Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
silverbullet 03.05.2007 00:49:05 (permalink)

Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Thiên Đức


Hằng nằm cứ vào ngày 6-2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Đây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.

Vào năm 40 sau công nguyên Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lượt, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.

Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.

Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiển Giang hình tổ kén ở Phong Khê.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/24925/A91BE520F6354F04A6270DB95C1253BF.jpg[/image] 
 
(hình số 1)
(Đền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu)
Nguồn: Thiên Đức 8/2005

Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là :

- Nguyên do khởi nghĩa của hai bà vì thù chồng hay vì nợ nước?

- Hai bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?

- Ngày lễ kỷ niệm của hai bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?

- Nguyên do cái chết của hai bà nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?

Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học XHCN lý giải.

Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.

Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng?

Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng.

Theo Khâm Định Việt Sử Thương Giám Cương Mục trang 24-25 ghi :” Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Đô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán...

Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc....

Sách Nhất Thống Chí nhà Đại Thanh có chép: Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Đó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.

Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang

Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước.


http://viethoc.org/eholdings/sach/kdvstgcm.pdf

A/-Trụ Đồng Mã Viện:

Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:


I/- Sự thật của trụ đồng:

Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Đây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.

Vào đời vua Trần Thánh Tôn đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.

“Tháng 4 mùa hạ.( 1272) Sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được.” Việc đó sau cũng thôi. ...( KDVSTGCMCB Quyển VII tr. 219)

“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này.” (KDVSTGCMCB quyển IX Tr.279)


II/- Vị trí của trụ đồng:

Đa số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:

- Sách Nhất Thống Chí nhà Đại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm

- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi : Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.

Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.

Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?

Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Đại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “ Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”

http://www.vietnamsante.com/trandaisy/tds-nguongoctocviet.pdf

Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Động đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.


III/- Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”

Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Điểm này có nhiều nghịch lý.

1.- Đây không thể là một lời thề, thật vậy Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.

2.- Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.

3.- Đa số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ CHIẾT mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ , thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặt ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.

Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.


IV/- Công dụng của trụ đồng:

Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.

1)- Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên tr.199). Đây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.

2)- Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử)

Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn ... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.

Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?)thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng.... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.

Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hằng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạt lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.

Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẽ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?

3)- Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới lại ghi câu : “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?.

Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?


B/- KIỂN THÀNH:

Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.

Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và ốm có rất nhiều nhược điểm như sau:

- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.

- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.

- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.

Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.

Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.

Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.

Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:

Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Đế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...

Đến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Đô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng...


http://viethoc.org/eholdings/sach/ancl.pdf

Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.

Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng(?)đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:

1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.

Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Đồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.

2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Đồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Đây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết.” Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.

3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:


(hính so 2)
(Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Đức

Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.

Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.

Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.

Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Đồng Mã Viện, Dương Hỏa.

Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Đóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.

Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:

- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.

- Câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã(?)

- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.

Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:

- Đặt đúng huyệt vị

- Điều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.

- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.

Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.

Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.

Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, Thiên Đức trân trọng bố cáo:

Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng:

Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng.

Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ.

Cấp! Cấp! tuân lệnh!

Để tăng thêm uy lực hóa giải lời nguyền của Mã Viện, khẩn mong các bạn có cơ duyên đọc bài viết này thì xin cho một lời nguyền rủa từ đáy lòng mình trả lại cho Trung Quốc là nơi xuất phát nguồn gốc của câu chuyện.

Thiên Đức mong mỏi các nhà viết sử tiếp nhận thông tin này và tiếp tục làm sáng tỏ sự việc hòng trả lại sự thật cho lịch sử với cầu mong giải tỏa lời nguyền rủa gớm ghiếc để cho dân tộc Việt Nam có thể có những nữ anh hùng dân tộc trong tương lai vậy.

Thiên Đức trân trọng trình báo.
http://www.vnfa.com/aot/ot_tdmv.html
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2007 05:41:14 bởi silverbullet >
Attached Image(s)
#1
    silverbullet 06.05.2007 05:32:45 (permalink)
    Tôi không rành về cổ sử, nhưng đọc bài viết trên và nhớ lại câu ca dao dưới đây làm tôi cảm thấy man mác về nguồn gốc của dân tộc Việt tự ngàn xưa và có lẽ "sự thật ngày xưa" đúng như đã diễn tả trong ca dao dưới đây:

    "Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
    Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
    Tiết trời thu lạnh lành lanh
    Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông
    Bống bồng bông, bống bồng bông
    Võng đào mẹ bế, con Rồng cháu Tiên" (Ca Dao)


    Gió Động Đình, Trăng Tiền Đường giờ chỉ còn lại lời ca dao não nuột của Mẹ! Cũng như Ải Nam Quan, một số hải đảo của biển Đông đã biến mất trên bản đồ VN và cả biển Đông cũng đang bị thu hẹp dần lại. Một ngày nào đó có lẽ chúng ta và con cháu sẽ nghe Mẹ VN ru con bằng những câu ca dao tiếc nhớ "Ải Nam Quan và ..." mà giá buốt tâm can...
     
    Trích "QHCPLCKN"
    #2
      silverbullet 08.05.2007 05:40:36 (permalink)

      Có đúng thành Cổ Loa hình xoáy trôn ốc?
      Hà Văn Thùy



      Hồi nhỏ tôi được học: "Thành có hình xoắn ốc nên gọi là thành Cổ Loa." Rồi quá nhiều lần đọc đâu đó: "Loa Thành là biểu hiện trí tuệ độc đáo tuyệt vời của người Việt về mặt khoa học quân sự mà không nơi nào trên thế giới có được!" Nghe vậy thì biết vậy nào dám cãi, tuy cũng hơi ớn cái giọng vỗ ngực tự phụ kiểu phường tuồng!

      Nhưng rồi một lúc nào đó tôi giật mình tự hỏi: Người ta đánh nhau thế nào trong cái thành hình xoắn ốc? Và nhận ra, chẳng cần hiểu biết lắm về quân sự, cũng thấy được là, chỉ cần tạo một cửa mở, quân địch sẽ như nước lũ ào theo đường xoắn ốc vào chém tướng bắt vua, vì không còn vật gì ngăn giặc! Tường thành lúc này lại trở nên vật cản không cho quân từ ngoài vào cứu! Như vậy, thành hình ốc chẳng phải sáng kiến hay ho gì về khoa học quân sự mà kỳ thực là một cái bẫy tai họa!

      Nghi ngờ ưu thế quân sự của Loa Thành dẫn tôi tới nghi ngờ sự tồn tại của một tòa thành hình xoắn ốc. Ðiều này buộc tôi tìm hiểu về cấu trúc của Loa Thành.

      Ðược biết, vào những năm 60 thế kỷ trước, thầy trò Trường Ðại học Tổng hợp Hà Nội khảo sát di tích thành Cổ Loa và công bố những số liệu sau:







      Thành Cổ Loa
      Nguồn: mevietnam.org




      Trên hiện trạng di tích, thành có 3 vòng:

      - Vòng ngoài hình dạng không cố định, chu vi 8000 m

      - Vòng giữa hình dạng không cố định, khuôn theo vòng ngoài, chu vi 6500 m

      - Vòng trong hình chữ nhật, chu vi 1650m.

      Mỗi vòng thành đều có 3 lớp: hào sâu ở ngoài, lớp rào gai hay chông ở giữa và bên trong là thành đất. Vòng thành ngoài và vòng thành giữa không có hình dạng nhất định, gần như quả lê, phình to mạn Bắc, thu hẹp dần về phía Nam rồi nối liền nhau, chừa một khoảng trống làm cửa Nam. Vòng thành trong hình chữ nhật, trên mặt thành có 12 ụ lửa ( hỏa hồi).

      Căn cứ đặc điểm các vòng thành, các nhà khảo cổ kết luận:

      - Vòng thành ngoài và giữa do An Dương vương đắp.

      - Vòng thành trong (Thành Nội) được gọi là Kiển Thành do Mã Viện xây sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

      Như vậy là trong vòng 300 năm từ khi xây dựng cho đến khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, thành Cổ Loa do An Dương vương đắp chỉ có hai vòng thành, mỗi vòng gồm ba lớp. Hai vòng thành này cách biệt. Không hề có việc các vòng thành cuộn hình xoắn ốc.

      Sau năm 43, Mã Viện cho đắp thành nội hình chữ nhật ở vị trí trung tâm vòng thành giữa, gọi là Kiển thành (thành hình tổ kén). Thành nội cũng có 3 lớp và cũng cách biệt với hai vòng thành bên ngoài. Như vậy, thành Cổ Loa thời Mã Viện có 3 vòng thành cách biệt, thuộc loại hình thành lũy cổ điển, về nguyên lý kiến trúc không có gì khác so với những thành lũy có trước nó.

      Từ phân tích trên cho thấy Thành Cổ Loa thời An Dương vương là một thành lũy bình thường không hề có hình xoắn ốc! Vì vậy không thể nói Thành có hình xoắn ốc nên gọi là thành Cổ Loa! Và lẽ đương nhiên, nếu nhìn ra vẻ có hình xoắn ốc thì chính là do Mã Viện xây Thành Nội mà có chứ không phải sáng tạo của An Dương vương!







      Thành Cổ Loa nhanh biến mất vì chậm tu bổ.
      Nguồn: dantri.com.vn





      Cuốn sách đầu tiên nói đến thành của An Dương vương là Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn thế kỷ thứ 5. Nhưng sách đã mất, người tra cứu chỉ gặp từng đoạn trong những sách khác, đoạn sau do sách Cựu Ðường thư dẫn lại: "An Dương vương cai trị Giao Chỉ... Thành có 9 vòng, chu vi 9 dặm."

      Tùy thư ghi: "Lý Phật Tử đóng đô ở Việt vương cổ thành."

      An Nam chí lược của Lê Tắc thế kỷ XIV viết: "Thành Việt vương tục gọi là thành Khả Lũ."

      Tới thế kỷ XV, An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng người đời Minh viết: "Việt vương thành ở huyện Ðông Ngạn, còn gọi là Loa thành. "Có tên Loa Thành vì thành ấy quanh co như hình con ốc."

      Phân tích những lời dẫn trên ta thấy:

      1- Nam Việt chí viết không chính xác, đã gộp cả Kiển Thành của Mã Viện vào thành cũ của An Dương vương. Từ đấy các sách khác viết sai theo.

      2- An Nam chí nguyên nói: có tên Loa Thành vì thành ấy quanh co như hình con ốc. Nếu dựa vào hình dạng bên ngoài của thành thì sự ví von của An Nam chí nguyên có thể chấp nhận. Nhưng cách ví von này không có nghĩa An Nam chí nguyên bảo rằng thành có hình xoắn ốc. Cách giải thích "thành có hình xoắn ốc nên gọi là Loa Thành" là sự hiểu lầm ý của sách An Nam chí nguyên.

      Thử giải thích tên Loa Thành:

      Chúng tôi đoán rằng cái chỗ mà An Dương vương chọn định đô vốn có tên Việt là Kẻ Lũ (có nghĩa là Người Ốc), vì đấy là vùng nhiều ao đầm có lắm ốc. Trong thời Âu Lạc được thay bằng Thành Chủ nhưng Kẻ Lũ vẫn sống trong ký ức người dân. Khi Mã Viện tới, lấy lại tên gọi thời Tần là Thành Côn Lôn. Mỗi khi một thế lực cai trị đến đóng, thành lại được đặt tên cho phù hợp. Ðến thế kỷ XIV, vào thời Lý Phật Tử, thành được lấy theo tên cũ Kẻ Lũ. Nhưng lúc này chuyển sang tên chữ là Khả Lũ. Thời Lý Phật tử quá ngắn, sau đó thành bị bỏ hoang phế, người dân lại gọi theo tên cũ Kẻ Lũ. Sang thế kỷ XV, Kẻ Lũ được chuyển sang âm Việt Hán là Cổ Loa. Những người làm sách đến thăm thành cũ theo tên địa phương gọi là Thành Cổ Loa, Loa Thành.

      Tác giả An Nam chí lược, cũng như các tác giả trước đó thấy tòa thành cổ có 3 vòng gồm 9 lớp nhưng không biết vòng Kiển thành do Mã Viện đắp nên gộp tất cả vào cho An Dương vương. Nhìn hình dạng bề ngoài tòa thành và nghe tên thành là Cổ Loa rồi vì từ tố loa - ốc đã suy đoán là thành quanh co như con ốc nên gọi là Loa Thành.

      Kết quả là từ cuốn sách này làm cho người sau lầm tưởng thành được kiến trúc hình xoắn ốc. Rồi nhân đó những người hoang tưởng cho là biểu hiện trí tuệ độc đáo tuyệt vời của người Việt về mặt khoa học quân sự mà không nơi nào trên thế giới có được!

      Họ không biết rằng, thành của An Dương vương chỉ có 2 vòng, 6 lớp nên không có hình xoáy ốc. Hình xoáy ốc nếu có lại là kết quả việc làm vô tình của Mã Viện!

      Không biết có phải vậy không, mong quý vị cao minh chỉ bảo.

      Copyright @ DCVOnline 2006






      DCVOnline − Đọc thêm: Thành Cổ Loa có mấy vòng?


      Ðỗ Văn Ninh(*)

      Năm 257 trước Công nguyên (TCN), nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Lần đầu tiên trong lịch sử, người Âu Lạc xây được một tòa thành quy mô, có kiến trúc độc đáo. Thế nhưng việc xác định thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng hiện vẫn chưa có sự thống nhất ý kiến.

      Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?








      Thành Cổ Loa Cổ Loa, huyện Ðông Anh, cách trung tâm Hà Nội 18 km
      Nguồn: macdinhchireunion.net





      Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, trong cung (kiểm thành) thường được gọi là thành nội, ở giữa là thành trung (tường giữa) và thành ngoài (tường ngoài). Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành ngoài có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không đào hào vì đã có con sông Hoàng chảy ôm sát chân thành. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.

      Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng thành càng gần nhau, cuối cùng hai vòng nối liền với nhau, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối đi chính để vào thành.

      Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Ðông Tây chưa hề có!

      Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy.

      Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Ðất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.

      Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?

      Vòng thành trong cùng gọi là Kiển thành, lâu nay nhiều người vẫn lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, qua nghiên cứu, chúng tôi đã đi đến kết luận: Kiển thành do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng!

      Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Ðáng chú ý là thành có đắp 12 hồi nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có chiều dài bốn hồi, chiều rộng bốn hồi.

      Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hỏa hồi (ụ đất) của Kiển thành theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Hoa. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Ðây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.

      Tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường thành để có tòa thành sắc cạnh là cách xây dựng của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này.

      Bên trong Kiển thành, chúng tôi còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Ðây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trinh lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.

      Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, chúng tôi đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Ðế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Ðế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (gạch cỡ lớn làm năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Ðế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.

      Trong Ðại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".

      Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Ðào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Mã Viện đã chọn Cổ Loa làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm cái "vỏ kén" để bảo vệ vòng thành trong là "con nhộng" của mình. Mã Viện đã chọn Cổ Loa để đắp Kiển thành vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi. 300 năm trước đó, An Dương Vương đã chọn nơi đây để đắp Loa Thành.

      Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiệt

      Còn một câu hỏi được nhiều người đặt ra là nếu Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành như một số nhà nghiên cứu đã khẳng định trước đây thì liệu có nên đầu tư kinh phí để tôn tạo vòng thành trong cùng của Mã Viện? Theo tôi, điều quan trọng nhất là sự chính xác của tri thức lịch sử, còn việc tôn tạo chỉ nhằm giữ gìn vốn quý của lịch sử.

      (*): GS Viện Nghiên Cứu Sử Học, Hà Nội. Nguồn: nhanmonquan.net

      http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=2168
      #3
        silverbullet 08.05.2007 05:43:50 (permalink)
        Chồng bà Trưng Trắc là ai?

        --- Lê Thi ---


        Lâu nay trong tất cả tài liệu sách báo chúng ta đều nói rằng chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai của quan Lạc tướng huyện Châu Diên. Thi Sách bị Thái thú Giao Chỉ là Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định chạy về Tàu để trả thù cho chồng, rửa hờn cho nước. Sự việc xảy ra vào năm 40 Công nguyên.

        Nhưng cách đây hơn 30 năm, tôi có đọc một tài liệu lịch sử được viết một cách rất nghiêm túc lại cho rằng thực tế chồng Trưng Trắc tên là Thi chứ không phải là Thi Sách. Đó là quyển Phương pháp sử học của Nguyễn Phương do Viện đại học Huế xuất bản năm 1964.

        Trong tài liệu đó tác giả Nguyễn Phương đã đưa ra những chứng ký hết sức thú vị và rất chặt chẽ để biện dẫn cho ý kiến của mình và giải thích nguyên nhân dẫn đến sự sai lầm này.

        Theo tác giả Nguyễn Phương thì tài liệu sử đầu tiên nói về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là quyển Hậu Hán thư do Thái thú Phạm Việp viết vào thế kỷ V. Trong tài liệu này không hề đề cập đến tên của chồng bà Trưng Trắc. Sách chỉ viết "Hữu Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc cập nữ đệ nhị Trưng Nhị phản công dịch kỳ quận".

        Tạm dịch :"Giao Chỉ có nữ tử Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản đóng chiếm (ở) quận ấy".

        Tiếp theo Hậu Hán thư, vào thế kỷ thứ VI, Lệ Đào Nguyên là người đầu tiên đề cập đến tên chồng bà Trưng Trắc trong tác phẩm Thuỷ kinh chú. Lệ Đào Nguyên viết "châu diên lạc tướng tử danh trưng trắc vi thê trắc vi nhân hữu đảm dũng tương thi khỉ tặc mã viện tương binh phạt trắc thi tẩu nhập kim khê" (Đoạn này trích nguyên Thuỷ Kinh chú không viết hoa và chấm phẩy ngắt câu theo tinh thần chữ Hán cổ).

        Đến thế kỷ thứ 8, Thái tử Hiền đã chú thích cho bộ Hậu Hán thư và đã dùng đoạn trên trong Thuỷ kinh chú để nói rõ hơn về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

        Sau các chữ "Trưng nhị phản...." của Hậu Hán thư như vừa trích ở trên, Thái tử Hiền viết thêm lời chú: "Trưng Trức giả Mê Linh huyện Lạc Sách thê, thậm hùng dũng". Tạm dịch: "Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, (là) vợ của Thi Sách người Châu Diên, rất hùng mạnh".

        Ở đây câu văn nguyên của Thuỷ kinh chú đã bị rút khỏi ngữ cảnh và vì thế khi đọc lên người đọc thấy ngay rằng ý của Thái Tử Hiền lấy Thi Sách làm một tên riêng.

        Sai lầm bắt đầu từ đây.

        Về sau các sử gia Việt Nam khi viết về cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng đều dựa vào Hậu Hán thư để viết, vì vậy đều cho rằng: chồng của bà Trưng Trắc tên là Thi Sách. (Có thể chỉ một mình Lê Văn Hưu dựa theo Hậu Hán thư có lời chú của Thái tử Hiền sai, sau này Ngô Sĩ Liên dựa theo Lê Văn Hưu nên cũng sai nốt - nên nhớ Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử ký vào thế kỷ 13, còn Ngô Sĩ Liên viết Đại Việt sử ký toàn thư vào thế kỷ 15. Còn các sử gia sau này cứ tiếp tục theo Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên mà viết, nên cứ đinh ninh rằng chồng bà Trưng Trắc tên là Thi Sách cho mãi đến bây giờ).

        Để hiểu rõ lý giải của Nguyễn Phương xin mời đọc lại ý kiến của ông trong tác phẩm đã dẫn ở trên trang 96, 97.

        "Các nhà học giả Việt Nam như Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên cũng như nhiều người khác chắc ít khi đọc đến những bộ sách dài dằng dặc và ít hứng thú như bộ Thuỷ Kinh chú, trái lại họ chỉ đọc có Hậu Hán thư và cứ đinh ninh rằng Thi Sách là tên chồng bà Trưng Trắc. Nhưng giả sử học có biết đến đoạn văn chính thức của Thuỷ Kinh chú như vừa trích ở trên thì nhất thiết họ phải nhận thấy tên ông đó chỉ là Thi mà thôi chứ không thể nào là Thi Sách được. Quả thế nếu chấm phẩy cho đúng thì câu văn của Lệ Đào Nguyên phải viết ra Hán Việt như thế này: "Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trức vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi khỉ tặc. Mã Viện tương binh phạt. Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê" nghĩa là "Con trai của vị Lạc tướng Châu Diên tên là Thi, lấy con gái vị Lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người có đảm dũng đem Thi nổi dậy làm giặc. Mã Viện đem quân sang đánh. Trắc và Thi chạy vào Kim Khê". Chúng ta thấy rằng tác giả Thuỷ Kinh chú khi gọi bà Trưng Trắc (cả 2 chữ) khi thì gọi bằng Trắc (1 chữ) và khi gọi bằng một chữ như vậy ông gọi với chữ sau (Trưng). Vậy giả sử tên chồng bà Trưng là Thi Sách thì khi gọi tắt bằng một chữ ông phải dùng chữ Sách chứ không phải chữ Thi, ấy thế mà hai lần sau ông vẫn cứ dùng chữ Thi chứ không lặp lại chữ Sách. Đằng khác chiếu theo nghĩa của câu văn thì phải hiểu rằng tên của chồng bà Trưng là Thi mà thôi mới đúng bơỉ vì "Sách vi thể" có nghĩa là lấy làm vợ" (Sđd, trang 96-97).

        Nguyễn Phương cũng cho rằng không phải ông là người đầu tiên phát hiện ra sự sai lầm này. Người đầu tiên đề cập đến cái sai của Thái tử Hiền chính là Huệ Đồng, một cụ đồ nho người Tàu. Huệ Đồng đã đề cập đến cái sai lầm này khi bổ chú cho Hậu Hán thư. Lời bổ chú này được đăng trong phần phụ lục của chuyện Mã Viện, với nội dung như sau :"Cứu Triệu Nhất Thanh viết: Sách thê do ngôn thú thế. Pham sử tác "Gải vi châu diên nhân thi sách thê" mậu hỉ; án thủy kinh chú ngôn tương Thi" ngôn Trắc. Thi minh chỉ danh Thi (nghĩa là Xét Triệu Nhất Thanh nói rằng Sách thê còn có nghĩa là cưới vợ, quyển sử của Phạm chép "gả làm vợ người Châu diên tên là Thi Sách" là lầm vậy, xem Thuỷ Kinh chú thấy nói tương thi rồi nói Trắc và Thi chỉ rõ rằng tên ông đó là Thi). (Sđd, tr97).

        Hàng năm cứ đến ngày 8/3, Ngày quốc tế phụ nữ cũng là ngày kỷ niệm khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chúng ta thường lặp đi lặp lại ở khắp nơi chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách; và lại cho rằng bà Trưng nổi dậy trước để trả thù chồng sau để rửa hờn cho nước là không đúng sự thật và hạ thấp ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa. Nếu Nguyễn Phương nói đúng (hay đúng hơn Thuỷ kinh chú nói đúng) thì cả gia đình bà Trưng đã vì nghĩa lớn mà nổi dậy chứ không phải chỉ vì "tình riêng".

        Thiết nghĩ việc gọi đúng tên một người đã có công đấu tranh giành độc lập cho đất nước như chồng của bà Trưng Trắc là một việc cần thiết và cũng là trách nhiệm của các nhà sử học.

        Ngày nay nền sử học của chúng ta đã bước được những bước dài, và điều kiện cũng thuận lợi cho phép xác định lại việc này một cách chính xác. Rất mong được nghe những lý giải hết sức lý thú và đầy thuyết phục của các nhà sử học.

        Đà Nẵng tháng 2/1998





        nguồn: Kiến Thức Ngày Nay
        http://www.suutap.com/default.asp?id=825&muc=3 
        #4
          silverbullet 08.05.2007 05:47:06 (permalink)
          Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa
          Trần Gia Phụng
          Toronto
          , 24.03.2007


           
          Trong lịch sử Việt Nam, nhiều sách trước đây đã cho rằng triều đại do Triệu Đà lập ra là một triều đại cổ Việt. Tuy nhiên, sử Trung Hoa cho biết rằng Triệu Đà là tùy tướng của Nhâm Ngao, và Nhâm Ngao là phiên tướng của nhà Tần.(1) Trước khi từ trần, Ngao khuyên Triệu Đà nhân cơ hội Hán Sở tranh hùng, nên dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập với trung ương.(2) Triệu Đà liền chiếm Nam Hải và tự xưng vương tức Triệu Vũ Vương, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung năm 207 TCN (giáp ngọ).(3) Triệu Đà xua quân chiếm luôn các quận phía nam là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cử người sang cai trị các quận nầy năm 198 TCN (quý mão).

          Sau đó, tại Trung Hoa, Lưu Bang lật đổ nhà Tần lên cầm quyền tức Hán Cao Tổ (trị vì 202-195 TCN), lập ra nhà Hán (202 TCN - 220). Năm canh ngọ (111 TCN), Hán Vũ Đế (Han Wu Ti, trị vì 140-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (tước là Phục Ba tướng quân) đem quân đánh nhà Triệu, giết vua Triệu lúc bấy giờ là Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm Nam Việt, rồi đổi Nam Việt thành Giao Chỉ bộ.

          Đáng chú ý là bộ Giao Chỉ là một tên chung để chỉ một vùng rộng lớn gồm chín quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm Nhĩ mà trong đó, theo Ngô Thời Sỹ, chỉ có ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân,và Nhật Nam mới riêng hẳn là cổ Việt. (4) Phải chăng vì lầm lẫn giữa bộ Giao Chỉ và quận Giao Chỉ mà nhiều sử thuyết đã đưa Triệu Đà thành một triều đại của cổ Việt và cho rằng lãnh thổ cổ Việt là khu vực cai trị của Triệu Đà bao gồm cả vùng Quảng Châu (Trung Hoa) ngày nay?(5)

          Sự kiện báo hiệu việc mở đầu công cuộc tranh đấu giành độc lập của nước cổ Việt thuộc địa bàn khu vực nước ta ngày nay là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 (canh tý). Trưng Trắc, người huyện Mê Linh (Phúc Yên ngày nay), cùng em là Trưng Nhị đánh đuổi thái thú Trung Hoa là Tô Định về nước, lấy được một số thành trì và tự xưng vương, đóng đô ở quê nhà là Mê Linh. Hai Bà Trưng đã được sử sách ghi lại là người địa phương Giao Châu đầu tiên lập chiến công chống lại chính quyền Trung Hoa, nói lên ý chí độc lập của người cổ Việt nhắm tạo dựng một quốc gia riêng biệt, thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa.
          Năm 41 (tân sửu), Trung Hoa gởi Mã Viện sang Giao Châu. Mã Viện (14 TCN – 49) là một danh tướng nhà Hán, cũng được phong tước Phục Ba tướng quân, tiến đánh và dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 43 (quý mão). Nước cổ Việt tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của người Trung Hoa.

          Về lịch sử cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có những vấn đề cần được xác định lại:

          1) Tên chồng bà Trưng Trắc: Theo bộ Đại Việt sử ký toàn thư (phần “Ngoại kỷ”, quyển 3 tờ 2a), được bộ Việt sử thông giám cương mục dựa vào đó chép lại (phần “Tiền biên”, quyển 2 tờ 10),(6) chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Sau đây là lời của Toàn thư: “Tên huý là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Châu Diên.(7)

          Khi viết tên chồng bà Trưng là Thi Sách, Ngô Sĩ Liên đã dựa vào tiểu truyện Hai Bà Trưng trong các sách Lĩnh Nam chích quái (Trích những chuyện quái ở đất Lĩnh Nam, thế kỷ 15), Việt điện u linh tập (Tập chuyện u linh ở Việt điện, thế kỷ 14) (8) và xa hơn nữa là bộ sử của Trung Hoa do Phạm Việp viết là Hậu Hán thư (Sách về đời Hậu Hán, viết vào thế kỷ thứ 5).(9) Ngành viết sử của nước ta chỉ bắt đầu vào thế kỷ 13, nên những đoạn sử trước đó, người xưa đều sử dụng tài liệu Trung Hoa.

          Trong phần chính văn bộ Hậu Hán thư của Phạm Việp, có đoạn về Hai Bà Trưng như sau: “Hựu Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc, cập nữ đệ Trưng Nhị phản công đầu kỳ quận. Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố man di giải ứng, khấu lược Lĩnh ngoại lục thập dư thành, Trắc tự lập vi vương.” (nghĩa là: “Ở Giao Chỉ có người đàn bà tên là Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị nổi lên làm loạn, đánh phá trong quận. Người man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đến hưởng ứng, cướp phá hơn 60 thành ở Lĩnh ngoại. Trắc tự xưng vương.”) (10)

          Vào thế kỷ thứ 6, một tác giả khác tên là Lịch Đạo Nguyên, đã du lịch sang cổ Việt, đến thăm vùng Mê Linh. Khi trở về Trung Hoa, ông viết sách Thuỷ kinh chú, trong đó ông có đề cập đến chuyện Hai Bà Trưng và viết như sau: "...Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (nghĩa là: ...Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi hỏi [sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...) (11)

          Dựa vào tài liệu Thuỷ kinh chú, trong khi chú thích phần chính văn viết về Hai Bà Trưng của Hậu Hán thư, thái tử Lý Hiền (12) đời nhà Đường, vào thế kỷ thư 8, đã chú thích rằng: “Trưng Trắc giả, Mê Linh huyện Lạc tướng chi nữ dã, giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê, thậm hùng dũng.” (nghĩa là: “Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh được gả làm vợ một người huyện Châu Diên là Thi Sách, bà rất hùng dũng.”(13)

          Cần lưu ý là sách chữ Nho ngày xưa viết không có chấm câu, nên người đọc có thể không biết câu văn dừng lại ở chỗ nào, và rất dễ lẫn lộn câu nầy qua câu khác. Trong chú thích cuả mình, thay vì viết tên “Thi” như Thuỷ kinh chú, thái tử Hiền đã viết thành “Thi Sách”.

          Cách viết của thái tử Hiền về tên chồng bà Trưng dẫn đến cách viết của các tác giả Việt, từ Việt điện u linh tập, đến Việt sử lược,(14) qua Lĩnh Nam chích quái, rồi đến các bộ chính sử Toàn thư và Cương mục, nghĩa là các sách nầy đều cho rằng chồng bà Trưng tên là Thi Sách. Sự lầm lẫn nầy không phải do các tác giả Việt tự ý viết ra, mà do ảnh hưởng của lời chú thích Hậu Hán thư của thái tử Hiền bên Trung Hoa.

          Người phát hiện ra sự lầm lẫn về tên chồng bà Trưng trong chú thích của thái tử Hiền là học giả Huệ Đống, vào thế kỷ thứ 18, dưới đời nhà Thanh (Trung Hoa).(15) Khi so sánh chú thích của thái tử Hiền trong Hậu Hán thư và câu văn nguyên thuỷ của Thuỷ kinh chú, Huệ Đống viết như sau: “Cứu Triệu Nhất Thanh [16] viết “Sách thê” do ngôn thú thê. Phạm sử tác: “Giá vi Châu Diên nhân Thi Sách thê” mậu hỉ. Án Thuỷ kinh chú ngôn “tương Thi”, ngôn “Trắc Thi”, minh chỉ danh Thi.” (nghĩa là: “Xét Triệu Nhất Thanh nói: “sách thê” còn có nghĩa là “cưới vợ”; các sử học Phạm chép “Gả làm vợ người Châu Diên là Thi Sách” là sai. Xem Thuỷ kinh chú thấy nói “tương Thi”, rồi nói “Trắc Thi”, chỉ rõ ràng tên ông đó là Thi.”(17)

          Trong Thuỷ kinh chú, Lịch Đạo Nguyên viết: “...Châu Diên lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh lạc tướng nữ tử danh Trưng Trắc vi thê. ” (nghĩa là: “Con trai của lạc tướng Châu Diên tên là Thi, hỏi [sách] con gái lạc tướng Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ.”). Trong câu nầy, nếu Thi Sách là họ và tên thì vế thứ nhì của câu nầy thiếu động từ, trở nên tối nghĩa. Như Huệ Đống đã viết, đọc tiếp đoạn Thuỷ kinh chú về Hai Bà Trưng, sự cân đối trong cách dùng từ sẽ cho thấy rõ tên của chồng bà Trưng. "... Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân sang đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...) Tác giả Lịch Đạo Nguyên dùng tên Trắc, vậy thì chữ Thi theo sau đó cũng phải là tên chứ không thể là họ. Lịch Đạo Nguyên đã đến Mê Linh vào thế kỷ thứ 6 và phát hiện tên chồng bà Trưng tên là Thi, vậy tốt nhất nên trở về đúng tên ban đầu của chồng bà Trưng, tức là ông Thi.

          2. Lý do cuộc khởi nghĩa : Theo Toàn thư, thái thú Trung Hoa là Tô Định cai trị tàn bạo, dùng pháp luật trói buộc, lại giết chồng Bà Trưng nên Bà khởi nghĩa. Sau đây là lời của Toàn thư: “ Mùa xuân, tháng Hai [canh tý], vua [Trưng Trắc] khổ vì thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu...”(18)

          Như trên đã trích dẫn, theo Lịch Đạo Nguyên trong sách Thủy Kinh Chú thì: "... Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc; Mã Viện tương binh thảo, Trắc Thi tẩu nhập Cẩm Khê...” (...[Bà] Trắc là người can đảm, cùng [ông] Thi nổi dậy làm giặc; Mã Viện đem quân sang đánh, [ông bà] Trắc Thi chạy vào Cẩm Khê...) như vậy có nghĩa là ông Thi còn sống khi Bà Trưng nổi lên. Vậy lý do khởi nghĩa vì thù chồng mà Toàn thư viết không đứng vững.

          Một tài liệu khác đã giải thích vì sao chồng Bà Trưng bị khai tử trong khi ông vẫn còn sống và cùng vợ khởi nghĩa. Đó là quyển The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh] của tác giả Keith Weller Taylor. Trong sách nầy, tác giả Taylor cho rằng do thành kiến trọng nam, các nhà viết sử người Việt của những thế kỷ sau thời Hai Bà Trưng không thể chấp nhận chuyện một người phụ nữ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và trở thành vua trong khi ông chồng vẫn còn sống, nên họ đã viết rằng Tô Định đã giết chồng Bà Trưng. Trong khi đó, cũng theo Taylor, những tài liệu Trung Hoa cho thấy rõ rằng ông Thi đã theo Bà Trưng khởi nghĩa.(19)
          Về lý do thứ nhất, Bà Trưng khởi nghĩa vì bị luật pháp ràng buộc, khi chú thích Hậu Hán thư của Phạm Việp, cũng trong đoạn viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, thái tử Hiền đã viết vào thế kỷ thứ 8:"...Giao Chỉ thái thú Tô Định dĩ pháp thằng chi, Trắc oán nộ cố phản...” (...Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng luật pháp trói buộc nên [bà] Trắc tức giận làm phản...). (20)

          Chữ "pháp" mà thái tử Hiền dùng không phải chỉ một nghĩa hẹp là "luật lệ", mà chữ "pháp" ở đây có thể hiểu rộng hơn như là pháp chế, tổ chức hành chánh, chính trị, cũng như kinh tế, văn hóa, phong tục. Nói một cách khác, Tô Định đã áp đặt mạnh mẽ chế độ cai trị của Trung Hoa theo chính sách đồng hóa của nhà Hán (202 TCN - 220), làm mất tự do của người cổ Việt, và Trưng Trắc đã nổi lên khởi nghĩa chống lại Tô Định. Về pháp luật, trong một đoạn nói về việc cai trị của Mã Viện sau khi dẹp Hai Bà Trưng, Hậu Hán thư (quyển 54, tr. 747) chép: "Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự." (Luật dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến trên mười điều).(21) Có lẽ Hậu Hán thư viết nhẹ nhàng là chỉ có mười điều, nhưng nếu là mười điều căn bản tối quan trọng của tổ chức xã hội thì cũng đủ trở thành gông cùm trói buộc những người cổ Việt đang sống tự do theo phong tục tập quán của mình.

          Như vậy, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa vì ý chí tự do độc lập của dân tộc cổ Việt. Lý do nầy rất cao cả, chính đáng, và mạnh mẽ. Phải chăng khi nghĩ rằng việc bị pháp luật ràng buộc không đủ mạnh, nên các sử gia chính thống ngày trước phải thêm chuyện thù chồng để việc nổi dậy thêm phần ý nghĩa. Nói cho cùng, chuyện thù chồng chỉ là chuyện cá nhân của mỗi người, chứ không phải là đại nghĩa của đất nước; huống gì ở đây chồng bà Trắc còn sống và cả hai cùng nổi dậy. Cũng chính vì thêm việc thù chồng, nên các tác giả của các bộ sử trên đây biên chép kết quả cuộc khởi nghĩa không rõ ràng.

          Cần chú ý, lúc đó Mã Viện đã về hưu trí, nhưng vua nhà Hán phải mời Mã Viện ra cầm quân trở lại để bình định cổ Việt, đủ thấy sức kháng cự của Hai Bà Trưng rất mạnh mẽ làm cho nhà Hán phải lo ngại gởi một danh tướng đi đánh dẹp.

          3. Kết quả cuộc khởi nghĩa : Theo Hậu Hán thư, khi Mã Viện được vua Hán cử sang Giao Châu năm 41, thì vào mùa xuân năm sau, Mã Viện đụng trận với Hai Bà Trưng tại vùng Lãng Bạc. (theo Cương mục, Lãng Bạc là vùng hồ Tây, Hà Nội ngày nay) Bà Trưng cùng chồng thua chạy. Mã Viện đuổi Bà Trưng đến Cẩm Khê, đánh thắng mấy trận, quân bà Trưng bị tan rã. (theo Cương mục, Cẩm Khê là vùng Sơn Tây ngày nay). Hậu Hán thư còn viết tiếp Mã Viện chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gởi đầu về Lạc Dương vào tháng giêng năm 43.(22)

          Trong Việt sử lược, tác giả khuyết danh đã viết: “Năm thứ 19 [niên hiệu Kiến Vũ nhà Hán tức năm 43] Trưng Trắc càng nguy khốn, bị Mã Viện giết.”(23) Tác giả Lê Tắc (24) trong An Nam chí lược cũng viết như thế: “Năm Kiến Vũ thứ 19, Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị và đánh luôn cả dư đảng, bọn Đô Dương. Đến huyện Cư Phong, bọn nầy đầu hàng.”(25) Lê Tắc gọi Hai Bà Trưng là “yêu tặc” vì lúc đó ông đầu hàng quân Nguyên, nên ông đứng trên quan điểm của người Trung Hoa viết về vị nữ anh hùng dân tộc Việt.

          Tuy nhiên, khi viết chính sử vào thế kỷ thứ 15, Ngô Sĩ Liên dừng lại ở chỗ Hai Bà Trưng thua chạy, chứ không đề cập đến cái chết của Hai Bà. Sau đây là lời của Toàn thư: “Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cẩm Khê. Quân chúng cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại mất.”(26)

          Toàn thư không đề cập đến cái chết của Hai Bà Trưng, nên trong Việt sử tiêu án, Ngô Thời Sỹ cũng viết: "...Trưng Vương thấy quân nhà Hán thế mạnh, tự nghĩ quân mình ô hợp sợ không chống nổi bèn lui về giữ ở Cẩm Khê. Quân lính cũng nghĩ vương là người con gái, không thể địch với tướng Hán được, đều tự vỡ chạy...Xét quân Hai Bà Trưng thua chạy đến núi Hy Sơn, rồi không biết đi đâu...”(27)

          Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết:"...Được ba năm, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh. Vua [chỉ Trưng Trắc] thấy quân Hán đông, tự xét không thể địch nổi, mới lui giữ Cẩm Khê. Quân đều tan vỡ. Vua cùng quân Hán đánh nhau, thế cùng phải chết. Nước bị mất...”(28) Như thế, Phan Huy Chú đã viết rõ ra rằng Trưng Trắc bị thua, bỏ chạy vào Cẩm Khê, và từ trần mà tránh nói vì sao bà từ trần.

          Qua đến Cương mục, các tác giả sách nầy cho rằng Hai Bà “thất trận chết”. Sách Cương mục viết: “Trưng Vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán; quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết.”(29)

          Ngang đây, xuất hiện bộ sử thi Đại Nam Quốc sử diễn ca [Sử nước Đại Nam diễn ra lời ca] dưới thời vua Tự Đức.(30) Các tác giả sách nầy đã thi vị hóa cái chết của Hai Bà Trưng:

          " Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo,
          Chị em thất thế cùng liều với sông.”(31)

          Trí tưởng tượng của các thi sĩ trên được tác giả Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng tô điểm thêm trong bài "Thân thế và sự nghiệp của hai bà Trưng" trên báo Tri Tân, số 38 ra ngày 11-3-1942, trang 219. Nguyễn Tường Phượng viết: "...Chị em Trưng Vương thất thế phải gieo mình xuống cửa sông Hát giang mà tự tận...”

          Hình ảnh gieo mình xuống sông Hát có vẻ vừa hào hùng, vừa lãng mạn dễ trở thành đề tài cho thi ca nhạc kịch, và dễ được lan truyền trong trí tưởng tượng của quần chúng hơn là hình ảnh thân gái hy sinh nơi chiến trường, bị bắt chặt đầu một cách rùng rợn rồi gởi về Trung Hoa.

          Với tinh thần của một người ngoại cuộc, theo những tài liệu phát hiện được, tác giả Keith Weller Taylor viết thẳng thừng rằng: "Mã Viện tiến đến Mê Linh, và vào cuối năm [42] đã bắt được Trưng Trắc cùng em là Nhị; vào tháng giêng năm sau, đầu của hai chị em được gởi về triều đình nhà Hán ở Lạc Dương” (32)

          Có thể các sử gia người Việt ngày trước muốn tránh né một sự thật đau lòng và không mấy vẻ vang cho dân tộc Việt, nên tránh né không viết chuyện Mã Viện chém đầu Hai Bà Trưng gởi về dâng lên triều đình Trung Hoa, rồi đến các văn nhân đã thi vị hóa bằng cách mô tả Hai Bà đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát.(33)

          Tuy nhiên việc Hai Bà Trưng bị chết một cách thảm thương như vậy đâu có làm giảm oai linh của người nữ anh hùng dân tộc chúng ta. Điều đó càng chứng tỏ Hai Bà Trưng đã quyết chiến đấu đến cùng, và hy sinh tính mạng trên chiến trường vì nền độc lập của dân tộc chúng ta. Chẳng những trong lịch sử Việt Nam, mà cả trong lịch sử thế giới Hai Bà Trưng được ghi nhận là trường hợp người phụ nữ đầu tiên nổi lên sớm nhất chống lại quân ngoại xâm giành lại nền độc lập cho dân tộc. Đó là một sự hy sinh vĩ đại của một bậc nữ lưu mà cổ kim đông tây không thấy có, và đời đời dân tộc Việt tưởng nhớ ghi ơn.

          Khi đọc đoạn sử về Hai Bà Trưng, vua Tự Đức (trị vì 1847-1883) đã ngự phê: " Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm dư! "(34)

          CHÚ THÍCH :

          (1)Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, dụ chỉ tr. 9, bản dịch ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội 1957, tr. 61). (Viết tắt: Cương mục). Các nhân vật nầy còn xuất hiện trong bộ tiểu thuyết dã sử Hán Sở tranh hùng của Trung Hoa. Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn dưới triều Tự Đức, xong năm 1881 (tân tỵ), gồm hai phần: Tiền biên (5 quyển) bắt đầu từ thời Hồng Bàng đến Thập nhị sứ quân, và Chính biên (47 quyển) từ Đinh Tiên Hoàng (trị vì 970-979) đến Lê Chiêu Thống (trị vì 1787-1788).
          Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 63.
          (2)Theo lời "chua" của quốc sử quán triều Nguyễn trong Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 64, Phiên Ngung ngày xưa thuộc quận Nam Hải, ngày nay là đất Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa.
          (3)Ngô Thời Sỹ Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, Văn Sử tái bản, San Jose 1991, tr. 25, 34. Thật ra, chỉ có Giao Chỉ và Cửu Nhân là hai quận của cổ Việt, còn Nhật Nam lúc đó là đất Chiêm Thành. Cũng theo Ngô Thời Sỹ vì Triệu Đà sáp nhập cổ Việt vào Nam Việt nên khi Nam Việt bị nhà Hán sáp nhập vào Trung Hoa, nước cổ Việt cũng bị họa lây. Do đó, theo Ngô Thời Sỹ, Triệu Đà chẳng những không có công gì với cổ Việt mà còn thủ họa cho cổ Việt nữa. (sđd. tr.34)
          (4)Gần giống như tỉnh bang Quebec với thành phố Quebec, nước Mexico với thành phố Mexico.
          (5) Tên Giao Chỉ có từ xưa, người Trung Hoa dùng để chỉ vùng đất về phía tây nam xa ngoài đất Bách Việt (Toàn thư, bản dịch, sđd. tr. 131.). Đến đời nhà Tần, Giao Chỉ là Tượng quận (Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 59). Đầu đời nhà Hán, Hán triều tách Tượng Quận làm 3 thành Giao Chỉ, Cửu Chân, và Nhật Nam (Cương mục, bản dịch, sđd tr. 59). Triệu Đà sáp nhập ba quận nầy vào nước Nam Việt năm 198 TCN. (Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 64.)
          (6)Khi Lộ Bác Đức đem quân đánh Nam Việt năm 111 TCN, chính quyền họ Triệu ở Phiên Ngung chống lại quân nhà Hán, trong khi chính quyền ở quận Giao Chỉ đem sổ đinh ra nạp xin hàng. Do vậy nhà Hán gọi chung đất Nam Việt là Giao Chỉ bộ mặc dầu trong chín quận kể trên, chỉ có hai quận thuộc cổ Việt, sáu quận thuộc Quảng Châu (Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 79)
          (7)Năm 203, nhà Đông Hán đổi Giao Chỉ bộ thành Giao Châu, ngang hàng với các châu khác bên TrungHoa (Cương mục bản dịch, sđd. tr. 96). Năm 264, nhà Ngô chia Giao Châu thành hai: Quảng Châu gồm Nam Hải, Thương Ngô, Út Lâm, đóng châu lỵ ở Phiên Ngung (Quảng Châu); Giao Châu gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, đóng châu lỵ ở Long Biên (Thăng Long, Hà Nội) (Cương mục, bản dịch sđd. tr. 105)
          (8)Về bộ Đại Việt sử ký toàn thư, viết tắt là Toàn thư, và bộ Việt sử thông giám cương mục, viết tắt là Cương mục, xin xem bài 1.
          (9)Toàn thư, bản dịch của Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 156.
          (10)Về các bộ sách nầy, xin xem bài 1.
          Nhà Hán (202 TCN - 220) ở Trung Hoa được chia thành hai giai đoạn: Tiền Hán hay Tây Hán (202 TCN - 25) và Hậu Hán hay Đông Hán (25-220). Giữa Tiền Hán và Hậu Hán, từ năm 9 đến năm 23 là giai đoạn do Vương Mãng cầm quyền. Khi Lưu Tú (Hán Quang Võ) tái lập được nhà Hậu Hán, ông dời đô về Lạc Dương, phía bắc tỉnh Hồ Nam.
          (11)Phạm Việp, Hậu Hán thư, quyển 54, trong bộ Nhị thập ngũ sử, tr. 747, cột 3. Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại học Huế, 1965, tr. 174, trích dẫn, phiên âm và dịch nghĩa.
          (12)Lịch Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú, quyển 37, tờ 62a. Nguyễn Phương trích dẫn, phiên âm, và dịch nghĩa, sđd. tr. 179. Về tên tác giả Thủy kinh chú, sử gia Nguyễn Phương phiên âm là Lệ Đào Nguyên, tác giả Đào Duy Anh phiên âm là Lệ Đạo Nguyên, nay theo phiên thiết của Từ hải xin phiên âm là Lịch Đạo Nguyên.
          (13)Thái tử Lý Hiền, con vua Đường Cao Tông (trị vì 649-683). Sau khi vua Đường Cao Tông từ trần, Lư Lăng Vương lên ngôi tức Đường Trung Tông (trị vì 683-710). Ngay từ 683, bà Võ hậu chuyên quyền, rồi tự mình lên làm vua tức Võ Tắc Thiên (trị vì 690-705). Võ hậu đày các hoàng thân nhà Đường đi xa. Thái tử Hiền nằm trong số nầy. Chính trong thời gian bị lưu đày, ông đã chú thích bộ Hậu Hán thư.
          (13)Nguyễn Phương, trích dẫn, phiên âm và dịch nghĩa, sđd. tr. 178.
          (14)Việt sử lược: về sách nầy, xin xem bài 1. Về phần chồng bà Trưng, Việt sử lược viết: “Trưng Trắc lấy chồng người huyện Châu Diên là Thi Sách.”(Việt sử lược, Nguyễn Gia Tường dịch, Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính, Nxb. TpHCM, 1993, tr. 39.) Đặc biệt, sách Việt sử lược hầu như không được nhắc đến trong nền sử học Việt Nam trước thế kỷ 19, kể cả các sách của học giả Dương Quảng Hàm cũng không đề cập đến.
          (15)Huệ Đống (Hui Dong, 1697-1758): học giả Trung Hoa đời nhà Thanh, sống qua các đời vua Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long, người huyện Ngô, tỉnh Giang Tô, tự là Định Vũ, hiệu là Tùng Ngân, con trai thứ của Sĩ Kỳ. Ông chuyên nghiên cứu về kinh sử, đặc biệt nổi tiếng qua các bộ sách Dịch Hán học (Học thuật Kinh Dịch đời Hán), Thượng thư khảo (Khảo cứu về quyển Thượng thư tức Kinh thư), Hậu Hán thư bổ chú (Chú thích thêm về bộ Hậu Hán thư). [Theo Nguyễn Tiến Văn, Toronto.]
          (16)Triệu Nhất Thanh (Zhao Yiqing, 1709-1764), trẻ hơn Huệ Đống 12 tuổi, cũng trải qua ba triều vua Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long. Ngoài các văn tập để lại, ông còn có các công trình biên khảo về Tam Quốc, và sông ngòi Trung Hoa, nhất là sông ngòi tỉnh Trực Lệ (Hà Bắc, phía bắc Trung Hoa). [Theo Trần Huy Bích, Orange County, điện thư ngày 4-12-2001]
          (17)Nguyễn Phương trích dẫn, phiên âm và dịch nghĩa, sđd. tr. 179. Theo sử gia Nguyễn Phương, ông đọc được lời của Huệ Đống ở phần “Phụ lục” quyển 54 của Hậu Hán thư trong bản in của Nghệ Văn Ấn Thư Quán, Hương Cảng, 1952.
          (18)Toàn thư, bản dịch sđd. tr. 156.
          (19)Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh], University of California Press, 1983, tt. 38-39.) Có thể cũng vì lý do nầy mà hai anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh cùng khởi nghĩa năm 248, nhưng vì Triệu Thị Trinh là phụ nữ lại lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, nên Toàn thư cũng như Cương mục hoàn toàn không viết về Triệu Quốc Đạt, xem như không có nhân vật nầy.
          (20)Nguyễn Phương trích dẫn, sđd. tr. 176.
          (21)Nguyễn Phương trích dẫn, sđd. tr. 137.
          (22)Hậu Hán thư, quyển 54, tr. 747. Nguyễn Phương trích dẫn, sđd. tr. 183.
          (23)Việt sử lược, bản dịch sđd. tr. 40.
          (24)Lê Tắc (hay Lê Trắc ) tự Cảnh Cao, vốn họ Nguyễn, được người cậu tên Lê Phụng nuôi nên đổi qua họ Lê, người Ái Châu (Thanh Hóa), làm tham mưu cho Chương Hiến Hầu Trần Kiện. Trần Kiện là con của Trần Quốc Khang (anh cùng mẹ khác cha của vua Trần Thái Tông), làm trấn thủ Nghệ An, đã đầu hàng Toa Đô khi Toa Đô tấn công Nghệ An vào đầu năm 1285. Toa Đô cho người giải Trần Kiện về Tàu. Khi ngang qua Lạng Sơn, dân binh đổ ra tấn công, Trần Kiện bị chết, Lê Tắc cướp được xác chủ, đem an táng, rồi bỏ trốn sang Trung-Hoa. Ở Trung-Hoa, Lê Tắc viết bộ An Nam chí lược. (Trần
          (25)Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, in lần thứ 7, Sài Gòn, 1964, tr. 141. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Nxb. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn 1960, in lần thứ 7, tr. 241, phần chú thích).
          (26)Nguyễn Phương, sđd. tr. 183. Nguyễn Phương trích dẫn, phiên âm và dịch nghĩa. Nguyên câu do Nguyễn Phương phiên âm là: “ Thập cửu niên, Mã Viện trảm Trưng Nhị yêu tặc, kích kỳ dư đảng Đô Dương đằng, chí Cư Phong huyện hàng chi.” [Trong câu phiên âm nầy, phần thứ nhì: đáng lẽ chữ “nhị” không viết hoa (“Mã Viện trảm Trưng nhị yêu tặc” ), và dịch là: “Mã Viện giết Trưng, hai yêu tặc.”]
          (27)Toàn thư, bản dịch sđd. tr. 156.
          (28)Ngô Thời Sỹ, sđd. 40.
          (29)Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1992, tập 1, tr. 187. Phan Huy Chú (1782-1840) là con của Phan Huy Ích (1750-1822), cháu của Phan Huy Ôn. Ông học rộng biết nhiều, nhưng rớt hai khoa thi hương năm 1807, 1819 vào đầu đời nhà Nguyễn và chỉ được xếp hạng tú tài. Năm 1821, ông được bổ nhiệm làm Hàn lâm viện biên tu. Cũng trong năm nầy, ông trình bộ Lịch triều hiến chương loại chí, được xem là bộ bách khoa toàn thư về văn hóa nước ta. Về sau làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, hiệp trấn Quảng Nam, đã từng đi sứ sang Trung Hoa năm 1830, và đi sứ sang Batavia cuối năm 1833. (Dưới đời nhà Nguyễn (1802-1945), Thừa Thiên là nơi đặt kinh đô, nên tổ chức hành chánh đặc biệt. Phủ thừa là người đứng đầu phủ Thừa Thiên.)
          (30)Cương mục, bản dịch, sđd. tr. 84.
          (31)Đại Nam quốc sử diễn ca: Lịch sử Đại Nam được viết bằng thơ là quyển thơ do một tác giả khuyết danh người Bắc Ninh khởi thảo và nạp về triều đình nhà Nguyễn năm 1857. Năm 1859, do sự đề cử của Phan Thanh Giản, Lê Ngô Cát sửa lại và viết thêm đến lúc Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Hoa. Phạm Xuân Quế nhuận sắc lại. Năm 1873, Phạm Đình Toái theo bản của Lê Ngô Cát viết lại, bốn phần còn một; Phan Đình Thực và các danh sĩ thời đó nhuận sắc, rồi Phạm Đình Toái khắc in ở Nghệ An.(Dương Quảng Hàm, sđd. tr. 272.) Ngày nay, người ta xem hai ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái là đồng tác giả quyển thơ nầy.
          (32)Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, Đại Nam Quốc sử diễn ca, Nxb. Trường Thi, Sài Gòn 1956, tr. 75.
          (33)Keith Weller Taylor, sđd. tr. 40.
          (34)Sông Hát là chi lưu của sông Đáy, chạy dọc theo tỉnh Hà Đông.
          http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=6026

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 05:49:36 bởi silverbullet >
          #5
            silverbullet 08.05.2007 05:51:23 (permalink)

            Hội Đền Hai Bà Trưng
            Phạm Văn Bản

            Mùng 3 Tết trên niên lịch ghi là ngày Hội Đền Hai Bà Trưng – Trưng Trắc, Trưng Nhị khởi nghĩa chống Bắc thuộc vào năm 39 dương lịch (dl) sau 150 năm nước ta bị nạn xâm lăng, từ năm 111 trước Tây lịch (trước công nguyên). Thông thường, lễ kính Hai Bà được tổ chức trọng thể vào ngày 6 tháng 2; tuy nhiên, lễ hội năm nay lại rơi vào ngày mùng 3 Tết Đinh Hợi. Chúng ta hôm nay kính nhớ công đức, sự nghiệp, và gương sáng của Hai Bà, cũng như của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ đã dày công phá giặc dựng nước.

            Theo sử sách thì Hai Bà là người vùng đất Mê Linh. Bên ngoại của Hai Bà thuộc dòng Vua Hùng, và bên nội dòng dõi Lạc Tướng. Bà Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, cũng dòng Lạc Tướng quê ở miền Châu Diên. Theo sách Việt Điện U Linh, tác gỉa Lý Tế Xuyên viết vào năm 1329 dl, thì Hai Bà họ Lạc, rồi “tự lập làm Việt Vương, đóng đô ở Châu Diên, và đổi họ là Trưng,” (xem bản dịch, nxb Văn Hóa, Hà Nội 1960, tr 22).

            Vì Thái thú Tô Định giết Thi Sách chồng Bà, nên Bà vùng lên đánh đuổi xâm lăng, rồi xưng vương – Trưng Nữ Vương, đóng đô tại đất Mê Linh năm 40 dl, tức năm 2919 Việt Lịch.

            Theo sách Dư Địa Chí của Đức Nguyễn Trãi viết năm 1438 dl, thì Trưng Nữ Vương đặt tên nước là Hùng Lạc, (đọc Nguyễn Trãi Toàn Tập, bản dịch Viện Sử Học, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976, tr 215).

            1. Danh xưng

            Xưa nay Hai Bà thường được dùng để chỉ hai chị em. Nhưng việc gọi chung Hai Bà lại có hàm ý là cả hai chị em cùng nhau nổi lên chống giặc, và cùng hoàn thành công cuộc cứu nước.

            Quả thực, hai chị em đứng lên giúp dân cứu nước, đã tạo ra những kỳ công đáng khâm phục. Tuy nhiên sử ghi rằng, chỉ có Bà chị nhận quyền lãnh đạo cho toàn cuộc khởi nghĩa rồi xưng vương.

            Đang khi Bà em, Trưng Nhị, mặc dù cũng là bậc kỳ tài, tiếng tăm lẫy lừng, đóng góp công lao xuất chúng… nhưng Bà chỉ nhận tước là Bình Khôi Công Chúa. Cùng với Bà Trưng Nhị còn có nhiều vị Nữ Tướng khác cũng có tước Công Chúa, như An Bình Công Chúa, Thánh Thiên Công Chúa, Gia Hưng Công Chúa, Vĩnh Huy Công Chúa…

            Vì vậy, tuy là hai chị em, nhưng khi Bà chị được Anh Hùng Nghĩa Sĩ tuyển chọn lên hàng lãnh đạo trong công cuộc tổ chức cứu nước, thì chỉ có Bà chị là chính thức đại diện cho toàn dân thời bấy giờ, là Trưng Nữ Vương.

            2. Lý do quật khởi

            a. Cho tới nay, hầu hết các sử sách chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh thù chồng của Đức Trưng Nữ Vương, mặc tình lãng quên hay mặc tình coi nhẹ tinh thần Vì Dân Vì Nước của Bà và toàn dân thời ấy. Giặc làm hạ giá “lý do chiến đấu” của phụ nữ Việt cũng bộc lộ nơi nhiều nữ tướng khác. Với lý do khởi nghĩa của Thánh Thiên Công Chúa thì giặc ghi là để trả thù cho cậu. Cuộc khởi nghĩa của Cao Thị Liên thì giặc ghi là rửa thù cho cha… và rất nhiều bà khác, cũng bị giặc xét đoán với lý do trả thù chồng, nhằm coi nhẹ lý tưởng phục vụ đồng bào của các bà.

            Đang khi các sách của Trung Hoa như Hậu Hán Thư, Việt Kiều Thư, hay An Nam Chí Nguyên… mặc dù vốn thói xuyên tạc cố hữu, nhưng đã phải thừa nhận rằng “Vì Thái thú Giao Chỉ là Tô Định, lấy pháp luật mà ràng buộc, nên Trưng Trắc oán giận mà làm phản.” Ngay tại điểm này, chúng ta nhận ngay ra rằng, theo thói thống trị tham tàn của người Hoa, đã xâm lăng, đã tự ý đặt luật để hà hiếp bóc lột dân Việt… rồi lại gọi dân ta là làm phản, phản động, phản cách mạng.

            b. Sự kiện người Nữ Kiệt đất Mê Linh kết duyên với vị Tướng tài vùng Châu Diên, và rồi Thi Sách bị Tô Định sát hại… cho chúng ta thấy sự liên kết và tinh thần sôi động của kháng chiến quân thời bấy giờ.

            Giặc phương Bắc đã thống trị và đàn áp dân tộc Việt gần 150 năm. Do đó, cho dù là cùng dòng giõi Lạc Tướng với nhau, thì Trưng Nữ Vương cũng không thể vì thù chồng mà đột nhiên điều động được toàn dân vùng lên đánh đuổi lực lượng thiện chiến hùng hậu Tô Định.

            Chắc chắn Trưng Nữ Vương đã bí mật kiện toàn tổ chức cứu nước. Nếu không, thì dưới sự kiềm chế khắp nơi của giặc, thêm vào phương tiện giao thông liên lạc của thời đại bấy giờ… thì làm sao mà Trưng Nữ Vương có thể huấn luyện, có thể điều động đầy đủ sức mạnh binh mã, để chỉ trong vài tháng mà đánh chiếm lại 65 thành từ tay giặc.

            Sự kiện khởi nghĩa của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ khắp nơi, Thần Báo thiết tưởng rằng, trước đó các Ngài đã thi hành kế hoạch phân tán lực lượng, rồi các Ngài tổ chức chu đáo đến nỗi có thể che mắt giặc, khiến giặc không biết, không ngờ.

            Tiểu sử và hành tung của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ cộng sự với Đức Trưng Nữ Vương bộc lộ cái tài tổ chức, bao gồm 4 yếu tố: chủ thuyết – cán bộ – tổ chức – thời sách, là điều kiện bất khả khuyết của một tổ chức cứu nước, cần có và phải có, nếu ta muốn thành công.

            Ngoài ra, các Ngài đã chứng tỏ tinh thần kháng chiến giành độc lập và tự do của dân tộc, cũng như đức tính kiên cường vì dân vì nước của Trưng Nữ Vương mà Người được tổ chức đề cử làm lãnh tụ.

            Trong Hậu Hán Thư cũng ghi nhiều chi tiết nhấn mạnh tính tham tàn bạo ngược của Tô Định, nhưng người Hoa cũng lấy đó làm cái cớ mà đánh lạc hướng lý do khởi nghĩa của dân tộc ta. Sách chép rằng, “Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Châu Diên tên là Thi Sách, rất hùng dũng.”

            Như vậy, sử sách giặc đã công nhận Trưng Nữ Vương “rất hùng dũng.” Tinh thần kiên cường bất khuất của Ngài còn bộc lộ trong việc xuất quân xông trận, Ngài luôn luôn mặc chiến bào chỉnh tề, cỡi voi chiến trông rất xinh đẹp và uy linh, chớ không mặc đồ tang trắng khóc chồng theo kiểu nhi nữ thường tình.

            Đối với sử sách Trung Hoa, lý do tham tàn quá đáng là họ nhằm làm cái cớ trong việc thất bại cai trị dân ta. Họ trút tội trên đầu những kẻ thất bại, để chạy tội cho toàn bộ mưu đồ dã tâm xâm lược của người Hoa. Họ làm tỉnh bơ, tỏ vẻ như thể là các dân địa phương luôn luôn vui sướng với ách thống trị của họ, và họ xem dân ta chỉ chống đối với bọn quan chức tham nhũng mà thôi.

            3. Nhân sự quật khởi

            Cho dù họ cố tình che giấu, nhưng sử sách Trung Hoa cũng phải ghi nhận dân Việt có nhiều Anh Hùng Nghĩa Sĩ đã biết rành rẽ về phương thức tổ chức phục quốc chống giặc.

            Căn cứ trên thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có tên tuổi và tiểu sử của 162 vị danh tướng thời Đức Trưng Nữ Vương. Đã có nhiều vị tự mình tổ chức dân quân trước khi về hợp tác với lực lượng kháng chiến của Đức Trưng Nữ Vương.

            Khi Trưng Nữ Vương khởi nghĩa, đã có Bà Lê Chân chẳng những đến từ Hải Dương, mà còn đem theo cả một đội chiến thuyền. Thánh Thiên Công Chúa, trước khi về với Trưng Nữ Vương, cũng đã có binh tướng riêng, và đã có lần đánh bại quân Tô Định.

            Chúng ta cũng còn có Bà Lê Thị Hoa lập chiến khu tại vùng Nga Sơn ở Thanh Hóa. Bà Trần Vĩnh Huy khởi binh ở Cổ Châu, gần Hà Nội ngày nay.

            Tiếp đến là Nam Thành Vương Trần Công Minh, Long Biên Công Đặng Dương Hoán, Liệt nữ Trần Thiếu Lan, và nhiều vị anh hùng hào kiệt đã từng làm cho giặc phương Bắc ăn ngủ không yên từ lâu trước khi Đức Trưng Nữ Vương ra quân.

            Các làng xã thôn ấp và châu động cũng sẵn sàng chuẩn bị dưới nhiều hình thức, nhiều tổ chức phục quốc cũng ẩn danh trong những môn phái võ thuật…

            Danh sách và tiểu sử của anh hùng hào kiệt được ghi nhận trong phần Di Tích Lịch Sử của bộ Anh Hùng Lĩnh Nam, tác giả Trần Đại Sỹ, bộ 4 cuốn, nxb Nam Á, Paris 1986.

            4. Địa bàn hoạt động

            Theo sách sử của Trung Hoa mà sau này các nhà chép sử Việt Nam chép lại, thì chỉ ghi phạm vi ảnh hưởng của Đức Trưng Nữ Vương trong khu vực quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố. Đây chỉ là vùng đất gồm từ Thừa Thiên ra hết Bắc Phần Việt Nam, và một phần tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc hiện nay.

            Nhưng còn nhiều dấu tích chứng tỏ nghĩa quân của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam. Sau 150 năm Bắc thuộc, các đội nghĩa quân của Đức Trưng Nữ Vương đã đánh chiếm lại toàn thể vùng Lĩnh Nam khắp sáu quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Tượng Quận, Quế Lâm và Nam Hải.

            Cuộc khởi nghĩa trên một địa bàn rộng lớn và thần tốc này chứng tỏ dân Lạc Việt đã có truyền thống đoàn kết, đã có ý thức độc lập tự chủ, đã có lực lượng và phương tiện chiến đấu hữu hiệu hùng mạnh, đã có đời sống cao về vật chất lẫn tinh thần.

            Các chiến tích của nghĩa quân Việt tại Hoa Nam chẳng những được các thần phả ghi chép, mà sách ngoại sử của Trung Hoa cũng nhắc đến, mà hôm nay, gần qua 2000 năm mà vẫn còn nhiều di tích chiến trận, nhiều đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng các danh tướng đương thời, tại Hồ Động Đình cũng như tại nhiều nơi trong các tỉnh Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, và đảo Hải Nam.

            Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 1479 dl, thì ở Phiên Ngung, thủ đô của Triệu Đà cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương. Và gần đây, thời triều Tây Sơn năm 1793 dl, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm cùng phái đoàn đi ngang phía nam Hồ Động Đình, đã đến viếng thăm đền thờ Đức Trưng Nữ Vương. Ông cũng ghi: quân Đức Trưng Nữ Vương đã đánh với quân Mã Viện ở Hồ Nam.

            5. Một số chiến tích

            Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với quân Mã Viện.

            Cũng tại Khúc Giang, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ Ngài.

            Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42 dl.

            Tại dọc bờ biển Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.

            Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài.

            Tại cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn có ngôi mộ tên Ngài.

            Chúng ta cũng còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam…

            Tất cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam.

            Kết luận

            Suốt dòng lịch sử ngàn năm Bắc thuộc, Thần Báo thiết tưởng đã có bao ngàn cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm, đã có bao trăm ngàn Anh Hùng Nghĩa Sĩ bị giặc tàn sát và giấu nhẹm.

            Mặc dù không được ghi trong sử sách, nhưng dòng máu kiêu hùng của Tổ Tiên vẫn đang chảy trong mỗi người chúng ta. Là con cháu của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ, chúng ta có bổn phận làm sáng tỏ công đức ngàn đời của Tổ Tiên.

            Vì vậy, Đức Trưng Nữ Vương chẳng những đại diện cho thời của Ngài, mà còn biểu trưng cho toàn thể Anh Hùng Nghĩa Sĩ Việt Nam vùng lên chống giặc cứu nước. Đó cũng là bổn phận, là trách nhiệm của Thanh Niên Việt Nam thời đại trong việc kiện toàn tổ chức là chủ thuyết, cán bộ, tổ chức và thời sách.

            Mừng Xuân Đinh Hợi với 60 tuổi đời

            Copyright © 2006–2007 DCVOnline

            http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=2988

            #6
              silverbullet 08.05.2007 05:53:25 (permalink)
              Tiếng trống đồng Mê Linh
              Trương Thái Du
              Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005



              Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú



              Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi.

              Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng.
              Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh.

              Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi tìm hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng rãi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau:
              1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.
              2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.
              3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.
              Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.
              Mùa xuân 2005, tròn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ mình vì nước, xin được viết bài này như nén hương lòng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của mình làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nhìn khác đi với hình ảnh sáo mòn vay mượn “phất cờ khởi nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lãnh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam.

              1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?
              Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?
              Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.
              Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.
              Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.


               Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất
              Trương Thái Du

              Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu”.
              Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu.
              Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi.

              2. Một cách lý giải toàn cảnh
              Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.
              Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi.
              Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.”
              Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.
              Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được.
              Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.
              Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.
              Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.
              Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức.

              3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa
              Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.
              Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.
              Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1].
              Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên.
              Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.
              Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [2]”.
              Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.
              Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.
              Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.

              4. Vua Bà và trống đồng
              Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy.
              Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương.
              Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử.
              Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó
              Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.

              5. Kết luận
              Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã.
              Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.
              Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.
              Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi.
              Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.
              Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
              Chú thích
              [1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org
              [2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html
              [3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au
              http://e-cadao.com/lichsu/Haibatrung-ttDu.htm

               
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 05:59:16 bởi silverbullet >
              #7
                silverbullet 08.05.2007 06:02:35 (permalink)
                 Hai Bà Trưng

                (Xuất xứ: Khâm Định Việt Sử http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/kdvstgcm/)

                Năm Canh Tí (40 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 16).
                Tháng 2, mùa xuân. Người con gái quận Giao Chỉ là Trưng Trắc khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định; tự lập làm vua.
                Vương vốn họ Lạc, lại có một tên họ nữa là Trưng. Là con gái quan lạc tướng huyện Mi Linh, quận Giao Chỉ, và là vợ Thi Sách79 người huyện Chu Diên, bà là người rất hùng dũng. Lúc bấy giờ thái thú Tô Định cai trị tham lam và tàn bạo, giết mất chồng bà. Bà bèn cùng với em gái là Trưng Nhị dấy quân, đánh hãm chỗ châu lỵ. Tô Định phải chạy về Nam Hải. Quân Bà đi đến đâu, như gió lướt đến đấy. Các dân tộc man, lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo. Lấy lại và dẹp yên được 65 thành ở đất Lĩnh Nam. Bà tự lập làm vua, đóng đô ở Mi Linh. Các thứ sử, thái thú ở quận Giao Chỉ đều chỉ bảo toàn được mình thôi.
                Lời chua - Huyện Chu Diên: Đặt từ đời Hán, thuộc quận Giao Chỉ; nhà Đường đổi làm Diên Châu; nhà Lê đổi làm phủ Tam Đái. Bây giờ là đất phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây80 .
                Năm Tân Sửu (41 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 17).
                Tháng 12, mùa đông. Nhà Hán phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng, đốc xuất bọn Lâu Thuyền Tướng quân là Đoàn Chí, sang đánh Trưng Vương.
                Nhà Hán cho rằng Trưng thị tự xưng làm vua, đem quân đánh các thành ấp, làm cho các nơi biên giới bị khổ sở, bèn bắt các đất Trường Sa, Hợp Phố và Giao Chỉ sắm sửa đủ xe, thuyền, sửa sang cầu đường, khơi thông các khe suối, chứa sẵn lương thóc; phong Mã Viện làm Phục ba Tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm Phó tướng, đốc xuất bọn Lâu thuyền Tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng Vương.
                Năm Nhâm Dần (42 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 18).
                Tháng 3 mùa xuân. Quân Mã Viện đến Lãng Bạc, cùng quân Trưng Trắc đánh nhau và phá tan được. Trưng Trắc lui giữ đất Cấm Khê.
                Mã Viện ven theo đường biển tiến quân, qua núi đốn cây, đi hơn nghìn dặm đến Lãng Bạc, đánh nhau với quân Trưng vương. Trưng vương thấy thế quân bên Hán mạnh nhiều, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không thể chống lại được. Quân của bà cũng cho rằng bà là đàn bà, không địch nỗi với Hán; vì thế quân bà tự tan vỡ.
                Lời chua - Lãng bạc: Còn có tên là Dâm Đàm, ở về phía Tây con đường mặt Tây thành Đại La. Về đời Lê, đổi gọi là Tây Hồ tức là Hồ Tây tỉnh Hà Nội ngày nay.
                Cấm Khê: Sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chua rằng: Theo sách Việt chí , Cấm Khê là Kim Khê, ở phía Tây Nam huyện Mi Linh. Theo sách Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn, Trưng Trắc chạy vào trong hang Kim Khê, hai năm mới bắt được. Theo sách Phù Nam Ký của Trúc Chi, trên chỗ khe núi nước chảy xói vào gọi là hang. Chương hoài thái tử Lý Hiền chua rằng tức là đất huyện Tân Xương, thuộc Phong Châu bây giờ. Theo thế, thì Cấm Khê phải ở vào địa hạt Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây, nhưng chưa rõ đích là nơi nào. Sử cũ cho là ở huyện Chân Lộc thuộc Nghệ An là nhầm.
                Năm Quý Mão (43 s.c.ng.). (Hán, năm Kiến Vũ thứ 19). Tháng Giêng, mùa xuân. Trưng Trắc cùng em gái là Nhị cự chiến với quân án. Hai bà bị thua và mất.
                Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Đô Dương (chữ "Dương" trong Hán thư chép chữ là dê), đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của nhà Hán. Khi Mã Viện về rồi, người trong nước thương nhớ Trưng vương, lập đền thờ bà.
                Lời phê - Hai bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng cũng mặt dày thẹn chết lắm dư! Lời chua - Cư Phong ______: Còn có tự dạng là Cư Phong _____. Tên đất, do Hán đặt ra, thuộc quận Cửu Chân. Đời Tam Quốc, nước Ngô 222-280 đổi làm huyện Di Phong. Từ sau đời Tống (420-479), đời Tề (479-502), đây là lỵ sở của quận Cửu Chân. Nhà Tùy (581-619), bình được triều Trần81 , bỏ quận Cửu Chân, lấy huyện ấy cho thuộc Ai Châu. Đầu đời Đường (618-907), đất ấy lệ thuộc Nam Lục Châu. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742-755) bỏ tên đất ấy, cho vào huyện Nhật Nam. Theo sách Giao Châu ký của Tăng Cổn, ở huyện Cư Phong có núi, cứ đến đêm thường thấy trâu vàng hiện ra. Lại nói trên núi ấy có hang gió, cửa hang thường có gió thổi. Bây giờ ở về địa hạt tỉnh Thanh Hóa. Sử cũ chép là ở địa giới châu Vũ Ninh thuộc Bắc Giang là lầm.
                Cột đồng: Sách Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (Mã Viện, tên tự là Văn Uyên), dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc. Mốc đồng ấy tức là cột đồng. Theo Tùy sử , Lưu Phương khi đi đánh Lâm Ấp, qua cột đồng của Mã Viện, đi về phía naam tám ngày thì đến quốc đô Lâm Ấp. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-820) đời Đường, An Nam đô hộ là Mã Tổng lại lập hai cột đồng ở chỗ Mã Viện dựng cột đồng trước, để tỏ ra mình là dòng dõi con cháu Phục Ba82 . Theo sách Thông điển của Đỗ Hữu, từ nước Lâm Ấp đi về phía nam, đi thủy, đi bộ hơn hai nghìn dặm đến đấy có nước Tây Đồ Di là chỗ Mã Viện dựng hai cột đồng để nêu địa giới đấy. Theo Tân Đường thư , ở châu Bôn Đà Lãng của Lâm Ấp, phía Nam là năm bãi lớn, có núi "cột đồng" (đồng trụ sơn), hình núi như cái lọng dựng nghiêng, về phía Tây có nhiều núi đá, phía Đông là biển lớn. Cột đồng đó là do Mã Viện
                dựng lên83 . Theo sách Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, Mã Viện đi đánh Lâm Ấp, đi từ Nhật Nam hơn 400 dặm đến Lâm Ấp, lại đi hơn 20 dặm nữa có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy rồi lập hai cái cột đồng ở nơi phân giới giữa Tượng Lâm và Tây Đồ Di. Về đường thủy, đi từ Nam Hải hơn 3000 dặm đến Lâm Ấp, rồi đến cột đồng ở Giao Châu phải 5000 dặm nữa. Sách Nhất Thống chí nhà Đại Thanh có chép: Tương truyền (cột đồng) ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã Viện có thề rằng: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", nghĩa là "Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt", nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Đó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gẫy.
                Nay xét dã sử thấy có chép tỉnh Phú Yên có sông Đà Diễn. Phía Nam sông ấy có bãi lớn. Phía Tây Nam bãi ấy có núi Thạch Bi. Núi này chu vi tới mười dặm; phía Tây tiếp Đại Lĩnh, nhiều rặng trùng điệp, phía đông ra mãi bờ biển. Trên đỉnh núi ấy có một phiến đá trơ trọi cao hình như bị chẻ dọc. Thao lời ghi chép trong các sách Thông điển, Đường thư , ngờ rằng cột đồng có thể ở chỗ ấy. Chỉ có một điều, một phiến đá trơ trọi ở trên đỉnh núi ấy, cao chừng 10 trượng, rộng tới 6,7 trượng. Nhân dân ở quanh núi ấy nói rằng phiến đá ở trên đỉnh núi là một chỏm đá tự nhiên, không phải của ai lập thành cả. Vậy e rằng ta không thể bảo đấy là cột đồng. Sách Thủy kinh chú có nói: núi sông biến đổi, cột đồng bị lở mất vào trong biển. Lẽ ấy có lẽ đúng.
                Đền Trưng vương: Ở xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ84 ngày nay.
                Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
                Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập thành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái tổ kén, nên gọi là thành Kiển Giang. Ba năm sau, Mã Viện về nước. Từ đấy về sau, trải qua các đời Minh đế (58-75 s.c.ng.), Chương đế (76-88), Hoa đế (89-105), Thương đế (106), An đế (107-125) gồm 5 đời vua, cộng tám mươi hai năm, mà chỉ thấy về đời Minh đế có Lý Thiện, người huyện Nam Dương, làm thái thú Nhật Nam có lòng yêu dân, làm chính sự có ơn huệ với dân, hấp dẫn được người phương xa. Về sau, Lý Thiện đổi đi làm thái thú Cửu Giang. Các quan lại có tài giỏi của mấy đời vua Hán chỉ thấy nói có một Lý Thiện. Đó có lẽ là những thiếu sót của việc ghi chép sử sách vậy.

                Lời chua - Thành Kiển Giang: Theo Đại Thanh
                67 Chỉ nước Nam Việt nhà Triệu.
                68 Riêng chỉ địa bàn Quảng Đông lúc bấy giờ.
                69 Riêng chỉ địa bàn Quảng Đông lúc bấy giờ.
                70 Nguyên văn là "Âu, Lạc giai hàng".
                71 Lịch Đạo Nguyên, tên tự là Thiện Trưởng, người đất Phạm Dương đời Bắc Ngụy, làm ngự sử trung úy, có soạn Thủy kinh chú 40 quyển. Sách này rất được giới văn học quý trọng.
                72 Vì Sử Cương mục dẫn theo một bản Thủy kinh chú khác (Phường bản), nên có vài điểm dị đồng như: Giao Châu ngoại vực ký chép là Giao Chỉ thành ký . Câu "cập nhị quận dân hộ khẩu bạ nghệ Lộ tướng quân..." chép là "cập nhị quận dân hộ bạ hàng Lộ tướng quân..." và trên chỗ "chư Lạc tướng" không có chữ "chủ"... Vậy nay, để tiện tham khảo, xin theo một thiện bản khác mà dịch lại cả đoạn văn Thủy kinh chú ấy như thế này: "Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 tr.c.ng.) đời Hán Vũ đế, lập lỵ sở cho chức đô úy (ở huyện Mi Linh). Sách Giao Châu ngoại vực ký chép rằng: [Nam] Việt vương sai hai sứ giả coi quản nhân dân hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Về sau, nhà Hán sai phục ba tướng quân Lộ Bác Đức đánh [Nam] Việt vương Lộ Bác Đức đến Hợp Phố, [Nam] Việt vương sai hai sứ giả đưa đến Lộ tướng quân trăm con trâu, nghìn chung rượu và sổ hộ khẩu của dân hai
                73 Xem chú thích 3, 4 trang trước.
                74 Đây theo Cương mục chua âm là "Liên thụ" (c.2, t.5). Nhưng ở Phương Đình địa chí quyển 1 tờ 11b có cho biết rằng: Nguyên ở Hán chí âm là La Lũ; đến đời Nam Tề vì viết lầm, nên người sau mới lầm là Liên và đọc là thụ .
                75 Ở đây chắc là có sự nhầm lẫn. Thứ sử là chức quan đứng đầu một châu (bộ). Nhà Hán bắt đầu đặt từ năm Nguyên Phong thứ 5 (106 tr.c.ng.). Năm Tân Mùi, Nguyên Phong thứ 1 (110 tr.c.ng.). Thạch Đái không thể làm thứ sử Giao Chỉ được.
                76 Mục là chăn dắt . Quan mục Giao Chỉ tức là người chăn dắt dân ở quận Giao Chỉ. Ở đây chỉ chức quan đứng đầu một quận, tức Thái thú.
                77 Chữ "Nhâm" họ của Nhâm Diên chép ở đây, cũng như họ của Nhâm Hiêu chép ở quyển I, âm là nhâm như ta thường đọc, nhưng về tự dạng, thì sử Trung Quốc và Đại Việt sử ký của ta đều chép nhân bên nhâm Đại Việt sử ký toàn thư thì bớt nét sổ chữ nhâm đi, còn sách Cương mục này thì bớt chữ nhâm đi mà chỉ chép nhâm ___, vì sử thần triều Nguyễn kiêng tên húy Tự Đức.
                78 Chức quan đứng đầu một quận do nhà Hán đặt ra từ năm Nguyên Phong thứ 5 (106 tr.c.ng.).
                79 Trong Thủy kinh chú quyển 37, tờ 62 chép chồng bà Trưng tên là Thi: "... Chu Diên lạc tướng tử danh Thi, sách Mi Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê...": Con Lạc tướng ở Chu Diên, tên là Thi, hỏi lấy (sách) con gái lạc tướng ở Mi Linh, tên là Trưng Trắc, làm vợ.
                80 Nay là tỉnh Vĩnh Phúc.
                81 Trần (557-589) là một triều đại thuộc Nam triều (Trung Quốc) bị Tùy diệt năm 589.
                82 Chỉ Mã Viện, vì khi sống, Viện được phong làm Phục Ba tướng quân.
                83 Xem thêm Phương đình địa chí loại , quyển 2, tờ 34-36, chỗ khảo về "thuyết đồng trụ".
                84 Thuộc xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây.
                85 Đời cổ, Trung Quốc chia thiên hạ làm chín châu, tên các châu mỗi đời có hơi khác nhau, như: Ký, Duyện, Thanh, Từ, Úng, Dự, Lương, Kinh, Dương, là chế độ nhà Hạ; Ký, Duyện, U, Tứ, Ứng, Dự, Dinh, Kinh, Dương, là chế độ nhà Ân; Ký, Duyện, Thanh, U, Úng, Dự, Tinh, Kinh, Dương, là chế độ nhà Chu. Tóm lại, chín châu là khu vực trung nguyên của Trung Quốc.
                86 Đời cổ những đất Giang, Chiết, Mân, Việt là chủng tộc người Việt ở, nên gọi chung là Bách Việt. Như U Việt ở Chiết Giang; Mân Việt ở Phúc Kiến; Dương Việt ở Giang Tây; Nam Việt ở Quảng Đông; Lạc Việt ở Việt Nam; v.v...
                87 Tên một chức quan to đời cổ, đứng đầu các chư hầu trong một phương.
                88 Đơn vị đong lường xưa của Trung Quốc. Mỗi thạch ăn 10 354 688 công thăng (lít).
                88 Chức quan đứng đầu Ngự sử đài.
                89 Chỉ bốn châu Kinh, Dương, Duyện, Dự nói trên.
                90 Chỉ Trung Quốc.
                91 Ý nói xét tài năng mà bổ dụng, chứ không phân biệt người Bắc người Nam.
                92 Bức công văn có đóng ấn để làm tin.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 06:05:21 bởi silverbullet >
                #8
                  NCD 08.05.2007 11:49:19 (permalink)
                  Wao , anh SB đã rinh bài này vô trước rồi à? Bài này NCD cũng định đăng lên cho quý vị gần xa biết thêm về nhân vật lịch sử nước nhà đấy. Hì, vậy là may cho NCd , đỡ mắc công ngồi " mổ cò " rồi. Cảm ơn anh nghen ! ( Ý NCD nói là bài viết về tên chồng Bà Trưng Trắc thôi , còn các tư liệu khác quả thật rất quý đối với NCD ). Nhưng những ý kiến trong các bài gần như đã đủ đáp lời tác giả bài viết "Nghi án..." ấy rồi. Thôi thì để NCD về soạn thêm tý xíu xìu xiu nữa về cái mà gọi là " trận Lưỡng Nghi " của tác giả ấy thôi nhé !
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 12:41:12 bởi ngươi co don >
                  #9
                    NCD 13.05.2007 22:47:32 (permalink)
                       Hôm nay NCd tôi xin góp vài lời về việc"nghi án PT trụ đồng Mã viện ".
                      Có lẽ các bài viết của các sử gia ,mà anh SB có công rinh vào đây ,cũng quá đủ để chúng ta xác định về vị trí của Kiển Thành mà tác giả đã nói. Cho nên NCD tôi không bàn thêm về lãnh thổ nước ta thời điểm đó làm gì nữa, chỉ muốn nói đôi lời trên tính cách 1 người nghiên cứu PT _ chưa dám vỗ ngực xưng tên như ai đó là nghiên cứu PT lâu năm gì gì đó _ , mong tìm ra lời giải đáp hợp tình hợp lý cho cái "trụ đồng" trong truyền thuyết kia vậy.
                       Điều đầu tiên mà tôi thắc mắc là : Liệu tác giả Thiên Đức có thật sự tìm hiểu về vị trí lãnh thổ nước ta thời ấy không , sao lại đưa ra lời khẳng định  về vị trí Kiển Thành sai lầm đến vậy. Dù tác giả không nói trắng ra , nhưng qua việc tác giả bảo Trụ đồng là Dương , Kiển Thành là Âm , cả 2 phối hợp thành 1 loại trận cao cấp...., thì thử hỏi : Nếu 1 cái tít bên Đông , 1 cái tít bên Tây thì trấn yểm cái nỗi gì nhỉ? Không biết tác giả Thiên Đức này có thật sự nghiên cứu qua binh thư đồ trận bao giờ chưa, mà tuyên bố sai lệch đến vậy. Nếu không , chỉ có 1 cách giải thích là tác giả chưa từng tìm hiểu qua tài liệu lịch sử về vị trí Kiển Thành , tác giả chỉ viết theo CẢM TÍNH của 1 người VN trước 1 truyền thuyết bất lợi cho dân tộc Việt.  Nếu thế thì càng trái ngược với cái TÂM của người nghiên cứu thuật PT , tác giả làm NCD nghĩ đến 1 nhân vật có lẽ không xa lạ với người Việt chúng ta , đó là.....Cao Biền. Vì sao NCD tôi nói thế ? Ngày xưa Cao Biền giỏi , phải nói là rất giỏi , nhưng ông ta vì quyền lợi của 1 cá nhân , 1 triều đại mà hũy đi bao LM tốt đẹp , là đi ngược lại cái TÂM ĐẠO trong ngành PT. Ngày nay , tác giả nếu chỉ vì cảm tình dân tộc mà viết lên những lời Phi Thực Tế thì có khác gì Cao Biền , dù đó xuất phát từ lòng yêu nước , ngày xưa Cao Biền cũng yêu nước của ông ta đấy thôi.
                       Như vậy , chúng ta thấy rõ trước mắt 1 điều qua lời của các sử gia chứng thực : Kiển Thành là cái thành nằm trong cùng của Thành Cổ Loa , như con nhộng chui vào trong vỏ kén là Thành Cổ Loa vậy.  Do nhận định sai lầm ngay từ đầu về vị trí thành , nên tác giả đi đến sai lầm tiếp theo là ngầm gán cho Mả Viện là 1 người am tường về PT. Trước tiên , ta nên nhớ rằng vào thời điểm đó , Mã Viện là 1 danh tướng chiến công lẫy lừng của nhà Hán.  Trong sử sách TQ ghi nhận ông ta là người văn võ song toàn như lời tác giả nói là có phần đúng , ông ta là người có công giúp Hán Quang Vũ Đế thống nhất đế chế. Chỉ xét theo tâm lý bình thường thôi , khi anh đưa ra 1 học thuyết , muốn có nhiều người tin thì anh phải tìm những người có uy danh , có địa vị nổi tiếng trong xã hội dẫn chứng là họ cùng ý tưởng với mình , có như vậy mới khiến người tin càng tin , người chưa tin thì phải tin. Đừng nói là thời điểm đó , trước đó cả ngàn năm , những nhân vật tài ba trong lĩnh vực PT cũng đã được giới PT lưu danh lại rồi , chúng ta cùng điểm lại lịch sử môn PT thời ấy thử xem nhé !
                           Ngay từ xã hội nguyên thủy , người xưa đã biết chọn thế đất để làm nhà. nhiều di chỉ khảo cổ đã được phát hiện ở các triền dốc gần nước. Người xưa chọn triền đất như vậy để ở , là dễ dàng cho việc lấy nước , bắt cá và cũng không bị lũ lụt. Đây chính là cơ sở cho nguyên tắc " làm nhà gần nơi có nước " của khoa PT sau này.
                    Đến thời kỳ đồ đá mới , các di chỉ khảo cổ lại phát hiện các nhà xưa đều quay mặt về hướng Nam , như vậy lúc đó người xưa đã tính đến việc xây nhà cho thích hợp với điều kiện địa lý , mùa Đông thì ấm , mùa Hạ thì mát. Đây chính là
                    "hướng Tý Ngọ " mà sau này PT nêu ra.
                    Sang xã hội có giai cấp , từ các áng văn Giáp Cốt , rồi đến Kinh Thi , có thể thấy thời Thương , Chu đã có bước tiến rõ hơn trong việc phân loại địa hình. Trên đất bằng thì phân ra : Sơn , phụ , khưu , nguyên, lăng , cương. Lòng sông thì chia ra : Triệu , xưởng , chử , hử , đạm. Thủy lưu thì chia ra  : Xuyên , tuyền , hà , giản , chiêu , trạch , giang , đà...
                         " Thượng thư _ Vũ cống " có thể được xem là bộ sách địa lý đầu tiên thời ấy. Sách này dựa vào địa hình để phân ra  Cửu Châu , ghi chép các thế núi , và đây cũng là chỗ dựa sau này cho các nhà PT đề ra thuyết " Long Mạch khởi nguyên ". Cho thấy ở trước đời Tần đã có khái niệm về PT , tuy chưa thành 1 hệ thống chặt chẽ , nhưng nó đã đặt nền tảng cho các căn bản về PT sau này.
                          Đến thời Hán , dựa trên cơ sở trong sách "Vũ Cống" , các học giả thời ấy đã đưa ra thuyết " ba dãy bốn hàng " , chính là TAM CAN khởi nguồn từ núi Côn Lôn chia ra 3 dãy Long Mạch chạy khắp nước Trung Quốc sau này vậy. Vào đầu thời Hán , thuật số không thịnh , vì sao lại nói như vậy ? Vào thời Hán Vũ Đế , trong bộ Sử Ký Tư Mã Thiên , TMT không hề nhắc đến PT , chứng tỏ thời đó thuật PT không thịnh. Nhưng cũng đã có quan niệm về PT , qua 1 số kiêng kỵ thời ấy như " kiêng hướng Tây thì lợi nhà " , " kiêng lên gò để tránh tù tội "...
                           Đến thời Đông Hán rất coi trọng việc tang lễ. mà như vậy thì tất phát sinh quan niệm về PT. Nhưng các hiền sĩ thời ấy như Vương Phù , Vương Sung , Ứng Thiệu đều đả kích PT,nhưng họ vẫn coi trọng chỗ ở xây cất thế nào. Và các nguyên tắc xây nhà thời ấy đều là nguyên tắc trong việc chọn đất làm nhà sau này của PT. Nhưng cho đến đời Ngụy , Tấn mới sản sinh ra các bậc được xem như là Tổ Sư của khoa PT , lúc ấy mới có các học thuyết PT rõ ràng như sau này chúng ta xem vậy. Bây giờ từ thời Ngụy -Tấn xét trở ngược lại những nhân vật lưu danh trong sử Trung Quốc về lĩnh vực PT xem nhé !
                            Đầu tiên phải kể đến đời Thương có Bàn Canh , nhờ ông dời đô từ đất Yểm đấn đất Ân mà nhà Thương trị vì thêm mấy trăm năm.  Đến đời nhà Chu , nhà Chu có 3 người còn lưu danh , người đầu tiên là Công Lưu. Nhà Chu chỉ thực sự hưng thịnh từ đời Công Lưu , ông ta cho dời đô từ huyện Vũ Công đến huyện Bân ( Tỉnh Thiểm Tây ngày nay của TQ ). Người thứ 2 là Cổ Công Đàn Phụ. Ông ta là 1 thủ lãnh của nhà Chu , là hậu nhân đời thứ 9 sau Công Lưu. Ông ta bỏ đất Bân , qua sông Tất , vượt Lương Sơn đến Kỳ Hạ xây dựng thành quách. Người cuối cùng của nhà Chu còn lưu danh trong giới PT là Chu Cơ Đán , con trai thứ 9 của Vua Văn Xương_ nếu quý vị nào xem truyện Phong Thần tất biết vị Vua này của nhà Chu. Bởi thực ra , trước đời Chu Vũ Vương_con trai của Vua Văn Xương_ thì nhà Chu chỉ là 1 chư hầu của nhà Thương,chưa làm nên  nghiệp lớn. Sau khi diệt Vua Trụ , Vũ Vương có ý dời đô về Lạc Ấp , và giao cho Chu Công_tức Chu Cơ Đán _việc tướng địa. Và Chu Công đã dùng cách......bói Dịch để tìm đất. Điều này càng chứng tỏ đến thời ấy , thuật PT vẫn chưa có khái niệm tìm Long Mạch để xây dựng kinh đô như sau này. Các thầy tướng địa sau đó chỉ là ở các đời Ngụy , Tấn , Tùy , Đường. Dĩ nhiên , trong thực tế vẫn có người giỏi PT khác không lưu danh lại , chính vì những người ấy vốn không có nổi danh sẵn như các vị kia , việc thêm hay bớt vài người không có quan hệ gì. Như vậy, với 1 danh tướng lẫy lừng như Mã Viện , nếu thực sự ông ta là người am tường về PT , thì giới PT thời ấy không dại gì gạt tên ông ta ra khỏi danh sách......nhằm có lợi cho việc truyền bá PT cả.
                          Tóm lại , điều đầu tiên mà NCd tôi muốn chứng minh chính là Mã Viện không tinh thông PT như tác giả nghĩ , và đây chỉ là những điều dựa trên lập luận về logic của vấn đề , thông qua lịch sử môn PT thôi. Phần tới đây , NCd tôi sẽ chứng minh bằng PT , để quý vị thấy rõ Mã Viện thực sự chẳng biết mô tê gì về PT cả.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2007 13:07:11 bởi ngươi co don >
                    #10
                      NCD 14.05.2007 14:46:25 (permalink)
                             " Kiển Thành ". Chữ Thành thì chúng ta biết chắc ám chỉ thành trì rồi , còn Kiển? Kiển trong chữ Hán có nghĩa là gì ? Xét trong chữ Hán có đến 7 chữ Kiển ,
                      do chưa thấy qua chữ Kiển thực sự của Kiển Thành nên NCd tôi đành làm phép loại suy. Xét qua góc độ ý nghĩa đi kèm với chữ Thành , chỉ có 2 chữ có thể coi là thích hợp hơn cả , đó là :
                      _ Chữ Kiển thuộc Bộ TÚC , là ý nói khập khiểng , khi đi kèm với chữ Thành thì=> nó mang ý nghĩa cái thành gập ghềnh khó đi do địa hình. Điểm này rất giống với lời mô tả về địa hình của Thành Cổ Loa , hay Kiển Thành.
                      _ Chữ Kiển thuộc Bộ Mịch ,là mang ý nghĩa trùng với ý các nhà giả sư ,ồ không,
                      các nhà sử gia chứ , tức là giống như hình cái kén của con tằm vậy.
                            Thôi thì ta tạm xem nó mang ý giống các vị sử gia ấy đưa ra đi , bởi nếu theo chữ Kiển kia thì nó giống với ý của Quẻ Kiển của Kinh Dịch , là "nạn dã" , là gian nan , là trắc trở mất rồi.Tức là :  Kiển Thành là 1 con nhộng chui vào trong vỏ kén là Thành Cổ Loa có sẵn .  Nếu quả vậy , thì NCD tôi có thể khẳng định 1 cách chắc nịch rằng  :  Mã Viện không hề biết gì về PT hoặc nghe mà không hề tin !  Vì sao tôi dám quyết chắc như thế ? Tất có lý do của nó. Bởi thời đó , tuy PT chưa thịnh như sau này , nhưng ít ra nó cũng đặt những nền tảng căn bản cho khoa PT sau này. Như vậy , không ít thì nhiều ông ta cũng từng nghe nói đến chứ ? Thế nhưng , cấu trúc của ông ta xây dựng Kiển Thành vào lúc ấy là 1 điều đại kỵ trong khoa PT vậy.  Mặc dù trong PT có nói : Nhà ở tốt nhất là hình vuông , tường vây tốt nhất là chữ chi hoặc đường tròn. Đấy là do người xưa quan niệm " Trời tròn , Đất vuông " mà ra , xây dựng cấu trúc này , người xưa nghĩ rằng sẽ hòa hợp con người vào Đạo của Trời Đất , hợp thành yếu tố Tam Tài vậy sẽ được lâu bền. Thành Cổ Loa bên ngoài tuy không hẳn là hình tròn , nhưng mang dáng dấp như thế cũng đủ tượng cho hình tròn rồi , có lẽ Mã Viện xây Kiển Thành hình chữ nhật bên trong dựa trên ý này chăng ? Nếu có vậy , cũng không làm ý của NCd tôi thay đổi bao nhiêu , có khác chăng là ông ta chỉ là người đi vòng quanh cái vòng tròn PT , chỉ nhìn thấy cái vỏ bên ngoài , nào thấy được cái tiềm tàng bên trong.  Bởi trong PT , chỉ 1 ý nhỏ nhoi " ngoài tròn , trong vuông " ấy thì chỉ như 1 hạt cát bé nhỏ trong muôn vàn hạt cát giửa sa mạc , sao đáng gọi là am tường Pt như tác giả , để mà làm nên bão táp phong ba chứ ?!  Trong PT , về tường vây , Đại Kỵ xây tường vây trước khi xây dựng công trình. Bởi trong chữ Hán , nếu quý vị nào biết chữ Hán tất thấy rõ chữ TÙ là chữ NHÂN nằm trong chữ VI. Diễn rõ ra , chữ VI giống như chữ Khẩu , giống như cái hình vuông , hình chữ nhật vậy. Đặt chữ Nhân là người vào trong , người xưa với ý tượng hình giải thích rằng : Người bị nhốt trong 4 bức tường chính là bị ở tù vậy , nên lấy đó làm chữ TÙ là thế. PT vốn phần nhiều mang hình thức tư tưởng , hình tượng nên cũng không thoát ra khỏi ý này. Chính vì vậy mới có sự cấm kỵ " không được xây tường vây trước khi làm nhà ". Ngày nay , nhiều người không hiểu cái ý này , muốn giải thích theo khoa học , cho rằng "xây tường vây trước có bất lợi là khó khăn khi vận chuyển nguyên vật liệu , vướng víu khó xây dựng " ; nhưng họ cố tình lờ đi 1 tác dụng tốt của việc này _ nhất là trong thời buổi này _ là xây tường vây trước sẽ dễ bảo quản nguyên vật liệu vậy.
                           trở lại với cái Kiển Thành kia , theo quan niệm xưa như vậy , mà Mã Viện vẫn cho xây thành vào trong lòng Thành Cổ Loa như thế , chứng tỏ Mã Viện là người không hiểu biết gì về PT , hoặc ông ta có nghe nhưng chẳng hề tin vậy. Đến đây , hẳn quý vị đã thấy rõ lập luận của tác giả về việc Mã Viện tinh thông PT là sai lầm to. Tuy tác giả không nói trắng ra , nhưng 1 người không tinh thông PT thì không sao tìm nổi Long Mạch , biết được Long Mạch cũng không thể Điểm Huyệt chính xác được , vậy thì làm sao mà nói chuyện trấn yểm ? Do đó , khi tác giả khẳng định Trụ đồng kia là do Mã Viện trấn yểm LM nước ta , là tác giả đã cho rằng MV thật sự giỏi về PT vậy. Ngay cả 1 kiến thức căn bản như vậy mà ông ta còn làm sai lầm , còn thua cả học trò của NCD dạy , thử hỏi ông ta có đáng gọi là giỏi PT chăng ? Như vậy , làm sao ông ta đủ trình độ tìm ra Long Mạch mà trấn yểm chứ ? Tác giả lại đưa ra....."học thuyết mới " (?!) , "đó là bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lưc cao hơn bùa Bát quái hai bậc theo Kinh Dịch ". Tác giả cho rằng mình "là một người nghiên cứu PT lâu năm " mà đưa ra lý luận về "trận Lưỡng Nghi " như thế , đúng là " ngắt râu ông nọ cắm cằm bà kia " vậy.  Quả là CAO NHÂN " nghiên cứu phong thủy lâu năm " nói chuyện có khác !  Bái phục ! Bái phục !...
                             Theo Dịch Lý  :    Vũ trụ từ 1 khối hỗn mang gọi là Thái Cực. Gọi là Thái Cực vì nó bao la đến vô cùng , vô tận. Đến cực điểm tất sẽ thay đổi , đến Thái Cực tất sẽ phân hóa thành Âm Dương , hình thành Trời Đất , hoặc là bản thân thiên thể có cả Âm Dương vậy. Phân Âm Dương thành Lưỡng Nghi tức là Trời và Đất vậy. Lấy Dương(_) thay cho Trời , lấy Âm (--) thay cho Đất. Hào Âm , hào Dương này chính là ký hiệu cơ bản nhất làm thành Bát Quái sau này vậy. Con cá Âm Dương trong biểu tượng Bát Quái sau này chính là Lưỡng Nghi , tượng trưng cho Âm Dương đấy thôi. Màu trắng là Dương , màu đen là Âm. Có người so sánh 2 con cá Âm Dương này là Mặt Trời & Mặt Trăng , MTrời là Dương , MTrăng là Âm , Âm Dương ôm bọc lấy nhau biểu thị Âm Dương giao nhau. Chính vì thế , mới có người cho rằng đấy là biểu tượng của nam và nữ.  Chính vì có sự Âm Dương giao nhau mới có sản sinh ra Tứ Tượng , tức là Âm Dương chồng lên nhau mà thành.
                             Một hào Dương kết hợp với một hào Dương là Thái Dương
                             Một hào Âm kết hợp với một hào Âm là Thái Âm
                             Một hào Âm với một hào Dương là Thiếu Dương ( Dương trên Âm dưới)
                             Một hào Dương với một hào Âm là Thiếu Âm ( Âm trên Dương dưới ).
                           Người xưa lấy 4 điểm này tượng trưng cho 4 phương , cũng tượng trưng cho 4 mùa trong 1 năm , tức là tứ thời. Tiếp đến , Tứ Tượng sinh Bát Quái thực tế vẫn là Âm Dương trùng hợp mà thành thôi. Thuyết Tiên Thiên Bát Quái là từ thời triều Tống mới tạo ra , nhiều người cho rằng từ thời Vua Phục Hy đã có là sai lầm lớn vậy. Trước triều Tống , chỉ có Bát Quái và 64 Quẻ Dịch thôi. Đến đời Tống , các nhà Dịch Học thời ấy , căn cứ vào " Thiên Địa định vị , Sơn Trạch thông khí , Lôi Phong tương bạc , Thủy Hỏa bất xạ " __ Trời Đất phân rõ , núi sông thông suốt, sấm gió yếu đi , nước lửa ít va chạm __ trong " Thuyết Quái " mà tạo ra hình Tiên Thiên Bát Quái. Thời ấy , các học giả uyên thâm Dịch Lý dựa vào Âm Dương , Ngũ hành , Bát Quái mà ứng dụng trong rất nhiều việc , nhiều lĩnh vực như :  sử học , số học , y học , sinh vật học , giáo dục tư tưởng phẩm chất , luật pháp , khí tượng , khí công , hôn nhân , Phật giáo -Đạo giáo , triết học , văn học , đạo trị quốc và quân sự.
                             Từ xưa đến nay , Bát Quái luôn được các nhà quân sự coi trọng. Ví dụ quẻ Địa Thủy Sư , quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân bàn về chuẩn bị chiến tranh , đầu tiên nhấn mạnh cần phải có người chỉ huy tài đức kiêm toàn , thông minh , tháo vát ; nhấn mạnh quân đội phải có tổ chức & kỹ luật chặt chẽ mới có thể đánh thắng. Như trong quẻ Địa Lôi Phục nói quân đội phải quen thuộc địa lý , địa hình , nếu không sẽ mất phương hướng. Như quẻ Bát Thuần Ly bàn về cảnh giác với mọi người , và đề phòng kẻ địch giăng bẫy.....Các nhà quân sự tài ba như Tôn Vũ , Hàn Tín , Đỗ Hiến , Gia Cát Lượng , Mã Long , Điêu Ung Thanh , Lý Tịnh đều nhờ vào Bát Quái trận pháp mà vang danh thiên hạ , tên tuổi còn mãi. Chưa thấy ai nói nhờ vào Trận Lưỡng nghi mà vang danh thiên hạ, như tác giả đề cập là trận Lưỡng Nghi cao hơn Bát Quái trận 2 bậc , thế thì dễ thường Mã Viện giỏi hơn các danh tướng kia 2 bậc rồi nhỉ ? Quả là Cao Kiến !
                      #11
                        NCD 15.05.2007 19:26:16 (permalink)
                        Nói đến các danh tướng thời ấy , người đầu tiên phài nói là Tôn Vũ , người đã viết ra 13 Thiên Binh Pháp bất hũ , mà ngày nay được ứng dụng không chỉ trong quân sự  , mà còn cả cho chính trị , ngoại giao , kinh tế... Kế đến là Tôn Tẫn , hậu nhân của Tôn Vũ , là học trò của Quỷ Cốc tiên sinh. Tôn Tẫn cũng được xem là 1 danh tướng thời ấy , với cách hành quân bố trận linh hoạt. Thời ấy , các trận pháp đơn giản chỉ là để áp dụng cho quân đội. Đó là cách chia quân ra làm nhiều toán , mỗi toán mang 1 màu cờ & quần áo trùng với màu Ngũ Hành. Có 1 người điều khiển trận ở trung quân , khi họ phất cờ thì thế trận thay đổi ,tùy theo họ phất cờ thế nào thì thế trận thay đổi theo ý ấy ( cái này có phải là cách phất cờ semaphore như hướng đạo ngày nay không nhỉ ? ). Khi thì từ trận Trường Xà như chữ Nhất , thoắt cái đã biến thành trận Lưỡng Nghi với đội hình tròn , khi thì biến thành trận Bát Quái 8 cạnh ( 8 người 1 tiểu trận , 64 người vòng ngoài thành trung trận , 512 người thành đại trận bao quanh ) , lúc lại trở ra trận Ngũ Hành ( có Chính Phản khác nhau ).....thiên biến vạn hóa tùy theo người điều khiển trận. Có 2 lý do để trận thế phải xoay chuyển :
                        _ 1 là các màu sắc cờ & quần áo đan qua đan lại lúc trận thế thay đổi sẽ làm đối phương chóng mặt , nhức đầu , hoa mắt mà gục ngã hoặc bị giết, bắt.
                        _ 2 là khi trận thế biến đổi ,có thể bao vây địch , chia địch quân trong trận ra làm nhiều nhóm bởi các trận nhỏ hơn , rồi các trận bên trong lại thay đổi nữa nhằm địch quân không biết ta tấn công ở phương vị nào. Bởi khi ta dùng Chính Ngũ Hành thì xoay thuận , dùng Phản Ngũ Hành thì trận xoay nghịch , phương vị tấn công sẽ thay đổi theo thôi.
                            Thời ấy các trận thế còn đơn giản thế ấy , nhưng do khi bị bao vây trong trận , người bị vây như hoa mắt lên trước các màu sắc đan xen phát sinh ảo giác. Nên khi truyền lời lại cho rằng trong trận có ma quỷ tấn công , hay có yêu pháp làm mê mẩn tâm thần. Đó là do người không hiểu , người thì cố tình huyền hoặc thêm thôi. Đến thời Tam quốc phân tranh , Khổng Minh tinh thông Kỳ Môn Độn Giáp , đã đem KM phổ vào trận thế Bát Quái , hoàn thiện trận Bát Quái đến mức tối đa. Mà các đời sau , các vị danh tướng đều dùng BQ trận đồ này của Khổng Minh thôi. Có KMDG , trận BQ như có cả thiên binh vạn mã bên trong. Chỉ với mấy tảng đá mà KM đã giam cả đội quân Tư Mã ý bên trong(Nếu quý vị nào đã từng xem qua các truyện của nhà văn Kim Dung , hẳn khó quên 2 cha con đảo chủ Đào Hoa đảo tinh thông binh pháp , bày trận nhốt người chỉ bằng cây cỏ.)
                             Thời đó việc trấn yểm trong PT thực ra chưa hề có , gặp những điều kiêng kỵ người ta tránh né chứ chưa có các cách hóa giải như ngày nay , thì làm gì mà có trấn yểm , nghe đao to búa lớn quá. Các việc trấn ếm thời ấy chỉ do các thầy theo phái Mao Sơn Thuật Sĩ dùng , không được mọi người xem trọng ,ai cũng "kính nhi viễn chi " với những người này. Mãi cho đến đời Ngụy , Tấn mới có Quách Phác đưa ra những tác phẩm được xem là kinh điển của khoa PT. Các sách PT sau này , đa số đều dựa trên nền tảng sách của ông ta. Và đến lúc này , từ "trấn yểm " mới có trong PT , nhưng chỉ nhằm trấn yểm các hung sát bằng ngũ hành chế hóa thôi , tuy vậy chưa có nhiều cách lắm. Lần lần theo năm tháng , người ta bắt đầu dụng Thư phù , rồi Kỳ Môn vào PT. Đầu tiên là do nhu cầu ở những vùng đất đai có người chết. Theo quan niệm thời ấy ,các vùng đất đó luôn có những Âm hồn khuấy phá , không thể ở . Vậy là nhờ đến thư phù trấn yểm , phải lệ thuộc vào các thầy Mao Sơn. Nhờ người sao bằng nhờ mình , thế là các thầy PT bước 1 chân vào khoa Mao Sơn bùa chú , rồi từ từ nó trở thành 1 bản thể bắt buộc của khoa PT. Do muốn nổi trội , người thầy này dùng bùa chú thư ếm nhà của người thầy kia xem , nhằm hạ uy tín. Gỡ xong , người bên này trả đũa lại...cứ thế tạo ra những cuộc chiến không còn về PT nữa mà về Mao Sơn thuật. Do vậy , các thầy địa lý thời sau buộc phải học để phòng thân , do hoàn cảnh sinh tồn , họ càng ngày càng trau dồi thuật bùa chú của mình. 
                               Còn thuật Kỳ Môn , ban đầu nó thâm nhập vào PT qua thuật Trạch Cát. Việc chọn ngày giờ trong khoa PT rất quan trọng , 1 điều mà các thầy địa lý ngày nay hay xem nhẹ. Xưa kia , Châu Văn Vương mất , Võ Vương tìm được đất tốt rồi ,vẫn theo lời Khương Tử Nha quàng cha 3 năm chờ tìm được ngày tháng thích hợp mới táng. Nhờ vậy cơ nghiệp nhà Chu mới kéo dài mấy trăm năm , há chỉ có mỗi kinh đô mà được thịnh đạt lâu vậy. Bậc Quân Vương còn thế , huống chi thường dân , sao có thể xem nhẹ việc chọn ngày giờ. Ngày nay , nhiều thầy địa lý theo khoa học cứ cho rằng hình thể , kiến trúc , những cái yếu tố ngoại vi kia mới là cần , thật là "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ mà ".
                             Trong việc chọn ngày giờ , có những cách cục dùng để THÔI QUAN TIẾN QUÝ tăng cường khoa giáp , thì các cách PHI ĐIỂU DIỆT HUYỆT , THANH LONG HỒI THỦ  trong khoa Kỳ Môn là những cách tối ưu vậy.
                        VD như : Dương độn 9 cục , ngày Giáp Kỷ , giờ Tân Mùi => Trực Phù Thiên Anh gia vào giờ ở Lục Tân Tam Cung , thấyThie6n Bính gia vào Giáp Tý ở Cửu Cung là Điểu Diệt Huyệt ở đó. Từ cửa đó , theo cửa Sanh đánh cửa Tử , trăm việc đều Cát , nếu động binh trăm trận trăm thắng.
                        VD như : Dương độn 1 cục , ngày Giáp Kỷ , giờ Bính Dần => Trực Phù cùng cửa Khai gia vào Địa Bính ở Bát Cung , cửa ấy là Hồi Đầu vậy , cử động trăm việc Cát , cất quân đi đánh thì dương uy muôn dặm. Đạt cách Hồi Đầu thì đẹp lòng toại ý.
                            Do có cả 2 môn kỳ bí này gia vào , PT như tiến 1 bước dài ngàn dặm vậy. Các đại sư PT thời Đường Tống như có 1 năng lực đoạt quyền Tạo hóa , với những phù chú hỗ trợ , họ có thể dễ dàng thay đổi vận số 1 người đang từ vận rủi nhanh chóng thành đạt, 1 người đang khoẻ mạnh trong thoáng chốc đã trở thành tàn phế , điên điên dại dại. Nhưng rất tiếc , đến nay các pháp môn náy gần như thất truyền gần hết , do mỗi đời các vị thầy đều giữ lại 1 ít để phòng thân vậy.
                             Lướt sơ qua như vậy về diễn tiến của khoa PT để chúng ta cùng thấy rõ 1 điều : Vào thời Đông Hán , PT thực sự chưa đủ mức hoàn hảo đến mức độ có thể làm những việc trấn yểm.Huống chi lại là trấn yểm bằng "bùa lưỡng Nghi,tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa Bát Quái 2 bậc". Trong PT thực chất không hề có cái gọi là "bùa Lưỡng Nghi " dùng để trấn yểm như của tác giả nói. Cól4 tác giả là người say mê....truyện Tàu hơn nghiên cứu PT , bị nhiễm các truyện Phong Kiếm Xuân Thu, Đông Chu Liệt Quốc , Tiết Đinh San chinh Tây..vv.
                        rồi lầm tưởng rằng bên binh thơ đồ trận có trận gì thì bên này có trận ấy. Quả là "người nghiên cứu phong thủy lâu năm " kiến thức có khác vậy ! Đáng khâm phục ! Đáng khâm phục ! Lại còn cho rằng "bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa Bát Quái 2 bậc theo Kinh Dịch ". Đây có thể được xem là kinh điển mới cho khoa PT chăng ?
                             Huống chi tác giả dùng chữ " bùa Lưỡng Nghi " để chỉ 2 kiến trúc độc lập ,thì rõ ràng tác giả còn chưa rành về Âm Dương Lưỡng Nghi rồi. Ta cùng nhìn lại vòng tròn Âm Dương Lưỡng Nghi xem nhé !  Trong vòng tròn , như đã nói ở trên có hình 2 con cá trắng đen biểu tượng cho Âm & Dương. NHƯNG trong con cá trắng có chấm đen , trong con cá đen có chấm trắng. Nghĩ đơn giản , nó như mắt con cá trong hình. Nói rộng ra , khi thiết lập nên biểu tượng này , người xưa đã ngầm ám chỉ TRONG ÂM CÓ DƯƠNG _TRONG DƯƠNG CÓ ÂM.  Rất nhiều...rất nhiều người lầm ở chỗ này , cứ luôn tách rời Âm Dương. Thực ra trong LÝ DỊCH không hề tách rời Âm Dương ,chỉ có người đọc hiểu không trọn ý người xưa thôi.
                        Thậm chí có người khéo tưởng tượng còn cho rằng 2 chấm ấy là Thiếu Dương & Thiếu Âm nữa. Thật là lầm to lớn lắm thay ! Nếu có thêm Thiếu Dương & Thiếu Âm thì đó là biểu tượng của Tứ Tượng , là hình vuông rồi , không còn là biểu tượng của Lưỡng Nghi nữa đâu. Trong Cổ Dịch Tinh Hoa luôn nhấn mạnh điểm này : Âm Dương cùng ở 1 chỗ , cùng xảy ra 1 lúc ;đúng sai cùng 1 lúc xảy ra trong 1 vấn đề, đúng chỗ này nhưng sai ở chỗ khác. Tất cả mọi việc đều có mặt trái , mặt phải của nó , và đó chính là Âm Dương rồi đấy.
                             Trong PT khi TẦM LONG ĐIỂM HUYỆT , vẫn áp dụng nguyên tắc này : Trên ní cao tìm nơi trũng , đến nơi trũng tìm chỗ nổi lên , đến nơi nổi lên lại tìm chỗ hõm...Âm Dương như hòa quyện vào nhau , khi cứ xoay vần có trong nhau , khiến ta cứ tự hỏi nơi mắt Rồng này là Âm hay Dương ?  Là cả Âm Dương tương tiếp vậy ?  Thế thì nếu Mã Viện là người am tường PT , am tường LM , việc gì phải làm 2 kiến trúc? Chỉ hũy mỗi nơi mắt Rồng là tinh khí thoát ra thôi , việc đó đâu khó với 1 người chuyên PT nhỉ ? Việc gì phài bày ra "trụ đồng là Dương , Kiền Thành là Âm " cho lắm chuyện. Rõ dớ dẫn ! Nếu thật sự giỏi , cần gì bày binh bố trận , chỉ 1 đạo thư phù là đủ. Khi đã " Dẫn Long Thăng Thiên " rồi , có là thần tiên cũng không làm cho LM đó sống lại được , vì Long Khí không còn thì đó là đất thường rồi , làm gì được nữa ?
                              Còn việc tác giả làm nhằm hóa giải tác dụng lời nguyền , NCD thấy buồn cười thật.Mặc dù tác giả xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, nhưng cách tác giả làm quá ấu trỉ , cứ như chuyện phù chú là trò đùa trẻ con. Bất cứ ai cũng có thể " Cấp ! Cấp ! Tuân Lệnh ! " được thế thì cần gì Mỹ đổ quân qua I-rắc nhỉ? Dân cả nước Mỹ không đông hơn dân I-rắc à? Nếu tác giả làm thế sao không nghĩ rằng dân Trung Quốc đông hơn ta bao nhiêu lần , chỉ cần mỗi người họ rủa 1 câu mình cũng chết nữa là.  Tuy bảo rằng ý người là ý Trời , nhưng đâu phải làm thế là hóa giải được _nếu bị lời nguyền. Muốn dụng phù chú mà chưa có TỔ như trường hợp tác giả dùng là phải giỏi KMDG, phải uyên thâm DỊCH LÝ , vận dụng đúng thời khắc , ngay đúng Quẻ thì tất được.Mọi vật trên đời đều có qui luật , và luôn tuân theo qui luật ấy , chịu 1 sự sinh -khắc cố nhiên nào đó. Bất kỳ hung sát nào cũng có cách chế ngự cả , cũng như Đông y cổ xưa , đã có độc tất có thuốc giải thôi. Quan trọng là : Bắt đúng bệnh , kê đúng toa , sắc đúng liều-đúng cách , uống đúng cử thì bệnh tất lui thôi. Trước tiên là ngay từ đầu tác giả đã chẩn không đúng bệnh rồi , nói gì dùng thuốc. Khi không có bệnh mà bắt uống thuốc coi chừng tẩu hỏa nhập ma à. Lại thêm căn bệnh loại này tác giả kê như vậy là chưa đủ toa thì nói gì đến chuyện sắc với dùng. đừng đùa với lửa.
                              Dịch lý bảo Âm Dương liền 1 chỗ , khi ta hại người thì cái mầm họa ấy đã hình thành trong ta rồi , không phải ta thắng trọn vẹn đâu , trong cái thắng đã ngầm có cái thua trong đó rồi. Bởi vậy PT mới khuyên nên hóa chứ không nên chế , cái cách chế của tác giả tuy không đúng NHƯNG đã mang cái tâm ý đó vậy.Mong rằng khi đọc những dòng chữ này , những ai đã từng có tư tưởng -hành động ác hại người khác , những ai sắp sửa có hành động hại người khác &
                        những ai chưa từng có tư tưởng-hành động hại người , xin hãy thận trọng suy nghĩ lại. NCD xin dẫn 1 câu nói của người thầy truyền đạo cho mình ,thay cho lời kết gởi đến tất cả quý vị : 
                                                     CỨU NGƯỜI CŨNG TA
                                                             HẠI NGƯỜI CŨNG TA
                                                             PHẢI NGHĨ CHO RA
                                                             MỚI LÀ ĐẠO TA.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2007 21:55:16 bởi ngươi co don >
                        #12
                          Chuyển nhanh đến:

                          Thống kê hiện tại

                          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                          Kiểu:
                          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9