QUÁN THƠ ĐƯỜNG LUẬT - ĐUYÊN HỒNG
Thay đổi trang: << < 192021 > >> | Trang 21 của 85 trang, bài viết từ 301 đến 315 trên tổng số 1269 bài trong đề mục
vancali96 20.04.2008 10:26:00 (permalink)
0
 


CAM SÀNH
Tứa bưa một thứ họ cam sành
Nếm đã! Thời thơm chứ chẳng tanh
Da mỏng mu gờ ham nghịch lạ
Cùi dày nước đẫm muốn ăn nhanh
Hai bên múi dựng so hình quạt
Bốn phía tép bày rẽ nét quanh
Háo nước xin mời ai khách khát
Bóc ra lột áo chị chào anh!
April 18, 2008

 Chào huynh Đuyên Hồng xin thân họa với anh nhe hì hì...
 
Cam sành
 
Nhìn sơ lẩn lộn sứ ra sành
Nghĩ nhớ  đôi đào buổi vắng tanh
Bồng đảo thi nhân đùa mộng huyễn
Ven rừng lãng tử ghẹo duyên lành
Vườn sau nhúng nhẩy ong vờn khắp
Ngõ trước rung ring bướm đuổi quanh
Nắng rực cương lòng cam hạ hỏa
Nhòm lâu nhễ nhại nhũng tình anh
 
Vancali 4.19.08
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2008 13:17:20 bởi vancali96 >
Đuyên Hồng 21.04.2008 23:41:59 (permalink)
0
MIỄN BÀN

Bụng lép đâu nào ngủ giấc an
Ngược xuôi đời sống thật gian nan
Giá tăng lương cậu e mau hết
Tiền rớt tình em biết chóng  tàn
Giàu có quan tham phè mặt thớt
Cực cùng thợ giỏi tím da than
Bao nhiêu “đổi mới” giờ ai hưởng
Có biết. Câm ngay miễn được bàn..!
April 21, 2008
 
Đuyên Hồng 22.04.2008 13:12:48 (permalink)
0
ĐỢI NGƯỜI XA
                                    Tặng chị Châu Thi
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Cố hương trơ lạnh bóng cây đa
Đã trông én lượn mùa xuân tới
Lại thấy cò bay tiết hạ qua
Mấy bận xe đò đà tới bến
Bao lần tàu suốt lại rời ga
Rượu đào nút lá chờ thi khách
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Hồ Văn Thiện





LỠ HẸN
Lỡ hẹn bao lần chửa được ra
Chim hồng hỏi có đợi cành đa?
Cây nhà lá nõn bao mùa mọc
Sông núi trời già mấy tuổi qua
Ngày nhớ hình xưa sầu với gió
Chiều mong bóng cũ tưởng về ga
Ai ơi chén rượu tương phùng ấy
Lỡ hẹn bao lần chửa được
ra

April 22, 2008

Đuyên Hồng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2008 13:14:21 bởi Đuyên Hồng >
Đuyên Hồng 23.04.2008 22:16:47 (permalink)
0
SỐNG CHUNG CƯ
I

Vô cư ước mãi cảnh an cư
Lo đủ kể ra cũng mệt đừ
Hiện đại thời ai không thích được
Mô đen mấy kẻ biết rằng ngu
Leo lên lắm cụ ngưng hơi thở
Tụt xuống dăm cô gập cổ gù
Sổng ở nhà mình như ở đợ
Tiền thuê trả tuốt chẳng chi chừa
 
I
Chừa chi gối mỏi với bong gân
Thể dục sáng hôm giũ bụi trần
Đi xuống cao to đều thấp cổ
Bước lên béo mập cũng ngang chân
Lưng trời mơ thả hồn sao ghé
Mặt đất bụi vương bóng nguyệt nằm
Nhàn rỗi nhâm nhi dăm chén lẻ
Đợi thời thả nốt nhạc nga ngân…
April 23, 2008
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2008 22:20:11 bởi Đuyên Hồng >
Đuyên Hồng 28.04.2008 19:15:59 (permalink)
0
NỖI NIỀM INTERNET


Vào web làm chi? Để lấy vui
Vui đâu chẳng thấy lại gặp ruồi
Gặp ruồi rồi bực đâm ra nhặng
Nhặng xị kêu lên chúng nó cười...
 
Vào web tìm văn để đọc chơi
Đọc chơi lại vớ chuyện ăn chơi
Ăn chơi món ấy ai không muốn
Được đã buông lời thứ dở hơi...!
 
Ngày không web đọc buồn đến chết
Đến chết ai đem web vo hòm
Vô hòm mới biết đời hay thiệt
Không nét cuộc đời cũng dở om...
April 28, 2008
Đuyên Hồng 30.04.2008 20:39:21 (permalink)
0
THÁNG TƯ MÁU ĐỎ

Tháng Tư oan nghiệp vạn sinh linh
Nồi Việt nấu da tuỷ Lạc mình
Khắp nẻo máu tràn bao xác đổ
Muôn đường xương chất bấy hy sinh
Làng trên khăn trắng hoang điền thổ
Phố dưới thây chôn ngập điện đình
Cơn gió bạo tàn lan khắp xứ
Ai nguời thấu được chữ kiên trinh?
April 30, 2008
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2008 01:31:51 bởi Đuyên Hồng >
Trần Mạnh Hùng 30.04.2008 21:16:29 (permalink)
0

Trích đoạn: Đuyên Hồng

THÁNG TƯ MÁU ĐỎ

Tháng Tư oan nghiệp vạn sinh linh
Nồi Việt nấu da tuỷ Lạc mình
Khắp nẻo máu tràn bao xác đổ
Vạn đường xương chất bấy hy sinh
Làng trên khăn trắng hoang điền thổ
Phố dưới thây chôn ngập điện đình
Cơn gió bạo tàn lan khắp xứ
Ai nguời thấu được chữ kiên trinh?
April 30, 2008


N
    H
     Ớ           
o   )
( o
)
O
)
)    o
o
O o
o )
KIÊN       TRINH
Một màn sương phủ ngập sinh linh.
Hải đảo Trường sa trách nhiệm mình.
Tổ  quốc  lâm  nguy  trong rực hận
Thất phu hữu trách phải hy sinh.
Quê hương đất tổ trong da thịt.
Mồ mả cha ông dưới mái đình.
Hội nghị Dziên Hồng gương quyết thắng.
Bạch  Đằng Giang  thử   thách kiên trinh.
Trần Mạnh Hùng
_{}__________{}_
(_   _______________)
(________________) 
}{          }{         }{
 
Lư Hương Tổ Quốc
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2008 04:50:41 bởi Trần Mạnh Hùng >
Chu Ha 01.05.2008 04:38:13 (permalink)
0
 
 
 
THÁNG TƯ MÁU ĐỎ

 
Tháng Tư oan nghiệp vạn sinh linh
Nồi Việt nấu da tuỷ Lạc mình
Khắp nẻo máu tràn bao xác đổ
Muôn đường xương chất bấy hy sinh
Làng trên khăn trắng hoang điền thổ
Phố dưới thây chôn ngập điện đình
Cơn gió bạo tàn lan khắp xứ
Ai nguời thấu được chữ kiên trinh?

Đuyên Hồng
April 30, 2008
 
 
KIÊN       TRINH
 
Một màn sương phủ ngập sinh linh.
Hải đảo Trường sa trách nhiệm mình.
Tổ  quốc  lâm  nguy  trong rực hận
Thất phu trách nhiệm phải hy sinh.
Quê hương đất tổ trong da thịt.
Mồ mả cha ông dưới mái đình.
Hội nghị Dziên Hồng gương quyết thắng.
Bạch  Đằng Giang  thử   thách kiên trinh.
 
Trần Mạnh Hùng
 
Tháng Tư máu lửa
 
Tháng Tư máu lửa... cảnh điêu linh
Nấu thịt nhồi da, thịt của mình
Một mẹ đoạn tình ban án tử
Chung dòng cắt nghĩa chẳng dung sinh
Trường Sơn máu nhuộm đầy cây cỏ
Đông Hải thây phơi chật thủy đình
Oán vọng lưng trời chồng lớp lớp
Dân lành vô tội thác trung trinh !
 
Chu Hà
 
Đuyên Hồng 01.05.2008 11:44:47 (permalink)
0
Trưng Nữ Vương
Sấm dậy non sông giục trống đồng
Vẻ vang liệt nữ rạng trời đông
Đòi miền Âu Việt* xây Nam Quốc
Giữ đất Phong Châu phục Lạc Hồng
Ngựa thét bay hồn quân Bắc Hán
Voi gầm lạc phách lũ Tàu tông
Ngàn năm sách, sử ghi tên tuổi
Dựng nước danh thơm, trả nợ chồng
May 1, 2008
*Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra năm 40 – 43 chống ách đô hộ của nhà Hán.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai con gái của Lạc tướng ở huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi. Trưng Trắc được suy tôn làn vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, giữ được quyền tự chủ trong 3 năm.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2008 12:13:25 bởi Đuyên Hồng >
Trần Mạnh Hùng 01.05.2008 12:17:36 (permalink)
0

Trích đoạn: Đuyên Hồng

Trưng Nữ Vương
Sấm dậy non sông giục trống đồng
Vẻ vang liệt nữ rạng trời đông
Đòi vùng Vĩnh Phúc* xây Nam Quốc
Giữ đất Phong Châu phục Lạc Hồng
Ngựa thét bay hồn quân Bắc Hán
Voi gầm lạc phách lũ Tàu tông
Ngàn năm sách sử nêu tên tuổi
Dựng nước danh thơm, trả nợ chồng
May 1, 2008
*Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra năm 40 – 43 chống ách đô hộ của nhà Hán.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai con gái của Lạc tướng ở huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, thuộc dòng dõi Hùng Vương. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc được phục hồi. Trưng Trắc được suy tôn làn vua (Trưng Vương) đóng đô ở Mê Linh, giữ được quyền tự chủ trong 3 năm.



VƯƠN VAI TRẺ
Phủ Đổng Thiên Vương với ngựa đồng.
Trẻ thơ ba tuổi giữ non sông.
Giữa thời loạn lạc - vươn vai trẻ.
Vào lúc binh đao - Nhổ trúc hồng.
Thân vụt lớn cao ngời thánh thể.
Mắt uy rực sáng chói chân tông
Dẹp tan lũ giặc Ân phương bắc.
Mối hận xâm lăng mãi chất chồng.
Trần Mạnh Hùng
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2008 12:25:07 bởi Trần Mạnh Hùng >
lá chờ rơi 01.05.2008 15:59:16 (permalink)
0
ĐỢI NGƯỜI XA
                                    Tặng chị Châu Thi
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Cố hương trơ lạnh bóng cây đa
Đã trông én lượn mùa xuân tới
Lại thấy cò bay tiết hạ qua
Mấy bận xe đò đà tới bến
Bao lần tàu suốt lại rời ga
Rượu đào nút lá chờ thi khách
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Hồ Văn Thiện

LỠ HẸN
Lỡ hẹn bao lần chửa được ra
Chim hồng hỏi có đợi cành đa?
Cây nhà lá nõn bao mùa mọc
Sông núi trời già mấy tuổi qua
Ngày nhớ hình xưa sầu với gió
Chiều mong bóng cũ tưởng về ga
Ai ơi chén rượu tương phùng ấy
Lỡ hẹn bao lần chửa được
ra

April 22, 2008

Đuyên Hồng


THÚI CỦ
 
Sao vào chưa đến đã đòi ra ?
Chẳng lẽ tình xuân lạnh gốc đa !
Xưa mới quen hơi siêng bước tới

Giờ toan lánh mặt biếng chân qua
Hoa cười hữu ý chờ tin bướm
Tàu chạy vô tình chẳng ghé ga
Nếu chẳng cạn hơi hay thúi củ
Sao vào chưa đến đã đòi ra ?
Lá chờ rơi
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2008 16:04:47 bởi lá chờ rơi >
Đuyên Hồng 01.05.2008 23:57:38 (permalink)
0
ĐẶNG DUNG
Ngàn thu nhớ mãi đấng Nam nhi
Dẹp giặc phò vua một dạ vì
Phục nước đảo trời chưa gặp vận
Dựng cờ lỡ bước phải suy vi
Mưu cơ kim cổ soi gương mãi
Trí dũng trước sau để tiếng về
Hận chí chưa thành đầu đã bạc
Lòng son nào thẹn với sơn khê!
May 1, 2008

Đặng Dung là con Đặng Tất, một tướng tài thời Hậu Trần.
Năm sinh và năm mất của ông không rõ, chỉ biết ông người làng Tả Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng theo gia đình vào lập nghiệp tại vùng đất Thuận- Quảng nay thuộc huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Giận vua Giản Định Đế giết oan cha mình (1408) vì lời gièm pha của gian thần sau trận Bô Cô, ông đem quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Quý Khoáng lên ngôi vua, lấy hiệu là Trùng Quang, và được giữ chức Đồng bình chương sự.
Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị nhiều lần trực tiếp chiến đấu với quân nhà Minh. Đêm tháng 9 năm Quý Tỵ (1413), Đặng Dung đánh úp và suýt bắt sống tướng Minh Trương Phụ (vì không biết rõ mặt nên Phụ lợi dụng đêm tối dùng thuyền nhẹ trốn thoát được). Tháng 11 năm 1413, vua tôi nhà Hậu Trần thế cô bị quân Minh bắt giải về Yên Kinh. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không ghi chép gì về cái chết của ông. Theo Ngô Thì Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án thì ông và Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ moi gan ăn. Ông còn để lại duy nhất bài thơ Cảm Hoài (chép trong Toàn Việt Thi Lục). Lý Tử Tấn có lời bình: "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt, ắt không thể làm được bài thơ này).[1]
Con cháu ông về sau có lắm người danh tiếng, hầu hết đều đỗ tiến sĩ trong các triều nhà Hậu Lê như: Đặng Đôn Phục, Đặng Công Thiếp, Đặng Tòng Cù, Đặng Minh Khiêm, Đặng Công Thận, Đặng Công Điềm, Đặng Chiêm...

Thơ văn
Cảm Hoài

Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Bản dịch của Tản Đà

Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

Bản dịch của Phan Kế Bính
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Bản dịch Vân Trình
Việc lớn chưa xong tuổi đã già
Đất trời thu gọn tiệc ngâm nga
Gặp thời bần tiện thành công dễ
Lỡ bước Anh Hùng dạ xót xa
Giúp Chúa những mong xoay trục đất
Rửa dòng không lối kéo ngân hà
Bạc đầu thù nước còn chưa trả
Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà

Bài họa: Cảm Hoài của Đặng Dung
Thế sự mang mang, tuổi đã già,
Đất trời lồng lộng, rượu mình ta.
Gặp thời phu hoạn thành công dễ
Lỡ vận anh hùng ngẫm xót xa!
Trục đất muốn xoay phò thánh chúa,
Kéo sông vạch lối diệt gian tà.
Quốc thù chưa trả đầu mau bạc!
Mài kiếm bao lần bóng nguyệt qua
(Hoài Lê)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2008 00:02:30 bởi Đuyên Hồng >
Trần Mạnh Hùng 02.05.2008 05:22:26 (permalink)
0
LÀM QUỶ  NƯỚC NAM
Nghìn thu thơm tiếng Trần Bình Trọng.
Chấu chấu đá xe luận tướng hùng
Chết ở phương Nam làm Quỷ Mị
Sống chi đất Bắc được phong Vương.
Người xưa tiết tháo lòng anh liệt
Hậu thế vinh danh huyết Lạc Hồng.
Tổ quốc - biển non liền một mối.
Máu xương bồi đắp giải non sông
Trần Mạnh Hùng
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2008 15:12:52 bởi Trần Mạnh Hùng >
Đuyên Hồng 02.05.2008 14:29:16 (permalink)
0
NGUYỄN TRÃI
Quan ải đôi hàng giọt lệ sa
Tình riêng nghĩa nước nỗi lo nhà
Trời Nam ngẫm lại đau lòng trẻ
Đất Bắc quay nhìn quặn ruột cha
Chặt trúc Nam Sơn thù phải trả
Tát dòng Đông Hải hận nào tha
Mười năm nếm mật xây Lê nghiệp
Thác Lệ chi vườn thật xót xa!
May 2, 2008
hoahn 02.05.2008 19:13:37 (permalink)
0

Trích đoạn: lá chờ rơi

ĐỢI NGƯỜI XA
                                    Tặng chị Châu Thi
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Cố hương trơ lạnh bóng cây đa
Đã trông én lượn mùa xuân tới
Lại thấy cò bay tiết hạ qua
Mấy bận xe đò đà tới bến
Bao lần tàu suốt lại rời ga
Rượu đào nút lá chờ thi khách
Dấm dứ mãi mà vẫn chửa ra
Hồ Văn Thiện

LỠ HẸN
Lỡ hẹn bao lần chửa được ra
Chim hồng hỏi có đợi cành đa?
Cây nhà lá nõn bao mùa mọc
Sông núi trời già mấy tuổi qua
Ngày nhớ hình xưa sầu với gió
Chiều mong bóng cũ tưởng về ga
Ai ơi chén rượu tương phùng ấy
Lỡ hẹn bao lần chửa được
ra

April 22, 2008

Đuyên Hồng


THÚI CỦ
 
Sao vào chưa đến đã đòi ra ?
Chẳng lẽ tình xuân lạnh gốc đa !
Xưa mới quen hơi siêng bước tới

Giờ toan lánh mặt biếng chân qua
Hoa cười hữu ý chờ tin bướm
Tàu chạy vô tình chẳng ghé ga
Nếu chẳng cạn hơi hay thúi củ
Sao vào chưa đến đã đòi ra ?
Lá chờ rơi

 
Nghĩa vụ

Hết đứng lại ngồi mắt dõi ra
Chàng ơi chốn cũ gốc cây đa
Bao năm trở gió đông ùa tới
Mấy thuở thay mùa xuân lại qua
Buổi sớm mỏi mòn nơi cuối phố
Hoàng hôn đăm đắm góc sân ga
Chàng đi biền biệt  mây màu nhớ
Biết đến bao giờ mãn hạn ra
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.05.2008 00:48:58 bởi hoahn >
Thay đổi trang: << < 192021 > >> | Trang 21 của 85 trang, bài viết từ 301 đến 315 trên tổng số 1269 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 6 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9