Ngọc Lý
-
Số bài
:
3255
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 27.08.2005
|
Hoàng Cầm - Về Kinh Bắc (1959-1960)
-
16.04.2007 06:44:26
. Hoàng Cầm Về Kinh Bắc (1959-1960) 1/3 Mục lục - Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn – Tâm tình với bạn đọc talawas
- Dâng
- Nhịp một - Khấn nguyện
- Nhịp hai - Kiếp trước
- Nhịp ba – Rũ bụi gia phả
- Nhịp bốn - Rồi cùng đi tất cả
- Nhịp năm – Còn em
- Nhịp sáu - Điểm trang
- Nhịp bảy - Rồi lại đi
- Nhịp cuối - Về với ta
- Xong cuộc tuần du
- Vĩ thanh
Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn (Tâm tình với bạn đọc talawas) Tập thơ Về Kinh Bắc (NXB Văn học 1994) không được nêu tên trong danh mục những tác phẩm được Giải thưởng của Nhà nước Việt Nam lần thứ V, nhưng trong các tập thơ Bên kia sông Đuống (NXB Văn hoá 1993), Lá Diêu bông (NXB Hội Nhà văn 1993), 99 tình khúc (NXB Văn học 1999) được nêu trong giải thưởng, có rất nhiều bài nằm trong bản thảo Về Kinh Bắc, trong đó có đủ những bài thơ chủ yếu bị quy kết là phản động hồi những năm đầu thập kỷ 1980 (“Cây tam cúc”, “Lá Diêu bông”, “Quả vườn ổi”…). Để bạn đọc có dịp đọc toàn bộ tập thơ đã trở thành một di sản văn hoá nước nhà trong bản chính thức của nó, chúng tôi đã đề nghị chính tác giả Hoàng Cầm cung cấp tài liệu. Nhà thơ đã vui vẻ nhận lời và nhân dịp này, có đôi lời tâm sự với bạn đọc. talawas Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự "đỡ đầu" (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh. Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat [1] ), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả… Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò [2] bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ "Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa" là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được. Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù. Vì vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải sống, còn tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có giá trị thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoãn, cốt để được về. Tôi vừa đọc xong, anh ta chồm dậy, bắt tay tôi rối rít và cảm ơn cảm ơn hai lần liền, sau đó cho người đi mua phở cho tôi ăn. Anh còn tuyên bố: "Chúng tôi sẽ đề nghị để Tết này anh được về". Tôi mừng quá, viết thư về cho bà Yến [4] báo tin vui. Thế là suốt những ngày gần Tết năm ấy tôi cứ khấp khởi đợi chờ. Sau này tôi biết bà Yến nhà tôi cũng trong tâm trạng ấy. Sáng 30 Tết bà bắt anh con rể mang xe đến chờ ở cổng Hoả Lò suốt từ sáng tới tối. Nhưng thực tế là tôi không được thả như lời hứa của công an mà ngay mồng 4 Tết thì bị chuyển tới "xà lim bộ" [5] và tiếp tục bị giam, tổng cộng là 18 tháng. Vì sao lại có chuyện thay đổi như thế? Có phải anh công an tên N. đã nói lừa tôi cốt để tôi nhận tội cho được việc của anh ta? Tôi cũng không rõ sự thực thế nào, cho đến một hôm sau khi đã ra tù, tôi tình cờ gặp một anh công an thụ lý khác (xin phép không nêu tên) ở quán bia Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Trông thấy tôi anh mừng lắm, anh mời tôi vào uống bia để tâm sự. Anh nói là anh đã ra khỏi ngành, và anh kể cho tôi một chuyện khá bất ngờ. Chuyện đại ý như sau: Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ [6] gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: "Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm". Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu [7] . Ông lập tức hạ lệnh: "Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!" Thái độ cứng rắn đến nghiệt ngã của Tố Hữu với riêng tôi cũng như với các anh em Nhân văn-Giai phẩm rất nhất quán. Ngay cả đối với những sáng tác mà anh em chúng tôi tìm lối mới vào cuối những năm 1950 nói trên, ông cũng rất ghét, mặc dù không biết ông có đọc hay không. Lại nói là sau khi bốn người chúng tôi bật ra được thứ thơ ấy, ai cũng mãn nguyện vì đã lộ rõ cốt cách từng người. Riêng tôi thì ngay từ lúc viết xong Về Kinh Bắc, tôi đã tin là nó có giá trị, có đóng góp cho văn học nước nhà. Tuy tôi không dám truyền đi rộng rãi, chỉ cho vài người bạn đọc, nhưng rồi nó được tự động lan truyền, đặc biệt có những bạn sinh viên trẻ say mê nó lạ lùng. Phải nói tình yêu đối với Về Kinh Bắc có cái gì đó rất đặc biệt. Tôi không tin là tập thơ dễ hiểu chút nào, đặc biết là phần Nhịp một với "những đêm ngũ hành" kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Ngay nhà thơ Lữ Huy Nguyên, cố giám đốc NXB Văn học, cũng thú thực với tôi rằng: "Em in cho anh thì cứ in chứ nói thật là em chỉ hiểu được 1/4 tập thơ". Đến anh công an thụ lý N. sau khi tôi nhận tội cũng thú nhận: "Thực tình tôi chẳng hiểu anh nói gì, bây giờ anh khai ra tôi mới biết ý đồ chống Đảng của anh, thì ra anh thâm thuý thật!" Việc chúng tôi sáng tác những tác phẩm mới nhanh chóng được báo cáo với Tố Hữu. Một người bạn được tham dự buổi họp tuyên giáo mở rộng kể với tôi rằng trong cuộc họp Tố Hữu đã cảnh báo: "Tụi Trần Dần Hoàng Cầm… bây giờ đang thực hiện đúng khẩu hiệu phục xuống sáng tác mà Văn Cao đã khởi xướng. Phải canh chừng và dập tắt ngay." Đây là lần đầu tiên tôi nói rõ một số chuyện liên quan đến Về Kinh Bắc, nói ra để khép lại những cái đau buồn ấu trĩ của một thời. Bây giờ, tôi xin các bạn thưởng thức nó vượt qua mọi bối cảnh chính trị xã hội, thưởng thức nó như một tác phẩm nghệ thuật mà đến hôm nay tôi vẫn thấy hài lòng. Hoàng Cầm Dâng hương hồn mẹ Ta con chim cu về gù dặng tre đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng đưa mây lành những phương trời lạ về tụ nóc cây rơm Ta ru em lớn lên em đừng tìm Mẹ phía cơn mưa * Nhịp một - Khấn nguyện Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng Đêm Thổ Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc Chiều xưa giẻ quạt voi lồng Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông Đê mười tám khúc Văn Giang Chuông Bách Môn đổ xô gò má Mây thành thổi lửa Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xoã ngủ thoắt chìm Gấu đẩy đá Thiên Thai Đi đâu Tràng mày xếch vòng cung bắn nát chiều mai ráng đỏ Châu chấu ma vờn cổ yếm xây Không gặp người quen hờ ngõ cũ Đêm xuống làm lầu hoang Trò chuyện gì ai đâu Mồ tháng giêng mưa sũng Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng Đêm Kim Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc Con không cười Con thoảng nhớ thoảng quên Hình nhân má điệp tóc mực tàu Mắt nghiêng dựa liếp Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa Da trứng bóc phủ bụi tàn nhang Phía đông kéo cưa xẻ gỗ Phía tây chầy nện ván thiên Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ rũ xô gai biển động tìm kim Kèn già lam ai tập thổi Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy Năm ba gã trai tập bài lưu thuỷ Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang qua miếu mưa phùn Giặc bên sông đã cắm cờ hạ trại Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo Đêm Mộc Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng Khế chua vôi bột lòng tay Tràng pháo ròng thân cau mới bói Tênh tênh chở đá Ba Vì Tiếc gì nhau nữa Lứa ong bầu châm lửa gót chân Cói Thanh ép mỏng Bao giờ lim gãy đá tan Ngủ lại giấc mơ dang dở Chũm cau căng nứt mạch tằm Yếm may ba ngày mẹ vá lại Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm Súng lệnh gươm đao rậm rịch Thua lá màn lay muỗi ngủ mê Đêm Thuỷ Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch Tượng Quan Âm má ửng bồ quân Chuông chiều cởi yếm Chuông sớm đội khăn Câu kinh tê tê mười ngón tay măng Mõ đêm hè cuốc lội Ao mưa dằng rịt lá trường sinh Gió vào trăm cửa Gió ra hồng da trinh nữ Gió vào xanh quan lục Gió ra vàng thớ mít ong bay vai áo tiểu thon mình Thập điện Diêm vương mở hội trong mắt trẻ lên năm Trưa hè gãy rắc cành hoa đại Mái hậu cung bồ các tha rơm Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm Đêm Hoả Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa Ngón tay di sợi chỉ nâu Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu Giun đất lòng thòng mỏ con gà trụi Võng mắc cành hồng chạc ổi Kiều khàn dứt giọng nho sinh ... “buông mành... ... Con oanh học nói...” Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước Hoa thui ngọn bí lông tơ Đại hạn tháng ba lá lúa rang châu chấu Mải dỗ con Mắt cua nghênh giã cảnh giã người Càng hy vọng tủa lên trời đợi bão Chiều cơm suông Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ Trăng lên chém đầu ngọn gió Cành si bưng chậu máu chát chao Cuối năm rì rầm tiếng khóc Chàng ôi ngựa tía võng đào Chợt mê thét giữa sân Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng Máu đổ Mây đùn Gió lộng Sớm mai đi * Nhịp hai - Kiếp trước Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử Nắng phù sa Người thơ kể Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống Dựng tre làng Cháy sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu Chuột thành than đen xạm dọc sông Hồng Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại Người thơ kể Thiên vương chẳng nói Lúc gật đầu vó ngựa đào ao hồ liên tiếp mãi Đông Anh Thiên vương chẳng nói Lúc nghiêng tai cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà Hoa gạo các triền sông giải lối Sóc Sơn bay Người thơ kể Thiên vương chẳng nói Chân Mẹ còn đê mê cát mịn Hội Gióng dong chiêng Bé em về nằm khoanh lòng mẹ Nghe nghìn muôn năm sau xoa nắn đôi bầu vú lửa Sông dài Cát bỏng Nắng hồng hoang [8] Gió lông ngỗng Lông ngỗng trải bờ lau Sông Cầu xuôi bến Hát Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ Cổ Loa cú rúc chòi canh Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử I...i...m...m ứ... ! I...i...m...m ứ... ! Mất rồi Mười bảy mười ba An Dương Vương ôi Bọt bể bồ hòn Sương Cầu Lim Chấp chới lá chè non Cầu Lim Nội Duệ The Hà Đông đón kiệu bỏ quê Xim Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống Sáo sậu Phù Ninh rợp nắng về Thăng Long Đá nghển trông con gục đầu sườn núi Dạm Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền Đè ngang khói bếp bặt mùi khoai nướng Đầu rau nằm sấp toạc môi Trống Chờ thúc chín tiếng Chuông Trõ nện ba hồi Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo Biết lòng chim sáo chim ri Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi Khói Yên Thế Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề Bờm nhả khói Đuôi dựng mây Hí lửa dài Vó chồm nghiêng soái phủ Nhe răng cười Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi * Nhịp ba - Rũ bụi gia phả Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn Đèn nhang 1 Ông già thả gậy bắc cầu phao vượt bến bạc đầu lên núi thổi cơm chiều Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử Áo Hai Bà dăng mắc rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân Cụ tổ mười lăm đời Cùng ngửa mặt với Trần Bình Trọng nhận gươm phương bắc chém Cụ tổ mười đời lăn đá Chi Lăng chẹn ngõ Đông Quan cứu viện gõ ba hồi trống tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng Cụ tổ chín đời mở trang Bình Ngô Đại Cáo Nơi thôn xa ba chén chúc mừng Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng xẵng canh gà thét đuổi đêm đông Ông tổ năm đời cáo quan dưỡng bệnh Tóc trắng bồng bênh trước án Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp dở khóc dở cười Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng Ngựa cố tri buộc ngoài ngõ trúc Hũ rượu hoàng hoa Hịch bốn trấn Xé trang Luận Ngữ lau gươm lên đường Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân Kéo quân về cửa khuyết hỏi tội nghịch thần mắt Chúa đảo thiên kéo áo che ngai né mũi kiếm vô hình xốc tới Phanh hầm nhét vội một vầng dương Cắn nhọn móng tay Thơ cùm lim khắc máu Chợt nghe tin giặc dữ lấp sông san núi ùa sang Vùng chặt xích bẻ gông phá cửa cướp ngựa Hình Tham tri phóng lên ải bắc Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban đã ngấm tuỷ xương từ chén rượu đêm qua Đèn nhang 2 Dó lụa lật trang sang chữ triện quan tài Bóng người cô ruột mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi Sông trôi xa còn ngoái về xem gót chân uyển chuyển Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc dịch sườn thông sang xúm xít quanh hàng mi nắng đọng hồ trong Một sớm đi làm vương hậu Cười rũ cỏ hoa rè tiếng trống chấp đòn khênh Xà tích dấu đưa em Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc Nhìn mây về ngọn cau Mái rạ thiu thiu Đi bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy níu cuộng lá vàng qua trận bão Phân kim hạ kiệu khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân Mấy chục nguyên tiêu thời trân thưa thớt Cơn trái nắng kén gì đúng lúc quả đào rơi Vua băng hà Đời hậu tắt sao băng Sợi tóc trắng quấn vòng Khiêm lăng chẳng dứt Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch Hồn ma đế bá cũng lang thang đói khát tình thương Đá Quảng Nam quen lệ nghìn năm lấp sống Đêm doang tay mời vương hậu ngủ chung giường Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang Bàn tay quấn tóc khô che mặt về quê Chết bên cây ngâu nhòm bể nước mưa đầy Ngựa 1 Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa Trăm trận đông đoài chập vút bì tiên cắt thịt chia da Nhai cỏ úa lối mòn đường quê chát đắng Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam Dù gục khóc dưới chân thành đã mất giải khăn đào hứng lệ Người đổi kiếp ra mô đất xám đắp thêm cho vững mái lầu hoa chiều nổi cung đàn phỉ thuý thong dong Trận mạc võng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân phóng giữa Trường Sơn lớp lớp san bằng đồi núi lô nhô Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc Tiếng hí dài ba lần triều đại đổi ngôi Khoét thủng sáu lần nhung phục Đập rập tám lọng vàng đô đốc cha truyền con nối đã xơ lơ Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út bờm lông còn ướt đã vểnh tai nghe động trống doanh lâu nếp nếp áo chầu ngã rạp Chiến thư dùng dắng tử sinh Ai gặp lúc tuổi măng háu đá Óc ngu phu giám mã chạm yên đau rức xương hông quằm gót thốc ngang sườn quật thây tổng quản Hỏng rồi Chiến trường không dụng Đeo thẻ bài nhà Chúa ngẩn ngơ gặm cỏ quanh quanh cửa bắc cửa đông Nhìn tít mù xa khanh tướng cờ bay bụi lốc nghe tin về lái ngựa quận công xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ Tiếng hí khải hoàn chìm lịm Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn Xương vụn kéo lên gò đống Cháu bốn đời vỗ mả áp tai nghe tràng đạc rộn hoang vu còn thoảng khét mồ hôi ngày huyết chiến năm Thân Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu đổ xuống bủng beo da thị rụng Ngựa 2 Có một thời Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi Đàn lính ngựa vua nuôi bỗng lừ đôi mắt mỏi phi dài vệt khói Cánh dăng dăng quan lộ áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn Đường nắng bay từng đám hoả hoàng san sát rừng gươm Gia Bình - Bạch Hạc tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc Trước mặt cào cào rộn cánh tốc xiêm y trăm sắc cung tần Trên lưng nắng hạn xém yên cương Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình uống nước mưa thổ hoàng bách chiến Giặc cuồng vắt chân tháo chạy Đầu lâu lăn lóc vó vụn xương hàm cắm mốc biên thuỳ tít tắp từ Tiên Yên Hà Cối đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh Cũng từ thuở ấy Cô gái quê thả tấm khăn điều bay nối đường tre liền ngọn thác bạc phau đổ xuống tự vòm mây Mắt ướt môi se không nức nở Răng đen rưng rức nghiến oán thù tím ngắt nắng Phong Châu Cũng từ thuở ấy lính - ngựa vua nuôi gọi lính - người Hội vật Trống lớn Giảng Võ đường đội bổng vòm trời cao vót Gió thượng du dội lại Mưa trung du thốc sang Bão hạ du dồn vang Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu cong mái đỏ quanh thành Kỳ xí đêm qua ủ gió sớm nay thả hết về nam săn đàn mây bò mộng ngổn ngang Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ hai hàng tăm tắp võ hoàng môn Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng Vua kén người giỏi tiên phong vật núi núi lăn ngáng sông sông gãy Gái thường dân Kinh Bắc tìm ai đây giỏi phận làm chồng hai tay căng sợi chỉ quỳ ba đêm không mảy động đường tơ Các ngả đường bụi đùn lốc nổi Thác người đổ qua cửa ngọ Cờ xua hết mây đi toà biếc lắng xem Trống vẫn thúc sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng Loa vẫn rải núi đồi trùng trùng đi bốn hướng Chiêng lê thê sông Nhị dăng dài bãi mía bờ khoai đi Một khắc cờ im gió đợi Trai đô ùn đọng ngã tư thành Ai từng buôn ngược bán xuôi Chiều hoang rừng xế gặp hùm liều thân cứu mạng tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi Ai xuống bể mò ngọc trai tặng người yêu dấu Né đuôi cá mập bỗng nên tài dụng phép thúc sườn Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống giỏi khoa vặn chệch hàm răng Lại kìa ai thuở bé thích trèo cây giỏi môn vặn cổ Ai vượt thác tìm vợ xưa tu chùa Yên Tử tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa Lại kìa ai quen trộm gà bà thím Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt” Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già Loa càng dóng dả Võ nghệ mười phương hồi hộp bắc đồng cân Đây Tổng Dong Võ Giàng vào trước nhất Nhiễu xanh vắt hông Cử vạc ba trăm cân nước đầy không sóng sánh Rồi Bá Ngạc Tiên Du Tư Đang Yên Dũng Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà nghiêng mình thi lễ Mắt trầm tư ngó vội khảo đài mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay Kia Bảy Kình khét tiếng Yên Phong gạt dóng tre ngà cầm tấm mía nhai ròn thổi bã ngất trời bụi trắng Đến Ba Ngư Siêu Loại trề môi khinh vạc lớn đứng tấn đại bàng lay voi đá cửa dinh nhấc bổng diễu hai [9] vòng bãi rộng Phong ba động biển reo hò Gái nhà quan bố nuông cho giữ dịp bỗng để rơi dùi trống nín hơi nghe rần rật bão liên hồi trong búp lá măng tơ Hồi cồng buông trấn lệnh Từng đôi vào sư tử vờn quanh Lên điệu "Bạch hầu đoạt trái" Sang điệu "Hồng hạc tề phi" Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu ngực yếm phập phồng bưởi ngọt Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó lòng run nghiêng thời vận Trình Chu Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời Nhiễu đỏ bên trái lên Nhiễu xanh bên phải xuống Nhoè bụi cuốn Cột đồng dựng Núi đá mọc Ngón chân cày đất ba gang Vạt cỏ đuôi gà bật rễ Đất võ đài nhô lên lõm xuống Chòng chành vạn chiếc mắt thuyền Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc Vảy tê tê gạt gió xô về xem cuộc giao phong Đã vào trận léo tay tư Chùm trống rụng rã rời từng quả mõm Ôi thôi Bá Ngạc cắn môi vít gót Bảy Kình nhắm mắt xuống bò Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm Tổng Dong nghiến răng ken két giật ngang mạng mỡ Tử sinh là lúc này đây Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng Cồng chiêng thoi thóp Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy ánh lửa loáng lưng gò cật thắt Mồ hôi người máu nến rụng song song Rạng đông Người toàn thắng bước ra ức vạn người xem khiếp sợ Cuộc tàn tản mác cát lòng sông Đô nhất là ai quê vùng đâu đó Vươn tay chạm giời Tóc hất sao mai quỳ xuống vọng về cửa khuyết lạy hai lạy Lưng vàng rạp cỏ Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi kén được một người nụ cười chếch đôi mắt lạ vồn vã đến thong dong thua rồi lửng lơ đi Vua kén đủ mười hai đô uý Triệu về kinh ban yến năm đêm Giọt rượu hồng hoen bố tử Nâng ngự tửu xuống án rãi thây trăm họ Một lời khảng khái tung hô Mai sớm kéo quân đi nghìn dặm lấn thành xa Khúc quân thiều còn múa lượn vành tai sương cóng Chiều tím bặt sa trường màu giun chết Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa phơi mồi quạ xúm đen ngòm Bắp thịt đường gân ngày thí võ hôm xưa thoắt đã bầy nhầy phân ngựa Đêm vàng Kinh Bắc Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung Lính thú Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ Mười lần khấn gửi nước về xuôi Lính thú đèo Mây vươn tay chém nứa xọc ngang sườn Gục bên khe Vân tuyền nước đọng Rừng khô thoảng động gót chân người quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây Cô hàng xóm cũ ở riêng Lạt cánh sen buộc nem lá chuối cũng gửi quà xưa hội tháng giêng Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông Đòn gánh đã theo củi giạt Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi Cụm tóc lá sung lạt mở Bến về nghe sợi đập làng xanh Thôn cũ đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng Cung quăng đo thân cau vại nước lưng chừng Đuôi nắng quệt ngang cành ớt Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa [1]Bằng tiểu học (Certificat d'études primaires) – Chú thích trong bài của talawas [2]Trại giam của Pháp ở phố Hoả Lò, mang tên Maison Centrale, sau này là trại tạm giam của công an Hà Nội cho đến cuối thập kỷ 1990. Tác giả bị bắt vào đây ngày 20/8/1982 sau khi công an phát hiện có "âm mưu" tuồn bản thảo Về Kinh Bắc ra nước ngoài. [3]Chính tả (các chú thích đều của talawas) [4]Bà Lê Hoàng Yến, vợ tác giả [5]Trung tâm thẩm vấn của Bộ Công an ở ngoại thành Hà Nội. [6]Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lúc ấy. [7]Lúc đó là Phó Thủ tướng thường trực, đồng thời vẫn là người lãnh đạo về văn hoá tư tưởng. [8]Dị bản: Sông dài sóng đôi/ Mượt mà gò nổi/ Cánh rừng rưng rưng say/ Hồng hoang hương ấm mấy chân trời (bản in ở NXB Văn học 1994) [9]Bản của NXB Văn học 1994: "diễu năm vòng" Nguồn: Văn bản sử dụng cho tập Hoàng Cầm-Tác phẩm-Thơ do NXB Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2002. Những chỗ khảo dị trong phần chú thích của talawas dựa trên đối chiếu với bản Về Kinh Bắc của NXB Văn học 1994. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9662&rb=08
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.04.2007 06:45:26 bởi Ngọc Lý >
|