” tài chữa trị của cụ. Mọi việc liên quan đến sức khỏe, nhất nhất đều xin ý kiến của người. Hạnh phúc đang ngập tràn trong vòng tay vợ chồng anh thì đùng cái... Huyền sẩy thai vào tháng thứ ba! Sẩy thai khi chị xách nước từ hồ vô nhà tắm, qua nền xi măng trơn, bị ngã vào một chiều mưa. Thấn lúc đó lại đang công tác xa. Về đến nhà,  thay vì áp tai một cách đầy hạnh phúc lên bụng vợ, Thấn chứng kiến Huyền bã bượi và đẫm nước mắt ở bệnh viện.
Sẩy thai, Huyền lại kèm theo băng huyết nặng nên phải mất gần nửa năm với sự thuốc thang tận phương, hết lòng của cụ Chế, chị mới trở lại được bình thường.
***
Sáng nay, đầu kỳ nghỉ phép, Thấn ăn qua quít bữa điểm tâm Huyền để sẵn. Anh ghi cho vợ mấy dòng rồi lấy xe lên đường, trực chỉ hướng nhà cụ Chế. “Một lần sẩy là bảy lần sanh”. Cụ Chế vân vê tách trà trong tay nói: “Phụ nữ sẩy thường, quen dạ, anh phải quan phòng và nhắc nhở chị thường xuyên. Tạo ra con người là việc không thể không cẩn trọng được”. “Dạ, nếu có cháu ở nhà, những việc thế đâu đến tay cô ấy”. “À, mà anh làm nghề gì, tôi nghe chị ấy bảo cứ vắng nhà luôn thế ?”. “Dạ thưa cụ, cháu ở ngành công an”. “Công an ư? Thảo nào...! Cái nghề ấy thì khổ. Rồi cụ sáng mắt lên: Thế thì có khi hay cho tôi quá!”. Thấn ngồi ngay lại người: “Thưa..., cụ nói hay gì ạ?”. Cụ Chế châm thêm trà cho Thấn, giọng nửa phân trần, nửa như tâm sự: “Giấu gì anh. Tôi có thằng cháu ngoài Hải Phòng mới vào tìm việc. Nhưng...”. “Sao cụ? Đã xin được việc chưa?”. “Tôi định xin cho nó chân bảo vệ ở xí nghiệp Hải Hương, nhưng họ đòi phải có người bảo lãnh mới nhận”. “Sao cụ không bảo lãnh cho anh ấy?”. Cụ Chế cười hiền: “Người bệnh thì họa may, chứ tôi bảo lãnh thế nào được. Họ đòi phải người làm cho Nhà nước cơ. Ước chi anh... giúp cháu được”. “Có gì đâu. Anh ấy với cụ, cháu là thế nào? Sao lại phải vào đây?”. “Nó là con của đứa em cùng cha khác mẹ với tôi. Cũng là cật ruột. Cu cậu ngoải chắc chán làm ruộng đó mà. Nó tên Diên. Nếu anh nhận bảo lãnh giùm, để tôi gọi về cho em nó mừng”. Trong khi chờ Diên về, cụ Chế cho biết anh tuy là cháu ruột, song dễ thường năm năm nay mới gặp nó. “Thằng cũng sáng dạ lắm nên mới tìm được nhà tôi. Ngoài ấy, thành phố chẳng nói làm gì, chứ ở vùng quê có nơi hãy còn khổ...”. Nếu bảo lãnh được cho cháu cụ, Thấn cũng mừng. Đây sẽ là dịp tốt để phần nào trả ơn nghĩa của cụ với vợ chồng anh.
Đứa cháu gái đã đưa Diên về. “Chào anh ạ!”. “Nó đấy!  Anh đi đâu mà con Nhài tìm lâu thế ?”. Diên vừa kéo ghế ngồi vừa nói: “Cháu buồn quá, tán gẫu với mấy đứa bạn mới quen đầu xóm”. Thấn kéo ghế dành chỗ cho Diên. Từ người Diên phảng phất mùi rượu. Mới sáng đã hơi hám thế thì anh này chán làm ruộng cũng phải. Khác với dáng vẻ thư sinh của Thấn, Diên vóc người to đậm và trông dữ tướng. Chiếc ghế ọp ẹp Diên ngồi kêu ken két mỗi khi anh nghiêng người rót nước. Tay này chắc nặng không dưới bảy yến. Tướng tá vậy làm bảo vệ là ngon, tiếc cái đôi mắt tròng trắng hơi nhiều nên trông có vẻ gian giảo, lại nằm dưới cặp lông mày vồng lên như hai đuôi sóc giao nhau nên trông càng thêm liều lĩnh. Nhưng quái lạ, cái lông mày chổi sể bên phải có ẩn nút ruồi đen kia hình như Thấn đã gặp ở đâu rồi?! “Anh hút thuốc?”. “Có, nhưng chỉ phì phà cho vui”. Diên chìa gói ba số 5 ra. Làm ruộng thất bát, bỏ vào xin chân bảo vệ lại hút thuốc ba số 5 ư? “Diêm ở dưới bếp ấy, anh xuống mà lấy!”. Diêm! Phải rồi! Điếu thuốc ba số 5 thiếu chút nữa rơi khỏi tay Thấn. Đúng, đúng là Huỳnh Diêm! Cái tên mang đầy chất cháy này đã làm cho chuyên án T.206 có anh tham gia thành ra tắc tị hồi năm kia bởi sự “bốc hơi” đột ngột của hắn. Bây giờ chẳng hiểu sao Diêm lại lù lù hiện ra ở vùng quê heo hút này? Mà lại là cháu người ơn của Thấn! Sự tréo ngoe này làm mồ hôi anh vã ra. Như một phản xạ tự nhiên, anh chồm nói nhỏ vào tai ân nhân của mình: “Để tiện việc bảo lãnh, tạm thời cụ đừng nói anh ấy biết cháu là công an nhé!”. Cụ Chế cười xòa: “Ỷ vậy rồi kiêu lên chứ gì. Vâng! Miễn là anh giúp được việc làm cho nó, tôi mang ơn suốt đời. Còn sao tùy anh”. Vừa lúc ấy thì Diên, hay đúng hơn là Diêm mang bao diêm lên. Thấn tiếp lấy, đánh mạnh lửa, rít hơi thuốc dài. Qua làn khói thuốc, quá khứ ngắn gọn nhưng gai góc của Diêm lập tức hiện ra.
Cách đây ba năm, hồi Thấn còn ở công an tỉnh L, đội bài trừ, phòng chống ma túy của các anh vừa thành lập, lần ra được đường dây buôn bán khá lớn thứ này, từ biên giới Tây Bắc thòng vào. Trong lúc vội, Thấn có đi nhờ xe Honda đến một điểm để đón bắt nóng tên Huỳnh Diêm - đầu mối duy nhất tuồn ma túy từ ngoài ấy vào. Như đánh hơi được mùi còng số 8, hắn lặn mất tăm. Mờ sáng sau, trở lại khai thác tên nhận hàng Diêm. Do sơ suất lúc giam, tên này đã tự tử cách đó hơn một giờ. Sự “thà chết còn hơn dựa cột” của nó cho biết đội anh đã sờ đúng gáy một đường dây ma túy quan trọng. Nhưng khổ nỗi, nhận định trên đụng phải cái chết này thành ra mọi đầu mối bị bịt kín cả! Còn lại chăng chỉ là cái tên Huỳnh Diêm. Sau này qua phối kiểm một số nguồn tin, rất có nhiều khả năng người Thấn đi nhờ xe hôm ấy lại chính là hắn. Thế mới đau đầu! Đặc điểm duy nhất của gương mặt hắn trong đêm gấp gáp đó là nốt ruồi sau lông mày chổi sể nhô lên trên mặt kính to bản. Thấn chỉ nhớ có thế! Bây giờ thì gương mặt ấy đây. Đúng đến chín mươi chín phần trăm trong trí nhớ nhà nghề của một trinh sát như Thấn. Anh lại rít thuốc. Với khả năng của Thấn, dù non ký hơn Diêm khá nhiều nhưng bắt hắn lúc này là không khó. Anh vốn có “nghề” từ nhỏ, trước khi vào công an. Cái khó là việc ấy sao lại xảy ra trước mặt cụ Chế, ân nhân của vợ chồng anh. Dù là trách nhiệm nhưng đạo lý, nghĩa tình giữa người với người không cho phép Thấn làm như vậy. Giờ chẳng lẽ anh lại trả ân cụ bằng cách bắt cháu người ư ? Còn tha theo cách giả tảng như Thấn không nhận ra Huỳnh Diêm, dù chẳng ai biết nhưng lương tâm, trách nhiệm của một công an không đời nào cho phép anh làm thế. Chỉ còn cách hay nhất, vẹn toàn tình nghĩa nhất là “điều” tên Diêm đến một nơi thuận lợi nào đó, rồi xi-nhan, nhờ đồng nghiệp “tó” hắn. Cách này ổn nhưng lại khó và đầy bất trắc. Sao lương y cứu người như cụ lại có thằng cháu ngược ngạo để khó xử cho mình đến vậy, hả trời!? Không dám chia trí lâu, Thấn vuốt ngược tóc mình, lấy lại sự tập trung cho cuộc chạm trán đầy bất ngờ này. Vuột lần này khác nào thả hắn vào chim trời, cá bể. Có tiếng của cụ Chế: “Cũng may xí nghiệp này có một chân bảo vệ vừa khuyết, nên nó mới xin vào, chứ không thì...”. Thấn vội đứng lên: “... người khác thế ngay cụ ạ. Hôm nay cháu rảnh, sẵn xe để cháu đưa anh... Diên lại xí nghiệp, bảo lãnh miệng trước cho làm, rồi giấy tờ tính sau. Cháu quen mà! ”. “Thế thì quý hóa quá - cụ Chế xoay sang Diêm: Mày thay đồ đi ngay với anh, kẻo lỡ việc thì gay! ”.
Trên xe, giữa Thấn và tên Diêm là một chồng những thang thuốc Bắc do gấp rút, anh chưa kịp tính tiền với cụ Chế. Thấn vội tăng tốc chiếc Honda. “Anh giai làm... nghề gì lại quen biết với bác em thế ?”. Thấn vội bẻ nghiêng gương chiếu hậu xuống cho dễ quan sát hắn hơn: “Cũng... kinh tế thôi!”. Thấn ỡm ờ với cái thằng mà có thời cả đội anh phải tìm đến xất bất xang bang, rút kinh nghiệm lên rút kinh nghiệm xuống. Dù bất luận thế nào, Thấn quyết không để lọt tay cái “tặng phẩm” bất ngờ từ trời rơi xuống này. Đánh giá cao sức vóc cùng khả năng tên Diêm, Thấn nhấn thêm ga, lao xe đi với một tốc độ nếu muốn nhảy thoát thân cũng không được, phi mình đồng da sắt. Chắc chắn do bất ngờ, tên Diêm không mang theo hung khí. Với phương án vừa lóe lên trong đầu, Thấn vội nghiêng tay lái sang phía trái. Tay tên Diêm bỗng bập víu vào vai anh: “Anh giai... anh giai...! Xí nghiệp Hải Hương rẽ ngả kia chứ?”. “Biết rồi!”, Thấn lạnh lùng. Giọng tên Diêm phía sau cất lên nghe gấp gáp: “Thế sao không quay lại?”. “Phải đến công an thị trấn đăng ký tạm trú, mới xin làm bảo vệ được!”. “Giấy... tạm trú à? - Hai đuôi sóc của hắn vểnh lên trong gương chiếu hậu: Em... em có, nhưng để ở nhà!”. Thấn nhát gừng: “Ở nhà thì... nói làm gì!”. “Sao lại thế nhỉ? Mình quay về lấy đi, anh giai!”. Thấn giả vờ không nghe, anh căng mắt vào mặt đường và gương chiếu hậu. Qua một khúc quanh, khi thế xe ổn định, Thấn buông câu thăm dò: “Diêm... à Diên, trước đây có đến thành phố L lần nào chưa?”. Dù khuất bởi mắt kính to bản nhưng phần còn lại gương mặt hắn cũng biến sắc đi theo câu hỏi của Thấn. Qua yên xe, anh cảm được từ phía sau cái trở mình khá bất bình thường của hắn: “Anh nói gì ạ?”. Chỉ có gió tới tấp trả lời cho câu hỏi vờ vịt của hắn. Bỗng tên Diêm gọi giật giọng: “Rớt dép em rồi! Dừng lại, dừng lại giùm! Anh giai chạy nhanh khiếp!”. Sao lại rớt dép được nhỉ ? Rớt dép vào lúc này thì đúng mười mươi hắn là tên Diêm. Và giờ định đánh bài chuồn. Thấn giảm ga. Ngay sau khi thắng, lúc trớn xe còn trôi thì lập tức Thấn nghe chồng thuốc Bắc rời khỏi lưng mình. “Diêm! Mày đã bị bắt!”. Cùng tiếng quát, chân trái Thấn gạt chống xe, anh lật người và nhanh như chớp đá bạt gót chân phải một cái cực mạnh ra phía sau. Nhưng trễ mất nửa giây! Bên kia những thang thuốc Bắc bị cú đá tung lên, bay như đàn bướm, là lưng áo bỏ chạy thục mạng của tên Diêm. Thấn buông xe lao vút theo. Diêm quăng mình vào con hẻm. Khi Thấn trờ kịp tới mới hay hắn đã cùng đường! Đó là con hẻm cụt nằm giữa hai dãy nhà kho. Sau một tích tắc lờn chờn vì không vượt nổi rào, hắn bèn quay ngoắt người lại. “Diêm! Mày đừng ngoan cố để còn được khoan hồng của Nhà nước”. Gương mặt Diêm trông thật dữ dằn. Cặp lông mày biến thành hai lưỡi mác chém xéo xuống đôi hốc mắt vằn đỏ. Hắn giật mạnh trong túi áo gió ra cái xi-ranh và rút ngay bao đầu kim, rít giọng: “Đây, anh giai! HIV đây! Khôn hồn để thằng em biến, nếu không muốn nhận tặng phẩm tử thần này!”. Vừa nói tên Diêm vừa tay thủ xi-ranh lừ lừ tiến tới, với ý đồ tìm cách thoát ra hẻm. Thấn xuống tấn. Cả hai gờm nhau. Sau cái tràn nhá người, nhanh như chớp, mũi giầy anh bằng cú đá móc nghiêng bốn lăm độ kêu nghe đánh “ực” một tiếng đúng ngay vào huyệt Mặt trời tên Diêm. Hắn gập người ôm lấy ngực. Thuận thế “Hầu vương thiết quả”, Thấn chặt ngược sóng tay một nhát cực mạnh tiếp theo vào gáy hắn. Bảy yến thịt tên Diêm đổ xuống nghe cái rật như người không xương! Bấy giờ dân mấy nhà gần đó mới lố nhố chạy vào.
Nỗi niềm lại ùa xao trong Thấn khi anh nhớ đến cụ Chế. Nhất định Thấn sẽ tìm cách sớm nhất, tốt nhất trình bày cho cụ thông cảm rằng cháu cụ phải được giáo dục cải tạo để trở thành người tốt. Rồi cụ sẽ hiểu, thuốc phải dùng đúng liều đúng lúc, để thương anh, giúp anh và vợ anh. Huyền ơi! Hãy đợi đó, rồi chúng mình sẽ có con!
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 10:05:42
Ngày hạnh phúc
NGUYỄN TRỌNG HOẠT
 
Chiều thứ bảy, như bao thứ bảy khác, chắc Chiến sẽ về. Từ trưa, anh Ba đã bồn chồn ngóng con. Đang nằm trên giường, nghe tiếng xe máy chạy trên đường làng, anh liền nhổm dậy, nheo mắt nhìn qua cửa, nhìn đến khi chiếc xe lướt qua ngõ nhà mình cuốn theo lớp bụi mù mới thôi. Bữa trưa có món canh cua rau đay, anh rất thích nhưng chỉ và được lưng chén cơm rồi chống đũa nhìn mông ra khoảng sân đầy nắng. Tôi bảo: “Chiều nó còn làm việc, giờ chưa về đâu”. Anh ừ ừ, ngồi lặng nhìn tôi dọn mâm. Đón ly nước từ tay tôi, anh nói: “Dứt khoát hôm nay anh phải nói chuyện với Chiến”. Chẳng nhớ đã bao ]ần anh không thực hiện được ý định ấy. Và mỗi lần lỡ hẹn với chính mình, anh lại day dứt, mất ngủ.
*
* *
Ngày quê hương giải phóng, anh Ba về, không phải từ chiến khu mà từ trại an dưỡng ngoài Bắc. Chẳng lặng lẽ một mình như ngày đi, anh về cùng chị Điệp và Chiến. Chiến lúc đó hai tuổi, được mẹ bồng trên tay. Me tôi chạy ra ngõ, ôm lấy con trai, khóc. Tưởng mơ, bà đẩy anh ra, nhìn từ đầu tới chân, miệng cười mà nước mắt chảy dài. Phút xúc động qua, bà nhìn chị Điệp, ý chừng muốn hỏi. Bà chưa kịp lên tiếng, chị đã nhắc Chiến: “Lại với bà nội đi con”. Thằng bé tròn mắt, rụt rè; mẹ tôi bồng xốc lấy nó, hôn hít khắp người... Tiễn bốn con đi đánh giặc, giờ chỉ anh Ba tôi trở về, có thấu nỗi đau ấy mới hiểu niềm vui của mẹ trong ngày gặp con, dâu và cháu nội.
Chỉ qua vài ngày, Chiến đã bám lấy bà. Bà đi đâu, nó cũng lủn củn đi theo. Đến bữa ăn nó ngồi trong lòng bà, khi ngủ phải gối lên người bà nó mới chịu. Mỗi lần bị mẹ bẻ roi rượt vì hoang nghịch hay nói hỗn, Chiến nhào tới ôm lấy bà. Chiều chiều, mẹ tôi cõng Chiến đi chơi khắp xóm. Hình như bà muốn khoe đứa cháu - hiện thân của niềm vui vô bờ sau bao đau thương, mất mát. Ở quê nhưng Chiến chẳng bao giờ được tắm sông, leo cây, đánh trận giả bởi mẹ tôi cưng nó hơn cả trứng mỏng. Chẳng biết từ đâu, trong xóm có tiếng xầm xì sao Chiến chẳng giống ba. Lời bình vu vơ ấy lòng vòng rồi đến tai mẹ tôi. Chị Điệp ngăn mãi bà mới thôi truy kẻ “độc mồm độc miệng” nào đó khiến bà bực tức.
Rồi tôi cũng được biết cái góc khuất trong cuộc đời anh trai, chị dâu mình. Với giọng buồn buồn, chị Điệp kể tôi nghe thời trai trẻ của hai người vào một đêm trăng, bên gốc xoài trước ngõ. Chị bảo ngày mẹ còn sống, chị không dám kể chuyện này sợ vơi đi niềm vui hiếm hoi trong cuộc đời chất chồng khổ đau của mẹ.
... Chị nguyên là cơ sở hoạt động trong phong trào sinh viên ở nội thành, bị lộ nên phải nhảy núi. Giữa ngút ngàn bom đạn nơi chiến khu ngày ấy, sự xuất hiện đột ngột của người đẹp Hoàng Điệp đã khiến bao chàng trai rung tim, xao lòng. Chẳng có mốt nào khác ngoài mấy bộ bà ba màu lá nhưng mấy chàng trong cơ quan binh vận của chị để ý hơn đến ăn mặc, râu tóc và cả nói năng. Anh Ba cũng không phải ngoại lệ. Là đội trưởng bảo vệ và sản xuất của cơ quan, anh chẳng có công văn tài liệu nào để lấy cớ gần cô văn thư xinh đẹp. Anh dành cho mình quyền yêu Hoàng Điệp trong câm lặng. Cả khi chị đã yêu Vĩnh, chàng trai đàn giỏi, hát hay của cơ quan, anh cũng không lấy lại được thăng bằng cho trái tim khó bảo của mình.
Hoàng Điệp có bầu. Cha đứa bé - người thứ hai có lỗi trong chuyện này? Câu hỏi ấy lặp đi lặp lại trong buổi sinh hoạt chi đoàn kiểm điểm chị. Nhiều đôi mắt dồn về phía Vĩnh đang ngồi ở góc lán, hàm ý động viên anh ta lên tiếng.
Nhưng Vĩnh phì phèo hút thuốc, mặt tỉnh bơ, cả khi chị thút thít khóc. Chị bảo, Vĩnh không dám nhận sự thật, chị cũng chẳng giận. Nhưng chính vẻ lạnh lùng dửng dưng của Vĩnh khiến chị đau xót nghĩ anh ta không xứng đáng làm cha dù đích thị là cha của con chị. Bởi thế, chị nín lặng chịu kỷ luật một mình. Tan họp, anh Ba đi về phía Vĩnh trừng mắt, quăng vào mặt anh ta: “Đồ hèn!”. Trước ngày lên đường ra Bắc để sinh cháu, chị Điệp nhận lời để anh Ba làm cha đỡ đầu cho con chị. Bấy giờ anh mới mở lòng mình, chị sững sờ khi muộn màng nhận ra tình yêu chân thật.
Chị Điệp đi được không lâu thì Vĩnh chiêu hồi. Hắn trượt dài tội lỗi khi dẫn bọn biệt kích bất ngờ đánh lên căn cứ. Đã quá quen những bãi chông, mìn bảo vệ cơ quan từ vòng ngoài, Vĩnh dễ dàng dẫn địch vượt qua vật cản, tiếp cận cơ quan, đánh úp. Trong cuộc chiến đấu ấy, anh Ba bị thương nặng và được đưa ra Bắc. Khi biết tin, chị Điệp bồng Chiến đi khắp các bệnh viện, trại an dưỡng dành cho cán bộ miền Nam để tìm anh, đến cả ban Thống nhất Trung ương để hỏi. Hôm gặp anh ở Hà Đông, chị khóc nhiều hơn nói. Anh xanh gầy trắng nhợt sau lớp bông băng khắp người. Lúc sốt mê man, anh cứ gọi chị. Khi tỉnh, anh cầm chặt tay chị, cứ như sợ mất chị lần nữa. Nhưng còn đi học nên chị không thể ở với anh lâu. Chị gởi lòng mình vào từng trang nhật ký và những lá thư đều đặn mỗi tuần cho anh. Nhưng anh thì không thế, thỉnh thoảng mới có đôi dòng cho chị và rồi thôi hẳn. Chị chơi vơi hẫng hụt khi đọc lá thư cuối cùng anh viết từ trại an dưỡng, rằng hai người không có duyên với nhau, chị nên tìm người khác làm cha cho Chiến. Chị gởi con, mượn xe, đạp liền một mạch hơn trăm cây số trong đêm tìm đến anh. Anh lánh mặt. Chị không thể trở về khi chưa biết lẽ gì đã khiến anh đổi lòng. Khi hai người ngồi với nhau nơi ghế đá dưới bóng cây nhãn xum xuê trong khuôn viên bệnh viện, chị bảo: “Nếu không còn thương em và con, anh hãy nhìn vào mắt em để nói điều ấy”. Bất ngờ, anh ôm lấy chị, khóc. Chị bàng hoàng khi biết đạn thù đã cướp của anh phần thân thể kín đáo nhưng rất riêng của đàn ông. Anh không thể làm chồng trọn vẹn, càng không thể làm cha. Bởi thương chị nên anh không muốn chị khổ. Đã thế, chị càng không thể xa anh.
Tôi chợt nhớ, những đêm khuya, chị không ngủ được, ngồi nơi bậc thềm, thở dài bâng quơ. Rồi những sáng sớm, chị dậy làm việc quần quật, cứ như làm để kìm nén, để quên nỗi niềm nào đó. Chồng hy sinh như tôi đã đành; còn chị, có chồng nhưng... Tôi hiểu khoảng trống khó nói thành lời trong những tháng năm chị làm vợ anh Ba.
Đã qua rồi bỡ ngỡ, khi lần đầu chị xắn quần bước xuống ruộng cấy, ai cũng nhìn đôi chân trắng như ngó sen của chị mà lắc đầu, ái ngại. Chỉ còn trong lời kể về chuyện chị đỏ mặt đưa hai tay đỡ cây đòn gánh trên vai mỗi khi gánh lúa, gánh rạ. Ngay cái tên đẹp của chị cũng không mấy ai còn nhớ, người làng quen gọi chị theo thứ của chồng- chị Ba. Mỗi khi bạn bè chị tới thăm, cứ “mày, tao” một lứa khiến tôi giật mình bởi nhìn chị già hơn họ cả chục tuổi. Chị dâu tôi đã lặng lẽ gắn đời mình với làng cát nghèo xác xơ này. Cô nữ sinh xinh đẹp ngày nào dường như chỉ còn trong tấm ảnh chị đội mũ tai bèo được treo trên tường. Người lạ đến chơi, nhìn ảnh cứ tròn mắt: “Ai mà đẹp thế này?”. Thương chị nhất là khi anh Ba ốm. Một mảnh đạn còn trong đầu nên mỗi khi gió bấc, mưa giông là anh lại lăn ra vật vã. Những lúc ấy chị thức trắng đêm, chăm cho anh còn hơn chăm đứa bé ẵm ngửa. Lúc tỉnh lại, nhìn vợ hốc hác, anh rủa mình: “Sao không chết quách đi cho vợ con đỡ khổ!”. Nhưng anh vẫn sống để phải chứng kiến nỗi đau mất chị. Chị “ra đi” sau một cơn bạo bệnh, đúng lúc Chiến học đại học năm ba. Nỗi đau mất mẹ khiến thằng bé ngơ ngơ cả tháng liền, trông thương ứa nước mắt. Nó nâng niu từng di vật mẹ để lại, từ quyển sổ, cây bút đến chiếc mũ tai bèo, cái ba lô bạc màu. Chiến ít nói hẳn, cả bước chân như cũng khẽ hơn.
Ra trường, Chiến làm việc ở thành phố. Khi đi xe đạp hay lúc có xe máy, đều đều nửa tháng Chiến lại về. Mấy lần anh tôi nhắc phải dành tiền để còn lo chuyện vợ con, nhà cửa nhưng nó chỉ cười. Anh nhắc thế bởi nó cứ dồn lương mua cho anh từ cái dao cạo râu đến cái kính lúp để đọc sách, từ radio đến quần áo, giày dép và nhiều nhất là thuốc chữa bệnh. Hôm mắc được điện thoại, nó hướng dẫn tôi cách gọi và dặn: “Khi ba cháu có chuyện gì, cô a lô vào đây, cháu về ngay”. Mới đây, Chiến dẫn bạn về, mang theo cái máy, nó bảo là camera. Thế là khi anh tôi ngồi đan rổ hay đọc sách, kéo ống nước tưới trầu hay cắt tỉa hàng chè tàu trước ngõ, cả lúc anh đứng ngắm giàn khổ qua trước sân... thằng bạn nó cứ chĩa ống kính về hướng đó. Nó nài nỉ ba làm những việc như mọi ngày để đứa bạn quay phim. Tôi hỏi: “Để làm gì?”. Nó ghé tai tôi, nói nhỏ: “Ba cháu yếu rồi, cháu muốn ghi những hình ảnh này để kỷ niệm”. Chiến sẽ nghĩ sao nếu biết cháu không phải là con đẻ của anh Ba? Dự cảm về những điều không vui khi sự thật này mở ra khiến tôi phập phồng, không yên. Đã mấy lần tôi khuyên anh đừng nói chuyện này với Chiến nhưng anh không chịu.
*
* *
Dọc đường xe hư nên Chiến về trễ hơn mọi lần. Anh Ba ra sân đón con, nhắc đi tắm rồi ăn cơm luôn. Suốt bữa, anh chỉ gắp thức ăn cho con, lặng nhìn trìu mến. Chiến vẫn vô tư, vừa ăn vừa nói chuyện tía lia. Một lát nữa, khi anh tôi nói chuyện với Chiến, liệu những ngày cuối tuần đầm ấm thế này còn không? Nỗi lo khiến tôi bần thần.
“Điều này ba định nói với con từ lâu - Khi ngồi uống nước với Chiến ở bộ ván giữa nhà, anh Ba bắt đầu, giọng chùng xuống - Ba chưa nói được chẳng phải vì ích kỷ mà vì thương con, sợ con buồn...”. Chiến cắt ngang: “Thôi, ba đừng nói nữa”. “Mỗi người cần biết sự thật về thân phận mình con ạ. Ứng xử trước sự thật ấy thế nào lại là chuyện khác - Giọng anh xa xăm - Đó là một câu chuyện dài nhưng gọn lại một điều, Chiến ơi, con không phải là...”. Anh nghẹn lại, lệ ứa ra. Chiến ôm lấy ba, tưởng như có nước mắt thấm trong từng lời: “Con hiểu điều ba định nói. Ba ơi, sau ngày mẹ mất, đọc nhật ký của mẹ, con mới hay mọi chuyện. Nếu biết điều này sớm hơn, chắc con không thể im lặng. Nhưng lúc đó con đã cố nén lòng, không dám hỏi lại, sợ ba buồn...”.
Anh Ba ôm chặt lấy con. Hai mái tóc khẽ rung rung. Tôi ngoảnh mặt, không thể cầm lòng trước những giọt nước mắt khổ đau và hạnh phúc.
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 10:17:14
Trở về
KHUÊ VIỆT TRƯỜNG
 
Năm 17 tuổi, trái tim tôi đã rung động bởi một người đàn ông lớn hơn tôi cả một con giáp: Dũng. Đó là vào cái thuở những đứa con gái bằng tuổi tôi còn phải đợi mẹ kêu thức dậy trong buổi sáng trời rét đậm. Ở tuổi đó, nhiều bạn bè tôi còn tung tăng cắp sách đến trường, còn hồn nhiên nũng nịu đòi ba mẹ sắm cho một chiếc váy xinh xinh khi mùa xuân sắp đến. Nhưng với tôi, cuộc đời đã không dang bàn tay rộng để cho tôi một gia đình êm ấm. Tôi bước chân vào đời bằng đôi chân khẳng khiu của một đứa trẻ. Tôi lăn lộn giữa thành phố thênh thang những con đường rộng, chẳng thiếu những căn nhà mà dẫu có ngước hết tầm nhìn tôi cũng không thể nào nhìn được đến tầng cuối cùng.
Nhà tôi ở một miền quê buồn. Ban ngày đã buồn khi nhìn những con nước trôi cuộn về từ thượng nguồn xa lắc. Buồn muốn khóc khi nhìn thấp thoáng bóng người thành phố ở trên những chiếc thuyền chở hàng đi qua. Dường như chẳng có một chiếc thuyền nào dừng lại nơi tôi ở. Ban đêm còn buồn hơn khi nghe những câu vọng cổ được phát ra từ những chiếc máy hát của nhà nào đó. Tôi không hiểu tại sao ở làng quê của tôi mọi nguời lại rất thích cải lương. Mà cải lương thì luôn luôn kể lể những cuộc tình chia lìa. Vì buồn đến thế mà nhiều người đã bỏ quê ra đi, đến một thành phố nào đó kiếm sống. Ánh sáng đô thị như có một sức mạnh khiến tôi cũng nôn nao tìm một chuyến ly hương.
Lệ là cô bạn hàng xóm, cách nhà tôi chừng vài trăm mét. Lệ đã bỏ quê lên thành phố học nghề làm tóc nữ. Bẳng đi một năm trời, Lệ trở về nhà với dáng vóc bên ngoài giống như đã được gột rửa bụi bặm làng quê. Lệ đến nhà tôi chơi, tặng cho tôi một thỏi son môi. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi mới nhìn thấy thỏi son môi. Tôi đã tô son lên đôi môi của mình, ngắm nhìn đôi môi mình trước gương. Còn Lệ thì cười hồn nhiên: “Tuần sau tao lên thành phố rồi. Hay là mày lên đó học nghề làm tóc đi. Học xong bà chủ nhận việc, lương cũng khá”. Không chần chừ suy nghĩ, tôi đã cùng Lệ đón xe lên thành phố sau đó. Bởi dù sao thì tôi cũng đang muốn thoát cảnh buồn của làng quê mình.
Đúng như lời Lệ nói, bà chủ tiệm uốn tóc nơi nó làm đã vui vẻ nhận tôi. Bà ngắm nhìn tôi mà cười: “Em chỉ cần chưng diện lên một tí là bao nhiêu chàng trai thành phố phải đau tim”. Thật ra thì tôi chẳng chú ý đến việc mình đẹp hay xấu.  Tôi chỉ mong học cho xong nghề, đi làm kiếm tiền gởi về nhà phụ ba má tôi nuôi mấy đứa em ăn học. Nhờ chăm chỉ, tôi được bà chủ thương cho nên chỉ sau hai tháng là tôi đã được bà cho lương thử việc.
Ngày đầu tiên cầm đồng lương do chính mình làm ra. Tôi rủ nhỏ Lệ đi ăn bánh xèo chảo.Quán bánh xèo chảo nằm ngay một đầu hẻm gần chỗ hai đứa tôi ở trọ. Quán lúc nào cũng đông khách.Tôi và Lệ chen mãi vẫn chưa có chỗ ngồi thì có tiếng gọi: “Lệ và Hằng vào đây. Còn một chỗ trống đây này”. Người gọi hai đứa tôi là Dũng. Thật ra, lúc đó, tôi chỉ biết Dũng qua lời giới thiệu của Hằng: “Anh Dũng ở cửa hàng bán hoa vải bên kia đường. Hằng không biết à?”. Hàng hoa vải bên kia đường thì tôi biết, nhưng quả thật tôi chẳng hề chú ý tới ai là chủ cửa hàng, tôi cũng chẳng ngờ là Dũng vẫn thường đứng bên ô cửa kính bên đó mà quan sát tôi bên này. Dũng đã giành trả tiền bánh xèo hôm đó. Sau đó anh rủ hai đứa tôi đi xem ca nhạc. Đó cũng là lần đầu tiên tôi bước chân đến một sân khấu ca nhạc.
Tôi không tin vào định mệnh, thậm chí tôi không nghĩ rằng trái tim của mình vội vã mềm lòng trước một người đàn ông. Tôi chỉ vừa 17 tuổi. Mẹ tôi vẫn thường viết thư lên dặn dò: “Đừng tin con trai thành phố, có ngày sẽ khổ cả đời!”. Tôi viết thư trả lời mẹ: “Con còn nhỏ, má cứ yên tâm...”. Tôi đã từ chối bao nhiêu lời hẹn hò của những chàng trai bao quanh, thế mà với Dũng thì khác. Dũng khoan thai chinh phục tôi theo cách của một người lớn tuổi. Anh mang tới nơi tôi ở những món ăn tôi thích, chọn cho tôi những dĩa nhạc của những ca sĩ tôi mến mộ, có khi anh chủ động mua cho tôi một tấm thẻ điện thoại để tôi gọi về nhà cho tiện. Người đàn ông đó đã gây cho trái tim tôi một tình yêu thật âm thầm. Một lúc nào không biết, những cuộc đi chơi, đi xem kịch,  xem ca nhạc chỉ còn tôi và anh. Giống như Hằng đã hoàn thành nhiệm vụ của một nguời làm cầu nối cho tôi và anh. Anh cũng chẳng hấp tấp choàng vòng tay qua vòng lưng tôi, không vội vàng đặt môi lên đôi môi tôi. Anh tạo cho tôi một cảm giác tin cậy. Tôi mù quáng yêu anh, để rồi tôi mù quáng hiến dâng mà không biết rằng mình đang bước vào một con đường cụt, không lối thoát.
Mẹ ngạc nhiên khi tôi gọi điện báo rằng tôi sẽ về. Qua máy điện thoại, mẹ hỏi: “Có chuyện gì với con phải không Lệ?”. Tôi trả lời: “Chắc con về nhà luôn quá. Tự dưng con thèm nghe tiếng dòng sông chảy”. Cách đây mấy ngày, tôi đã làm một công việc mà tôi không nên làm: Bỏ chiếc bào thai vừa mới tượng hình trong bụng. Hằng đưa tôi đi đến trung tâm. Mấy lần tôi nhớm chân bước ra. Tôi sợ khi nhìn thấy trong đám đông lô xô trước mặt tôi cũng có quá nhiều cô gái rất trẻ. Hằng gằn giọng: “Mày mới 18 tuổi, còn cha Dũng thì đã biệt tăm rồi, sinh nó ra mày lấy gì nuôi nó?”.
Dũng đã bỏ tôi không một chút đắn đo. Hàng hoa vải đối diện nơi tôi làm việc đã thay chủ. Số điện thoại di động của anh chỉ vang lên âm thanh quen thuộc của tổng dài: “Số máy này tạm thời không liên lạc được. Xin quý khách gọi lại sau”. Tôi đã thầm thì với Hằng: “Chắc tao phải bới tung cả thành phố này lên quá. Phải tìm ra Dũng”. Hằng cười giống như bị thọt lét: “Tìm ra gã sở khanh đó rồi mày quỳ gối xin nhận đứa con trong bụng mày à? Mà chắc gì nó để cho mày gặp nó?”. Tôi đã khóc vùi một ngày, khóc như chưa bao giờ được khóc. Hằng vẫn ở bên tôi, dịu dàng đưa khăn cho tôi lau nước mắt.
Xe đã ra vùng ngoại ô. Vầng trăng sớm treo trên đầu tạo ra một màu kem phủ lên những ngôi nhà, những bóng cây xa xa một vẻ gì huyền hoặc. Tôi đưa mắt nhìn những ngọn đèn trong những ngôi nhà rất xa. Tôi tưởng tượng sau ngọn đèn kia có một mâm cơm vừa dọn lên, quây quần bên cạnh đó là một gia đình. Tôi đang làm cuộc hành trình trở về nhà năm tôi 18 tuổi. Mẹ đang đợi tôi về như đợi một đứa con khờ khạo ngày nào của mẹ. Mẹ sẽ không bao giờ biết trái tim tôi đã một lần tan vỡ!
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 10:29:42
Những sợi tóc bạc
LÊ QUANG HUY
 
Vậy là tôi phải ở lại lớp. Cái tin đó cũng không làm tôi ngạc nhiên vì học dở phải chịu thôi. Ngoài tôi ra, thằng Tiến – bạn chí cốt – cũng không được lên lớp. Hai đứa nhà gần nên thân nhau từ nhỏ, sẵn sàng chia sẻ tình cảm vui buồn. Tôi với nó thuộc dạng nghịch phá nhất lớp và bày ra đủ trò chơi mới lạ. Lần nọ, khi bước vào lớp, thầy cô và bạn bè đều kinh ngạc trước hàng chữ được viết nắn nót ở bức tường cuối lớp: “Đậu, rớt do thầy”. Thủ phạm chính là tôi nhưng không ai bắt được tận tay, thầy cô đành cho qua. Một lần khác, cả lớp đứa nào cũng nổi lên cơn ngứa dữ dội, ai cũng hướng đôi mắt về hai đứa “nghịch như quỷ”, nhưng có lẽ “cảm động” trước hình ảnh cả hai đứa vừa gãi vừa nhảy tưng nên cuộc điều tra chuyển sang hướng mấy đứa con nít gần trường. Tác giả của “tác phẩm” này là thằng Tiến. Đó là chưa kể những lần hái trộm nhãn nhà ông Ba trên đường đi học về, chận đường mấy đứa con trai lớp dưới kiếm chuyện đánh lộn hay xì vỏ xe tụi bạn cùng lớp.
Dù gan lì như vậy nhưng nghe cô chủ nhiệm đọc tên mình ở lại lớp, thằng Tiến miệng mếu máo, gương mặt thảm não như nhà có đám. Còn tôi chỉ hơi “quê” một chút vì bị con Liên – em gái tôi – chọc. Nó nhỏ hơn tôi một tuổi. Năm học lớp hai tôi phải học lại thế là “được” học chung với nó. So ra nó học giỏi hơn tôi và đặc biệt là không cho tôi... “cóp-pi” bài. Có lần cả lớp chọc quê tôi vì tháng đó con Liên hạng nhất còn tôi... đội sổ. Sắp tới nó lại lên lớp 9 còn tôi vẫn mến... lớp 8!
Gia đình tôi sống trong xóm lao động nghèo ở vùng ven thị trấn. Má tôi đi bán hàng rong từ sáng sớm đến tối mịt mới về. Ba tôi làm công nhân truyền tải điện rày đây mai đó một, hai tháng mới về thăm nhà một lần ít ai chú ý đến việc học hành của tôi. Con Liên siêng năng tự học hoặc tụm năm, tụm ba với con Hồng, con Thúy trong lớp học nhóm.
Chiều nay, ba tôi đột ngột về thăm nhà. Vừa thấy ba thấp thoáng đầu hẻm, con Liên trong nhà nhảy cẫng lên chạy ra đỡ lấy túi xách. Má tôi và mấy anh chị vừa về tới cũng mừng ra mặt. Riêng tôi thì đứng chết trân như... bị trời trồng. Vừa bước vào nhà, ba liền hỏi ngay:
- Thằng Việt đâu rồi? Có quà nè!
Tôi rón rén lại gần và đón lấy đôi giày thể thao mới tinh miệng lí nhí:
- Con cám ơn ba.
Ba tôi nước da ngăm đen hơn trước, có vẻ mệt mỏi sau chặng đường xa. Nhìn tôi một lúc, ông vỗ vai:
- Mới có hai tháng mà nhổ giò dữ quá. Bộ đi chơi dữ lắm hay sao mà đen vậy con?
Không chờ tôi trả lời, ba đi thẳng ra nhà sau. Chính câu hỏi ấy làm tôi lo lắng tột độ. Mặc dù ba tôi ít đánh đòn nhưng sẽ ra sao khi nghe tin thằng con trai một lần nữa ở lại lớp. Tôi tưởng tượng một trận đòn phủ lên người như thằng Tiến đã lãnh của ba nó. Hồi trưa, thằng Tiến mặt mày sưng húp, mắt đỏ hoe sang tìm gặp tôi mếu máo chỉ lên mông hai đường roi in đỏ. Nó còn nói thêm: “Ba tao nói tao ở lại lớp là tại mày rồi cấm không cho tao chơi với mày”. Tôi ngạc nhiên trước câu kết luận của ba nó. Không lẽ vì tức thằng con ở lại lớp roi “vu oan” cho tôi? Nhưng nghĩ lại, tôi cảm thấy hối hận những việc mình làm trong thời gian qua.
Buổi cơm chiều, cả nhà quây quần bên mâm cơm. Đang ăn giữa chừng, ba tôi chợt hỏi con Liên:
- Con học hành ra sao? Có lãnh thưởng như năm rồi không con ?
Con Liên nhanh miệng:
- Dạ có!  Con hạng nhì được lãnh thưởng một cái cặp da với hai mươi cuốn tập đó ba.
Nói xong, nó lấm lét nhìn tôi nháy mắt. Tôi hiểu nó báo động: chắc chắn ba sẽ hỏi tới anh đó! Chà, sẽ trả lời ra sao đây?
- Còn thằng Việt, chắc cũng lên lớp hả con ?
Câu hỏi đột ngột của ba làm tôi giật mình. Miếng cơm đang nuốt giữa chừng bỗng nhiên mắc nghẹn. Tôi chỉ biết lắp bắp:
- Dạ... dạ... năm nay con...
- Con sao? Ở lại lớp nữa à? – ba tôi hỏi.
- Dạ... dạ... con ở lại lớp 8.
Tôi nghe rõ tiếng thở dài của ba. Không khí bữa cơm như chùng xuống. Tôi cảm nhận được những cái nhìn nửa trách móc, nửa thương hại của người thân trong gia đình.
Cơm nước xong, ba ra trước hàng hiên ngồi trầm ngâm. Một lúc sau, con Liên mon men đến gần, nhỏ nhẹ nói:
-Ba ơi!  Đầu ba có tóc bạc nè để con nhổ cho.
Nó vào nhà xách cái ghế ra ngồi cạnh ba và hỏi:
- Sao ba có nhiều tóc bạc vậy?
- Ba già rồi chớ còn trẻ trung gì đâu.
- Ba nói sao chứ ba anh Tiến cũng bằng tuổi ba nhưng con đâu thấy tóc bạc.
- Ờ tại ba lo nhiều thứ đó con.
Giọng nói của ba trầm xuống. Ngồi trong nhà mà tâm trạng tôi cứ dằn vặt mãi. Chẳng thà ba bảo tôi nằm xuống đánh bao nhiêu roi, “lên lớp” hàng tiếng đồng hồ, tôi cũng chịu. Đằng này, ba cứ im lặng chẳng đả động gì đến tôi. Mấy lần trước, chỗ con Liên ngồi chính là tôi. Tôi tha hồ hỏi chuyện, đấm bóp cho ba khỏe, còn lần này thì... con Liên miệng không ngớt:
- Mà ba lo chuyện gì?
- Ba phải lo đủ thứ chuyện của gia đình, nhưng lo nhiều nhất là chuyện học hành của các con...
Nghe ba nói đến đó, tôi òa khóc nức nở, sự hối hận đã âm ỉ trong tôi từ chiều đến giờ bộc phát như một chén nước đầy được nhỏ thêm giọt nước. Nghe tiếng khóc, ba tôi nhỏm dậy gọi:
- Việt!  Ra đây ba biểu.
Tôi rón rén lại gần và nói trong tiếng nấc:
- Ba ơi, sao ba không la rầy hay đánh con?
Ba xoa đầu tôi rồi ôn tồn nói:
- Đánh con thì có được gì? Liệu khi bị đánh rồi, con có được lên lớp không? con có trở nên thông minh không? Ba rất buồn trong thời gian qua vì kế sinh nhai mà ba má không chăm sóc các con chu đáo, không theo dõi kỹ chuyện học hành của các con. Để con ở lại lớp như thế này, ba ân hận lắm. Tới đây, nếu sắp xếp được công việc, ba sẽ thường xuyên về thăm nhà, chăm sóc các con chu đáo hơn.
Tôi hiểu được tấm lòng cao cả của ba. Nghĩ lại, tôi thấy hối tiếc: lớn rồi mà chẳng phụ giúp việc gì cho gia đình mà còn bỏ bê chuyện học hành làm cho cả nhà buồn. Giọng ba vẫn nhẹ nhàng:
- Bây giờ con hãy hứa với ba má học hành đàng hoàng, không quậy phá. Ba má sẽ cố gắng tìm cách kèm con học. Mà con cũng đừng mặc cảm, có gì không biết cứ hỏi con Liên.
Con Liên được dịp lên tiếng:
- Tại ảnh lo chơi, nếu chịu học cũng giỏi lắm chớ!
Tôi đứng khoanh tay trước mặt ba rồi dõng dạc:
- Con hứa từ nay về sau sẽ ráng học không để ở lại lớp nữa. Con quyết tâm giờ này năm sau sẽ trình phần thưởng của con trước mặt ba.
Ba tôi mỉm cười gật đầu. Tôi nhìn những sợi tóc bạc của ba và cảm thấy tất cả tình thương và trách nhiệm của ba đối với các con.
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 10:47:50
Nỗi oan
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
 


Thằng Một xoay xoay cái miệng chài trong tay một cách điệu nghệ rồi rướn người tung lưới. Mặt nước nổi lên một vòng tròn rồi từ từ lan tỏa trên mặt sông những vòng tròn khác lớn hơn, lớn hơn. Một nắm chặt đầu chài rồi nhẹ nhàng kéo về phía mình. Tay kéo, tay cuộn. Cuối cùng, cả miệng chài đã lên khỏi mặt nước. Một vụt nó vào khoang, Một gỡ từng con cá rất lành nghề dù tuổi nó mới mười ba. Những con cá nhỏ bằng ngón tay, lớn bằng bàn tay đã nằm gọn gàng trong lưới. Già Hốc ngồi ở mũi xuồng, khoắng nhẹ cái dầm dưới nước để chiếc xuồng nhỏ chầm chậm trôi.
- Thôi! Bữa nay bây nhiêu thôi! Về nấu cơm cúng ba mầy! Thằng Một nhìn ông nội, bỏ cá vô giỏ rồi cuộn miệng chài lại, đặt kế bên. Già Hốc khoắng dầm bơi mau hơn. Một nhìn ông nội và nó biết được một điều là ông buồn lắm. Năm nào tới ngày cúng ba nó mà ông nội không buồn. Đám giỗ mà không mời lối xóm, chỉ hai ông cháu với ông bạn già Năm Bỉnh. Cái xã anh hùng này không chấp nhận một kẻ sợ chết, một thằng chiêu hồi. Người ta không qua lại với ông. Con dâu cũng bỏ đi khi thằng cháu nội ông vừa hơn hai tuổi. Nó lấy chồng ở xã bên, đẻ thêm hai đứa nữa, chưa một lần về thăm con. Thằng chồng sau nầy của nó không muốn dính dấp tới quá khứ của vợ, tới người chồng trước của vợ mình. Thằng Một lớn lên và từ từ hiểu được cái nhìn ghẻ lạnh của mọi người cho nó - con của một người phản bội. Nhưng nó không tin. Tự đáy lòng, bằng một thứ trực giác mạnh mẽ và chắc chắn - nó tin ba nó không bao giờ làm chuyện đó. Nhưng chính mắt mọi người đã chứng kiến, khi nắp hầm bí mật bị tung lên, ba nó đã đưa hai tay hô lớn: “Tôi đầu hàng, tôi xin hồi chánh! Tôi xin hồi chánh!”. Rồi ba nó bước những bước mạnh mẽ về phía địch. Một trái lựu đạn từ phía sau bỗng bay về phía trước nổ tung. Người chọi trái lựu đạn đó là Sáu Mi, người vừa vi phạm kỷ luật và cũng vừa bị ba nó kiểm điểm. Thừa lúc hỗn độn đó, Sáu Mi với Năm Thắng biến mất qua một chỗ núp an toàn khác. Chiều tối, tin Hai Trung sắp ra chiêu hồi bị Sáu Mi ném lựu đạn chết chung với địch, lan như lửa gặp dông. Già Hốc đang đốn mấy tàu lá dừa, vụt cái mác chạy một hơi qua nhà Sáu Mi. Mọi người có mặt đầy đủ. Ai cũng muốn biết tường tận chuyện động trời này.
- Tao hổng tin thằng Trung sợ chết rồi ra đầu hàng. Bây kể rõ tao nghe coi Sáu Mi! Mặt già Hốc tái lại, ánh mắt ông long lên những tia dữ dội giống như cái ngày ông moi xác vợ ông từ trong căn nhà cháy rụi vì đợt bom napalm năm đó.
Sáu Mi nhìn già Hốc, ánh mắt thoáng một chút bối rối. Y lẩn tránh tia nhìn sắc cạnh của già Hốc, rồi kể:
- Ba đứa tui ở dưới nghe tụi nó làm quá nên bàn với nhau liều chết. Tui nói, nếu nắp hầm bật tung ra, thì tụi mình cứ chọi lựu đạn ăn thua với tụi nó. Mình chết ba thì tụi nó cũng một bầy.
- Mầy nói coi, làm sao mà thằng Trung lại đầu hàng địch. Con tao, tao biết tánh. Nó chưa hề sợ chết. Ngày má nó chết cháy do bom napalm, nó đã thề trả thù. Thù nhà nợ nước mầy biết hôn? Con tao không làm chuyện đó!
- Nhưng thiệt tình là như vậy. Chú hổng tin cũng hổng được! Có Năm Thắng nữa, chớ hổng phải mình con.
Già Hốc đưa mắt tìm Năm Thắng. Ánh mắt ông dừng lại rất lâu như dò hỏi. Năm Thắng liếc nhìn Sáu Mi, rồi gật đầu.
- Sáu Mi nói thiệt đó chú. Con cũng hổng biết tại sao anh Trung lại như vậy. Lúc Sáu Mi chọi trái lựu đạn là ảnh hết cách rồi. Nếu để tụi nó bắt thì chết.
- Bây giờ xác nó ở đâu? Già hỏi trống không.
- Hồi nãy anh em đem về đầu xóm rồi. Chú coi chôn cất cho ảnh. Chuyện này con cũng không biết tính sao.
* * *
Má thằng Một ẵm nó trên tay, miệng khóc thút thít. Xác Hai Trung không còn nguyên vẹn nhưng cũng không cách nào hơn. Hai ba người lối xóm qua phụ đóng quan tài cũng về hết rồi. Không phải người ta không thương già Hốc nhưng cái tiếng “đầu hàng” khó mà được mọi người chấp nhận. Người ta còn tưởng tượng, nếu Sáu Mi không chọi trái lựu đạn thì y với Năm Thắng chắc gì toàn mạng. Mắt già Hốc ráo hoảnh. Ông thản nhiên nện những nhát búa vào mấy cái đinh cuối cùng rồi ngồi bệt xuống đất vấn thuốc. Nếu ai biết được ông đang nghĩ gì... Bao nhiêu nước mắt đã chảy ngược vào trong. Mất đứa con duy nhứt lại mang tiếng xấu ngàn đời - phản bội, đầu hàng. Nhục ơi là nhục.
Huyệt đã đào xong, thằng Trung nằm gần má nó. Chừng hơn mười người tới phụ chôn. Nghĩa tử là nghĩa tận, họ tạm quên chuyện Hai Trung đầu hàng giặc. Già Hốc có một mình. Cháu nội chưa đầy năm, con dâu mảnh mai yếu đuối. Người bạn chí thân của già Hốc là Năm Bỉnh lại không có ở nhà. Khi nấm mộ đã được hoàn thành, mọi người lục tục ra về, già Hốc gượng gạo cám ơn. Năm Bỉnh từ xa, hớt hơ hớt hải chạy tới:
- Trời ơi! Sao lại như vầy hả anh Út? Thằng Trung chết rồi sao? Sao người ta lại nói nó đầu hàng giặc? Tui hổng tin. Có trời xuống nói tui cũng hổng tin.
Già Hốc ôm chầm lấy Năm Bỉnh rồi khóc nấc lên:
- Nó chết rồi anh Năm. Chết nhục nhã lắm! Chết mà để tiếng xấu muôn đời.
Rồi ông khóc. Khóc như bao đớn đau đã òa vỡ khi ôm chặt người bạn thân nhứt trên đời, người mà ông tin là hiểu cha con ông nhứt.
Hai người ngồi phịch xuống đất. Đôi vai già Hốc vẫn run run. Năm Bỉnh khẽ khàng:
- Tui cũng hổng tin. Nhưng thằng Sáu Mi với Năm Thắng sờ sờ ra đó, làm sao bây giờ. Thôi? Ai cũng có phần có số, anh đừng buồn rầu quá tội nghiệp con vợ nó.
Bỗng già Hốc vụt đứng dậy cầm lấy cái mác nằm gần đó rồi bằng một động tác chính xác, ông chặt phụp ngón tay trỏ của mình. Năm Bỉnh chỉ còn kịp nhìn thấy cái ngón tay văng ra, như cái đuôi thằn lằn vừa bị đứt. Tiếng già Hốc tắc nghẹn:
- Tui chôn nó rồi thì coi như không có thằng con nầy. Tui thề như vậy. Máu từ bàn tay ông nhểu xuống ướt một khoảnh đất dưới chưn. Rồi ông ngất xỉu.
* * *
Thằng Một đi một đỗi thấy đói. Trên vỉa hè có một xe nước mía với một xe bánh mì, nó bước tới, ngồi xuống cái ghế con kêu một ổ bánh mì thịt. Trưa hôm qua, khi quá giang xe tải công ty xuất nhập khẩu của huyện về Sài Gòn, nó chưa kịp ăn gì. Buổi sáng nó xin già Hốc đi phụ đám cưới thằng bạn. Nó giấu biệt già chuyện đi Sài Gòn. Hồi tối này nó ngủ trên xe. Anh tài xế là người cùng xã, chỉ dẫn đường sá cho nó đàng hoàng rồi còn dặn:
- Chừng nào muốn về, mầy kêu xích lô chở tới trạm kinh tế huyện... tỉnh... đường... là tới. Đừng đi lung tung, lạc đường. Coi chừng tiền bạc, ở trên này móc túi dữ lắm.
Không biết có lần nó nghe ai nói, người biết chuyện ba nó rành rọt nhứt chỉ có Sáu Mi và Năm Thắng. Sáu Mi thì không hy vọng rồi vì ông ta là người đã chọi lựu đạn đã khẳng định ba nó đầu hàng. Nhưng còn Năm Thắng, thái độ Năm Thắng không rõ ràng, chỉ ấp a ấp úng nói theo Sáu Mi, không biết còn chỗ khuất lấp nào mà chưa ai biết. Ba nó chết lúc nó mới hơn bảy tháng. Nó lớn lên với nỗi tủi nhục có người cha hèn nhát, đầu hàng địch. Hai ông cháu sống nương nhau. Nó còn la cà trong xóm, chớ già Hốc tuyệt nhiên không. Từ sau cái ngày ông chặt ngón tay thề không có đứa con phản bội, ông cũng không tới lui với ai. Năm Bỉnh biết ý bạn, mỗi ngày qua lại mấy lần. Ngày má thằng Một bỏ đi, già Hốc cũng không ngăn cản. Ông biết cái ngày đó sớm muộn gì cũng tới. Chỉ tội cho thằng Một, mấy năm trước có đăng ký nghĩa vụ quân sự, tay xã đội trưởng gạt đùa:
- Mầy khỏi đăng ký mất công, trên không chọn đâu. Ở nhà đi lưới với ông nội thì được! Giọng y nhuốm màu rẻ rúng. Thằng Một tức mình, chạy một hơi ra mộ ba nó ngồi khóc. Rồi những lời xầm xì của thiên hạ cũng lọt vào tai. Nó nảy ra ý định đi tìm Năm Thắng cho tường tận sự thật.
Căn nhà tương đối rộng với một khoảng sân đầy hoa kiểng đẹp, cái bảng số nhà cũng đẹp với con số 15 mạ vàng nổi bật. Một đứng quan sát hồi lâu. Trong nhà, một người đàn bà ăn mặc sang trọng bước ra với con chó nhỏ trên tay. Một tới sát bên rào. Người đàn bà bước xuống tam cấp:
- Cậu muốn hỏi gì?
- Dạ! Dạ cháu hỏi nhà chú Năm Thắng!
- Nhà Năm Thắng ở đây. Cậu ở đâu tìm tới?
- Dạ cháu ở Long Toàn, ba cháu ngày xưa là bạn của chú Năm. Ba cháu là Hai Trung chết rồi!
Người đàn bà ra chiều suy nghĩ rồi nhìn đồng hồ tay:
- Giờ này chắc ảnh sắp về! Cậu vô nhà chờ chút!
Ngoài đường, một chiếc xe du lịch màu huyết dụ dừng lại. Một ngó thấy một người đàn ông xấp xỉ năm mươi, dáng vẻ đầy đặn, tay xách cặp hồ sơ bước về phía cổng. Người đàn bà reo lên.
- Ảnh về rồi đó! May là bữa nay không nhậu!
Một nhìn người đàn ông rồi cúi đầu chào. Người đàn ông ngờ ngợ nhìn Một (vì thiệt tình, Một giống Hai Trung như tạc) rồi hỏi:
- Chú muốn hỏi ai?
- Dạ! Cháu là con Hai Trung, cháu muốn tìm chú Năm Thắng.
Nét mặt người đàn ông thoáng chút bối rối, rồi chỉ tay vào nhà:
- Vô nhà đi, chú là Năm Thắng đây!
Phòng khách khá sang trọng với cách trưng bày tuy đơn giản nhưng cũng toát lên được dụng ý của chủ nhân. Năm Thắng kêu vợ cho nước uống rồi ngồi nhìn đăm đăm Một:
- Năm nay cháu được bao nhiêu?
- Dạ hăm ba!
- Cháu sống bằng nghề gì? Mà ông nội còn mạnh không?
- Dạ! Cháu câu lưới phụ ông nội, ông nội già rồi nhưng cũng còn khỏe.
- Ai chỉ mà cháu biết đi tìm chú? Tìm có việc gì không?
Một ấp úng, mắt nhìn thẳng vào Năm Thắng với cái nhìn như cầu khẩn. Năm Thắng chột dạ. Cái ngày này rồi cũng đến, lẩn tránh đến đâu rồi cũng đối diện với nó thôi. Mà đâu phải y không đối diện. Còn sự đối diện nào quyết liệt và đáng sợ hơn khi đối diện với lương tâm mình. Giống như phải nhìn chằm chằm gương mặt mình trong gương. Phải đối diện với chính con người thật sự của mình để nhớ, để nghĩ tới những chuyện mình đã làm cho mình, cho người. Đã bao năm trôi qua từ sau cái chết của Hai Trung. Cuộc chiến khốc liệt hơn làm người ta không còn thì giờ để nghĩ, để nhớ chuyện mình làm. Nhưng khi đất nước đã thanh bình rồi, những người may mắn còn lại sau cuộc chiến là những người nhận được sự ưu đãi của Nhà nước, của nhân dân. Người ta được tôn vinh, được tặng thưởng. Cuộc sống đã đi vào giai đoạn mới và cũng có lúc người ta quay về quá khứ. Năm Thắng từ sau ngày hòa bình đã về Sài Gòn công tác. Tài năng đưa đẩy ông đến với cái chỗ ngồi hôm nay thật là xứng đáng. Nhưng ngay cả vợ ông, cũng không biết được ông đã bao đêm dài không ngủ. Đã bao đêm ông phai đối diện với chính mình về cái chết của Hai Trung. Người chiến sĩ cách mạng có thể chết mấy lần trong cuộc chiến nhưng không thể để lại tiếng xấu ngàn sau. Chính cái hèn hạ trong con người ông. Chính cái gật đầu đồng thuận của ông đã biến một anh hùng liệt sĩ thành một kẻ phản bội quê hương và lý tưởng của mình. Cái gật đầu ngu si của ông đã như mũi tên xé không khí lao vào phía trước. Không nắm giữ lại được nữa rồi. Lịch sử đã bước những bước dài của nó. Người anh hùng nằm dưới mộ mãi mãi là một tội đồ và bao người thân quanh anh đã chịu chung số phận. Cũng có những lúc ông muốn hét to lên sự thật để lương tâm không còn dằn vặt nữa, nhưng một chút yếu hèn đã giữ ông lại. Ông không thể đánh mất những gì ông đang có để đổi lại sự trong sạch cho Hai Trung. Quá khứ đã bị chôn vùi. Hơn hai mươi năm, ông chưa một lần về qua chốn cũ, ông không muốn biết già Hốc với thằng Một sống ra sao. Nhưng ông trời chẳng chiều ông, bây giờ ông phải đối diện với cái ông muốn quên, muốn chôn vùi...
***
Thằng Một được Năm Thắng cầm ở lại. Ông vẫn chưa nói gì ngoài chuyện đãi đằng cơm nước. Đêm đến, ông lặng lẽ ra ngoài sân trong cái băng đá gần gốc mai chiếu thủy chín tầng. Bầu trời đầy sao y như cái đêm đưa xác Hai Trung về. Rồi ông nhớ tới Sáu Mi, ông bỗng rùng mình. Phải chăng Sáu Mi đã bị quả báo và chừng nào đến lượt ông? Suốt bữa cơm chiều, ông không dám nhìn thẳng thằng Một. Nó giống ba nó như một bản sao. Từ cái gắp, cái nhai, từ cách đặt đôi đũa xuống bàn. Có tiếng bước chân của vợ, Năm Thắng rít một hơi thuốc.
- Làm gì mà ngồi ngoài này? Chừng nào thằng cháu đó về, hả anh?
- Ừ! Anh còn chút công chuyện với nó. Em vô ngủ đi!
* * *

Người dàn ông ở phòng chăm sóc đặc biệt không có tóc. Cái đầu y giống đầu một nhà sư. Khi Năm Thắng với thằng Một bước vô, y liền chạy đến núp sau cái bàn rồi thò đầu ra cười như con trẻ. Năm Thắng đưa tay ngoắc, y lắc đầu rồi lại gật đầu. Năm Thắng dỗ dành:
- Năm Thắng nè! Anh không nhớ sao? Sáu Mi không nhớ Năm Thắng sao?
Sáu Mi - quả thật người đàn ông đó là Sáu Mi - giương đôi mắt vô cảm nhìn Năm Thắng rồi nhìn qua thằng Một. Bỗng, y bật lên tiếng kêu thảng thốt:
- Hai Trung! Hai Trung đây mà! Hai Trung còn sống đây mà!
Một tái mặt. Nó chưa kịp hiểu những gì đang xảy ra trước mắt. Năm Thắng xua tay:
- Không phải Hai Trung đâu! Con của Hai Trung đó! Sáu Mi nhớ không? Hai Trung chết rồi.
Sáu Mi bỗng ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Cô hộ lý bước vào:
- Bữa nay anh ấy lại bị kích động. Thôi! Mình ra ngoài đi!
Thằng Một không dằn được nỗi ngạc nhiên:
- Người đó là chú Sáu Mi, là người đã liệng trái lựu đạn phải không chú?
- Ừ! Sáu Mi đó!
Gương mặt Năm Thắng bỗng tối sầm lại. Ông nắm tay lôi thằng Một vào xe rồi ra dấu cho người tài xế bước ra. Ông bắt đầu thú tội:
- Sự thật, ba cháu không phải kẻ hèn nhát phản bội gì đâu! Ba cháu là một anh hùng - một liệt sĩ cháu à! Lúc biết nắp hầm sắp bị cạy và tụi nó đông lắm, Hai Trung đề nghị mình sẽ liều chết. Anh sẽ giả hàng, giả chiêu hồi để tiến gần tới bọn địch. Như vậy, tụi nó chỉ chú ý tới ảnh thôi. Lúc đó, Sáu Mi sẽ chọi lựu đạn để thoát thân.
Thằng Một xoay người lại. Đôi mắt nó phóng ra tia nhìn như hai tia lửa điện nhắm vào mắt Năm Thắng:
- Như vậy, ba con đã liều chết để mấy chú thoát thân. Ba con nói chiêu hồi, nói đầu hàng là giả. Sao mấy chú lại nói khác?
Năm Thắng cúi đầu, giọng lạc đi.
- Chú có lỗi với ba cháu. Lúc đó, chú không ngờ Sáu Mi nói vậy. Bữa trước, chú với Sáu Mi bị ba cháu phê bình nên trong lòng còn oán giận. Sáu Mi đã nhân cơ hội trả thù, chú thì hèn nhát không dám nói khác đi vì chú nghĩ dẫu sao ba cháu cũng chết rồi. Chú đâu ngờ lương tâm chú không yên. Đã bao nhiêu lần chú định nói ra sự thật cho lòng dạ được nhẹ nhàng nhưng chú chưa đủ can đảm. Lúc Sáu Mi chưa gặp tai nạn, ảnh vẫn tìm cách khống chế thậm chí là đe dọa chú. Hai năm trước, ảnh bị tai nạn giao thông trong một lần đi công tác rồi lâm vào hoàn cảnh này. Vợ ảnh không nuôi được người bịnh như ảnh nên gởi luôn trong trại. Chú nghĩ là ảnh bị quả báo, chú sợ cái ngày của chú cũng tới. Chú phải nói - nói hết những gì đã giằng xé chú bao năm nay.
Nói tới đây, Năm Thắng bỗng ôm lấy đầu, rồi ông khóc nấc lên như một đứa trẻ.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 13.03.2007 10:56:31
Khuyết tật
LÊ VŨ HƯƠNG DUYÊN
 
Nghe tin cha sẽ xuống Sài Gòn, mấy hôm nay điện thoại nhà Tựu reo liên tục. Thằng Thăng gởi mail qua điện thoại di động hỏi chị tính làm sao? Mẹ căn dặn không hơi đâu mà chứa chấp con nhé. Tựu cứ thấy bần thần, buồn không ra buồn, vui không ra vui. Cha bây giờ ra sao? Tựu cố hình dung mãi. Ngày mẹ về bắt Tựu đi cho khỏi cảnh cơ hàn, lúc đó cha còn trẻ lắm, da dẻ trắng hồng hào, tóc còn xanh um. Bây giờ Tựu đã lớn, đã theo chồng ở riêng, lại sắp làm mẹ nữa, không biết cha gặp lại có nhận ra được không? Ngày về với mẹ, Tựu ốm yếu còm nhom, bây giờ cuộc sống khá hơn, Tựu đã khác. Tựu chợt nghĩ, nếu không, vẫn sống với cha Tựu sẽ ra sao nhỉ?
Cha mẹ ly dị, hai chị em mỗi đứa một phương, cu Thăng về với mẹ, Tựu ở với cha, ngày đó Tựu còn nhỏ lắm. Tựu nhớ cha mẹ đi đâu đến tối mịt chưa về, ẵm theo cả cu Thăng. Bà nội mãi loay hoay với cơm nước, heo gà. Tựu đứng trơ vơ đầu hẻm tối vắng hoe, lâu lâu gặp một người qua, cứ níu lấy quần mà hỏi: “Có thấy cha mẹ con không?”. Đêm, trong giấc say nồng, nghe mơ hồ hơi ấm nóng bên mình, tỉnh giấc chỉ thấy cha đầy hơi rượu, không thấy mẹ và cu Thăng đâu. Lớn lên Tựu mới biết, hồi đó cha đã phải vượt nhiều đau khổ.
Cha đến vào một buổi chiều mưa, mưa tầm tã, và nhà Tựu cúp điện tối om, anh chồng Tựu bảo Tựu có người tìm. Lúc đó Tựu thấy cha ướt sũng trong chiếc áo mưa mỏng tanh, run lập cập. Khoảng mấy giây sau Tựu mới nhận ra cha. Cha quá già so với hình ảnh Tựu mong đợi, hai má hóp xọp, tóc đã muối tiêu... và nỗi mừng ập đến tràn đầy. Cho dù trước đó mẹ có nói về cha thế nào đi chăng nữa thì giờ khắc đó đối với Tựu vẫn là những cảm xúc không thể nào kìm nén được. Tựu thấy môi cha tím tái đi vì lạnh nhưng cha cứ cười sang sảng: “Có nhận ra được cha nữa không? Con lớn quá hè!”. Cha quay ra ngoài: “Vô đây Con!” rồi nhìn Tựu: “Đây là Ngọc. Tựu chắc biết Ngọc rồi hè?”. Ngọc thập thò phía đằng sau cánh cửa, rụt rè lú ra. Tựu cười cười: “Em xinh quá! “. Cha bảo: “Con gái cha có đứa nào không xinh!”. Tựu chỉ chỗ cho cha và em tắm rửa rồi nỗi mừng cứ bấn lên trong người. Cha con, chị em lâu ngày đoàn tụ có quá nhiều điều để nói với nhau, đến tối chồng Tựu về mới dứt ra được. Đêm đó, Tựu trải thêm một tấm nệm bên cạnh tấm nệm hai vợ chồng Tựu vẫn thường nằm cho cha và chồng Tựu ngủ, lại trò chuyện đến khuya lắc mới thôi. Cha nói kỳ này cha dắt Ngọc xuống để gởi gắm vợ chồng Tựu bảo bọc dạy dỗ giùm cha, em vừa rớt đại học và cũng đang có ý định sẽ thi lại. Cha nói thật nhiều, loanh quanh mãi vấn đề gia cảnh. Tựu thấy tội nghiệp cha, một gánh trên vai bảy tám miệng ăn vào thời buổi này quả là quá sức. Mẹ bực mình khi nghe Tựu kể: “Xời, mày cũng khéo tin! Ai biểu đẻ nhiều, sung sướng cho chán chê thì giờ phải biết tự lo, làm phiền chi tới con cái vậy! Chớ những lúc mẹ đây khốn khó, mẹ có làm phiền tới ổng không?”. Thăng thì buồn buồn: “Thật ra nghe cha xuống tui cũng mừng, mừng lắm, muốn gặp lại cha thử một lần xem sao, háo hức lắm. Tưởng là cha nhớ thương tui với chị thì tìm về chớ thực tình đâu phải, có việc nhờ vả mới tìm! Tựu ngậm ngùi thấy mẹ và Thăng ai cũng có lý. Thật ra bao nhiêu năm rồi cha có đoái hoài gì! Chợt mông lung nhớ về những tháng ngày không có cha bên cạnh, Tựu thấy lại ràng ràng mới đây hai chị em còn chở nhau lòng vòng ngoài Sài Gòn kiếm việc, không một đồng dính túi, thấy gì cũng ước mơ, thấy gì cũng thèm thuồng. Dạo đó nghe đâu cha trúng vụ cà phê đậm lắm.
“Chị nói cho tui nghe sao giúp cha được hay vậy?”- Thăng gởi mail qua hỏi. “Biết làm sao? Tội nghiệp cha quá, mà Ngọc cũng dễ thương Thăng ạ”, “Cái đó tùy chị, sau này chắc cha sẽ đem xuống thêm vài đứa nữa. Tui thì đã lâu trong thâm tâm không nghĩ là mình còn có cha”.
Nghe như có tiếng thằng Thăng thở dài đâu quanh đây, Tựu muốn được ôm thằng Thăng vào lòng, cái thằng coi vậy chứ tình cảm lắm, thương lắm. Ừ, lúc cha mẹ ly tan, Tựu còn ở với cha được mấy năm, được cha yêu thương bảo bọc. Còn thằng Thăng từ nhỏ đến giờ có được sống với cha ngày tháng nào cho trọn vẹn! Có được gọi tiếng cha thì cũng chẳng qua là vay mượn người ta chớ nào đâu phải cha mình. Có lần cha nói:
- Hai con có trách nhiệm với các em giùm cha, rồi cha cũng sẽ có trách nhiệm với hai con, cha hứa.
Thằng Thăng chua chát:
- Cha mặc cả với tụi con đó sao? Cha thử nghĩ coi bao nhiêu năm nay chị em con sống thế nào? Đâu cần cha dìu dắt, tụi con vẫn nên người đó thôi!
Cha cười một tràng cười thật dài, nghe lạt thếch:
- Thăng cứ nói vậy. Cha đâu muốn vậy đâu!
Tựu chợt nghe tim mình đập mạnh, như bị bóp nghẹt bởi một cảm giác tủi hờn đè nén quá lâu, bỗng bùng ra những lời cay đắng:
- Không biết có khi nào cha hiểu được chị em con không? Con thì đang chịu ơn bảo bọc của chồng con, còn thằng Thăng nó tạo lập được nên cơ nghiệp đó cũng là nhờ công lớn của vợ nó. Sảy gánh này không biết tụi con ra sao nữa. Chừng đó cậy cha, cha cứu vớt được không?
Cha ngồi dựa mé vách tường, mặt tỉnh khô lạ lùng. Làm như tự nãy giờ cha vẫn chăm chú vào cái màn hình ti-vi trước mặt. Đột nhiên cha xoay qua hỏi Ngọc:
- Đứa nào mới chết đó bây?
Ấy là cha hỏi về tình tiết trong phim trên ti-vi, Tựu quay ngang mặt dòm xuống dưới lòng đường, cố giấu những giọt nước mắt tràn ra cay xè nơi sống mũi. Đêm đó, Tựu thức gần trắng đêm với ngổn ngang nỗi lòng.
Sáng, Tựu dậy sớm để pha cà phê cho chồng và cha thì đã thấy ngoài ban công cha khề khà uống rượu, cha bật cười hinh híc:
- Sáng nào cha cũng phải làm vài chung cho ấm bụng đó con?
Có một cảm giác chán ngán dâng lên xâm chiếm lòng Tựu, không biết có phải do người già thì đổi thay tâm tính hay do Tựu đã lớn, suy nghĩ không còn non nớt như xưa. Tựu thấy cha quá khác, không còn nhận ra được người cha thuở bé thơ Tựu vẫn hằng tôn kính. Ngọc cũng thở dài:
- Lúc này cha uống rượu dữ lắm chị ơi.
Tựu buộc hỏi Ngọc:
- Em phụ giúp việc nhà được không?
Ngọc lặng im giây lâu rồi nói lí nhí trong cổ họng:
- Không.
- Vậy phụ bán quán cơm?
Nó cúi gằm mặt, lắc đầu nguầy nguậy:
- Chị xin cho em việc gì cũng được, nhưng không giúp việc nhà, không phụ bán quán.
- Vậy chớ bây giờ em thích làm việc gì? Ở Sài Gòn này em nghĩ em có thể làm được việc gì?
- Em đâu có biết. Em có bằng tú tài mà chị!
Tựu bật cười khan:
- Em ơi, khờ quá! Em có biết là ở đây cử nhân người ta còn thất nghiệp cả đống không?
Ngọc im lặng, lầm lì. Nó còn quá bé trước những vấn đề nan giải. Thằng Thăng gởi mail qua: “Chị định xin cho Ngọc ở đâu chưa?”. “Chưa. Nó đâu chịu làm mấy chỗ bèo”. “Vậy chớ nó muốn làm gì?”. “Không biết nữa”...
Ở phía góc phòng, có một thùng quần áo cũ của vợ chồng Tựu, không còn dùng nữa. Tựu thấy cha cứ ngồi săm soi nó mãi.
- Cái quần kaki này chồng con có còn bận không Tựu hả?
- Không cha ạ, cha cứ lấy mà bận, sẵn lục ra coi có cái nào được được thì đem về cho mẹ và mấy em trên đó.
- Chà, vậy thì cho cha xin Tựu hỉ?
- Cha đổ ra mà lựa cho dễ.
- Không cần lựa đâu con! Đồ này đem về nhà mình là bận hết.
Cha lựa ra một cái áo thun và một cái quần soóc, trải ra sàn vuốt vuốt, rồi Tựu thấy cha đem vô phòng tắm, thật lâu. Chừng cha trở ra hỏi Tựu:
- Đẹp không bây? Cha bận bộ này coi trẻ ra bây hỉ?
Cha nói xong thì bật cười sang sảng. Có một cảm giác mơ hồ thoáng qua, Tựu thấy thương cha quá, nhưng tự dưng cảm giác ấy nghẹn ngang nơi cổ họng. Tự dưng Tựu nhận thấy cha sao mà quá vô tư! Không lẽ cha bỏ nhà đi và một đàn em nhỏ với mấy rẫy cà phê ở cao nguyên xa lắc, xuống Sài Gòn chỉ để làm mấy chuyện cỏn con này sao? Một khoảnh khắc, Tựu nhìn cha với cảm giác thật là kỳ cục. Nuốt tiếng thở dài ngao ngán vào trong, Tựu lại nghĩ thương cha và bất lực. Cha và Ngọc đều có cách nghĩ khác, thật khác. Thực lòng Tựu cũng như thằng Thăng, bao nhiêu háo hức mong chờ chợt vỡ tan khi gặp lại cha lần này, nó làm sao đó, Tựu cố lòng phân giải, nhưng không sao bày tỏ với cha được. Thái độ hờ hững giả lảng của cha cứ như một lưỡi dao bào mòn những nhớ thương mong đợi, cứ như là Tựu có dư khả năng giúp đỡ mà Tựu không muốn giúp đó thôi. Ý nghĩ đó làm Tựu giận phừng phừng:
- Cha biết là tụi con đã vượt bao gian nan để có được ngày nay không? Những năm tháng đó không có ai nắm tay dìu dắt như mấy em con cha bây giờ đâu. Con không muốn đặt lại vấn đề cha mẹ đã vô tâm với tụi con như thế nào, chỉ mong cha hiểu rằng cha đang làm khó nghĩ cho con. Thật ra cha nghĩ tụi con giúp cha được gì? Trong khi con gái cha sống ở đất Sài Gòn này không nhà cửa, không việc làm, chỉ nương náu chồng, mà vợ chồng con cũng đang thuê nhà sống đó thôi! Nuôi em giùm cha là điều khó có thể đối với con lúc này. Còn xin việc làm cho em hả? - Tựu bật cười - Không có việc nào là cao sang cho mấy người không chịu làm những việc thông thường.
Tựu vênh mặt, dòm xuống dưới đường nắng chang chang, thấy thiên hạ ngược xuôi tất bật, thấy những người già đi ăn xin, những trẻ nghèo bán vé số, những em bé đánh giày cần mẫn... Chợt thấy căm ghét những người thân máu thịt làm sao! Cha nín re, không cười nữa, hai tay thọc túi quần, chân nhịp nhịp với vẻ vô cảm. Rồi cha lững thững ra ngoài ban công đầy nắng, còm lưng tựa hẳn vào bệ vịn, mắt nheo nheo nhìn vào khoảng xa xăm. Thốt nhiên Tựu nghe nỗi ray rứt giằng xé ở trong lòng.
Cha và Ngọc ở chơi được dăm hôm. Một bữa, chồng Tựu từ công ty đem về tấm thiệp mời đám cưới của một người bạn thân ở dưới quê gởi lên, bảo đám này giá nào cũng phải dự, không gởi quà được đâu. Sẵn dịp về quê giải quyết vài công việc, hỏi Tựu tính làm sao. Tựu không tính toán gì cả, nói cả hai cùng về, còn cha và Ngọc ở chơi vài ba bữa vợ chồng Tựu trở vô rồi tính. Chồng Tựu sợ cha buồn, Tựu hỏi cha, cha nói không sao. Đêm trước ngày hai vợ chồng Tựu về quê, Tựu lấy hai trăm nghìn đưa Ngọc dặn dò:
- Em đi chợ nấu cơm cho cha ăn, và anh chồng chị nữa. Ngày nào ảnh ở nhà thì em nấu gì đó ngon ngon rồi mời ảnh ăn. Chị để cả tiền cho em và cha đi gọi về cho mẹ báo cho mẹ hay ngày cha về. Anh chị về quê mấy bữa rồi lên, em có tự lo được không?
Ngọc cầm tiền nói: “Được”. Đêm đó, Tựu thấy sao cha cứ nằm xoay qua trở lại, Tựu nghĩ chắc cha lo mẹ kế ở nhà mong. Gần sáng, Tựu giật mình thức giấc dòm qua thấy chỉ có một mình chồng Tựu ngủ, chạy ra ban công thấy cha đang đứng tựa vào bệ vịn, dòm xuống dưới đường, hút thuốc lá.
- Nhớ mẹ à cha?
- Không, tự nhiên cha khó ngủ.
- Cha không ngủ hồi đầu đêm tới giờ phải không? Cha thức khuya mà hút thuốc nhiều là không tốt cho sức khỏe đâu.
- Nhằm gì con. - Cha ngần ngừ giây lâu rồi hỏi - Tựu này, vợ chồng con về quê bao lâu?
- Dạ chừng ba ngày.
Cha ầm ừ trong cổ họng, miệng lẩm nhẩm “Ba ngày...”, chân nhịp nhịp.
Năm giờ sáng hai vợ chồng khăn gói lên đường, trời còn sẩm sẩm, lất phất mưa. Cha giũ giũ cái áo lạnh cũ mèm của cha bảo Tựu đem theo dọc đường bận cho ấm, Tựu miễn cưỡng cầm, dặn lại vài điều đã dặn tối qua rồi ù ra cửa chạy theo chồng. Và Ngọc cũng thức dậy đưa tiễn, sao cha cứ ngần ngừ mãi như muốn nói một điều gì, Tựu thoáng nghĩ nhưng rồi cũng không hỏi làm chi, mà làm như cũng vội vã về quê thôi không còn thời giờ để hỏi. Ở dưới đường Tựu ngửa mặt dòm lên, thấy cha ở ban công lầu ba chung cư dõi xuống, còm cõi, buồn thiu. Trên đường về hai trăm cây số diệu vợi xa, đi qua nhiều phố phường làng mạc, Tựu mới có thời giờ để nhớ về cha. Tựu ngỡ ngàng, Tựu hoang mang... Đâu rồi một người cha ân cần tận tụy, yêu thương Tựu hết mực? Đâu rồi những vỗ về an ủi, những động viên con phải nghĩ thế này, phải hành động thế kia. Đâu rồi... Tựu nhớ những ngày thơ không có mẹ, đi đâu cha cũng cõng Tựu theo, sợ để ở nhà bị mẹ kế không thương đánh đập, đi đâu ai cũng quở sao mà cưng con gái quá! Những ngày thơ đau bịnh, cứ mỗi lần Tựu mở mắt ra là thấy cha cười, cười mà trào nước mắt. Bỗng nhiên trong tâm khảm tràn về ào ạt những tháng ngày khốn khó, Tựu nhớ có buổi cả nhà quây quần bên mâm cơm đợi cha đi đâu đó mang về một mớ xương bò đã hầm xí quách đến lạt thếch, xúm lại vừa cha vừa mẹ kế vừa đàn con gặm, mút nghe rốn rốt hết sức ngon lành. Mà thứ đó Tựu biết người ta chỉ cho không. Có những đêm trời đông giá lạnh, đốt một đống lửa giữa nhà khói um vì củi ướt, những bàn tay to, những bàn tay nhỏ xúm xít hong hơ, cha lại lao ra ngoài trời khuya gió buốt như cắt để lúc sau lại ôm về một ôm cội rền rền khô rốc cháy thật ngon, Tựu cũng biết là cha lấy ở đâu. Lúc đó Tựu kính trọng cha quá chừng. Bây giờ, sau mười mấy năm gặp lại, té ra cha chỉ là kẻ cạn tình đến vô tâm?!
Tối, tiệc tan. Theo nhóm bạn cũ rủ, hai vợ chồng kéo đi karaoke, hào hứng la hò, hào hứng ngả nghiêng, Tựu làm như không vướng bận điều gì. Nhưng một loáng Tựu nhớ đến cha, nhớ cồn cào. Len ra ngoài, mới biết trời mưa to, Tựu ngồi dựa vào một góc tường yên tĩnh, lấy điện thoại di động gọi về Sài Gòn: “Alô”! Cha đó phải không? Con đây, Tựu đây!”, “Ừ, Tựu hả? Sao sáng giờ không gọi cho cha bây?”. “Hôm nay cha ăn cơm với gì? Ngọc có đi chợ nấu cơm không? À, cha nhớ nhắc Ngọc kêu anh chồng con ăn cơm nữa đó”. “Ngọc đi chợ mua nửa ký cá hết ba nghìn rưỡi, mua năm trăm rau muống nấu canh. Còn gạo mắm tiêu đường đã có con mua sẵn. Gọi điện thoại về cho mẹ hết năm nghìn rưỡi, chỉ có vậy thôi. Còn lại một trăm chín con à”. “Sao ít vậy? Sao cha không nói Ngọc mua gì thêm mà ăn”, “Thôi, vậy là tốt rồi con, Tựu à! À, ừ... ông bà sui ngoài đó khỏe cả con hỉ?” “Dạ”. “À, con này!... Tựu này! Con nói bao giờ thì vợ chồng con vô lại Sài Gòn hỉ?”. “Dạ, hai ngày nữa!” “Cha ở đây nói chung là cũng buồn, cả ngày chỉ lủi thủi trong nhà hết xem ti-vi lại ra ban công đứng. Cơm chín rồi lủi thủi ăn, kêu mãi thằng anh chồng con chẳng ơi hỡi một lời”. Cảm giác buồn chán ấy truyền qua Tựu như một luồng điện, anh chồng Tựu chắc cũng không có ý gì nhưng tội nghiệp cha quá đi. “Con đã điện cho thằng Thăng qua chơi với cha rồi, nó nói hễ rảnh hồi nào nó qua hồi đó”. “À, vậy. Cha chưa thấy đứa nào qua. Nhưng mà... Tựu này! Cha định nói với con thế này. Không biết Tựu có đồng ý không. Cha định là thế này Tựu à”. “Sao cha?”. “Ừm... Tựu ơi! Hai trăm ngàn mà con để lại cho em đi chợ đó, coi như cho cha xin, được không con hỉ? Cha định là mua hai cái vé xe về trên đó, chứ ở đây cha thấy cũng không giải quyết được việc gì con à, mà trên đó thì ruộng rẫy...”.
Trời đất bỗng như sụp đổ trước mắt, bóp nghẹt trái tim đầy khuyết tật của Tựu rồi! Chỉ vậy thôi mà cha phải ngập ngừng mãi mới nói ra được thành lời sao? À, ra vậy, tội lỗi chỉ nằm ở cái nghèo. Trời nổi gió ầm ầm quất mưa giông văng ràn rạt vào người Tựu, đau buốt. Và những giọt nước mắt đau tràn hoài trên mặt, như mưa cứ giăng giăng mãi ngoài trời kia không sao dứt. Tựu cứ lần quần một ý nghĩ, mai này mình cũng sẽ có con, cũng được bước lên ngôi những đấng sinh thành đáng kính, rồi bỗng đến một lúc nào đó phải ngửa tay xin xỏ con mình một chút tiền hèn mọn, chắc hẳn lúc đó mình đã quá bần cùng! Tựu lập cập: “Cha ơi! Đợi con, ngày mai con sẽ về”.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 14.03.2007 09:38:59
Người đưa đò
TRẦN NGUYÊN Ý ANH
 
Buổi trưa, trời lặng gió. Bầu không khí oi bức đến ngột ngạt. Ông Sáu cột dò dưới bóng cây bằng lăng xòe tán mát rượi. Ông vấn điếu thuốc giồng, rít mấy hơi rồi lơ đãng ngắm mây trời. Mặt sông im lìm không một gợn sóng. Nước đang nhửng lớn. Hơi nước cũng nóng và cái nóng phả vào mặt ông hâm hấp. Ông Sáu rời chiếc đò cũ kỹ của mình, vào chòi lấy ấm nước vừa nấu xong, châm trà. Ông uống một hơi liền hai chén. Cái vị đắng chát của trà khi vừa qua khỏi cổ đã đổi thành ngòn ngọt khiến ông thấy dễ chịu. Buổi trưa yên ắng quá làm tiếng bìm bịp kêu thêm phần buồn bã. Trong đời, ông đã nghe không biết bao nhiêu lần tiếng bìm bịp kêu báo nước. Nhưng sao mỗi lần nghe, ông đều cảm nhận được một điều gì đó nao nao... Đời ông đã gắn liền với khúc sông nầy, với tiếng bìm bịp trầm buồn mỗi ngày chờ con nước lớn.
Uống vừa xong chén thứ ba, ông định ngả lưng một chút thì có tiếng kêu đò từ bên kia sông.
- Đò ơi!... Đò ơi!
Ông Sáu quơ vội cái nón lá rồi bước xuống đò. Khách đi đò là một thanh niên lạ, ăn mặc sang trọng và hơi phô trương một chút. Gã đeo kính đen, nước da trắng như người ở nước ngoài về. Cái áo sơ mi màu xanh đỏ tím vàng sặc sỡ. Nút cổ sơ mi để hở chừng như để khoe sợi dây chuyền to đến phát sợ. Hai bàn tay gã đầy các loại nhẫn: loại của đàn ông có, đàn bà có. Gã xách một túi xách khá nặng trên tay. Ông Sáu nom chừng người nầy quen quá. Ông chống đò sát bến rồi thận trọng nắm chặt dây neo:
- Chú em xuống từ từ, không quen đi đò phải cẩn thận.
Gã thanh niên bước từ từ xuống. Đôi giày thể thao đắt tiền trắng toát đã dính mấy vệt bùn. Gã không tìm được chỗ ngồi nên còn chần chừ. ông Sáu lật đật giở mấy miếng ván ở mũi ghe, lấy ra một chiếc ghế con:
- Chú em ngồi đỡ, ở đây bà con mình đi quen rồi nên chỉ ngồi chồm hổm. Đò ngang mà, chỉ chút xíu là qua tới thôi!
Gã ngồi xuống. Ông Sáu chống mũi đò ra. Ông bước nhanh ra sau lái và khoắng mái chèo xuống nước.
- Chú em qua sông rồi đi đâu nữa?
- Tôi muốn tới xóm rẫy.
- Xóm rẫy bây giờ không đi đường nầy được đâu. Chú em phải lên khúc trên kia mới có đường liền. Nhà nước hồi mấy năm trước làm thủy lợi đã đào một con kinh cắt qua cánh đồng nầy. Khúc trên kia có mặt đập, dễ đi hơn... Mà chú em vô nhà ai trong xóm rẫy? Tôi thấy dường như chú quen quen.
Gã thanh niên có vẻ hơi chột dạ. Gã lấp liếm:
- Tôi đâu có ở đây. Tôi đi tìm nhà người quen ở xóm rẫy, vậy thôi!
Gã nói xong lại ngồi im ra chiều suy nghĩ rồi lại tiếp :
- Hay là ông đưa tôi tới mặt đập, tôi trả thêm tiền.
- Tiền nong có gì quan trọng, thêm một khúc đường thôi mà! Quan trọng là chú em tới được nơi muốn tới.
Tới nơi, ông Sáu đâm mũi đò vô bờ rồi nhanh nhẹn bước lên kéo dây giữ thật chặt.
- Chú lên đi, tới rồi đó!
Gã thanh niên đã cầm sẵn trong tay tờ giay bạc năm mươi ngàn mới tinh, đưa ông Sáu rồi nói như ra lịnh:
- Ông ngồi đây chờ tôi chừng nửa giờ. Ông khỏi đưa rước ai hết, tiền nầy tôi cho luôn, khỏi thối.
Nói xong, không đợi ông trả lời, gã dúi tờ giấy bạc vào tay ông Sáu rồi đi thẳng về phía mặt đập. Ông Sáu đứng nhìn theo, lòng buồn rười rượi. Nó không nhìn ra ông thật sao? Sao ông lại nhận ra no. Thằng Đực đây mà! Thằng Đực con của ông Hai Coi cắt cỏ mướn cho nhà Xã Tây đây mà. Nó là thằng ông đã từng bồng ẵm từ thuở nhỏ và cũng là người thầy đã dạy từng chữ vỡ lòng cho nó lúc cả xóm rẫy nghèo nàn chưa có được một lớp học cho mấy chục nóc gia. Bây giờ, nó về đây trong bộ cánh của một Việt kiều. Áo quần thì sặc sỡ, tư trang đeo đầy người nhưng sao tâm hồn nó lại nghèo đến vậy. Ngay đến cả ông, nó cũng không nhận ra sao? Hay là nó cố tình không nhận. Ông Sáu cột dây neo vào một gốc bần gần đó rồi thẫn thờ ngồi xuống. Quá khứ như một đoạn phim chầm chậm hiện về trong suy nghĩ của ông...
***
Hai Coi là dân trôi nổi sống bằng nghề làm mướn. Y tới xóm rẫy nầy lúc thằng Đực vừa tròn hai tuổi. Dân xóm rẫy lúc đó có hơn ba chục gia đình, đa số trồng đồ rẫy kiếm sống. Những lúc rỗi việc, họ thường kéo nhau qua cắt cỏ mướn cho nhà Xã Tây. Xã Tây nuôi nhiều bò nên cần nhiều cỏ. Hai Coi xuất hiện với một đứa con nhỏ nên dễ làm người ta mủi lòng. Thằng Đực hồi nhỏ ốm yếu, quặt quẹo thấy mà tội nghiệp. Đầu tiên, Hai Coi ngủ nhờ trong mấy cái chòi người ta ngủ giữ rẫy. Rồi ông Sáu biết được, ông kêu y về che tạm một căn trong vuông đất ông. Hai Coi trở thành láng giềng của ông từ đó. Ông Sáu thời trẻ cũng được đi học nên khi thấy tụi trẻ chưa có được một nơi chốn học hành thuận tiện, ông đã đứng ra mở một lớp học tại nhà. Người dân xóm rẫy lúc đó mừng lắm. Họ không mong muốn con mình học cao hiểu rộng gì đâu mà chỉ mong chúng biết đọc, biết viết để đỡ vất vả hơn đời cha mẹ chúng, vậy thôi. Thằng Đực lớn lên và cũng nhờ ông dạy dỗ. Những nhà khá khá một chút thì cho ông chút tiền. Nhà nghèo thì cho gạo, cho khoai. Cho gì ông nhận nấy và hai vợ chồng không con cũng vui sống qua ngày.
Thằng Đực là một đứa học trò cá biệt. Nó chẳng những không ham học mà còn gây rối trong lớp làm ông phải hao tốn tâm trí hơn những đứa khác. Nhưng nghĩ nó không có mẹ, còn cha thì đi sớm về tối, gà trống nuôi con nên ông cũng nén lòng. Những lúc Hai Coi phải vắng nhà vài ba ngày, vợ chồng ông vẫn cho nó ăn cơm. Nhưng thằng Đực chừng như sanh ra để làm một người xấu, nó thường gây chuyện đánh nhau với bọn trẻ, thường ăn cắp vặt vãnh những đồ đạc của bạn. Những lần phải rầy phạt nó, nó lại tỏ ra oán giận ông. Nó càng lớn, càng tỏ rõ mình là một đứa trẻ hư hỏng. Chỉ học đến khi đọc thông viết thạo nó phải mất bốn năm! Đến lúc nổi lên phong trào vượt biên trốn ra nước ngoài, cha con nó bỗng nhiên mất tích. Năm đó, thằng Đực được mười lăm tuổi.
***
Gã thanh niên từ dưới con đò của ông Sáu bước lên chẳng phải ai xa lạ - gã chính là thằng Đực con của Hai Coi. Gã quả thật là một Việt kiều vừa từ nước Mỹ xa xôi trở về. Sau mười hai năm xa xứ, gã trở về với một bộ cánh khác. Giờ đây gã không còn là thằng Đực nghèo khổ từng bị người đời rẻ rúng, khinh khi. Thằng Đực con của Hai Coi đã lột xác rồi. Gã về và gã muốn bọn người xóm rẫy ngày xưa phải xúm nhau lại chờ gã ban ơn. Cái cảm giác hả hê khi thấy mọi người tỏ ra biết ơn mình đã làm gã sướng rơn. Gã không sao quên được lần đầu tiên gã ăn cắp tiền từ trong cặp của thằng Tờn, nó đã méc thầy và ông Sáu đã khuyên gã nên trả lại tiền cho bạn. Lần đó, gã phải xấu hổ móc túi trả tiền lại nó trước bao nhiêu cặp mắt chế giễu của bạn bè. Gã oán nó và giận thầy. Cái thằng nghèo kiết xác đó coi nó có chạy theo nịnh nọt gã không khi thấy gã có đầy tiền trong túi. Còn thằng Khương con bà Sáu Hột nữa, gã chỉ bắt của nó có một con gà mà nó đã đè gã xuống và nện mấy đấm vô mặt làm chảy cả máu mũi. Gã sẽ quăng tiền vô mặt nó để coi nó có quỳ xuống mà lượm lấy hay không. Và gã mường tượng mọi người sẽ xúm xít quanh gã, sẽ khen gã sao bây giờ đẹp quá! Bây giờ sao giàu quá! Và gã sẽ ngồi để người ta chúc tụng. Còn lão già đưa đò kia, không phải gã không nhận ra lão đâu. Gã đã nhận ra lão ngay từ đầu kia nhưng gã vẫn còn giận lão. Tại sao lão cứ la rầy gã những lúc gã bỏ học lêu lổng ngoài đồng hay những lúc gã đánh nhau với con nhà hàng xóm? Tại sao lão lại khen ngợi tụi thằng Trường con Nguyệt mà cứ bắt phạt gã. Gã cứ giữ nguyên trong lòng nỗi oán giận với ông Sáu và chưa một lần nào trong đời, gã nghĩ đến công ơn của lão đối với cha con gã? Gã về quê, trở lại xóm rẫy nầy để tát vào mặt những con người đã từng làm phật lòng gã. Để hả hê nhìn họ vẫn còn trong cảnh đói nghèo. Để coi ông thầy giáo già có còn dám quắc mắt nhìn gã như những ngày xưa cũ hay không.
***
Ông Sáu ngồi dựa lưng vào gốc cây mù u mà lòng buồn rười rượi. Thằng Đực lên bờ đã hơn hai giờ đồng hồ rồi. Nắng đã nhạt nhòa trên sông. Nước đã lớn đầy sông, tiếng sóng vỗ mạn đò tí tách. Gió đã thổi lộng đưa con nước lớn nhanh. Ông Sáu ngồi, điếu thuốc trên tay, tàn thuốc dài ngoẵng xám xịt. Ông cầm điếu thuốc mà không buồn hút. Cái ý nghĩ thằng Đực trở về làm ông buồn vui lẫn lộn. Ông hồi tưởng lại lúc nó còn nhỏ, vợ chồng ông đã thương yêu nó như thế nào, đã tập những bước đi đầu của nó ra sao. Rồi những ngày đầu ông dạy nó từng chữ từng lời. Nó phạm lỗi, ông rầy dạy chính vì ông thương nó, sao nó lại không thương ông mà còn oán trách. Vợ chồng ông không con nên coi nó như con của mình sao trong người nó chẳng một chút tình chút nghĩa với ông. Cha con nó ra đi chưa đầy một năm thì bà Sáu lâm bịnh nặng. Ông hết lòng chạy thuốc cho vợ và đã bán đến nền đất cuối cùng mà bà chẳng thèm ở lại với ông. Chôn cất bà xong, ông ra bến sông nầy cất một cái chòi lá và sống bằng nghề đưa đò cho đến ngày nay. Đời ông, lúc trẻ cũng là người đưa đò - ông đưa những đứa trẻ từ bến u mê, từ người dốt nát đến bờ tri thức. Chúng biết đọc, biết viết, biết tính toán thiệt hơn và đời chúng nhờ vậy cũng đỡ phần vất vả. Sau nầy, xóm rẫy đã có trường lớp khang trang. Thầy cô giáo về đây dạy cũng đến chục người. Hình ảnh ông Sáu của xóm rẫy nghèo nàn ngày xưa vừa dạy học vừa chạy ra sau bếp nấu cơm trong những ngày vợ đi vắng đã phai nhòa đi trong tâm trí mọi người. Người ta đã qua sông rồi, mấy đồng bạc lẻ cũng đã được ném xuống khoang. Có mấy ai còn nghĩ đến người đưa đò lặng lẽ.
Nắng đã dần tắt. Mặt trời đã chen lặn ở cuối trời. Tiếng bìm bịp kêu báo giờ con nước giựt ròng làm ông choàng tỉnh giấc mơ quá khứ của mình. Thằng Đực chắc đang say sưa với vầng hào quang của nó. Nó đã quên lời dặn của nó với ông. Còn ông, ông vẫn ngồi chờ đợi nó trong buổi hoàng hôn nhập nhoạng trong sắc áo của một lão đưa đò.
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

mssthuan
  • Số bài : 754
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.05.2006
  • Nơi: vùng sâu vùng xa
RE: Truyện ngắn sưu tầm - 14.03.2007 09:46:51
Người thắp lửa
TRẦM NGUYÊN Ý ANH
 
Bà Tư ngồi bó gối trên chiếc giường tre, tai lắng nghe tiếng nước rỏ “tong tong” xuống nền xi-măng để áng chừng mái nhà đang dột chỗ nào. Bà đã mặc thêm áo mà vẫn thấy lạnh. Hai ngày rồi mưa không ngớt, cứ như trời đang khóc thương ai. Những giọt mưa cứ rả rích, cứ đều đều trút xuống như châm thêm một chút đớn đau lo lắng và một nỗi hiu quạnh trong lòng bà. Bỗng, bà nghe có tiếng chân người rồi tiếng sột soạt giũ áo mưa...
- Ai đó?
Trong hai tiếng phát ra ngắn ngủi của bà ẩn chứa một nỗi lo.
- Dạ!  Cháu đây! Cháu là Trung đây. Cháu thấy mưa dầm, sợ dì Tư không xoay xở được nên tới coi có giúp gì được không.
Bà Tư nghe nhẹ cả người. Vậy là không phải nó. Bà vừa vui lại vừa buồn. Nó không về thì bà không phải lo. Bà biết người ta đang chờ bắt nó. Nó mà lảng vảng về nhà thì bị tóm ngay. Nhưng nó không về thì lòng bà cũng đớn đau không kém.
- Nhà dột chỗ này, ngay cửa buồng. Để cháu chèn lại, không thì nước đọng dì đi lại sợ té.
Người thanh niên vừa nói vừa kéo ghế rồi thoăn thoắt leo lên vách nhà. Anh sửa lại mấy tấm lá bị co rồi chèn vô đó một tấm nhựa cứng, vậy là nước đã thôi chảy xuống. Bà Tư lắng tai nghe rồi buồn rầu nói:
- Cậu cứ tới lui thăm hỏi còn làm đủ chuyện cho tôi, tôi ngại quá! Cái thân đui mù này bây giờ vô dụng rồi!
- Dì Tư đừng nói vậy. Cháu tiện đường qua lại nên ghé vậy thôi, đâu mất công gì.
Anh kéo ghế ngồi và đưa mắt quan sát. Trên bàn là dĩa khoai chừng như luộc đã lâu. Anh ái ngại:
- Mấy bữa nay dì có nấu nướng gì hôn?
- Tôi cũng lần mò làm được, dẫu sao cũng quen rồi?
- Cháu thấy mấy củ khoai này chắc thiu rồi, dì đừng ăn nữa. Cháu nấu cơm giùm dì nghe!
Bà Tư húng hắng ho. Bà đưa tay ra dấu không cần. Khi cơn ho đã dứt, bà vẫn còn ôm ngực:
- Tôi nấu được, không dám làm phiền cậu nhiều quá! Phải chi tôi chết phức cho rồi, cho rảnh nợ. Cậu tốt với tôi chừng nào, tôi càng ray rứt chừng nấy. Phải chi con nó biết nghe lời thì đời tôi đâu đến nỗi...
- Anh Tuấn có về thăm dì không? Hay có nhắn nhủ gì? Nếu ảnh có lén về thăm, dì khuyên ảnh ra đầu thú đi, trốn hoài cũng không thoát đâu. Pháp luật sẽ khoan hồng cho người biết hối lỗi, dì nên nói với ảnh như vậy. Bữa nay mưa gió đi lại khó khăn để cháu về đem cơm nhà tới cho dì, dì đừng nấu.
Bà Tư chưa kịp lên tiếng đã nghe tiếng giũ áo mưa và bước chân của người thanh niên cũng xa dần.
***
Vừa thiêm thiếp ngủ, bà Tư nghe có tiếng động nhẹ, rồi tiếng cửa cọt kẹt. Linh tính báo cho bà biết là nó, là thằng Tuấn con bà. Bà ngồi dậy, chưa kịp giở mùng đã chạm phải cánh tay lạnh ngắt nắm lấy tay bà:
- Con về nè má! Má có khỏe không?
Bà Tư không trả lời được vì nghe nghẹn tức ở ngực và nước mắt lại tuôn trào. Bà đưa tay lần tìm gương mặt con. Bà đau đớn vì cái má hóp của nó. Rồi như nhớ ra điều gì, bà nói nhỏ:
- Con về có ngó trước ngó sau hôn? Người ta lùng bắt con dữ lắm. Nếu để bị bắt thì tội nặng lắm, hay là ra tự thú đi con.
- Má đừng nghe thằng công an đó dụ dỗ. Con trốn được mà. Má chịu cực một thời gian đi rồi con tìm cách rước má đi xa, không ai biết đâu!
Bà Tư thở dài:
- Con đừng nghĩ xấu cho người ta. Cậu Trung là người tốt đó. Có cậu ấy tới lui má cũng đỡ vất vả. Chớ hoàn cảnh mình như vầy, lối xóm cũng ngại quan hệ với mình, má tủi thân lắm.
Tuấn nghiến răng:
- Con đã nói với má là đời này không có thằng nào tốt đâu. Bởi vậy, con làm gì má cũng đừng ngăn cản con. Không dữ dằn không sống được ở thời buổi này... Con mua đồ ăn về nè, má ăn đi. Còn tiền này má cất để xài. Nếu con không về được, con cũng tìm cách gởi tiền cho má.
Bà Tư quờ quạng rồi bước xuống giường. Có tiếng chó sủa vang ở đầu hẻm. Tuấn trèo lên vách ghé mắt nơi lỗ hổng nhìn ra đường thấy một toán dân phòng, gã tuột xuống thì thầm vào tai mẹ:
- Con đi, má ráng giữ gìn sức khỏe, chừng nào thuận tiện con sẽ về thăm má. Bà Tư chỉ kịp kéo đầu Tuấn vào ngực mình thì gã đã nhẹ nhàng như một con mèo, biến ra cửa sau.
***
Đài vừa báo một cơn bão dữ dội sẽ thổi qua thị xã. Chợ dọn vắng tanh. Đường phố thưa người. Ai cũng lo lắng trước cơn thịnh nộ của đất trời. Bà Tư ngã bịnh mấy ngày nay, chứng bịnh suyễn không chịu được mưa dầm nên tái phát. Cả tuần nay bà không thấy Trung đến. Lòng bà buồn vui lẫn lộn. Anh không đến, bà nghe như thiếu vắng một tình thương nào đó. Anh đã đem tin yêu đến cho bà không phải vì những món ăn hay cái áo ấm, mà anh đã đem đến cho bà một tình người thân thương, như một đứa con trở về bên mẹ. Bà vẫn biết Trung là người trực tiếp chịu trách nhiệm bắt thằng Tuấn con bà. Những ngày đầu khi cơ sự xảy ra, bà đã không tiếc lời mắng mỏ: Mấy người cứ đi kiếm nó mà bắt, tôi không biết nó ở đâu, mà cho dù có biết tôi cũng không nói. Cùng lắm là bắt luôn tôi. Thân cùi đâu sợ lở...”. Trung không giận bà. Người mẹ nào không làm vậy. Người mẹ nào không binh vực con mình cho dù biết nó làm điều xấu, thậm chí là tội ác. Hoàn cảnh bà Tư lại đáng thương hơn vì mắt bà đã lòa từ mấy năm nay. Tuấn là một tội phạm nguy hiểm vì Tuấn có trình độ và lại có võ nghệ. Đang là huấn luyện viên võ thuật ở một câu lạc bộ của phường, Tuấn lại trở thành một kẻ cướp máu lạnh không từ một tội ác nào. Trung đã dầy công tìm hiểu và nắm được một phần đời của Tuấn. Anh có người yêu là một cô gái con nhà giàu có. Gia đình cô ấy chê Tuấn nghèo, buộc cô phải kết hôn với một Việt kiều. Tuấn hụt hẫng, Tuấn đớn đau vì bị chà đạp và trong một phút thiếu nghĩ suy, gã đã bước vào con đường tội lỗi. Tuấn từng tuyên bố: “Muốn giàu nhanh không còn con đường nào hơn là đi cướp”. Trong trái tim ngùn ngụt lửa căm thù của người thanh niên nông nổi này chỉ một mục tiêu là “tính sổ” bọn nhà giàu. Tuấn đã cướp của nhà ba mẹ người mình yêu để trả thù. Tuấn có trong tay mấy thằng đàn em đã từng vào tù ra khám. Cả xóm bắt đầu sợ Tuấn. Người ta cũng chẳng muốn qua lại với bà Tư. Tuấn càng hận đời thêm. Hồ sơ tội phạm của Tuấn ngày một dầy thêm. Trung - vốn là một trinh sát giỏi - được đưa vào cuộc. Trung vẫn muốn phá án nhanh chừng nào tốt chừng nấy. Anh đã giăng lưới khắp nơi nhưng tận trong sâu thẳm của lòng anh, anh lại muốn Tuấn ra đầu thú. Một con người vẫn còn hiếu thảo với mẹ thì vẫn chưa là người bỏ đi. Luật pháp sẽ trừng trị Tuấn nhưng bà Tư sẽ đau khổ. Trung cũng có mẹ già. Người mẹ đã từng cõng anh trên lưng trong mùa nước lũ để anh tới trường học được những điều nhân nghĩa. Trung thương bà Tư và anh đã dùng trái tim mình chia sẻ những đớn đau bất hạnh của một người mẹ.
Mưa, vẫn mưa với những cơn gió điên cuồng. Bà Tư lần ra nhà trước là chỗ bà có thể yên tâm. Gió gào thét, mưa sầm sập như đất trời đang giận dữ. Căn nhà chao nghiêng, tiếng cột kèo nghiến ken két nghe thật rợn người. Tuấn trùm áo mưa kín luôn cả mặt lầm lũi theo ngả sau vô nhà. Gã không yên tâm để mẹ một mình trong cơn bão. Bà Tư giật thót người khi bàn tay đẫm nước của Tuấn nắm lấy tay bà:
- Trời đất! Sao con về giờ này, còn sớm quá con không sợ sao?
- Mưa bão mà má, chắc tụi nó không đi giờ này đâu!
Tuấn nhìn quanh quan sát:
- Thằng Trung còn tới lui hôn má? Má nhớ, cho dù nó có ngon ngọt tới đâu má cũng đừng nói con về. Nó nhiều mưu chước lắm? Nhưng nó không bắt được con đâu!
Bà Tư ôm ngực hít một hơi dài. Tuấn lo lắng:
- Má bịnh trở lại à! Má có thuốc uống hông?
- Có? Tuần trước cậu ấy mua cho má một số. Má đưa tiền cậu ấy không lấy. Cả tuần nay không thấy, không biết cậu ấy có đi đâu hông?
Ngoài sân bỗng có tiếng chân thật gấp. Tuấn trừng mắt nhìn về phía cửa. Tiếng bước chân dừng lại rồi có tiếng giũ áo mưa. Tuấn bóp mạnh tay mẹ rồi biến vào nhà sau.
- Dì Tư ơi!  Mở cửa đi, cháu tới thăm dì nè?
Bà Tư lần ra đẩy chốt cửa. Trung xách trên tay một gà-mên bước vào:
- Cả tuần nay cháu đi công tác. Bữa nay về, ở nhà lại nấu cháo cá lóc, cháu đem một ít dì ăn.
- Chèn, cám ơn cậu quá ? Mưa gió vầy mà cậu đi làm gì cho cực thân.
Trung nhìn thái độ bà Tư, lòng đượm chút nghi ngờ. Anh sốt sắng?
- Để cháu lấy muỗng dì ăn cho nóng, nghe dì?
Dì Tư hốt hoảng:
- Không - thôi - để chút nữa tôi ăn, tôi còn no!
Ở nhà sau, Tuấn nín thở lắng nghe cuộc trò chuyện giữa mẹ mình với người công an trinh sát, lòng gã chừng như xao động. Có tiếng Trung khẽ khàng:
- Dì Tư nhớ uống thuốc đều đặn mới chịu nổi mùa mưa này. Với lại, dì nhớ mặc ấm nghe!
Bà Tư lại nghe nghèn nghẹn ở ngực. Bà chỉ muốn kêu lên một tiếng cho lòng bớt nỗi đớn đau. Bà đang nghĩ tới con. Chắc nó còn núp đâu đây, bà mong cho nó nghe được những lời Trung nói. Tình thương con và lẽ phải cùng tiếng vọng của lương tâm đã xâu xé bà mãnh liệt. Bà vừa muốn con trốn được lại vừa muốn con ra đầu thú. Trung ngồi lại hỏi thăm bà vài ba câu rồi từ giã.
Trời mưa suốt đêm hôm ấy. Mưa như bao đớn đau của đất trời đều trút cạn. Tuấn ngồi bên mẹ trong đêm mưa gió ngập trời đó. Gã nghĩ về Trung và nghĩ về mình. Có một đốm sáng đã lóe lên trong tận cùng đêm tối của lòng gã và đốm sáng ấy cứ lớn dần lớn dần ra.
***
Một tuần sau Tuấn đến trình diện ở cơ quan công an - gã tự thú. Trung nói với gã trong lúc chỉ còn hai người: “Thật ra, trong đêm bão anh về thăm dì Tư đã bị cơ sở của công an phát hiện. Lúc tôi đến nhà đã có một lực lượng công an đủ để bắt anh, nhưng tôi không làm vậy”. Tuấn ngẩn người kinh ngạc. Trung tiếp: “Tôi thương dì Tư nên muốn làm mọi điều tốt đẹp cho dì. Với lại, trong mắt tôi, anh vẫn còn làm một người tốt được mà. Mức án khi bị bắt và lúc ra đầu thú khác nhau xa lắm! Dẫu sao, anh vẫn còn một người mẹ”.
Trên gương mặt đăm chiêu đầy nét hận thù và khắc khổ của Tuấn bây giờ là hai dòng nước mắt.
 
 
Nguồn: baocantho.com.vn
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương"

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 31 bài trong đề mục