Thánh vật sông Tô Lịch
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 18 bài trong đề mục
Tố Như 20.04.2007 14:36:14 (permalink)
Chắc hẳn các bạn đều biết vụ thánh vật sông Tô Lịch đang rầm rộ mấy ngày gần đây. Theo nguồn tin mới đệ tử của sư Thích Viên Thành sẽ đến giải tà ở đây. Không biết sự việc sẽ ra sao. Ai có thông tin, ý kiến, mời các nhà phong thủy học của diễn đàn cùng góp ý. Sau đây là ý kiến của một nhà sử học về vấn đề này:

Ông Dương Trung Quốc nói về Thánh vật ở sông Tô Lịch
Trước những thông tin về chuyện Thánh vật ở sông Tô Lịch (Hà Nội) khiến cho dư luận có phần hoang mang, lo lắng, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc, người đã chủ trì cuộc tọa đàm về phát hiện khảo cổ học ở sông Tô Lịch cách nay 3 - 4 năm.

- Thưa ông, gần đây có tờ báo kể những câu chuyện được gọi là “thánh vật” ở sông Tô Lịch khiến cho dư luận quan tâm một cách thái quá, thậm chí chuyền tay nhau đọc và bàn tán xôn xao. Ông có nghe thông tin này không và ông có suy nghĩ gì?
- Theo tôi, riêng cái việc dùng từ thánh vật trong bài báo cũng đã mang tính báo chí, chủ yếu để gây sự tò mò, thu hút nguời đọc.
Vụ việc này đã diễn ra cách đây mấy năm rồi. Tôi còn nhớ hồi đó báo chí đề cập một cách rất nghiêm túc.
Lúc đầu cũng có những ý kiến khác nhau, và sở dĩ có những ý kiến khác nhau đó mà tôi là người đã được báo Gia đình & Xã hội nhờ đứng ra tổ chức cuộc toạ đàm với sự tham gia của nhiều nhà chuyên môn để hy vọng giải thích sự việc một cách khoa học.
Đương nhiên vào thời điểm này chúng ta không còn ở thời kỳ chủ nghĩa vô thần thô mộc nữa. Chúng ta tin rằng có đời sống tâm linh.
Đời sống tâm linh ấy là một phần giá trị của đời sống thực, nó giúp cho đời sống thực tốt hơn bằng những nguyên lý mang tính đạo đức.
Tôi lấy thí dụ, Ở hiền thì gặp lành, Ác giả ác báo, v.v... Tôi nhớ hồi còn nhỏ, khi đời sống tâm linh phong phú thì người ta sợ quỷ thần hai vai hơn là sợ ông cảnh binh đội sếp.
Thế nên đời sống tâm linh có mặt tích cực của nó. Nhưng cũng không đến mức chúng ta phải vận vào mình một cách không có cơ sở như thế.
Bởi vì, theo chỗ tôi được biết tác giả bài báo ấy là một người trong cuộc, người đã từng tham gia xây dựng tuyến kè ở sông Tô Lịch vào thời điểm ấy, rồi muốn thể hiện, giãi bày mình gặp rủi ro trong đời sống, trong kinh doanh dẫn đến phá sản và giải thích gắn với hiện tượng của khúc sông ấy.





"Tôi là học trò của cố GS Trần Quốc Vượng. Thầy Vượng là nhà khảo cổ, việc thầy giữ một số hiện vật mà do những hoàn cảnh được luật pháp cho phép thì điều đó là rất bình thường. Trên thực tế không chỉ riêng thầy.
Thế nhưng vận cái chuyện đó vào thầy và thầy mất sau đó là không có căn cứ vì có hồ sơ bệnh án khoa học. Như thế, trong chừng mực nào đó là xúc phạm đến người đã mất".
Nhà sử học Dương Trung Quốc
Về cá nhân tác giả bài báo ấy chắc cũng không có lỗi gì cả, họ nghĩ thế nào viết như thế, nhưng khi đưa tin không có lời giải thích khoa học, rõ ràng và đặc biệt trong đó người viết mang nặng cảm tính cho nên đã vượt ra khỏi khuôn khổ là những trải nghiệm cá nhân dẫn đến những suy luận mang tính xã hội, liên quan đến người khác. Bởi vậy điều đó là không bình thường.
- Cách đây khoảng 3-4 năm, sau khi đơn vị thi công tại đoạn sông sông Tô Lịch đó phát hiện được nhiều di vật, hiện vật, cơ quan chức năng đã vào cuộc và tiến hành khai quật “chữa cháy”. Lúc đó ông đã đứng ra chủ trì cuộc toạ đàm với sự góp mặt của các nhà chuyên môn để nhận định về sự phát hiện khảo cổ này. Khi đó các nhà chuyên môn đã nhận định ra sao, thưa ông?
- Tôi nhớ hồi đó giới chuyên môn cũng đã đưa ra nhiều hiện tượng về sự cố của đơn vị thi công.
Ngay sau khi phát hiện, những cơ quan có trách nhiệm của Hà Nội cũng đã vào cuộc như Bảo tàng, Sở VH-TT.
Tin rằng, bây giờ tìm lại hồ sơ đều có khá đầy đủ. Khi đó ai cũng thấy rất rõ và được giải thích rằng sự bất trắc của đơn vị thi công tại khu vực đó là bởi ở đây có thể xuất phát từ địa tầng không ổn định do nó nằm giữa nơi hội tụ của ba dòng sông.
Và có lẽ, chính điều đó khiến cho việc khảo sát thiết kế, xây dựng dự án xây dựng tuyến kè không sát với thực tế, dẫn đến thiệt thòi cho doanh nghiệp.
Điều này cũng được đề cập đến trong cuộc toạ đàm. Và nữa, vì là nơi hợp thuỷ của ba dòng sông nên trong quan niệm phong thuỷ cổ điển chắc cũng có yếu tố phong thuỷ.
Nếu quan sát hiện trường mặc dù chưa rõ ràng lắm nhưng cũng có người giả thiết rằng, những dấu vết còn lại cho thấy có một sự yểm nào đó.
Nếu có đi chăng nữa thì cũng rất bình thường trong kiến trúc cổ truyền của người xưa, và nhất là không loại trừ yếu tố của thời kỳ tiền Thăng Long, của thời nhà Đường chiếm đóng, thời Cao Biền.
Thế nhưng, vận nó vào giữa những yếu tố được giải thích dưới góc độ chuyên môn  và hiện tượng xã hội gắn liền với vụ việc cụ thể thì tôi nghĩ rằng thiếu căn cứ.
Không ai có thể kết luận được rằng, vì cái vùng đất ấy mà dẫn đến hệ quả mang tính chất thuần tuý là cái sự trả giá về mặt tâm linh.
Còn đương nhiên, nó vẫn là những giả thuyết, chúng tôi tôn trọng những giả thuyết ấy nhưng hồi đó cũng đưa ra những căn cứ khác nhau để cho dư luận xã hội lựa chọn một nhận thức khả dĩ nhất. Sau đấy mọi chuyện cũng lắng dịu.
Việc này không phải không có sự chia sẻ với doanh nghiệp thi công ở đấy nhưng lúc đó không đến mức độ như hiện nay.
Tôi thấy rất nguy hiểm ở chỗ này: Sự trải nghiệm của cá nhân doanh nghiệp ấy chúng ta có thể chia sẻ nhưng sau đó vận vào cái chuyện thí dụ như một lời cầu khấn nào đó có thể mang lại tai họa cho người khác thì khó lòng chấp nhận.
- Trong loạt bài báo vừa rồi, tác giả đã đề cập mang tính ám chỉ chuyện GS Trần Quốc Vượng mất là cũng có liên quan đến việc này. Với tư cách là Tổng thư ký Hội KHLS Việt Nam, ông có ý kiến gì về chi tiết này?
- Việc sở hữu cổ vật hợp pháp, rất nhiều người và những nhà khảo cổ có uy tín như thầy Vượng thì chắc cũng có một số cổ vật do sưu tầm hoặc do người khác tặng để làm cơ sở nghiên cứu.
Rõ ràng đây không phải mục đích bất hợp pháp. Chuyện đó rất bình thường. Cái cổ vật thầy nhận vào thời điểm đó hoặc những cổ vật khác thì cũng như nhau.
Tôi nghĩ rằng vận vào việc thầy bị mất là điều vô căn cứ, phần nào đó đã xúc phạm đến thầy.
Chúng ta đều biết, thầy Vượng mất đều có bệnh lý hẳn hoi, có cả một quá trình. Cho nên chuyện đó rất không nên đặt ra trên mặt báo.
Tôi xin nhắc lại là, những gì bản thân người viết bài báo ấy phải trải qua thì ta cũng có thể chia sẻ nhưng cũng không phải là chuyện đưa lên báo vào thời điểm này.
Còn vận vào những chuyện khác mang tính suy luận như thế tôi cho là không nên làm, tạo ra sự hoang mang trong đời sống, vì nó muốn khai thác mặt trái của tâm linh.
Như tôi nói, tâm linh có mặt tích cực để điều chỉnh đời sống xã hội. Còn điều này mang lại sự phân tâm, lo lắng không bình thường cho người dân.
- Là một người dân, khi nhận được những thông tin gọi là “thánh vật” như thế thì ông sẽ nghĩ ra sao?
- Tôi nghĩ, việc này các cơ quan chức năng sẽ thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, vấn đề này liên quan đến đời sống xã hội rất phức tạp, đa dạng cho nên cần thận trọng khi xử lý.
Điều quan trọng ở đây là vai trò của cơ quan báo chí, đó là mình cần chủ động điều chỉnh nó.
Tôi lấy ví dụ, trước đây cơ quan báo chí cũng đã phản ánh, thậm chí tổ chức toạ đàm mời các nhà khoa học đến, sau đó phản ánh trung thành với phát biểu.
Đó được xem như một biên bản, không đi đến kết luận. Và người dân dựa vào đấy để có những ứng xử hợp lý.
Vụ việc này diễn ra đã lâu rồi và bây giờ bất kỳ ai có thái độ nghiêm túc muốn đề cập đến thì cần tìm đến cơ quan chức năng để nghiên cứu lại hồ sơ.
  Còn sau đây là một số hành động phá long mạch của Cao Biền ở Việt Nam:
Một số hành động phá hoại LONG MẠCH của Cao Biền tại Việt Nam
Posted by chiase on April 18th, 2007


Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói: -Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy. Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vẫn còn nguyên vẹn, Biền mừng quá reo lên: -Ta tìm được ngòi bút thần rồi! Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực. Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu, ông tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Nhưng muốn thực hiện công việc “đại sự” này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, Biền trở về Trung Quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam. * * * Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng, chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba bé trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cả ba nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ: “Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế”. Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đất chuyển động. ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia từ dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. “Không được ăn thì đạp đổ”, nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch của nước này. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt. Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được. ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh Hóa. Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ, tỉnh Hà Đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một a i dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn: một đầu buộc vào khúc gỗ, còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại La tiến dần lên núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng “Thống vận hoàng đế”. Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại La. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn. Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. ở đây người ta đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó phải đưa về Trung Quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh Diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình. Cao Biền về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn, đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam, cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. ở đó mặc dầu sóng dồi gió dập thế nào đi nữa, cát ở mả vẫn cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 07:02:53 bởi Tố Như >
#1
    NuHiepDeThuong 20.04.2007 16:13:25 (permalink)
    Chắc là Tố Như muốn nhắc đến bản tin sau đây   =>

    http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=264338&mpage=1&key=&#264352

    Đúng là một tin hấp dẫn, ly kỳ không thua các quyển sách nói về bí mật cổ mộ ở Ai Cập.

    Cảm ơn TN đã lên tiếng.

    NHDT rất mong sẽ có nhiều người tham gia bài viết nầy...cho thêm xôm tụ box KHHB .
    #2
      Mayvang 20.04.2007 16:31:55 (permalink)
      Bài viết này MV có đọc lâu lắm rồi của Ánh Trăng Vàng gởi vào nhưng còn thiếu đoạn cuối mà ATV ngưng mất không post tiếp , ở link dưới đây:

      http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=152669
      #3
        NCD 20.04.2007 19:12:49 (permalink)
               Trước tiên ,cho NCD cảm ơn bạn Tố Như đã đưa ra 1 đề tài quá hấp dẫn.
        Và cũng chân thành cảm kích tấm lòng của tác giả langtoi , người hết lòng vì sự phồn vinh chung của đất nước Vn ta nói chung , và của Thủ đô HN nói riêng. Quả thật , NCD là người miền Nam , chưa lần đặt chân lên đất Bắc , nhưng cũng xin góp tiếng với tác giả bài viết về việc sông Tô Lịch, với tính cách 1 người thích tìm tòi về PT.

                Qua các sự việc mà tác giả bài viết đưa ra , NCd nhận thấy khả năng là do Cao Biền trấn yểm là cao hơn cả. Trong các tài liệu cổ lưu lại thì :  Cao Biền được vua Đường Trung Tông phong làm An Nam Tiết Độ Sứ , sang đô hộ nước ta. Cao Biền là 1 nhân vật rất giỏi về khoa địa lý nên trước khi đi sang nước ta nhậm chức , vua Đường Trung Tông đòi vào triều ủy thác sứ mệnh cho Cao Biền phải tìm các nơi thủy tú sơn kỳ trên đất nước ta , nơi nào có Long Mạch lớn , có huyệt kết tốt thì phải yểm phá , và lập bản tấu thư về cho vua Đường Trung Tông biết. Sau khi sang nước ta , Cao Biền vận dụng hết khả năng và thời gian đi khắp các nơi để tầm long điểm huyệt. Chính Cao Biền cũng không ngờ trên 1 đất nước nhỏ bé như nước ta lại có nhiều Long Mạch lưu tụ và khí thế sông núi ưu tú đến như vậy. Nên Cao Biền không viết tấu thư mà viết hẳn 1 cuốn sách tựa đề là " Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự " gởi về tấu trình. Mặt khác Cao Biền lại tìm cách trấn yểm và phá hủy những Long Mạch lớn , phát vương tướng. Xin trích 1 số đoạn trong sách này cho các quý vị tham khảo : " Giao Châu Đô hộ Sứ , thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự , thần hạnh phát dư sinh thao tỵ hà những, thượng tự thâm sơn , hạ hạ chi đại hải , ngưỡng quan phủ sát , phát tận chân cơ , ký tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn , thượng tự tự đế vương , vương công , công hầu , vương phi , thứ thần đồng , tú tài , vị chi thị phủ , phục khất phủ lãm giảo quan chi khí , kiến văn cụ lục.

                                                                     HÀ  ĐÔNG

        THANH OAI  :

          _ Đệ nhất   :   THANH OAI phong
                 Ấp trung Thanh Uy , hình thế tối kỳ
                 Thủy lưu tứ vượng , án khởi tam qui
                 Mạch tòng hữu kết , khí định tả y
                 Thần đồng tiền lập, quỷ xứ hậu tỳ
                 Khôi khoa tảo chiếm, phúc lộc vĩnh tuy
                 Tu phong mạch tận, thừa tự vô nhi.

          _ Đệ nhị      :   CAO XÁ phong
                 Thanh Oai Cao Xá , chân vi quý long
                 Thủy khuê tùy mạch, bình dương lai tung
                 Hoa khai hữu hổ, tinh hiện tả long
                 Sơn thủy trù mật, khí thế sung giong
                 Hà tu hợp hải, ngưu giác loan cung
                 Chủ khách hoàn mỹ , tả hữu vô tòng
                 Hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng
                 Văn khôi hoa giáp , võ tổng binh nhung
                 Phú quý thọ khảo, kiêm hữu kỳ công.
        ........"

        =>    
        Giao Châu Đô hộ Sứ , thần Cao Biền kính cẩn tâu : Bản châu địa thế như vầy , thần nguyện đem hết kiếp sống thừa , từ tận núi cao ra đến biển cả khảo nghiệm để biết các cuộc đất phát lớn từ vươnmg tôn công hầu , đến thần đồng , tú tài , khoa đệ , giàu sang phú quý mọi thứ... làm bản tấu ca dâng lên tường tận

                                                                      HÀ  ĐÔNG

        THANH OAI    :

            1/. Cuộc đất Thanh Oai  :
                 Trong ấp Thanh Oai , hình thế rất lạ
                 Thủy vượng 4 phương , án phát tam qui
                 mạch kết bên hữu, khí dựng phía tả
                 Thần đồng đứng trước , quý sứ nối sau
                 Bảng vàng sớm chiếm , phúc lộc dồi dào
                 Nên phòng mạch tận , không con nối dòng.

            2/. Cuộc đất Cao Xá     :
                 Thanh Oai Cao Xá , thật có quý địa
                 Nước khe theo mạch, về nơi đất bằng
                 Hoa nở bên Bạch Hổ , sao hiện bên Thanh Long
                 Sơn thủy dồi dào , khí thế sung mãn
                 Cần gì hợp biểu, ngưu giác loan cung
                 Chủ khách đều tốt, tả hữu 1 lòng
                 Lòng hoa rộng mở , thế phát anh hùng
                 Văn chiếm đầu bảng , võ chiếm nguyên nhung
                 Sống lâu phú quý , lập nhiều kỳ công.
        ....."
         
                
        Theo quyển " Tấu thư địa lý kiểu tự " Cao Biền ghi tất cả là  632 huyệt chính , và 1517 huyệt bàng trên khắp các tỉnh như  :

        _ Hà Đông       :   81 chính  -   246 bàng

        _ Sơn Tây        :   36 chính  -   85 bàng

        _ Vĩnh yên
           Phú Yên            65              155
           Phú Thọ

        _ Hải Dương

           Hưng Yên         183              483
           Kiến An

        _ Gia Lâm            134              223

           Bắc Ninh
           Đáp Cầu
           Bắc Giang
           Lạng Sơn

        _ Hà Nam

           Nam Định          133              325
           thái Bình
           Ninh Bình
         
                 
        Theo thống kê trên , cũng đủ thấy công phu tầm long điểm huyệt và trấn yểm của Cao Biền đến bực nào rồi.
        Các truyền thuyết về Cao Biền còn lưu lại rất nhiều trong dân gian VN ta.  Như ở Phú Yên , tương truyền có mả Cao Biền ở đó , đấy là 1 độn cát nơi chân núi dưới biển. Độn cát không lớn lắm , nhưng không bao giờ san bằng được vì 4 mùa gió cát vun lên. Dân trong vùng có câu phong dao :

        Ngó lên hòn núi cả thấy mả Cao Biền
        Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
                        
                
        Theo truyền thuyết thì từ thuở xa xưa , Cao Biền đã vun biểu tượng mả để trấn yểm dân VN. Vì thuật địa lý giỏi nên ông ta đã tìm 1 nơi 4 mùa cát vun để ngôi mả đó không bị mất đi.

                 
        Trong quyển " Địa dư bình Định " của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng có đề cập đến di tích Cao Biền như sau : " Dọc theo đường QL số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là 1 cái thẻ thời xưa  Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ, nhưng nhổ không lên ". 
        Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có 1 cụm núi nhỏ , cách đó không xa , lại có 1 hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dùng phép trấn yểm thuở xưa.

         
        Phải dẫn giải dài dòng như thế là vì NCD tôi muốn mạo muội đưa ra 1 ý hơi khác với tác giả bài viết về vụ sông Tô Lịch. Theo thiển ý của NCD , việc trấn yểm nơi sông Tô Lịch thì sác xuất là do Cao Biền làm là cao hơn cả ( tức là không phải không có khả năng khác đâu ) , nhưng chưa hẳn là ông ta tính toán sai lầm.  Bởi chúng ta không phải là người sống thực thời đó , trong tài liệu cổ cũng không lưu lại gì nhiều về giai đoạn đó của Cao Biền , chỉ là những truyền thuyết trong dân gian. Nhưng tất cả những truyền thuyết ấy đều nói lên 1 điều : Bản thân Cao Biền là 1 nhà địa lý giỏi , nhưng không thể mang danh Phong Thủy Đại Sư ! Vì sao? Vì 1 người tầm long điểm huyệt , cái quý là trân trọng , giữ gìn những kho tàng quý giá mà thiên nhiên đã tạo ra ấy. Long Mạch chính là cái Tinh Hoa của Đại Địa hun đúc nên ,có khi nó chỉ là ở 1 dãy núi kết thành, có khi lại xuất phát từ Tổ sơn ở tít xa , khí thế liên miên bất tận, trùng trùng điệp điệp kéo dài cả mấy chuc , thậm chí vài trăm cây số mới kết nên 1 đại Long Mạch. Một bậc Đại Sư PT cho dù với lý do gì thì cũng không nỡ nào phá hũy nó. Chúng ta thôi không bàn đến tư cách đạo đức của CB , chỉ nói cái tài , thì ông ta quả thật có tài.  Qua bản tấu thư của ông ta cũng thấy ông ta nghiên cứu rất tường tận về địa hình địa lý nước ta. Một người đã bỏ công soạn thảo chi ly từng huyệt mạch như ông ta thì không thể có việc tính toán sai lầm như vậy được.
                 
        NCd rất đồng ý với tác giả về việc lý giải các huyệt mạch PT qua hình tượng đơn giản cho dễ hiểu là kinh mạch trên cơ thể người. Nhưng NCD chỉ xin bổ sung 1 ý nhỏ , đó là việc trấn yểm trong PT không hẳn là chận, ngăn dòng khí  mà có thể sử dụng nó để làm tiết khí Long Mạch. Khi 1 Long mạch bị thoát khí thì kể như đó là vùng đất chết vậy. Muốn hóa giải , người thầy địa lý phải thật giỏi , nghiên cứu kỹ hình thể địa lý nơi đó mà cải tạo lại. Bởi PT không thể thay đổi hình cục của thiên nhiên được ( nếu được thì ngày xưa giờ có lẽ không có chuyện thay triều hoán vị rồi ). Người thầy PT phải dựa vào bố cục có sẵn của thiên nhiên , cải tạo làm sao cho không mất đi cái gốc ban đầu , mà chỉ sửa sang nó , bổ sung nó ( như làm dòng nước chảy êm ái hơn mà không phải đào xẻ rộng lòng sông ).
        Trở lại với vấn đề sông Tô Lịch , NCD nghĩ , có lẽ tác giả bài viết có sự nhầm lẫn về độ số cung Đoài chăng? Bởi số 9 Dương Kim như lời tác giả nói thì ôi thôi, đi lệch với định hướng trong PT...hơi bị xa rồi. NCD sẽ trở lại trong lần tiếp về các số sinh , số thành , tức là các số 1,2,3,4,5  là số sinh ; 6,7,8,9,10 là số thành . NCD thiết nghĩ cỏ lẽ tác giả dựa theo đặc trưng của Hà Đồ :

                    Số 1 & số 6  ở phương Bắc hành Thủy
                        2 &     7                Nam        Hỏa
                        3 &     8                Đông       Mộc
                        4 &     10 ở trung ương thuộc hành Thổ.
                  Đây là dựa theo các chấm trên lưng con Long Mã trên sông Hoàng Hà. 
                  Các chấm trắng tượng trưng cho số Trời , là số Dương : 1,3,5,7,9
                                đen                               Đất, là số Âm      : 2,4,6,8,10
                  Vì vậy Kinh Dịch nói : Thiên 1 , Địa 2 , Thiên 3 , Địa 4........Địa 10 , Thiên số 5 , Địa cũng số 5.Cái mà Hà Đồ phản ánh chẳng qua là kết cấu không gian của vũ trụ , lấy quả đất làm trung tâm.
                  Theo Lạc Thư , thì số 1 Thủy ở phương Bắc, số 2 Thổ ở phương Tây Nam , số 3 Mộc ở phương Đông....cho đến số 9 Hỏa ở phương Nam. Và các nhà Dịch học đã vẽ ra ô vuông Lạc Thư. Đem ô vuông Lạc Thư ra đối chiếu , ta thấy nó rất hợp với phương hướng trên trái đất , như  hướng Bắc bên dưới , theo chiều kim đồng hồ chuyển đi , ta thấy kế đó là hướng Đông Bắc , rồi đến Đông , rồi Đông Nam....cho giáp vòng đến Tây Bắc. Đây cũng chính là trùng hợp với HTBQ _ tương truyền của vua Văn Vương nghĩ ra _ , đem 2 đồ hình lồng vào nhau , ta có : 1 Khảm , 2 Khôn , 3 Chấn , 4 Tốn , 5 ở trung tâm , 6 Càn , 7 Đoài , 8 Cấn , 9 Ly.
                  Thực ra theo Hà Đồ , ta có :
                         Thiên 1   hợp Địa 5   sinh thành 6 , nên nói 1 & 6 ở phía Bắc
                         Thiên 3   hợp Địa 5   sinh thành 8 , nên nói 3 & 8 ở phía Đông
                          Địa   2   hợp Thiên 5       thành 7 , nên nói 2 & 7 ở phía Nam
                          Địa   4   hợp Thiên 5       thành 9 , nên nói 4 & 9 ở phía Tây
                  Hai số Trời là số sinh , nên lấy nó để định hướng.
                          1 ở chính Bắc thì 9 ở chính Nam , 2 số hợp nhau thành 10.
                          3 ở chính Đông thì 7 ở chính Tây , 2 số hơp nhau thành 10.
                  ( Sở dĩ chọn số 5 làm số để cộng vì theo quan niệm xưa, số 5 là con số chủ , tượng trưng cho vạn vật trong trời đất. Như người thì có Ngũ quan-Ngũ tạng-Ngũ hình tướng.. ; vũ trụ thì có 5 loại hình vật chất là Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ....vv....nên số 5 thay cho vũ trụ Thiên Địa làm con số cộng thêm vào vậy )
                  Như đã biết  1,3,7,9 là số Dương, là số Trời.
                                    2,4,6,8 là số Âm    , là số Đất.
                  Sự vận hành của Thiên Địa theo phương hướng ngược lại với nhau , Thiên quay sang trái , Địa quay sang phải. Số liên tiếp của Thiên là quay sang trái , do đó số liên tiếp của Địa phải quay sang phải.Tức là :
                                    6 ở bên phải của chính Bắc , 4 ở bên phải của chính Nam , 2 số hợp lại bằng 10
                                    8 ở bên phải của Đông       , 2 ở bên phải của Tây           , 2 số hợp lại thành 10
                  Như vậy phương vị của 8 số đã hoàn toàn được xác định , hoàn toàn ăn khớp với ô vuông Lạc Thư. Tác giả bải viết đó nói Dương Kim là 9 , Âm Kim là 4  thực sai lầm lắm vậy  ! Bởi trong các thư tịch cổ chữ Hán về PT , cũng chưa có tài liệu nào luận phương hướng kiểu lạ lùng như thế. Trong lĩnh vực Ngũ Hành , Âm dương ( mà PT không ra ngoài thuyết này được ) thì :
                      Càn , Đoài thuộc KIM
                      Càn, Khảm, Cấn , Chấn là các cung Dương
                      Tốn , Ly , Khôn, Đoài là các cung Âm.
                      Do vậy , Càn là Dương Kim , và Đoài là Âm Kim , còn độ số của nó như đã nói  ở trên vậy. Đây là điều đầu tiên mà NCD tôi muốn nói đến với tác giả bài viết ấy ,về sự sai lầm trong nhận định độ số của hướng Tây. Tây Đoài là Âm Kim , ứng với thiếu nữ, thuộc số 7.
         
                  Luận về hình thế của PT , Đại Sư PT đời Tống là LAI BỐ Y đã viết :   Phàm xây dựng thôn trấn , trước hết phải tôn trọng Khí Cục , có Khí có Cục mới thượng thừa. Có Khí mà không có Cục , hoặc có Cục mà vô Khí thì đều không phải là đất phúc lộc lâu dài..... Luận về LONG , ông bảo : Khi đã có Chân Long  huyệt còn phân ra nhiều loại như : Thiên Long, Chi Long, Hư Long, Thực Long, Phù Long, Khinh Long, Kiên Long, Chiên Long, Địa Long , Thủy Long, Sơn Long, Kim Long, Mộc Long, Hỏa Long  . Có tất cả 14 Đại Long.Phàm tất cả các Long Huyệt như Hợp Cán Long, Thực Long, Kiên Long , Thiên Long , Địa Long trong Long Huyệt Ngũ Hành mới đáng gọi là thực Long. Trăm huyệt không sai một ,do kiên cố và đầy đủ Long Khí nên có thể kéo dài miên trường , ngàn năm không suy vong. Còn những Long Huyệt còn lại đều là PHÙ LONG , tuy Long Khí thấy rất thịnh nhưng nền tảng không vững chắc , chẳng qua như hoa đốm trên không chớp chớp rồi tắt ngay , phù nổi mà không có gốc , rỗng mà không chắc....Long Mạch là Linh Khí của Đại Địa kết tụ , tẩp trung tinh hoa của vũ trụ , đó là cái rún ở giửa thắt lưng của Chân Long , lực của nó chí cường.....
                  Đấy chưa phải là đủ , chúng ta còn phải xét đến Long Mạch đó là ở vùng núi nopn hay ở đồng bằng nữa. Bởi NCd chưa từng đặt chân ra các tỉnh thành phía Bắc , chưa thấy thực địa không thể đoàn định gì vì PT không thể nói suông , nên NCD tôi chỉ góp thêm chút ý kiến về Long Mạch và đưa ra vài ý kiến dựa trên bài viết của tác giả ấy mà thôi. Ở vùng sơn cước thì gọi là mạch Âm, vì mạch luôn chìm xuống ( vì thế ta mới gọi là Âm Sơn , đừng lầm tưởng núi cao lên là Dương rồi cho là Dương Mạch hay Dương Sơn là sai lầm lớn ) , còn ở dưới đồng bằng thì mạch nổi lên cao. Long Mạch không chỉ chạy trên đất liền sơn cước hay đồng bằng mà có thể qua ao , qua hồ , thậm chí qua cả sông , lặn sâu xuống dưới bãi, dưới đầm lầy  1 quãng cách thật xa ,rồi lại tiếp tục nổi lên đi nữa.Trạng thái này trong PT học gọi là trạng thái " Khởi phục"
        của Long Mạch. Với loại mạch này , các nhà địa lý thiếu kinh nghiệm thường lầm lẫn, cứ tưởng nơi đó đã đến chỗ Long đình Khí chỉ , vội tìm huyệt kết là sai lầm to. Thực ra , 1 kiểu đất kết phải hội đủ các điều kiện :
        _ Tiền án :  là 1 mô đất cao nổi lên trước mặt huyệt , như 1 cái bàn trước mặt người ngồi vậy.
        _ Hậu trẫm : là 1 mảnh đất đằng sau huyệt , như 1 cái gối để người ta tựa đầu vậy.
        _ Tả Long   : là thớ đất ở bên trái huyệt mọc ra ôm chầu vào huyệt
        _ Hữu Hổ    :.......................phải.............................................
        _ minh đường : là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng khí mạch của huyệt kết.
                 Nơi bình dương ,đồng bằng , xem xét 1 huyệt kết rất khó. Tuy vậy , nạch ở đồng bằng ôn hòa hơn , phát chậm mà bền lâu , ít bị hung sát ; còn mạch ở vùng núi non thì khí thế hùng vỹ bày ra rất dễ trông thấy , vì vậy, vùng núi non mạch thường phát tướng võ , ít có phú quý giàu sang ( vì hiếm có Minh Đường Thủy Tụ ). Mạch ở vùng núi khí thế càng hùng vỹ thì hung sát càng dữ. Người nào được mạch ở vùng núi , nếu thành công thì đa sát , nếu thất bại thì gia tộc tử vong. Muốn không gặp Hung Sát thì đó phải là Chân Long đích thực , lại được 1 thầy PT cực giỏi xác định chính xác Tâm Huyệt mới được. Các nhà địa lý thường tìm mạch ở vùng núi hơn là mạch ở đồng bằng ( Có phải vì nó dễ xác định hơn chăng?! )
                Trở lại với vùng đất mà tác giả đề cập , suy đoán , đặt giả thuyết. NCd thấy có vài ý sau :
        1/. Tác giả lập luận rằng theo truyền thuyết , khi xưa Cao Biền xây thành Đại La bị sạt lỡ hoài nên trấn yểm. Trong PT , nếu là Âm phần , thì xương cốt người mất táng vào đó sẽ hấp thu Linh Khí của Long Mạch , rồi sau đó phần Linh Khí của vùng đất và của người mất đó hòa vào nhau. Luồng Khí này sẽ theo không khí mà đi tìm Khí của những người cùng huyết mạch với mình mà hòa quyện vào đó , sinh ra những con cháu thừa hưởng Long Khí của huyệt mạch đó. Tình trạng này người xưa gọi là " Đồng Khí tương cầu " , còn theo KH ngày nay thì như tác giả nói là lực cộng hưởng không sai.
                Với ngôi Dương Cơ , Long Khí tác động trực tiếp lên người sinh sống ở đó , mà qua sự tiến bộ của KHKT ngày nay , người ta chứng minh đó là do từ trường nơi vùng đất đó tác động đến từ trường của người
        sinh sống ở đó. Chính vì vậy , trong khoa PT mới nhận định " nhất Dương thắng thập Âm ". Một huyệt Dương sẽ phát thật nhanh , nếu hình thể hợp cách có thể phát vượng cả ngàn năm không suy suyễn , đó thường là cách cục của các Kinh Thành lớn. Còn Âm phần có tính cách Tiềm Di Mặc Hóa , có khi đến đời con hoặc đời cháu mới hưng phát. Nhưng nghịch lý thay, trong dân gian lại chú trọng mạch Âm hơn !
                Nếu nói Cao Biền cho trấn yểm nơi đó để xây thành Đại La , và để phá hoại Long Mạch thì có hơi khiên cưỡng. Bởi lúc ấy , Đường Trung Tông đã phong cho Cao Biền làm Đô Hộ Sứ An Nam. Thành Đại La gần như là Kinh Đô thời ấy , khí vận của nó ảnh hưởng với người cai trị , nếu Cao Biền trấn yểm để xây thành với mục đích xấu chẳng lẽ ông ta tự đào hố chôn mình sao? Là 1 bậc thầy tầm cỡ về PT , thiết nghĩ Cao Biền không thể làm việc tự di hại cho bản thân đến vậy.
                Nếu nói như nhà sử học Dương Trung Quốc nghe có vẻ hợp lý hơn. Chúng ta chỉ có thể suy đoán mục đích của kẻ trấn yểm qua tình hình , bối cảnh lịch sử thời ấy , không thế áp đặt cho nó cái tư tưởng suy nghĩ như chúng ta ngày nay. Vậy thì ở đây có 2 giả thuyết :
               _ một là , Cao Biền trấn yểm là để xây thành được, và việc xây thành này là để trấn áp Long Mạch đế vương ở An Nam chúng ta_ như nhà sử học DTQ đưa ra luận cứ trích ở đâu đó
               _ hai là , việc trấn yểm này không liên quan gì tới việc xây thành , nó chỉ thuần túy là trấn yểm nhánh Thanh Long , như tác giả bài viết lập luận.
                 Trước tiên NCd xin lạm bàn 1 tý về giả thuyết của tác giả bài viết đó trước , sau sẽ nói đến trường hợp của nhà sử học DTQ đưa ra.
                 Theo tác giả bài viết ấy thì Cao Biền đã dùng biện pháp trấn yểm kia để chận đứng đường đi của Long mạch. Thực tế , trong khoa PT , chỉ cần đào xẻ phạm vào LM là cũng đủ rồi , nếu không muốn cho người khác biết thì dùng cách trấn yểm ngầm như thế này. Nhưng hoàn toàn không thể vì chận đường Long Khí mà làm cả nhánh sông khô kiệt được. Xin đừng đem mọi việc gán ghép 1 cách thiếu căn cứ , trên lĩnh vực khoa học lẫn trên lĩnh vực Pt như thế. Khi Long Mạch bị đứt đoạn , thì nguồn Long Khí di chuyển từ Tổ Sơn không thể đến nơi kết huyệt theo đường đó nữa. Cho dù các thầy địa lý có tìm đến nơi kết huyệt , thiếu mất nhánh Thanh Long thì huyệt khó kết được. Khi tác giả so sánh các đường di chuyển của Khí , của Long trong lòng đất với sự dịch chuyển của kinh mạch trong cơ thể con người , thì đó là sự so sánh tương tự thôi. Khi ta chận 1 đoạn trên tay Long hoặc tay Hổ , thì chỉ đoạn sau của nó mất tác dụng , tạo thế mất cân bằng , khuyết Thanh Long hoặc khuyết Bạch Hổ để vùng đất đó khó kết huyệt , nhưng vùng đất đó vẫn có thể canh tác như ta thấy thực tế ở vùng đó bao lâu nay. Nhưng nếu là con người , 1 khi cánh tay bị phế do bị phong bế huyệt , thì nó chỉ là 1 phế vật , chỉ chờ bỏ đi thôi. Trở lại với LM , khi huyệt khó kết , thì nhánh Bạch Hổ khi ấy có chăng nữa , phỏng có ích gì? Việc có 1 số danh nhân , võ tướng gì gì , mà tác giả đề cập xuất thân từ nhánh Bạch Hổ , khiến NCD nghĩ đến 2 trường hợp sau :
        _  Một là , nơi bị trấn yểm không phải là Thanh Long của Huyệt trường mà chỉ là 1 Chi Long trên 1 Đại Long
        _  Hai là  , nơi bị trấn yểm là huyệt bàng nằm trên tay Long ( tức trên Thanh long của huyệt )
                    Nếu nơi này nằm trên tay Long , tức Thanh Long bị vô hiệu hóa , khi ấy huyệt có kết được cũng là khuyết 1 bên. Trong trước tác " Địa đạo diễn ca " của cụ TẢ AO có nói thế này :
                                      "  Long Hổ bằng sự chân tay
                                        Chẳng có tả hữu bằng ngay chẳng lành
                                  ......Vô Long như người mất chân
                                        Vô Hổ như đứa ở trần không tay ".
        như vậy đủ thấy tầm quan trọng của tay Long , tay Hổ trong 1 cuộc đất kết huyệt là thế nào rồi.Thiếu 1 cái nào cũng lệch lạc , như 1 kẻ tàn tật vậy. Nhưng không phải là như vậy rồi không có huyệt kết , bởi thế ở trên NCD luôn nói khó kết huyệt thôi. Nhưng theo NCD nghĩ, trường hợp này có thể là không kết huyệt. Vì sao lại nói vậy. Muốn hiểu vì sao , ta hãy cùng tìm hiểu xem nếu kết huyệt thì huyệt đó thế nào.  Trong tự nhiên thiên hình vạn trạng, cũng có khi huyệt kết mà khuyết 1 tay Long , hoặc khuyết 1 tay Hổ. Khi đó , cuộc đất này có sinh ra người tài nhưng tàn tật ! Vả lại , như cụ TẢ AO có ghi trong Địa đạo diễn ca :
                                         Thanh Long liên châu cao phong 
                                         Kim tinh , thổ phụ phát giòng trưởng nam 
                                         Con gái về bên Hổ sơn 
                                         Hổ cao thì phát , sơn bàn cho thông.
        chứng tỏ nhánh Bạch Hổ phát về nữ & các con trai thứ.
                     Đấy là điều mà NCD không nghe tác giả bài viết đó nhận xét về những người thành danh trên nhánh Bạch Hổ , nên NCD mới loại khả năng kết huyệt thiếu tay Long  là vì thế. Trở lại luận cứ trên , nếu đây là nơi Huyệt bàng trên nhánh Thanh Long , ta trộm nghĩ xem tại sao trước đây kẻ trấn yểm lại bỏ qua cho Huyệt bàng trên nhánh Bạch Hổ ?(vì theo như tác giả thì trên đất BH vẫn có người tài, vẫn có hưng vượng ). Đặt mình vào thời điểm đó , ta thấy rõ quan niệm xưa trọng nam khinh nữ rất rõ. Mà theo PT , " tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ " , " nam tả , nữ hữu ".  Có lẽ vì vậy mà kẻ trấn yểm đó bỏ qua cho huyệt bàng trên nhánh Bạch Hổ chăng ?  Nói thế thật khiên cưỡng , bởi ngoài phát cho nữ, nhánh BH còn phát cho cả con trai thứ , không thể nào kẻ trấn yểm lại bỏ sót 1 điều quan trọng như thế.  Tóm lại, theo NCD , đó không là 1 huyệt bàng hay 1 điểm nằm trên Thanh Long của Huyệt trường mà chính là  1 CHI LONG thuộc 1 Đại Long vậy. Chính vì thế mà nó không ảnh hưởng nhiều đến thế cuộc của nước ta trong lịch sử, vẫn cỏn rất nhiều vị vua ra đời , trong đó không thiếu các bậc Minh Quân . Nếu đây là Long Mạch Đại Địa thì có lẽ lịch sử nước ta đã đổi khác . Do đó , theo NCD , những ai quan tâm tới Kinh Đô Thăng Long ngàn năm văn vật của chúng ta xin hãy an tâm. Việc đem các vật cho là trấn yểm PT đó lên _ nếu đây đúng là trấn yểm _ theo NCD là 1 việc tốt , không hề có nguy hại gì. Việc xảy ra các hiện tượng lạ vào thời điểm đó , NCD sẽ giải thích ở bên dưới , chung với phần lý giải về 2 vấn đề :
                  1/. Thành Đại La là nơi xây lên để trấn yểm LM của thành Thăng Long.
                  2/. Các hình tượng trấn yểm đó mang ý nghĩa gì ?

                 
         
         

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 17:17:12 bởi ngươi co don >
        #4
          NCD 22.04.2007 14:34:28 (permalink)
                   Trước khi đi vào 2 vấn đề hôm trước nêu ra , NCD tôi xin góp vài ý kiến với tác giả bài viết đó như sau :
          1/. Cũng là người Việt nhiệt tình với quê hương , nhưng NCD tôi luôn tôn trọng sự thật , và đánh giá các vấn đề không chỉ đơn thuần trên tính mơ hồ , nghe nói hay tin hoàn toàn vào 1 thuyết nào đó. Chúng ta chỉ là những người hậu học , kế thừa và phát huy những gì ông cha ta đã truyền lại 1 cách có khoa học, hợp thời , hợp lý.Nghĩa là trong những thông tin chúng ta tiếp thu được từ các bậc tiền nhân , cũng phải suy gẫm lại , xem cái nào hợp thời , hợp lý , và xác định tính chân thật của thông tin dựa trên niên đại, bối cảnh thời đó.  Trên tinh thần xây dựng , NCD tôi xin góp vài lời như sau :
               Theo tác giả thì thuật PT của chúng ta tiếp thu từ nền văn hóa Vua Hùng , và các Vua Hùng trước khi mất nước đã cố tình làm sai lệch về các học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Điều này quả thật nghe rất lạ tai , nhưng thôi , cứ tạm tin là vậy. Nhưng nếu tác giả cho rằng vì các Vua Hùng cố tình làm sai lệch như vậy mà Cao Biền tính toán sai lầm về độ số thì e rằng có 1 sự nhầm lẫn to lớn ở đây.
               Trong lịch sử nước ta , dựa theo các tư liệu lịch sử thì từ trước đến nay nước ta chưa có nhân vật kiệt xuất nào về PT trước thời đại nhà LÝ cả. Chúng ta cứ tin như lời tác giả rằng quả thật vào đời các Vua Hùng , khoa PT đã thịnh ở nước chúng ta đi , thì việc đó cũng chẳng ăn nhập gì với việc kiến thức PT của Cao Biền cả. Xin tác giả lưu ý cho kỹ xem , khi nước ta chưa có bậc PT nổi danh nào thì ở TQ có thể kể ra rất nhiều rồi , xin liệt kê ra đây 1 số những người nổi tiếng đầu tiên trong giới PT của TQ :
          _ Đời nhà Thương đã có BÀN CANH , người xem tướng địa cho kinh đô nhà Ân , mở ra 1 triều đại kéo dài đến mấy trăm năm , và tạo ra nền văn hóa đồng thau rực rỡ.
          _ Đời nhà Chu có CÔNG LƯU xem tướng địa định đô cho nhà Chu đến đất Bân
                              có CỔ CÔNG ĐÀN PHỤ tướng địa đất Kỳ Sơn
                              có CHU CÔNG tướng địa Kinh Đô Lạc Ấp
          _ Đời Chiến Quốc có THƯ LÝ TỬ
          _ Đời Tần có CHU TIÊN ĐÀO , người soạn bộ sách Sưu Sơn Ký , trước tác gần như đầu tiên về PT 1 cách có qui mô
          _ Đời nhà Hán có THANH Ô TỬ soạn Táng Kinh...
          .......
               Có rất nhiều , rất nhiều nhà PT của TQ  đã nổi danh sớm như thế , chứng tỏ khoa PT của TQ có nguồn gốc căn cơ cội rễ lâu đời , thì tại sao Cao Biền phải dựa vào sách PT của các Vua Hùng lưu lại để sai lầm về độ số??? Những trước tác về PT của những nhà PT thời đó của TQ đến nay chỉ còn lại rất ít , nhưng nó được xem như 1 kho tàng vô giá cho môn KH này. Cả ngàn năm nay người Trung Hoa đã ứng dụng kiến thức PT lệch lạc do tổ tiên ta để lại chăng??? Hay chỉ mỗi mình Cao Biền sang An Nam học trộm thuật PT để rồi làm sai lệch???  Quả thật giả thuyết ấy của tác giả đưa ra khó mà tin được bởi tính logic của sự việc. Chúng ta là người VIỆT , dòng máu Việt đang chảy trong huyết quản chúng ta , nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự thật. Sự thật còn hơn vạn lời hùng biện mà !  NCD xin đưa ra 1 vấn đề hỏi thử tác giả ấy xem : Nếu tác giả nghĩ rằng mình là người Việt cần có những suy nghĩ tốt cho dân tộc Việt , vậy thì: Trong lịch sử , nước chúng ta bị người phương bắc xâm chiếm , cai trị thì chúng ta cho rằng họ ỷ mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé. Thế chúng ta xóa số cả 1 đất nước Chiêm Thành thì gọi là gì? Chúng ta lấn sang phần đất của Xiêm La thì gọi là gì?  Xin thưa với tác giả bài viết rằng : Đánh giá 1 vấn đề thuộc phương diện lịch sử , chúng ta hãy đặt mình vào thời điểm ấy xem quan điểm của thời ấy như thế nào đã. Ngày trước , vào thời phong kiến là thời tranh giành , mạnh đước yếu thua , cá lớn nuốt cá bé là xu thế của thời ấy. Hồi đó lám gì có tổ chức Liên Hợp Quốc như bây giờ để lên tiếng nói công bằng. Trong hoàn cảnh đó , nếu ta không giết đối thủ thì sẽ bị giết thôi. Do đó việc chúng ta xóa sổ nước Chiêm Thành có thể chấp nhận được , thì việc bị người phương bắc đôi khi đánh chiếm là điều tất yếu thôi. Qua đó chỉ càng chứng tỏ bản chất anh hùng , không chịu khất phục trước cường quyền của dân tộc ta thôi.
                  Trở lại vấn đề , tóm lại , NCD muốn nhắn nhủ với tác giả bài viết ấy xin hãy xem lại phần thông tin về việc " cổ thư chữ Hán sai lệch về độ số ". Nên chăng trả lại sự công bằng cho xuất xứ của khoa PT ?
          2/.  Vấn đề thứ hai mà NCD tôi muốn nói là vấn đề tác giả đặt giả thuyết về danh từ Kinh Đô THĂNG LONG của chúng ta. Theo tác giả thì cái tên này không phải xuất phát từ ý nghĩa " con Rồng bay lên " như trong dân gian truyền tụng, mà đó là "Khí Âm thăng lên". Tác giả còn cho rằng " Khí làm cho Kinh Đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ như bây giờ là Khí Âm _Địa Khí ". Muốn làm rõ hơn ý này , NCD xin nói sơ qua về việc đặt tên trong kiến trúc PT & Mạch phát triển Kinh Đô.
                Trong PT , các nhà PT xưa khi kiến thiết lên 1 tòa đình lâu, 1 hoa viên, 1 cây cầu, 1 con đường , 1 ao thả cá...vv...nói chung , tất cả kiến trúc mang tính cách tiềm ẩn ý nghĩa PT , họ luôn đặt cho kiến trúc ấy 1 cái tên.  Và việc đặt tên ấy cũng có 1 số qui định bất thành văn như sau :
          _ Trước tiên cái tên ấy khi đọc lên phải mang 1 ý nghĩa tốt lành ,khiến ai nghe cũng thấy thích , thấy hay _ dù có thể họ không hiểu hết ý nghĩa của cái tên ấy.
          _ Thứ đến là chiết tự của cái tên ấy ra ( đương nhiên theo chữ Hán phồn thể rồi ) số nét phải hợp với Ngũ Hành của kiến trúc ấy.
          _ Tiếp nữa là cái tên ấy tính tổng số nét của nó giải theo Dịch Lý phải có 1 luận đoán tốt . Cũng trên ý này mà người xưa dùng để đặt tên cho con cái , mong hậu vận của con cái được tốt đẹp.
          _ Cuối cùng là cái tên ấy phải phù hợp với tầng lớp giai cấp & không phạm húy.
                Trong PT , khi đặt tên cho 1 kiến trúc , các nhà Đại Sư PT phải lao tâm khổ tứ rất nhiều để tìm cái tên thích hợp.
                Theo truyền thuyết cổ đại , Rồng là 1 động vật thần kỳ , trưởng của loài có vảy , giỏi biến hóa , làm mây làm mưa , lợi cho vạn vật. Rồng có thể đi mây về gió , thoắt ẩn thoắt hiện. Rồng là con vật khổng lồ , nhấp nhô uốn khúc như dãy núi , người ta bèn ví núi với Rồng. Do đó , trong thuật PT mượn quan niệm về Rồng để chỉ ra tính Sinh động , biến hóa và nguồn năng lực mạnh mẽ của các Mạch Khí trong lòng đất . Long Mạch chính là ám chỉ Huyết Mạch của Rồng , từ này có nguồn gốc từ đây. Cũng vì những huyền thoại xung quanh con vật thần bí này , người ta tôn sùng nó ( chẳng phải ngay như dân tộc ta cũng tự hào rằng mình là con Rồng cháu Tiên đó sao?), và nó được các nhà thống trị xem như biểu tượng của sức mạnh , của quyền uy tối thượng của mình. Vì thế , các vật dụng dùng cho Vua ngày xưa hay thêm vào chữ Long như : Long xa ( xe của Vua đi ) , Long ỷ ( ghế của Vua ngồi ) , Long sàng ( giường Vua nằm ).....vv...
                 Qua những tản mạn quanh chuyện Rồng , ta có thể thấy vì sao có chữ Long trong tên kinh đô nước ta. Về chử Thăng , trong chữ Hán có đến 5 chữ Thăng , trong đó có 3 chữ với hàm ý " bay lên ". Trong 3 chữ đó , chữ Thăng 9 nét có bộ THỔ ( đất đai) , và chữ Thăng có 8 nét có chữ NHẬT trên chữ THĂNG là thích hợp hơn hết. Vì sao? Chữ LONG ở đây là Rồng là chữ Long có 16 nét. NCD xin trích dẫn ra đây 2 bài thơ luận đoán dựa theo số nét của 2 chữ Thăng Long để các anh chị , các bạn tham khảo xem :
          _ Nếu chữ Thăng có 8 nét , thì tổng cộng là 24 nét :
                                
                                    Cẩm tú tiền trình
                                    Tu kháo tự lực
                                    Đa dụng trí mưu
                                    Năng thành đại khí
          _ Nếu chữ Thăng có 9 nét thì tổng cộng là 25 nét :
           
                                    Thiên thời địa lợi
                                    Chi khiếm nhân hòa
                                    Giảng tín tu mục
                                    Tức khả thành công.
                    NCD tôi chưa được may mắn đặt chân ra đất Thần Kinh ngàn năm văn vật , nên không thể biết Kinh Thành thuộc Ngũ Hành gì , chỉ xin luận về ý nghĩa , số nét chữ thôi vậy. Về số nét thì đã thích hợp rồi , và như vậy thì nó phải đi liền với hàm ý : " Con Rồng bay lên ". Như ta đã biết những truyền thuyết về loài Rồng , tính của nó vốn linh động , chuyên làm mưa làm gió , nên chỉ thích hợp trên cao mặc sức vẫy vùng , không thích hợp nơi ao tù nước đọng. Rồng 1 khi thoát lên mây cao sẽ thỏa sức tung hoành , như vậy mới thể hiện hết Thần uy của nó , cũng như chí Quân Vương" Đại triển hùng đồ " mở mang bờ cõi. Do đó cái tên THĂNG LONG như ý nghĩa trước nay ta vẫn hiểu, là xây dựng trên cái lý thể hiện Quyền uy tối thượng của nhà Vua ,thể hiện cái Hùng tâm tráng chí của cả 1 dân tộc luôn vươn lên cao tiến triển không ngừng, thể hiện mơ ước 1 đất nước vươn lên tự chủ sau thời gian dài bị đô hộ.  Câu chuyện mà LÝ THÁI TỔ _ LÝ CÔNG UẨN đưa ra về giấc mơ chỉ là đánh vào tâm lý người dân sùng bái thần thánh , mê tín dị đoan. NGÀI ám thị cho người dân biết rằng : Kinh Đô này là Trời ban cho triều đại nhà Lý , mượn ý Trời để quy kết lòng dân về 1 mối , 1 chính sách làm an lòng dân , giúp người dân có thêm lòng tin để đoàn kết chống giặc mỗi khi có giặc ngoại xâm. Khi muôn triệu người dân đều tin vào câu chuyện đó, lời từ miệng người dân phát ra mang theo 1 từ trường , số đông người tạo thành 1 năng lực vô hình , 1 sóng từ mang cùng 1 thông điệp chuyển tải vào vũ trụ , và nhân được sự phản hồi từ vũ trụ. Bằng chứng là sau thời đại các Vua Hùng , các triều đại đều không truyền đến 3 đời , nhưng khi Kinh Đô dời về Thăng Long thì lần đầu tiên nước ta thái bình thịnh thế suốt mấy trăm năm dài.Cũng trong thời đại này , nước ta đã mở mang bờ cõi dài xuống phương Nam , chiếm thêm được PHẬT THỆ ( nay là địa bàn Thừa Thiên) , rồi tiếp đến là 3 châu Địa lý-Ma linh-Bố chánh ( nay thuộc Quảng Bình-Quảng Trị ). Tuy sau 200 năm, nhà Lý bị mất về tay nhà Trần , nhưng dân tộc ta vẫn là tự chủ. Đấy không phải là 1 minh chứng hùng hồn ư?
                  Cũng trên kế sách an lòng dân này , hơn 400 năm sau Đại Quân Sư  NGUYỄN TRÃI của chúng ta đã dùng mỡ viết lên lá cây 2 câu " LÊ LỢI vi Quân , NGUYỄN TRÃI vi Thần " , kiến theo ăn mỡ đục khoét lá cây làm cho lá cây như có sẵn 2 câu ấy. Kết quả là lòng dân tin rằng Ý Trời muốn LÊ LỢI làm Vua , lòng dân theo về , muôn người như một , nhờ vậy mà nước ta lại 1 lần nữa giành được độc lập.
                  Trở lại vấn đề đặt tên Kinh Đô là Thăng Long , chúng ta đã có thể hiểu rõ về thâm ý dựng nên câu chuyện mang tính thần thoại của LÝ THÁI TỔ , thì xin đừng vì câu chuyện hư cấu với dụng ý tốt này mà bỏ đi ý nghĩa tốt đẹp thực sự của Kinh Đô Thăng Long !
                  Việc tác giả cho rằng Kinh Đô Thăng Long là Mạch Âm có 1 sự nhầm lẫn rất lớn trong kiến thức PT. Trong PT quả thật có Mạch Dương , Mạch Âm đấy, nhưng hiểu như tác giả là có 1 sai biệt rất rõ. Mạch đi trên vùng núi non là Mạch Âm vì đi chìm xuống sâu , Mạch đi dưới đồng bằng là Mạch Dương vì nổi lên trên. Đất chôn mồ mã gọi là Mạch Âm phần . Đất xây nhà , lập doanh trại, lập Đế Đô là đất Dương cơ. Trong PT có câu " Nhất Dương thắng thập Âm ". Vì sao nói vậy thì trong phần trước NCd tôi đã nói. Mạch Dương thường hiện ra với khí thế bao la , có thể xuất phát từ 1 Tổ Sơn , nhưng khi đến nơi kết huyệt để lập Đế Đô thì đó phải là vùng đồng bằng. Khi ấy các mạch núi xa xa , sông ngòi uốn lượn trước mặt tạo nên khung cảnh hùng vỹ , 1 khí thế không thể thiếu của các Kinh Đô. Vào thời  Vua LÊ- Chúa TRỊNH , các nhà PT thời ấy đem " Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự " ra mà mổ xẻ , phân tích , đi tìm các Long Mạch mà Cao Biền đã ghi trong đó. Và thời bấy giờ đã dấy lên 1 lán sóng tranh cãi về các học thuyết PT ,và cũng sau thời điểm ấy Cụ TẢ AO được giới PT nước ta tôn xưng là Ông THÁNH Địa Lý. Chính Cụ TẢ Ao đã nhận xét rằng cuộc đất THĂNG LONG là cuộc đất lớn phát về Mạch Dương.
                  Phải nói Kinh Đô THĂNG LONG như mở ra 1 trang sử mới cho dân tộc ta sau 1 thời gian dài bị thống trị , như kiêu hùng hơn, thịnh vượng hơn. Có lẽ cái tên mang ý nghĩa " Con Rồng bay lên " như hàng ngàn năm qua dân ta nghĩ vẫn tốt hơn , mang lại nhiều may mắn hơn cho đất nước ta vậy. Qua những dẫn chứng trên , ngoài việc chứng minh cái tên Thăng Long mang ý nghĩa ấy , NCD tôi còn muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩ : Trước triều đại nhà LÝ , nước ta chưa có bậc Đại Sư PT nào tầm cỡ như Quốc Sư VẠN HẠNH _ người đã tìm ra cuộc đất cho Kinh Đô Thăng Long của chúng ta.
                 Vài ý nhỏ gởi đến tác giả bài viết với tính cách góp ý xây dựng ,mong bỏ quá cho.
                 
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2007 14:44:04 bởi ngươi co don >
          #5
            NCD 23.04.2007 13:53:54 (permalink)
                       

            Như đã nói ở phần trước , khi bàn về cái tên Kinh Đô Thăng Long , xét đến khía cạnh tốt đẹp của nước ta từ sau khi dời đô về đây , có lẽ không cần phải giải thích gì thêm chắc các anh chị , các bạn cũng thấy rõ hoàn toàn không có sự trấn yểm gì ảnh hưởng tới Kinh Thành Thăng Long cả. Bởi triều đại nhà Lý bắt đầu từ Lý Thái Tổ , cho đến đời Lý Chiêu Hoàng chuyển sang tay nhà Trần cũng có đến 218 năm. Để các quý vị không phải thắc mắc ,cho rằng 218 năm vẫn là ít so với Trung Hoa , NCd xin dẫn chứng ra đây các triều đại của Trung Quốc từ sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên :

            _ Đời Tây Hán : Năm 202 trước Công Nguyên , Lưu Bang lập nên triều đại nhà Hán , đến năm 8 sau Công Nguyên bị Vương Mãng lật đổ , được 210 năm.

            _ Đời Đông Hán : Năm 25 , Lưu Tú giành lại quyền cai trị , đến năm 220 bị Tào Phi chiếm ngôi nhà Hán , đời này chỉ kéo dài 195 năm nhưng còn tệ hại hơn , nửa đời sau , hoạn quan chuyên quyền , loạn lạc khắp nơi.
                   
            Bỏ qua thời Tam Quốc phân tranh , ta xét đời kế tiếp :

            _ Đời Tây Tấn : Tư Mã Viêm lật đổ nhà Ngụy xưng Đế năm 265 , nhưng tính thật ra đến năm 280 mới diệt đước Ngô thống nhất đất nước. Từ mốc 280 đến năm 316 bị Hung Nô tiêu diệt , triều đại Tây Hán chỉ được....36 năm.

            _ Đời Đông Tấn  :  Năm 317 Tư Mã Duệ Kiến lập lại triều Tấn , gọi là Đông Tấn , đến năm 420 bị Lưu Dực giết , chỉ được 103 năm.
                   
            Kế đến là loạn Nam Bắc triều, ta bỏ qua , kế tiếp :

            _ Đời Tùy :  Năm 581 , Dương Kiên lật đổ Bắc Chu xưng Đế , đến năm 618 , Tùy Dạng Đế Dương Quảng bị giết, nhà Tùy chỉ vỏn vẹn.....37 năm

            _ Đời Đường :  Năm 618 , Lý Uyên xưng Đế , đến năm 907 , nhà Đường bị Hậu Lương tiêu diệt , được 289 năm.

            _ Đời Bắc Tống : Năm 960 , Triệu Khuông Dẫn xưng Đế , đến năm 1126 Bắc Tống bị Kim tiêu diệt , được 166 năm

            _ Đời Nam Tống : Tống Cao Tông lập ra Nam Tống năm 1127 , đến năm 1279 bị nhà Nguyên tiêu diệt , được 152 năm.

            _ Đời nhà Nguyên : Năm 1206 , Thiết Mộc Chân làm Thành Cát Tư Hãn , cho đến năm 1368 thì nhà Nguyên bị tiêu diệt , được 162 năm

            _ Đời nhà Minh :  Chu Nguyên Chương kiến lập triều Minh năm 1368 , đến năm 1644 thì bị nhà Thanh tiêu diệt , được 276 năm

            _ Đời nhà Thanh :  Năm 1636 , Hoàng Thái Cực xưng Đế , nhưng thực tế đến năm 1644 mới chiếm trọn Trung Nguyên. Đến năm 1911 , Cách Mạng Tân Hợi đã chấm dứt triều đại PK của Trung Quốc , nhà Thanh được 267 năm.

            Như vậy , ta thấy rất rõ hiệu quả tốt từ việc dời đô về Kinh Thành Thăng Long  , triều đại nhà Lý tồn tại 1 thời gian rất dài so với đa số triều đại của Trung Quốc. Trên thế giới ngày nay , không chỉ riêng Châu Á chúng ta , mà đến cả các nước Âu , Mỹ cũng đã xác nhận tính khoa học của thuật PT , và đa số đều ngầm xem Trung Quốc là cái nôi phát nguồn của thuật PT. Thế thì ở 1 đất nước mà thuật Pt đã đạt đến trình độ tạo được tiếng tăm trên thế giới , mà các triều đại Vua chúa của họ đa số không kéo dài bằng triều đại nhà Lý nước ta , vậy thử hỏi Kinh Thành Thăng Long của chúng ta như vậy là PT tốt hay xấu đây? Có lẽ câu hỏi này tự trong thâm tâm của tất cả quý vị đã có câu trả lời rồi vậy.
                       
            Như vậy thông tin việc Cao Biền xây thành Đại La để trấn yểm Long Mạch vùng Hà Nội là thế nào? Điều này có 2 cách giải thích :

            _ Một là , việc Cao Biền xây thành Đại La để trấn yểm Long Mạch ở Hà Nội chỉ là truyền thuyết. Nhưng giả thuyết này ít có khả năng. Vì sao? Bởi qua hiệu quả tốt của Kinh Thành như chúng ta đã thấy thì Long Mạch phát Dương vùng Thăng Long không thể nào Cao Biền bỏ qua. Cho nên , mới dẫn đến ý thứ 2 sau đây.

            _ Hai là , Cao Biền có trấn yểm thật , nhưng khi xây dựng Kinh Thành Thăng Long , các Đại Sư PT nước ta thời ấy _ mà dẫn đầu là Quốc Sư Vạn Hạnh , người có công tìm ra Long Mạch cho đất Thăng Long _ đã hóa giải đi rồi.

            Tóm lại , theo NCD tôi , thì việc trấn yểm gì đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến Kinh Thành Thăng Long của chúng ta cả.  Xin quý vị nào có lòng yêu mến Kinh Đô ngàn năm văn hiến hãy an tâm gác chân lên trán mà ăn no ngủ kỹ, à quên , gác tay lên trán chứ 
                       
            Đến đây sẽ có người hỏi gai gốc " thế thì PT bảo các đất Kinh Đô phát dương quang đại cả ngàn năm , sao mới vài trăm năm đã thay triều hoán vị? Như thế không phải là PT không đáng tin sao? ". Đây là 1 câu hỏi rất thú vị , mà nhiều lần bạn bè, thân chủ của NCd hỏi , và NCD chỉ kể cho họ nghe 1 câu chuyện có thật trên đất nước VN mình , mà tình cờ NCd xem được. Câu chuyện như sau :
                   
            Vào đầu thế kỷ 20 , có nhà họ LỤC , cất cái quán nhỏ giửa đéo Cù Mông , ngay trên Quốc lộ số I, chuyên bàn nước cho khách bộ hành. Quán ấy mặt quay về biển Đông , lưng dựa vào vách núi bên kia  , phía Bắc là 1 vực sâu thăm thẳm.... Khách uống nước trả tiền hoắc không cũng được , nhưng trong mỗi bát nước ông chủ bỏ vào đó năm ba hạt trấu ( vỏ lúa ) . Nhiều người lấy làm lạ hỏi , nhưng ông chỉ cười và không mấy khi trả lời. Một hôm , có 1 thầy địa lỳ người Quãng Ngãi dừng chân uống nước nơi ấy. Qua 1 lúc quan sát địa thế ,thầy địa lý gọi ông chủ quán họ LỤC nói :
                   _ Đây mới thực là cảnh phát quan , phát phú , ít nhất cũng 3 đời. Mặt trước là đỉnh núi nhỏ che mặt biển , đáng gọi là Tiền Án. Mặt sau hình như Ngọa Long , Phục Hổ , lại có 1 ngòi nước nhỏ cháy qua. Chỉ tiếc là bên hông trái quán này lại bị hố sâu làm cho cuộc đất bị hỏng mất , thật đáng tiếc....
            Lão chủ quán chỉ cười mà không nói gì. Thầy địa lý lại hỏi tiếp :
                   _ Ông chủ quán cứ mỗi bát nước lại bỏ năm ba vỏ trấu làm cho khàch uống nước nhờn nhợn... Tại sao ông  phải làm chuyện đó?
                   Ông chủ quán cười , nói :
                   _ Thường khách qua đường rất khát , gặp nước thì uống 1 hơi , tôi sợ họ bị nghẹn nước nên bỏ vào 1 chút trấu để họ uống chậm lại thôi.
                   Thầy địa lý gật đầu rồi bỏ đi.
            Mười năm sau , thầy địa lý ghé lại quán đó , thấy lão chủ quán họ LỤc vẫn tiếp tục bán nước , nhưng lạ thay , cái hố sâu kia bấy giờ đã được thiên nhiên tự vun đất lên cao bằng mặt. Thầy địa lý cầm tay ông chủ quán nói :
                   _ Trong 3 năm nữa ông sẽ hưởng được lợi của cuộc đất phát này.
            Đến nay , người cháu nội ông cụ họ LỤC ấy vẫn còn nức tiếng giàu sang trong vùng đó.

            Cho hay muôn sự ở đời không qua cái ĐỨC , chính cái TÂM của ông chủ quán THIỆN lương nên đã khiến xui thiên nhiên đãi ngộ cho ông vậy. Hành động bỏ vỏ trấu của ông vào bát nước thật đúng với câu nói của ông bà xưa răn dạy :
                                                           
            Vật vị THIỆN tiểu nhi bất tác
            Vật vị ÁC tiểu nhi bất hành

                  
            Xin tạm dịch thế này :  Chớ thấy việc THIỆN nhỏ mà không làm ; chớ thấy điều ÁC nhỏ mà làm.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2007 15:45:14 bởi NuHiepDeThuong >
            #6
              NCD 23.04.2007 19:24:24 (permalink)
                   Khi đã xác định việc đó không có ảnh hưởng gì tới Kinh Thành của chúng ta , thì việc tìm hiểu các vật trấn yểm này chỉ trên tính cách cùng nhau nghiên cứu thôi. Bởi 2 nguyên do :
              _ Một là NCd tôi chưa thấy được hình chụp hiện trạng các vật mà tác giả cho rằng là vật trấn yểm PT gì đó , hay ít ra cũng là 1 sự mô tả chi tiết về cách sắp xếp của các vật ấy lúc còn nguyên trạng.
              _ Hai là , bản thân NCD không phải là 1 người sinh ra , lớn lên hay làm việc trên đất Bắc , nên về địa hình địa lý gì của miền Bắc NCD cũng không nắm rõ. Phải biết các Mạch núi ở ngoài ấy tập trung khu vực nào , hướng chiều nào , phát nguyên của Sơn Long ở đâu? của Thủy Long ở đâu? của Sa Long ở đâu?.... Còn rất nhiều điều chưa biết , nên rất khó đoán định được mục tiêu của người trấn yểm kia là nhằm vào việc gì.
              Dù không nắm rõ mục tiêu kia , nhưng chắc chắn vẫn không ảnh hưởng tới Thủ Đô Hà Nội của chúng ta rồi. Và cũng có thể do cái tâm của kẻ trấn yểm kia không tốt , muốn hũy đi Linh Khí của Thiên Địa nên khiến xui chỉ trấn nhằm những mạch nhỏ thôi cũng không chừng? Bởi như Cụ TẢ AO đã dạy :
                                                            Đức Nhân vốn ở cả mình
                                                            Trước là tích Đức sau là tầm Long.
              Hay như sách  " Hồng Vũ Cấm Thư " của Dương Quân Tùng đời Đường cũng viết : " Tiên tích Đức nhi hậu tầm Long ".
              Học cao , được truyền thụ chân thư chưa đủ , kẻ muốn làm 1 nhà Địa lý còn phải có Đức , có Nhân. Vì bước vào con đường Địa lý là bước vào con đường hành Đạo , phải luyện Nhân Nghĩa  trước đã. Khi 1 kẻ đã có tâm trấn yểm các Long Mạch tốt , thì bản thân kẻ ấy cũng khó tìm ra các Đại Long Mạch mà trấn yểm , nếu có chăng thì cũng khiến xui có sự sai lệch nào đó.  Trở lại với vấn đề nơi "bị trấn yểm " đó , do chưa đủ lượng thông tin cần thiết để đoán định sự việc , NCD tôi xin chỉ đưa ra 1 giả thuyết về cách mà người đó dùng để  trấn yểm.  Muốn bàn về các vật trấn yểm đó , trước tiên NCD tôi xin nói sơ qua về khoa Chiêm Tinh dựa trên năm tháng ngày giờ. Bởi giả thuyết này của NCD tôi_ dựa trên lượng thông tin của bài viết kia _ có liên quan đến khoa này vậy.
              Như đã nói ở các phần trước , Sơn hà đại địa bao la vạn tượng , Long Mạch nhiều vô số nhưng đúng thực sự là Chân Long thì rất hiếm , mà cuộc đất Chân Long Đại Địa càng hiếm hơn. Tìm được Huyệt địa rồi , Phân kim , Lập hướng rồi , còn 1 điều tối quan trọng không kém đó là chọn năm tháng ngày giờ thật chính xác để an táng, hay khởi công động Thổ. Khi chọn ngày giờ sai lệch , không những không được phước mà còn lập tức chuốc họa vào thân ngay. Trong các sách PT ngày nay , gần như ít khi đề cập đến vấn đề này , có lẽ các thầy ( xin đừng nói lái lại nhé !)  giữ lại làm yếu quyết riêng , cũng có thể chính các thầy ấy cũng xem qua loa , không đánh giá đúng mức sự nguy hiểm của việc chọn sai ngày giờ. Thời gian sau này , NCD thấy có 1 vài cuốn sách theo trường phái Huyền Không Học, là có nhắc đến việc ảnh hưởng của năm tháng ngày giờ lên Trạch Mộ , nhưng vẫn chưa nói rõ lắm. Khoa Chiêm Tinh này có nguồn gốc rất lâu đời , không biết ở các xứ Âu , Mỹ thế nào , riêng ở Á Đông ta thì nó đã xuất hiện khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Nhưng lúc ấy , các nhà chiêm tinh xem thiên văn chỉ dừng ở mức áp dụng vào Nông nghiệp thôi. Các nhà chiêm tinh dựa trên sự vận chuyển của các vì sao trên Trời mà đoán định mọi việc. Vũ trụ vần xoay , tinh tú luân chuyển đã tác động đến con người , đến đất đai. Các nhà khoa học ngày nay cũng đã chứng minh được mỗi 1 tinh tú trong Thái Dương Hệ đều có sự tác động , ảnh hưởng lên hệ sinh thái trên Trái Đất chúng ta. Tỷ những ngày trăng tròn thường ảnh hưởng đến hệ thần kinh con người ( nhất là các người mắc bệnh này ) , hay tác động đến chu kỳ rụng trứng của phụ nữ , hoặc là tác động đến Thủy triều....  Mỗi khi các tinh tú xoay đi nơi khác thì lực tương tác giửa chúng với nhau , giửa chúng với Trái Đất , giửa chúng với mọi sinh vật trên Trái Đất cũng khác đi , và chúng theo 1 qui luật nhất định. Thế mà , các nhà Pt từ ngàn năm trước đã nhận ra những chu kỳ họa phúc của con người , của các hình thế đất đai do sự thay đổi của các vì sao ấy. Dựa trên những kinh nghiệm thực tế nhìn thấy , họ đã đưa ra những luận cứ về chọn năm tháng ngày giờ cho từng công việc , sao cho thích hợp với Vận khí của từng người , từng hình thể đất đai. Trên đà phát triển đó , tương truyền vào đời Tấn , Quách Phác đã đưa ra thuyết Cổ Dịch Huyền Không Học cho môn Địa lý , nhưng chưa thịnh lắm. Rồi đến Dương Quân Tùng đời Đường  ; Ngô Cảnh Loan đời Tống ( là con trai của Ngô Khắc Thành _ học trò của Trần Đoàn lão tổ ) ; Tưởng Đại Hồng cuối đời Minh. Nhưng mãi đến cuối đời Thanh mới được Thẩm Trúc Nhưng tiên sinh phát dương quang đại khoa này. và lan truyền rộng ra công chúng. Phải nói rộng thêm 1 tý về trường phái này , chính vì NCD tôi muốn chỉ ra rằng  : ngoài vấn đề Đức độ , trên lĩnh vực PT , chỉ có phái này mới giải thích nổi sự vượng suy , thành bại cũng của 1 khu đất , 1 ngôi nhà , 1 triều đại....

                          Theo trường phái Huyền Không Học , tất cả nhà cửa , mộ phần lập sơn định hướng, cho dù có được Vượng Sơn , Vượng Hướng , hay Thượng Sơn Hạ Thủy....vv...gì đi nữa thì cũng có giới hạn của nó( các điều cơ bản về phái Huyền Không Học này , NCD tôi sẽ lần lượt trình bày trong phần PT học sau ). Khi thời hạn đó qua đi , tác dụng đó sẽ hết, dù tốt hay xấu cũng thế. Tồi đa của 1 cặp Sơn Hướng đối nhau đó là 180 năm.
              Thí dụ : Nhâm sơn Bính hướng tối đa vượng được 80 năm
                          Bính sơn Nhâm hướng tối đa vượng được 100 năm
                          cộng lại cho cặp đối nhau này là 180 năm là thế.
                        Khoa Huyền Không Học gọi đây là Địa Vận Tam Nguyên nhỏ ( mỗi 1 nguyên là 60 năm ). Nhưng nếu : Địa mạch kéo dài liên miên bất tận, khí thế bao la hùng vỹ , trong 8 cung có đủ 2 cung Thành Môn hợp cách 2 bên tả hữu
              lại là toàn cục hợp Thiên Tâm Thập Đạo , thì Địa Vận của nó có thể kéo dài đến 540 năm hoặc 1080 năm. Phái Huyền Không Học gọi đây là Địa Vận Tam Nguyên lớn.
                        Cũng theo gốc Chiêm tinh này , nhiều môn học thuật khác cũng chịu ảnh hưởng , như : Bốc số , Dịch lý , Y lý , Vu thuật và Kỳ Môn Thuật Số. Khoa bốc số tức là bói toán , dựa trên năm tháng ngày giờ sinh của con người mà lập Tử vi ; dựa trên năm tháng ngày giờ sinh mà cân xương tính số ( NCD tôi sẽ gởi 1 bài chuyên về vấn đề này vào 1 dịp khác ).... Khoa Dịch lý thì dựa trên năm tháng ngày giờ để gieo quẻ , xem các hào động biến, sinh khắc ,xem các lục thân biến đổi,phi phục thần thế nào....vv..Nhưng ngày nay , các nhà Dịch học còn tiến 1 bước dài hơn các tiền nhân , khi họ đã vận dụng được PHÉP DỊCH. Thuật ngữ này nghe có vẻ lạ tai , nhưng hiểu được & vận dụng được thì đúng là PHÉP thật đấy ! Dụng PHÉP DỊCH , người ta như có quyền năng siêu nhiên vậy(đề tài này sẽ có dịp NCD tôi trở lại sau trong box KHHB )
              ...Trong y lý , Tây y không biết nghĩ sao , nhưng với Đông y , có 1 số huyệt được coi là TỬ HUYỆT nhưng không cố định chỗ mà lại chạy theo giờ , người ta gọi đấy là Nhâm Thần Thời Huyệt. Và thường thì các huyệt này rất hiếm người tìm được. Vốn nó bắt nguồn từ việc các võ sư xưa luyện phép Thiết Bố Sam , đao gươm bất xâm , nhưng luôn tồn tại 1 Tử Huyệt không thể lấp được. Dần dần , các bậc võ sư thượng thừa tím cách khắc phục , thân thể gần như Kim Cương bất hoại vậy. Nhưng họ không biết ngay từ ngàn xưa đã có Bí pháp tìm Tử huyệt theo giờ kia. Do Bí pháp này rất nguy hiểm,nên nó ít được truyền thụ ra , dần dà đã thất truyền là vì vậy.
                       Vu thuật là trường phái của những cô cậu đồng cốt , những pháp sư phù thủy thời xưa. Họ lựa chọn năm tháng ngày giờ tốt để lập đàn làm phép sai Thần khiến Quỷ. Các loại trấn yểm tà thuật cũng thuộc trường phái này.
                       1 Bí pháp trong phép tàng hình của Vu thuật ghi lại thế này : Lấy 2 mắt của con chó mực phơi trong bóng mát cho thật khô. Dùng bùa họa trên mắt chó liên tục trong 21 đêm. May 1 túi lụa bỏ vào. Muốn vào nhà ai hãy lấy đễ vào tay , hướng về phía cửa nhà người đó niệm chú , khi đền gần sẽ không ai phát hiện ra (?! ). Cũng may là chữ bùa kia không được lan truyền ra rộng rãi , nếu không NCD tôi không tưởng tượng nổi sẽ xảy ra sự việc gì nữa?
                       Đó là 1 việc không biết thực hư đúng sai , NCD tôi không dám phê phán , có 1 việc mà NCD tôi từng làm được , và tôi nghĩ ai cũng có thể làm được. Đó là Phép Lỗ Ban chữa Hóc Xương tôi đã đăng trong bài Mẹo vặt.Cái này thì bản thân NCD chịu , không thể giải thích theo KH nổi rồi , có quý vị nào giải thích được xin cho ý kiến vậy.
                    Bởi nói đến việc trấn yểm không thể không bàn đến 1 khía cạnh của khoa Vu Thuật này , đó là các Bùa Chú. Đấy là các hình vẽ ngoằn ngoèo mang tính tượng hình ( thí dụ như 1 loại Bùa thanh tâm an thần của ngày xưa bao gồm 5 vòng xoắn theo chiều kim đồng hồ , rồi 5 vòng theo chiều ngược lại , và kết thúc bằng 1 nét ngoéo lại. Chính là lấy hình tượng các vòng Dương , Âm và Thái Cực vậy ). Còn các câu chú chúng ta nghe thấy trúc trắc nhưng đó chỉ là những câu Kinh nhà Phật thôi , phái này thì lấy theo tiếng Phạn, phái kia thì lấy theo tiếng Bali, phái nọ thì theo tiếng Hán như chúng ta vẫn đọc kinh....Ngày xưa các thầy PT buộc phải biết qua các bùa chú này , bởi trong thuật PT xưa có 1 số Pháp môn thượng thừa_ mà ngày nay chỉ còn truyền miệng kể nhau nghe thôi_phải dùng đến bùa chú mới được.Các Pháp môn thất truyền này có rất nhiều điều gần như siêu nhiên vậy , chẳng hạn :
              _ Dẫn Long nhập thể : Người thầy dùng Bùa chú trục Long Khí nơi LM chuyển thẳng vào 1 mộ huyệt nào đó.
              _ Di ảnh hóan hình đại pháp : Dùng trong các trường hợp đối đầu PT giửa 2 thầy địa lý , dùng để che mắt đối phương cách cục mà mình bố trí vậy.
              _ Dẫn Long thăng thiên đại pháp : Đây là 1 cách rất ác , bởi nó thường làm cho cả 1 vùng đất trở nên khô cằn vì....Long đã thoát đi !
              _ Đẩu chuyển tinh di : Dùng trong trường hợp các thầy địa lý muốn hoán đổi vận mạng cho 1 người , hay thay triều đổi vận. Cách này thường khó thánh bởi được coi là nghịch Thiên hành sự( Thuận Thiên giả tồn , nghịch Thiên giả vong ). Chỉ thành khi sự việc đó là tất yếu phải xảy ra , và người thầy đó chỉ thúc đẩy nó đi nhanh hơn thôi ( nước đang ròng mà bạn muốn lớn có chăng là phép Tiên?! )
              ...Còn rất nhiều Pháp môn nay đã thất truyền,và các phép này chỉ các bậc Đại Sư PT thượng thừa mới làm nổi.
                       Cuối cùng là NCD tôi muốn nhắc đến Kỳ Môn Độn Giáp. Môn này có lịch sử rất lâu đời , và Phong Hậu được xem là thủy tổ của môn tượng số Trung Hoa.Ông ta là 1 vị tướng tài đã làm ra 12 thiên binh pháp , 12 quyển Cô Hư lập thành Độn Giáp. Đến đời Chu có Khương Tử Nha _ người giúp nhà Chu dựng nên cơ nghiệp mấy trăm năm. Ông thấu hiểu binh pháp , uyên thâm về Dịch Lý , làm ra sách về Kỳ Môn. Đến đời nhà Hán có Trương Lương , được Xích Tòng Tử truyền cho Bộ Thái Ất và binh thư ,nhờ vậy mà giúp nhà Hán gầy dựng cơ nghiệp cũng mấy trăm năm. Đời Tam Quốc phân tranh , có Gia Cát Lượng , ai đã từng xem qua bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa ắt khó quên vị quân sư tài ba này. Ông là người ứng dụng thành công nhất Thái Ất & Kỳ Môn Độn Giáp , binh thơ đồ trận trong thời ấy( sẽ có người thắc mắc ông thấu hiểu môn này vì sao không giúp Lưu Bị thành công được? Xin thưa trước khi ra khỏi thảo lư thì Khổng Minh đã biết trước thế cuộc thiên hạ , nhưng vì cảm cái tình của Lưu Bị " tam cố thảo lư " mà ông ra giúp thôi. Thế mới biết cái tình của người xưa trong đạo xử thế đáng quý làm sao ! ).  Ở nước ta , người đầu tiên áp dụng Thái Ất Kỳ Môn thành công và để lại tiếng tăm đến ngày nay có lẽ không ai qua Cụ Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM . Ông gần như được xem là nhà bác học đa tài của lịch sử cận đại VN. Ông nổi tiếng không chỉ vào kiến thức uyên bác mà còn nhờ vào những bài Sấm Tiên Tri _ mà người đời quen gọi là Sấm Trạng Trình .
                     Trong các giai thoại về ông , NCD còn nhớ lúc đi học được nghe các thầy cô truyền lại rằng : Trịnh Kiểm là con rễ của Nguyễn Kim , đã soán ngôi ông. Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim , sợ bị Trịnh kiểm hại mình , nghe tiếng cụ Trạng Trình nên đến xin vấn kế.
              Nghe trình bày xong, Cụ không nói 1 lời , chỉ chấm tay vào chung trà viết lên bàn mấy chữ , rồi chắp tay sau lưng bỏ vào nhà trong. Tò mò , Nguyễn Hoàng đến xem chỉ thây1 câu " Hoành Sơn nhất đáy van đại dung thân ". Nguyễn Hoàng về xin Trịnh Kiểm cho mình vào Nam , nơi dãy Hoành Sơn như Cụ ngầm ám chỉ. Thuở ấy , nơi đó còn rất hoang vu , nên Trịnh Kiểm đã đồng ý ngay. Và đúng như Cụ đã tiên liệu được , vùng đất ấy sau khi Nguyễn Hoàng vào khai phá đã trở nên trù phú, dân cư ngày 1 đông , quả nhiên là chốn dung thân , kiến cơ lập nghiệp vậy.
                      Một giai thoại nữa về Cụ :  Tương truyền vào năm 1930 , khi làng của Cụ Trạng Trình bị Pháp ném bom ( do nghi rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng lập căn cứ ở đấy ) , khi làng bị tàn phá thì tự nhiên bật lên tấm bia có bài Sấm ký :
                                                          Canh niên tàn phá
                                                          Tuất Hợi phục sinh
                                                          Nhị ngũ dư bình
              Dựa theo Kỳ Môn Độn Giáp , Cụ đã tính ra được gần 300 năm sau làng mình bị tàn phá dữ dội. Vì năm 1930 là năm Canh Ngọ, ứng với câu đầu. Đến năm Tuất Hợi mới khả dĩ hồi phục , nhưng phải đến 10 năm sau ( nhị ngũ ) mới bình thường lại như xưa.
               
                      Thế vì sao gọi là Thái Ất Kỳ Môn Độn Giáp ?  trong khoa này có 3 kỳ  : Can ẤT làm Nhật kỳ _ Can BÍNH làm Nguyệt kỳ _ Can ĐINH làm Tinh kỳ.  Phép Thái Ất là lấy Can ẤT thay thế Can GIÁP làm đầu cho Thiên Can. GIÁP thường ẩn tránh ( ĐỘN là trốn , là ẩn tránh vậy ) ở dưới Lục Nghi , cho nên gọi là Độn Giáp. Vì sao Giáp phải thường ẩn trốn?
              Theo khoa này , Giáp đứng đầu Thiên Can , làm chủ tể. Mà Giáp là Dương Mộc , nó rất sợ Canh là Dương Kim khắc nó
              Ất là Âm Mộc , đứng liền sau Giáp, tượng như em gái của Giáp vậy. Cho nên Giáp đem em gái gả cho Canh Kim , xem như để giải oán cừu , và ta cũng thấy Ất và Canh là Thiên Can ngũ hợp đấy.Vì vậy ẤT thay Giáp làm kỳ thứ I vậy !
              Bính thuộc Dương Hỏa , trong Ngũ Hành HỎa nhờ Mộc sanh nên Bính tượng như con trai của Giáp vậy. Bính Hỏa khắc được Canh Kim cứu Giáp nên BÍNH làm kỳ thứ II vậy !
              Đinh thuộc Âm Hỏa , cũng nhờ Mộc sanh ra , nên tượng như con gái của Giáp vậy.Đinh Hỏa cũng khắc Canh Kim , nên ĐINH làm kỳ thứ III vậy !
                     Vì lẽ ấy Can GIÁP lánh đi trong Lục Nghi để cho Can ẤT thay thế, như ông Vua giao quyền cho Tể Tướng vậy. Như nước ta , phần đông nhớ đến Đức HƯNG ĐẠO VƯƠNG mà mấy ai biết ông sống vào thời Vua Trần Nhân Tôn vậy !
                     Thái Ất Kỳ Môn là dùng năm tháng ngày giờ để lập ra 1 phương trình thức. Từ phương trình thức đó mà người ta áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau : hành binh , bắt trộm, ngoại giao thương thuyết , địa lý, bói toán ,xem thời tiết , xem mưu sự...vv....và cao hơn hết chính là 2 pháp môn : _ Dùng Kỳ Môn để sai khiến Lục Đinh , Lục Giáp chư thần
                                                   _ Dùng Kỳ Môn phổ vào trận thế.
                     Muốn tìm 1 công thức của Quẻ Kỳ Môn người ta phải biết được lúc ấy ở vào Hội nào, Vận nào , Tiết nào ; rồi năm thuộc tuần Giáp gì , năm nào , tháng nào ,...  Theo khoa này thì Trời mở ra ở Hội Tý , Đất mở ra ở Hội Sửu , Người sinh ra ở Hội Dần. Mỗi 1 Hội có 10800 năm, chia làm 30 vận ; mỗi vận 360 năm , lại chia làm 12 thế ; mỗi thế 30 năm....Từ Hội Tý khởi đi , đến nay ta đang ở Hội NGỌ _ Hội Ngọ được tính từ năm -2196 đến năm +8604.
              Mỗi Hội có 30 vận, tính ra ta đang ở vận thứ 12 vậy..... Cứ thế , lấy năm tháng ngày giờ trong giai đoạn ấy theo công thức sẵn có gia Trực Phù ( là các sao : Thiên Bồng , Thiên Nhuế , Thiên Xung , Thiên Phụ , Thiên Cầm , Thiên Tâm , Thiên Trụ , Thiên Nhậm , Thiên Anh); gia Trực Sử ( là các Cửa Bát Môn : Hưu , Sanh , Thương , Đỗ , Kiển , Tử , Kinh , Khai ) ; rồi lại thêm các sao như : Thanh Long , Minh Đường , Thiên Hình , Chu Tước , Kim Quỹ , Thiên Đức , Bạch Hổ , Ngọc Đường , Thiên Lao , Huyền Vũ , Tư Mệnh , Câu Trần. Hay Bát Thần : Trực Phù , Đằng Xà , Thái Âm , Lục Hợp , Câu Trần , Chu Tước, Cửu Thiên , Cửu Địa.... Nói chung rất nhiều , cực kỳ phức tạp. Lập thành xong mới luận đoán.
                    Trong Kỳ Môn , sau khi lập thành , người ta căn cứ vào Trực Phù , Trực Sử gia vào địa bàn nào , độ số Kỳ Môn bao nhiêu để luận đoán.  Do Trực Phù là các sao , nên nó là cái Linh Khí đang hợp ở lúc đó. Trong môn Độn Giáp , nói về các sao thuộc về Thiên thể , tức là những quang tuyến vũ trụ ảnh hưởng trong lúc đó cho muôn sự vật. Nó tương tự như 1 ý tưởng của nhà kiến trúc vậy , đòi hỏi phải hợp thời mới được.
              Ví dụ như Sao Thiên Xung vượng ở tiết Lập Xuân  , được vậy thì tinh thần sáng rỡ , muôn việc đều thịnh vượng. Nhưng nếu nó lại gia vào cung Thất Đoài , tức là Thiên Xung / 7 là phương trình thức , thì Thiên Xung thuộc Mộc bị trên địa bàn Đoài Kim khắc và xung thì ắt ở nơi không thích hợp , và còn bị nguy hại, tổn hao nữa vậy.
                      Còn Trực Sử , nghĩa trực tiếp là thẳng đến sai khiến. Trong môn Độn Giáp , dùng các cửa Hưu,Sanh,thương...để quyết cái hình trạng thiết thực trong cõi hữu hình. Tỷ như nó là người thợ xây , là người thực hiện các ý tưởng của nhà thiết kế vậy.Quan hệ qua lại của chúng có thể ví như sau : Trực Phù là 1 hạt giống cây đại thụ , nếu cái hạt giống ấy gieo hợp thời vụ , gặp chỗ đất thích hợp thì cây dần lớn lên , có ngành có ngọn, có hoa có quả. Thân to , hoa thơm , quả lớn là nhờ ở cái khí hậu nơi cây trồng , nơi đất bồi bổ. Đó chính là ảnh hưởng của Trực Sử vậy. Nhân tốt thì Quả lành !
                     Nói đến cái ứng dụng của Kỳ Môn Độn Giáp thì rất nhiều , nếu quý vị nào có xem qua Tam quốc diễn nghĩa , chắc hẳn còn nhớ trận Lũng Tây , Gia Cát Lượng đã dụng Kỳ Môn Độn Giáp khiến quân Tư Mã Ý không cách nào đuổi kịp. Về việc này , trong Kỳ Môn có dạy : Nếu muốn trốn tránh thì lúc còn ở trong nhà , bắt đầu 1 vòng theo hướng trên phương vị có sao Thanh Long mà đi , qua sao Minh Đường , rồi ra Thiên Môn , vào cung Địa Hộ , hướng về Thái Âm , đến Hoa Cái. Nếu xuất hành thì nhanh như chớp , không ai theo kịp. Nói đến thuật khinh thân này , nếu quý vị nào không tin có thể tìm xem tác phẩm " Tây Tạng huyền bí " của dịch giả Nguyên Phong. Trong cuốn sách ấy kể lại những câu chuyện có thật, của 1 đoàn Khoa Học Gia của Hoàng Gia Anh khi họ đến tìm hiểu xứ Tây Tạng.Các nhà ẩn sĩ ấy như có phép thuật huyền bí vậy. Nói thế ,không phải NCD có ý khuyên quý vị đi tu đâu nhé ( đời còn nhiều việc vui lắm mà ! ) , chỉ để quý vị thấy rằng các phép khinh công , phi thân mà trong độn giáp nói là có thực , quan trọng là ta có biết cách ứng dụng không thôi.
                      Do đó mà nói , Kỳ Môn Độn Giáp thật sự là thiên biến vạn hóa , ứng dụng được trong rất nhiều lĩnh vực ,nhất là trong các trận đồ ngày xưa _ chi phái lập trận theo Kỳ Môn này theo NCD được biết hiện còn tại VN , trong 1 ngôi chùa ở Thất Sơn Châu Đốc ( còn vì sao NCD biết thì ). Những ai đã từng nghiên cứu qua các loại hình trận đồ thì ắt biết các trận thế Trường Xà , Tứ Tượng.... Nhưng áp dụng Kỳ Môn vào trận thế thường là những trận Chính phản ngũ hành , Bát Quái...Khi áp dụng giờ Kỳ Môn vào trận thì bên ngoài trận thế vẫn bình thường , nhưng khi vào trong rồi thì cảnh vật biến đổi , hễ tịnh thì cảnh tịnh , hễ ta động thì cảnh động theo. Trong trận sẽ phát sinh ảo giác khiến những ai bị giam trong đó khó mà thoát ra , nếu không am hiểu Kỳ Môn. Bởi có tính theo Kỳ Môn mới biết hướng nào cửa Sanh mà ra , tuy nhiên còn tùy theo giờ nữa. Tỷ như  Sanh môn vốn thuộc cung Chấn Mộc , nay gia vào Đoài tất thất hãm , đã vào hãm địa tất không thể đi vậy , phải chờ đến giờ khác mới xung phá ra.
                       Nói chi ly cả buổi , thật ra NCD chỉ muốn nói đến chỗ này đấy quý vị ạ !  Theo lời mô tả của tác giả bài viết và lời kể lại của ông Cường , thì ở đấy có đến 7-8 cọc gỗ , 1 tấm ván màu vàng có hình Bát Quái ở giửa , 1 số xương voi , xương ngựa...vv..gi nữa đó. Bản thân NCD cũng chỉ là 1 người hậu học , chỉ xin đưa ra chút thiển ý của mình , cũng mong các bậc cao nhân , tiền bối nào có kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực này góp ý thêm cho.
                      Theo thiển ý của NCD thì cũng tán đồng cách nói của 1 số tiền bối đã từng nhận xét về việc này : Đây là 1 trận đồ Bát Môn có ứng dụng Kỳ Môn Độn Giáp. Về mục đích thật sự của việc " trấn yểm " này là gì thì NCD chưa thể khẳng định chính xác , nhưng chắc chắn đây là 1 trận pháp có uy lực rất lớn. Còn nhốt cái gì thì  ,có thể là 1 con Rồng ( bởi theo các nhà PT xưa thì mỗi 1 Long Mạch có 1 con Rồng tồn tại ?! ) , có thể là những oan hồn gì đó.... Vì sao NCD tôi nghĩ trận pháp này có uy lực rất mạnh? Cũng có lý do của nó. Một khi lập trận theo Kỳ Môn Độn Giáp thì uy lực của trận đã tăng lên rất nhiều lần. Nhưng không bằng khi các cửa trận bị khóa hẳn. Chữ " KHÓA " ở đây của NCD không phải là trận không có Sinh Môn , nhưng cả 8 cửa đều được vị Pháp Sư dùng phép , bùa chú thỉnh người trấn giử hết. Người trấn giữ nếu trong thời gian ngắn có thể thỉnh thị các Thần Linh , các vị Chiến sĩ Anh Hùng Dân Tộc , các Thiên binh Thiên tướng gì đó...tùy theo năng lực của vị Pháp sư đó cao hay thấp vậy. Nhưng dễ hơn hết , và tác dụng dùng dài lâu được chính là cách dùng các oan hồn hay nói như 1 số người gọi đó là các Âm Binh. Qua lời mô tả của tác giả bải viết , NCD nghĩ rằng :
              _ 1 là các xác chết kia , trước khi chết đã bị vị Pháp sư bắt uống 1 loại bùa
              _  2 là sau khi chết bị vị Pháp sư kia dán bùa lên trán
              nói chung , trong cả 2 trường hợp đều nhằm để bắt linh hồn họ phục tùng, làm nô lệ cho vị Pháp sư sai khiến vậy. Và dĩ nhiên , trong trường hợp này , vị Pháp sư kia đã sai khiến linh hồn họ trấn giử 8 cửa trận. Khi có thêm 8 cái oan hồn này trấn giữ thì trận càng khó phá giải thập phần , bởi các oan hồn này khi ấy vừa có thêm đạo bùa của vị Pháp sư vừa được sự linh diệu của Kỳ Môn trận thế , như tăng thêm sức mạnh gấp trăm lần. Để khuyến dụ các linh hồn ấy , các vị Pháp sư đã táng thêm các vật dụng , các tiện nghi cho các oan hồn sử dụng. Vô hình trung , nơi ấy đã trở thành " nhà " của những oan hồn ấy vậy. Muốn giải điều này , trước tiên phải là 1 thầy thật giỏi , đủ sức lập đàn trục những oan hồn nọ đi , nếu bản lĩnh vị thầy không đủ sai khiến các opan hồn thì chẳng khác nào chọc họ nổi giận thêm thôi. Cũng như nhà quý vị đang ở mà có ai tới đập phá , quý vị có để yên không , chứ gặp NCd chắc. Không chỉ thế , người lập đàn tràng đó phải là người tinh thông Kỳ Môn Trận Pháp , biết tính giờ nào thì trận sẽ yếu nhất , có như vậy mới đủ sức triệt tiêu trận này. Cũng may là lúc trục các cây cột gỗ đó lên nhằm ban ngày , đang lúc Dương Khí thịnh vượng , nên mới dễ dàng vậy. Khi không còn nơi trú ngụ , đương nhiên các oan hồn đó trút sự giận dữ lên những ai mà họ cho rằng đã phá nơi cư trú của họ thôi.
                       Giả thuyết như đấy là nhánh của của Long Mạch , ảnh hưởng tới Kinh Thành Thăng Long , tức là người trấn yểm kia có ý ngăn chận Long Mạch thì cũng có thể. Nhưng nói đấy là Long Mạch ảnh hưởng đến Kinh Thành Thăng Long thì quả thật không có cơ sở. Trước khi chúng ta gỡ bỏ vật " trấn yểm " kia thì nước ta vẫn độc lập suốt hơn 20 năm đấy thôi ( không như bạn vanquan cho rằng do LM này bị trấn yểm mà nước ta thần phục phương Bắc ),thế Trung Hoa có bị ai trấn yểm mà phải chịu bị Nhật xâm chiếm? Phải chịu sự áp đặt của liên quân 8 nước? Bị ai trấn yểm mà Vua PHổ Nghi gần như bị lưu đày xa xứ?  Khi xét đến các vấn đề mang tính cách tế nhị này, chúng ta hãy có cái nhìn khách quan hơn. Nói rằng đất nước ta từ sau khi phá bỏ vật trấn yểm đó thì tiến triển hẳn , thật rất oan cho sự nổ lực không ngừng của nhân dân cả nước. NCD nói thật tình , theo NCD nhận thấy đây là xu thế tất yếu , của thời cuộc thôi. Việc thành bại , vượng suy không chỉ căn cứ vào 1 vấn đề PT là đủ. Bạn vanquan xin hãy nhớ cho rằng ĐỊA chỉ chiếm 1/3 trong quan hệ tam tài của vũ trụ. Còn Thiên thời , còn Nhân hòa nữa bạn ơi ! Việc Kinh Thành vượng suy không chỉ có Long Mạch là đủ , khoan nói đền Thiên và Nhân , chỉ chữ Địa thôi , còn rất nhiều yếu tố khác nữa mà do phạm vi bài viết có hạn , NCD tôi không thể 1 lúc nói ra hết được.
                      Bạn vanquan cho rằng các vị lãnh tụ có chí hướng đều đoản mạng ư? Cái gì cũng có lý do cả. Đinh Bộ Lĩnh , Ngô Quyền , Lý Nam Đế đều ở thời trước khi có Kinh Thành Thăng Long lại ít tư liệu nào về những người ấy , nên chúng ta tạm gác qua vậy. Nói đến Vua Quang Trung là phải nói đến thế đất ở Bình Định , mà thời Cao BIền thì làm gì lãnh thổ ta kéo dài đến đấy?! Vả lại , đất phát Đế Vương Bình Định là đất bạo phát bạo tàn , thế đất như hình ngàn quân ra trận , hiên ngang hùng vỹ nên mới phát võ tướng. Trong phần trên , NCD tôi cũng đã nói rồi , đất vùng núi non tuy phát quý nhưng rất dễ phạm Hung Sát , phải chọn mạch thật kỹ mới hóa giải được sự hung sát của nó. Thêm vào đó , bạn có biết tên Quang Trung có ý nghĩa gì khi chiết tự không ?  Quả thật còn rất nhiều điều mà do không muốn đi lạc ra khỏi chủ đề quá xa nên NCD tôi mới không nói ra thôi. Mong bạn thông cảm vậy. Vào thời Lý , Lý Thường Kiệt từng đánh chiếm cả 2 tỉnh lưỡng Quảng. Đến thời Tây Sơn , Vua Quang Trung lập lại lịch sử 1 lần nữa. Đâu phải nước ta chỉ biết thần phục?  Chẳng qua chính sách người VN ta lấy Đức phục Nhân thôi !  Trong các triều đại của TQ , có triều đại nào mà yên ổn suốt cả thời gian nắm quyền không?  Một nước lớn như Trung Quốc mà còn không làm nổi thì 1 quốc gia nhỏ như VN ta có chút trở ngại thế thì có sá gì?  Tận nhân lưc tri thiên mệnh ! Khi chúng ta không tận lực thì không phải của trên trời đổ xuống sẵn đâu , bạn thấy tôi nói đúng không?  Khi cho chúng ta 1 vận hội tốt thì cũng phải có sự thử thách xứng đáng chứ?  Do đó , thế cuộc đất nước phát triển là điều ta có thể đoán trước được , trên đà phát triển từ sau khi có chính sách mở cửa, có điều sự việc diễn tiến nhanh chậm thôi. Nước đang ròng sát , NCD cho 10 ông thầy giỏi địa lý cũng không thể làm nước vun lên được nữa là , giỏi lắm thì họ đắp đập ngăn nước , nhưng chỉ đước 1 tý thôi bạn ơi ! PT dựa trên cơ sở Dịch Lý , mà bạn cũng biết rồi đấy , Dịch Lý là phải hợp lý , không thể rập khuôn , không thể cưỡng cầu được. NCD xin ví dụ thử cho bạn 1 ví dụ theo Dịch Lý nhé :    Có 2 người phụ nữ ngồi đánh cờ , hỏi bạn người nào thắng , bạn tính được quẻ Bát thuần Kiền. Vậy ai sẽ thắng? Nếu bạn cứ khư khư Kiền là trời , là vua , là cha , là ngựa.... thì có người đàn ông nào đánh cờ ở đây đâu cho bạn luận?!  Lý Kiền thì không chết nghĩa , nó chỉ dựa trên cái Lý chung rồi suy ra thôi . Kiền là gì ? là Kiện dã. Rất đơn giản ! Ám chỉ người phụ nữ nào to con hơn , cứng cáp hơn thì thắng vậy. Cho nên LÝ là trên hết. PT dựa trên Dịch Lý nên cũng không thoát khỏi cái ý này. Cái gì cũng phải hợp lý trước đã.Nếu không xét cái Lý thì sao người ta không dùng PT trấn yễm để bên Trung Đông hết chiến tranh đi ??? Như nước Mỹ có ai trấn yểm mà cũng bị sự kiện 9-11 ???  Nước Mỹ bị ai trấn yểm mà hiện nay đang trên đà đi xuống , hàng năm thâm hụt ngân sách hàng trăm tỷ đô la ???   LÝ của Dịch mà , Dương lên tới cực điểm thì xuống Âm , nhưng thực ra 2 sự việc diễn ra cùng lúc đấy. Khi Dương trưởng lên thì trong đó đã có cái mầm của sự hư hại vậy , chẳng qua chưa tới lúc thôi.  Thôi , việc phát triển của Kinh Thành là cả 1 đề tài dài , 1-2 lời không thể nói hết , bởi còn nhiều việc bên trong nữa , chúng ta chỉ dừng ở đây vậy. Bởi khi đưa ra đề tài này chúng ta chỉ dựa trên mục tiêu là xem có bị ảnh hưởng gì tới kinh Thành không thôi.
                       Hiện nay , sự việc qua đã lâu , chúng ta cũng thấy rõ không còn vấn đế gì nữa , có thể xảy ra 2 khả năng _ nhưng cả 2 đều không nguy hại gì ( có tức giận gì thì cũng 1 lúc thôi chứ !    )
              _ 1 là các linh hồn đó vẫn tiếp tục lưu ngụ ở đó , cơn giận đã nguôi ngoai mà
              _ 2 là các linh hồn đó sau khi bị trục đi đã tản mác , và trước khi đi đã trả thù vị pháp sư nào đã đuổi họ ra khỏi đó. Lúc có đàn tràng thì có các vật trấn , có bùa chú sai khiến , các linh hồn ấy không thể trái ý , nhưng bình thường thì khác à? Trừ phi vị ấy là 1 người giỏi về phép Lỗ Ban thì tôi không nói, còn bình thường thì ai cũng như ai thôi.
                       Còn vấn đề nếu đó là 1 LM thì sự giải bỏ cấm chế chỉ có lợi chứ làm sao có hại được? Có khác chăng đôi chút trong phần lý do ảnh hưởng thôi. Nếu đó là LM , thì do bị dồn nén lâu ngày , khi tháo ra Khí sẽ tuôn ra ào ạt. Mà Khí ở đây là gì? Là các tuyến lực ngầm đan xen trong lòng đất , chúng có từ trường riêng của chúng. Khi các vật trấn yểm kia ở đó lâu như vậy đương nhiên bị nhiễm sóng từ của nó thôi. Khi phá bỏ cấm chế , Khí ố ạt tuôn ra , tỏa ra 1 sóng từ với cường độ lớn , lẽ đương nhiên những người có liên quan nơi đó sẽ bị ảnh hưởng rồi. Người nhà họ thì do lực cộng hưởng của tính di truyền mà phải gánh nạn theo thôi.
                       Giá như NCD biết sự việc sớm hơn , NCD không đủ sức làm gì rồi , nhưng có thể giới thiệu 1 địa chỉ chắc chắn đủ sức hóa giải nạn kiếp cho những người liên quan , 1 vị xuất thân từ trường phái Kỳ Môn Độn Giáp , lại tinh thông Dịch Lý ,.... , rất nhiều Pháp môn bí ẩn. 
                       Tóm lại , mọi việc đều đã khép lại , có chăng là chúng ta đưa ra để mổ xẻ vấn đề , rút kinh nghiệm khi gặp trường hợp tương tự thôi. NCD cũng xin thành thật gởi đến ông Cường lời chia buồn cho sự mất mát , tổn thất của ông vậy.
               
               
                      
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2007 17:40:57 bởi ngươi co don >
              #7
                vanquan 24.04.2007 14:16:56 (permalink)
                Trước khi tham gia ý kiến với tiền bối NCD . Xưng hô như vậy là vì VQ còn ít tuổi thuộc thế hệ 8x, tuy đã có dịp đọc 2 cuốn địa lý Tả Ao (địa đạo diễn ca và dã đàm Tả Ao) song vẫn chưa hiểu được bao nhiêu (mới hiểu chút ít về loan đầu còn lý khí thì vẫn như đi trong sương mù). Nhân dịp được tham khảo ý kiến của tiền bối NCD, hậu học cảm thấy rất đồng tình về một số vấn đề tiền bối đã nêu như : Nhiều khả năng Cao Biền là tác giả trận đồ trấn yểm, Kinh thành Thăng Long phát khí dương, Ý nghĩa tên gọi kinh thành Thăng Long….
                Còn một vấn đề mà hậu học cảm thấy chưa thật thuyết phục: tiền bối NCD cho rằng “ Nếu nói Cao Biền cho trấn yểm nơi đó để xây thành Đại La, và để phá hoại Long Mạch thì có hơi khiên cưỡng. Bởi lúc ấy, Đường Trung Tông đã phong cho Cao Biền làm Đô Hộ Sứ An Nam. Thành Đại La gần như là Kinh Đô thời ấy , khí vận của nó ảnh hưởng với người cai trị , nếu Cao Biền trấn yểm để xây thành với mục đích xấu chẳng lẽ ông ta tự đào hố chôn mình sao? Là 1 bậc thầy tầm cỡ về PT , thiết nghĩ Cao Biền không thể làm việc tự di hại cho bản thân đến vậy”.
                Cao Biền sang phá long mạch nước toamotj phần xuất phát từ lo ngại của thiên tử Trung Hoa là những long mạch lớn ở nước ta có hả năng sinh ra những người kiệt xuất có khả dĩ ảnh hưởng tới nghiệp bá của đế chế Trung Hoa. Cao Biền thực sự là người rất giỏi phong thủy, nhưng đã là người thì không thể tránh khỏi có những lúc mắc sai lầm (nhất là làm những việc quan trọng), do đó việc coi nhẹ khả năng mắc sai lầm của Cao Biền là có phần hơi chủ quan.  Theo truyền thuyết và một số sách địa lý Cao Biền đã phá thành công một số cuộc đất lớn (sách không nói rõ là cuộc đất nào) song cũng gặp nhiều thất bại mà tiêu biểu là thất bại trước Tản Viên sơn thần và Tô Lịch Giang thần và. Điều này cho thấy có hai khả năng:
                -         Cao Biền có thể đã mắc sai lầm nào đó trong quá trình tính toán ---à khi tiến hành phá thế đất của Thăng Long đã không thành công. Sách địa lý có nói Cao biền chỉ pha thành công được một số ít thế đất lớn nên khả năng này hoàn toàn có thể: do nhầm lẫn khi tính toán hoặc có thể kiến thức của Cao Biền vẫn còn có chút vấn đề.
                -         Cao Biền thấy rằng phá các thế đất này bằng cách cắt long mạch như tiền bối đã nêu không thực hiền nổi bằng sức với các công cụ đương thời, hoặc cắt như vậy đem lại quả báo tai hại cho bản thân nên chỉ trấn yểm để làm hạn chế mà thôi và trấn yểm này đương nhiên là nhằm ý đồ xấu nhằm hạn chế khả năng kết phát. Mặt khác Cao Ciền cai trị sẽ dễ dàng hơn và không di hại đến bản than - dân ta có truyền thống đấu tranh mà nếu nếu càng nhiều nhân tài được sinh ra thì Cao biền sẽ khó cai trị, thậm chí còn là mối nguy cơ tiềm tàng đối với Cao Biền (phù hợp với lợi ích cá nhân và nhiệm vụ được thiên tử Trung hoa giao phó).
                Với hai khả năng này thì không thể loại bỏ dễ dàng khả cao biền trấn yểm sông tô lịch nói riêng và kinh thành thăng long nói chung với mục đích xấu được. Do vậy trận đồ trấn yểm ở sông Tô lịch vẫn nhiều khả năng là do Cao Biền lập ra với mục đích xấu. Tuy nhiên nó hoặc là không thành công hoặc là nó chỉ có tác dụng hạn chế thôi chứ không thể ảnh hưởng lớn tới long mạch. Sau khi Cao Biền trấn yểm nước ta vẫn phát những triều đại lừng lẫy, điều này thì chính xác nhưng để kết luận là Cao Biền hoàn toàn thất bại thì còn hơi sớm. Tiền bối NCD cho rằng” nước ta đã mở mang bờ cõi dài xuống phương Nam , chiếm thêm được PHẬT THỆ ( nay là địa bàn Thừa Thiên) , rồi tiếp đến là 3 châu Địa lý-Ma linh-Bố chánh ( nay thuộc Quảng Bình-Quảng Trị ). Tuy sau 200 năm, nhà Lý bị mất về tay nhà Trần , nhưng dân tộc ta vẫn là tự chủ. Đấy không phải là 1 minh chứng hùng hồn ư?” điều này rất đúng song biên giới phía bắc của nước ta thì không được “may mắn” như vậy mà luôn phải chịu áp lực lớn từ phương bắc. Hãy để ý rằng các triều đại Việt Nam tuy độc lập song vẫn chịu ở một thế yếu, tiểu quốc có vai trò như một nước chư hầu quy thuận thiên triều phương bắc (không gây cản trở đến nghiệp bá của các thiên tử Trung hoa). Một số đế vương có tài kiệt xuất và có chí hướng lớn lao của nước ta như Ngô Quyền, Lý nam Đế, Đinh bộ Lĩnh, hoàng Đế Quang Trung đều đoản thọ. Họ Trần lừng lấy vua hiền tôi giỏi nhưng mạnh về ngành thứ. Thời nhà Nguyễn kinh đô không phải là Thăng Long nữa, vận nước suy tàn trong gần 100 năm Pháp thuộc và chiến tranh liên miên trong nhiều thời kỳ trong lịch sử. Phải chăng điều này ít nhiều có liên quan đến những hành động trấn yểm của Cao Biền, những ảnh hưởng tới cản trở đến nghiệp bá của các thiên tử Trung hoa được giảm thiểu. Từ sau khi phá bỏ trận đồ trấn yểm + hoà thượng Thích Viên Thành + Thầy Mão “hàn long mạch” vận nước ta những năm gần đây đang đà đi lên vững chắc. phải chăng một phần là hệ quả của việc phá được trận đồ trấn yểm giúp thủ đô và vận nước tươi sáng hơn. Tóm lại khả năng trận đồ trấn yểm tại song tô lịch có thể do cao biền đặt ra với mục đích xấu là hoàn toàn có nhiều khả năng.
                Do kiến thức PT còn hạn chế nhiều nên ý kiến trên dựa trến suy luận logic chủ quan của cá nhân VQ. Có thể coi như là một ý kiến của người ngoại đạo. Mong các tiền bối chỉ dạy.
                                                                                  
                #8
                  political 27.04.2007 23:45:01 (permalink)
                  Cảm ơn NCD đã cung cấp những tài liệu rất hay về bùa trấn yểm và Cao Biền. Mình rất thich xem phong thuỷ đó. thanks nha!
                  #9
                    ngày ấy ta yêu nhau 01.05.2007 13:55:20 (permalink)
                    Hic. Tớ ở ngay đó. Nhưng cock thấy gì lạ cả. Chuyện tầm phào.
                    #10
                      NCD 07.05.2007 17:19:57 (permalink)

                      Trích đoạn: ngày ấy ta yêu nhau

                      Hic. Tớ ở ngay đó. Nhưng cock thấy gì lạ cả. Chuyện tầm phào.


                      Chào bạn ! Mình thấy những dòng chữ của bạn gởi lên cũng lâu rồi , nhưng chưa kiểm chứng nên chưa nói. Mình có "cô bạn nhỏ" ở Vĩnh Phúc _ bạn thuần túy thôi , cô bạn ấy học ở ĐHBK Hà Nội. Bọn mình vẫn liên lạc thường , và mới đây cô ấy viết thư vào kể chuyện ở sông Tô Lịch , còn hỏi mình" có nghe việc đó không? Việc này đang gây xôn xao ở Hà Nội ". Do đó , ngẫm lại lời bạn đăng trên diễn đàn , mình nghĩ có lẽ có  nguyên nhân , không biết ý bạn thuộc trường hợp nào :
                      _ Thứ nhất , bạn là người thờ ơ với mọi thông tin tin tức , nhưng khi người ta nói thì lại tỏ ra mình rành lắm , cũng chen vào góp lời. Nếu bạn là người thuộc tuýp này , xin lỗi , bạn cho mình nói thẳng : Bạn không đủ tư cách góp lời vô đây.
                      _ Thứ hai ,bạn là người theo Chủ nghĩa vô thần , không tin vào những chuyện huyền bí , nên dù bạn có nghe nhưng không tin , và ai hỏi bạn cũng phủ nhận , với ý bạn là người địa phương  nếu có sao bạn không biết. Nếu bạn là người thuộc tuýp này , bạn không nên tham gia ở box này. Mặc dù trang web này là trung lập , bạn là thành viên , tôi cũng là thành viên , nhưng đây là box KH huyền bí , nếu bạn không tin xin mời ghé trang khác , hoặc đừng góp lời.
                      _ Thứ ba , bạn là người làm việc ở chính quyền , và bạn muốn dập tắt những thông tin này trên mạng nhằm không gây xôn xao dư luận. Nếu quả đúng vậy , xin bạn hãy đọc kỹ lại những bài viết trong mục này , xem có ác ý nhằm làm hoang mang lòng người không?  Nhà nước XHCN  Việt Nam luôn bảo tự do tín ngưỡng , tự do ngôn luận. Nếu bạn là người làm việc trong chính quyền mà làm thế hóa ra " trống đánh xuôi, kèn thổi ngược " à ?! Chẳng khác nào làm cái đích cho người khác có dịp công kích , hóa ra " tính già hóa non " đấy bạn ơi !
                           Vài dòng góp ý với bạn , mong bạn không giận nhé ! Á , mà nếu bạn còn có lý do gì khác nữa xin cứ nói ra. Chỉ vì câu nói của bạn , nên những lời mình định viết tiếp trả lời bạn vanquan phải dẹp qua 1 bên , bởi mình nghĩ " người ta ở gần bên đó còn nói không có , mình ở xa lại đi viết bài chẳng bỏ làm trò cười ư?! ". Bạn thấy tai hại không?  Nếu bạn chỉ đùa xin lần sau đừng đùa thế nữa nha. Đây là 1 nơi mọi người cùng nhau tìm hiểu những chuyện về tâm linh huyền bí , có thế có thực , có thể không , tùy ở lòng mình nghĩ thôi. Không biết các tiền bối nhà bạn có dạy bạn : " Linh tại ngã , bất linh tại ngã " không nhỉ?
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2009 09:42:15 bởi NCD >
                      #11
                        NCD 08.05.2007 14:20:26 (permalink)
                             Hôm nay NCD mình xin hồi đáp tiếp với bạn vanquan về việc "trấn yểm" nơi sông Tô Lịch vậy. Bạn vanquan cho rằng NCD tôi " coi nhẹ việc khả năng mắc sai lầm của Cao Biền là chủ quan " chăng ? Nếu quả vậy , có lẽ bạn chưa đọc kỹ lắm ở phần trên của NCD tôi rồi , nói thế thì...."oan Thị Mầu " quá !
                             Như phần trên NCD tôi đã nói qua về cái TÂM của người học ĐẠO , vì bước vào con đường Tầm Long Điểm Huyệt là đã đi trên con đường đạo vậy. Khi không có cái TÂM chân chính thì người thầy PT khó tìm được Chân Long đích huyệt ! Người xưa có câu : " Thuận Thiên giả tồn , Nghịch Thiên giả vong"
                        Ngày nay dưới cái LÝ của KH hiện đại , ta bàn rộng ra thêm về cái chữ Thiên ấy còn là Thiên đạo , là Thiên lý , nhưng ngày xưa , chữ Thiên ấy chỉ nói đến Trời thôi. Ai làm thuận ý Trời thì tồn tại ,làm nghịch ý Trời tất lãnh hậu quả bại vong.
                        Người làm thầy Địa lý không chỉ biết Tướng Địa là đủ đâu bạn ơi ! Ngoài việc Kỹ năng chuyên môn về Địa lý , người thầy Địa Lý cón cần phải biết thêm Thiên văn, Kỳ Môn, Trạch Cát , Phù Chú trấn yểm , Nhân tướng và cả Tri Tâm thuật nữa.
                             Phải hiểu Thiên văn _ không nhất thiết phải thật giỏi _ để tính độ số các Sao đi qua Cung , khi nào Thái Dương đến Hướng , khi nào Thái Âm đến Sơn, khi nào Sao Tử Vi Đăng Điện..vv..có như vậy Kiến đô Lập quốc mới lưu truyền cơ nghiệp ngàn năm được.
                             Phải biết Kỳ môn để xác định khi nào là đắc cách Long Hồi Thủ , khi nào là đắc cách Điểu Diệt Huyệt , khi nào Tam Kỳ gia Long..vv..có như vậy mới tiền đồ hanh thông , đinh tài lưỡng vượng.
                             Phải biết thuật Trạch Cát để xem khi nào thì Quý Nhân-Lộc-Mã của gia chủ đến Sơn Long , khi nào thì Quý Nhân -Lộc-Mã của Thái tuế đến Sơn Long , năm tháng ngày giờ nào là Quan Tinh Cách , năm tháng ngày giờ nào là Thiên Địa đồng lưu cách...vv...có như vậy mới quan lộ hanh thông , toàn gia hưng vượng.
                             Phãi biết Phù Chú trấn yểm để trấn những điều Hung Hại nơi đó , ví như gặp Thương Sát lực quá mạnh nếu không thêm "Bình an phù" ( píng an fú) sao đủ sức chống ngăn , nhà mà liền năm bị kiện tụng mãi , ngoài việc giải Sao Quan Phù cũng phải dùng thêm "Giải Tố Tụng phù" (jie su song fu ) mới được an nhiên . 
                             Phải biết xem Nhân Tướng để biết Phúc Trạch , Âm Đức gia chủ sâu nông thế nào mà tìm huyệt vừa xứng, khi gia chủ phước mỏng ,đức bạc mà Long Huyệt thịnh vượng , chẳng những tổn thọ gia chủ mà người thầy cũng tổn đức ; gia chủ phước đức sâu dày mà chỉ chọn huyệt tầm thường thì e tự mình chuốc họa .
                             Phải biết Tri Tâm thuật để động viên gia chủ giữ vững tinh thần , có vậy mới có cơ xoay chuyển Càn Khôn ; bởi khi gia chủ ý chí kiên định thì tinh thần vững vàng, tinh thần mạnh mẽ thì sẽ có uy lực , như vậy sự cải cách PT mới đem lại hiệu quả , thay đổi Trạch Vận được.  
                            Tóm lại , rất nhiều yếu tố cần thiết để 1 người xứng danh với chữ "THẦY ". Bạn có thấy ai gọi là "thằng thầy" không ? ( đương nhiên trừ ra những " thằng cha thầy dùi "...những chữ thầy không xứng với từ cao quý này ) , người ta gọi 1 cách trang trọng "ông thầy" hoặc đơn giản 1 tiếng gọi "thầy". Cho nên đôi khi việc làm "thầy" không còn vì miếng cơm manh áo như cái "nghề" nữa , mà nó vì cái "nghiệp" để giúp đời , giúp người. Người làm Thầy vì thế cáng lúc càng phải trau dồi mình cho xứng đáng với chữ "Thầy" ấy , không chỉ trau dồi về kỹ năng mà còn cả về Tâm Đức nữa. Nói dông dài như thế , NCD tôi muốn nói với bạn rằng ít khi người Thầy Địa Lý dám nghịch Thiên hành sự lắm ! Tôi chỉ nói ít thôi , bởi khi người ta còn đặt nặng vấn đề tiền tài , công danh tất còn có tính Tư riêng , và không tránh khỏi cái lúc vọng động làm càn. Khi người Thầy Địa Lý có ý tự chuyên muốn làm việc Đoạt quyền Tạo hóa , e chẳng thể suôn sẻ như ý , lúc ấy sẽ có 1 trong 2 trường hợp sau :
                        _ 1 là , người đó trong quá trình Phân Kim Lập Hướng sẽ....xui khiến có sự sai lệch , làm không chính xác.
                        _ 2 là , người ấy vẫn làm đúng nhưng lãnh 1 quả báo nhãn tiền thật tàn khốc. Chẳng những thế , theo thuyết luân hồi có kiếp sau , những người Nghịch Thiên hành sự sẽ mang tội mà "Vĩnh kiếp bất siêu sinh". Huống chi LONG MẠCH là tinh hoa của Khí Thiêng sông núi hun đúc nên , tự bản thân Long Mạch cũng có 1 Uy lực rất mạnh , vọng động trấn yểm sẽ lãnh hậu quả không thể tưởng nổi từ sức phản hồi của Địa Mạch.
                           Cho nên , cũng trên dòng ý tưởng trước , NCD tôi xin nhấn mạnh với bạn vanquan rằng_theo quan điểm của NCD tôi thôi nghen _ có thể Cao Biền sẽ có sự sai lệch hoặc tính toán không chính xác ( như có ai che mắt 1 lúc vậy , đây chính là điểm mà người ta hay nói "Tổ trác" vậy ), nếu đó là đường đi của Long mạch thành Thăng Long. Chỉ có thể thôi , bởi bạn có khẳng định được đó chính là đoạn Long Mạch dẫn đến Long Huyệt của kinh thành Thăng Long không ? NCD tôi vừa ở xa , vừa truy cập mãi vẫn chưa tìm ra Hình về sông núi các vùng trên lãnh thổ VN , nên không dám khẳng định rồi. Nếu bạn khẳng định chính xác đó là đoạn trên Long Mạch của kinh thành ,vì bạn hiểu rõ địa hình ngoài ấy thì NCD khi đó cũng đành Bótay.com thôi chứ nói gì nữa , phải không bạn ?
                              Bạn có nói về Vua Quang Trung có chí lớn mà đoản mạng , thì bài trên mình đã xen vô trong đó rồi , bạn xem lại nhé ! Việc bạn cho rằng nước ta sau khi dời đô về Thăng Long , tuy có độc lập nhưng vẫn luôn phải chống đỡ ở biên giới phía Bắc , luôn phải triều cống phương Bắc. Vâng , chuyện này là có thật , nhưng  xin bạn hãy đặt mình vào trong giai đoạn ấy mà đánh giá xem. Bạn nói như vậy là đặt trên quan điểm của 1 người hiện đại , của 1 người sống trong thời bình mà lý luận thì rất dễ có thiên kiến.  Vào giai đoạn ấy là thời " cá lớn nuốt cá bé " , " lấy mạnh lấn yếu " nha bạn !  Nước ta từ đánh chiếm vài thành , rồi vài thành...cho đến xóa sổ cả nước Chiêm Thành được , lại lấn cả phần đất Xiêm La , nhưng trong giai đoạn này phương Bắc có chiếm được của ta 1 tỉnh thành nào không ?  Có chăng chỉ là sự thống trị tạm thời thôi của nhà Minh , nhưng lúc đó là Hồ Quý Ly không đóng đô ở Thăng Long , xin bạn nhớ kỹ xem có phải thế không ? Nếu làm 1 cuốc so sánh :
                        _ Nước ta / nước Chiêm Thành
                        _ Nước trung Hoa / Nước ta.
                            Bạn có thấy cán cân khác nhau không? Nước ta tuy có lớn hơn Chiêm Thành thật , nhưng so với Trung Hoa lớn hơn ta thì 1 trời 1 vực phải không ? Vậy tại sao ta làm được việc mở rộng bờ cõi 1 cách đáng kể ấy thì nước lớn như TQ không làm nổi với chúng ta ? Họ bị ta trấn yểm Long Mạch chăng ?!  Xét giai đoạn lịch sử ấy , ta thấy việc nước ta chỉ chịu tiến cống mà không thuần hóa hẳn , đấy là thất bại của Trung Hoa chứ không phải sĩ nhục của ta , bạn nghĩ mình nói thế có đúng không? Đâu riêng gì Trung Hoa , ngay cả Đế Quốc Mông Cổ vào thời Hốt Tất Liệt _ cháu của Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân _đã làm chủ cả Trung quốc , Triều Tiên, Đông Âu , Trung Đông , Nga...nhưng sang đến VN ta cũng phải thất bại những 3 lần. Thế mà bạn thấy chưa đủ để tự hào ư ? Nếu vậy thì bạn khó tính quá....coi chừng già sớm đấy bạn ơi !
                               Xét về anh hùng có chí lớn thì không thể chỉ nói đến thành tựu của họ , đôi khi anh hùng mà không gặp thời thì cũng đành uổng phí tài năng thôi. Tài như Khổng Minh cũng chỉ giúp nổi Lưu Bị dừng ở mức tạo thế chân vạc chia ba thiên hạ. Đâu phải tài ông ta không có , xét ở thời điểm ấy , các quân sư Ngụy , Đông Ngô có ai bằng được ông ấy ? Nhưng đâu phải có tài , có chí là đủ ? Không phải người tài nào cũng có đất dụng võ như Trương Tử Phòng giúp Lưu Bang dựng cơ nghiệp nhà Hán , như Khương Thượng giúp Chu Vũ Vương khai sáng nhà Chu , như Phạm Lãi-Văn Chủng giúp Vua Việt Câu Tiễn....đâu bạn.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2009 09:39:38 bởi NCD >
                        #12
                          NCD 09.05.2007 17:55:46 (permalink)
                                Bạn có nhắc đến Vua Quang Trung , vâng, ông ấy quả thật là 1 anh hùng có tài thực thụ. Chiến dịch thần tốc của ông từ Phú Xuân ra Thăng Long , vừa đi vừa đánh thắng giặc chỉ trong 1 tuần như thế quả là kinh thế hãi tục ! Cho đến nay các nhà quân sự vẫn còn thắc mắc , đưa ra nhiều giả thuyết về cuộc hành quân ấy. Trong phép dụng binh có nói : Lấy quân nhàn rỗi chống kẻ địch mệt mõi , cho nên thường ít khi ai đem quân đánh trận kiểu như ông lắm.Thường là hạ trại cách dinh địch vài mươi dặm. Thế tại sao quân ông di chuyển đường xa mà vẫn đủ sức chém tướng ,công thành ? Thời đại bây giờ còn bảo có máy bay , tàu chiến chở người mới nhanh mà dưỡng sức , thời ấy chỉ cưỡi ngựa. Nhưng nếu cả 1 đoàn người ngựa rầm rập tiến thì địch đã hay biết , trái với nguyên tắc " Xuất kỳ bất ý , công kỳ vô bị ". Phải làm sao để chuyển quân như ông , khi xung trận địch mới tá hỏa ra thế mới gọi là " Sấm đánh không kịp bưng tai " chứ .
                                 Nay ta nói chuyện gần hơn tý , vào thời chống Pháp có vị " Nghiêm Nhan thiếu tướng"  Mai Xuân Thưởng. Ông đã khẳng khái tự nộp mình cho giặc để đổi lấy sự an toàn cho mẹ & các nghĩa quân , cam chịu tử hình với lời hứa của Nguyễn Thân :" nếu ông đầu hàng , chúng tôi không để giọt máu ông rơi xuống đất". Và trước lúc lên đoạn lầu đài , ông còn nói với kẻ thù :" Chỉ có đoạn đầu tướng quân chứ không có hàng đầu tướng quân ".  Khí khái ông như vậy có xứng đáng gọi là anh hùng không ?
                                  Rồi như " Hùm thiêng Yên Thế " Hoàng Hoa Thám ( 1846-1913) có đáng mặt anh hùng có chí lớn không ?
                                  Như " Ba nhà chí sĩ họ Phan " _các Cụ Phan Bội Châu , Phan Chu Trinh , Phan Đình Phùng _ như các Cụ có đáng gọi là anh hùng chí lớn không ?
                          .......Rất nhiều ,rất nhiều người đáng mặt anh hùng chí lớn lắm bạn ơi !  Nếu bạn bảo những vị ấy chưa đáng gọi là anh hùng chí lớn thì...tiêu chuẩn của bạn chọn cao quá rồi , đừng khó tính thế , mau già đấy !
                                 Bạn đưa ra nhận xét rằng những người anh hùng chí lớn nước ta đa số đều đoản mạng , điều đó không sai. Chúng ta không bàn về việc do PT nữa , bởi ở các bài trên NCD tôi đã nói rồi ( mạch ở miền Trung đa số là mạch sơn cước , nên khí thế sơn cước càng hùng vỹ thì hung sát càng dữ , nên các anh hùng đa số đều : Bán thế công danh ) , mà xét về khía cạnh khác. Việc Thọ Yểu của 1 người không thể đổ hết cho PT như vậy được , thế thì oan quá. Hôm nay , NCd tôi xin xét đến khía cạnh Toán Mệnh cho vấn đề Thọ Yểu vậy.
                                  Ông bà ta có câu : "Khôn thì lên 3 đã khôn , dại thì già đầu vẫn dại ". Thật vậy. Người tài năng xuất chúng thường bộc lộ cái tài của mình rất sớm.Và người nhà luôn tự hào về tài của họ , nhưng không biết rằng đấy là Tinh Hoa phát tiết (những trí thông minh bình thường không thể xếp vào dạng này đâu !).
                          Trong tướng học có nói : Tinh Hoa phát tiết thì Thần mau kiệt. Thần là cách biểu lộ ra ngoài của Khí bên trong , nên Thần kiệt thì Khí suy. Khí suy thì Tinh giảm , tất đoản mệnh là điều khó tránh khỏi. Đấy là những trường hợp của các văn nhân tài hoa _ họ đâu ra chiến trường mà vẫn chết trẻ đấy _ như : Bà Đoàn Thị Điểm ( sinh năm 1705, mất năm 1746, hưởng dương mới 41 tuổi trong khi tài hoa đang thì nở rộ ) , như Ngọc Hân Công Chúa ( sinh năm 1771, mất năm 1803, hưởng dương mới 32 tuổi )....Còn những vò tướng,đôi khi thấy khí độ hiên ngang
                          tướng mạo phương phi , ai cũng tiếc và thắc mắc vì sao họ chết sớm. Nhưng đó là cái nhìn của người bình thường , dưới con mắt của nhà Tướng Hóc , đôi khi trong cái Khí vũ hiên ngang kia lại ẩn tàng nét phá tướng bất đắc kỳ tử như :
                          _ Hình như trư , tướng tử tất phân thây
                          (Hình tướng heo: mắt heo mà đầu lại to như đầu heo,thì chết banh thây)
                          _ Mã diện Xà tinh, tu tạo hoành tử.
                          (Mặt dài như mặt ngựa , mắt như mắt rắn , chết bất kỳ)
                          _ Diện hữu sát khí ( thường các võ tướng hiếu sát thường gặp, trên mặt có sát khí , nhìn vào có cảm giác rờn rợn ghê sợ mà không phải vì oai nghiêm) là tướng bất đắc kỳ tử
                          _ Diện bì hư bạc , hậu tam thập thọ nan tối kỳ
                          (Da mặt mỏng hư , sau 30 yểu tử )
                          _ Mi sước như đao , trận vong binh tử
                          ( Lông mày mọc dựng lên , mi cốt lại gồ cao là tướng chết trận )
                          _ Trọc như ngư mục tốc tử chi kỳ
                          ( Mắt mờ đục như mắt cá là sắp chết đến nơi)
                          _ Tu hoàng tinh xích chung chủ hoành tử
                          ( Râu vàng, mắt có gân máu đỏ xâm lấn vào , chết bất đắc kỳ tử )
                          _ Cốt thiểu nhục đa tam thập yên năng khả quá
                          ( Xương ít mà thịt nhiều thường chết yểu , e khó qua 30 )
                          _ Khẩu nhãn tiểu nhi đoản thọ ( Miệng nhỏ , mắt nhỏ không sống lâu )
                          ......Nói chung , tướng bất đắc kỳ tử rất nhiều , có khi nhìn thoáng qua 1 người
                          ta nghĩ họ sẽ rất thọ vì tướng người đầy đặn , tính tình có vẻ ôn nhu trầm lặng. Nhưng thực ra họ lại yểu mạng vì cái nét trầm lặng của họ không bình thường.
                          "ngồi lặng đi như thế gian này chẳng còn ai , nhất định chết sớm".  Tướng là do Khí Tiên Thiên hun đúc mà ra , nó có sẵn từ lúc ta sinh ra , và được hoàn thiện dần theo năm tháng qua quá trình tu tập công đức. Nói điều này ra để thấy rằng việc thọ yểu 1 phần là do Khí Tiên thiên của từng người có sẵn rồi. PT chỉ là 1 phần trong Tam Tài , góp 1/3 trong việc quyết định Cát Hung , họa phúc của con người thôi. Muốn thay đổi vận số , e rằng phải tìm được 1 Chân Long huyệt , việc này quá khó rồi. Nên số người "tinh anh phát tiết " thọ mạng thường rất hiếm trong 1 quốc gia , 1 triều đại , do đó người xưa mới hay nói tài hoa mệnh bạc  . Vì vậy , mình nghĩ bạn vanquan cũng đừng vội đổ oan cho khoa PT tội nghiệp, và ghép việc " bất đắc kỳ tử " , " bán thế công danh "_ của các anh hùng sĩ tử đất Việt ta _với việc Cao Biền trấn yểm Long Mạch. Bạn có thể thấy 1 số người tài hoa nhưng vẫn thọ mạng như : 
                          _Đào Duy Từ ( sinh năm 1572 , mất năm 1634 , được 62 tuổi ),ông là 1 danh thần dưới triều Vua Nguyễn phúc Nguyên , ông tinh thông sử sách-lý số-binh pháp,ông là người có tài cao bắc đẩu giúp cho Chúa Sãi không nhỏ & được xem là ông tổ của ngành hát tuồng .
                          _ Nguyên phi Ỷ Lan (sinh năm 1044, mất năm 1117, được 73 tuổi) , bà là người có công giúp Vua Lý Thánh Tông trong việc trị quốc lúc ông đi đánh trận, và là người cáng đáng triều chính thay Vua Lý Nhân Tông còn nhỏ , đưa ra nhiều quyết sách ích nước lợi dân , không những thế bà còn là 1 người văn tài xuất chúng vào thời ấy.
                          _Đào Tấn ( sinh năm 1845, mất năm 1907, được 62 tuổi ), một nhà soạn tuồng nổi tiếng
                          _ Cụ Phan Bội châu ( sinh năm 1867, mất năm 1940, được 73 tuổi ) , ông là người thành lập phong trào Duy Tân hội , và khởi xướng phong trào Đông Du.
                          _ Cụ Nguyễn Tri Phương (sinh năm 1800, mất năm 1873, được 73 tuổi ), ông là người có công bình định giặc Cờ Đen phía bắc , dẹp tan quân Xiêm La phía Nam,khai khẩn đất hoang phía Nam giúp dân an cư lạc nghiệp. 
                          _ Cụ Phan Thanh Giản (sinh năm 1796, mất năm 1867, được 71 tuổi) , ông là 1 danh sĩ , 1 đại thần triều Nguyễn , người đã được Cụ Nguyễn Đình Chiểu tỏ lòng thương tiếc:" Minh tinh 9 chữ lòng son tạc.Trời đất từ nay mặc gió thu ".
                          _ Ông Nguyễn Công Trứ (sinh năm 1778, mất năm 1858, được 80 tuổi ), ông là nhà quân sự , nhà kinh tề , nhà thơ lỗi lạc, 1 vị quan văn võ song toàn cho đất nước.
                          ......Còn rất nhiều , rất nhiều người tài hoa đều không phải yểu tướng, bạn có thể tra trên Bách Khoa Toàn thư xem sẽ thấy. Phong Thủy chỉ là 1/3 trong Tam Tài , nhiều người ước vọng đổi đời nhờ PT mà không hiểu rằng : Trừ PT ra , 2 cái còn lại ta đạt ít nhất 1 cái còn lại thì sự can thiệp của PT mới hiệu quả.
                          Nghĩa là khi ta có năm tháng ngày giờ sinh xấu tức là khiếm khuyết phần Thiên , nhưng bù lại Tâm ta Thiện Đức thì khi ấy PT mới can thiệp được. Cũng có trường hợp người sinh năm tháng ngày giờ trung bình , nhưng tâm ác , nhờ sự can thiệp của PT vẫn được , nhưng kết cục không lành , phải chịu Thảm Tử.
                          Trong khoa Tử Vi có câu thế này :
                                               Mạng hảo tâm bất hảo , tiền trình tất nan bảo
                                                    Tâm hảo mạng bất hảo , nhất sinh giả ôn bảo
                                                    Tâm hảo mạng hữu hảo, Phú quý vinh hoa tảo
                                                    Tâm mạng đô bất hảo , cùng khổ trực đáo lão.
                                Khi 1 người nào đó sinh nhằm năm tháng ngày giờ tốt , nhưng Tâm địa anh ta xấu thì bước đường tương lai khó mà giữ được sự phát đạt lâu dài => là ý câu đầu vậy.   Khi 1 người vận mạng Thiên định không tốt , nhưng Tâm lại quá tốt , thì cả đời dù có tai nạn , hiểm nguy gì như cũng có người che chở , giúp đỡ , hộ trì vượt qua hết.  Nay lại thêm yếu tố tốt của Địa vào nữa thì đương nhiên vận mạng người đó sẽ đổi khác thôi.  Cho nên , PT chỉ can thiệp ở 1 chừng mực nào đó , khi không có cái CHÂN-THIỆN sao cầu lấy cái MỸ được. Có chăng chỉ là những màu sắc lấp lánh của...bọt xà phòng , chúng sẽ nhanh chóng tan biến thôi. Người xưa thường nói : " Đức trọng quỷ thần kinh ". Bạn thường nghe nói ngưới Âm phải không? Thế họ ở đâu ? Họ ở nhan nhãn xung quanh ta đấy thôi , có điều bạn không phải người học Đạo nên bạn không thấy họ thôi. Những oan hồn đó cũng có thiện có ác , có hiền có dữ. Khi bạn đi va phải họ, gặp "vong" hiền thì bạn không biết gì , gặp 'vong" dữ họ xô bạn chúi nhũi ngay. Đấy là lý do nhiều người đang đi mà chúi nhào tới trước , cứ nghĩ do....mình vấp chân mình. Đấy là người bình thường , còn người ác e không chỉ giật mình vì chúi nhũi đâu. Nhưng , gặp người có Đức , tự động các "vong hồn " đó tránh xa ngay , nói gì mà làm hại.  Khi 1 người vào lễ Đình làng , vị Thần Đình vẫn ngồi đấy nhận lễ lạy mà mấy ai biết. Nhưng , khi người Đức cao trọng vọng bước vào , dù họ không thấy ông Thần Đình , nhưng ông Thần Đình vẫn phải đứng dậy,không dám ngồi nhận lãnh lễ quỳ lạy của họ. Chính vì điều này mà người ta mới bảo :" Đức trọng ,Quỷ Thần kinh ".  Người có Đức trọng thì tâm an nhiên tự tại , có sá gì chút trấn yểm họa hại kia chứ ? Những phù chú gì uy lực cách mấy thì cũng do con người Thư Phù nên , tất có cao thấp. " Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị " mà. Người sống có Đức tất sẽ gặp Cao nhơn tương trợ thôi , đấy là lẽ " Tà bất thắng Chính " xưa nay vậy.
                                 Đấy là NCD nói chuyện người , rộng hơn , ở tầm quốc gia , nếu 1 đất nước mà nhà cầm quyền biết CẦN -CHÍNH - LIÊM -MINH , biết thương dân như con , biết lo trước cái lo của dân , biết vui sau cái vui của dân , toàn dân toàn ý vì trăm họ bá tính ,thì lòng dân cả nước theo về , khi ấy sá gì chuyện trấn yểm nhỏ nhoi kia được ?  Chỉ khi nào đất nước mà đầy những kẻ tham tàn vơ vét của dân lẫn của công , sách nhiễu nhân dân , chính sách hà khắc , không biết liêm sĩ , u mê tăm tối đầu óc thì khi đó uy lực của phù chú trấn yểm sẽ tự tăng lên bội phần thôi , khi ấy mới đáng sợ chứ !
                                  Do vậy bạn vanquan xin hãy an lòng , NCD tôi không chủ quan đâu. Cho dù Cao Biền có tài thông thiên triệt địa , cũng không đủ sức xoay chuyển Càn Khôn mà chống lại TÂM Ý của muôn triệu người dân Việt. Ngay cả việc nơi đó có là nhánh Thanh Long của LM thành TL đi nữa , thì cũng không nhằm gì , bởi vì không cần nhánh Thanh Long đó _ nếu phải _ thì Đất nước ta vẫn phát triển được nếu đi đúng hướng CHÍNH đạo.
                            CHÍNH TRỊ : Tâm không CHÍNH làm sao mà TRỊ  !!!
                          #13
                            tyson 26.01.2009 20:33:27 (permalink)
                            Rất chân thành ngưỡng mộ NCD. Bái phục vì kiến thức uyên thâm như vậy
                            #14
                              phanle48 05.02.2009 23:42:54 (permalink)

                              bái phục, bái phục, bái phục sự hiẻu biét cũa ncd, làm ơn phost nhièu bài cho mình  và các anh em học hỏi
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 18 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9