liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh

Tác giả Bài
Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:25:41
nguồn vantuyen.net
 
LIÊM SỈ CỦA KẺ LÀM QUAN
(truyện TAM TRIỀU NGUYÊN LÃO)

Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia
Lão nhân trường lạc tín kham khoa
Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp
Thử thị tam triều tể tướng gia


Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.

Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.

Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.

Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.

Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.

Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 03:32:33 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:31:02
LỘC SỐ
(truyện LỘC SỐ)

Do lai lộc mệnh phú sinh sơ
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ



Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.

Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.

Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Ðặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.

Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.

Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"

Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.

Ðầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.

Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.

Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 03:34:15 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:35:33
QUAN TRUNG THỪA ÐIỀU TRA TRỘM
(truyện VU TRUNG THỪA)

Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm
Sưu đắc chung y tần xuất nhập
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm

Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Ðáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Ðêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Ðể bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Ðể rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 03:36:57 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:40:23
QUAN TỂ ÐIỀU TRA CƯỚP
(truyện VU TRUNG THỪA NHỊ)
Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm
Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm
Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử
Hà huống tần tham thủ nhập khâm

Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.
Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.
Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Ðể ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.
Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.
Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"
Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Ðêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Ðệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.
Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.
Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Ðêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.
Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Ðêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Ðệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.
Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Ðáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi:"Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Ðáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được. Sau vụ bắt cướp này, dân chúng huyện Tân Thành rất khâm phục tài điều tra của Vu công. Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 03:41:28 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:44:42
THUỐC CƯỜNG DƯƠNG
(truyện DƯỢC TĂNG)
Phòng trung đan dược diệc kỳ tai
Bộ lý bàn san chuyển khả ai
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước
Bất như thả tác tự nhân lai
 
Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:52:20 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:47:23
GIẾT SÓI, BÁO THÙ CHA
(truyện VU GIANG)
Phụ cừu hà cảm phiến thời vong
Cánh sát sơn trung bạch tị lang
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang
 
Huyện Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 03:48:23 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 03:59:04
THẦN MIẾU
(truyện ƯNG HỔ THẦN)
Thần danh ưng hổ cánh hà do
Năng sử thâu nhi phản tự đầu
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu
 
Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu cổ, tên Ðông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Ði ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Ðạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:00:17 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:04:11
ÐỊNH SỐ
(truyện KHỐ QUAN)
Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì
Quỹ di thiên hữu khố quan tri
Liêu tây quân xướng do thùy bát
Tích vị đương niên nhất vấn chi
 
Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Ðông có quan tể họ Trương, tên Hoa Ðông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Ðế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Ðế ấn định ban cho đại quan. Ðêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Ðế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Ðáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Ðại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Ðế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Ðế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Ðại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:06:46 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:08:03
BÙA CỜ BẠC
(truyện ÐỔ PHÙ)
 
Vị liu tham tâm bác cục khai
Thử trung thắng phụ bản nan sai
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ
Nhất trịch hà phương bách vạn lai

 
Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Ðạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Ðạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Ðổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Ðổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Ðổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Ðổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Ðổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Ðạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Ðổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Ðạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Ðổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Ðổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Ðổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Ðổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Ðổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Ðổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Ðổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Ðổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Ðổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Ðổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Ðổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Ðổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Ðổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Ðạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Ðổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Ðạo sĩ cười, nói: "Ðã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Ðổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:09:24 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:10:03
CHỒN ÐẦU THAI LÀM NGƯỜI
(truyện LƯU LƯỢNG THÁI)
 
Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân
Nam sơn hữu khách cánh thông thần
Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ
Thùy thức giai nhi thị cố nhân


 
Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, thuật truyện:
Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.
Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"
Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Ðược kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.
Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Ðể khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Ðại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.
Ðêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Ðêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.
Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.
Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:26:13 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:17:18
GHEN VỚI NỮ THẦN
(truyện KIM CÔ PHU)
 
Song song tố tượng sự hoang đường
Hồ quỷ bằng y tác tế hương
Liệt phách chân hồn không thụ điếm
Tiểu cô cư xứ bản vô lang
 
Ðời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).
Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.
Năm bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.
Năm mươi năm sau.
Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm bính thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.
Ðêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.
Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.
Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"
Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.
Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.
Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:26:42 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:21:43
CHỒN CUỐI TRIỀU MINH
(truyện LINH QUAN)
Giao thiên cự điển thục năng can
Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn
Tất cánh thử hồ thái phân hiểu
Thừa dư bất tị tị linh quan
 
Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.
Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Ðạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Ðạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.
Ðầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Ðất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Ðạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Ðất thì Thượng Ðế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Ðạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Ðất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.
Ðầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Ðất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.
Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"
Hỏi:"Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"
Ðáp:"Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"
Hỏi:"Cư sĩ chạy tới đâu?"
Ðáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"
Hỏi:"Linh quan có đuổi theo không?"
Ðáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"
Hỏi:"Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"
Ðáp:"Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"
Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"
Ðáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"
Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"
Ðáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"
Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"
Ðáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"
Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?
" Ðáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"
Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"
Ðáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"
Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"
Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Ðạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Ðạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.
Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:25:04 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:27:14
KHỎE NHƯ HỔ, NHANH NHƯ VƯỢN
(truyện BẢO TRỤ)
Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng
Tì bà thuấn tức đạo thâm cung
Khả lân cụ thử hảo thân thủ
Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung
 
Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.
Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.
Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.
Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Ðặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.
Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.
Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.
Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.
Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.
Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.
Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.
Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.
Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Ðạo tặc! Ðạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.
Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.
Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.
Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:48:43 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:47:04
GÁI CHỒN
(truyện HỒ NỮ)

Chung tình hà ý lai bôn nữ
Thủ lễ thiên tri tị nhược ông
Ám hợp tú châm công ảo hóa
Chu toàn nan đắc loạn ly trung
 
Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.
Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.
Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Ðạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Ðạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Ðạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.
Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"
Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.
Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.
Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Ðâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Ðáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.
Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.
Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.
Ðêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói:"Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.
Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 04:48:15 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 04:56:18
HỒI SINH, KHỎI BỆNH TÊ LIỆT
(truyện THANG CÔNG)

Hồi đầu tỏa sự ký đương niên
Thiện ác phân minh tại nhãn tiền
Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm
Từ hàng na đắc bất thùy liên
 
Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Ðông.
Mười một năm sau.
Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.
Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.
Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.
Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.
Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Ðột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.
Ðứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.
Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Ðáp: "Ðường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Ðế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa. Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Ðế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức Ðế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Ðược trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Ðế Quân cho biết có ai chữa được không?" Ðáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Ðức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Ðức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Ðức Bồ Tát, nếu Ðức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Ðức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Ðức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Ðức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"
Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:00:39 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:01:24
CƯỚP ÐỘI LỐT SƯ
(Truyện BỐ THƯƠNG)

Khê hác nan doanh ngốc tử tâm
Tá tương Phật diện khất đa kim
Nhược phi Bồ tát từ bi lực
Phòng hải tướng quân hà xứ tầm



Cử nhân họ Lý ở huyện Phong Nguyên, tỉnh Sơn Ðông, thuật chuyện:
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi chùa bỏ hoang. Một hôm, có khách buôn chở vải từ xa tới huyện bán. Bán hết, khách buộc bọc tiền vào trước bụng rồi đi ngoạn cảnh. Tới chùa, thấy phong cảnh đẹp, khách bèn vào thăm. Nhà sư trụ trì thấy khách tới, vội chạy ra tiếp. Khách thấy nhà sư lực lưỡng như con nhà võ.
Thấy cảnh chùa tiêu sái nhưng chùa lại đổ nát, khách cảm khái, thở dài. Thấy thế, nhà sư nói:"Thí chủ sùng đạo, cúng dường chút ít, sửa sang cái cổng, cũng sáng sủa rồi!" Khách sốt sắng đáp:"Xin cúng dường ngay" Nhà sư mừng lắm, vội dắt khách vào phương trượng, pha trà mời uống. Lát sau, nhà sư nói:"Xin mời thí chủ theo bần tăng đi thăm điện gác trong chùaỢ Khách đáp:"Xin vâng" rồi đi theo nhà sư.
Nhà sư dắt khách đi thăm chùa hết một vòng rồi lại dắt về phương trượng. Bỗng nhà sư nói:"Xin thí chủ cúng dường thêm cho đủ tiền trùng tu ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân chỉ đủ tiền cúng dường để sửa sang cái cổng thôi!" Nhà sư nài ép:"Thí chủ là đại thương gia, dư tiền cúng dường để trùng tu cả ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân đi buôn cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình. Nay thành tâm muốn cúng dường chút ít để sửa sang cái cổng. Còn vốn thì phải giữ lại để đi buôn!" Ðột nhiên vẻ mặt nhà sư trở nên cực kỳ hung dữ, sát khí đằng đằng. Thấy thế, khách kinh hãi quá, vội đấu dịu, nói:"Hoà thượng đã muốn vậy thì bỉ nhân xin cúng dường cả vốn lẫn lời để trùng tu ngôi chùa!" Nói xong, cởi bọc tiền trước bụng mà nạp cho nhà sư. Rồi cúi đầu chào, nói: "Bây giờ, bỉ nhân xin phép được ra về!" Nhà sư lắc đầu, rút giải lưng ra, buộc bọc tiền vào trước bụng, rồi khoát tay, nói:"Khoan đã, chẳng được đi vội! Có phải là tự ý thí chủ muốn cúng dường đâu? Bây giờ mất cả bọc tiền, ắt phải thù oán, thế nào mà chẳng nói xấu bần tăng với thiên hạ! Vì thế, bần tăng phải xuống tay trước!" Khách tái mặt. Nhà sư chợt rút từ trong người ra một thanh đao sáng loáng. Khách van lạy, nói:"Xin hòa thượng mở lòng hiếu sinh, tha cho mạng sống" Nhà sư lạnh lùng, đáp: "Không được!" Thấy hết hy vọng sống, song còn hy vọng chết toàn thây, khách lại xin:"Thế thì xin cho tự ải!" Nhà sư gật đầu, nói:"Ðược! Song phải tự ải ngay!" Rồi lấy ra một cuộn dây thừng đưa cho khách, kề đao vào cổ, ép tới một phòng tối trong chùa, mở cửa đẩy vào, khóa cửa lại rồi nói vọng vào:"Tự xử ngay đi, đừng để bần tăng phải phạm sát giới!"
Vừa lúc ấy, có một võ quan là Phòng Hải Tướng Quân cưỡi ngựa qua chùa. Từ ngoài đường nhìn vào, qua hàng rào đổ nát, võ quan thấy một thiếu nữ áo đỏ, phấn son loè loẹt, đang mỉm cười, bước vào phương trượng. Võ quan cau mày bất bình, thầm nghĩ chắc nhà sư trụ trì thuộc loại hổ mang. Bèn phóng ngựa vào chùa, ngừng trước phương trượng, toan vào cật vấn. Ðúng lúc ấy, nhà sư cũng vừa về tới phương trượng. Thấy nhà sư, võ quan cau mày hỏi:"Con gái nào mà lại được phép vào phương trượng nhà chùa?" Thấy võ quan cực kỳ uy dũng, lại đột nhiên vào thăm chùa, nhà sư chột dạ, đáp:"Tướng quân nhìn lầm rồi! Có ai vào phương trượng nhà chùa đâu!" Võ quan càng nghi, nói:"Hãy dẫn bản chức vào phương trượng!" Nhà sư liền đưa tay ra hiệu mời vào. Võ quan vào phương trượng, đảo mắt nhìn quanh thì thấy quả thực chẳng có người nào cả. Chợt nghĩ có thể thiếu nữ đã nhanh chân ẩn núp quanh quất trong chùa, võ quan vội rút gươm, ép nhà sư phải dẫn mình đi khắp nơi để tìm kiếm. Trừ phòng tối nhốt khách, nhà sư dẫn võ quan đi khắp nơi song võ quan chẳng thấy thiếu nữ đâu. Ðảo mắt nhìn quanh, chợt thấy ở đằng xa có một căn phòng khóa trái cửa mà nhà sư chưa dẫn mình vào, võ quan liền trỏ gươm về phía căn phòng, quát:"Mở cửa phòng kia ra!" Nhà sư lắc đầu, nói:"Phòng ấy có nhiều ma quái lắm, xin tướng quân chớ vào!" Võ quan nổi giận, ép nhà sư phải dẫn mình tới rồi vung gươm chém sập cánh cửa. Thấy một xác người treo lủng lẳng trên xà nhà, võ quan vội nhảy lên chém đứt dây treo rồi đỡ xác xuống. Thấy xác còn nóng hổi, võ quan vội nới lỏng vòng dây quanh cổ, hy vọng xác còn thở được. Bất đồ, nhà sư dợm quay mình bỏ chạy. Thấy thế, võ quan vội nhảy ra túm lấy nhà sư, kéo vào phòng, cắt dây treo xác, trói chặt vào cột.
Lát sau, khách tỉnh. Võ quan tới gần hỏi chuyện. Khách cứ thực tình mà khai. Võ quan hỏi:"Thế còn thiếu nữ áo đỏ đâu?" Khách ngơ ngác, hỏi lại:"Thiếu nữ áo đỏ nào?" Võ quan bèn thuật chuyện thấy thiếu nữ áo đỏ bước vào phương trượng. Khách kinh ngạc, nói:"Thực tình, từ lúc bỉ nhân vào thăm chùa tới giờ, ngoài nhà sư trụ trì và bỉ nhân ra, chẳng có người nào khác. Chắc là đức Phật muốn cứu bỉ nhân nên mới hiện hình làm thiếu nữ áo đỏ để khiến tướng quân vào chùa mà cứu bỉ nhân đó thôi!" Võ quan đứng lặng, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói:"Gã này đúng là một tên cướp đội lốt nhà sư! Phải giết gã đi để trừ hại cho dân mới được!" Nói xong, vung gươm chém đầu nhà sư lăn xuống đất. Rồi dùng gươm cắt đứt bọc tiền trước bụng nhà sư mà trả lại cho khách. Khách quỳ lạy, tạ ơn cứu mạng. Võ quan liền tra gươm vào vỏ, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Khách lên huyện đường trình bày đầu đuôi câu chuyện với quan tể. Quan liền sai lính tới chùa đem xác nhà sư đi chôn. Câu chuyện được đồn đãi nhanh chóng khắp huyện.
Khách xin quan tể cho mình được phép đứng ra trùng tu ngôi chùa. Quan chấp thuận. Khách bèn mở cuộc lạc quyên, đem cả bọc tiền của mình cộng với số tiền lạc quyên được mà trùng tu ngôi chùa. Rồi khách thỉnh một vị hoà thượng có đức hạnh tới chùa trụ trì.
Từ đó, ngày nào cũng có rất đông Phật tử tới chùa lễ Phật.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:07:19 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:07:58
HÓA CHỒN VÌ HIẾU SẮC
(truyện KIM LĂNG ẤT)

Lân phụ như hà khả khải du
Hạt y trước thể cánh thành hồ
Tà ma nhất động tâm tiên biến
Mạc nhạ chân long bích thượng phù
Thời xưa, ở Trung quốc, có người tên Trung Sơn, nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say.
Thời nay, ở phường Khương Thủy, thủ phủ Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), tỉnh Giang Tô, có người họ Bành, tên Túy Toàn, có vợ họ Lang và hai con. Túy Toàn cũng nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say nên dân phường tặng cho Túy Toàn mỹ danh là Bành Trung Sơn. Mỗi lần nấu rượu xong, Túy Toàn lại pha thuốc say vào rượu rồi mới đem bán. Bợm rượu nào dù tỉnh tới đâu, chỉ cần uống hai chén rượu của Túy Toàn là đã say mèm. Rượu bán chạy quá, Túy Toàn phải đốc thúc cả vợ con phụ nấu suốt ngày đêm mà vẫn không đủ rượu để bán. Nhờ tài nấu rượu, Túy Toàn trở thành cự phú.
Thời ấy, dân phường Khương Thủy rất lo sợ về nạn chồn biến thành thanh niên tuấn tú, tới nhà cưỡng chiếm phụ nữ. Trong phường, có hai anh em nhà giàu họ Tôn, cùng có vợ đẹp, cư ngụ chung trong một ngôi nhà. Người anh tên Mạnh, người em tên Trọng. Vợ Tôn Mạnh thường bị chồn tới cưỡng chiếm.
Một đêm, Túy Toàn thức khuya nấu rượu. Nấu xong, pha thuốc say vào chum, đậy nắp thực kỹ rồi đi ngủ. Sáng sau, vào bếp lấy rượu ra cho vợ con đem bán, Túy Toàn thấy một chồn say mèm, nằm mê man cạnh chum. Túy Toàn liền dón dén đi lấy dây trói chặt bốn chân chồn lại rồi lấy dao toan giết. Chồn chợt tỉnh, van lạy:"Xin tiên sinh tha mạng cho! Tiên sinh có việc chi sai bảo tiểu nhân cũng xin làm ngay!" Túy Toàn hỏi:"Mi có nói thực không?" Chồn đáp:"Thưa thực!" Túy Toàn liền cởi trói tha cho chồn. Ðột nhiên, chồn biến thành một thanh niên tuấn tú. Chợt nhớ tới chuyện vợ Tôn Mạnh bị chồn cưỡng chiếm, Túy Toàn hỏi:"Chồn thường lui tới nhà họ Tôn là chồn nào?"
Ðáp:"Thưa chính là tiểu nhân!" Thấy vợ Tôn Trọng còn đẹp hơn vợ Tôn Mạnh, Túy Toàn nói:"Mi phải dắt ta tới cưỡng chiếm vợ Tôn Trọng!" Ðáp: "Tiên sinh sai bảo bất cứ việc gì khác tiểu nhân cũng xin làm song riêng việc này thì tiểu nhân xin chịu!" Nói:"Mi vừa hứa buông miệng với ta để được tha mạng, bây giờ mi lại toan nuốt lời phải không?" Chồn thở dài, đáp:"Tiên sinh đã muốn thế thì hãy đi theo tiểu nhân!" Túy Toàn bèn nói với vợ con rằng mình có việc phải đi ra ngoài, rồi đi theo chồn.
Chồn dẫn Túy Toàn ra khỏi thành, đi thực xa. Tới một hang núi, chồn vào hang lấy ra một chiếc áo màu vàng đưa cho Túy Toàn, nói:"Chiếc áo này là tàng hình y! Ai mặc vào người thì mắt thế nhân chẳng thể nhìn thấy, chỉ có mắt loài chồn tiểu nhân mới nhìn thấy được thôi! Nếu tiên sinh mặc chiếc áo này mà tới nhà họ Tôn thì chẳng ai nhìn thấy được!" Nghe thấy thế, Túy Toàn cũng chỉ nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi:"Mi lấy chiếc áo này ở đâu ra?" Ðáp:"Chiếc áo này là di vật của tiện huynh. Từ ngày tiện huynh qua đời, tiểu nhân vẫn cất giữ làm kỷ vật. Nay đã trót hứa với tiên sinh nên phải lấy ra biếu!" Lại hỏi: "Thế mi định bao giờ mới dắt ta tới nhà họ Tôn?" Ðáp: "Tối mai, giờ dậu, tiểu nhân sẽ tới nhà tiên sinh!" Túy Toàn mừng lắm. Ðể thử xem lời chồn nói có đúng hay không, Túy Toàn bèn mặc chiếc áo vào người rồi ra về. Về nhà, thấy vợ con không nhìn thấy mình, Túy Toàn mừng lắm. Vào phòng thay áo rồi đi ra, thấy vợ con lại nhìn thấy mình, Túy Toàn mới tin lời chồn là đúng.
Tối sau, đúng hẹn, chồn tới. Túy Toàn bèn lấy chiếc áo mặc vào người rồi đi theo. Tới nhà họ Tôn, chồn dắt Túy Toàn chui qua hàng rào vào sân. Tới hành lang, cả hai cùng nhìn thấy trên tường có một đạo bùa dán cạnh một ngọn đèn leo lét. Thấy trên đạo bùa có vẽ một nét lớn, ngoằn ngoèo như rồng rắn, chồn tái mặt, nói: "Ðạo bùa này là của Âu Dương hoà thượng. Pháp thuật của hoà thượng này cao cường lắm. Anh em họ Tôn đã mời được hoà thượng này về đây thì tiểu nhân chẳng dám vào đâu!" Nói xong, ù té bỏ chạy. Thấy thế, Túy Toàn đã toan chạy theo, song vì còn tiếc rẻ cô vợ nhan sắc của Tôn Trọng nên chưa chịu chạy ngay, cứ lượn đi lượn lại trước đạo bùa để quan sát. Ðột nhiên, nét vẽ trên đạo bùa biến thành rồng, cuộn thành vòng, ngửng đầu chực bay. Lúc đó Túy Toàn mới hết hồn, co cẳng chạy. Vừa chui qua hàng rào ra tới đường, bỗng Túy Toàn thấy một nhà sư hình dung cổ quái, đứng ở giữa đường, tay trái cầm đèn, tay phải cầm bùa, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, hướng về phía mình mà làm phép. Kinh hãi quá, Túy Toàn cắm cổ chạy về nhà, vào phòng nằm ngủ.
Sáng sau, Lang thị thấy chồng ngủ trưa, bèn vào đánh thức. Túy Toàn chỉ ú ớ rồi lại ngủ mê man. Lang thị thầm nghĩ chắc chồng mình đêm qua thức khuya nấu rượu nên để yên cho ngủ, chẳng đánh thức nữa.
Trưa ấy, dân phường Khương Thủy nghe đồn anh em nhà họ Tôn đã thỉnh được Âu Dương hoà thượng tới nhà lập đàn trừ chồn cho phường nên rất vui mừng, rủ nhau tới nhà họ Tôn coi. Lang thị vào đánh thức chồng dậy để cùng đi coi với mình. Thấy chồng vẫn còn ngủ say nên Lang thị ra rủ hai đứa con. Tới nơi, Lang thị thấy nhà sư đã lập xong đàn tràng. Lát sau, nhà sư làm phép rồi niệm thần chú, gọi chồn tới quy phục. Ðột nhiên mọi người thấy Túy Toàn, từ ngoài cổng chạy huỳnh huỵch vào nhà, mặc chiếc áo màu vàng, sắc mặt nhợt nhạt. Tới trước đàn, đột nhiên Túy Toàn ngã quỵ xuống đất, hóa thành chồn, chiếc áo màu vàng vẫn còn khoác trên thân. Ai nấy đều kinh hãi.
Lúc thấy chồng chạy tới, Lang thị đã ngạc nhiên. Nay thấy chồng biến thành chồn, Lang thị lại càng kinh hãi. Nhà sư rút dao ra toan giết. Thấy thế, Lang thị vội quỳ xuống đất, khẩn cầu:"Xin hoà thượng mở lượng hải hà, tha chết cho chồng tiện thiếp. Tiện thiếp chắc rằng chồng tiện thiếp đã bị mắc mưu của chồn nên mới hóa thành chồn" Nhà sư gật đầu, nói:"Nếu thế thì hãy dắt về mà chăm sóc!"
Lang thị và hai con bèn dắt chồn về, chăm sóc chu đáo. Dọn cơm rượu cho ăn, dọn giường nệm cho ngủ, những mong chồn hóa trở lại thành người. Thế nhưng, ba hôm sau, chồn vẫn là chồn, chẳng thể hóa trở lại thành người được nữa.
Tối ấy, đột nhiên chồn lăn ra chết.

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:13:54
THI LÀM THÀNH HOÀNG
(truyện KHẢO THÀNH HOÀNG)

Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên
Minh nghĩa khai tông đệ nhất thiên
Khấp thế trần tình dư giả nhật
Hoan thừa huyên thảo hỷ diên niên



Anh rể bản nhân thuật chuyện:
Ông nội của anh rể bản nhân là Tống công, húy Ðào. Sinh thời, công là một nho sĩ, được hưởng lương một ấp. Năm ấy, công 51 tuổi, rước lão mẫu, 71 tuổi, về ở chung để tiện bề phụng dưỡng.
Một hôm, công bị bạo bệnh, lên giường nằm rồi mất. Lão mẫu thuê người khâm liệm, quàn linh cữu ở phòng khách.
Hôm ấy, công vừa lên giường nằm thì chợt thấy một lính cưỡi ngựa, tay cầm văn thư, dắt theo một ngựa trắng, vào sân nhà, buộc ngựa ở ngoài sân rồi vào phòng, nói:"Có lệnh trên sai tiểu nhân tới mời tiên sinh đi thi" Công liền dồn dập hỏi:"Lệnh của ai? Thi cái gì? Ai là giám khảo?" Lính chẳng đáp, chỉ giục:"Xin tiên sinh hãy sửa soạn mau cho!" Công đang bị bệnh nên yếu sức, song cũng cố gắng ngồi dậy mặc áo quần. Lính bèn dìu công ra sân, đỡ lên lưng ngựa trắng rồi bảo công rong ngựa theo mình. Ðường đi thực là lạ lùng, vắng vẻ.
Lát sau, tới một đô thị sầm uất, trông tựa chốn đế đô, lính dẫn công vào một dinh thự nguy nga, bảo công xuống ngựa, rồi trao cả hai ngựa cho lính canh. Lính dẫn công qua cổng, qua sân, lên thềm cao, bước vào một cung điện. Ngửng đầu nhìn lên, công thấy cung điện cực kỳ tráng lệ. Thấy ở cuối điện có mười một vị thần đang ngồi trên bục cao, công cố đoán xem các vị ấy là ai song chẳng sao đoán được trừ vị ngồi chính giữa thì công đoán chắc là Quan Ðế đời Tam Quốc vì trông giống hình Quan Ðế mà thế nhân thường vẽ để thờ. Dưới sàn thấp, mỗi bên phải trái đều có bày một ghế, một bàn, trên có để sẵn giấy bút. Ghế phải đã có một nho sĩ ngồi, còn ghế trái thì để trống. Một vị lấy tay chỉ ghế trống, bảo công tới ngồi. Công vội tuân lệnh. Vị ấy đứng dậy, xuống phát cho mỗi người một đề thi, rồi nói:"Viết bài ngay đi!" Công mở đề, chỉ thấy vẻn vẹn có tám chữ:"Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm" (Một người, hai người, cố tình, vô ý). Nho sĩ với công cùng cặm cụi viết bài. Hai người viết xong, cùng đưa bài lên nạp rồi trở về chỗ ngồi. Chư thần truyền tay nhau đọc.
Lát sau, một vị nói:"Hai bài cùng hay. Tuy nhiên, bài của Tống sinh có hai câu xuất sắc: Cố tình mà làm điều thiện, tuy thiện song chẳng nên thưởng. Vô ý mà làm điều ác, tuy ác song chẳng nên phạt" Chư thần đều gật gù, khen hay rồi xúm quanh Quan Ðế mà bàn bạc.
Hồi lâu, một vị gọi công lên gần bục, nói:"Tỉnh Hà Nam khuyết chức thành hoàng, nhà ngươi đáng được sung vào chức ấy!" Bấy giờ công mới hiểu là nho sĩ và mình cùng được gọi tới để chư thần chọn một người đi làm thành hoàng. Công vội quỳ xuống sàn, rập đầu khóc, thưa:"Ðược chư thần đoái thương, cho đi làm thành hoàng, thực chẳng dám chối từ. Song chư thần xét cho, dương thế còn mẹ già, đã bảy mươi mốt tuổi, chẳng biết cậy vào ai. Nay mong được ở nhà, phụng dưỡng mẹ cho trót, rồi sẽ xin tuân lệnh" Một vị ra lệnh cho viên chủ bạ râu dài đứng cạnh:"Hãy lấy thọ bạ ra coi xem thân mẫu của Tống sinh còn được hưởng bao nhiêu tuổi nữa?" Viên chủ bạ vào phòng trong bưng ra một cuốn sổ dày, đặt lên bàn, lật trang tìm đọc. Lát sau, thưa:"Còn được hưởng chín tuổi nữa" Chư thần đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý. Chợt Quan Ðế phán:"Thôi được. Bây giờ hãy tạm sung Trương sinh vào chức ấy trong chín năm. Sau đó, sẽ trao lại cho Tống sinh" Phán xong, Quan Ðế quay qua bảo công:"Ðáng lẽ nhà ngươi phải đi phó nhậm ngay song vì nhà ngươi có hiếu nên được về phụng dưỡng mẹ già thêm chín năm nữa. Hết hạn, sẽ cho gọi lại!" Công vội rập đầu lạy tạ. Quan Ðế lại sai lính gọi nho sĩ kia tới gần bục mà bảo:"Nhà ngươi chẳng còn mẹ. Vậy hãy tạm đi phó nhậm chức thành hoàng ở Hà Nam thay cho Tống sinh. Sau chín năm, sẽ được sung vào chức khác!" Nho sĩ cũng rập đầu lạy tạ.
Lính dắt hai người ra sân. Nho sĩ bước tới nắm tay công, tự giới thiệu:"Bỉ nhân họ Trương, quê ở huyện Trường Sơn!" Công cũng đáp lễ, nói:"Bỉ nhân họ Tống, quê ở huyện Chuy Xuyên!" Nho sĩ bèn làm một bài thơ tặng công. Công cũng làm một bài thơ tặng lại. Chợt thấy người lính dắt hai ngựa ra sân, đỡ công lên lưng ngựa trắng, bảo công rong ngựa theo mình. Công cúi đầu chào nho sĩ rồi rong ngựa theo lính.
Lát sau, về tới sân nhà, công xuống ngựa. Lính nói: "Thôi, tiên sinh vào nhà đi!" rồi quay ngựa ra khỏi cổng, dắt theo ngựa trắng. Công vừa bước chân vào phòng khách thì chợt bừng mắt tỉnh, thấy mình đang nằm trong linh cữu chưa đậy nắp. Công trở mình. Lão mẫu nghe có tiếng động trong linh cữu, bèn bước tới coi. Thấy công đã hồi sinh, lão mẫu mừng lắm, vội đỡ công dậy, dìu vào phòng trong. Chiều ấy, công tỉnh hẳn, nói năng được như thường. Công hỏi chuyện thì lão mẫu nói công đã mất được ba ngày. Công bèn thuật chuyện mình thấy cho lão mẫu nghe. Lão mẫu bảo công đọc bài thơ của nho sĩ tặng thì công chỉ còn nhớ được có hai câu:
Hữu hoa, hữu tửu, xuân thường tại,
Vô nguyệt, vô đăng, dạ tự minh
(Có hoa, có rượu, xuân luôn còn,
Không trăng, không đèn, đêm tự sáng)
Hôm sau, công nhờ người sang huyện Trường Sơn hỏi thăm thì được biết quả có nho sĩ họ Trương trong huyện mới mất được bốn ngày, đúng vào ngày công mất.
Chín năm sau, quả nhiên lão mẫu qua đời. Làm tang lễ cho lão mẫu xong, công tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, đi giày mới, chít khăn đỏ, lên giường nằm mà mất.
Chiều ấy, nhạc gia của công cư ngụ ở cửa tây huyện thành bỗng thấy công chít khăn đỏ, cưỡi ngựa trắng, tới nhà mình cùng với một đoàn xa mã hộ tống. Công xuống ngựa, vào phòng khách, chẳng nói một lời, sụp lạy nhạc gia một lạy rồi trở ra, lên ngựa mà đi. Nhạc gia kinh nghi, liền cho người chạy tới nhà công coi thì được biết công mới mất được mấy giờ.
Sinh thời, công có viết một tập tiểu truyện, thuật lại thực rõ ràng từng chi tiết của câu chuyện. Anh rể bản nhân vẫn cất giữ tập truyện ấy. Tiếc rằng sau cơn binh lửa năm Giáp Thân (1644), tập truyện ấy bị thất lạc. Anh rể bản nhân chỉ còn nhớ được sơ lược có bấy nhiêu thôi.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:15:57 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:20:57
ÐỂ CỦA CHO CON
(truyện LÝ BÁT CANG)

A ông ngụ tạng tí hà trì
Cánh đáo sơn cùng thủy tận thi
Hồi thủ di lưu đương nhật ngữ
Chấp niên khâm lẫm dĩ tiền tri



Triều Tống, tỉnh Sơn Ðông có bốc sư họ Lý, tên Xích Vũ, nhà rất giàu. Ngoài ba ngôi nhà lớn, Lý ông còn chôn giấu rất nhiều vàng. Nghe đồn Lý ông có tới tám chum vàng nên người làng đặt cho Lý ông lộng danh là Lý Bát Cang (Lý Tám Chum)
Lý ông không có con gái, chỉ có hai trai là Xích Thành, lên 10, và Nguyệt Sinh, lên 8, theo học cùng một thày đồ.
Tính Xích Thành hiền lành, cần kiệm song vì không thích văn chương nên sau khi biết đọc văn tự, Xích Thành xin cha mẹ cho về quê trông nom gia nhân canh tác. Năm 20 tuổi, Xích Thành được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Xích Thành họ Cốc. Cốc thị cũng hiền lành, cần kiệm như chồng nên chỉ ít năm sau, hai vợ chồng đã trở nên giàu có. Xích Thành có ba trai, ba gái.
Tính Nguyệt Sinh cũng đôn hậu nhưng ăn tiêu hoang phí. Vốn ưa thích văn chương, Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho theo học tới khi đậu đại khoa. Mười năm sau, Nguyệt Sinh thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) song vì không thích ra làm quan nên Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho về quê ở chung. Năm 20 tuổi, Nguyệt sinh cũng được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Nguyệt Sinh họ Xa, tính rất hiền lành và hay chiều chồng, chẳng bao giờ ngăn cản chồng mình điều chi. Nguyệt Sinh chỉ có hai trai.
Mười năm sau, Lý bà mất. Thấy mình đã già, Lý ông tự biết cũng chẳng còn sống được bao lâu. Bèn đào bảy chum vàng lên rồi cho gọi hai con tới nhà, nói:"Thân mẫu các con đã qua đời mà ta thì cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa nên ta muốn chia cho mỗi đứa một phần của cải. Bây giờ ta có bảy chum vàng. Xích Thành đông con, ta cho sáu chum còn Nguyệt Sinh ít con, ta cho một chum. Tuy nhiên, sau khi ta chết thì ngôi nhà ta đang ở với mười mẫu ruộng ta đang cho người cấy sẽ thuộc về Nguyệt Sinh!" Nguyệt Sinh bất mãn nhưng vì sợ cha nên chẳng dám nói. Hai anh em nhận lãnh phần chia rồi tải về nhà.
Biết Nguyệt Sinh bất mãn, một hôm Lý ông cho gọi riêng tới nhà mà bảo:"Chẳng phải là ta thiên vị anh con, cho nó nhiều hơn con đâu. Ta còn một chum nữa, chôn riêng một chỗ, để dành cho con. Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!"
Ít lâu sau, Lý ông bị bệnh nặng. Nguyệt Sinh sợ cha chết bất thần thì mình sẽ chẳng biết được chỗ chôn vàng, nên sang nhà cha, rình lúc vắng người, lẻn vào hỏi nhỏ:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?" Lý ông đáp:"Ta chưa thể nói cho con biết được! Ở đời, mỗi người đều có một phần số riêng, sướng khổ khác nhau. Bây giờ con đang được hưởng cái phước có vợ hiền thì hãy cứ hưởng đi đã! Con thì ăn tiêu hoang phí mà vợ con thì hiền lành thái quá, chẳng biết ngăn cản con. Nếu bây giờ ta có cho con nhiều tiền bạc thì chắc chắn là con cũng sẽ tiêu hết ngay!" Nguyệt Sinh không nghe, cứ năn nỉ xin được biết chỗ chôn vàng. Lý ông liền nổi giận, quát:"Mày thì ăn tiêu hoang phí, chẳng biết giữ của, mà con vợ mày thì chiều mày thái quá, chẳng biết ngăn cản mày. Số mày còn phải nghèo túng trên hai chục năm nữa rồi mới khá được! Bây giờ mà mày có tiền rừng bạc biển thì cũng sẽ hết ngay. Chừng nào mà mày chưa phải là nghèo rớt mùng tơi thì đừng có hy vọng được tao cho thêm!" Nguyệt Sinh sợ cha mà cũng có hiếu nên chẳng dám hỏi chi nữa, chỉ mong sao cho cha chóng khỏi bệnh để mình có dịp dò hỏi được chỗ chôn vàng.
Ba tháng sau, Lý ông trở bệnh nặng rồi mất, Nguyệt Sinh vô cùng thất vọng. Chum vàng cha cho đã đem trả nợ mất gần nửa nên thầm nghĩ bây giờ lại phải chung góp với anh để làm tang lễ cho cha thì sẽ chẳng còn được là bao. May sao, Xích Thành gọi riêng em ra một nơi mà bảo cho biết là mình sẽ đứng ra lo liệu hết tang lễ cho cha. Nguyệt Sinh mừng lắm.
Sau tang lễ, Nguyệt Sinh đưa vợ con tới cư ngụ ở ngôi nhà của cha để lại, còn ngôi nhà của mình thì cho thuê. Ðã ăn tiêu hoang phí, lại có tính hiếu khách, ngày nào Nguyệt Sinh cũng sai gia nhân đi mời khách về nhà ngâm vịnh, có ngày sai vợ làm tới bốn bữa cơm thịnh soạn để đãi khách. Ðã thế, thấy bạn bè nào than túng, Nguyệt Sinh cũng vào bảo vợ xuất tiền cho vay nên bị bọn vô lại trong làng rủ nhau tới nhà bòn của. Vốn không biết cách quản lý ruộng nương, Nguyệt Sinh chẳng thâu nhập được là bao. Càng ngày Nguyệt Sinh càng nghèo.
Mười năm sau, Nguyệt Sinh rơi vào cảnh túng thiếu. May được Xích Thành tốt bụng, thường lén vợ mà chu cấp cho em nên Nguyệt Sinh cũng chưa đến nỗi nào.
Năm năm sau, Xích Thành bị bệnh rồi mất. Từ đó, Nguyệt Sinh chẳng còn biết trông cậy vào ai. Mùa xuân, Nguyệt Sinh phải đi vay thóc về cho gia đình ăn. Mùa thu, thâu hoạch được chút nào thì lại phải đem đi trả nợ hết, cả vốn lẫn lời. Ít lâu sau, lại phải bán rẻ ngôi nhà cho thuê và mười mẫu ruộng cha để lại cho. Nhiều bữa trong nhà chẳng còn gạo ăn, Nguyệt Sinh phải đôn đáo chạy đi vay mượn. Gia nhân thấy chủ nghèo quá, bèn rủ nhau trốn hết. Ba năm sau, con trai lớn của Nguyệt Sinh bị bệnh mà chết. Vì thương con quá, Xa thị cũng bị bệnh mà chết theo con. Bấy giờ, trong nhà chỉ còn Nguyệt Sinh với đứa con trai nhỏ.
Năm sau, hết tang vợ, Nguyệt Sinh đem chút tiền còn lại đi cưới một cô vợ kế, họ Từ, trước kia là vợ của một người lái dê. Nguyệt Sinh hy vọng Từ thị sẽ giúp mình làm ăn khá giả hơn. Thế nhưng, hai năm sau, Nguyệt Sinh lại càng nghèo thêm. Tính Từ thị rất thô bạo, trái hẳn tính Xa thị thủa trước. Ngày nào hàng xóm cũng thấy Từ thị thóa mạ chồng, cấm chồng không được giao du với bè bạn.
Một đêm, Nguyệt Sinh nằm mộng thấy cha về, nói:"Tình cảnh của con bây giờ có thể nói là nghèo rớt mùng tơi rồi đó! Trước kia ta có hứa cho con một chum vàng, bây giờ có thể lấy lên mà chi tiêu" Nguyệt Sinh vội hỏi:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?"Ðáp: "Sáng mai ta sẽ chỉ chỗ cho!" Bỗng Nguyệt Sinh tỉnh giấc. Nghĩ lại giấc mộng, Nguyệt Sinh lấy làm lạ nhưng thầm nghĩ chắc mình nghèo quá, ngày nào cũng mơ tưởng tới tiền bạc nên mới sinh ra mộng mị vớ vẩn thế thôi. Vả lại, cha mất đã lâu rồi, chẳng cho mình biết chỗ chôn vàng thì làm sao mà mình có thể tìm thấy được? Vì thế, Nguyệt Sinh cũng chẳng buồn để ý tới giấc mộng nữa.
Sáng sau, đột nhiên bức tường rào ở vườn sau nhà Nguyệt Sinh bị đổ vì đã quá cũ. Từ thị bắt chồng phải ra cuốc đất đắp lại ngay. Sợ vợ, Nguyệt Sinh vội tuân lời. Khi cuốc đất đắp tường, cuốc phải một vật cứng, Nguyệt Sinh nhặt lên coi thì thấy là một mảnh nắp chum. Bèn thử cuốc sâu thêm chút nữa thì thấy lộ ra một chum vàng. Mừng quá, Nguyệt Sinh vội chạy vào nhà tìm vợ con, bảo ra vườn sau giúp mình khuân vàng vào nhà. Từ đó, gia đình Nguyệt Sinh lại trở nên khá giả.
Một hôm, nhớ tới câu nói của cha ngày trước:"Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!" Nguyệt Sinh chợt nghĩ ra cái nghĩa của câu nói đó "Bây giờ vợ cả và con trai lớn của mình đã chết, gia nhân đã rủ nhau trốn hết, thì gia đình mình trở nên vắng người"
Nhờ chum vàng, Nguyệt Sinh được sống trong cảnh sung túc với Từ thị và đứa con trai cho tới hết cuộc đời.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:22:59 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:27:46
HỔ TRẢ ƠN NGƯỜI
(truyện NHỊ BAN)

Tam niên tiền sự vị toàn vong
Báo đức hô nhi đại trục lang
Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc
Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương


Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.
Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.
Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Ðột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Ðáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Ðáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Ðáp:"Ðể lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.
Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Ðoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Ðể bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Ðại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.
Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Ðáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Ðáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"
Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.
Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.
Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Ði từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Ðột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.
May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.
Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.
Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:30:21 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:39:17
LÀM BẠN VỚI CHỒN VÔ HÌNH
(truyện HỒ TỨ TƯỚNG CÔNG)

Tặng kim đặc trọng cố nhân tình
Dị loại hữu bằng thắng đệ huynh
Nhất diện hữu duyên nan tái kiến
Thần giao diệc túc úy bình sinh

 
Huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Ðông, có hai anh em nho sĩ họ Trương. Người em tên Ðạo Nhất, làm quan học sứ tỉnh Tứ Xuyên, gia tư khá giả. Người anh tên Hư Nhất, tính rất dũng cảm. Tai thì thường được nghe nhiều chuyện về chồn tinh ma quỷ, song mắt thì chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Hư Nhất cư ngụ trong huyện thành Lai Vu, gia tư thanh bần.
Ở góc đông nam huyện thành có một căn nhà bỏ hoang. Huyện dân đồn rằng có một chồn đực có thuật tàng hình, dắt một lũ chồn tiểu yêu đến chiếm ngụ căn nhà nên chẳng ai dám bén mảng tới. Nghe tin đồn, Hư Nhất quyết tâm đến thăm, mong được gặp chồn một lần cho biết. Hư Nhất bèn bảo đứa tiểu đồng cùng mình chay tịnh một tuần.
Tuần sau, hai thày trò tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề, dắt nhau đến căn nhà. Tới nơi, thấy hai cánh cửa tự động mở ra, tiểu đồng kinh hãi, quay mình bỏ chạy. Hư Nhất gọi thế nào tiểu đồng cũng không dám trở lại. Hư Nhất bèn quyết tâm vào căn nhà một mình. Hư Nhất chỉnh lại mũ áo rồi bước vào nhà thì thấy đồ đạc được bày biện ngăn nắp song trong nhà vắng ngắt, chẳng một bóng người. Hư Nhất bèn chắp tay vái chào, khấn:"Ðệ thành tâm trai giới để đến đây xin gặp túc hạ. Vừa rồi đệ ở ngoài cửa, túc hạ đã chẳng cho gặp mặt, bây giờ đệ vào trong nhà, túc hạ vẫn chưa cho gặp mặt hay sao?" Chợt có tiếng đáp:"Ða tạ túc hạ đã giá lâm!" rồi có hai chiếc ghế tự động di chuyển ra giữa phòng khách, quay mặt đối nhau. Sau đó, có tiếng nói:"Mời túc hạ ngồi chơi, đệ sẽ xin hầu chuyện!" Hư Nhất bèn mạnh dạn ngồi xuống ghế. Chợt có một chiếc bàn lớn trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, tự động di chuyển, len vào giữa hai chiếc ghế. Hư Nhất đưa mắt nhìn thì thấy trên bàn có hai chén trà nóng, khói bốc nghi ngút. Chợt lại có tiếng nói: "Mời túc hạ dùng trà" Hư Nhất nâng một chén lên thì thấy chén kia cũng được nâng lên rồi có tiếng miệng thổi cho trà bớt nóng song tuyệt nhiên chẳng thấy một bóng người. Hư Nhất lên tiếng hỏi:"Túc hạ có thể cho biết quý danh chăng?" Có tiếng đáp:"Ðệ họ Hồ song chẳng có tên!" Hỏi:"Thế thì thiên hạ thường xưng hô với túc hạ như thế nào?" Ðáp:"Thiên hạ thường gọi đệ là Hồ tứ tướng công vì đệ là người con thứ tư trong gia đình" Sau một tuần trà, lại có tiếng nói:"Chẳng mấy khi túc hạ giá lâm, xin túc hạ lưu lại dùng với đệ một bữa rượu lạt!" Hư Nhất nhận lời ngay, đáp:"Xin vâng"
Lát sau, Hư Nhất thấy trong phòng dường như có tiếng chân của nhiều tiểu đồng chạy ra chạy vào, rồi thấy có bình chén, bát đũa, nem chả, ba ba, khô nai, rau thơm được đem ra bày kín mặt bàn. Rồi có tiếng nghiêng bình rót rượu và tiếng mời:"Mời túc hạ nâng chén!" Hư Nhất chẳng khách sáo, nâng chén yến ẩm thì thấy rượu và thức ăn rất ngon, y như ở các tửu quán thượng đẳng vậy. Hai bên thù tạc, đàm đạo văn chương thế sự, rất mực tương đắc. Ðang yến ẩm, bỗng Hư Nhất thầm nghĩ giá bây giờ có một chén trà nóng mà uống thì thích quá. Lập tức có một chén trà nóng được đem tới đặt ngay trước mắt Hư Nhất. Thế rồi mỗi lần Hư Nhất thầm ước một vật gì thì vật ấy lập tức hiện ra ngay trước mắt. Hư Nhất rất lấy làm kinh ngạc song cũng rất lấy làm thích thú. Sau khi yến ẩm no say, Hư Nhất xin cáo biệt.
Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hư Nhất lại tới thăm tướng công. Thỉnh thoảng, tướng công cũng tới đáp lễ Hư Nhất, song trước sau Hư Nhất cũng chỉ nghe thấy tiếng chân đi, tiếng miệng nói chứ chưa hề nhìn thấy hình dáng người bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa đến nhà tướng công dự tiệc. Trong lúc yến ẩm, Hư Nhất nói:"Ðệ có quen một bà đồng ở Nam Thành. Người ta đồn rằng bà ấy khoe là có nuôi được một chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, kiếm được rất nhiều tiền. Theo ý túc hạ, có đúng thế chăng?" Tướng công đáp:"Lời đồn của thiên hạ thì đúng nhưng lời khoe của bà đồng thì sai!" Lát sau, Hư Nhất đứng dậy, xin phép ra ngoài đi tiểu thì chợt nghe thấy tiếng thì thầm bên tai:"Lũ tiểu nhân vừa được nghe tiên sinh nói chuyện với tướng công về bà đồng ở Nam Thành. Vậy lát nữa, xin tiên sinh nói với tướng công cho lũ tiểu nhân được theo tiên sinh tới Nam Thành một chuyến để xem mặt mũi bà ấy ra sao?" Biết là tiếng nói của lũ chồn tiểu yêu, Hư Nhất đáp:"Ðược!" Khi trở lại bàn tiệc, Hư Nhất nói với tướng công:"Xin túc hạ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới Nam Thành một chuyến để xem lời khoe của bà đồng là đúng hay sai?" Tướng công cười, đáp:"Ðã biết lời khoe của bà ấy là sai rồi thì còn phải tới làm chi?" Hư Nhất năn nỉ:"Xin túc hạ cứ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới đó một chuyến xem sao!" Tướng công cười, đáp:"Túc hạ đã muốn thế thì đệ xin vâng!"
Tiệc tan, Hư Nhất xin cáo biệt. Vừa toan ra tháo ngựa thì đã thấy ngựa đang chậm rãi bước tới trước cửa, tựa hồ như có người đang dắt tới vậy. Hư Nhất vừa leo lên lưng ngựa thì chợt nghe có tiếng tướng công sai bốn tiểu đồng đi theo mình tới Nam Thành.
Dọc đường, Hư Nhất thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo rồi có tiếng thì thầm bên tai:"Xin tiên sinh hiểu cho rằng khi nào tiên sinh đi đường mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo, tức là có lũ tiểu nhân đang theo hầu!" Hư Nhất gật đầu.
Tới nhà bà đồng, Hư Nhất gõ cổng. Bà đồng từ trong nhà bước qua sân, ra mở cổng. Thấy Hư Nhất, bà cười, hỏi:"Ngọn gió nào đưa quý nhân tới đây thế?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân tự ý tới đây để hỏi thăm bà một chuyện!" Bà hỏi:"Chuyện chi mà quan trọng thế?" Hư Nhất đáp:"Người ta đồn rằng bà khoe là có nuôi được một con chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, có đúng thế chăng?" Bà chợt nghiêm nét mặt, trách: "Quý nhân là người nho nhã, sao lại ăn nói khinh bạc như thế?" Hư Nhất hỏi:"Bỉ nhân ăn nói khinh bạc như thế nào?" Bà trách:"Sao quý nhân lại gọi Chị Hoa nhà lão thân là con chồn? Chị Hoa nhà lão thân mà nghe thấy thế thì buồn lắm đó!"
Bà vừa trách xong thì bỗng có một miếng gạch ném trúng cánh tay bà. Tưởng là Hư Nhất ném mình, bà tức giận, trách:"Sao quý nhân lại ném lão thân? Lão thân có xúc phạm chi tới quý nhân đâu?" Biết là lũ chồn tiểu yêu ném bà, Hư Nhất cười, đáp:"Bỉ nhân ném bà hồi nào? Bà thong manh rồi hay sao?" Nghe thấy thế, bà kinh hãi quá, cứ đứng suy nghĩ, chẳng hiểu là ai ném mình. Bỗng lại có một viên đá ném trúng đầu bà, làm bà té xuống đất. Bà chưa kịp nghĩ xem là ai ném thì lại có bùn nhơ ném trúng mặt bà, làm cho mặt bà trông tựa mặt quỷ. Bà kinh hãi quá, gào khóc, van xin:"Xin đừng ném nữa! Nếu lão thân có làm điều chi xúc phạm thì xin hãy tha tội cho!" Thấy thế, Hư Nhất cũng thương hại, bèn lớn tiếng quát lũ chồn tiểu yêu:"Không được ném nữa!" Lập tức bùn ngưng bay tới. Bà lồm cồm bò dậy, băng qua sân, chạy vào nhà, đóng chặt cửa, đi rửa mặt rồi ngồi ở trong nhà, chẳng dám ló ra ngoài. Hư Nhất chạy theo bà, tới gõ cửa, hỏi:"Chồn thày thuốc của bà có thể ném được gạch đá, bùn đất như chồn của bỉ nhân chăng?" Từ trong nhà, bà nói vọng ra:"Người ta đồn thế chứ lão thân có khoe là mình nuôi được chồn bao giờ đâu? Xin quý nhân đừng tin ở những lời đồn đại!" Hư Nhất ngửa mặt lên trời cười rồi quát lũ chồn tiểu yêu:"Cấm không được ném nữa!" Xong, lại quay ra nói với bà:"Bỉ nhân đã cấm lũ chồn không được ném nữa rồi! Bà đừng sợ! Hãy ra đây cho bỉ nhân dặn một điều!" Nghe thấy thế, bà mới dám hé cửa ra, hỏi:"Quý nhân muốn dạy bảo điều chi?" Hư Nhất đáp: "Chỉ muốn dặn bà một điều là từ nay trở đi, bà đừng lường gạt bệnh nhân nữa!" Bà nói:"Xin vâng!" Hư Nhất bèn cáo biệt.
Từ đó, mỗi lần Hư Nhất đi đâu mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo thì biết ngay là có lũ chồn tiểu yêu đang theo hầu. Thế rồi, mỗi lần đi xa, muốn có người đồng hành để đề phòng thú dữ, giặc cướp hoặc để nói chuyện cho vui, Hư Nhất chỉ cần lên tiếng gọi lũ chồn là lập tức chúng đáp lời ngay.
Thấm thoắt, Hư Nhất đã giao du với tướng công được hơn một năm. Hai bên chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, chẳng hề trái ý nhau bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất hỏi:"Năm nay, túc hạ bao nhiêu tuổi?" Tướng công đáp:"Ðệ quên mất rồi! Song mỗi lần nhớ tới việc mình chứng kiến vụ Hoàng Sào làm phản vào cuối triều Ðường thì đệ lại thấy tựa hồ như mới ngày hôm qua!" Nghe thấy thế, Hư Nhất kinh hãi quá, chẳng dám hỏi chi thêm.
Một trưa, Hư Nhất đến nhà tướng công dự tiệc. Chợt nghe thấy tiếng gà kêu quang quác ở hàng rào, Hư Nhất lấy làm lạ, hỏi:"Sao giữa ban ngày mà lại có tiếng gà kêu như thế?" Tướng công đáp:"Chắc là lại do Tam ca nhà đệ gây ra!" Hỏi:"Sao túc hạ chẳng mời lệnh huynh vào đây yến ẩm, đàm đạo cho vui?" Ðáp:"Gia huynh chẳng thích gặp đệ. Vả lại tư tưởng của gia huynh nông cạn lắm, biết lấy chi mà đàm đạo?" Hỏi:"Lệnh huynh ưa cuộc sống như thế nào?" Ðáp:"Gia huynh chỉ ưa cuộc sống đi bắt trộm gà để nhắm rượu. Thế nhưng, nghĩ cho cùng thì đối với gia huynh, cuộc sống như thế cũng đủ rồi, cần chi phải có tư tưởng cao siêu!" Hư Nhất bèn nói lảng sang chuyện khác. Lát sau, bỗng Hư Nhất nói:"Ðã hơn một năm nay, giao tình giữa chúng ta có thể nói là rất tốt đẹp song đệ thấy đệ vẫn còn một điều ấm ức, chưa giải tỏa được!" Tướng công cười, hỏi:"Ðiều ấy là điều chi?" Ðáp:"Ðiều ấy là điều túc hạ chưa cho đệ được nhìn thấy tôn nhan!" Cười, nói:"Giao du với nhau thì chỉ cần giữ được chân tình, thiện cảm chứ cần chi phải biết mặt nhau?" Hư Nhất lặng im, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau. Một hôm tướng công bày tiệc rượu thịnh soạn, sai lũ chồn tiểu yêu đi mời Hư Nhất đến dự. Hư Nhất vội mặc quần áo đi theo.
Tới nơi, tướng công mời Hư Nhất nhập tiệc. Giữa tiệc, đột nhiên tướng công nói: "Hôm nay đệ mời túc hạ đến đây để chúng mình yến ẩm đàm đạo với nhau lần chót!" Hư Nhất kinh ngạc, hỏi: "Sao vậy? Túc hạ sắp đi đâu?" Ðáp: "Vì quê đệ ở Thiểm Tây nên nay đệ lại muốn hồi cư về đó!" Rồi cười, nói tiếp:"Trong hơn một năm qua, túc hạ cứ ấm ức là chẳng biết mặt mũi đệ ra sao. Nay sắp chia tay, đệ muốn để túc hạ nhìn thấy đệ một lần cho biết, kẻo sau này có dịp tái kiến, túc hạ lại chẳng nhận ra!" Hư Nhất quay đầu nhìn quanh song chẳng thấy ai, nên hỏi: "Túc hạ ở đâu?" Ðáp: "Ðệ ở trong phòng ngủ. Túc hạ hãy đến mở cửa ra thì thấy!" Hư Nhất bèn đứng dậy, bước tới phòng ngủ, mở cửa nhìn vào thì thấy quả có một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như ngọc, y phục mới tinh, sang trọng lịch sự, đang ngồi trên giường, nhìn mình mỉm cười. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thì thiếu niên đã biến mất. Hư Nhất bèn khép cửa phòng ngủ, trở lại bàn tiệc. Nghe có tiếng chân người bước ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại song chẳng thấy ai. Hư Nhất vừa an tọa thì nghe có tiếng cười, hỏi: "Phải chăng bữa nay đệ đã giải tỏa được điều ấm ức của túc hạ?" Hư Nhất chẳng đáp. Hai người lại tiếp tục yến ẩm, đàm đạo.
Tới khuya, thấy Hư Nhất vẫn chưa đứng dậy cáo biệt như mọi lần, tướng công biết là Hư Nhất còn lưu luyến tình bạn ở căn nhà này, nên cười, nói:"Mọi việc ở đời, kể cả hợp tan, đều đã có định số, túc hạ lưu luyến làm chi?" Hư Nhất lặng im, chẳng đáp. Tướng công bèn sai tiểu yêu đi lấy hai chén lớn, rồi tự tay rót đầy rượu, đưa một chén mời Hư Nhất, nói:"Ðây là chén rượu ly biệt" Hai bên cùng cạn chén. Thấy Hư Nhất đã say, tướng công bèn sai lũ tiểu yêu hộ tống về nhà.
Sáng sau, khi tỉnh rượu, Hư Nhất vội tắm gội sạch sẽ rồi cưỡi ngựa đến thăm tướng công. Tới nơi, Hư Nhất thấy căn nhà đã hoàn toàn vắng lặng, chẳng còn một tiếng động. Từ đó, căn nhà hết chồn.
Mười năm sau, Hư Nhất vẫn thanh bần như xưa.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa từ Sơn Ðông xuống Tứ Xuyên thăm em. Tới nơi, thấy em mình có nhà cao cửa rộng, đồ đạc sang trọng, Hư Nhất cảm khái, thở dài. Ở chơi với em được hơn một tháng, Hư Nhất cáo biệt.
Dọc đường về, Hư Nhất buông cương cho ngựa bước tự do, còn mình thì ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ miên man về sự quý hiển của em, sót thương cho thân phận mình, rồi bất giác thở dài. Chợt nghe có tiếng vó ngựa ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại thì thấy một thiếu niên anh tuấn, dáng vẻ phong nhã, mặc áo lông cừu, đang phóng một thanh câu đuổi theo mình. Hư Nhất bèn dừng cương, ghìm ngựa, đứng chờ. Khi thiếu niên tới gần, Hư Nhất gật đầu chào. Thiếu niên cung kính chắp tay đáp lễ. Hư Nhất hỏi: "Túc hạ đi đâu vậy?" Thiếu niên đáp: "Ðệ tới huyện thành ở gần đây!" Rồi hỏi lại: "Thế còn túc hạ đi đâu?" Hư Nhất đáp:" Ðệ từ Sơn Ðông xuống đây thăm người em ruột, bây giờ lại trở về Sơn Ðông" Thiếu niên nói: "Túc hạ xuống đây thăm lệnh đệ thì lẽ ra trông phải vui lắm mới đúng chứ sao trông lại buồn bã thế?" Hư Nhất thở dài, đáp: "Gia đệ thì quý hiển, nhà cao cửa rộng, còn đệ thì từ bao năm nay vẫn lận đận long đong. Vì nghĩ mình chẳng bằng em nên buồn!" Thiếu niên nói: "Trời sinh ra con người, cho mỗi người một phần số, túc hạ so sánh làm chi? Cứ an nhiên tự tại thì có phải là thanh thản hơn không?" Rồi nói lảng sang chuyện khác.
Rong ngựa cùng đi được hơn một dặm, tới ngã rẽ nhỏ, thiếu niên dừng cương, chắp tay nói: "Bây giờ thì đệ phải rẽ vào con đường này. Mong túc hạ tự bảo trọng!" Hư Nhất cũng chắp tay nói:"Xin cám ơn túc hạ!" Thiếu niên vừa dợm phóng thanh câu đi thì như chợt nhớ ra điều gì, lại dừng cương, nói: "Lát nữa đây, nếu túc hạ có gặp ai nhờ túc hạ đem một vật gì về Sơn Ðông trao cho một người quen của túc hạ thì xin túc hạ làm ơn nhận giùm cho!" Rồi vái chào, phóng thanh câu đi. Hư Nhất thắc mắc, toan lên tiếng hỏi thì thanh câu đã mất dạng trên con đường nhỏ. Hư Nhất bèn tiếp tục lên đường.
Ði được chừng ba dặm, quả nhiên Hư Nhất thấy một ông lão đứng ở bên đường, tay xách một giỏ trúc trông có vẻ nặng. Hư Nhất vừa rong ngựa tới thì ông lão đã vội chạy ra nắm lấy dây cương, nói:"Xin tiên sinh tha cho lão nô tội đường đột! Dám hỏi tiên sinh đang đi đâu đó?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân đang trên đường về Sơn Ðông!" Ông lão nói:"Thế thì may cho lão nô quá! Bản chủ nhân cũng vừa sai lão nô đem chiếc giỏ này đi Sơn Ðông để trao cho một người quen của tiên sinh! Nay được biết tiên sinh đang trên đường về Sơn Ðông, lão nô dám mạo muội nhờ tiên sinh đem chiếc giỏ này về trao cho người ấy!" Hư Nhất đáp:"Ðược! Song phải nói rõ người ấy là ai vì bỉ nhân có nhiều người quen lắm!" Ông lão đáp:"Người ấy là Trương Hư Nhất tiên sinh!Ợ Hư Nhất kinh ngạc, nói: "Bỉ nhân chính là Trương Hư Nhất đây!" Rồi hỏi ông lão: "Quý chủ nhân là ai?" Ông lão đáp:"Bản chủ nhân là Hồ tứ tướng công!" Lúc đó Hư Nhất mới vỡ lẽ rằng thiếu niên mình vừa gặp chính là Hồ tứ tướng công và tướng công muốn tặng mình chiếc giỏ này. Ông lão trao giỏ. Hư Nhất giơ tay ra nhận. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thêm thì ông lão đã biến mất.
Mở giỏ ra coi, Hư Nhất thấy trong giỏ có một gói lớn, bọc bằng lụa đỏ, ngoài có dán một tấm giấy vàng, trên đề mấy chữ:"Hồ tứ tướng công kính tặng Trương Hư Nhất tiên sinh" Hư Nhất mở gói ra coi thì thấy toàn là vàng, ngọc.
Hư Nhất bèn buộc chặt chiếc giỏ trên mình ngựa rồi phóng về quê ở Lai Vu, Sơn Ðông.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:43:33 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 05:54:00
KIM ÐAN CỦA MA CHỒN
(truyện VƯƠNG LAN)

Kim đan thiết đắc để sinh hoàn
Nhân thuật tiên tâm kiến nhất ban
Tụ ẩm Yên Ðôn thương tí phỉ
Châu liên cơ thoán Thiết Vi san

 
Thời xưa, ở Trung quốc, người ta tin rằng người chết thì thành ma, ma chết thì thành tiện, chồn chết thì thành ma chồn, ma chồn chết thì thành tiện chồn. Dù là người hay chồn, ma hay ma chồn, kẻ nào có kim đan mà nuốt cũng thành tiên. Tiên nào cũng có thuật trường sinh bất tử, có phép thần thông.
Huyện Lợi Tân tỉnh Sơn Ðông có nho sinh họ Vương, tên Lan, có vợ và hai con. Trong làng, Vương Lan chơi thân với một nho sinh, họ Trương, tên Hội. Trương Hội lại chơi thân với một kẻ vô lại họ Hạ, tên Tài. Hạ Tài chẳng chịu làm ăn, suốt ngày chỉ rượu chè cờ bạc, phung phí hết tài sản của cha mẹ để lại.
Vương Lan đang sống khỏe mạnh, hạnh phúc với vợ con, bỗng bị bạo bệnh mà thác. Quỷ tới bắt hồn, dắt theo để đi bắt các hồn khác. Nửa năm sau, khi đã bắt được đủ số hồn trong danh sách tào ty giao cho, quỷ mới dắt cả xuống âm phủ, trình Diêm Vương. Diêm Vương sai tào quan mở sổ kiểm lại. Kiểm xong, tào quan trình rằng quỷ đã bắt lầm một người tên Vương Lan. Diêm Vương bèn nổi cơn thịnh nộ, cho gọi quỷ lên quát mắng thậm tệ rồi bắt phải đưa Vương Lan trở về dương thế. Quỷ vội đưa Vương Lan về.
Tới nhà, thấy xác Vương Lan quàn trong linh cữu đã rữa, hồn chẳng thể nhập vào được, quỷ kinh hãi quá, thầm nghĩ nếu lại dắt Vương Lan trở xuống trình Diêm Vương thì thế nào Diêm Vương cũng sẽ trị tội mình. Quỷ bèn dụ Vương Lan:"Bây giờ xác anh đã rữa, anh chẳng thể nhập vào để trở lại làm người được nữa! Vậy để tôi đền anh bằng cách khác, anh có chịu không?" Vương Lan hỏi:"Ðền bằng cách nào?" Quỷ đáp:"Tôi sẽ giúp anh thành tiên!" Thấy Vương Lan có vẻ ngần ngừ, quỷ dụ tiếp:"Ðang làm người mà phải xuống làm ma thì mới khổ, chứ đang làm ma mà được lên làm tiên thì sướng lắm, còn sướng hơn được trở lại làm người nữa!" Vương Lan thở dài, hỏi:"Làm cách nào mà thành tiên được?" Ðáp:"Ở âm phủ, tôi biết có một ma chồn hiện đang luyện kim đan. Bây giờ, anh để tôi dẫn anh xuống nhà y, lấy cắp kim đan của y cho anh nuốt thì anh sẽ thành tiên. Anh có chịu không?" Thấy chẳng còn cách chi hơn, Vương Lan đành gật đầu.
Tối đó, nhằm tối nguyên tiêu, trăng sáng vằng vặc. Quỷ dắt Vương Lan xuống âm phủ, vào một biệt thự rộng lớn, tĩnh mịch, núp trong một bụi rậm ở cuối sân. Lát sau, Vương Lan thấy một chồn từ biệt thự bước ra sân, đến ngồi trên một chiếc ghế, chăm chú nhìn trăng. Ðột nhiên, chồn phùng mang trợn mắt thổi một kim đan từ trong miệng bay vút lên phía mặt trăng, rồi lại chu miệng hút. Chồn cứ thổi đi hút lại như thế mãi. Núp trong bụi rậm, quỷ nhẩm đếm số lần thổi. Tới lần thứ một trăm, khi chồn đang chu miệng hút thì quỷ nhảy vụt ra, phóng mình lên cao, chặn lấy kim đan, nhảy trở vào bụi, nhét vào miệng Vương Lan, giục:"Nuốt ngay đi!" Vương Lan còn đang bỡ ngỡ, nghe tiếng quỷ giục, liền nuốt. Chồn mất kim đan, nổi cơn thịnh nộ, nhảy theo quỷ, vung quyền đánh, quyết tâm đoạt lại. Vương Lan nhảy ra bênh quỷ. Thấy mình cô thế, khó thắng hai kẻ địch, vả lại thấy kim đan đã bị Vương Lan nuốt, chồn đâm chán nản, quay vào biệt thự, đóng sập cửa lại. Quỷ bèn nói với Vương Lan:"Tôi đã đền anh xong! Bây giờ anh đã thành tiên! Anh có thể biến thành người, trở về dương thế để thăm vợ con được rồi đó! Thôi, tôi đi đây!" Nói xong, quỷ bỏ đi.
Quỷ đi rồi Vương Lan mới sực nhớ là mình chưa hỏi quỷ cách biến thành người và đường về dương thế! Còn đang bực tức, bỗng Vương Lan sửng sốt khi thấy mình đã biến thành người và đang đứng trên dương thế, ngay giữa phòng khách nhà mình. Vừa lúc ấy, vợ con Vương Lan từ phòng trong bước ra. Thấy Vương Lan, ba mẹ con cùng kinh hãi, la hét thất thanh, hò nhau bỏ chạy, cho rằng hồn Vương Lan hiện về để bắt vợ con theo. Vương Lan vội lớn tiếng phân trần:"Nàng và hai con đừng sợ! Hãy đứng lại mà nghe ta nói! Bây giờ ta đã thành tiên rồi, chẳng phải là ma nữa!" Nghe thấy thế, ba mẹ con chỉ nửa tin nửa ngờ, song cũng đứng lại. Vương Lan bèn thuật cho vợ con nghe chuyện mình bị quỷ bắt lầm rồi chuyện mình được nuốt kim đan của ma chồn. Nghe xong, ba mẹ con mới hết sợ. Vương Lan bèn bảo vợ con dọn cho mình một phòng riêng. Ba mẹ con bàn tính với nhau rồi ưng thuận. Từ hôm ấy, ngày nào ba mẹ con cũng bưng cơm nước vào phòng cho Vương Lan ăn uống.
Chín hôm sau, chuyện Vương Lan tái sinh được đồn đãi khắp làng. Trương Hội nghe tin, chạy sang thăm. Vương Lan thuật chuyện cho bạn nghe rồi nói:"Hai ta cùng nghèo. Bây giờ tôi có cách làm giàu cho cả hai ta, anh có chịu không?" Trương Hội hỏi:"Làm giàu bằng cách nào?" Vương Lan đáp:"Bây giờ tôi có thuật chữa bệnh mà không cần phải dùng thuốc. Một mình tôi cũng có thể biến thành thày thuốc, đi chữa bệnh cho thiên hạ để làm giàu cho vợ con. Thế nhưng tôi lại sợ thiên hạ đồn tôi là ma rồi chẳng có ai chịu bỏ tiền ra nhờ tôi chữa bệnh. Vì thế bây giờ tôi muốn truyền thuật chữa bệnh cho anh rồi hai ta cùng lên tỉnh kiếm bệnh nhân. Nếu có ai chịu bỏ tiền ra nhờ anh chữa bệnh thì tiền kiếm được sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, anh có chịu không?" Trương Hội gật đầu. Vương Lan bèn giục:"Thế thì anh về sửa soạn hành trang đi!" Trương Hội liền về nhà sửa soạn hành trang rồi gom góp chút tiền bạc, theo Vương Lan lên tỉnh.
Tới tỉnh, hai người vừa vào trọ trong quán Yên Ðôn thì thấy trên tường có dán cáo thị:"Bỉ nhân họ Triệu, tên Hà, cư ngụ tại cửa Nam tỉnh này, có một gái tên Ân Ân. Từ hơn một tháng nay, tiện nữ bị hôn mê bất tỉnh. Các thày thuốc trong vùng đều bó tay. Nay, nếu có ai chữa được cho tiện nữ khỏi bệnh thì bỉ nhân xin tạ ngàn vàng" Vương Lan liền ghé tai Trương Hội mà thì thầm. Trương Hội gật đầu lia lịa, miệng lẩm nhẩm học thuộc những điều Vương Lan căn dặn.
Sáng sau, Trương Hội ăn mặc chỉnh tề, tìm tới nhà Triệu ông, quả quyết rằng mình có thể chữa được bệnh cho Ân Ân. Triệu ông nghĩ chắc là Trương Hội cũng chỉ khoác lác như mấy thày thuốc trước nên cũng chẳng tin, song vẫn nói:"Nếu đúng như vậy thì xin tiên sinh hãy giúp ngay cho!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông hãy cho bỉ nhân được coi sắc diện của lệnh ái!" Triệu ông bèn dắt Trương Hội vào phòng con. Thấy Ân Ân nằm hôn mê trên giường, Trương Hội ngắm nghía hồi lâu rồi nói:"Bệnh này đã tới thời kỳ nguy kịch song vẫn còn có thể chữa được!" Triệu ông hỏi:"Bệnh này là bệnh gì?" Trương Hội đáp:"Là bệnh lạc hồn!" Hỏi:"Tiên sinh sẽ dùng thuốc gì để chữa?" Ðáp:"Bệnh này chẳng cần dùng thuốc mà chỉ cần thỉnh thần linh đi tìm hồn, dẫn về cho nhập vào xác là xong!" Triệu ông chẳng tin, chỉ lắc đầu, thở dài, song vẫn nói: "Thôi thì tiên sinh cứ thử chữa giúp xem sao!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông cứ yên chí, thế nào bỉ nhân cũng chữa được! Chỉ xin tôn ông cho lập một bàn thờ giữa phòng khách rồi cho trải một chiếc chiếu trước bàn thờ là đủ!" Triệu ông liền sai gia nhân làm theo lời.
Trương Hội bước vào ngồi ở giữa chiếu, chắp tay lên trán khấn khứa hồi lâu rồi đứng dậy, nói:"Chỉ một giờ nữa là hồn sẽ về tới đây!" Triệu ông bèn sai tì nữ pha trà để cùng khách nhâm nhi, chờ hồn về. Chừng một giờ sau, Trương Hội thấy Vương Lan ghé tai mình thì thầm:"Hồn đã về, nhập vào xác ở trong phòng rồi đó!" Trương Hội bèn đứng dậy, lập lại lời nói của Vương Lan. Triệu ông nửa tin nửa ngờ song cũng đứng dậy, dắt Trương Hội vào phòng con. Tới cạnh giường, Trương Hội vỗ vai Ân Ân, hỏi:"Tiểu nương đã tỉnh chưa?" Ðột nhiên Ân Ân vươn vai ngáp, mở to mắt nhìn Trương Hội. Triệu ông thấy con đã tỉnh thì mừng quá, vội chạy tới hỏi: "Con có mệt không?" Ân Ân ngước mắt nhìn cha, đáp: "Con hơi mệt" Hỏi: "Con có nhớ được gì không?" Ðáp: "Thưa có!" Hỏi: "Con nhớ được những gì?" Ðáp:"Con nhớ là hôm ấy con đang dạo mát trong vườn thì bỗng thấy một kẻ lạ mặt, lưng đeo cung tên, dắt hai tiểu đồng cùng một con ngựa, mở cổng đột nhập vào vườn, giương cung bắn sẻ, song chẳng bắn trúng con nào!" Hỏi:"Thế con có nhớ tại sao con lại bị hôn mê không?" Ðáp:"Con không nhớ! Con chỉ nhớ rằng con sợ quá, quay mình bỏ chạy vào nhà thì bị y nhảy tới chặn lại, đưa cung tên cho, bắt tập bắn. Con lắc đầu từ chối rồi lại lách mình bỏ chạy. Y liền giơ tay túm lấy con, bế xốc lên lưng ngựa, phóng ra khỏi cổng. Hai tiểu đồng cũng chạy theo, song vì ngựa phi nhanh quá nên chỉ lát sau, con chẳng thấy chúng đâu nữa!" Hỏi: "Y phóng ngựa đưa con đi đâu?" Ðáp: "Y phóng ngựa đưa con tới một ngọn núi! Con gào khóc, chửi mắng y. Y cười, nói Ta chỉ muốn bắt ngươi theo ta một lát để dạy cho ngươi biết cách bắn cung thôi. Hãy im đi, đừng la lối nữa, kẻo ta ném xuống đường bây giờ!" Hỏi: "Thế con có im không?" Ðáp: "Thưa không! Con cứ tiếp tục gào khóc, chửi mắng y" Hỏi: "Thế rồi y ném con xuống đường phải không?" Ðáp: "Thưa vâng! Y ném con xuống đường rồi phóng ngựa đi mất!" Hỏi: "Thế sao con không chạy về nhà?" Ðáp:"Con muốn chạy về nhà lắm song không biết đường về! Con cứ lang thang quanh quẩn ở trong núi, bụng đói miệng khát, chẳng có gì ăn uống. Tới tối, khi gặp một hang núi, con vội chui vào thì vừa lúc con mệt lả, nằm vật xuống ngủ!" Hỏi: "Con ngủ được bao lâu?" Ðáp: "Con cũng chẳng nhớ! Con chỉ nhớ là con ngủ miên man cho tới sáng nay mới tỉnh!" Hỏi: "Tỉnh rồi thì con làm gì?" Ðáp: "Con vừa tỉnh thì chợt thấy một người lạ mặt tới nắm lấy tay con kéo dậy, lôi đi!" Hỏi: "Lôi đi đâu?" Ðáp: "Lôi lên trời! Con sợ quá, nhắm mắt lại thì cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, rồi nghe có tiếng gió thổi vù vù bên tai. Vừa rồi, khi hết tiếng gió, con mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường này! Cha ơi! Vị khách đây là ai thế?" Triệu ông đáp: "Là Trương y sư, người vừa chữa bệnh cho con đó! Con hãy nằm nghỉ đi! Mai mốt con khoẻ hẳn, cha sẽ thuật lại mọi chuyện cho con nghe!" Rồi Triệu ông mời Trương Hội trở ra phòng khách.
Bấy giờ Triệu ông mới phục tài chữa bệnh của Trương Hội, coi Trương Hội như một vị thần y, sai gia nhân mở kho lấy vàng, đếm đủ ngàn lạng, cho vào túi lớn, trả công Trương Hội. Trương Hội nhận túi vàng rồi xin cáo biệt. Triệu ông vội giữ lại, nói:"Xin tiên sinh hãy vui lòng ngủ lại đây đêm nay để xem bệnh tình của tiện nữ biến chuyển ra sao!" Trương Hội liền bằng lòng ở lại. Triệu ông bèn sai gia nhân dọn cho Trương Hội một phòng riêng. Trương Hội đem túi vàng về phòng.
Tối ấy, Triệu ông sai gia nhân làm tiệc khoản đãi Trương Hội. Tiệc xong, Trương Hội vừa về tới phòng thì thấy Vương Lan đã ở trong phòng. Thấy Trương Hội, Vương Lan nói:"Một mình anh mà đem túi vàng này về quê thì dọc đường dễ bị cướp lắm. Ðể tôi đem về trước cho. Tôi sẽ chia đôi, trao cho vợ con anh một nửa, vợ con tôi một nửa. Rồi tôi sẽ trở lại đây báo tin anh biết!" Trương Hội gật đầu, nói:"May quá! Tôi cũng đang lo chẳng biết phải làm thế nào để đem được túi vàng này về quê cho an toàn! Nay anh tính thế thì hay quá!" Nói xong, lấy túi vàng ra trao cho Vương Lan. Vương Lan liền đỡ lấy rồi từ giã Trương Hội mà lên đường.
Lát sau, Vương Lan về tới nhà, đánh thức vợ con dậy, chia cho nửa túi vàng rồi dặn sáng sau phải đem nửa túi kia sang trao cho vợ con Trương Hội, nói là của Trương Hội gửi về. Dặn dò xong, Vương Lan lại lên đường tới nhà Triệu ông. Tới nơi, Vương Lan nói với Trương Hội: "Tôi đã chia đều vàng cho vợ con anh và vợ con tôi rồi. Bây giờ anh cứ ở lại đây mà ngủ, tôi đi đây! Sáng mai, ta sẽ gặp nhau ở quán trọ!" Trương Hội gật đầu.
Sáng sau, Trương Hội cáo biệt Triệu ông. Thấy Trương Hội không đem theo túi vàng, Triệu ông nhắc: "Tiên sinh quên túi vàng rồi!" Trương Hội đáp:"Bỉ nhân đã cho gia nhân đem về trước rồi!" Triệu ông lấy làm lạ vì nhớ rằng Trương Hội chỉ tới đây có một mình. Tuy nhiên, Triệu ông cũng chẳng hỏi chi, chỉ lấy thêm ba trăm quan ra biếu Trương Hội làm lộ phí. Trương Hội cám ơn rồi cầm tiền về quán trọ. Dọc đường, Trương Hội gặp Hạ Tài.
Thấy Trương Hội, Hạ Tài mừng quá, vội chạy tới. Trương Hội hỏi:"Mi đi đâu?" Hạ Tài đáp:"Tôi nghe đồn anh vừa được Vương Lan truyền cho thuật chữa bệnh để làm giàu nên tôi lên đây tìm anh để xin chút tiền tiêu!" Trương Hội toan lấy trăm quan ra cho thì chợt có tiếng Vương Lan thì thầm bên tai:"Chỉ cho y mười quan thôi! Rồi đuổi y đi!" Trương Hội bèn nghe lời.
Hạ Tài đem tiền về Lợi Tân rượu chè cờ bạc. Mười ngày sau hết nhẵn, lại lên tỉnh hỏi thăm chỗ ở của Trương Hội. Khi được tin Trương Hội trọ trong quán Yên Ðôn thì trời đã tối nên Hạ Tài đành phải chờ sáng sau.
Ðêm ấy, Vương Lan ghé tai Trương Hội thì thầm:"Thế nào sáng mai thằng Hạ Tài cũng mò tới đây xin tiền. Nó bê tha rượu chè cờ bạc, anh chẳng nên chơi với nó nữa. Anh nên khuyên nó phải chí thú làm ăn rồi cho nó thêm chín chục quan nữa. Nó sẽ vâng dạ anh để lấy tiền, song nó sẽ chẳng nghe lời anh đâu! Nhưng thôi, anh cứ nên làm thế cho trọn tình bằng hữu. Cho nó ít tiền thì anh còn bị họa nhỏ, chứ cho nó nhiều tiền thì anh sẽ bị họa lớn đó!" Trương Hội đáp:"Tôi hiểu rồi!"
Quả nhiên, sáng sau, Hạ Tài lại mò tới. Trương Hội nói:"Tao đã biết trước là thế nào sáng nay mi cũng tới đây xin tiền. Mi cứ bê tha, rượu chè cờ bạc như thế này thì dù có ngàn vàng mi cũng sẽ tiêu hết ngay. Nếu mi thực tâm hối cải thì tao sẽ cho mi thêm chín chục quan nữa để lấy vốn mà làm ăn!" Hạ Tài vâng dạ rối rít. Trương Hội bèn lấy chín chục quan ra cho Hạ Tài.
Hạ Tài lại đem tiền về Lợi Tân, la cà ở các tửu quán, đổ trường. Lính tuần biết Hạ Tài đã sạt nghiệp mà nay lại có tiền vung vãi thì nghi ngờ, bèn bắt giải vào trình quan tể. Quan hỏi Hạ Tài lấy tiền ở đâu ra thì Hạ Tài man khai là tiền của cha mẹ để lại. Quan chẳng tin, sai lính tra khảo. Bị đánh trọng thương, Hạ Tài đành phải khai thực là của Trương Hội cho. Quan bèn bắt Hạ Tài dẫn lính lên quán trọ Yên Ðôn để bắt Trương Hội về huyện đối chất xem lời khai của Hạ Tài có đúng hay không. Thế nhưng, vì bị trọng thương nên mới đi được nửa đường, Hạ Tài đã lăn ra chết. Lính đem xác về trình. Quan liền sai lính đem đi chôn, rồi dẹp vụ án.
Hạ Tài chết, hồn bay lên tỉnh, vào phòng trọ của Trương Hội. Gặp hồn ma của Vương Lan ở trong phòng, Hạ Tài kinh hãi quá, quay mình bỏ chạy. Vương Lan gọi giật lại, nói:"Vì anh chẳng nghe lời bạn nên mới bị uổng tử. Nay đã thành ma thì hãy ở lại đây mà chơi với bạn ít bữa vì chỉ mấy hôm nữa thôi là các anh sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa!" Thấy Vương Lan nói chuyện tử tế với mình, Hạ Tài bèn ở lại.
Tối ấy, Trương Hội đưa tiền nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm mình để thết đãi hồn ma hai bạn. Hạ Tài được dịp ăn uống thỏa thích, nên say sưa bí tỉ, la hét ầm ĩ. Vương Lan nói:"Anh la hét như thế thì chỉ tổ làm hại bạn anh thôi!" Hạ Tài chẳng nghe, cứ tiếp tục la hét. Vương Lan bèn bỏ đi.
Ðêm ấy, quan tuần phương ngự sử dắt lính đi tuần quanh tỉnh. Qua quán trọ Yên Ðôn, thấy có tiếng la hét, quan bèn sai lính vào bắt kẻ làm huyên náo. Lính vào hỏi chủ quán:"Tiếng la hét từ đâu vọng ra đường?" Chủ quán chỉ phòng của Trương Hội. Lính ập vào phòng thì chỉ thấy một mình Trương Hội đang ngồi độc ẩm. Lính liền bắt trói Trương Hội, đem ra trình quan. Ngự sử truyền giải Trương Hội về tỉnh đường, nhốt vào ngục.
Sáng sau, ngự sử đăng đường, cho giải Trương Hội lên, hỏi:"Sao đêm qua mi lại uống rượu say, làm huyên náo cả đường phố?" Trương Hội kinh hãi, đáp:"Bẩm đại quan, đó là hồn ma của bạn tiểu nhân chứ chẳng phải là tiểu nhân!" Hỏi:"Bạn mi tên chi?" Ðáp:"Bẩm đại quan, y tên Hạ Tài!" Hỏi:"Sao mi biết là hồn ma của y la hét?" Ðáp:"Bẩm đại quan, vì đêm qua tiểu nhân có nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm tiểu nhân để thết đãi hồn ma hai người bạn là Hạ Tài và Vương Lan. Hồn Hạ Tài uống rượu say rồi la hét, hồn Vương Lan khuyên thế nào y cũng chẳng nghe!" Ngự sử nổi giận, quát:"Mi chỉ nói toàn chuyện hoang đường! Chính mi la hét chứ ma với quỷ nào!" Rồi ra lệnh cho lính đánh mười roi, nhốt vào ngục.
Tối ấy, khi ngẫm lại lời khai của Trương Hội, ngự sử lại nửa ngờ nửa tin. Nhân gần công đường có đền Linh Quan, nổi tiếng linh thiêng, ngự sử bèn viết một lá thư Gửi Thần Ðền Linh Quan. Trong thư, ngự sử thuật lại lời khai của Trương Hội rồi hỏi:"Trương Hội khai như thế có đúng không?" Sau đó, ngự sử sai lính đem lá thư tới đốt ở lò hương trong đền. Ðêm ấy, ngự sử nằm mộng thấy một người, mình mặc giáp vàng, đầu đội mũ thần, tới nói:"Bản chức là thần đền Linh Quan. Nhận được thư của đại quan nên tới đây để trả lời. Trương Hội khai như thế là đúng. Y vốn có hai người bạn là Vương Lan và Hạ Tài. Vương Lan thì bị quỷ bắt lầm rồi sau đó, nhờ có cơ duyên mà được thành tiên. Y vô can trong vụ la hét đêm qua. Ngày mai, bản chức sẽ phụng mệnh Diêm Vương, trao cho y chức Thanh Ðạo Sứ, bắt y phải lên đường phó nhậm ngay. Hạ Tài mới là kẻ có tội. Tên này khi sống là kẻ vô lại, khi chết chẳng chừa tật xấu, làm huyên náo cả đường phố ở dương gian. Theo lệnh của Diêm Vương, ngày mai y sẽ bị đày đi làm phu vác đá ở núi Thiết Vi. Còn Trương Hội vô tội, xin đại quan tha cho y!" Sáng ra, ngự sử cũng lấy làm lạ về giấc mộng. Bèn đăng đường, truyền lệnh thả cho Trương Hội ra về.
Trương Hội về quán trọ, kiểm lại tiền bạc, thấy vẫn còn đủ hai trăm quan của Triệu ông biếu. Bèn thanh toán tiền phòng, lên đường về quê. Tới nhà, đem một trăm quan sang biếu vợ con Vương Lan.
Hai gia đình Trương Hội và Vương Lan cùng dùng vàng của Triệu ông trả công để làm vốn đi buôn. Sau, trở thành hai gia đình khá giả ở trong làng.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 05:57:45 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 06:09:04
BẢY CHỊ EM CHỒN
(truyện TIÊU THẤT)

Phấn nhị chi hương tập ỷ diên
Ôn nhu hương diệc hữu tiền duyên
Tiêu lang vị ẩm tâm tiên túy
Tụ đắc lăng cân cánh diểu nhiên

Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có nho sinh họ Từ, tên Kế Trường, có vợ họ Ðiền. Ðiền thị đẹp lắm, đã hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, lại hay chiều chồng và ưa bỡn cợt với chồng. Kế Trường đi thi hương mãi không đậu nên bỏ học, đi làm chủ bạ.
Một buổi sáng mùa hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát nước, Kế Trường đảo mắt kiếm một ngôi nhà để vào xin nước uống thì thấy hai bên đường chỉ toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây. Khi miệng đã khô, Kế Trường mới thấy một biệt thự ở đằng xa. Mừng quá, Kế Trường vội rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão đang ngồi hóng gió ở ngoài cổng. Kế Trường chắp tay vái chào, nói:"Bỉ nhân khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy, nói:"Xin mời lang quân hãy đi theo lão phu!"
Sau khi dẫn Kế Trường vào sảnh đường ngồi, ông lão gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ cho Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin lang quân cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân họ Từ, tên Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.
Lát sau, Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt. Ông lão nói:"Trời tối rồi, khó thấy đường đi, lang quân ở lại đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Ðang bị say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách rồi quay qua nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để lang quân đi nghỉ, song giờ này còn sớm, mời lang quân ngồi đây nói chuyện với lão phu thêm một lát nữa đã!" Kế Trường đành phải ngồi lại.
Tới nửa đêm, đột nhiên ông lão gọi gia nhân lên, sai bày tiệc rượu cho tám thực khách. Kế Trường ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa nửa đêm còn đi bày tiệc rượu, song cũng chẳng dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Lang quân có gia thất chưa?" Kế Trường đáp:"Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng lang quân!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện gì?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê là lão phu đường đột! Nguyên lão phu có bảy con gái, đã gả chồng hết sáu, chỉ còn đứa út năm nay mười sáu. Nay thấy lang quân là người xứng đôi với nó nên lão phu muốn gả nó cho lang quân làm trắc thất, chẳng hay ý lang quân thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Bỗng ông lão sai gia nhân sang hàng xóm mời khách sang dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô Bảy trang điểm và trình với phu nhân đưa cô Bảy ra chào khách.
Lát sau, có bốn lão khách từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là hai tì nữ dìu một nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người. Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Lang quân đây họ Từ, húy Kế Trường. Lão phu vừa quyết định đêm nay làm lễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng lang quân đây! Nửa đêm mà còn đi làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.
Kế Trường say rượu, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, chỉ muốn được đi nằm, nhưng trong tình cảnh ấy, cũng phải miễn cưỡng ngồi vào bàn. Rượu được vài tuần, Kế Trường say quá, chẳng còn kham nổi nên đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại song Kế Trường cương quyết chối từ. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái vào chung phòng. Tì nữ dắt hai người vào căn phòng mới dọn, rồi khép cửa, bỏ đi.
Vào phòng, Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì đến ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp: "Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Ðáp:"Thiếp không có tên!" Hỏi:"Không có tên thì lấy chi mà gọi?" Cười, đáp: "Ai cũng gọi thiếp là cô Bảy vì thiếp là con gái thứ bảy trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nàng ra sao?" Ðáp:"Gia thế thiếp thì nghèo hèn thô lậu, chẳng có gì đáng khoe. Tuy nhiên, nay thiếp đã được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng chẳng đến nỗi làm nhục cho gia thế nhà chồng. Do đó, thiếp thiết tưởng chàng cũng chẳng nên căn vặn nữa!" Kế Trường ngượng quá, chẳng dám hỏi chi thêm. Bỗng cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường hỏi lại:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp: "Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Ðáp:"Vì chàng còn chánh thất ở nhà. Ðại nương hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao chẳng dắt thiếp về chung sống?" Thấy Kế Trường ngần ngại, cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về trước, xin đại nương cho thiếp về ở chung. Nếu đại nương ưng thuận thì xin cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu. Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường vui vầy với Kế Trường. Lát sau, Kế Trường mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy cô Bảy đã biến mất. Kế Trường vội vùng dậy coi thì thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ, trên một đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội chỉnh lại mũ áo rồi ra về.
Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Ðiền thị chẳng tin, rũ ra cười, nói:"Chắc là tại chàng say rượu, ngã xuống đường mà ngủ rồi nằm mơ thấy thế chứ gì?" Tuy nhiên, vì muốn bỡn cợt chồng, Ðiền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm gối chăn mới, rồi ra nói:"Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu mới!" Nói xong, lại rũ ra cười, làm cho Kế Trường cũng phải cười theo.
Tối ấy, cơm nước xong, Ðiền thị muốn bỡn cợt chồng, bèn đến cạnh chồng, nắm tay lôi tới căn phòng mới dọn, rồi mở cửa phòng, lên tiếng hỏi đùa:"Tân giai nhân đã tới đó ư? Còn chờ gì mà chẳng ra dắt tân lang vào ngủ?" Nói xong, lại rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Ðiền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống đất, xỏ chân vào giày, chạy ra phía cửa. Ðiền thị đưa mắt nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang chắp tay vái chào Ðiền thị. Ðiền thị gật đầu chào lại rồi hỏi:"Hiền muội tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Ðiền thị chỉ Kế Trường, nói:"Bây giờ hiền muội cứ giữ lang quân ở lại đây, để ngu tỉ đi lấy rượu vào cho hai người làm lễ hợp cẩn!" rồi bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn cô Bảy thì chỉ che miệng mà cười. Lát sau, Ðiền thị đem rượu vào phòng rồi trở ra. Ðêm ấy, Kế Trường ngủ lại phòng cô Bảy.

Sáng sau, cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi Ðiền thị ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất thì thích lắm, chẳng ngớt lời khen. Từ đó, ba người chung sống hòa thuận, vui vẻ dưới một mái nhà.
Tháng sau. Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, sáu tỉ tỉ của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, lấy chi mà đãi khách?" Ðáp:"Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên họ sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với đại nương tối nay giúp thiếp hâm nóng lại thức ăn một chút mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Ðiền thị vui vẻ nhận lời. Trưa ấy, quả nhiên có người gánh hai thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân nhà rồi bỏ đi. Ðiền thị liền ra lấy, đem vào nhà bếp.
Tối ấy, khi thấy sáu chị tới, cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình rồi giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy cô Cả cũng chỉ chừng bốn mươi trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng mười tám. Cô Sáu có vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì vì mới góa chồng. Ðiền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Ðiền thị lên dự tiệc. Ðiền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng. Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm ĩ. Thấy tiếng ồn ào trên phòng cô Bảy, Ðiền thị bèn chạy lên dòm qua cửa sổ để xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy nhưng tai thì vẫn nghe thấy tiếng cười nói của nhiều người. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn tiễn sáu chị ra về.
Ðiền thị vào phòng cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Ðiền thị cười, hỏi:"Lũ nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi:"Sao nàng biết?" Ðiền thị cười, đáp:"Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" rồi thu dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.
Tiễn khách về rồi, cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được thu dọn, liền hỏi Kế Trường:"Ai dọn dẹp thế này?" Kế Trường đáp:"Chị ấy dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Ðiền thị mà rửa, giục Ðiền thị lên nhà đi nghỉ.
Ðiền thị lên phòng cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì thực là kỳ cục, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm cho một bữa tiệc mà mời khách!" Kế Trường trầm ngâm, chẳng đáp. Lát sau, Ðiền thị nói:"Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng mình.
Tháng sau. Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc, rồi bảo cô Bảy về nhà mời sáu chị sang dự. Ðến tối, Ðiền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng cô Bảy. Lát sau, khách tới. Kế Trường bảo cô Bảy ra mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo chi, song chừa lại bốn bát thức ăn, chẳng đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ, hỏi:"Sao các tỉ tỉ chẳng dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười, đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại bốn món, để phần nhà bếp!"
Trong tiệc, cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường làm cho Kế Trường phải đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em liền đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng hễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Cô nào thì cũng chỉ bị phạt một vài chén, riêng cô Sáu thì bị phạt tới mười hai chén. Vì thế, cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng. Kế Trường chờ mãi chẳng thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy cô Sáu đang nằm ngủ vùi ở xó bếp, tay nắm chặt một chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi áo, rồi trở lên bàn tiệc, nói cô Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho cô ấy ngủ.
Ðêm ấy, bữa tiệc kéo dài tới gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy năm chị lớn đã sửa soạn ra về mà chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, cô Bảy liền chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, song vẫn còn ngái ngủ, chưa chịu ngồi dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu đứng dậy lên nhà trên, cùng năm chị ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi tiễn khách. Ðược lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa. Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy chiếc khăn ra coi thì thấy chiếc khăn đã mất. Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ, nghĩ rằng mình đã đánh rớt chiếc khăn ở dọc đường khi đi tiễn khách nên vội thắp đèn đi tìm, song tìm mãi chẳng thấy. Thấy Kế Trường trở về, vẻ mặt buồn rầu, cô Bảy mỉm cười, hỏi:"Ði đâu về thế?" Kế Trường đáp:"Ði đóng cổng!" Hỏi:"Ði đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Chối:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công vô ích!" Kế Trường kinh hãi quá, đành thú thực:"Ta mê chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói: "Thiếp biết chứ! Nhưng chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Ðáp:"Vì kiếp trước chàng là nho sinh còn chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp chị Sáu thì mê song cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, phải nằm liệt giường, nhờ người báo tin cho chị Sáu biết, xin chị Sáu tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã được toại nguyện. Chị Sáu ưng thuận song cứ chần chờ. Ðến tối, khi chị Sáu tới thì chàng đã thác. Vì thế, chị Sáu chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay chị Sáu để gỡ trộm khăn rồi thì nợ đã hết. Vì thế, hai người khó lòng mà tiến xa hơn được!"
Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc để mời các cô chị của cô Bảy. Thế nhưng lần này, chỉ có năm cô tới còn cô Sáu không tới. Kế Trường nghi là cô Bảy ghen, không cho cô Sáu tới nên rất oán hận cô Bảy. Cô Bảy phân trần:"Thấy chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho chị ấy tới. Thực ra thì tại chị ấy không muốn tới chứ chẳng phải là tại thiếp ghen!" Kế Trường vẫn chẳng tin. Cô Bảy bèn tìm đủ cách cho Kế Trường gặp lại cô Sáu nhưng cô Sáu nhất định chẳng chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.
Tám năm sau.
Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Ðáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng chẳng thể ở lại đây được nữa hay sao?" Ðáp:"Chẳng thể được! Song trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Ðáp:"Việc gặp lại chị Sáu! Trong tám năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại chị Sáu để cho chàng được toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời chị ấy tới đây dự tiệc thì chị ấy có quyền từ chối, song chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng! Xưa nay, nhân định thắng thiên cũng nhiều!" Kế Trường mừng lắm, thuận đi theo cô Bảy.
Chiều ấy, cô Bảy vào chào vĩnh biệt Ðiền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả hai cùng bay bổng lên không trung. Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đang đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Tiêu lão cùng phu nhân khẽ gật đầu đáp lễ rồi bảo cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách. Vào phòng, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay qua nói với Kế Trường:"Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với hiền tế trong tám năm qua, lão thân rất cám ơn hiền tế. Vì lão thân già yếu, chẳng tới nhà hiền tế được lần nào, mong hiền tế hiểu cho!" Sau đó, quay qua bảo gia nhân:"Tối nay, hãy bày tiệc rượu cho năm thực khách!" Gia nhân vâng dạ.
Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường và cô Bảy cùng ngồi vào bàn dự tiệc với mình. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao chẳng thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp: "Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả song sáng nay đứa nào cũng theo chồng về nhà rồi! Chỉ còn con Sáu ở lại đây thôi!" Rồi sai tì nữ vào nhà trong mời cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ cô Sáu ra song chờ mãi chẳng thấy. Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Kế Trường đưa mắt nhìn thì thấy nét mặt cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ chẳng được vui tươi như trước.
Rượu được vài tuần, Tiêu lão và phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại ba người ở bàn tiệc, cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười, nói:"Em thử nghĩ coi! Gần gũi với con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, để làm gì?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho cô Bảy. Ðột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ hai chén rượu ở tay hai người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép hai người phải uống hết. Thấy hai người còn e dè, cô Bảy nói:"Uống hết đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy đứng dậy, đi vào nhà trong.
Thấy trong phòng chỉ còn có cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay cô Sáu. Ðột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng. Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?" Kế Trường còn đang luống cuống thì cô Sáu đã biến mất. Kế Trường buồn bã, ngồi bệt xuống sàn thì bỗng thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất cả, duy chỉ còn mình đang ngồi giữa một bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bàu trời đầy sao.
Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi tới rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy đến. Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ săn kinh hãi, hỏi:"Bằng hữu là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân làm chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về thì bị lạc đường nên phải ngồi tạm xuống chỗ này nghỉ chân!" Bọn thợ săn hỏi:"Tụi tôi đang đuổi theo một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, bằng hữu có thấy không?" Ðáp:"Bỉ nhân chẳng thấy chi cả!" rồi đưa mắt nhìn quanh thì nhận thấy mình đang ngồi cạnh một ngôi cổ mộ thuộc gia đình họ Vu. Bọn thợ săn ra về. Kế Trường buồn bã đứng dậy, về theo. Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe, làm Ðiền thị cũng phải kinh ngạc. Kế Trường thầm mong cô Bảy trở lại một lần song trước sau cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2007 06:15:39 bởi Hoàng Dung >

Hoàng Dung
  • Số bài : 3997
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.09.2005
  • Nơi: Đảo Đào Hoa
RE: liêu trai chí dị- Bồ Tùng Linh - 21.04.2007 06:31:01
THẦN THÁNH CŨNG ƯA NỊNH
(truyện HẠ TUYẾT)

Hợp hướng nhân gian hưởng đại danh
Viêm thiên phong tuyết nhất thời tình,
Ngự tai hãn hoạn thành linh sảng
Kiêu thái hà đa thế tục tình

 
 
 



Ở Trung quốc thời xưa, dân chúng thường có thói xưng hô siểm nịnh. Vào đời vua Khang Hy triều Thanh, dân chúng quen gọi các cử nhân bằng Gia, các tiến sĩ bằng Lão Gia, các triều quan bằng Ðại Lão Gia.

Giữa mùa hè năm đinh hợi (1707), niên hiệu Khang Hy thứ 46, ngày 3 tháng 6, phủ Quy Ðức, tỉnh Hà Nam bị bão tuyết. Tuyết xuống dày hơn hai gang tay, lúa má ngoài đồng đều bị hủy hoại.

Ðến ngày mồng 6 tháng 7, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô cũng bị bão tuyết. Dân chúng kinh hãi lắm, rủ nhau tới đền thờ Ðại Vương cầu khấn. Họ khấn Ðại Vương bằng hai tiếng Lão Gia. Bỗng họ thấy Ðại Vương nhập vào một người, nói:"Thời nay, người đời quen khấn thần thánh bằng ba tiếng Ðại Lão Gia, thay vì bằng hai tiếng Lão Gia như trước. Chắc các ngươi cho rằng ta chỉ là một tiểu thần nên chẳng thèm khấn thêm tiếng Ðại ở đằng trước chứ gì?" Dân chúng kinh hãi quá, vội khấn Ðại Vương bằng ba tiếng Ðại Lão Gia. Bão tuyết liền ngưng.

Câu truyện trên đây hàm ý thần thánh cũng ưa nịnh như người đời. Nếu đúng thế thì đáng tiếc cho dân chúng phủ Quy Ðức đã chẳng biết dùng ba tiếng Ðại Lão Gia mà khấn thần thánh để cứu cho mùa màng khỏi bị thiệt hại.


Đã mang vào thư viện
Cảm ơn Hoàng ban chủ nhé
Chúc vui
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2007 02:46:24 bởi Ct.Ly >