Vụ trấn yểm sông Tô Lịch....!

Tác giả Bài
langtoi
  • Số bài : 2462
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.12.2005
Vụ trấn yểm sông Tô Lịch....! - 20.04.2007 12:44:53
Về vụ trấn yểm trên sông Tô Lịch
14.04.2007 - 12:00
Hiện tượng trấn yểm sông Tô Lịch gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 - Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão.

Tóm lược sự việc như sau :Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.

Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.

Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.

Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.

Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.

Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.

Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.( Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người viết ). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.

Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?. Theo thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.

Người viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh..

Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.

Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.

Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.

Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong".

Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).

Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?.

Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.

Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền.

Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.

Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.

Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :

1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.

2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.

3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.

Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ?

2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.

3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ?

4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?.

Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai.

Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12
-Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?.

Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh , Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.

Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền ( vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định :Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.

Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.

Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.

2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?.

Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.

Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa...

Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.

3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ?Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta .

Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )...

Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý ,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.

HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.

1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.

2/Kinh :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh.
3/Mạch :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.

4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc?

Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.

*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác.

* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí.

Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt.

Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt..

Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc,gắn kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.

Theo nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.

Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái ).
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.

Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau:

Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ).

1/Về Thiên :Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh núi cao.Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu,Thổ tú,Thủy diệu,Thái bạch,Thái dương,Vân hớn,Kế đô,Thái âm,Mộc đức và Tam kheo,Ngũ hộ,Thiên tinh,Toán tận,Thiên la,Địa võng,Diêm vương,Huỳnh tuyền )ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.

Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.

2/Về Địa :Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước,tụ lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ).Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG.ĐÂY MớI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG ).Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí .

3/Về Nhân :Có thể xác định được Âm phần,Dương phần,Họa,Phúc,Mệnh,Thân của từng con người.

Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.

Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau :Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình,tới dãy Tam đảo ,dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái bình,ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường.Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.

Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau :Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình ,đi tới dẵy núi Ba vì,qua cầu Hàm Rồng,theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm

Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ thư chữ Hán ,cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây .Đây là độ số của Lạc thư.Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc,theo đúng độ số của phương Tây.Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương ) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.Theo người viết,trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác.Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ .Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông nam,...tới Tây,tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau :1-8-3-2-7-4-9-6.

Ta vẩn biết rằng :1 -là hành Dương Thủy.
6 -Là hành Âm Thủy.
8 -Là hành Âm Mộc.
3 -là hành Dương Mộc.
2 -là hành âm Hỏa.
7 -là hành Dương Hỏa.
5 - là hành Dương Thổ.
10 -là hành Âm Thổ.
4 -là hành Âm Kim.
9 -là hành Dương Kim.

Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau :Thủy (6-1 )sinh Mộc (8-3 )sinh Hỏa (2-7 )sinh Thổ (10-5 )sinh Kim (4-9 ) và lại trở về hành Thủy.Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay.Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này,thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.

Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch,sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại,kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,dòng sông Tô,trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu,nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại.Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng (Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.

Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này.Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở,thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật,là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI.

Trong bài viết,tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an , Ẩn sĩ Lý Thiên Hương -Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn

Tôi đã xác minh lại nguồn tin này;Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng -Chùa Giác Lâm _Quận Tân bình -TP.HCM :Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch,nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não.Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa Hương.

Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên )Yểm (Chôn xuống )cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác.Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần . Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu?Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng đó.Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết,những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực .Tuy nhiên ,không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.

Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này.Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó.Theo nhận xét của riêng người viết,khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9.Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm,Cao biền cũng biết rất rõ điều đó ,chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây .Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay,phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7.Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo.Theo người viết được biết,tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa,các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.Như vậy theo người viết,phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác.Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà,Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch,theo thiển ý của người viết,nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành.Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt,hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa .Theo những tin tức gần đây nhất,sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên,cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa.Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ),luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi,cũng không loại trừ đã có sự trấn,yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh.Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không ):Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở,vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ.Từ rất lâu đời,các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu,nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.

 
  Tôi xin dấn thêm một vài tư liệu để các bạn tiện theo dõi!
 
Đây là câu chuyện kể lại sự kiện Bãi Cọc Trấn Yểm Sông Tô Lịch của người Đội Trưởng Nguyễn Hùng Cường trực tiếp thi công đoạn này của Đội 12 thuộc Công ty liên doanh Xây dựng (VIC) và các bài viết được đăng trên báo về câu chuyện này.
Cty liên doanh XD VIC trúng thầu gói thầu 07 dự án cải tạo hệ thống thoát nước HN. Công việc cụ thể là nạo vét và kè đá dọc bờ sông Tô Lịch. Tác giả bài viết này là ông Nguyễn Hùng Cường đội trưởng đội XD số 12 trực tiếp chỉ huy thi công đoạn sông qua làng An Phú, P Nghĩa Đô, Q Cầu Giấy. Và mọi việc kỳ bí và đáng sợ bắt đầu từ đây. Có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng cũng có thể là chuyện tâm linh chúng ta chưa giải thích được.
Trước khi thi công, với tư cách chỉ huy công trường tôi có mời ông Phạm Ngọc Anh kỹ sư thủy lợi làm chuyên viên kỹ thuật. Ngay ngày đầu tiên khi khảo sát thực địa, ông Anh phát hiện một ngôi Đền rất lớn ở bờ sông phía An Phú. Đó là ngôi Đền Quán Đời có từ thời Lý. Ông Anh nói luôn: “cậu không nên nhận thi công đoạn sông này. Nguy hiểm lắm”. Rất ân hận, tôi đã không nghe theo lời khuyên này.
Ngày 15/8/2001 tôi vừa làm lễ trong đền Quán Đời, vừa cho máy xúc, máy ủi xuống bờ sông khơi công. Vừa thắp được mấy nén hương thì tự nhiên lửa trong nắm hương cứ bùng bùng cháy rực, đồng thời ngực tôi đau buốt. Mãi mới dập được lửa, cắm lên bát hương thì công trường báo có sự cố. Vái vội mấy vái, tôi chạy ra ngoài. Thì ra ngoài công trường sau khi đắp đe bơm nước ra, anh em phát hiện rất nhiều cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí rất lạ. Cũng là vô sư, vô sách, tôi chỉ huy cho máy nhổ cọc lên. Máy vừa nhổ được 2 chiếc cọc, thì tự nhiên như có một lực gì đẩy, chiếc máy xúc tự trôi xuống sông, không có cách gì giữ được. Đồng thời đê ngăn nước vỡ, nước tràn vào ngập kín chiếc máy xúc. Cũng gần như cùng lúc ấy có tiếng người hét lên. Trong đống bùn mà máy xúc đã xúc lên bờ có lẫn rất nhiều sương người, xương thú vật, rất nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, tiền đồng, tiền cổ. Biết là gặp chuyện lớn, tôi cho dừng thi công, yêu cầu công nhân gom tất cả đồ cổ, xương người lại và báo với Bảo tàng HN. Ông Phạm Kim Ngọc GĐ Bảo tàng HN và nhiều nhà khoa học đã đến hiện trường thu nhặt cổ vật mang về bảo tàng. Tối hôm đó, anh Hùng, người lái máy xúc nhổ cọc, đang khoẻ mạnh vừa về đến nhà chợt lên cơn động kinh, mắt trợn, miệng sủi bọt mép, người cứ quay tròn như gà bị cắt tiết. Cả nhà anh Hùng biết có sự lạ, sắm lễ ra bờ sông vừa khóc vừa lễ. Thật sợ, vừa lễ xong, đốt vàng mã được một nửa thì điện thoại ở nhà báo tin anh Hùng đã tỉnh lại.
Không biết làm cách nào, nghe bạn bè mách, tôi phóng xe đi Hải Phòng mời 1 thầy pháp nổi tiếng về trừ tà. Vừa nói chuyện với thầy, tự nhiên thầy trừng mắt: “Này, chỗ ấy âm khí nặng nề, sức tôi không trừ được”. Năn nỉ mãi thầy mới đi về HN mà cũng chỉ dám làm lễ cầu an ở bờ sôngvà ngay đêm đó về HP.
Mấy ngày sau, Bảo tàng HN tổ chức 1 hội thảo khoa học, hội tụ rất nhiều các nhà khoa học cả về sử học, bảo tàng, tâm linh… Kết luận của giáo sư Trần Quốc Vượng được chất nhận: đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ IX. GS cũng đề cập đến lực lượng âm binh tại đây và dặn tôi phảỉ cẩn thận kẻo ảnh hướng đến sức khoẻ và tính mạng công nhân.
Tôi cùng anh em công nhân thu nhặt hết tất cả xương người liệm vào tiểu và chôn ở bờ sông, hàng ngày cắt cử người hương khói. Nhưng công việc không tiến triển được. Cứ đắp đe lên, lại vỡ. Anh em công nhân ở công trường thì luôn luôn mơ thấy ma quỷ và thường gặp tai nạn lao động. Vét được chút bùn nào lên thì cũng thấy xương người, có khi cả đầu lâu. Chúng tôi liệm hết vào tiểu đêm chôn gần đó.
Một mặt tích cực đổi mới kỹ thuật thi công, mặt khác tôi vẫn tiếp tục mời thầy cúng trừ tà giải hạn. Nhưng tất cả các thầy bắc, nam đều bất lực. Công nhân toàn nằm mơ thấy những người mặc áo the, khăn xếp đánh đuổi không cho nằm. Nhiều người đã bỏ việc không dám ở lại. Anh Thương quê ở Nghệ An là công nhân xây lắp ngủ ở lán công trường, đêm nào cũng mơ thấy 1 bà cụ hiện lên nắm tóc đuổi đi và nói “Đây không phải chỗ kiếm ăn của mày, về quê mà sống”. Anh Thưởng không chịu bỏ đi, còn khuyên nhiều công nhân ở lại làm. Được 3 hôm vợ anh làm cấp dưỡng cho công nhân bị bỏng độ 3 toàn thân. Sợ quá anh đưa vợ đi bệnh viện và bỏ việc luôn.
Đến tháng 11/2001 nhờ tích cực vận động tôi đã mời được thượng toạ Thích Viên Thành ở chùa Hương về làm lễ cúng cho tôi ở hiện trường. Vừa đến hiện trường thầy đẫ ngồi xuống nhắm mắt niệm Phật. Niệm 1 lúc thầy đứng lên nói: Đây là trận đồ trấn yểm rất nguy hiểm. Vì các đệ tử thầy sẽ lập đàn tràng hoá giải. Sau đó thầy lập đàn tràng ở bờ sông hoá giải trấn yểm. Lễ xong thầy Thích Viên Thành nói với mọi người, “mặc dù thầy đã cố hoá giải nhưng anh em phải cẩn thận, còn anh Cường thì phải chịu nhiều hậu quả, gia đình, anh em con cháu cũng gặp hoạ. Rồi buồn buồn thầy nói: vì cái đàn tràng này tính mạng thầy cũng khó giữ”, Ba tháng sau thầy Thích Viên Thành hoá. Các đệ tử nói trước khi mất thầy còn nói thầy mất vì trận đồ yểm ở sông Tô Lịch.
Nhưng công việc cũng không tiến triển được. Đê đắp lên là vỡ, kè thép không vỡ thì nước sói từ dưới lên. Đặt đá xuống thì đá chìm nghỉm. Để kiểm tra địa tầng tìm kiếm biện pháp thi công mới tôi thuê 1 dàn khoan thăm dò đến khoan mấy mũi. Dàn khoan dựng ở giữa sông, đội khoan hạ mũi khoan. Lạ thay cứ hạ mũi khoan xuống 1 đoạn là mũi khoan gãy. Ba lần như vậy họ lẳng lặng tháo dàn khoan đi mất, không cần đòi tiền. Công nhân thì vẫn hoang mang vô cùng. Anh Hoàn quê ở Ninh Bình làm đốc công, có hôm vừa dẫm chân lên đầu cột gỗ thì ở quê nhắn lên bố anh ốm thập tử nhất sinh phải cấp cứu. Anh Nguyễn Văn Nông, thủ kho là người tích cực trong việc thu lượm các hài cốt và di vật thì mẹ bị tai biến mạch mãu lão. Sau khi thầy Thích Viên Thành làm lễ hoá giải yểm trừ, anh Trần Văn Lợi người Bắc Giang xông xáo nhất nhẩy xuống lòng sông vét bùn. Vừa lên bờ tắm rửa xong thì nghe tin nhà ở quê bị cháy rụi, một đứa cháu rất thân với anh đột nhiên chết.
Các công nhân sợ hãi nghỉ việc cả. Chiều chiều đứng bên bờ sông hoang vắng lòng tôi bỗng chua xót. Tôi có tội gì đâu mà Thánh thần hại tôi đến nỗi này….
Hết phần 1...
Thánh vật ở sông Tô Lịch ( tiếp kỳ trước )

Thấm thoắt đã cuối năm , trời trở rét , chỉ còn anh em than thiết với tôi là ở lại làm . Tôi đóng cọc thép sâu tới 4 m rồi làm cữ thép chắn nước : Lạ thay cứ bơm sạch nước thì cữ lại vỡ . Lúc này một số báo chí đã nói tới những sự kỳ lạ xung quanh coong trình sông Tô Lịch đoạn qua làng An Phú này . Bảo tàng Hà Nội , rồi viện tâm lý , các nhà ngoại cảm cận tâm lý đều đã tổ chức các cuộc họp tại công trình .Kết luận cuối cùng là …không giải thích được .Phía các nhà sử học khảo cổ học thì giải thích đây là di tích namừ trong quần thể chính của Tây thành Đại La. ( có thể là Ngọ môn ).Nhiều người còn yêu cầu khôi phục di tích này ,phía các nhà tâm linh ,dịch học thì nói đây là một trận đồ trấn yểm tà ma,không cho phép xâm phạm kinh thành , vì là trận đồ nên đã giam giữ rất nhiều ma mãnh, những bộ xương người mà tôi đào được rất có thể là xương người bị tế sống chôn lúc làm lễ trấn yểm .Cũng theo họ tôi đã động đến trận đồ , phá hủ nó , giải thoát cho bao nhiêu tà ma nên nó ám vào làm hại những người có mặt lúc đó, mặt khác thánh thần cũng oán giận việc làm của chúng tôi nên ra tay trừng phạt . Chuyện thánh thần ma quỷ thì không ai nhìn thấy , nhưng những sự rủi ro mà chúng tôi phải chịu đựng thì quả là đáng sợ .
Có một hôm đóng cữ mới , bơm nước cạn chuẩn bị để kè bờ thì phát hiện có thêm một cọc gỗ . Dùng máy xúc nhổ mãi không được , tôi giao nhiệm vụ cho anh Thủy ( Người Ninh Bình )xuống chặt cụt đi để lấy chỗ làm . Ngay đêm hôm đó anh bị cảm nặng sốt cao phải đưa vào bệnh viện . Nhưng kinh khủng hơn sáng hôm sau điện thoại từ gia đình anh điện lên mẹ anh bị tai nạn giao thông chấn thương sọ não .Đến chiều thì tin lên đứa con anh đang học lớp 7 bước từ trên hè xuống sân ngã gãy xương đùi , mặc dù từ hè và sân chỉ chênh nhau 30 cm . Đến sáng hôm sau thì mẹ anh bị đứt mạch máu não. Đang sốt hừ hừ anh Thủy cũng phải vùng dạy chạy vào đền làm lễ mới bỏ về . Sau này tôi mới biết nhà anh còn gặp nhiều chuyện không may nữa, phải cúng lễ rất nhiều anh mới sống sót được.
Nhưng bỏ không làm nữa cũng không được, đã đổ hết vốn liếng vào đây rồi bỏ đi thì không chỉ chết một mình tôi mà còn chết cả nhà , cả họ.Xin nhắc là công ty VIC trúng thầu nhưng làm từng đoạn, các đội nhậ khoán lại, phải tự bỏ tiền ra làm rồi thanh toán sau. Mặc dù tôi đã báo cáo lãnh đạo công ty nhiều lần, báo chí cũng đã nói đến chuyện này nhưng ông Nguyễn Quang Hưng- Giám đốc công ty vẫn không quan tâm giúp đỡ, ngược lại ông còn nhạo báng chê trách chúng tôi không biết làm việc . Vì vốn liếng , vì sĩ diện của một kỹ sư xây dựng tôi bàn với anh em thân tín quyết tâm làm đến cùng. May thay có ông Nguyễn Trương Tiểu.Chủ tịch Hội đồng Quản trị VIC ủng hộ tôi rất nhiều trong công việc ( hiện nay ông Tiểu đang làm Phó tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng Hà Nội ). Được sự giúp đỡ của ông , tôi đã mời được thầy Mão, một thày tứ phủ nổi tiếng, nhà ở Vĩnh Tuy-Hà Nội, đến làm lễ tại công trường .Nhiều lần tôi và ông Tiểu đến mời ông Mão và cuối cùng đến 6/2002 ông Mão nhận lời lập đàn tràng giải trận đồ bát quái cho tôi.Đàn lớn lắm , có đủ cờ phướn , hương án , lễ mặn ,hoa quả có đỉ . Trong danh sách chủ lễ có toàn bộ ban giám đốc công ty VIC, nhưng ông Hưng không đến dự.Cúng lễ hai ngày, hai đêm , hàng trăm người đến xem ầm ĩ một khúc sông.Cúng xong ông Mão nói với tôi :"Cậu đào khúc sông này là cậu khổ rồi.Bây giờ cậu có thể làm xong việc, nhưng nhà cậu sẽ gặp nhiều tai vạ lớn , cậu sẽ mất tất cả những gì quý giá nhất , anh em cậu sẽ tán gia bại sản , gặp nhiều sự oan khuất .Tôi làm lễ cho cậu cũng sẽ bị trả giá .Mặc dù không chết nhưng e rằng khó được như trước ".
Ngay sau khi ông Mão lễ xong , chúng tôi cùng về đến nhà ,thì ông Mão ngất đi . Từ lúc đó trong gần nửa tháng người nhà ông Mão đưa ông đi khắp các bệnh viện , không bác sĩ nào biết ông mắc bệnh gì , còn ông Mão thì lúc mê lúc tỉnh , lúc thì kêu khó chịu trong người, lúc thì kêu đau đầu...
..Cứ như vậy mãi sau ông mới khỏi , nhưng từ đó sức khỏe yếu hẳn đi .Trước đây tôi không tin là thầy Thích Viên Thành chết vì tai họa sông Tô Lịch , nhưng từ khi chứng kiến ông Mão ốm thì tôi tin rằng thầy Thích Viên Thành chết vì ma sông Tô Lịch thật. Nhưng lạ nhất là từ lúc lập đàn tràng lần thứ 2 do ông Mão chủ lễ,công việc có suôn sẻ hơn. Cữ dựng lên không bị phá nữa , kè đập cũng không bị sụtlở , chúng tôi làm được gần 150m dài , quá 1/3 đoạn sông tôi nhận .Đến đây thì tôi kiệt sức , vốn liếng vay mượn khắp nơi rồi không thể vay mượn thêm được nữa.Tôi quyết định ngừng công việc tại đây .
Nhưng tai họa thì không dừng lại , vào đúng ngày tôi hết sạch tiền , định cho anh em nghỉ việc thì tự nhiên một anh công nhân lên cơn động kinh ngay tại công trường , miệng sùi bọt mép ,mất hoàn toàn ý thức . Lúc tan cơn co giật anh vẫn mê sảng mồm lảm nhảm : Trả tao đây , trả tao đây . Ngay hôm sau tôi được tiếp một người quen mớitừ Lào về . Đó là anh Tuấn một cán bộ ở Ủy ban dân tộc Trung ương . Năm trước , trong lúc chúng tôi đào trong trận đồ bát quái anh có đến thăm và chọn trong các đồ cổ xúc ở dưới sông lên , xin một cái bát hoa cúc đời Lý Anh mang về bày ở trong nhà .Từ ngày ấy gia đình lục đục, làm ăn thất bại .Vừa rồi anh có đi công tác sang Lào , có một ông thầy cúng vừa nhìn thấy anh đã hốt hoảng :" Anh có cầm vật gi của người âm không ?".Anh trả lời : "Không có ạ".Ông thầy cúng lắc đầu :" Anh phải nhớ lại thật kỹ đi,tôi tháy sau lưng anh có rất nhiều người âm đang đòi anh cái gì đáy , hình như là bát ăn cơm thì phải . Anh lấy của họ ở dưới sông làm họ không có cái bát ăn cơm. Anh phải trả họ ngay không thì gay go đấy ."
Anh Tuấn nhớ lại chuyện cái bát sợ quá phải bỏ dở chuyến công tác , quay về Hà Nội sắm lễ vật làm lễ tạ tội và trả cái bát vào lòng sông đúng chỗ tôi đã múc lên .Hôm đó là ngày 24/7/2002.
Chuyện còn rất dài, tai họa còn rất nhiều . Ba ngày sau đó , bố đẻ tôi đột ngột ra đi và nhiều chuyện nữa đã xảy ra tôi sẽ kể chi tiết sau .Bởi ngay đến hôm nay gia đình tôi vẫn còn phải chịu nhiều oan khuất ...
Như số báo trước đã kể , thầy tứ phủ Phạm Văn Mão sau khi lập đàn tràng đã hóa giải được trận đồ bát quái công trình kè sông Tô Lịch , đoạn qua đền Quán Đôi, nhưng đổi lại gia đình tôi và cả anh em tôi sẽ bị đại nạn, mất tất cả. Đúng như vậy , ngay sau đó công việc trên sông đoạn này bỗng nhiên thuận lợi , chẳng mấy chốc tôi đã làm xong khoảng 150m chiều dài kè sông. Đến lúc xảy ra sự kiện anh Tuấn bị người âm đuổi theo,trả lại bát hoa cúc xuống lòng sông.Bố đẻ tôi ở quê là người đàn ông trẻ khỏe hơn tuổi 70 của mình,ông vẫn làm việc và lao động như mọi tráng niên. Sau khi anh Tuấn trả cái bát về sông đúng 3 hôm , ngày 27/7/2002 bố tôi đi chơi về đang ngồi uống nước ở nhà đột nhiên đứt mạch máu não và chết ngay sau 6 tiếng đồng hồ cấp cứu. Đây là mất mát lớn nhất của cuộc đời tôi.Biết là mọi sự nguy hiểm đang rình rập, ngay sau khi đám hiếu bố tôi kết thúc,tôi ra ngay công trình, đào toàn bộ tám hài cốt moi từ dưới sông đang chôn tạm dọc bờ sông lên rửa ráy sạch sẽ , xếp vào tiểu đẹp và làm lễ trọng, đưa toàn bộ lên nghĩa trang Bất Bạt an táng cho mát mẻ vong linh người chết .Trong đau khổ mất cha,trước đàn lễ tôi vừa khóc vừa khấn rất to nhiều người nghe thấy " Tín chủ xin các vong hồn tha thứ cho sự xúc phạm vào nơi yên nghỉ của các vong, nhưng tín chủ cũng chỉ là người làm thuê thừa lệnh cấp trên mà làm, nay con đã sức cùng lực kiệt, người thì chết , người thì ốm ,tiền thì hết , nếu các vong có bắt tội thì bắt tội ông Nguyễn Quang Hưng giám đốc công ty VIC và ông Nguyễn Trọng Doanh Giám đốc dự án . Xin các vong nhẹ đỡ trừng phạt con" Tôi cũng nói thêm , trong suốt thời gian xảy ra chuyện ở đoạn sông Tô Lịch này, hai ông Hưng và Doanh lúc nào cũng tỏ vẻ không tin và không hề có sự hỗ trợ giúp đỡ nào,thậm chí còn nhạo báng và gây thêm khó khăn cho công việc thi công của tôi .
Và cũng thật đáng sợ , chỉ 2 ngày sau , sau khi tôi an táng toàn bộ 8 hài cốt ở nghĩa trang Bất Bạt , trong chuyến công tác ở Quảng Bình xe ô tô chở ông Nguyễn Quang Hưng cùng một số cán bộ công ty đã bị tai nạn. Chiếc xe Toyota bị phá hủy hoàn toàn .Ông Nguyễn Quang Hưng bị chấn thương nặng, bị gãy 3 cái xương sườn , nhiều cán bộ đi cùng cũng bị vạ lây. Vẫn chưa hết ,sau đó khoảng một tháng ,văn phòng Ban quản lý dự án do ông Nguyễn Trọng Doanh trực tiếp phụ trách đặt tại Yên Sở-Hà Nội bỗng bốc cháy dữ dội .Ngôi nhà 2 tầng đặt văn phòng dự án và văn phong một số công tytham gia thi công dự án bị thiêu rụi hoàn toàn.
Sau khi làm xong 150m trên chiều dài 360m tôi nhận thi công, do các sự việc ghê gớm xảy ra và cũng do sức cùng lực kiệt ,tiền vốn không còn ,tôi xin thanh lý hợp đồng .Lạnh lùng không có chút nhân đạo , không thương xót .Công ty VIC thanh lý hợp đồng mà không hỗ trợ một xu nhỏ .Tôi bị lỗ 500 triệu đồng vì công trình này.Quay trở về Nghệ Antôi đi cầu khấn mọi nơi,nơi nào cũng báo cho tôi biết là tôi đang bị đại nạn. Cũng nói thêm khi thi công công trình ngoài cổ vật moi ở trận đồ bát quái tôi đã nộp cho Bảo tàng Hà Nội, các công nhân có moi được nhiều bát đĩa, cốc chén cổ.Tôi có giữ lại mấy cái lành lặn .Trong đó có một chiếc tước màu đen mà nói như GS Trần Quốc Vượng,đó là một đồ cổ rất quý hiếm .Khi về đến Nghệ An do hết tiền ,tôi định bán chiếc tước đó .Khách mua từ Hà Nội vào,sau một ngày trả giá đã thỏa thuận mua chiếc tước ấy với giá 10.000USD .Thỏa thuận xong khách quya lại khách sạn lấy tiền để trả tôi,trong lúc chiếc tước vẫn để trên bàn .Khách mang tiền đến ,chưa kịp đếm thì thật là kinh hãi,chiếc tước không ai đụng tay vào tự nhiên vỡ đôi rồi vỡ vụn .Khách co giò bỏ chạy.Ngay sau đó tôi cũng sợ hãi quá mang nốt mấy cái đồ còn lại ra Hà Nội gặp GS Trần Quốc Vượngvà cho hết ông .GS Trần Quốc Vượng lúc đó vừa lấy vợ mới đang rất vui vẻ ,ông cứ cười tôi về sự yếu bóng vía .Ông giải thích cho tôi là đồ ngâm lâu dưới nước ,khi đưa ra ngoài không khí nước bốc hơi làm cho gốm bở ra rất dễ vỡ.Chuyện cái tước không có gì liên quan đến tâm linh.Tôi thì quá sợ nên không dám giữ một món đồ nào nữa.Tôi không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với GS Trần Quốc Vượng vì chỉ ít lâu sau ông mất đột ngột.Trong thâm tâm tôi có cảm giác mấy món đồtừ trận đồ trấn yểm đã làm hại ông .Tôi cũng nhớ ông xin mấy món đồ khi ông đến công trình .Từ đó 4 năm qua .Tôi từ một tỷ phú trước khi làm công trình kè sông đã trở nên một kẻ tay trắng phải phiêu dạt lên biên cương,sang Lào để kiếm ăn.Có lúc tưởng như không còn mái nhà , không còn gia đình để về.Ong anh trai thứ hai của tôi , người tham gia công trình cùng tôi gặp những sự trớ trêu cay đắng trong hạnh phúc gia đình đến mức đôi lúc ông đã có những ý định tiêu cực.Đến năm 2006 vừa qua ông gây tai nạn giao thông làm chết người và vướng vào vòng lao lý.Ông anh thứ 3 người cho tôi vay tiền để làm kè sông Tô Lịch cũng là người làm ăn phát tài sau đó gặp nhiều sự rủi ro phá sản toàn bộ .Cô em gái của tôi Nguyễn Thị Bạch Hợp công tác tại Sài Gòn thì đang vướng phải một sự oan khuất chỉ vì mong tận tâm tận lực với công ty PJICO mà đang phải ra tòa và lúc tôi viết những dòng này tòa đã tuyên tạm hoãn xử lần 2..
...Lạ nhất là cô em gái tôi đi xem lễ nhiều nơi, các thầy đều nói hạn của em gái tôi bắt đầu từ đại hạn của gia đình tôi từ năm Tân tỵ 2001 là năm tôi phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La bên sông Tô Lịch .
Còn nhiều chuyện nhỏ nữa cũng đều đáng sợ , nhưng kể nữa e rằng chỉ làm bạn đọc bận tâm .Tôi xin dừng viết tại đây .Cũng có thể toàn bộ chuyện này chỉ là ngẫu nhiên mà rơi xuống số phận tôi ,hoàn toàn không có yếu tố tâm linh , chỉ biết rằng theo cố GS Trần Quốc Vượng địa điểm mà tôi thi công là điểm giao hòa của 3 con sông cổ Tô Lịch ,sông Thiên Phú và sông Nhuệ .Do vậy cấu tạo địa chất rất phức tạp và hình thành những vực sâu và rồi những vực sâu cũng được bồilấp bởi mọi thứ đã từng trôi nổi trong ba dòng chảy của con sông chính vì vậy việc thi công rất khó khăn .Nhưng cũng có thầy địa lý đã nói đây là điểm giao hòa và là một huyệt phong thủy rất quan trọng.Vì vậy một thế lực nào đó đã lập trận đồ trấn yểm để huyệt nàykhông phát được .Mọi việc tôi không biết rõ, nhưng chuyện của tôi và gia đình thì quá đau khổ .Tôi cầu mong mọi sự chia sẻ của bạn đọc .
 
(xem tiếp kỳ sau )

Hiện tượng trấn yểm sông Tô Lịch gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 - Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão.

Tóm lược sự việc như sau :Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.

Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.

Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.

Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.

Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.

Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.( Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người viết ). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.

Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?. Theo thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.

Người viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh..

Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.

Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.

Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.

Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong".

Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).

Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?.

Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.

Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền.

Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.

Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.

Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :

1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.

2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.

3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.

Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ?

2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.

3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ?

4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?.

Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai.

Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12
-Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?.

Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh , Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.

Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền ( vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định :Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.

Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.

Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.

2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?.

Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.

Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa...

Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.

3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ?Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta .

Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )...

Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý ,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.

HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.

1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.

2/Kinh :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh.
3/Mạch :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.

4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc?

Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.

*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác.

* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí.

Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt.

Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt..

Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc,gắn kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.

Theo nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.

Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái ).
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.

Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau:

Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ).

1/Về Thiên :Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh núi cao.Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu,Thổ tú,Thủy diệu,Thái bạch,Thái dương,Vân hớn,Kế đô,Thái âm,Mộc đức và Tam kheo,Ngũ hộ,Thiên tinh,Toán tận,Thiên la,Địa võng,Diêm vương,Huỳnh tuyền )ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.

Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.

2/Về Địa :Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước,tụ lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ).Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG.ĐÂY MớI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG ).Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí .

3/Về Nhân :Có thể xác định được Âm phần,Dương phần,Họa,Phúc,Mệnh,Thân của từng con người.

Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.

Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau :Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình,tới dãy Tam đảo ,dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái bình,ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường.Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.

Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau :Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình ,đi tới dẵy núi Ba vì,qua cầu Hàm Rồng,theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm

Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ thư chữ Hán ,cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây .Đây là độ số của Lạc thư.Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc,theo đúng độ số của phương Tây.Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương ) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.Theo người viết,trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác.Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ .Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông nam,...tới Tây,tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau :1-8-3-2-7-4-9-6.

Ta vẩn biết rằng :1 -là hành Dương Thủy.
6 -Là hành Âm Thủy.
8 -Là hành Âm Mộc.
3 -là hành Dương Mộc.
2 -là hành âm Hỏa.
7 -là hành Dương Hỏa.
5 - là hành Dương Thổ.
10 -là hành Âm Thổ.
4 -là hành Âm Kim.
9 -là hành Dương Kim.

Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau :Thủy (6-1 )sinh Mộc (8-3 )sinh Hỏa (2-7 )sinh Thổ (10-5 )sinh Kim (4-9 ) và lại trở về hành Thủy.Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay.Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này,thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.

Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch,sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại,kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,dòng sông Tô,trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu,nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại.Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng (Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.

Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này.Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở,thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật,là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI.

Các bài báo sưu tập được các bạn chịu khó đọc bản scan nhé...














 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2007 09:41:08 bởi langtoi >
Ngày tháng ra đi mãi mãi không bao giờ quay trở lại

lang thang
  • Số bài : 5825
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.12.2006
  • Nơi: Quê hương của lá Phong
RE: Vụ trấn yểm sông Tô Lịch....! - 20.04.2007 13:50:35
Đúng là li kỳ, nhưng mấy bộ hài cốt chôn dưới nước từ thế kỷ thứ 9 tới nay thì làm sao mà tồn tại được????????
"Khi người không yêu ta, Buồn đã thành một nhẽ
Khi ta không yêu người, Sao cũng buồn đến thế"


Ct.Ly

Ct.Ly
 




Đền Quán Đôi không liên quan đến "Thánh vật"


Chiều 23.4, bà thủ từ của đền Quán Đôi đã không ngần ngại khẳng định với rằng: Chuyện "Thánh vật" ở bờ đối diện bên kia sông chẳng liên quan gì đến ngôi đền đã có từ thời Lý này.
Trông mà thấy ngán...
Bà thủ từ Nguyễn Thị Chiển (hơn 70 tuổi) đã trông giữ ngôi đền trên 20 năm.







Bà thủ từ đền Quán Đôi.

Theo thần phả, đền thờ Hậu lý mẫu nghi và con trai là Thái tử thống hoàng đế. Bên phải điện thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo đại vương, các cụ thờ thế nào thì nay tiếp tục thờ như vậy.

Năm 2003 tôn tạo đền, nhân dân địa phương đã đưa thêm tượng Cụ Hồ vào thờ ở gian bên trái điện. Theo bà Chiển: "Sự việc xây kè diễn ra đã lâu từ năm 2001, đúng là đoạn này rất khó làm, đơn vị thi công đã phải làm đi làm lại nhiều lần. Khó làm vì lý do gì thì tôi không giải thích được, chỉ có các nhà khoa học mới giải thích được".

Trả lời câu hỏi: "Khi đội xây dựng số 12 của ông Nguyễn Hùng Cường thi công kè đoạn sông này và phát hiện ra nhiều xương người và nhiều cổ vật, họ có nhờ đền giúp đỡ gì không?" - bà Chiển khẳng định: "Không, chả liên quan gì. Họ tổ chức làm lễ bên kia sông (bên đường Bưởi), bên này chả liên quan gì. Chỉ ngán hộ người ta thôi!".

Khi PV hỏi sao lại bác lại "ngán", bà Chiển cười vui bảo: "Họ làm xong là lại vỡ, lại vỡ. Sau đó thì họ mời thầy đến tế lễ. Chỉ có điều sau khi họ tế lễ xong, họ cũng thay đổi phương pháp thi công. Họ dùng máy nén đóng những tấm thép dày xuống, liên kết với nhau thành bức tường thép, thế là hết sụt lún. Sự việc là thế, từ đó đến nay bẵng đi, ở đây không hề thấy gì.

Về "Thánh vật" ở sông Tô Lịch thì tôi chỉ nghe người ta kéo đến đây lễ nói thế thôi. Những người đến lễ cũng bảo là người ta đọc báo rồi tìm đến thôi".

"Thánh vật" và lễ đền: Hai cái khác nhau

Đó là khẳng định của những người dân ở đầu cầu T11 dẫn vào khu vực làng An Phú cũ. Một bác trung niên người địa phương, cựu bộ đội, 58 tuổi, đã nhiệt tình kể sự thật về chuyện ông Cường xây kè bờ sông như thế nào, nhưng dứt khoát không cho biết tên với lý do: "Bây giờ dân người ta tin báo chí, kéo đến đây ầm ầm, tôi lại bảo là không có, thành cãi nhau mệt lắm. Chuyện anh Cường tin vào ma quỷ bát quái thì là chuyện của anh Cường, tôi chỉ thấy đáng trách là các vị báo chí sao làm um lên. Thực tế là không có chuyện gì đâu. Hồi trước thi công đoạn sông này, giờ này (khoảng 15 giờ) tôi vẫn ra sông chơi, xem thi công. Tôi nói thật làm ẩu, không đến nơi đến chốn lại gặp phải nền đất yếu".

Chỉ cho PV thấy bờ bên kia sông Tô Lịch, bác trung niên bảo: "Anh nhìn kìa, chân bức tường bên kia sông đã nứt cả ra kia kìa".

Cũng như bà Chiển kể, nhiều người dân ở đây khẳng định, sau khi tổ chức tế lễ ở bên kia sông thì đơn vị thi công cũng thay đổi biện pháp thi công. Một bác trung niên khác - làm nghề sửa quạt - khẳng định: "Áp dụng khoa học kỹ thuật vào là làm được thôi. Chẳng có ma quỷ gì!".

Chị Đàm Phương Hồng (41 tuổi) - ở tổ 26 cũ, phường Nghĩa Đô - đã đặt ngay câu hỏi với phóng viên: "Nãy giờ thấy anh phỏng vấn, lấy tư liệu thì anh thấy những gì? Anh nghĩ thế nào và định viết những gì?".

Sau khi nghe cam kết sẽ phản ánh trung thực ý kiến của người dân, chị Hồng cười bảo: "Từ bé tôi lớn lên có thấy gì đâu! Trước nước sông chưa ô nhiễm nặng, người ta còn nuôi rau muống ở trên sông, cả ở đoạn bảo có "Thánh vật" ấy chứ.

Những năm 1979 - 1980, người ta cũng đã nạo vét, khơi rộng sông, mà có thấy Thánh vật gì đâu?". Chị Hồng bảo: "Giờ tự nhiên thấy người ta đến dồn dập thì ra bán hàng thôi".

 



Xung quanh chuyện “Thánh vật ở sông Tô Lịch”, GS Trần Lâm Biền:

“Không hề tìm thấy hiện tượng trấn yểm nào trong lịch sử”

Thứ ba, 24/4/2007, 08:19 GMT+7


Trước những thông tin, tình tiết được báo Bảo vệ Pháp luật Cuối tuần đề cập  trong loạt bài Thánh vật ở sông Tô Lịch khiến cho nhiều người bán tín, bán nghi, chúng tôi đã tìm đến GS Trần Lâm Biền - Nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa truyền thống - để mong có được lời giải thích thỏa đáng.
>> Xuyên tạc về cái chết của Thượng tọa Thích Viên Thành và GS Trần Quốc Vượng
>> Thánh vật hay... "người vật"?
>> "Thánh vật ở sông Tô Lịch”: Đâu là sự thực?
>> Ông Dương Trung Quốc nói về "Thánh vật" ở sông Tô Lịch








GS Trần Lâm Biền

GS Trần Lâm Biền nói:
Nhận thức chung trên thế giới, trong đó có Việt Nam về thế giới bên kia chủ yếu dựa trên nghiệm chứng, “bất khả tư nghị” (không thể luận bàn được). Vì thế, người xưa không luận bàn về vấn đề này.
Bởi vậy, mọi lý luận về nó cho đến nay thường dựa vào ý chủ quan của cá nhân.
Đương nhiên, chúng ta vẫn tôn trọng những ý kiến nghiên cứu của những người quan tâm tới vấn đề với phương diện hay góc độ “giả thiết để làm việc”.
Vậy cái gọi là Thánh vật ở sông Tô Lịch có phải là một ngoại lệ, thưa ông?
Từ sự nhìn nhận bằng quan điểm đó chúng ta quan tâm tới hiện tượng như báo Bảo vệ pháp luật Cuối tuần đã đề cập trong thời gian gần đây thông qua những câu chuyện, những ý kiến được coi là của người trong cuộc, “ngoại cảm” cũng chỉ dừng lại ở mức độ là hiện tượng thôi.
Trong tất cả những hiện tượng đó hầu như đều chưa được kiểm nghiệm bởi những tổ chức chuyên môn và có trách nhiệm nên việc sớm “công bố” những tình tiết huyền bí đó nhiều khi mang tính mê hoặc xã hội và chứa đựng yếu tố tiêu cực cao hơn là bản chất khoa học của vấn đề. Nó không có một ngoại lệ nào cả.
Ông nhìn nhận thế nào về hiện tượng ở sông Tô Lịch?
Chúng ta cũng đã từng thấy có hiện tượng nhiều người xuống giếng đã bị chết. Nhưng, để lý giải được cái chết đó và tránh được những đồn thổi thiếu căn cứ thì các nhà khoa học tự nhiên đã vào cuộc đồng thời có sự giải thích rõ ràng.
Vậy, vấn đề hay còn gọi là hiện tượng ở sông Tô Lịch mà gần đây báo chí giật tít là Thánh vật ở sông Tô Lịch khi chưa có đầy đủ các cơ quan chức năng tham gia nghiên cứu, lý giải bằng cơ sở khoa học thì sự tuyên truyền một chiều như vừa qua cần phải được xem xét ý đồ đằng sau của người viết.
Một điểm cụ thể là, việc cố GS Trần Quốc Vượng bị ung thư thực quản phải nằm viện trong nhiều tháng, được các y, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi bị đồng nhất với hiện tượng “ma ám” do cầm một số hiện vật là điều không thể chấp nhận được.
Mặt khác, những rủi ro của xã hội cũng không nên vận vào với việc thần linh ở sông Tô Lịch. Sự “liên kết này” có thể đã làm méo mó nhận thức của một bộ phận quần chúng đối với những tiêu cực nảy sinh trong cơ chế thị trường hiện nay.
Đồng thời sự gán ghép ấy vô hình trung khiến cho không ít người nghi ngờ thế lực của thế giới bên kia, kèm theo nghi ngờ lời dạy của tổ tiên. Vì người xưa (theo bia chùa Bối Khê, thế kỷ 15- Thanh Oai, Hà Tây) đã từng chỉ ra rằng, anh tú của đất trời là sông núi, anh tú của sông núi thần linh.
Thần linh là vẻ đẹp thánh thiện, đem mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi đến với thế gian. Vậy, những thông tin như báo Bảo vệ Pháp luật Cuối tuần đã đăng phần nào đi ngược lại nhận thức bản sắc văn hóa của dân tộc.

Với tư cách là nhà nghiên cứu lâu năm về lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, ông có cho rằng trong lịch sử có hiện tượng trấn yểm không?

Các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa truyền thống của Việt Nam rất khó tìm thấy sự tai ác trong việc dùng người để yểm của thời quá khứ.
Và hiện tượng này hầu như không gặp, trong bất kể di tích kiến trúc, nghệ thuật lẫn di tích khảo cổ học, đồng thời cũng không tìm thấy ở một số nghĩa trang cổ.
Người ta chỉ thấy được hiện tượng tại nghĩa trang của người Mường cổ ở Đống Thếch (Hòa Bình) với trung tâm là một mộ lớn có kết cấu hầm, buồng. Xung quanh đó là mộ cắm đá của người khác.
Đã có nhiều ý kiến về hệ thống mộ này nhưng không hề thấy có hiện tượng trấn yểm hay yểm bùa. Vậy thì, nếu ở khúc sông Tô Lịch đó có cái gọi là trấn yểm, yểm bùa thì các nhà nghiên cứu phải giải thích bằng được, rằng hiện tượng yểm bùa này để làm gì, bắt nguồn từ đâu?
Cũng đã nghe một số ý kiến rằng người xưa, thời Bắc thuộc có trấn yểm, yểm bùa nhưng khi hỏi bằng chứng hiện vật thì ai nấy cũng đành chịu. Do vậy, để trả lời có hay không thì phải có sự nghiên cứu đa ngành, liên ngành thì mới mong có được những nhận định mang tính khoa học.
Nghe nói ở sông Tô Lịch có vị thần cai quản?
Mỗi một con sông đều có một vị thần, cụ thể ở sông Tô Lịch có ông Tô Lịch. Ngày xưa, xung quanh sông Tô Lịch có nhiều đền, đình thờ ông Tô Lịch (thời Bắc thuộc) làm Thành hoàng làng.
Khi nhà Lý với sự phát triển của mình bằng kinh tế nông nghiệp thì người ta lại nhập thần Linh Lang vào con sông này. Vì thế, hiện nay nhiều đền thờ dọc sông Tô Lịch có thờ thần Linh Lang để phù trợ cho người dân có mùa màng tốt tươi, cuộc sống ấm no, yên bình.
Đứng ở góc độ người dân bình thường, ông có khoảng bao nhiêu phần trăm tin vào chuyện “thánh vật”?
Tôi thật sự không tin mặc dù là người nghiên cứu sâu về tín ngưỡng, tôn giáo. Sở dĩ nói như vậy là bởi ẩn nấp ở đằng sau cách viết của tác giả là hình thức mê tín dị đoan. Nó đánh đúng vào nhu cầu sẵn có của một bộ phận quần chúng.
Xin cám ơn ông.





PGS.TS Đỗ Văn Ninh (Viện Sử học):
Những chuyện ông Cường kể là bịa đến 90%
Tôi rất lấy làm lạ là ai đó đã “phát động” nên chuyện này. Tôi tưởng rằng mọi chuyện hồi đó đã dừng lại từ lâu, và người ta đã xây dựng kè sạch đẹp cho người dân đi dạo, nào ngờ lại “thành chuyện” như hôm nay.
Ngay từ ngày đó, tôi đã nói rằng tôi không tin có trấn yểm. Vì việc trấn yểm đã lụi tắt từ trước CN rồi. Trong sử sách từ Lý - Trần và mãi sau này có thấy ai viết về trấn yểm.
Thời xưa người ta chỉ trấn yểm ma tà bằng những loài động vật như rắn, ngựa, bò, trâu… chứ có trấn yểm bằng người đâu. Ông Nguyễn Hùng Cường nói có thấy hình bát giác. Theo tôi hiểu là ông ta định nói tới trận đồ bát quái tại khúc sông này.
Nhưng xin thưa, ngày đó, tôi đếm thì chưa đến 8 cột gỗ do máy xúc lấy lên từ sông (tôi nghi ngờ là mấy cột gỗ này được đóng xuống để kè sông). Cột gỗ dài nhất cũng chỉ vài mét.
Hơn nữa, hôm đó các nhà khảo cổ có ai dám lội xuống sông Tô Lịch đen ngầu để kiểm tra xem có phải là bát quái không.
Chỗ khác, ông Cường lại nói là phát hiện được 8 bộ di cốt người. Khi chúng tôi đến đã đem đi chôn rồi. Vậy thì dựa vào đâu để ông Cường xác định là 8 bộ di cốt.
Ngành khảo cổ chúng tôi muốn nhận định đấy đúng là một bộ di cốt người, nam hay nữ thì còn phải nghiên cứu chán, các nhà nhân chủng học phải đối chiếu, so sánh nghiên cứu mới đưa ra được kết luận. Còn nữa, dựa vào đâu để xác định niên đại là sáu, bảy trăm năm.
Xác định niên đại đâu phải dễ, dựa vào hiện vật chỉ là một phần còn phải kiểm tra đủ thứ nữa mới có kết quả chứ. Cho nên nói vậy là thiếu căn cứ.
Còn nhớ ngày đó, tôi và TS Vũ Quốc Hiền đi khảo sát một vài điểm xung quanh, khi phát hiện ra chỗ này thì tôi cùng TS Hiền đi khảo sát một vài điểm gần đó và đã phát hiện một ngôi mộ.
Không phải là nhận định nữa, cách đây vài chục năm, bờ bên này của sông Tô Lịch rộng lắm, cây cối xum xuê nên người ta thường tổ chức chôn cất người thân sau khi mất.
Sau này có kế hoạch mở rộng nên nhiều ngôi mộ phải bốc đi nơi khác. Từ thực tế đó cộng với lịch sử ghi nhận sự đổi dòng của dòng sông Tô và khi mùa lũ về nên rất có nhiều khả năng là không ít ngôi mộ ở trên bờ bị sạt lở xuống sông.
Cũng vì thế, những di cốt người phát hiện ở chỗ đấy là do sạt lở ở trên bờ mà thôi. Nói tóm lại, những chuyện anh Cường kể là bịa đến 90%.
 





GS.TS Đỗ Quang Hưng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam):
 Nói đến vấn đề tâm linh phải khách quan
Chuyện tâm linh hay một niềm tin đặc biệt nào đó nó luôn biến đổi và ngày càng phức tạp. Nhưng dù gì đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải nên tôn trọng nó.
Tôi đồng tình với quan điểm của nhà sử học Dương Trung Quốc, rằng trong đời sống tâm linh có những mặt tích cực của nó để góp phần cho xã hội ngày càng tốt hơn.
Thế giới tâm linh từ Á sang Âu đang trở thành vấn đề của nhân loại, có liên quan mật thiết, gần gũi với đời sống tôn giáo. Trong cái thế giới ấy, có những điều có thể thấy ngay, nhận thức ngay được nhưng cũng có những điều cần phải tiếp tục nghiên cứu.
Tôi lấy thí dụ, người ta bảo có hồn, nhưng người khác lại bảo không có. Cho nên nghiên cứu về đời sống tâm linh thực sự rất khó. Vì vậy, cũng phải ghi nhận những tình tiết đó để xem xét, nghiên cứu, nhất là ở khúc sông Tô Lịch đó có liên quan đến không gian, văn hóa lịch sử Hoàng thành Thăng Long.
Hiện nay đời sống tâm linh phong phú đang quay trở lại. Một số cũng tin vào điều đó nhưng cũng có không ít người không tin. Vấn đề nằm ở chỗ phải tiếp tục nghiên cứu.
Nhưng trong khi giới khoa học chưa thể khẳng định, kết luận chuyện đó là A hay là B thì không nên phản ánh như thế. Bản thân tâm linh là cái hộp đen mà người ta đang nghiên cứu.
Anh phản ánh, tuyên truyền điều gì liên quan đến tâm linh thì phải hết sức khách quan và cần tôn trọng nó. Anh có thể chia sẻ những trải nghiệm cá nhân chứ không thể đưa ra kết luận để mà dấy lên điều gì đó. Như thế là không được.
Trong đời sống tâm linh có mối quan hệ với môi trường xã hội dân sự. Khi những thông tin về tâm linh chưa được nghiên cứu, kiểm chứng mà vội tuyên truyền thì ngay lập tức ảnh hưởng đến môi trường xã hội.
Tôi lấy ví dụ, bây giờ giả sử UBND thành phố cho nạo vét lòng sông để tăng lưu lượng dòng chảy, làm cho nước sạch hơn thì cũng sẽ bị thánh vật và không làm nữa hay sao? Và khi thông tin chưa được kiểm chứng mà bị lan truyền rộng thì trở thành thứ siêu hình.
Cuộc sống là một dòng chảy liên tục trong đó có cả xã hội dân sự và đời sống tâm linh. Nhưng trong cuộc sống đó không thể đề cao yếu tố nào hơn yếu tố nào mà cần phải có sự hài hòa

Ct.Ly




PGS. TS Nguyễn Lân Cường:

"Nếu có chuyện Thánh vật, tôi đã chịu đầu tiên"

Thứ tư, 25/4/2007, 10:28 GMT+7


Chuyên gia khảo cổ, PGS. TS Nguyễn Lân Cường, cho rằng, không thể có chuyện trấn yểm tại đây, vì mục đích yểm để bảo vệ, chứ không phải làm chết người.
>> Người bị "Thánh vật" nói gì?
>> Không có chuyện cán bộ PJICO hầu tòa là do "Thánh vật"
>> Chẳng lẽ Thánh lại vật Phật?
>> “Không hề tìm thấy hiện tượng trấn yểm nào trong lịch sử”
>> Xuyên tạc về cái chết của Thượng tọa Thích Viên Thành và GS Trần Quốc Vượng
>> Thánh vật hay... "người vật"?
>> "Thánh vật ở sông Tô Lịch”: Đâu là sự thực?
>> Ông Dương Trung Quốc nói về "Thánh vật" ở sông Tô Lịch
 - Là một chuyên gia khảo cổ, ông nghĩ sao trước những thông tin huyền bí về sông Tô Lịch?








PGS, TS Nguyễn Lân Cường với hình ảnh xác ướp. Ảnh: PV

- Không thể có chuyện Thánh vật người. Tôi đã làm nghề đào mộ 43 năm, khai quật 3 xác ướp và 800 ngôi mộ cổ mà không có vấn đề gì. Những người làm cùng tôi nhiều năm qua cũng khỏe cả. Nếu người bị Thánh vật thì tôi có thể phải chịu đầu tiên vì "động" tới các cụ.
Tôi biết GS Trần Quốc Vượng mất do bị ung thư. Những chuyện khác mà tôi đọc được như ông Phó chủ tịch thị trấn bị mất chức là việc hoàn toàn do con người gây ra. Họ tham ô, tham nhũng thì bị mất chức, vào tù là rõ ràng.
- Theo lời kể của ông Nguyễn Hùng Cường, có đến cả chục trường hợp là những người tham gia thi công ở sông Tô Lịch và người thân của họ bị ốm đau thậm chí thiệt mạng. Liệu có thể lý giải như thế nào về việc này thưa ông?
- Theo tôi, những người thợ thi công trên tuyến sông bị đau ốm có thể là do khí độc. Không loại trừ có ám khí tại khu vực này. Khi chúng tôi khảo cổ một hang ở Mai Châu, một người trong đoàn đã bị chết vì máu trắng. Nhiều người trong vùng đó cho biết, trẻ con sinh ra bị dị dạng. Sau đó, giới khoa học cho biết cái hang đó đó có bị nhiễm chất Uranium.
Chuyện tìm mộ thì có thể tin được vì mỗi người có trường sinh học khác nhau.
- Có thông tin khu vực này được người xưa trấn yểm, ông nghĩ sao?  
- Tôi không tin có chuyện trấn yểm. Vì yểm để bảo vệ người chứ không thể làm chết người. Khúc sông Tô Lịch mà đội của ông Cường thi công là ngã ba sông nên nhiều hiện vật trôi về, người ta vin vào đó để nói về việc trấn yểm. Họ đưa ra vì mục đích gì thì tôi không biết.
- Vậy 8 bộ hài cốt ở dưới sông đóng đinh sẽ được giải thích thế nào, thưa giáo sư?
- Khảo cổ thấy xương người là chuyện bình thường. Chúng tôi nghiên cứu ở Hoàng Thành Thăng Long, đường Trần Phú, thậm chí Đàn Xã Tắc đều thấy hài cốt. Thông tin là chôn người để tế là không xác thực vì khi tế họ phải chôn theo những đồ chuyên dụng, còn những đồ cổ tìm thấy thì không phải đồ tế.
- Ngay từ năm 2001 đã có cuộc hội thảo về vấn đề liên quan đến sông Tô Lịch, tại sao thời điểm đó những nhà khoa học chuyên môn như ông không lên tiếng?
- Hồi đó tôi đi công tác nước ngoài, chỉ nghe anh em thuật lại. Tôi vẫn cho rằng, các vấn đề thi công là do địa chất khu vực đó yếu, còn số đồ cổ tìm thấy là do những nơi khác trôi về. Tôi khẳng định là không có chuyện Thánh vật. Tuy nhiên, tôi cho rằng, nên có một cuộc hội thảo để giới khoa học thảo luận về trường hợp này, giúp người dân hiểu rõ.





Ông Nguyễn Đức Hòa, Phó giám đốc Sở Văn hóa thông tin Hà Nội:
"Nếu Thánh vật thì kè sông Tô Lịch không thể xây được như hiện nay" 
Khi đó, tất cả chuyên gia khảo cổ, sử học, văn hóa đã kết luận là không có trận đồ bát quái tại đây. Theo tôi, trận đồ phải xếp theo ngũ hành song các hiện tượng ở sông Tô Lịch thì không có. Ngoài ra, cũng không có hiện tượng của lễ hiến tế, chỉ thấy một ít xương động vật, đồ cổ.
Địa chất tại 200 mét sông Tô Lịch yếu, bất cứ kè vào đó đều bị lún nứt. Sau khi đơn vị thi công thay đổi phương án thi công thì lại thực hiện được. Nếu cho là Thánh vật thì ai làm cũng không được, không thể thành được tuyến đê hoàn chỉnh như hiện tại.
Tính nhân quả của những người mà tác giả đưa ra là do làm sai thì phải chịu, không thể áp đặt đổ cho chuyện tâm linh, huyền bí.
Theo Đoàn Loan

  



Không có chuyện cán bộ PJICO hầu tòa là do "Thánh vật"

Thứ ba, 24/4/2007, 14:33 GMT+7


Trong bài viết về “Thánh vật ở sông Tô Lịch”, ông Nguyễn Hùng Cường hai lần khẳng định em gái ông là Nguyễn Thị Bích Hợp, cán bộ Công ty Bảo hiểm PJICO, bị oan khuất do… gia đình gặp đại hạn từ chuyện "phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La trên sông Tô Lịch".
>> Chẳng lẽ Thánh lại vật Phật?
>> “Không hề tìm thấy hiện tượng trấn yểm nào trong lịch sử”
>> Xuyên tạc về cái chết của Thượng tọa Thích Viên Thành và GS Trần Quốc Vượng
>> Thánh vật hay... "người vật"?
>> "Thánh vật ở sông Tô Lịch”: Đâu là sự thực?
>> Ông Dương Trung Quốc nói về "Thánh vật" ở sông Tô Lịch








Bị cáo Nguyễn Thị Bích Hợp và các bị cáo khác trong vụ PJICO.

Ông Nguyễn Hùng Cường, Đội trưởng Đội xây dựng số 12, người trực tiếp chỉ huy thi công đoạn sông qua phường Nghĩa Đô, Cầu Giấy (Hà Nội) trong một bài báo mới đây cho rằng có chuyện oan khuất trong vụ tham nhũng ở Công ty PJICO Vậy sự thật là thế nào?
Trước hết, chúng tôi thực sự chia sẻ những chuyện không may mắn xảy ra đối với ông Cường, những người thân trong gia đình ông Cường, cũng như đối với một số người khác có liên quan nêu trong bài báo.
Tuy nhiên, về những chi tiết được tác giả Nguyễn Hùng Cường liệt kê đối với bản thân, những người thân trong gia đình và một số trường hợp khác để cho rằng có sự oan khuất và gán việc liên quan đến Thánh vật phải được nhìn nhận thấu đáo.
Ông Nguyễn Hùng Cường là Đội trưởng Đội xây dựng số 12, trực tiếp chỉ huy thi công kè, sửa đoạn sông nói trên nên ông là người biết nhiều sự việc xảy ra.
Nhưng chúng tôi thấy rằng, với những chi tiết này, hoàn toàn không thể gán ghép với chuyện tâm linh ở sông Tô Lịch để huyền hoặc, cường điệu hóa với động cơ nào đó.
Trước hết, về cái gọi là oan khuất liên quan tới cô em gái của ông Cường là bà Nguyễn Thị Bích Hợp, tại kỳ 2, bài báo viết: "Ngay đến hôm nay, gia đình tôi vẫn còn phải chịu nhiều oan khuất. Em gái tôi là Nguyễn Thị Bích Hợp, bán bảo hiểm cho PJICO chỉ bán cho Công ty Việt Thái Phong, không tham ô, tham nhũng đồng nào. Chỉ vì các ông giám đốc, phó giám đốc tham ô tiền tỷ mà em gái tôi phải ra tòa".
Tiếp đó, trong kỳ 3 của bài báo, ông Cường tiếp tục viết: "Cô em gái tôi, Nguyễn Thị Bích Hợp, công tác tại Sài Gòn đang vướng phải oan khuất. Chỉ vì lòng tận tâm tận lực với Công ty PJICO, em tôi phải ra tòa. Cô em tôi đi xin lễ ở nhiều nơi, các thầy đều nói hạn của em tôi bắt đầu từ đại hạn của gia đình tôi từ năm Tân Tỵ 2001, năm tôi phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La trên sông Tô Lịch"...
Việc hai lần nhấn mạnh chuyện oan khuất liên quan cô em gái vừa phải ra hầu tòa trong vụ PJICO và quy kết "đại hạn của em tôi bắt đầu từ đại hạn của gia đình tôi" hẳn tác giả có dụng ý. Vậy, có thực Nguyễn Thị Bích Hợp oan khuất trong vụ bảo hiểm PJICO không, có thực bà Hợp "không tham ô, tham nhũng đồng nào"?
Ngày 23/4, chúng tôi đã tìm hiểu vấn đề này tại Cục CSĐT tội phạm về TTQLKT và CV - cơ quan thụ lý vụ án tham nhũng ở PJICO. Đại tá Nguyễn Tiến Lực, Cục trưởng hiện đang công tác tại TP Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, khi chúng tôi đề cập vụ việc này, Đại tá nói ngay "Vụ này tôi giao đồng chí cấp phó chỉ đạo điều tra. Nhưng tôi khẳng định các kết luận đưa ra là đầy đủ căn cứ pháp lý, dựa trên các chứng cứ vững chắc".
Vụ án vừa được TAND TP Hà Nội đưa ra xét xử. Trong tổng số 3,8 tỷ đồng gian lận tại PJICO có liên quan việc nhận hối lộ của nguyên Tổng Giám đốc Trần Nghĩa Vinh cùng Phó Tổng Giám đốc Hồ Mạnh Quân.
Cùng hầu tòa còn có bị cáo Phan Hồng Thu, nguyên Giám đốc Công ty Việt Thái Phong và 3 cựu cán bộ của PJICO gồm: Nguyễn Thị Bích Hợp, nguyên cán bộ Phòng Bảo hiểm Hàng hải, chi nhánh TP Hồ Chí Minh; Vũ Dương Quý, nguyên Phó phòng Giám định, bồi thường; Ngô Hồng Khoa, nguyên Trưởng phòng Giám định, bồi thường.
Bà Nguyễn Thị Bích Hợp, em gái ông Cường, 38 tuổi, trú tại quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Ngày 12/9/2005, Cơ quan CSĐT Bộ Công an khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Bích Hợp về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Sau khi thu thập đầy đủ chứng lý, Cơ quan CSĐT Bộ Công an kết luận: bà Nguyễn Thị Bích Hợp đã lập chứng từ thu phí bảo hiểm của Công ty Việt Thái Phong sai quy định.
Trên thực tế, khi tàu chở tôm đông lạnh xuất khẩu bị cháy trên đường vận chuyển, Công ty Việt Thái Phong mới chạy để mua bảo hiểm của PJICO.
Biết rõ lập chứng từ trong trường hợp này là sai hoàn toàn nhưng bà Hợp vẫn cố ý thực hiện cho Công ty Việt Thái Phong, giúp công ty này có bộ hồ sơ "đẹp mắt".
Với sự giúp đỡ này của bà Hợp nên Giám đốc Phạm Hồng Thu có cơ sở để làm việc với ông Trần Nghĩa Vinh và Hồ Mạnh Quân, đưa hối lộ 1,9 tỷ đồng để vụ gian lận bảo hiểm được thực hiện suôn sẻ.
Cơ quan CSĐT khẳng định, với hành vi cố ý làm trái nói trên, Nguyễn Thị Bích Hợp đã giúp sức, tạo điều kiện cho Công ty Việt Thái Phong thực hiện trót lọt hành vi phạm tội.
Kết luận này được Viện KSND tối cao thống nhất và truy tố bị cáo Hợp ra trước tòa. Bị cáo Hợp cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Như vậy, không có căn cứ nào để nói rằng bà Nguyễn Thị Bích Hợp bị oan khuất. Hành vi phạm tội của bị cáo là rõ ràng và đã phạm tội nào thì phải bị xử lý theo pháp luật về tội đó.
Cũng như bất kỳ cá nhân nào, việc xử lý là căn cứ vào chứng cứ, theo đúng quy định pháp luật. Hoàn toàn không thể biện minh một hành vi phạm tội đã được kết luận để gán cho câu chuyện xảy ra ở sông Tô Lịch, cho rằng việc đó cũng bị Thánh ám.
Nói kiểu như vậy thì thử hỏi, những bị cáo khác trong vụ PJICO bị cái gì ám khi họ cũng phải đứng trước vành móng ngựa chịu sự trừng phạt của luật pháp?
Việc nhắc nhiều lần về cô em gái của mình vừa phải ra tòa và liên tục nhấn mạnh "đang vướng phải oan khuất" hẳn không phải điều ông Cường nêu ra một cách bình thường. Có động cơ gì ông muốn nhân chuyện "Thánh vật ở sông Tô Lịch" để tạo một áp lực thiếu khách quan trong vụ việc này?
Một số trường hợp khác theo ông  Nguyễn Hùng Cường cũng có nguyên do từ "Thánh vật ở sông Tô Lịch". Đáng chú ý, vụ việc liên quan đến 3 người: bà Nguyễn Thị Sang, nguyên Chủ tịch UBND Nghĩa Đô, ông N.L., nguyên Phó Chủ tịch và ông M.G., nguyên Bí thư Đảng ủy.
Ông Cường nhắc lại chuyện xảy ra năm 1986, khi Đảng ủy, chính quyền, Công an thị trấn Nghĩa Đô bắt một vụ mê tín dị đoan tại miếu Đôi Cô, thu một số đồ vật liên quan trong miếu.
Hậu quả vụ việc là: ông N.L. sau đó không trúng cử và mất chức Chủ tịch UBND thị trấn; ông M.G. bị bệnh về mắt và con trai ông tham gia vụ dùng súng cướp tài sản công dân; bà Nguyễn Thị Sang bị phạt 2 năm tù.
Chúng tôi cũng đã liên hệ để tìm hiểu sự thật vụ việc này. Theo như tác giả bài báo thì các ông, bà nói trên mất chức hay phải ngồi tù là có nguyên do sâu xa từ vụ chỉ huy lực lượng bắt vụ mê tín dị đoan ở miếu Đôi Cô nói trên.
Nhưng thực tế, tại Nghĩa Đô, hiện người dân đều biết rất rõ các vụ việc đó. Họ cũng nhớ rành rành vụ bắt hoạt động mê tín dị đoan trong miếu, việc các ông, bà sai phạm và bị xử lý.
Vụ bắt mê tín dị đoan xảy ra năm 1986, trong khi các ông, bà nói trên bị xử lý cách đó nhiều năm. Họ bị xử lý vì vi phạm pháp luật.
Cụ thể, bà Nguyễn Thị Sang đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, có những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai tại địa bàn nên bị xử phạt 2 năm tù.
Việc con trai ông M.G. sử dụng súng gây ra vụ cướp tài sản công dân xuất phát từ việc quản lý, sử dụng súng trái quy định của ông và đương nhiên, con ông phạm tội thì phải bị xử lý theo pháp luật, không có oan khuất gì ở đây.
Đối với ông N.L., nguyên Chủ tịch UBND thị trấn, do trong quá trình công tác, ông có những biểu hiện khuất tất, không được tín nhiệm nên tại kỳ bầu cử HĐND thị trấn, ông đã không đủ số phiếu quy định...
Như vậy, việc mất chức hay bị phạt tù của những ông, bà nói trên là do vi phạm pháp luật, do không được tín nhiệm. Tất cả đều xuất phát từ hành vi của chính họ và bị xử lý theo pháp luật.
Một cán bộ ở quận Cầu Giấy biết rõ việc này cho rằng, cách đặt vấn đề như ông Cường rõ ràng là suy diễn, ngụy biện. Không có bất kỳ căn cứ nào để nói rằng vì "Thánh vật" nên họ chịu đen như trên...
Thế giới tâm linh trong chừng mực nào đó vẫn là bộ phận không thể thiếu của đời sống văn hóa tinh thần. Có những điều khoa học cũng chưa giải thích được và cần có thêm thời gian. Thế giới tâm linh cũng cần được đặt vào hoàn cảnh, cần hiểu đúng và vận ứng vào điều kiện cụ thể.
Nhưng nếu coi tâm linh để gán ghép vào những chuyện không may mắn của từng cá nhân lại là chuyện khác. Chưa nói, có những việc rõ ràng không có liên quan gì nhưng do sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó, rơi vào đúng thời gian diễn ra sự việc hoặc sau khi xảy ra sự việc nên dễ có sự liên tưởng tới tâm linh.
Về điều này, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, Viện Công nghệ môi trường phản đối việc tác giả bài báo "Thánh vật ở sông Tô Lịch" liên tưởng một số người bị mất là do cầm đồ vật ở sông Tô Lịch. "Có biết bao người đã động vào những thứ đồ cổ đó nhưng có phải ai cũng xui, ai cũng chết" - ông nói.
Riêng về những người vi phạm pháp luật, phạm tội, bị cơ quan bảo vệ pháp luật điều tra, kết luận và xử lý theo quy định mà tác giả bài báo lại đánh lạc hướng sang "Thánh vật" để cho rằng oan khuất, bị ám chỉ, rõ ràng cần xem xét động cơ.
Không thể mượn chuyện tâm linh để cố tình lạc đề với dụng ý cá nhân vào việc khác rõ ràng thiếu khách quan.
Theo Đăng Trường
________________________



Chuyện "Thánh vật ở sông Tô Lịch": "Tất cả chỉ là sự tự quy kết"

Thứ tư, 25/4/2007, 12:03 GMT+7


Là người tổ chức cuộc tọa đàm cuối năm 2002 xung quanh những vấn đề từ việc thi công nạo vét và kè đá sông Tô Lịch đoạn Nghĩa Đô-Cầu Giấy (Hà Nội), nhà sử học Dương Trung Quốc tỏ ra phẫn nộ khi câu chuyện trên lại được (bị) đưa lên mặt báo.
>> "Nếu có chuyện Thánh vật, tôi đã chịu đầu tiên"
 >> Người bị "Thánh vật" nói gì?
 >> Không có chuyện cán bộ PJICO hầu tòa là do "Thánh vật"
 >> Chẳng lẽ Thánh lại vật Phật?
 
>> “Không hề tìm thấy hiện tượng trấn yểm nào trong lịch sử”
 >> Xuyên tạc về cái chết của Thượng tọa Thích Viên Thành và GS Trần Quốc Vượng
 >> Thánh vật hay... "người vật"?
 >> "Thánh vật ở sông Tô Lịch”: Đâu là sự thực?
 
>> Ông Dương Trung Quốc nói về "Thánh vật" ở sông Tô Lịch








Nhà sử học Dương Trung Quốc

Ông Dương Trung Quốc nói:
Tôi vừa phát biểu với Hội Nhà báo Việt Nam là chúng ta không phản ứng kịp, để kéo dài quá, thành hiệu ứng xã hội rồi. Tôi nói với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Hội Lịch sử Việt Nam.
Thời điểm đó, họ mời tôi - người của Hội Lịch sử Việt Nam để tập hợp anh em tổ chức một cuộc tọa đàm. Tại tọa đàm mới nảy ra điều này: tất cả đều là sự liên tưởng hết chứ không trên cơ sở một hiện thực nào.
Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng nói về các tập tục xưa, GS Đỗ Văn Ninh nói về cấu trúc thành xưa. Thế rồi, các hiện tượng được người ta quy thành một giả thiết.
Và không có kết luận nào?
Điều rõ nhất và chắc chắn nhất là những hiện tượng trên không có một cơ sở khoa học nào. Địa điểm thi công, theo một số ý kiến chuyên môn, nằm trên điểm hợp lưu của những con sông cổ dẫn đến hai hệ quả: Kết cấu không bền vững, phức tạp, phải chăng nó tạo ra nhiều khó khăn trong việc thi công?
Yếu tố thứ hai, vì là hợp lưu của nhiều con sông cổ nên tạo ra yếu tố đặc thù về tâm linh, phong thủy, cũng là điểm tập trung của nhiều cổ vật trôi về đấy. Người ta lại kết hợp với ngôi đền cổ gần đó để liên tưởng.
Nói thật, lòng con sông cổ trong một đô thị ngàn năm bới đâu chả ra cổ vật. Cái quan trọng nhất của khảo cổ học là phải có mặt bằng khai quật một di chỉ nhưng tôi được biết người ta dùng gàu múc di vật lên bờ. Vài ngày sau, giới khảo cổ mới tới. Chỉ có điều người ta lại tưởng tượng ra chúng được sắp xếp theo hình thù bát quái, kết hợp những giả thiết vụn vặt khác nhau để tạo thành câu chuyện “Thánh vật”.
Cố GS Trần Quốc Vượng cho rằng đó có thể là trận đồ trấn yểm của thành Đại La?





Trong 5 năm - một thời điểm hơi dài, lẽ ra giới khoa học nên có những nhận định để người dân an tâm?
Không có gì để bàn cả. Đã khai quật khảo cổ học đâu. Cuộc tọa đàm do tôi phối hợp với báo GĐ-XH cùng cuộc hội thảo “đầu bờ” trong đó có đại diện một số cơ quan quản lý của Hà Nội đều không đưa ra kết luận nào. Và sau đó, công việc nạo vét và kè đá bờ sông Tô Lịch ở đoạn này vẫn xong xuôi.

Có thể thôi. Mọi người đều có quyền đưa ra giả thiết. Báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần làm rất ẩu ở chỗ này: Giáo sư đã mất lâu rồi bây giờ anh đặt ra câu hỏi như phỏng vấn một người đang sống vậy.
Về nghiệp vụ báo chí, tôi cho đấy là điều không minh bạch. Anh phải lục lại hồ sơ cũ, nói rõ ai là người chịu trách nhiệm cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của tài liệu.
Có người nói Thượng tọa Thích Viên Thành đã giải yểm trừ tà ở sông Tô, có người lại nói ông chưa bao giờ đến đó?
Hai hôm trước, tôi vừa gặp một người rất thân thiết với ông Thích Viên Thành tại Tam Đảo. Ông Thành chả liên quan gì đến việc này. Tại sao lại dùng từ “Thánh vật”?
Thánh là những đấng mà người dân hết sức trọng vọng, tôn sùng bằng tâm linh của mình. Đó là những người đại diện cho một quyền lực siêu nhiên, như Thánh Trần, Thánh Mẫu.
Biểu tượng Thánh trong tâm linh người Việt là những đấng hộ quốc an dân, khuyến thiện trừ tà. Những người vận vào mình là bị “Thánh vật” thì có khi chết thật đấy. Bởi lẽ, Thánh chả bao giờ “vật” người tốt cả. Nhưng đừng vận điều ấy cho người khác.
Ông có nói: Đời sống tâm linh chỉ có ý nghĩa khi mang lại điều tốt lành cho con người...?
Đúng vậy, nó chỉ ý nghĩa khi khuyến thiện. Ngược lại gọi là tà đạo. Dùng từ “Thánh vật” là xúc phạm những người liên quan, như Thượng tọa Thích Viên Thành, cố GS sử học Trần Quốc Vượng. Tại sao Thánh lại “vật” ông Thành và GS Vượng? Hai ông là người xấu, làm gì sai trái, phi đạo lý, phi pháp hay sao?
Theo ông, GS Trần Quốc Vượng có giữ món đồ cổ nào không?
Cái đó tôi không biết. Một giáo sư khảo cổ cả đời đi khai quật nghiên cứu thì trong nhà chứa nhiều đồ cổ là đương nhiên. Nói cho cùng, câu chuyện này là hiện tượng xã hội, chứ không có vấn đề khoa học gì ở đây, kể cả khoa học tâm linh. Đời sống tâm linh đem lại sự yên ổn cho con người, chứ không phải sự lo sợ.
Cảm ơn ông.
Theo Trần Thanh - Bích Liên