Sâm cầm (tập truyện ngắn Phạm Hải Anh - Lê Minh Hà)
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 28 trên tổng số 28 bài trong đề mục
vinataba 24.08.2004 21:07:17 (permalink)
Ngọn gió nào đi qua cuộc đời chúng mình...




...Cũng thành gió biếc... (1) Nghĩa rền rĩ trong khi dí kính vào cái thời khóa biểu mới ông hiệu phó chuyên môn vừa dán ở phòng hội đồng. Thụy từ nãy giờ chúi đầu vào cuốn 'Tử vi tướng pháp' ngước lên nhỏ nhẹ 'thật à?' Cái nhếch mép thì đểu. Nhưng mắt nhìn thì buồn bã. Cả đám giáo viên đang quây quanh cái ấm giỏ cười phá. Chân cũng cười bâng quơ. 'Sao ở đâu cũng như ở đâu?'

Chân đổi về trường này đã hai năm. Trước Chân dạy ở Trung Hà. Trước nữa, ưu tiên tốt nghiệp thủ khoa, Chân được phân công vào Lâm Đồng, khu Kinh tế mới Hà Nội. Đi hai năm là được ra. Mẹ bảo 'thôi cứ từ từ.' Mẹ hãi cảnh con gái bà bạn đi Lâm Đồng hai năm sốt rét rụng tóc, mà cũng lại sợ con đi buồn tình lăng nhăng lít nhít mẹ không ở cạnh nắm tay day trán được mà đay. Hàng ngày Chân mang gạo ra đầu Hàng Da xay bột về làm bánh trôi bánh chay bán quanh cho đàn bà trẻ con trong ngõ, bạn bè tới thì khao luôn. Cũng có đồng ra đồng vào không phải lựa lúc xin mẹ. Nhưng càng ngày càng chán. Mãi bố mẹ mới xoay được cho về Mê Linh. Rồi về Trung Hà. Không phải qua sông, tiện đường ô tô hơn. Đùng cái, nhà nước lại tách nhập tách, Mê Linh Trung Hà từ giã địa vị Hà Nội can - nơi dừng chân của những đứa bị phân công công tác xa Hà Nội mà không thể đi. Vậy là lại thêm một lần các cụ nhà Chân phải xuống xuống lên lên phòng tổ chức sở Giáo Dục. Bao nhiêu là lý do được đưa ra với vẻ vừa kèo nèo vừa khẩn nài vừa cùn: Bố mẹ lâu năm trong ngành, nhiều năm đi xa tít mù tắp tận Tây Bắc, và cuối cùng mẹ Chân chấp nhận về hưu, tiếp quản cái bàn bán bánh trôi của con gái để con gái được theo nghề. Nhích thêm chẳng được mấy cây số đường chim bay về đất nội thành. Nhưng cái chính là lần này về Hà Nội thật.

Trường nằm giữa cánh đồng, mùa đông gió bấc lồng lộn, thầy trò run như giẽ. Đầu hè thì ong ong một màu nắng trắng, đi được từ bến xe vào trường mắt đổ hoa cà hoa cải. Học sinh nói đủ thứ giọng. Giọng Kẻ. Giọng Mỗ. Giọng Nhổn. Lại còn mấy đứa thi chuyển cấp thiếu điểm vào trường gần nhà phải xin học trái tuyến nói giọng Trích Sài. Buổi đầu Chân nghe cứ như nghe tiếng nước ngoài. Hộc tốc xốc gan chạy từ trường ra bến xe sau tiết cuối, hỏi giờ, trò rộn ràng thưa cô chưa dân ca cheo. Nghe, Chân phải đần mặt ra một hồi tự dịch. Gọi lên bảng kiểm tra miệng, học sinh ríu rít liến thoắng một hồi, Chân làm mặt tỉnh cho sáu điểm. Đứa nào cũng hớn hở khi nhận lại vở từ tay cô. 'Cô mới hiền ghê. Hỏi độc một câu là cho về chỗ'. Ra bến xe, Hải dạy thể dục nham nhở ghé mặt choắt mắt ốc nhồi vào sát mặt Chân, đôi vai nần nẫn như vai đàn bà no đủ còn cố tình nghiêng xuống: 'Hiền với mình thôi bạn ạ. Chớ có hiền với học trò. Học trò là quỷ dữ.' Chân bước lùi, chẳng quen ngồi hàng quà vặt mà cũng tụt dép sà xuống trước chị bụng chửa bán mía: 'Chọn cho em một cây ngọt ngọt vào chị.' Xong lại hốt hoảng nhìn quanh xem có đứa học trò nào láng cháng gần: 'Dạ không. Em mua về nhà. Chị đẵn ra cho em đừng róc.'

Về trường mới, Chân đổi lại được nghề cũ. Dạy văn. Và dạy phổ thông trung học hẳn hoi đúng như được đào tạo. Phúc trùng lai. Trước, xin về Trung Hà, phải dạy cấp hai, mẹ giục giã và Chân gật đại trước đôi mắt mệt mỏi của ông cán bộ phòng tổ chức nguyên đồng nghiệp với mẹ từ thời ở khu tự trị Thái Mèo: 'Vâng dạy chính trị cũng được chú ạ. Thì cứ theo nghị quyết chứ gì chú!' Về trường, thêm một lần thay đổi. Hai giáo viên sử nghỉ đẻ. 'Cô Chân thay nhé. Tám tiết chính trị khối bảy. Mười tiết sử khối chín. Dạy văn mới cần cảm hứng chứ sử thì cứ sách giáo khoa mà nện!' Ông hiệu phó nói cười ha hả trước khi nhổm người gọi với bà lao công 'này đun ngay cho tôi siêu nước có khách' và Chân hiểu rằng cuộc gặp mặt với ban giám hiệu đã hết.

Về trường mới, Chân nôn nao như lên bục giảng thực tập thời sinh viên khi nghĩ tới ngày mai. Ngày mai, Chân sẽ viết lên bảng hai chữ giảng văn. Ngày mai, theo chương trình Chân sẽ dạy 'Tiếng hát con tàu'. 'Ngày mai cả tổ sẽ dự giờ của giáo viên mới đấy nhé!' - Tổ trưởng Hợi cao to đẹp mã vợ đẻ toàn con gái réo giữa văn phòng. 'Vâng ạ'. Chân rụt rè cười. Cái cười hơi ngơ ngác của người cận thị.

Từ hồi đi dạy xa Chân tập thôi đeo kính. Trước, ngỡ chỉ bỏ kính khi hôn nhau như bạn bè đùa. Nay, Chân bỏ kính thật. Dạy vùng xa, nơi học trò sáng đi học chiều dậm dụi ngoài đồng, bố mẹ học trò đến trường theo lời mời của giáo viên ống quần còn quăn quăn nếp xắn từ đầu gối trở xuống, tiếng cười vừa xởi lởi vừa khiêm nhường 'thôi thì chúng tôi trăm sự nhờ các thầy cô giáo', đeo kính thấy kỳ kỳ. Rồi cũng quen với cảm giác mờ ảo của cảnh và người. Chỉ những lúc một mình trong căn phòng tập thể của trường Chân mới đeo kính lại. Rất xa đằng kia là Bất Bạt. Mùa xuân, đám bạn đi thăm mộ người nhà ở nghĩa trang Yên Kỳ hay tạt qua trường Chân. 'Eo ơi! mày cả tháng ở trên này thì đời lên mốc mất.' 'Mốc chỗ nào. Có càng ở thì càng teo như cái mộc nhĩ được nắng ấy.' Linh cũng cười, đóng hoàn hảo vai bạn lên thăm bạn, tuyệt nhiên không biểu lộ một thái độ sở hữu nào trong khi Chân loay hoay với cái bếp dầu gia công nấu mì đãi khách. Linh đã đồng ý với Chân rằng bỏ nghề ở nhà thì phí và buồn chết đi được. Linh đã mừng rỡ khi bố mẹ xoay được cho Chân về trường này: 'Rồi vài năm thì tiến về Hà Nội.' Hai đứa tưởng tượng như thật một cảnh gia đình trẻ. Vợ giáo viên ở trường huyện cùng con nhỏ. Chồng giảng viên đại học, cuối tuần tha lương thực thực phẩm quà cáp của ông bà nội ngoại lên với vợ con. 'Vài năm thôi. Đến khi Chân về lại được nội thành thì cứ gọi là...' Chân đã bao nhiêu lần mơ màng 'Chứ gì nữa! Cứ gọi là...' Nhưng bây giờ, Linh nói cười vui vẻ và mắt nhìn trống rỗng. Lòng Chân rỗng không. Ngoài kia, gió xuân vờn trên cánh đồng thuốc lá. Lá cây thuốc lá lật mình trong gió xám bạc dưới bầu trời mùa xuân mưa phùn xám bạc. Có hai đứa trẻ lang thang ở đầu kia cánh đồng. Thằng lớn dừng chân đứng chống cuốc. Thằng bé mặc cái áo ngắn cũn cỡn và quần cộc. Chân có cảm giác như nhìn rõ được gương mặt tím tái, ngẩn ngơ và háo hức của nó hóng về những mặt người hớn hở bên những khung cửa xe bus đang lao vèo vèo qua theo hướng Yên Kỳ. 'Đi tảo mộ mà chẳng mấy khi thấy ai buồn khổ.' ý nghĩ ấy bao nhiêu lần đến trong đầu Chân, thường day dứt hơn khi đám bạn ào vào sân trường. áo bu dông. Kính trắng kính đen. Giày thể thao. Xe máy long lanh giọt lệ. Những ngày ấy và những ngày cán bộ phòng với sở lên kiểm tra trường chuẩn bị cho mùa thi có lẽ là những ngày xôn xao nhất ở đây.

Và Chân đã trụ ở đấy sáu năm. Sáu năm. Bạn bè vãn dần dù hàng năm vẫn đứa nọ đứa kia đi thăm mộ trên Bất Bạt. Chân nhận được bao nhiêu thiếp mời mà không thể về. Những mùa, những chiều, Chân nhìn dãy Ba Vì mờ xa, nhìn sương buông trên cánh đồng thuốc lá, vác bát sang nhà chị giáo viên cùng trường xin gắp dưa, nói mấy câu trước khi về khép cửa phòng châm ngọn đèn dầu. Lòng có nỗi niềm nào chăng là lúc mấy đứa học sinh gái rụt rè gọi cửa, chào râm ran và xăng xái bày mấy củ khoai nướng sém mời cô, hay bê tới cho cô rổ rau khúc để cô mang về Hà Nội, làm như cô chỉ cần có rau khúc là có bánh khúc mà ăn tắp lự. Hay là khi mấy cô bé đã ra trường đùn đẩy nhau trước cửa phòng và cuối cùng một đứa mặt đỏ dừ vừa thẹn thò vừa hớn hở lắp bắp 'bố mẹ em cho em đến mời cô hôm này...' Chân đã đi một đám cưới học trò như thế và không bao giờ đi nữa.

Nhưng Chân đã đi đám cưới Linh. Cuối học kỳ bận rộn, làm xong sổ điểm Chân mới về nhà. Thấy hai cái thiếp mời. Bố ngồi ở đầu giường, liếc nhìn Chân, vờ vĩnh chép miệng: 'Mẹ nó mua lạng chè này ở đâu được nước thật.' Thảo Chi thản nhiên: 'Ông Linh nhà bà đi cùng vợ tới đây. Hơi bị giàu. Vàng đỏ tay. Phải tội hơi quá bụ bẫm. Mà trông có vẻ cứng tuổi hơn. Thấy bảo làm thư viện ở trường ông ấy. Chắc đua đòi cho vui vậy thôi chứ nhà Hàng Gà có cửa hàng bán buôn khuy chỉ gì ấy.' Mẹ mặt hầm hầm nhưng giọng ngọt ngào: 'Thảo Chi đun nước cho chị tắm chưa con. Rồi dọn mâm ra. Xong mà học bài cho sớm. Bọn sinh viên chúng mày giờ mẹ không hiểu nổi. Học hành gì mà chỉ dồn vào mấy kỳ thi.' Thảo Chi cười: 'Con không định đi làm như chị Chân đâu. Khi nào con ra trường, mẹ cứ bàn giao cái bàn bán bánh cho con. Con nhìn rồi, ngõ mình giờ phát triển thành nơi bán hàng quà vặt đông nhất phố. Con mà bán hàng ý à. Đảm bảo các cụ bà về hưu mất khách.' Bố nhăn mặt, giọng gằn gằn: 'Mẹ bảo thì động chân động tay ngay đi chứ đứng đó mà động mồm' và Thảo Chi hốt hoảng lè lưỡi. Hai chị em đèo nhau tới phòng cưới, cười như phá cùng cả đám bạn học cũ của Chân, chọc ghẹo cô dâu chú rể loạn xạ. Và Chân không gọi Linh là anh, xưng Thái Chân như hồi còn đi học. 'Chị ta biết gì về mình? Linh kể gì về mình?' Câu hỏi thật vớ vẩn cứ cuộn trong đầu Chân khi ngồi lên xe cho Thảo Chi đèo về. 'Mà sao mình không muốn khóc?' Thảo Chi nhấn ga, ngoái đầu, tiếng được tiếng mất trong gió... 'Bà này thế mà... lạnh...' Cái gì như chán với đểu...

...Đoạn đường từ trường ngoại thành về nội thành của Chân kéo tới bây giờ là đúng tám năm. Sáu năm Trung Hà. Hai năm Diễn. Lại đã là học kỳ hai. Lại đã là mùa xuân. Trường nằm giữa cánh đồng nhưng cũng không xa làng, từng lúc hương hoa bưởi lại dịu dàng thoảng tới. Vườn xoan các cụ mướt mát sau những ngày mưa. Lá xoan non tơ, nhưng màu xanh dường như đã đằm xuống bởi những chùm hoa tím bạc. 'Trông chẳng còn giống con gái mới lớn. Giống con gái lỡ thì'. Chân bất giác mỉm cười và học sinh không hiểu vì sao môi cô giáo cười lại run run. Hay tại những dòng thơ...Con nhớ anh con người anh du kích - Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn - Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách - Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con...

...Có một tiếng thở dài lan trong lớp học. Bọn học trò ngỡ ngàng và say mê nhìn cô giáo. Thơ da diết và trôi chảy. Như con sông Nhuệ, như một dải khăn xuân quấn quanh trường. Như Chân đọc cho mình. Các giáo viên dự giờ thì thào điều gì. Lại mùi hương bưởi. Dịu dàng quá. Sao dịu dàng thế này. Đến không thể nào chịu nổi... Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương - Khi ta ở chỉ là nơi đất ở... Giọng Chân cao lên rồi trở lại nhỏ nhẹ. Trong một thoáng, đất trời trải trước mắt Chân màu xám bạc của những cánh đồng thuốc lá. Bến nước Trung Hà. Ba Vì mưa bụi. Bất Bạt lô nhô những ngọn bạch đàn trên vô vàn mộ chí... Và rồi tất cả bừng lên trong ánh mặt trời mùa xuân ban trưa. Vườn xoan. Vòm cây bưởi trắng hoa nhà ai. Những đứa học trò nhà quê đang ngây ngất nhìn cô hôm nay và ngày mai sẽ đi lấy chồng lấy vợ, sẽ già đi có khi còn nhanh hơn cả cô. Nhưng đây không phải Trung Hà. Đây là Diễn. Diễn chỉ còn cách Bờ Hồ mười lăm cây. Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn... Còn có tâm hồn nào nữa? Còn có khi nào mình rời khỏi nơi đây như đã rời đất Trung Hà? Mình sẽ nhớ buổi trưa này thế nào? Có đau đớn như lúc này? Chân xoay người, xiết viên phấn lên tấm bảng đen vênh váo học trò đã cẩn thận sơn lại bằng lá khoai mỗi kỳ tựu trường. Từng âm vọng dồn trong ký ức... Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét - Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng - Như xuân đến chim rừng lông trở biếc... '...Cái lạ lùng của những so sánh trùng điệp, bất ngờ, không dễ hiểu...' Giọng Chân đam mê, nhỏ nhẹ, chẳng giống một lời hướng dẫn giảng dạy nào. Những giáo viên dự giờ lại thì thào điều gì, lại ghi chép điều gì, và học sinh lặng lẽ. Có một làn hơi rất nóng cuộn lên trong lồng ngực con gái ba mốt tuổi của Chân, làm Chân nghẹn thắt. Mình sẽ nhớ. Sẽ nhớ. Thơ không phải là đời. Có những mùa xuân không bao giờ qua.

1998


Chú thích
1: Ngọn gió nào đi qua cuộc đời chúng mình cũng thành gió biếc - ý Nhi.
2: Những câu còn lại trích từ Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên.
#16
    vinataba 24.08.2004 21:12:09 (permalink)
    Phục trước tĩnh đàn


    "Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
    Xuất thần giây lát chưa tàn nén hương
    Trở về minh bạch nói tường
    Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra..."
    -Truyện Kiều-




    Nổi bật trên đồi ngực trắng ngà cái nốt ruồi màu dâu chín, tròn trịa, mịn như nhung. Đấy là tướng sinh quý tử. Nhưng anh không bận tâm đến chuyện đó. Lúc này chẳng có gì quan trọng. Lưỡi anh miệt mài quấn quanh cái nốt ruồi những vòng xoáy ngất ngây. Cái nốt ruồi tỏa hương say say, ngòn ngọt. Mắt nhắm, tóc môi hơi thở trộn vào nhau, không biết ngoài vườn hoa táo đang rạo rực bung cánh. Cả một trời hoa táo hồng rực, đẫm sương đêm.

    Anh đi rồi em rút trên ban thờ quyển Kiều sờn mép. Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều... Quẻ dạy rằng: "Kiếp xưa đã vụng đường tu. Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi. Dẫu sao bình đã vỡ rồi. Lấy thân mà trả nợ đời cho xong...". Không phải. Nhất định là em chưa đủ thành tâm khi khấn, hoặc vì em chưa dọn mình sạch sẽ quẻ không linh. Không phải thế đâu. Em xin quẻ khác. Em sẽ bói kỳ ra tương lai hoa mộng của chúng mình. Lạy vua Từ Hải...

    Khi mang thai con mẹ có mơ gì? Chim phượng hoàng đậu trước hiên nhà? Vành trăng rằm rơi xuống bụng? Hoa mai nảy nụ? Mẫu đơn mãn khai?... Mẹ bảo mẹ chẳng mơ thấy gì, chỉ thèm ăn ốc. ốc vặn luộc chấm nước mắm gừng. Mẹ ơi, mẹ sinh ra con có phải đêm rằm? Trai mùng một, gái đêm rằm là khác người lắm đấy. Không, mẹ sinh ra con lúc niên cùng nguyệt tận. Ngày hai mươi bốn tháng mười một rét cắt da. Khi mẹ chuồi ra khỏi cơn đau đón lấy con, con nhăn nhúm như một con khỉ thiếu tháng. Chưa từng thấy đứa bé nào xấu xí thế. Mẹ ngất đi.

    Bố tính ngày giờ, lập lá số tử vi cho con gái. Số này mệnh vô chính diệu, Triệt đáo kim cung, Nhật Nguyệt tịnh minh, như nhà không, cửa rộng đón mặt trời mặt trăng soi chiếu. Số này Cự Cơ Tí Ngọ, thạch trung ẩn ngọc cách, như ngọc ẩn trong đá, lại thêm Văn Khúc, Văn Xương, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thanh Long, Thiên Hỷ quý tinh tam phuơng hội về, cốt cách thanh kỳ, tư chất thông minh, đường công danh nhẹ bước thang mây... Mẹ ngắt lời, xem ngay cho nó cái cung chồng con, đàn bà con gái sự nghiệp mà làm gì. Số này Thiên Nguyệt Đức ngộ Đào Hồng, trai lấy vợ đẹp gái giành chồng sang. Mẹ thở phào nhẹ nhõm, rút hương cắm bàn thờ tổ, cầu ông bà tổ tiên phù hộ độ trì. Lá số tử vi của con gái nâng niu xếp lại.

    Chắc tại sao Cự Môn nên em miệng rộng, sao Thiên Trù nên tính thích ăn ngon. Sách tướng dậy: "Đàn ông miệng rộng thì sang. Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà." Lại còn cái nốt ruồi ở môi trên "ăn trôi cả nhà ". Mẹ phàn nàn con gái lớn rồi mà không biết phấn son chải chuốt, chẳng liếc mắt đánh mông, không thùy mị dịu dàng, cả ngày chỉ tính chuyện ăn uống. Tướng số nó như thế không cưỡng được đâu mẹ. Bạn bè cứ việc phập phồng sướng khổ chiều thứ bảy, ngày chủ nhật phóng xe long tóc từ chùa Bà Đá qua đền Quán Thánh xuống phủ Tây Hồ xin thẻ, cầu duyên. Em vào phủ Tây Hồ chỉ chăm chăm có món bún ốc. ốc béo vàng, bún trắng nõn, hành xanh, ớt chưng đỏ ngậy, nồng nàn cay chua, về nhà mặt còn hây hây, mẹ mừng thầm chắc Mẫu ban quẻ tốt. Phủ Giày có bánh giầy giò, bánh trắng muốt, rất quánh rất mịn, giò hồng thơm không pha bột. Đền Ghềnh chỉ được món bánh đa nên em ít vào đấy lễ. Tây Thiên đặc sản cầy hương tươi. Em đi lễ về trình diện mẹ hai tay hai đùi cầy giống cao bồi miền tây giương súng lục. Lộc đấy mẹ, lộc trời lộc thánh nên mới thơm ngon từng thớ thịt nức hương xạ. Cái hôm trảy hội chùa Hương mấy đứa bạn nghịch đắm đò, quần áo, giầy tất, vàng hương đồ lễ trôi lềnh bềnh, riêng balô bánh mì xôi thịt trên lưng em còn giữ khô nguyên. Chùa Hương thiêng nhất món rau sắng. Từng mớ kẹp nẹp tre tươi, lá dầy xanh thẫm, ngọn non uốn lên như râu rồng. Rau sắng mẹ vò giầm giập, nấu canh tôm tươi hay giò sống, ngon chết đi được. Bà mắng, con bé này ăn nói hay nhỉ, ngon mà chết được, thế sống để làm gì hả. Sau này đến lúc em bần thần tự hỏi mình cũng câu ấy thì bà đã mất. Mất trước khi em kịp hiểu rằng chết vì ngon có khi là ân huệ trời ban. Người ta thường chết vì những cái khác cay đắng hơn.


    Cho nên bà cụ nhà bên cứ đầu tháng lại xách chuối xách hương đến ông thầy bói. Lần nào cũng chỉ hỏi một câu: "Ông xem giúp bao giờ thì tôi chết?" Số cụ thọ lắm, nhân trung dài, dái tai to, phúc lộc còn nhiều. Bà cụ trở về đăm chiêu. Phúc lộc ai chả muốn, nhưng cụ ông chờ cụ bà dưới ấy đã hơn năm chục năm. Lạy giời lạy phật, mồ ma chàng thanh niên mãi mãi hăm ba tuổi đừng phát hoảng khi phải đón linh hồn bà vợ già ngót nghét tám mươi. Những nếp nhăn này là lời lãi của mấy chục năm sống dôi làm cái kiếp người... Cô Tân cũng là khách quen của ông thầy bói. Cô Tân ngực nở, mông nở, mắt xanh lơ, môi đỏ cờ, móng chân móng tay bàng bạc. Câu hỏi của cô bắt đầu từ: "Năm nay em có lấy được chồng không?" chuyển sang "tháng này có được không?", rồi tính từng tuần. Bây giờ việc lấy chồng của cô cấp bách từng ngày. Ông thầy bói quay cuồng từ tử vi sang bói Dịch, Thái ất thần số, Mai Hoa Dịch số, Lục Nhâm đại độn, Khổng Minh thần số, cầu viện đến cả bói Kiều, rút bài tây... Lời thánh dạy chồng chéo nhau, cô Tân cứ buồn vui lẫn lộn. Nếu không lực bất tòng tâm, chắc ông thầy bói dám đem thân mình lấp vào câu hỏi của cô để thần thánh được yên thân. Nhưng mà như thế, lấy ai giải đáp nỗi lòng cho cô Thục. Cô Thục cũng đến hàng tuần, áo dài tay, kín cổ, mắt đeo kính, đi về khẽ khàng như bóng ma. Cô ngồi đùi khép chặt, hai tay thu vào lòng, chỉ có cặp kính vươn ra như ống nhòm xoáy vào ông thầy câu hỏi dai dẳng về đường tình duyên gia đạo. Con đường ấy sao mà dài, cô đi mãi không tới bến. Nhà cha mẹ để lại, mấy đứa em lấy vợ sinh con, mỗi ngày thêm chật chội. Cô đã hoàn thành ba bằng đại học, lại thêm các khóa tiếng Anh, tiếng Pháp từ sơ cấp tới nâng cao, kết quả thu được chỉ là cặp kính ngày càng dày cộm. Chưa có ngón tay run run nào giúp cô cởi cái khuy áo cổ cao. Chưa có hơi thở đàn ông nồng nồng nào lùa vào mái tóc dần thưa sợi. Cô đã đi học bao lớp nữ công gia chánh. Bàn tay khô ngón cắm hoa không mắt người tán thưởng. Mũi kim đan mùa mùa ngập ngừng đan khăn len tự sưởi ấm mình. Những cái khăn len mỗi lúc một dày thêm mà đôi tất bé xinh ướm vừa lòng tay mơ ước cô chưa bao giờ được đan cả. Lần cuối cùng cô đến xin quẻ xuất ngoại. Mấy cậu em kháo sau lưng cô kế hoạch quẳng bom nổ chậm sang Tây, Tây nó hứng lấy là mình đỡ ô nhiễm môi trường.

    Mẹ dắt em đến gặp ông thầy bói. Gieo bao nhiêu quẻ tiền cứ múa tít chẳng sấp chẳng ngửa. Bát nhang trên bàn thờ tự nhiên hóa, lửa bốc đùng đùng. Ông thầy hốt hoảng xin bà đưa cháu về, cô ấy còn ở đây là cháy hết điện thờ tôi. Không nản lòng, mẹ đưa em tìm thầy khác. Cao nhân tất hữu cao nhân trị. Nhưng ba bốn chỗ thầy nào cũng từ chối khéo. Cô đồng thấy mặt em cứ khóc hu hu rồi đồng thăng. Cuối cùng nghe bảo ở làng Ngọc Hà có bà thấy như thánh sống, quá khứ vị lai phán vanh vách cấm sai. Đường làng quanh co, mới đến cửa ngõ, chị gái dẫn đường lao xe xuống ao, ướt áo, què chân, thất thểu dắt nhau về. Lần sau tìm tới nơi, bà thầy đang ốm thập tử nhất sinh. Tam cố thảo lư, lần thứ ba mình thánh khoẻ mạnh nhưng cậu bạn đi cùng cà chớn. Cậu xin bà phán cho một câu chắc cú, thử xem bố cậu còn sống hay đã chết, nói trúng được thưởng tiền. Bà thầy lót lá dắt tay cả đám ra cửa. Số em là cái số khắc thầy bói.

    Nhưng mà giá có thể he hé tấm màn vị lai, nhìn thấy anh dù chỉ một lần thôi, thì sao nhỉ? Mẹ không biết em bắt đầu len lén mua quyển Kiều về tự bói. Cô Kiều bảo: "Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non. Người còn thì của hãy còn. Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà." Em nghe cô ấy xui, khư khư cố thủ chờ anh để giao chìa khóa vàng. Đêm qua anh đến, về rồi quên khép cửa. Kho báu này có là gì đối với anh không?

    Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu, chặt cây cổ thụ bắt được chim sẻ, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân ngắm hoa trong gương đẹp mà không thật. Quẻ Thủy Lôi Truân tơ vò trăm mối. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội leo cây tìm cá. Quẻ Địa Hỏa Minh Di gai góc đầy đường. Quẻ Phong Trạch Trung Phu chạy trên băng mỏng rạn vỡ. Quẻ Phong Địa Quán bèo mây tan hợp. Quẻ Thủy Sơn Kiển mưa tuyết triệt đường. Quẻ Quẻ Du Hồn chơi vơi... Một mình em chật vật đi qua bao quẻ bói. Cô Tân, cô Thục... cũng đi như thế. Những bóng đàn bà lầm lũi. Em theo họ lên phủ Tây Hồ, bỏ qua hàng bún ốc, xăm xăm vào cửa Mẫu. Tam tòa Thánh Mẫu ngự giữa nhấp nhô hoa lá xanh đỏ, hương bay nhòa nước mắt. Như bươm bướm dâng lên tiền Ngân Hàng Nhà Nước, tiền Ngân Hàng Âm Phủ, vàng lá, vàng đinh, đô la Mỹ. Thiên hạ đang tiến lên mê tín dị đoan. Ông giáo sư tiến sĩ dâng sớ xin Mẫu tách trường Đại học Sư Phạm khỏi Đại Học Quốc Gia, làm đầu gà sướng hơn đít trâu. Ông không biết sếp của ông cũng đang đứng cửa Đức ông cầu sát nhập thêm trường đại học vào khối Quốc Gia. Họp nội bộ mãi rồi mà cầu xin vẫn không thống nhất. Đức Ông với Thánh Mẫu đâm ra khó xử, không khéo lại bất hòa. Bên cạnh em một chị không khấn gì, nước mắt lã chã. Mấy tháng trước chị ấy đến đây vợ chồng con cái ngồi xe nhà gắn máy lạnh, người giúp việc theo sau bê mâm lễ ngất ngưởng rượu ngoại, bia ngoại, thuốc lá ngoại, đô la. Lần này chị tới một mình, đi bộ. Chồng chị buôn thuốc phiện lĩnh án tù chung thân. Nhà bị tịch thu, con trai bà nội bắt về. Chị ấy chỉ còn nơi này để mà đến, nước mắt dâng lên Mẫu. Ông beo béo kia thành tâm xin âm dương thăng quan tiến chức. Ông gầy hom hem thì thào nhờ sư bác giải giùm quẻ thẻ xem kiện tụng có bề gì. Những người đàn bà chen vai thích cánh, lời cầu xin khiêm tốn hơn mà cũng tha thiết hơn các ông. Đầu tiên là cầu duyên, rồi đến cầu tự, cầu cho chồng đừng theo gái, cầu cho con cái mạnh khoẻ, cầu cho nội ngoại hai bên được an khang, cái thân mình thì quên mất, giống đàn bà vì thế cứ khổ mãi. Như ông chú em chẳng bao giờ bước tới đây cầu duyên mà lấy những bảy vợ, cô sau trẻ đẹp hơn cô trước. Chú may mắn với phụ nữ nên không phải một mà bẩy cô được khổ. Chú ấy bảo em chỉ bi kịch hóa vấn đề. Các cô tự tìm đến, chú ban phát cái sướng cho bẩy cô, rồi lại hào phóng thả các cô ấy tự do đi tìm hạnh phúc mới, nhưng đàn bà vừa tham lại vừa si, sướng không biết đường sướng. Trong lố nhố quanh đây có thể có cô chuẩn bị là thứ tám. Cô ấy cũng thành tâm xin Mẫu cho kết duyên với hiền nhân quân tử, nhỡ không lấy được chú, cô ấy sẽ oán Mẫu không thiêng... Em né sang bên để bà thủ từ lách vào dọn đống hương hoa chất ngất trên ban thờ. Bà ấy giúi từng bó hương đang cháy vào thùng nước, những lời nguyện cầu dang dở, đầu nén hương ngấm nước thâm đen. Hoa vứt từng đống ngoài sân, đoá tươi, đóa héo, phần lớn là hồng đỏ. Vài phút trước, hương hoa ấy là nơi thành kính gửi gắm bao nhiêu hi vọng, lo toan. Chiều hắt nắng xuống đống ước nguyện bị sa thải, cánh hồng nhung giập nẫu còn giữ nguyên màu máu. Trong kia, ban thờ Mẫu lại đầy ngập hương hoa, hương mới châm, hoa mới cắt, nụ hàm tiếu còn rung rinh nước đọng. Mơ ước mới chồng lên mơ ước cũ. Khói trầm tuôn ngào ngạt, hoà với mùi bún ốc đang sôi, bánh tôm rán, lươn xào sả ớt... nức lên từ những quán đặc sản ven đường. ở đây tấc đất tấc vàng, những cái quán ngày càng nống ra hồ. Sóng ấm ức đập ngực vào kè bê tông vỡ tan muôn vụn nắng. Những con sâm cầm đã bị ăn tuyệt giống. Mặt nước chói chang. Vài đóa hồng nhung nổi trôi giữa đám rác rưởi, xác cá ngộp thở chết trắng bụng.

    Hình như em chưa kể với anh về ngôi mộ vô chủ bên kia hồ Tây, mộ đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi chết trên cỏ ướt. Em lúc ấy mười một tuổi, rút trộm hương trên bàn thờ ra thắp trên nấm đất con con. Năm ấy cây phượng vĩ bên mộ đứa bé nở hoa chưa từng thấy. Hoa ngùn ngụt như lửa đỏ hắt một vùng trời nước. Em chạy chân trần trên cỏ, nhặt những con cá dầu người ta gỡ lưới vứt đi, thả lại vào hồ Trúc Bạch. Những con cá như ngón tay bạc quẫy trên tay em, lặn hút vào lòng nước. Chúng trở lại trong giấc mơ em một đêm rất buồn. Dòng sông chảy xiết, tiếng khóc trẻ sơ sinh vặn xoắn trong từng thớ nước. Triệu triệu con cá bạc hối hả ngược dòng tìm miền đẻ trứng. Em choàng tỉnh, đặt tay lên bụng, chỗ vòng eo thon. Không cần mở sách giải mộng, em biết anh đang cách xa em. Những con cá bạc không đến được nơi anh, tiếng khóc trẻ sơ sinh không vọng tới tai anh. Nhưng mà thôi, mộng mị thì nhiều...

    Cô Tân rủ em lên tận Thanh Hóa gọi hồn. Nghe đồn cô đồng này nói chuyện với vong, tìm ra được cả chục ngôi mộ liệt sỹ thất lạc bao năm nay, xã huyện đã cấp giấy chứng nhận ghi công. Cô Tân tìm chồng, ráo riết hơn người nghèo tìm xương lính Mỹ, tha thiết hơn nhà giầu tìm mộ tổ tiên. Nắm xương mấy chục năm rã mục trong đất cô đồng còn tìm được, huống hồ một tấm chồng. Cô Tân tràn trề hi vọng. Bà cụ nhà bên đi từ Thanh Hóa về, sụt sịt kể vong ông cụ nhập vào cô đồng, từ cử chỉ đến lời nói cứ y hệt như lúc sinh thời, đòi hút thuốc lào sòng sọc, lại còn gọi tên con cháu trong nhà vanh vách. Quanh nhà cô đồng, người ta dựng lều trọ cho khách thập phương ăn chực nằm chờ đến lượt vào gặp vong nhà mình. Cô đồng đóng vai phiên dịch giữa người với ma, ưu tiên hồn chết bất đắc kỳ tử, hồn liệt sĩ, hồn tướng cướp, hồn chết trẻ, những hồn ấy còn tiếc đời nên thiêng hơn các hồn khác. Nghe một hồn nhập qua cô đồng kể, ở đây vong chờ gặp thân nhân đông vô kể, hồn phải chen mãi mới vào được. Giá có hồn thợ mộc đến đây đóng ghế là giầu to, con cháu hồn khỏi mất công đốt tiền âm phủ. Em nhìn ra mảnh sân chật ních mặt người chờ đợi, rùng mình. Chẳng biết đâu là người đâu là ma. Cô đồng hỏi em cần tìm gặp hồn nào. Em không biết trả lời sao. Những ngón tay anh còn ấm trong giấc mơ em, nhưng anh thì xa xôi sương khói. Dẫu có bói được ra anh giữa ba ngàn thế giới thì cũng chỉ là một hình bóng mà thôi. Em chào cô đồng ra về. Một mình rẽ lối giữa những mặt người, hồn ma. Đi mãi... Tháng sáu, nắng vỡ mặt đường.

    Amsterdam 3-06-2002
    #17
      vinataba 25.08.2004 07:12:45 (permalink)
      Bạn bè


      Cô y tá trẻ thì thầm than vãn với chị y tá già... 'Bệnh nhân tự tử thứ mười hôm nay đấy chị. Chết kiểu gì không chết lại đi chọn kiểu chết khổ chết sở để người ta đè ra bơm nước vỡ bụng ra thế này. Cái cậu uống Vophatoc hôm qua tỉnh rồi nhưng cứ quờ quạng chân tay làm ràm như thằng dở người ấy chị ạ'...
      Nữ bác sỹ đứng thẳng dậy, nhìn sang cái giường kế bên. Một hình người dẹp lép như cái đóm dưới tấm chăn mỏng. Cái đầu trọc lóc. Lằng nhằng dây dợ. Tiếng máy thở pinh pinh đều đặn. Đấy cũng là một bệnh nhân tự tử. Một cô bé. Cô y tá trẻ vẫn rầm rì than vãn với chị y tá già. Nữ bác sỹ thở dài phụ họa 'ừ ca trực này hết cả hơi' và kéo cái ống nghe tụt xuống cổ, ra khỏi phòng. Hai người y tá nhìn theo, rồi nhìn nhau: 'Mẹ này hôm nay sao hiền thế không biết?!' Chị y tá già thúc tay vào cùi chỏ cô bạn: 'Sinh nhật chị ấy hôm nay đấy. Phòng bác sỹ thấy đầy hoa'.

      Căn phòng riêng của nữ bác sỹ thì không có hoa. Sạch sẽ và lạnh lẽo. Cái lạnh lẽo lẩn quất trong từng góc nhỏ ngay cả những ngày nồng nực nhất ở những nhà không có trẻ nhỏ. Hai ngày rồi nữ bác sỹ chưa về nhà và cứ băn khoăn quên chưa hé cửa sổ cho bay hết mùi giấy đốt.
      Chị đã chuẩn bị cho ngày sinh của mình như thế: Hỏa táng kỷ vật hai mươi năm. Một xấp giấy mỏng. Những tờ thư. Một tình bạn. Thời con gái. Không phải để chuẩn bị làm điều gì mới mẻ. Từ lâu rồi nữ bác sỹ đã tin đời mình không đổi nữa.

      Người đàn bà nạ dòng rời đám các bà các cô đang xúm xít xung quanh, buông bát bún riêu, đứng phắt dậy túm lấy ghi đông xe đạp của cô bé, vừa nghiêm trang vừa bả lả. 'Em về nói với bà chuẩn bị một cái lễ lên chùa xin đội bát hương đi! Em căn cao số nặng, tình duyên rồi ra lật đật lắm. Nghe chị. Chị xem cho em không lấy tiền đâu. Số em rồi thể nào cũng phải về hầu cửa Thánh. Chạy trời không khỏi số đâu em. Xin đội bát hương giờ cũng còn chưa muộn lắm. Đừng ngạo mạn tin mình rồi hận một đời em ạ...'
      Cô bé cười ngơ ngác, lúng túng và xấu hổ. Những người đàn bà ngồi quanh gánh bún riêu nhìn người đàn bà đầy vẻ sùng mộ. Bao nhiêu lời khuyên tới tấp bay ra từ những miệng đàn bà chắc chắn nồng nặc mùi mắm tôm. 'Nghe cô đi em ạ.' 'Số mình vậy, Thánh đã sang lời qua cô. Không biết thì đành. Biết thì phải làm rồi Thánh vuốt ve che chở cho...'

      Sau này Thảo hay nhớ buổi chiều vô tình gặp người đàn bà ấy khi đạp xe ra chợ mua chấp gội đầu. Nhớ cả cảm giác vừa thẹn vừa bực vừa sờ sợ khi nghe lời khuyên vỗ mặt của người đàn bà không quen, khi nhìn chị ta. Mặt choắt. Trán dồ ra hai bên. Hệt một quả trứng lộn ngược. áo cánh trắng, quần sa tanh vừa cộc vừa nhàu. Hàm răng trắng ăn trầu nhờ nhờ hồng hồng, và đặc biệt: cái nhìn man dại. Nhiều lần đi qua những hàng quà có đàn bà xúm xít Thảo bất chợt bắt gặp mình đang kiếm tìm người đàn bà đồng bóng ấy. Nhưng chị không biết chị có nghe lời chị ta hay không. Hay sẽ vẫn như xưa: háo hức và sợ sệt kể cho đám bạn cùng tuổi, sau đó quên phứt.
      Cho tới ngày ấy.

      Sinh nhật Thảo rơi vào tháng năm. Tháng của mưa rào, của những môn thi cuối cùng, của những lo sợ cuối cùng háo hức đầu tiên trước một mùa hè. Ba mẹ chiều cô con gái lớn đã là sinh viên dắt thằng con trai nhỏ cách cô chị cả chục tuổi về bên ngoại, sau khi chuẩn bị đầy đủ bánh trái nước non cho con gái mời bạn. Mẹ trước khi đi cẩn thận đặt bình hoa huệ lên bàn thờ, dặn: 'Để đêm mẹ về thắp hương. Năm sau sinh nhật con đừng mua huệ nữa nhé. Sái lắm.' Hương bạn thân Thảo cằn nhằn: 'Cháu bảo nó rồi mà nó không nghe. Lại còn cãi cố tao thích.'
      Thảo cười khì khì 'mẹ với cái Hương mê tín quá.' Mà không giải thích vì sao mình lại tầm cho được chục huệ mang về. Nhành gầy, nụ nhỏ, trắng muốt, thơm mát cả lòng, dịu cả chiều hè ngột ngạt. Thảo thích huệ, rất thích và có lần còn đùa cùn với mấy đứa bạn. 'Đám cưới tao tao cho chú rể ôm gà trống thiến, còn tao thì cầm bó tỏi. Rực rỡ đủ dùng. Tụi mày toàn loại bốn mắt thử nói tao nghe không có kính thì chúng mày nhìn bó tỏi khác bó hồng bạch chỗ nào? Hâm à? ừ thì thôi vậy. Thay bó tỏi bằng bó huệ ta. Sang trọng và truyền thống gấp vạn lần ôm bó lay ơn to vật như cái chổi đót.' Lũ bạn cười ầm ỹ. Một đứa hét cho thằng Quang làm chú rể. Và Quang quay sang Thảo, tinh quái: 'Thế nào? Dịu dàng một tý đi thì tớ nhận làm cô dâu của tớ. Có tất cả chúng nó đây, thề với Thảo là tớ sẽ cho Thảo ôm hoa huệ trong ngày cưới!'

      Lũ bạn vẫn thường ngạc nhiên thằng Quang ngang cành cành thế mà cứ nhũn như con chi chi trước cái Thảo. Chỉ có Thảo là biết Quang nhũn như thế nào. Vừa câu trước câu sau kể cho Quang nghe buổi hẹn hò thứ mấy mấy với anh sinh viên thứ mấy mấy Quang đã mắt tròn mắt dẹt: 'Có vậy thôi à? Tưởng các ông sinh viên yêu đương thế nào chứ chỉ có mời đi ăn chè thì Quang cũng mời được. Cho ăn mệt nghỉ đỗ đen Hàng Thùng hay thập cẩm Hàng Điếu. Hay bây giờ mình lại đi đi. Chúng nó bảo hàng chè đầu Hàng Điếu anh gì mời Thảo vẫn chưa ngon. Phải hàng thứ hai cơ. Lạc rang hơi quá tay một chút. Thơm lắm.'
      Không làm cách nào chọc tức được thằng bạn chuyên môn chọc tức người khác. Mà cũng không thể nào thôi không chơi với nhau. Cứ đùng đùng dắt xe bỏ đi buổi chiều là tối lại thấy Quang tỉnh bơ gõ cửa 'cháu chào hai bác' rõ to và thằng ranh con Tuấn đâm bổ từ phòng trong ra anh Quang anh Quang ầm ỹ. Chỉ còn duy nhất hai cách cư xử phải thay đổi: hoặc hậm hực đi ra đi vào nhìn Quang dạy thằng Tuấn tò toe tí toét cái Clarinet và thỉnh thoảng cười gì với bố mẹ, hoặc cũng làm ra vẻ tỉnh bơ một cách lịch sự. Rồi khi Quang về thì theo ra đóng cổng và nhìn nhau phì cười.
      Thảo nhớ lan man, thắc mắc chưa thấy thư chúc mừng sinh nhật của Quang trong khi tay năm tay mười dọn bàn cùng cô bạn. Những cơn gió nồm lồng lộng thổi qua khung cửa để ngỏ. Lòng Thảo không sao yên được trong một niềm vui chưa có tên. Có tiếng gõ cửa ngập ngừng. Khéo khách ở quê ra! Hương ngẩng đầu nói với theo bước chân gấp gáp vui mừng của cô bạn. Mẹ Quang đứng đó, nhợt nhạt. Thảo cũng nhợt nhạt. Người đàn bà nhìn cô gái, lòng bị cắt thêm bởi một nỗi đau, và chợt hốt hoảng khi thấy la liệt trên mặt bàn những bánh những kẹo những hoa quả đã bày biện tỉa tót. 'Bác xin lỗi cháu... bác không biết là...' Tiễn người đàn bà về, Thảo quay lại Hương run run: 'Mày không được nói gì tối nay, nhớ chưa?' Cô bạn hốt hoảng gật đầu, hốt hoảng nhìn lên bàn thờ. Thảo cũng nhìn lên bàn thờ. Bình hoa huệ thơm thanh khiết, mùi thơm chưa ngát lẫn mùi hương khói. Nước mắt hai cô gái ứa ra.

      Thế đấy! Thế là không có lời chúc mừng của Quang sinh nhật ấy. Không bao giờ còn có lời chúc mừng của Quang những sinh nhật sau. Không còn những trêu chọc và chiều chuộng hết sức bình thường trong những năm tháng ấy và đã trở thành không bình thường vào những ngày sau. Khi Thảo cho phép mình nhớ.
      Quang với tiếng kèn Ôboa... Giai điệu 'Dòng kênh xanh' của Phú Quang... Hội trường Cung Văn hóa thiếu niên. Quang với cái trống đại và đôi tay gõ dùi như múa theo một bài hành khúc trong đội hình nghi lễ đón tiếp phái đoàn các nước sang thăm ở sân bay Gia Lâm. Và giọng nói đầy chòng ghẹo... 'Tên là cỏ mà chẳng khác gì loài thân gỗ. ừ mà được đấy. Cỏ làm đình. Thì mình lấy ta. Chung một phận nghèo này... cỏ ơi...' Điệu sa mạc chênh vênh đi trong tiếng cười òa ra trên sân trường loang nắng mùa đông. 'Mình lấy người ta thì còn phải tỏ tình khướt!' Cả lũ lại cười, thúc: 'Nói đi Quang! Đèn xanh đấy!' Và Quang nghiêm túc: 'Sẽ! Nhưng khi nào cô bạn của chúng mình chán những cuộc hẹn hò với các anh chàng kháu lão trong tương lai đã. Em chào thầy ạ!' Ông giáo già mặt mũi nghiêm trang có biệt danh Trịnh Trọng Viên gật đầu đi ngang, không biết thằng học trò cưng đang hốt hoảng thè lưỡi nén cười cùng chúng bạn.

      Sẽ! Không bao giờ! 'Vậy là kẻ thù đã ngăn được bước ta đi.' Quang nói bình thản, và hát tiếp 'khí thế tiến công mang sức mạnh thần kỳ.' (1) Cũng một buổi chiều. Cuối hạ. Mấy bà hàng xóm nhà trong ngõ đi làm về dắt cái xe chở đầy rau cho 'ngày nay cho ngày mai cho hai ngày sau' (2) ngang chỗ hai đứa đúng, mặt khó đăm đăm. 'Nhưng có điểm thi đại học rồi mà. Quang đi nước ngoài là cái chắc rồi mà!' Thảo chán nản níu một hy vọng mơ hồ. 'Giấy gọi nghĩa vụ phường đưa chiều hôm qua rồi. Làm sao chờ được giấy báo nhập học. Mẹ Quang khóc cằn nhằn bố không chịu chạy trước mấy ông ngoài phường. Nhưng có mà chạy giời. Biên giới đánh nhau dữ thế!'

      ... 'Chiều biên giới em ơi... Có nơi nào xanh hơn' (1)... Không biết ở biên giới mình với Tàu thế nào chứ cái màu xanh ấy ở nơi giáp ranh đất Miên này sợ lắm Thảo ạ. Quạnh quẽ. Rợn ngợp. Và cả đất nước ấy nữa. Bọn Quang vừa đi qua một làng Miên. Mới lác đác người về. Những ngọn cây thốt nốt chĩa vào trời xanh rờn rợn...'
      ... 'Có một cô bé Campuchia hay mang thằng em tới chỗ bọn mình. Cô bé mười sáu tuổi, tên là Phaly. Cái tên nghe cứ trong veo. Cả nhà hai đứa chết hết. Thế mà hai chị em, rất lạ lùng, cứ vui như bọn mình tuổi ấy. Quang cứ thắc mắc hay đấy chính là bản năng sống của con người. Sống là phải biết quên những điều không thể chịu đựng...'
      ... 'Hồi theo Cung Văn hóa vào tham quan Sài Gòn, qua những cánh rừng cao su đều tăm tắp xanh ngút ngát, Thảo cứ ồ à mãi nhớ không? Nhưng đi vào trong thì đơn điệu chết đi được. Còn ngủ giữa rừng cao su thì không hiểu sao rất mệt. Khác ngủ trong rừng Cúc Phương hồi lớp chín. Cứ tưởng Thảo ghê lắm, vậy mà con vắt còn cách cả mét đã hét lạc cả giọng. Hôm đó Thảo cứ bắt Quang mang địa lan về. Nhưng Thảo thấy không, cái màu vàng cam ấy chỉ lộng lẫy đúng ở góc rừng ấy...'
      ... 'Có nhiều người rủ Thảo đi ăn chè nữa không? Chờ đấy! Quang về thì Quang sẽ tỏ tình thật chứ không ngỏ lời theo kiểu ấm ớ ấy. Nhưng vẫn với một điều kiện: Thảo hết tính ương...'
      ... 'Lời ở lại vẫn còn đó chứ ...'

      Những lá thư. Như những dòng ghi chép. Nhiều lá viết sau đến trước. Đêm đầu tiên của tuổi mười chín, khi bạn bè về hết, Thảo đọc lại, tất cả, rồi xếp cẩn thận vào cái cặp da nhiều ngăn cũ bố đã bỏ không dùng. Và những ngày sau đến trường cười như Liên Xô. Hương nhìn gương mặt trắng nhợt và đôi mắt rừng rực của bạn, cáu kỉnh: 'Vợ để tang chồng ba năm. Mày cũng cố nhớ thằng Quang thêm vài hôm cho tròn một trăm ngày chứ!' "Tao là gì của Quang mà phải thương với nhớ hơn mày? Mày nhớ Quang à? Thì phần nhớ để cho mày hết.' Thảo tỉnh bơ, nhấm nhẳng. Nhưng đêm về không hiểu sao toàn nằm mơ thấy Quang, thức giấc lại mường tượng ra luôn gương mặt người đàn bà đồng bóng.
      Người đàn bà đã bảo cô bé mười sáu tuổi rồi tình duyên sẽ lật đật. Rút cục thành vậy thật. Biết bao nhiêu lần trở về từ một cuộc hẹn hò Thảo lại chán nản hiểu rằng mình chỉ ao ước được nghe lời tỏ tình từ người con trai ấy, người bạn học cũ, Quang. Quang đã không đùa về chuyện ấy lúc chia tay, nhưng lúc đó mặt Quang bừng sáng, mắt nhìn nghiêm trang lạ kỳ: 'Thảo hứa chờ Quang về rồi nhé!' 'Nhưng Thảo vẫn có thể đi ăn chè với một ai chứ?' 'Nếu không thì tốt hơn!' Sơn thân nhất với Quang chen vào: 'Yên tâm vững bước mà đi. Thảo sẽ chỉ đi ăn chè với tao cho đến lúc mày về!' Cứ như trong một trò chơi trốn tìm. Sau này Thảo đã buồn rầu tiếc mình cứ hay đùa cợt như thế. Nếu không, thì chị có thể tin rằng Quang đã tỏ tình theo cách của Quang. Hoặc nếu không, chị đã không phải giữ lời thề của người ở lại. Như thế chị sẽ dễ dàng hơn biết bao mỗi bận đến nhà Quang. Ra trường, bạn bè thưa thớt dần, chỉ còn chị và Hương và Việt đều đặn có mặt ở nhà Quang ngày giỗ bạn. Như những người bạn cũ. Nhưng bố mẹ Quang và chị gái Quang nhìn chị biết ơn và xót thương. Không biết nhà Quang hiểu thế nào về tình bạn giữa hai đứa mà khi đi tìm mộ Quang bà mẹ lại cho cô con gái đến nhà tìm Thảo. Lúc đó chị đang nghỉ ôn thi tốt nghiệp. Còn có năm tuần. Mẹ suốt ngày chăm bẵm cô con gái cưng sắp thành bác sỹ sững sờ ngồi phịch xuống ghế khi Thảo xin đi chơi xa. 'Con về Phát Diệm với mấy đứa cùng lớp. Vẫn mang theo sách học mà mẹ. Cái Sâm nó cào khan cào vã mãi. Nghe bảo ở đó có khu nhà thờ đá trắng đẹp tuyệt vời...'

      Tàu dập dình dập dình. Ngang Ninh Bình mấy bà buôn chuyến hò hét 'đóng cửa sổ đóng cửa sổ ngay lại khéo vỡ đầu giờ.' Đá trẻ trâu ném lên thình thình. Bến xe miền Tây. Chiều Tây Ninh nắng. Mẹ Quang rưới rượu vào cái tiểu sành bà khư khư ôm suốt chuyến đi. Thảo bàng hoàng trong khi con mắt nghề nghiệp nhoay nhoáy ghi nhận: hộp sọ, răng, xương đốt ngón chân, xương đốt ngón tay, xương bả vai... 'Đấy không phải là Quang! Không phải là Quang! Không phải Quang!' Chị Quang giục đốt hương. Gió vật vã. Đồng trống. Trời xanh. Bó hương bốc lửa đùng đùng. Chị Quang thì thào thằng Quang về. 'Không phải Quang! Không phải mình thắp hương cho Quang'. Nước mắt Thảo ròng ròng. 'Quang ơi! Thảo thắp hương cho mình.'

      ... Nữ bác sỹ về nhà vào lúc xế chiều. Bó hoa huệ bọc trong lá dong gác gượng nhẹ trên thành giỏ xe. Có hai đứa con trai con gái đang nói cười rộn rã trước cửa phòng chị. Đứa con gái mừng rỡ: 'Cô đã về. Chúng cháu chờ cô mãi. Mẹ cháu bảo đến làm bún chả mừng sinh nhật cô. Chiều muộn mẹ cháu mới đến được cô ạ. May cháu thông minh chuẩn bị tất tật ở nhà. Cô mở cửa cháu bê vào. Có cô này. Chú Việt này. Mẹ Hương cháu này. Mẹ cháu bảo chỉ bạn thân phổ thông với nhau thôi...'

      Đứa con gái liến thoắng trong khi thằng con trai cẩn thận dựng xe khệ nệ bê hai cái làn nhựa đỏ chóe đặt lên bàn. Cậu trai cười bao dung trong khi cô bạn mở máy còn nhanh hơn trước: 'Bún đây cô nhé. Cháu tầm đúng bún con bừa. Nước chấm trong lọ này. Chả trong xoong này. Rau sống rửa rồi. Đu đủ lúc nãy cháu mới mua được. Cô chịu khó gọt ngâm hộ cháu cho ngấm. Không là cô lại phải nghe mẹ cháu ca bài con gái con đứa đoảng thay cháu đấy... Dạ... Cháu đi luôn cô ạ. Chiều chúng cháu học thêm toán. Nhất định phải đỗ đại học chứ cô. Có thế thì mới có quyền hy vọng những năm năm nữa.'

      Hai đứa con trai con gái nhìn nhau đồng lõa rồi nghiêm trang: 'Chúng cháu chúc cô sinh nhật lần thứ...' và bối rối dừng phắt lại. 'Lần thứ bốn mốt' - Nữ bác sỹ mỉm cười đón lời - 'Được rồi! Thôi hai đứa đi đi. Cô cảm ơn My My và cháu... Cháu tên gì nhỉ? Quang? à! Quang. Cô cảm ơn My My và Quang.' Giọng nữ bác sỹ đột nhiên khao khao như bị viêm thanh quản. Nhưng những người trẻ tuổi không hề nhận ra. Cũng không hề nhận ra cái vô duyên của một bữa bún chả mừng sinh nhật thiếu những tiếng nói cười rầm rỹ, thiếu gió tạt khói thơm lừng, chỉ có vài gương mặt bạn bè dẫu mỡ màng đến mấy cũng vẫn phảng phất vẻ nẫu nẫu của tuổi. 'Bọn trẻ thật vô tâm.' Bác sỹ nhìn theo họ đạp xe vù đi trên phố nắng, sững sờ: 'Chính mình. Tuổi ấy. Bảy tám chín tám. Hai mươi năm rồi. Sao trong lồng ngực vẫn như có trái tim mười sáu tuổi?' Chị cắm cả bó hoa huệ còn nguyên lá dong bọc ngoài vào xô nước đặt ở góc phòng, lê tới giường, nằm vật xuống, ngủ lịm đi. Trong giấc ngủ, nữ bác sỹ vẫn nhận biết được tất cả. Tiếng một con ve kim chói lói xa xa gần gần trên vòm sấu. Tiếng lũ trẻ reo dưới phố. Bà hàng xóm mắng con luộc rau không mở vung để rau bị vàng. Mùi giấy đốt khen khét. Mùi chả nướng thơm ngột ngạt trong căn phòng đóng kín cửa sổ. Từng lúc, từng lúc, hoa huệ lại phất qua một mùi thơm thanh khiết, mong manh...

      Nữ bác sỹ mở mắt khi nắng cuối chiều xuyên qua khe cửa sổ vào giường, rọi thẳng gáy chị. Người chị đẫm mồ hôi. Trong một thoáng chị không hiểu gì cả. Mùi chả nướng. Mùi hoa huệ. Mùi giấy đốt. Những âm thanh thực dường như nhỏ hơn lúc nghe trong mơ. Tiếng gõ cửa khắc khoải. Hương. Hương xì ke ngày xưa giờ nom thật mợ. Nhìn bạn, nữ bác sỹ nhận ra thời gian đã trôi đi như thế nào. Phải đổ ngay chậu gio giấy đốt mấy hôm trước. 'Không cần giữ làm gì phải không Quang. Người ta chỉ giữ kỷ vật khi sợ sẽ quên...'

      ý nghĩ ấy lại đến với chị khi chị nhìn cô bạn có thâm niên chơi với nhau hơn hai mươi năm cẩn trọng cắt từng nhành huệ cắm vào cái lọ sứ trắng muốt. Hai mươi năm rồi Hương không còn thắc mắc vì sao chị mua huệ cho ngày sinh. Hai mươi năm rồi Hương chung với chị nỗi nhớ người bạn mãi mãi mười chín tuổi.
      Lúc chị xách cái chậu còn vương muội tro quay vào nhà, cô bạn đang loay hoay sửa nhành huệ bị nghiêng trong lọ hoa vừa đặt lên bàn thờ. Một tấm ván. Một bát hương tàn vun cao hơn thành. Không một bức ảnh. Hương không quay lại. Hình như Hương nói gì.
      - Gì cơ? Thủ tiết! Mày hỏi gì buồn cười vậy. Tao với Quang vô tư. Y như mày. Là bạn. Y như với mày.
      - Cơ quan tao mới về một ông. Thảo này, tại chức thôi nhưng biết người biết việc lắm...
      - ... Con bé nhà mày đến đây lúc chiều. Đi với một thằng cu trông rất được. Hương này, nó đủ khôn để hiểu chuyện trong nhà rồi. Ông tại chức của mày... thôi để phần mày.
      Hai người bạn gái nhìn nhau cười rũ. Nữ bác sỹ đưa tay nhấn công tắc đèn. ánh sáng bừng lên, xô bóng chiều nhập nhoạng ra ngoài khung cửa. Ký ức như một cuốn phim được quay nhanh. Những người đàn ông chị đã gần gũi khi được sự đồng ý của hai cơ thể như dân y nhà chị vẫn hay đùa. Những người bạn gái giờ chồng già con lớn chắc là đã quên bẵng chị. Và Quang. Môi cười nhếch một bên vừa cởi mở vừa giễu cợt. Những bông ngọc lan trắng lấp lánh trong tàn lá xanh cứ mỡ đi sau trận mưa rào. Và Quang. Tiếng kèn Ôboa như tiếng vọng thẳm sâu, thanh thản, da diết. Giọt nắng chầm chậm chuyển trên vai đột nhiên nhảy nhót trên mái tóc khi Quang nghiêng người bên chiếc Ôboa chiều bế giảng năm học phổ thông cuối cùng... Đột nhiên nữ bác sỹ nhận ra ý nghĩ lạc đi đâu đâu. 'Giá mà Hương quên ngày sinh của mình! 'Chị lắc đầu: 'Con bé năm nay thi đại học rồi. Mười bảy rồi đấy nhỉ? Tháng sau à?'
      Nữ bác sỹ nhớ tới thân hình dẹp lép và cái đầu trọc lóc của cô bé đang phải thở máy trong phòng cấp cứu. Nhớ tiếng làm ràm của cậu thợ chữa đồng hồ ở ái Mộ Gia Lâm vào viện mấy hôm trước vì uống thuốc trừ sâu, nhớ cái bụng õng nước của cậu sinh viên bị đè ra rửa ruột sáng nay, ngỡ ngàng. 'Sao bọn trẻ bây giờ thích tự tử thế không biết!'


      11.1998

      Chú thích:
      1: Lời một bài hát thường được phát trong chiến tranh biên giới Việt Trung.
      2: Nhại lời "Bài ca xây dựng" (Hoàng Vân): Cho ngày nay cho ngày mai cho muôn đời sau.
      #18
        vinataba 25.08.2004 07:15:47 (permalink)
        Cái đồng hồ


        Nàng mặc áo màu cam chín. Hắn không nhìn rõ mặt nàng. Chỉ có cái áo như hắt một vệt sáng lạ lùng lên mùa đông xám xịt. Một thoáng thôi, rồi nàng biến mất. Hắn từ từ mở mắt , mụ mị. Không biết bây giờ là mấy giờ. Tiếng kim đồng hồ vẫn tích tắc khó nhọc. Cứ tích tắc như thế suốt tháng, suốt năm, đến phát điên lên được, mãi mãi quanh quẩn trong cái vòng tròn với mười hai chữ số, không nhanh hơn mà cũng không chậm hơn. Đây là cái đồng hồ cuối cùng trong số mười bảy cái đồng hồ quà cưới. Đêm tân hôn, nàng nghịch ngợm bày mười bảy cái đồng hồ quanh phòng, vặn cho chúng chạy. Hắn hôn nàng trong tiếng năm mốt cái kim đồng hồ quay vòng tích tắc. Nàng cười, nghe tiếng đồng hồ gõ nhịp vang cả căn phòng nhỏ, bảo rằng đó là giai điệu thời gian, nó cũng như nhịp tim mình vậy. Cũng đêm ấy, khi hắn thỏa mãn, lơ mơ thiếp đi, mười bảy cái đồng hồ bất thình lình đổ chuông. Cả nhà choàng dậy, hốt hoảng như báo động. Chỉ có nàng tỉnh như sáo, mắt mở to nhìn hắn, mỉm cười. Hắn không nhìn cái lúm đồng tiền rung rinh trên má nàng. Hắn vùng dậy, lặng lẽ tháo pin của mười sáu chiếc đồng hồ, gom lại thành đống để đầu giường. Môi nàng mấp máy định nói một điều gì rồi thôi. Hắn nghĩ nàng nên xin lỗi vì sự vô ý của mình.
        Hôm sau, hắn vác mười sáu cái đồng hồ thừa ra hàng kí gửi. Người ta nhận bán hộ mười lăm chiếc, còn một chiếc gắn ba bông hoa nhựa đỏ rực phô sắc trên nền nhựa tim tím bị tế nhị trả về. Hắn cho luôn bà cụ hàng xóm. Bà cụ cứ cảm ơn mãi, bảo cháu phúc đức quá, khi nào bà chết bà sẽ phù hộ cho cháu. Hắn không mấy hi vọng vào điều đó. Bà cụ ngày nào cũng cởi trần, ngồi tắm cạnh bể nước tập thể, cái quần đen kéo cạp cao đến tận ngực, che đôi bầu vú chắc đã teo quắt chả còn gì đáng xem. Mỗi lần thấy hắn bà cụ đều gọi lại, khẩn khoản nhờ kì lưng. Hắn không nhớ mình đã kì lưng hộ cụ bao nhiêu lần. Hòn đá kì xam xám trơn tuột trên tấm lưng trần da mồi lốm đốm, cầm ướt át ghê tay. Hắn kì qua quít rồi đưa trả hòn đá. Lần nào bà cụ cũng cẩn thận hỏi lưng bà có bẩn không, rồi hài lòng cám ơn, lại hứa khi nào chết bà sẽ phù hộ cháu. Bà đã hứa thế với tất cả bọn trẻ kì lưng hoặc xâu kim hộ bà. Cuộc sống của bà sau khi chết chắc sẽ bận rộn hơn bây giờ nhiều lắm vì phải đi phù hộ biết bao nhiêu người. Bây giờ bà chỉ ngồi đó, khâu đi khâu lại những miếng quần đen dầy cồm cộp, cây kim to tướng, sợi chỉ thô, đường kim dài ngoẵng xiên xẹo. Lúc nào cũng thấy bà khâu hoặc tắm, vị trí cố định là cạnh bể nước hoặc sau song sắt cửa sổ. Bà níu gọi tất cả những người lướt qua địa phận của mình để hỏi giờ và hỏi thời tiết. Bọn trẻ trong khu cứ nhìn thấy bà là lập nghiêm, trịnh trọng thông báo tình hình thời tiết đang chuyển biến rất xấu, rồi chạy tóe đi, bụm miệng cười nhìn bà lẩm bẩm lo lắng. Bà ghét bọn ấy, mắng là lũ trời đánh thánh vật. Chỉ có hắn được bà quý nhất. Thỉnh thoảng, bà gọi hắn, hỏi thật to về thời tiết trong lúc lén lút giúi vào tay hắn một bọc ni lông con con, khi là mấy cái kẹo đã chảy nước, khi là quả hồng xiêm đã nhũn hoặc nửa bắp ngô luộc nguội ngăn ngắt. Bà không nghĩ hắn đã thành thanh niên, đã có người yêu và đang tấp tểnh lấy vợ. Hắn mường tượng những gương mặt lướt qua cặp mắt đùng đục của bà lão như những cái bóng mờ ảo của một thế giới người xa lắc, không đem lại cái gì cho bà cụ nữa ngoài những thông tin về thời gian và thời tiết. Thế giới của bà cụ chỉ co cụm lại trong phạm vi một từ: Sống. Bằng tất cả cơ thể kiệt quệ và bản năng mù lòa, bà lão bám riết lấy cái sống, đơn độc làm cuộc chạy đua tuyệt vọng với thời gian mà đích cuối cùng là cái chết.
        Một chiều về nhà, hắn ngạc nhiên không thấy bà cụ ngồi tắm bên cạnh bể nước nữa. Bà hàng xóm giải thích ở nhà quê cho người lên đón cụ về rồi. Cụ khóc lắm, nhất định không chịu đi. Cuối cùng phải dọa là ở đây chết sẽ bị hỏa thiêu, nóng lắm. Những đe dọa về cái chết với các cụ già bao giờ cũng có tác dụng. Bà cụ lui cui soạn đồ mất cả buổi, nghe đâu mang theo cả cái đồng hồ của hắn. ở nhà quê, chắc những người qua lại không sẵn đồng hồ cho cụ hỏi giờ. Bà cụ đã già đến mức không nhớ nổi tuổi mình. Bỏ quên ngót trăm năm ở sau lưng, dồn hết sức lực để tích cóp thêm từng giờ sống nữa, cung cách của bà cụ có cái gì làm hắn vừa buồn cười, vừa kinh sợ và khâm phục nữa.
        Nàng cũng hay hỏi giờ và vẫn thường đến quá sớm hoặc quá muộn. Hắn quen nàng trong lớp ngoại ngữ buổi tối. Nàng luôn mặc những cái áo màu thật khủng khiếp, nhìn nhức cả mắt. Tóc nàng cắt tỉa lởm chởm chẳng giống ai. Bao giờ nàng cũng ngồi cô độc ở góc lớp và biến mất ngay khi chuông hết giờ vừa reo. Đôi lúc hắn bắt gặp nàng trên chiếc xe đạp mini đỏ chói, hối hả đạp, vòng bánh xe lăn cuống cuồng như chạy trốn ai hay như đang trong một cuộc đua nuớc rút. "Em vội gì thế? ", sau này thân hơn, hắn hỏi nàng. Nàng nhoẻn cười rất dễ thương, thú nhận: "Em cũng chả biết nữa, tự nhiên nó cứ như thế. " Quỹ thời gian của nàng dư thừa và nàng cứ vội vàng. Gò má nàng lấm chấm tàn nhang, cái nốt ruồi tí xíu đính lắt lẻo ở môi trên. Khi nàng nói, chẳng có cái gì chịu ở yên một chỗ. Cái nốt ruồi nhảy nhót, hai lúm đồng tiền lúc ẩn lúc hiện, cả chiếc răng khểnh của nàng cũng vậy. Chúng làm hắn phải sốt ruột, phải quan tâm và không thể nào không nhớ tới nàng.
        Một lần xa Hà Nội, hắn tẩn mẩn viết thư cho nàng. Hắn mở đầu: "Em, anh đang ở cách xa em hơn ngàn cây số. Nhưng dù thân xác anh ở đâu, trái tim và tâm hồn anh lúc nào cũng quanh quẩn bên em... ". Thư rất dài, hơi văn hoa, nhưng mê tiểu thuyết như nàng chắc là sẽ thích. Nàng trả lời ngay. Nàng bảo có gửi kèm trong thư cả tâm hồn và trái tim hắn vì xưa nay nàng không quen viết thư cho cái xác không. Hắn vừa bực, vừa buồn cười. Lại nghĩ nếu chỉ có cái xác mình đen đủi, to kềnh càng nằm ườn ra đây thì cũng kinh thật. Có một lần, hắn ướm hỏi nàng rằng tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác, một người gánh vác không nổi nên phải tìm người khác để xẻ chia. Nàng nhìn hắn. Đáy mắt nàng trong vắt, lấp lánh. Tim hắn hẫng nhịp, chờ đợi. Nhưng nàng bảo linh hồn nặng thế có lẽ phải cần tới trăm người khiêng, một trăm người ấy cõng thêm trăm linh hồn nữa, cộng lại nặng gấp mười nghìn lần thể xác, thế là tất cả chết bẹp. Nàng cười, chiếc răng khểnh trắng như giọt sữa đông, hai lúm đồng tiền xoáy thật sâu. Hắn không biết mình nên bỏ về ngay lập tức hay nên ghì mái đầu bướng bỉnh của nàng vào ngực mình, ghì thật chặt cho nàng không thể vùng vẫy và nhất là không thể lý sự nữa. Nhưng hắn vẫn ngồi im. Hắn biết nàng chỉ xù lên như một con nhím sợ hãi, người đàn bà trong nàng cũng yếu đuối, không chút tự vệ, run rẩy chờ được thuần phục gã đàn ông đầu tiên nào vượt qua lớp vỏ chông gai kia. Và hắn đã đúng.
        Nhưng chưa bao giờ hắn cảm thấy mình là kẻ chiến thắng may mắn. Giá ngày ấy hắn cứ bỏ đi có lẽ nàng và hắn đã hạnh phúc hơn chăng? Hắn không biết. Ngay cả bây giờ hắn cũng không dám chắc một điều gì cả. Đôi lúc hắn thấy kì lạ rằng một người đàn bà bé nhỏ ngây thơ như nàng lại có thể xáo trộn cuộc sống của hắn điên khùng đến vậy. Nàng cắm những bình hoa tuyệt đẹp và làm vung vãi nước lên khắp bàn làm việc của hắn. Nàng bí mật sơn cửa sổ một màu lá cây xanh ngắt để làm hắn ngạc nhiên. Nàng đánh thức hắn dậy lúc năm giờ sáng để nếm món phở tự tay nàng nấu mừng sinh nhật hắn. Nàng mua tặng hắn những cái áo sặc sỡ mới trông đã sởn gai ốc và khóc tấm tức khi hắn không chịu mặc. Cả gánh nặng gia đình dồn lên vai hắn. Nàng ngạc nhiên thấy hắn râu ria bơ phờ, suốt ngày than vãn về chuyện tiền nong. Nàng cấm hắn đi làm, lập ra cho mình những kế hoạch kinh doanh điên rồ nhất. Mỗi lần như thế, hắn hầu như phải dùng vũ lực để ngăn nàng lại. Nàng khóc sưng cả mắt, căn nhà của hắn giống như một địa ngục câm lặng.
        Hắn cố tự an ủi rằng nàng còn trẻ quá, cuộc đời sẽ cho nàng kinh nghiệm, dày dạn hơn. Một đêm mùa hạ trời chi chít sao, hắn say sưa giảng giải cho nàng về kinh tế thị trường. Nàng ngoan ngoãn ngồi nghe. Rất lâu, đột nhiên nàng hỏi: "Không biết sao Con Vịt nằm ở chỗ nào nhỉ?". Hắn chưng hửng, chán nản, lờ mờ nhận thấy nàng xa cách hắn vời vợi. Cõi riêng bí ẩn của nàng bàn chân hắn không thể nào đặt tới được. Hắn đã hoảng hốt uốn nắn nàng. Hắn sợ tất cả những gì ở nàng mà trước kia hắn từng thích thú. Hắn bắt nàng mặc những cái áo một màu đen hoặc trắng, cắt may đúng mốt. Hắn mua cho nàng chiếc đồng hồ để nàng đừng đi muộn và nhất là đừng hỏi giờ suốt ngày nữa. Hắn xin việc cho nàng ở một cơ quan nhà nước, yên chí rằng đó là môi trường lí tưởng để nàng học cách ăn miếng trả miếng, tự vệ với đời. Hắn không để ý đến những vết tàn nhang ngày càng tái nhợt trên gò má nàng và đôi lúm đồng tiền lâu lắm không hiện ra nữa.
        Mùa hè cuối cùng, hắn đưa nàng ra biển, cái bãi biển ngày xưa hắn đã đi dạo một mình, nhớ đến quay quắt chiếc răng khểnh cùng cung cách bứt rứt đáng yêu của nàng. Bây giờ nàng đi bên hắn, nhưng hắn thấy nàng chẳng giống ngày xưa, hoặc là chính hắn đã khác đi. Nàng không để ý tới điều đó. Nàng hân hoan trút cái váy đen, mặc vào bộ đồ bơi sặc sỡ. Nàng lang thang khắp nơi nhặt vỏ ốc biển, biến mất suốt cả buổi chiều. Sáng hôm sau, nàng rủ hắn đi xem tranh, nàng mới quen một tay họa sĩ rất hay. Hắn ngạc nhiên, xưa nay nàng chưa từng quen với đàn ông dễ dàng như thế. Hắn theo nàng đi. Tay họa sĩ hình dung kì quái, những bức tranh cũng kì quái, màu sắc chói chang, chồng chất lên nhau, chẳng hiều định diễn tả điều gì. Hắn vẫn cười nhạo khiếu thẩm mỹ của nàng, nhưng lần này, có cái gì đấy trong những bức tranh màu nhòe nhoẹt kia làm hắn thấy không được tự tin cho lắm. Hắn im lặng, kéo nàng về nhà. Cả ngày hôm sau nàng lại biến mất. Hắn không buồn đi kiếm nàng. Hắn đang phát khùng vì cú phôn từ Hà Nội báo việc kinh doanh hoàn toàn đổ bể. Đúng lúc ấy, nàng ở đâu về. Mắt nàng long lanh phấn khích, tóc tai lộn xộn. Chiếc răng khểnh sáng bóng lấp lánh, cái nốt ruồi nhỏ nhảy nhót. Lâu lắm rồi hắn không thấy nàng như vậy. Nàng hổn hển khoe đã đứng làm mẫu cả buổi cho tay họa sĩ. Nàng muốn hắn phải đi, ngay lập tức, xem chân dung nàng. "Cút đi! Cút ngay với thằng họa sĩ của cô!". Một cơn điên giận bất thần chụp lấy hắn, có cái gì đó vỡ bung ra, nóng bỏng. Hắn giật lấy lọ hoa trên bàn, ném về phía nàng. Cái lọ hoa bay sượt qua nàng, đập xuống nền đá vỡ tan. Nàng há miệng nhìn hắn. Gương mặt nàng trắng nhợt. Hắn không dám nhìn vào mắt nàng. Hắn quay đi, xéo lên những bông cúc trắng vương vãi từ lọ hoa vỡ của nàng. Khi hắn ngoảnh lại thì nàng đã biến mất. Vĩnh viễn. Đêm ấy, hắn bổ đi tìm nàng khắp nơi. Bãi biển vắng ngắt. Không thấy cả tay họa sĩ với những bức tranh của gã. Hắn ở lại bãi biển suốt tuần chờ đợi tin nàng. Đêm, hắn nghiến môi mình đến bật máu, mường tượng những nụ hôn mặn nước mắt của nàng. Hắn biết chắc không một người đàn bà nào yêu hắn hết mình như nàng đã từng yêu. Nhưng nàng vẫn không quay trở lại. Hắn chỉ tìm được trên bãi cát chiếc đồng hồ của nàng. Cát bám đầy trên mặt và nước mặn làm nó ngừng chạy. Kim đồng hồ dừng lại gần số chín. Chín giờ kém mười, có phải giờ nàng đã bỏ đi? Hắn rùng mình nhớ lại câu chuyện với nàng về bà cụ hàng xóm. Lúc ấy nàng bảo em sẽ không bao giờ sống mòn mỏi như thế. Thầy bói đoán nàng sẽ có một số phận kì lạ và chết trẻ. Hắn ngắt lời nàng bằng một nụ hôn dài. Nhưng khi gỡ môi ra, nàng cười, nhắc lại: "Anh sợ gì? Chết rồi em cũng ở bên anh. Em sẽ phù hộ cho anh." Mắt nàng lúc ấy long lanh kì lạ, hai lúm tiền rung rinh, hai vệt xoáy đựng đầy nắng. Nàng mặc áo màu cam chín.
        Hắn cố tin rằng nàng đã bỏ đi cùng tay họa sĩ. Hắn đăng tin tìm nàng khắp nơi, trên đài, báo, tivi... Hắn nhận những cú điện hỏi thăm, an ủi. Sau cùng hắn nghĩ mình phải quên nàng đi để mà sống... Rất lâu sau, một đêm Giáng sinh một mình lang thang trên phố, hắn chợt nghe tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông gióng giả, rung động cả không gian mùa đông lạnh lẽo. Hắn chợt nhớ tới hồi chuông đồng hồ trong đêm tân hôn của mình. Đám cưới của hắn chỉ là một bữa cỗ tạp nham với rất nhiều thịt, bia rượu. Tấm phông đỏ treo chữ lồng với đôi chim bồ câu cắt từ tấm xốp xòe cánh cứng đơ. Không có khói hương thành kính, cũng chẳng có những lời nguyện cầu ban phúc thiêng liêng. Giá hắn đừng hốt hoảng tháo pin của mười sáu chiếc đồng hồ, có lẽ đêm tân hôn của hắn với nàng cuối cùng cũng có một cái gì na ná như hồi chuông thánh lễ dành riêng cho hai đứa. Giá lúc ấy hắn đã hôn lên đôi lúm đồng tiền trên má nàng, hỏi nàng định nói gì. Bây giờ thì vĩnh viễn hắn không thể nào biết được điều bí mật gì nàng định chia xẻ cùng hắn trong cái đêm đầu tiên ấy.
        ... Cái đồng hồ thứ mười bảy vẫn kiên nhẫn chạy. Từng nhịp tích tắc vật vã đập vào đêm. Hắn vùi đầu vào gối. Có lẽ ngày mai, hắn sẽ tháo cái đồng hồ xuống, cất đi như đã cất đi những váy áo sặc sỡ và mọi thứ gợi nhắc tới nàng. Hắn sẽ học bà cụ hàng xóm. Hắn cần phải tồn tại, nhích dần lên, đoạt của số mệnh từng giờ một và hạnh phúc rằng mình đang sống. ./.
        #19
          vinataba 25.08.2004 21:09:31 (permalink)
          Con gà của bà


          Kể tuổi tác thì chị mái này đã sắp thành lão bà trong làng gà. Chẳng biết vì sao mà bà lại quý nó đến thế. Ngay cả trong thời son trẻ nó cũng chẳng nhan sắc gì cho lắm. Lông độc một màu vàng phờ phệch. Càng tuổi tác càng phờ phệch. Được mỗi cái dáng son sẻ, chân ngắn, đầu nhỏ, mỏ to. Và mắn đẻ. Đến một nửa đàn gà là con cháu của nó. May cho bọn gà, trời không phú cho cái khả năng tự hào nhớ ơn vớ vẩn. Chứ không, suốt đời chịu đựng bà cụ tổ già cốc đế mà vẫn có vẻ tinh anh sống sờ sờ bên cạnh thì cũng tàn một đời gà.

          Đàn gà là niềm tự hào của bà. Nhớ năm ấy chiến tranh đánh phá lần thứ nhất vừa dừng. Từ một cái làng có những người đàn ông đàn bà tóc lõa xoã quanh vai đi lại thoăn thoắt trên những con đường cỏ mọc thẳng từ ruộng lầy bước mỗi bước lại rùng rà rùng rình, bà dẫn bầy cháu lít nhít trở về. Nhà của bà, bộ đội đóng quân vừa rút đi, trống huơ trống hoác từ mái cho tới nền. Bà làm một mâm cơm cúng ông, rồi sai mấy chị em xếp gạch vỡ quây một góc bếp lại, đặt mấy thanh củi gộc lên trên. Rồi bà trịnh trọng tháo lạt chằng cái rọ vốn dùng nhốt lợn con đem bán ở chợ, nắm hai cổ chân chị mái vàng kéo ra, thả vào đó. Không biết bà xin giống nhà ai, nhưng lúc đó con mái vàng đã lớn và chỉ mấy hôm sau nó đã quen chuồng rồi nhảy ổ. Lần sơ tán sau, cách đó mấy năm, ngoài bầy cháu và mấy cái tay nải, đi đâu bà cũng sai chị Ty xách theo cái rọ nhốt con mái vàng. Bà cứ một mực là giống nó tốt. Tốt gì mà tốt. Về già, con mái vàng đẻ trứng bé như trứng chim. Có đập cả lứa trứng của nó rán ăn một bữa cũng chẳng đủ cho ba cái mồm háu đói của mấy chị em. Đã thế, con mái vàng lại mắc tật ấp bóng. Cứ được vài trứng là nó nằm xềm xệp trên ổ, xùy thế nào cũng chỉ 'tục tục' hết sức thảm thiết nhưng nhất định không chịu nhảy xuống. Mấy lần bà đã phải túm cẳng nó mang ra sông dìm nước cho quên cái thói ấp vô tội vạ.

          Trừ cái tội ấp bóng này con gà già chả có vẻ gì là lẩm cẩm. Mấy con ngan ục ịch vẫn nằm vầy bùn chỗ nhà hàng xóm đặt chum nước hết sức kính nể nó. Con mèo mướp thì sợ nó hết hồn. Chú mướp thường nằm lim dim hong nắng ở góc sân, nhưng hễ con gà già vỗ cánh lạch phạch rời gốc chuối là mèo ta lừ lừ lảng. Sợ mẹ mái già này là phải. Hồi mấy bà cháu tha nhau vào sơ tán trong Đồng Mít, con gà già đã lập chiến tích đánh nhau với cả quạ làm lũ trẻ con sướng mê tơi quên cả nhảy xuống hầm lúc máy bay tới. Nó không hãi cả con cầy hương tai quái ở rệ đê đã cắn cổ không biết bao nhiêu gà trong xóm. Bọn trẻ trong nhà, từ chị Ty trở xuống, nó coi khinh, cứ thản nhiên mổ ngô phơi trên cái nia đặt đầu mé sân, không thèm để mắt tới cái sào gảy rơm chị Ty tự trang bị. Điều quan trọng nhất khiến con gà già được tất cả bọn chó mèo vịt ngan trẻ con kính nể là sự bao bọc rất không công bằng bà dành cho nó.

          Ở nhà quê, gà qué sẵn nhưng là để bắt mang ra chợ kiếm món tiền trang trải vào trăm ngàn việc. Năm thì mười họa các nhà mới làm thịt một con. Còn thì toàn chờ đến lúc có dịch gà toi mới lo xơi cuống xơi cuồng. Bà thì hơi khác. Tại vì trong nhà từ bố mẹ cho tới các cô chú ai cũng thoát ly đi công tác ngoài Hà Nội cả. Bà nuôi gà chỉ để tiếp tế cho người nhà nước lương ba đồng ba cọc. Những lúc chỉ có mấy bà cháu, bà hay lên cái chợ đầu cầu mua tép đánh giậm, hay chờ chiều tối đón thuyền chài hỏi mua cá về kho tương với lá gừng ăn quanh cùng rau cỏ trong vườn. Rau muống, rau dền, lá sắn, ngọn khoai, rau ngót, rau cần... Cùng lắm thì bát canh rau tập tàng, vài ba lá mảnh cộng, dền cơm, rau muối nấu láo nháo với dăm ba lá ớt. Ăn thế cũng đủ để mấy chị em chưa hết tháng đã đả hết tiêu chuẩn gạo mì bố mẹ đưa về. Nhưng những khi bố mẹ với cô chú về hay lúc có khách thì bà phóng tay bắt gà. Con thì thịt, con thì bà lấy rơm trói cẳng treo dốc đầu ghi đông xe đạp cho mọi người mang ra Hà Nội. Lúc thì bạn bố mẹ tiện đường lên nơi sơ tán thăm con cái tạt qua thăm mấy bà cháu. Lúc lại là người cùng làm một chỗ với cô với chú đi công tác ghé qua cho biết nhà. Bà chẳng để ai về tay không. Mãi sau này mấy bà cháu mới biết các cô chú khách đó chẳng phải ai cũng thật vì tiện đường mà ghé, mà là người của chi bộ đi thẩm tra lý lịch để xét kết nạp Đảng mấy cô chú trong nhà. Có khách, bà thịt gà làm cơm ngon, bớt hẳn món khoai khô độn, còn ngoài ra, tứ thời mấy bà cháu trung thành với cá mú. Mà nói cho đúng, cá mú chỉ béo mồm mấy chị em, bà thì chỉ hai vực cơm với mấy quả đỗ non, hạt lạc kẹ, hay mươi đọt lá núc nác đắng teo lưỡi bỏ nồi cơm hấp lên.

          Thành thử ở nhà quê mà mấy chị em chỉ nhớ độc có một lần ăn thịt gà chua cả răng. Đó là hồi chạy lụt. Trận lụt năm ấy đến là to. Nhà bà ở ngay bên bờ đê, nhưng chỗ đất cao. Kể nước có dâng nữa cũng chưa mùi mẽ gì nếu không có chuyện chia lũ về sông Đáy cứu Hà Nội khỏi ngập. Chạy lụt, chợ búa không có, rau cỏ cũng không, chẳng có gì nuôi gà, mang được con nào theo bà thịt bằng hết cho các cháu trong nhà và trẻ hàng xóm ăn. Ăn thế dĩ nhiên là chẳng còn ngon lành gì.

          Nếu không tính cái lần ăn thịt gà trừ rau ấy ra thì sau lúc từ giã bà trở ra Hà Nội, mỗi bận thịt gà đều là sự kiện với chị em Tâm và trẻ con hàng phố vào cái thời cả lũ vẫn phải thay bố mẹ đi xếp hàng mua lương thực thực phẩm chất đốt và đứa nào cũng thuộc tem phiếu hơn cả thuộc bài. Bao nhiêu ngày tháng đã qua, và Tâm vẫn khảnh ăn, thế mà những điều bé nhỏ như thế Tâm nhớ mãi. Như mỗi lần thịt gà. Thường là ngày nhà có giỗ. Hay cảnh thằng bạn bị mẹ tát cho lệch cả mặt khi hãnh diện khoe có ông bác được treo ảnh ở Bờ Hồ. Thằng bạn chưa biết chữ không biết ông bác vượt tuyến vào Nam không hề có tên trong lý lịch của bố mẹ nó, cũng không biết là ông bác vừa bị bắt sống trong chiến dịch gì đó mùa khô năm đó, và cái ảnh ông bác được phóng rõ to trên bảng tin thắng trận treo ở phía trước câu lạc bộ Thống Nhất, to đến mức đứng đầu Hàng Khay cũng nhìn rõ đã làm cả nhà nó sợ rúm tứ túc, họa chăng chỉ có ông bà nó là mừng.

          Thằng bạn và Tâm thân nhau từ hồi bé bằng cái mắt muỗi. Một tình bạn phải đi vào bí mật để trốn những lời chế của bọn trẻ cùng ngõ thành thử vô cùng sâu sắc và đầy sẻ chia. Nên cái cẳng gà và nắm xôi được mẹ dành riêng trước bữa bao giờ Tâm cũng mắt trước mắt sau đem cho nó, dù rằng thèm đến mức không dám nhìn nó ăn. Mỗi lần nhà thịt gà như thế đều là một sự kiện có khả năng phát triển tình bạn bé nhỏ và đẹp đẽ giữa hai đứa. Nhưng Tâm nhớ những lần đó như một sự kiện trước hết là bởi cái chết của con gà già.

          Cái hôm đó chú về bất chợt. Suốt cả tuần nghe phong thanh Hà Nội bị B52 rải thảm, ruột gan mấy bà cháu nóng như lửa đốt. Tâm và ông anh kế thì chỉ mới biết sợ. Bà hết đứng lại ngồi lại loanh quanh lên đầu cầu ngóng tin. Còn chị Ty thì ra sau vườn củ bột ngồi khóc thầm. Chú về báo tin bố mẹ và các cô chú còn nguyên vẹn, mấy bà cháu nhẹ hẳn người. Bà mừng, luýnh quýnh suýt quên cả chuyện đi giúp một nhà có đám. Quay ra quay vào mấy lượt, lúc thì đậy điệm lại nồi cá vừa kho, lúc lại châm thêm nén hương đặt vào thúng chuối rấm đất đèn thúc cho mấy nải chuối chín nhanh, cuối cùng bà hạ lệnh:
          'Hôm nay bà đi ăn cỗ một mình. Mấy đứa ở nhà chơi với chú. Rồi chốc nữa mấy chị em bốc nắm thóc lừa bắt con gà chú cháu thịt mà ăn. Đừng có phần bà nhé' - Bà moi từ thắt lưng đồng bạc đưa chị Ty
          'Bảo em chạy ù lên chợ đầu cầu mua lấy rá bún về. Bà ngâm măng để giỗ ông, chắc được ăn rồi. Con luộc qua rồi nấu bún măng cho chú với em ăn. Chặt gà nhớ để cho em cái cẳng.'

          Bà tong tả gánh hai cái thúng bên đựng gạo bên đựng buồng chuối xanh đi đến nhà có đám. Cái viễn cảnh được gặm ít nhất là một trong hai cái chân gà làm Tâm khuây ngay nỗi thất vọng không được theo bà. Mấy chị em râm ran vâng dạ, rồi lại vâng vâng dạ dạ nhưng bớt phần râm ran hơn khi ông chú trẻ cân nhắc một hồi rồi ra chỉ thị thực hiện lệnh của bà:
          'Thôi! Con Ty đi nấu cơm. Có biết nấu cơm độn mỳ không? Chú mới mang về. Thổi thử xem mì tháng này có ngon không? Kia kìa. Con gà già ngủ gật ở gốc chuối kia kìa. Ra lấy cái lồng chụp nó mang vào chú thịt. Thịt gà rang gừng, đợi chiều bà về ăn cùng. Được chưa? Còn giờ thì ăn cá kho. Gớm, chạy bom chạy đạn có cái mà ăn thế là bố tướng rồi - chú cười cười nhìn Tâm bùng xụng bùng xịu - chúng mày được ở với bà, chứ đi sơ tán cùng bọn trẻ con cơ quan bố mẹ chúng mày ấy à...'

          Con gà già tự tin đến nỗi không thèm rảo cẳng khi chị Ty vác cái lồng đi tới. Kết quả là chị Ty chụp một phát đã trúng. Nồi thịt gà rang thơm phức kích thích mấy chị em suốt cả chiều. Bóng bà xiêu xiêu đầu ngõ lúc trời nhập nhoạng làm mấy chị em mừng. Bà vào nhà, cởi cái bao lưng đũi chỉ thắt vào những dịp đi đám cưới đám giỗ trong làng, lần lần móc từ trong đó mấy miếng cau nhặt ở đám về, rồi ngồi xuống bên cái mâm chõng, giục giã:
          'Mấy chú cháu ăn đi chứ chờ bà làm gì! Mà có mỗi con gà sao không ăn hết từ trưa lại còn để rang gừng nhiều thế này?'
          Chị Ty ấp úng:
          'Con gà già bà ạ...'
          Bà quên cả mấy miếng cau:
          'Cái gì? Con gà già làm sao? Mày thịt con gà già của bà rồi à? Sao lại thịt con gà già?'
          Chú vui vẻ:
          'Con bảo các cháu đấy mà u. Nó già quá rồi còn gì. Đẻ trứng chả ra trứng. Dai nhách. Mấy đứa tý nữa có gắp ăn khéo phải đạp chân vào tường mà rứt. U tiếc nó làm gì. Gà cả đàn. Lần này đi con chỉ xin trứng thôi, không mang gà của u theo nữa đâu.'
          'Ôi giời ơi con ơi. Nào có phải mẹ tiếc đâu. Nuôi gà không để mà ăn thì để thờ à. Nhưng sao mày không bảo chúng nó bắt con khác, để con gà già ấy sống cho u...'
          Bà lẩm bẩm, thần người ra, và không hề động đũa một lần đến đĩa thịt gà, cứ bần thần như thế suốt bữa. Chú thở mạnh đến mức cả mâm nghe rõ. Mấy chị em Tâm cắm cúi ăn, cảm giác rõ ràng không khí quanh mâm y như lúc trời ỳ ạch nổi giông. Ông chú trẻ phát cáu thật:
          'U không thích thì cũng gắp lấy một miếng cho bọn trẻ nó ăn. Mấy đứa ăn mạnh dạn lên chứ sao lại ngồi nhấm nhót thế. Cái con TuTy này... Đưa bát đây chú cho miếng đùi... Đằng nào thì cũng thịt nó rồi. Không lẽ u lại thích cung phụng con gà già này cho đến lúc nó chết thì đem chôn. Nó sống thế cũng gần hết tuổi trời cho rồi. Hơn cả bao nhiêu người. Kia kìa. Mới tuần rồi Hà Nội bị B52. Tận ngày hôm qua con với anh cả vẫn còn phải cùng anh em tự vệ dọn dẹp Khâm Thiên....'
          Bà luống cuống:
          'ấy ấy con. Đừng to giọng thế các cháu nó sợ. U hôm nay ngồi cùng mâm với mấy bà, các bà ấy cứ gắp cho, thịt mỡ mỡ là, không muốn cũng phải cố ăn, giờ vẫn còn đầy bụng chứ không phải là... là... U có tiếc gì con gà. U chỉ thương nó. Con gà già đã sống sắp hết đời nó rồi. Thời buổi này... Biết đâu nó sống được hết tuổi trời, nó lại chẳng được hóa kiếp...'
          'U thì chỉ... Nếu có kiếp sau thì chết kiểu gì mà chẳng hóa được. U muốn con gà già được hóa thành kiếp gì? Kiếp người nhé! Hoá kiếp người thì được ăn thịt gà như thế này là cùng chứ gì? Rồi theo nhau chết cả đống. Rồi lại hóa kiếp. Kiếp gì?'

          Chú nói nửa than vãn nửa cãi giả. Trong nhà chưa lần nào chưa có ai dám ăn nói với bà như thế. Mấy chị em Tâm im thin thít, quên cả nhai. Bà mắng chú, rất nhẹ lời:
          'Anh này ăn nói đến hay. Khổ nhục thế nào thì cũng là người. Biết sống ra người thì chết thế nào cũng vẫn lại được làm người. Nói thế phải tội con ạ.'
          Chú im. Bà nhìn mấy chị em Tâm, nhìn chú, đưa đũa về phía đĩa thịt gà. Gió thốc vào căn nhà nhỏ của bà. ánh đèn dầu chập chờn. Mấy chị em lén nhìn, sợ sệt. Cái gì như nước lóng lánh trên gương mặt của cả bà và chú.

          10. 2000
          #20
            vinataba 26.08.2004 06:56:41 (permalink)
            Tiễn trăng


            Xe đi rập rình. Minh cựa quậy trên ghế. Không biết cất mũi vào đâu cho khỏi mùi hôi gây gây bền bỉ tỏa ra từ hàng ghế phía sau. Lúc nãy ở trạm nghỉ xe, Minh đã bứt theo một bông hồng dại, úp mặt vào hít từng hơi. Không ăn thua. Thủ phạm mặc áo len vàng đan móc cầu kỳ, từng mắt lưới để xổng ra làn hương chuột chù đủ sức làm héo úa cả vườn hồng. Ngủ đi một tí may ra quên được. Nhưng cứ nhắm mắt lại là lại thấy gương mặt ấy, cánh tay ghì xiết đến đau đớn, cố gắng lắm Minh mới bứt được ra để đi. Thôi thà mở mắt chịu trận với chuột chù.
            Nguyệt ra tận bến xe đón. Ngót mười năm không gặp, cô bạn mũm mà mũm mĩm, hay cười ngày xưa bây giờ thành một thiếu phụ thon thả, chừng mực dịu dàng. Nhà Nguyệt là một căn hộ tập thể tầng hai gọn ghẽ. Phòng đằng sau nới thêm được chừng hơn chục mét vuông. Cái ban công trổ thêm treo lơ lửng giữa trời trên mấy thanh dầm sắt. Bốn bề quây lưới thép, cài cót ép chặt chẽ, sàn lát gỗ. Cửa sổ mở rộng xuống vườn căn nhà hai tầng xinh xắn của hàng xóm. Cơm nước xong, Nguyệt kê hai cái ghế ra bên cửa sổ. Hai đứa ngồi gác chân như ngày xưa. Có cả quả bưởi và muối ớt như xưa. Trăng trung thu cũng giống. Chỉ có những chuyện trò là khác. Nguyệt bảo ban công này do Thành làm đấy. Cả bụi quỳnh ở góc kia cũng tay Thành trồng. Đêm Thành mất, quỳnh nở một lúc bảy bông trắng xoá, thơm đến nỗi Nguyệt phải mở tung cửa sổ cho khỏi ngạt. Từ độ ấy quỳnh không ra hoa nữa. Cái giống hoa nó cũng có hồn đấy Minh ạ. Hương trầm thơm thoang thoảng. Nguyệt tắt đèn để đón trăng. Trong nhà chỉ thấy lập lòe ba đốm lửa hương trên ban thờ Thành. Cái bàn thờ choán hết mặt tủ, ảnh Thành trang nghiêm nhìn thẳng vào giường Nguyệt. Đêm nào Thành cũng canh Nguyệt ngủ thế sao?

            Nhà hàng xóm đang rục rịch đón trung thu. Thấy bày ra sân một bộ bàn ghế mây, đồ uống, thức nhắm, bánh trái. Họ có bốn người. Một cặp trung niên, một đôi trẻ. Nguyệt nói chủ nhà này là cái cô già hơn, nghệ sĩ nổi tiếng lắm đấy, sống một mình. Minh để ý đến cô trẻ mặc áo đỏ. Chợt rùng mình hỏi, Nguyệt ơi thấy cô kia giống ai không?

            Mỹ ngày ấy hay mặc áo đỏ. Bạn bè gọi Mỹ là Nhót Trưởng vì Mỹ nghiện ăn nhót, luôn tay xát nhót vào vạt áo. Mỹ mài nhót kỳ công, quả nhót không còn sót hạt phấn trắng nào, đỏ bóng lên như cặp môi nũng nịu. Bọn con trai nhìn Mỹ hé miệng cắn vào trái nhót đỏ là hồn phách lên mây. Lần cuối gặp nhau, Mỹ đi găng tay dài đến khuỷu, ngồi chồm hỗm bón cơm cho cái gốc cây, bón một thìa lại dỗ bé ăn đi chóng lớn. Mẹ Mỹ nhìn con, đuôi mắt trĩu xuống. Cửa sổ phòng Mỹ cài then kín mít. Xểnh ra là Mỹ sẽ nhảy qua cửa sổ để bay. Mỹ đi biệt vào ngày hè ve kêu buốt đỉnh đầu. Không ai tìm ra tung tích.

            -Nhìn cái ông kia kìa.
            Nguyệt ghé tai Minh trỏ người đàn ông trung niên:
            -Nguyệt biết một cô bồ của hắn. Cực kỳ xinh. Mà yêu hắn lăn lóc, chồng con rồi vẫn còn yêu. Cô ta nói hắn là hiện thân của một khối đam mê lớn, quyến rũ không thể tưởng tượng được. Cô ta bảo nếu hắn chỉ cần gọi một tiếng là cô ta sẽ bỏ hết. Gia đình, công việc, danh dự nữa, tung hê tất, theo hắn đến cùng trời cuối đất cũng cam.
            Khối đam mê đang ngả lưng vào thành ghế, hai chân dạng hình chữ V rộng rãi. Cô chủ nhà rót bia cho ông ta vẻ chăm sóc dịu dàng. Cậu thanh niên ôm đàn. Văng vẳng trong gió hình như là nhạc Trịnh Công Sơn. Lại Trịnh. Người ấy cũng hay hát nhạc Trịnh. Mắt nhắm lại đam mê, cứ khi nào đam mê là nhắm mắt, tại sao phải thế nhỉ? Truyện vẫn thường tả người đàn bà khi không yêu thì nằm mở mắt, từ cổ trở lên tư tưởng lãng đãng cao xa, từ ngực xuống dưới phó mặc cho chồng. Truyện lại tả phụ nữ phương Tây chán chồng thì vừa làm tình vừa hút thuốc đọc báo, cũng mở mắt. Theo những truyện ấy, tình yêu người đàn bà khó chiếm giữ như hương hoa hồng, kẻ phàm phu tục tử cố gắng lắm cũng chỉ chiếm được xác hoa đầy gai nhọn trong tay. Mê cung tình ái là những đàn ông ngẩn ngơ với xác hoa còn hồn hoa bay đuổi theo người đàn ông khác ông này đang hì hục trên một bông hoa đã mất mùi.

            Trăng đã nhô lên khỏi bờ tường nhà hàng xóm. Đèn hắt sáng làm trăng nhợt nhạt. Trông giống cái bánh trứng mỏng dính lờ lợ vị đường hóa học bán cho bọn trẻ con lau chau ở cổng trường. Mấy vị khách nhà hàng xóm không ai bận tâm ngắm trăng. Cậu thanh niên đệm cho cô nghệ sỹ già hát. Giọng hát cao, trong, tha thiết. Hát về nỗi cô đơn. Ông trung niên nhìn cô áo đỏ, đổi thế ngồi, đùi không mở ra mà bắt chéo lịch sự. Cô áo đỏ hơi quay nghiêng mặt về phía ánh đèn. Minh gần như chồm người qua thành cửa sổ. Mỹ, phải là Mỹ không? Nguyệt nói không phải đâu. Mỹ mất tích lâu quá, mà nếu còn thì bây giờ cũng già hơn cô này chứ, đâu trẻ trung mãi thế. Nhưng mà cô áo đỏ kia, gương mặt ấy, cái cách quay nghiêng nghiêng đầu, hất tóc lên ấy, đúng là Mỹ. Ngót mười năm, mẹ Mỹ vẫn không dám lập ban thờ, biết đâu... Hàng năm, ngày Mỹ đi, mẹ Mỹ chỉ mua nhót. Cả cành trĩu trịt quả đỏ lá xanh để đến khô quắt, những quả nhót cứng mọng như đèn đỏ thâm dần, thối nhũn từng góc. Nguyệt kể hồi Thành ốm nặng, mẹ Mỹ cầm tay anh, khóc. Tha thiết nhờ cháu xuống dưới ấy tìm Mỹ giúp bác. Thành giận lắm, thăm người ốm ai lại nói gở thế. Bây giờ chắc anh đã hết giận mẹ Mỹ, đã đi tìm Mỹ. Tìm được hay không chẳng ai biết vì thiếu thông tin. Nguyệt nhếch môi cười: "Cũng mong anh Thành tìm được Mỹ, có khi họ đang cặp bồ vui vẻ dưới ấy với nhau." Giọng Nguyệt rất bình thản, như là đã chẳng có chuyện gì xảy ra giữa ba người.

            Trăng lên lưng chừng trời. Vệt trăng mỏng chiếu xiên ngang ngực Nguyệt. Mảng da ngực trần láng mịn như thoa phấn. Đêm ấy Thành trằn mình trên ngực này, cánh tay hốt nhiên ghì cứng lấy người Nguyệt, rồi lạnh ngắt đi. Khó khăn lắm Nguyệt mới gỡ mình ra khỏi Thành được. Môi Thành ngậm cứng núm vú Nguyệt như đứa trẻ khát sữa. Giá mà Nguyệt có thể trút qua vú mình sinh lực cho Thành sống tiếp dù chỉ một ngày thôi một giờ thôi. Thành đã chống chọi với bệnh suốt hai năm. Những tháng sau cùng, Thành chỉ có thể nằm nhìn ngày đi qua cửa sổ, căn phòng lúc nào cũng nồng hắc mùi thuốc nam thuốc bắc. Thuốc đắng đến mấy Thành cũng ngoan ngoãn uống. Chỉ miễn là được sống thôi. Những đêm sau ngày hỏa táng Thành, Nguyệt nằm một mình trên chiếc giường đôi, tay đặt lên ngực chỗ vết răng Thành hằn tím. ấn tay lên thấy đau, biết là mình còn sống, đang có cái mà Thành từng khao khát nhất trên đời.

            Minh vẫn không rời mắt được khỏi cô áo đỏ. Y như Mỹ đã trở về. Mỹ của mười mấy năm về trước cùng Nguyệt, Minh kết bộ ba thân đến nỗi bạn bè đùa bảo chắc có bồ cũng yêu chung. Ba đứa sau buổi tan trường thường rủ nhau đạp ngược lên con dốc đường Thanh Niên. Từ trên đỉnh thả phanh cho xe lao xuống vù vù. Vạt áo, tóc bay tung tóe. Mỹ reo mình đang bay đang bay đây. Bay vào con đường rợp bóng cây tiếng ve khoan nhặt. Bằng lăng tím xen phượng đỏ chói chang kết vòm hoa xôn xao giữa hai mặt hồ rực nắng. Vòng bánh xe lăn nhẹ tênh qua rặng ngọc lan hương quẩn vào tà áo. Qua những cây ban lá xanh chẽ đôi hình cánh bướm, cánh hoa như lụa trắng mỏng đến nao lòng. Minh thích nhất cây ban già ngả cành trên mặt nước. Đã xí chỗ ấy, khi có bồ sẽ dắt ra. Hai đứa sẽ hôn nhau khi gió đùa qua tán cây rập rờn ngàn cánh bướm xanh. Chưa kịp yêu thì người ta đã chặt quang những cái cây bên bờ nước, dựng lên một hàng rào sắt sơn xanh chua cả mắt. Sau này, mỗi lần tìm chỗ hẹn hò, Minh lại tiếc. Những cánh bướm xanh chết yểu trước mùa tình. Khóm phù dung của Mỹ cũng bị đốn. Mỹ yêu nhất hoa phù dung, bảo cưới tao ôm hoa phù dung đẹp hết xẩy nhé. Phù dung cánh mỏng, sáng sớm trắng muốt, ửng hồng thẹn thùng với nắng lên, ngả chiều, sắc hoa rực lên đỏ thắm, lộng lẫy kiêu sa chừng vài ba tiếng rồi lả rũ trong đêm. Phù dung sớm nở, tối tàn. Mỹ nói đời nó tuy ngắn nhưng biết bao màu sắc, thế cũng đủ đầy. Giá người ấy gặp Mỹ, chắc sẽ tâm đầu ý hợp. Nhưng mà Mỹ thì không thể tìm được nữa. Mất biệt đi như phù dung của năm nào. Chỉ có Minh thôi. Minh đứng cạnh người ấy ngắm hoàng hôn. Từng quầng mây ngậm nắng hồng rực như đường viền cánh phù dung vĩ đại. Người ấy đột ngột xiết lấy Minh. Chết điếng một nụ hôn. Không có vợ anh không có chồng em không còn ai giữa hai người. Mặt trời lặn mênh mông hoàng hôn lửa. Ngàn cánh phù dung thắm lên rực rỡ trước khi đua nhau phai bạc, héo tàn.

            Nguyệt hỏi Minh còn nhớ Bích không? Bích hay khen hoa thật đẹp như hoa nhựa. Bích đạp xe qua dốc Cầu Giấy thường ngơ ngẩn dừng lại ngắm những khung ảnh mẫu lồng giấy đỏ, dán hai con bồ câu trắng cánh đơ đơ. Nhà Bích nghèo. Ngày cưới Nguyệt, Bích mặc áo choàng len tự đan đỏ rực dài chấm đầu gối, trông lừng lững như cái xe cứu hỏa, đầu đội mũ lông trắng Mông Cổ hai tai da rủ lòng thòng. Họ nhà trai gọi Bích: "Em ơi anh bảo thật, lần sau cố diện bớt quái đản đi!" Bích tự ái khóc bỏ về. Ngày ấy Mỹ với Bích đi chùa. Tự dưng có bà đồng xưng xưng nói Mỹ bạc phận còn Bích sướng. Bích tìm bạn qua thư, gặp một anh kỹ sư Việt kiều rất đàng hoàng. Bây giờ Bích đang sống ở một tỉnh đâu đó tại Canada. Gửi ảnh về, nhà cửa tiện nghi, vợ chồng con cái cười hớn hở bên bình hoa nở sặc sỡ nhìn biết ngay là hoa nhựa. Sau này, Nguyệt đi tìm mãi bà đồng ấy mà không gặp. Đêm đêm, Nguyệt nhìn đốm hương đỏ trên ban thờ Thành, hỏi Thành ơi rồi đời em sẽ ra sao. Minh ôm vai Nguyệt. Làn da mịn màng nóng hổi này. Cái cần cổ vươn lên nõn nà này. Bà đồng có nói được rằng bao giờ Nguyệt thoát khỏi bóng Thành không?

            Cô áo đỏ rời ghế đi vòng ra sân sau. Ông trung niên quay sang cô chủ nhà nói gì đó. Cả hai cùng cười. Nguyệt bảo họ bồ bịch mấy năm nay nhưng không cưới, cứ sống thế. Cô nghệ sỹ có lần tâm sự đấy là mối tình lớn của cô. Minh tò mò:
            -Thế còn cô kia? Cái cô mê ông ta như điếu đổ...
            -Cô kia cũng vẫn yêu. Một tình to. Một tình dài. Khối đam mê của ông ta lớn lắm, đủ dùng cho nhiều người đàn bà trên đời.
            Minh nhún vai. Nguyệt cười:
            -Không tin thử xem!
            Giọng Nguyệt chợt trầm:
            -Minh có biết vì sao Mỹ bỗng nhiên ra như thế không? Hồi ấy Thành yêu Mỹ, nhưng sợ. Nhà Mỹ có mả điên, tính Mỹ lại thất thường. Thành bảo yêu cái chông chênh rực rỡ của Mỹ. Cũng yêu cái trầm lặng, dịu dàng của Nguyệt. Thành chọn Nguyệt... Minh này, Minh đã bao giờ yêu cùng lúc hai người chưa?
            Minh nín lặng. Với người ấy thì không phải yêu. Chẳng biết gọi là gì. Chênh vênh như đi qua cầu lửa bên thiên đường, bên địa ngục. Nguyệt biết không, chuyến đi này Minh đang chạy trốn khỏi cái cầu ấy. Rồi cũng qua thôi. Minh sẽ về tối tối bình thản cơm cơm nước nước. Bữa ăn nhớ dọn riêng bát nước mắm mặn, chồng Minh thích thế. Phòng tắm luôn phải treo hai cái khăn bông khô, một to, một nhỏ. Cái nhỏ lau tóc, cái to lau mình. Sáng mai để đài đúng tám giờ chương trình bản tin thời sự. Bánh mì nướng xém vàng giòn, trứng luộc thì đúng bảy phút, phải hơi lòng đào nếu không chồng Minh sẽ cằn nhằn. Những cái đó dễ lắm... Minh ngửa mặt nhìn trời. Trăng đã lên cao. Chơi vơi một trăng giữa vòm trời quá rộng. Trăng trung thu viên mãn. Giờ này người ấy ở đâu?

            Cô áo đỏ đứng ở góc sân, khuất sau bụi trúc. Minh thấy ông trung niên đến gần cô. Âu yếm cúi xuống. Hai cái bóng chùng chình rồi chập làm một, đung đưa. Minh muốn kêu lên Mỹ ơi, nhưng kìm lại. Nếu là Mỹ thì có gì ngăn được! Mỹ ngày xưa nhảy chân sáo ngắt hoa phù dung ngắm rồi thả trôi theo nước. Mỹ không thích đợi hoa tàn... Nguyệt thở dài ông này đào hoa nhỉ. Nhưng ở góc sân bên kia cũng vui chẳng kém. Cô nghệ sỹ gần như tựa hẳn vào anh thanh niên. Anh này đã buông đàn, tay bận bịu luồn trong áo bà chủ nhà. Gió thổi mạnh hơn. Những cái lá quẫy lên như cá bơi trong sương trăng bàng bạc. Khóm trúc ngả nghiêng. Người cũng ngả nghiêng. Vạn vật say trăng. Mà trăng thì cô quạnh vằng vặc trên cao. Buốt sáng như thể tự biết mình không thể nhận về bất kỳ cái gì, chỉ có cho đi vĩnh viễn.

            Nguyệt bảo trăng khuất rồi mình cũng vào thôi. Hai đứa nằm quay mặt vào nhau nói chuyện. Sau lưng Nguyệt là bóng sẫm bàn thờ Thành, ngọn đèn đêm xanh như con đom đóm. Minh thấy lưng mình lành lạnh, tự hỏi không biết có phải trên chiếc giường này Thành đã ghì lấy Nguyệt níu sự sống đang buột đi. Nguyệt kể lâu lắm rồi mơ thấy Thành về, rán cá cho Nguyệt ăn, dầu bắn lách tách. Nguyệt đứng tựa cửa nhìn những con cá oằn oại cong lên trên chảo nóng, nhìn Thành. Thấy quen lắm mà xa xôi lắm, cứ nghĩ mãi không biết Thành là gì của mình. Này Minh ơi, hóa ra cũng có thể quên. Giọng Nguyệt xa xăm. Có lẽ đây là lần cuối mình ngủ trong căn phòng này. Nguyệt đang gọi bán nhà, lấy tiền đi du học ở Đức năm năm... Đêm tĩnh mịch. Có tiếng con thạch sùng tắc lưỡi. Nguyệt đổi thế nằm, ngực phập phồng dưới lớp áo lụa đỏ. Ngày xưa, Nguyệt không thích màu này. Minh nhắm mắt. Trong bóng đêm cánh tay người ấy chờ sẵn, mười ngón da diết gọi. ừ thôi mang em đi. Mang em đi ngược về mùa cỏ đắng. Con sâu ngủ bình yên trong búi cỏ gà. Em sẽ chỉ cho anh cỏ mần trầu, cỏ mật. Hai thứ cỏ này nấu nước gội đầu tóc em dài níu chân anh. Mang em đi đường tối không trăng bóng áo đỏ Mỹ chập chờn trước mặt. Rừng trùng trùng vây bủa đi lối nào cũng chỉ gặp phù dung.

            -Thôi Minh đi nhé. Gửi lời hỏi thăm anh xã. Lần này về cố lấy thằng cu.
            Nguyệt dặn trước khi xe chạy. Cả Nguyệt nữa cũng tin thằng cu mang phép thay đổi nhiệm màu. Thằng cu sẽ đưa Minh ra khỏi giấc mơ đêm qua lạc trong rừng phù dung hoa đỏ. Thiên thần cứu rỗi. Minh sẽ có nó bằng cách ướm chân mình lên một cánh phù dung?

            Xe đi qua thành phố khi chiều chạng vạng. Một bên hoàng hôn một bên trăng. Hôm qua tiễn trăng đi, hôm nay trăng đáp lễ tiễn người. Xe chạy nhanh, trăng cuống cuồng như chẳng kịp. Đeo đẳng nhau thế mà chi. Minh lơ đãng nhìn cái bóng tròn đỏ quạch hối hả luồn lách qua những khối nhà tầng, bảng hiệu đèn nhấp nháy. Không giống đêm qua dáng chú cuội in thẫm trên nền trăng sáng rực. Chẳng biết từ bao giờ Minh biết yêu cái vệt tối giữa lòng trăng.ٱ

            Caen, Trung thu Nhâm Ngọ
            Amsterdam 15/10/2002
            #21
              vinataba 26.08.2004 21:08:41 (permalink)
              Những triền xưa ai đi


              Người đàn ông đứng bên đống tre đã chặt ngọn xếp sát chân cầu khi xe tôi đổ dốc, người lao về phía trước trong một cái nhìn ngóng đợi, chăm chú, ngỡ ngàng. Tay ông ta vẫn giữ con dao phay. Một thằng bé ăn mặc phong phanh đứng sát ông ta. Tôi nhận ra... thằng bé... Tôi nhận ra ông ta qua đôi mắt thằng bé. Ngay lập tức. Cú phanh đột ngột làm con gái tôi chúi người về phía trước, cấm cảu:
              - Mẹ! Đâm vào người ta người ta chửi cho chết bây giờ!
              Nó không nhìn thấy sắc mặt tôi. Thằng cu con không để ý đến sắc mặt tôi mà chỉ chú mục vào cái xe máy đập hộp chồng tôi mới mua cho vợ tháng trước. Tôi cũng không biết vẻ mặt mình. Tôi lấy hết sức để chào:
              - Chú... Phú!
              Người xe nườm nượp qua cầu sang chợ. Hàng họ lổng chổng khắp nơi. Hơi nước dâng mù mịt trong ánh mặt trời buổi sáng mùa đông đã bắt đầu toả ít nhiều sức ấm, chỗ ngã ba sông quang đãng thì hồng một màu đùng đục, chỗ triền sông xóm tôi um tùm tre pheo thì có màu xám càng bốc lên cao càng nhạt dần. Chéo bên kia sông, làng Lưu Xá, một con đò tách bến, đầy ắp người qua chợ. Như không có gì đổi khác. Không khác cả với những chuyện xa xôi bà kể trong một thời rất xa xôi. Không khác cả với thời đạn bom tôi sơ tán về đây. Nhưng giọng Phú thì không phải là giọng cũ.
              - Chị và cháu mới về. Cháu về là đúng phiên chợ to nhất nhì trong năm đấy. Người Vân Đình lên. Người ngoài Chuông vào. Dân trên Sẽ trên Nguồn xuống. Lại người trong tận Miếu Môn ra. Cháu nhìn kia kìa. Người Mường đấy. Chào chị chưa cu?
              Phú điềm đạm quá. Sao Phú điềm đạm thế. Phú của ngày xưa của tôi.

              Bà bảo:
              - Chúng mày học hành gì với nhau thì cũng phải biết giữ gìn không lại làm bà điếc tai với xóm giềng. Thằng Phú hơn mày hai tuổi nhưng bằng vai với bố mày đấy con ạ!
              Bà ra thềm nhổ một bãi nước cốt trầu về phía gốc chuối đầu hồi, cất tiếng xuỳ con gà mái già cốc đế lười biếng không chịu kiếm ăn xa đang mon men tới nong ngô phơi giữa sân, xong quay vào tiếp tục:
              - Đừng có nhơn nhơn mà bắt nạt nó. Con gái con đứa là phải ý phải tứ. Đã mười lăm đến nơi rồi.
              Nào tôi có bắt nạt Phú. Tôi chỉ bám Phú nhằng nhằng vì không biết bám ai vào những ngày này. Bố ở lại Hà Nội. Mẹ dẫn hai em đi sơ tán với cơ quan. Tôi về ở với bà cùng con em con ông chú và theo học năm cuối cấp hai ở trường làng. Máy bay B.52 rải bom ở Vác. Hố bom nọ cách hố bom kia khéo chỉ năm mét, đạp xe từ xa lại nhìn hố bom loang loáng nước y như mắt sàng thưa. Xa hơn là Thạch Bích. Tượng Đức Mẹ bế con nghiêm trang đứng bên đường cái, mắt nhìn bình an. Nhưng cánh đồng Thạch Bích tan hoang. Bom rơi trúng kho bộ đội. Mảnh tôn bay tứ tán, lấp lánh trong nắng quái, hãi hùng. Ngược Hạ Dục cách làng có bốn cây, máy bay ta với máy bay Mỹ quần nhau, hai máy bay ta rơi, tiếng nổ vọng về tưởng vách hầm phải sụp, còn khiếp hơn cả tiếng bom.

              Trường khai giảng muộn. Học sinh ra công đào hầm hào. Hầm chữ A, trổ ra hai bên giao thông hào, kèo cột bằng tre, đứa nào cũng phải góp một cây, một thúng rơm, ba thúng cát. Phú tự động chặt hai cây tre nhà vác lên trường, ghi tên tôi vào danh sách. Tôi im thin thít khi nghe mẹ Phú ca cẩm với bà: Một cái hầm thì mấy cây tre, học sinh đứa nào cũng đóng hai cây. Có mà để xây doanh trại.' Nhưng khi Phú bảo chiều đi đào cát, tôi cun cút đi theo. Làng nằm ở ngã ba sông. Một nhánh sông, phía làng Lưu là khúc cuối của con sông Nhuệ, nước gần như không chảy. Nhánh kia ngược lên Thác Bà. Xóm tôi nằm ngay đầu nhánh sông Đáy xuôi về Bến Đục Chùa Hương. Sông Đáy nước trong, mùa cạn lặng lờ trôi, từng khúc lại nổi lên những doi cát lớn. Chỗ bến sông cuối xóm gần làng đạo Phụ Yên có một doi cát như thế, quen có thể lội từ bờ bên này sang bờ bên kia. Phú dẫn tôi đi, dặn luôn miệng:
              - Cẩn thận đừng bước trệch. Thùng đấu đấy. Đừng sợ. Đi đâu đấy? Sa vào thùng đấu là không cứu được đâu.
              Phú đóng vai chú họ, kể thì cũng xa tít mù tắp, nhưng ngoài làng trong xóm thì có xa đến bảy đời tôn ti trật tự vẫn chẳng thấy ai vi phạm. Được cái là Phú không lên mặt bao giờ. Không bao giờ mày tao đừng nói xưng chú. Tôi lẽo đẽo kéo quang thúng bì bõm theo Phú, lúc thì vênh váo đúng kiểu một đứa con gái ở tỉnh vào tuổi mười lăm và thực ra là nhút nhát, lúc lại nhõng nhẽo hệt một cô cháu thực thụ. Phú cứ vừa dặn dò gì là tôi phải cãi lại lập tức:
              - Không cứu được! Không cứu được! Thế nhỡ tụt vào thùng đấu thật thì chú định mặc kệ người ta chắc!
              Cứ vừa lội lõm bõm vừa lảu bà lảu bảu như thế mà tôi lần mò ra được giữa sông với Phú. Nước ở chỗ này nông hơn cả trong bờ, chỉ gần tới ngực. Đứa đào. Đứa đãi. Một chiếc thuyền đinh chở khẳm cát ngược hướng Thác Bà. Một người đàn bà gầy quắt nhưng có hai bầu vú như hai cái giỏ ấm và hai anh chàng chỉ vào trạc Phú gò lưng kéo thuyền qua bãi cạn. Người đàn ông đứng chống sào trên thuyền hét to điều gì khi thuyền lướt ngang. Hai anh chàng đang hậm hụi kéo trên bờ cười phá. Người đàn bà mắt trống rỗng. Nắng buổi chiều rọi từ sau gáy, nước trên mặt sông nóng rẫy, nhưng dưới sâu thì mát lạnh. Tôi thỉnh thoảng lại thích chí rùn chân dìm người xuống nước, quờ tay nhặt một con hến quăng đi. Một lúc nhô lên, thấy Phú chống xẻng, đứng sững. Tôi phát hoảng lại dìm vội người xuống nước, nghĩ tới đôi vú bé như chũm cau hằn lên sau lớp áo cánh của bà. Chợt biết mình đã lớn.

              Đứa em họ tôi hòa nhập rất nhanh vào đám trẻ trong làng. Nhưng bọn học trò trường làng không thích tôi và hay chọc ghẹo tôi. Không biết vì sao. Mặc dù tôi đã cố không khác chúng nó. áo hoa quần âu cất kỹ đáy hòm chỉ lục ra mặc khi bố mẹ về và chỉ thập thò trong ngõ nhà. Suốt ngày diện áo cánh nâu xẻ tà có túi của bà. Mớ tóc ngang vai không để xõa mà túm một túm thật chặt sau gáy. Và tập gánh, tập đập đất, tập cấy gặt, làm đủ thứ không công, sành sỏi y như như một con bé nhà quê. Nhưng tất cả bộ dạng của tôi vẫn không làm sao hệt như thật.Tôi không có ngực bánh dày bề bộn như nhiều đứa con gái cùng lớp, không chải bồng mà rẽ lệch, tóc không xơ không khét nắng, lại gầy gò. Người gầy, mặt gầy, chỉ thấy mắt là mắt, và tóc thì dày, buộc lại y như một cái chổi xể sau lưng. Tôi lúc nào cũng như kẻ ngoài hàng, bám vào Phú như cua cắp, và yên chí mình là cháu, cháu thì chú phải chiều. Nhưng tự trong thâm tâm le lói một điều gì khác. Sau này thì tôi biết rõ: Đấy là cái ý thích nông nổi của một đứa con gái khi biết rằng mình có một uy quyền nào đó đối với một người con trai.
              Để rồi giật mình khi hiểu rằng không thể làm ra vẻ vô tư mãi được. Cái nhìn hoang dại của Phú chiều đãi cát hôm nào làm chân tay tôi bủn rủn. Tôi khe khắt với mình như một bà già, và quay ra độ lượng một cách dễ dàng với con em họ chỉ kém có nửa tuổi. Tôi đặc biệt dè dặt với Phú ở lớp. Về nhà bà sai việc gì phải sang nhà Phú là tôi đùn cho con em. Có lần Phú bê sang một quả bầu sao và rổ hến. Bà vắng nhà. Tôi lắc đầu quầy quậy. Phú cũng lắc đầu quầy quậy.

              Lúc đưa con sang nhà ông trẻ chơi tôi bất giác mỉm cười. Con bé tò mò:
              - Mẹ cười gì đấy mẹ? Mẹ này, sao mẹ không ở quê mà mẹ biết nhiều nhà thế?
              Sân nhà Phú một giàn bầu chưa xác lá. Giống bầu sao, cắt từ giàn xuống ăn ngay thì ngọt lắm. Có thể luộc chấm muối vừng. Nhưng hợp vị nhất là đem nấu hến, gia một chút thìa là. Ngọt lừ, mát mắt. Nhìn giàn bầu, nghe con hỏi, nghe lòng mang mang:
              - Mẹ nhớ ngày xưa... có lần... lâu lắm rồi. Ông trẻ mang cho quả bầu. Bà đi vắng. Là cụ ngoại của con ấy. Mẹ vào đập con lợn đất lấy tiền trả. Ông Phú tức, đùng đùng bỏ về.
              Không, không hẳn là thế. Mặt Phú buồn rượi. Mắt Phú, mắt con trai nhà quê, như mắt con trai ấn, sầm tối. Nhưng Phú lại cười.
              - Nhà chặt giàn bầu hôm nay. Còn mấy quả. Chú đem qua biếu bà. Cháu về nói với bà...
              Phú đùng đùng ra về. Nắng đầm đìa trên giàn mồng tơi trĩu trịt những chùm quả con con tím thẫm. Những chiếc lá mồng tơi xanh xanh mọng nước trong vắt dưới nắng. Phú chúi đầu đi. Con gà mái già vẫn hay cậy mình tuổi tác khinh bỉ mọi sự đột nhiên tác ầm ỹ.

              Có một cái gì lạ lắm len trong lòng hai đứa. Hai đứa khinh khỉnh với nhau ở lớp. Buổi chiều mùa đông đi tưới rau, ao cạn rốc, tôi loay hoay bám gốc vối múc từng gáo đổ vào thùng. Phú mặc kệ. Bà sai hai chị em hạ buồng chuối đã loáng thoáng có quả chín cây. Phú đi ngang, tỉnh bơ. Nhưng không hiểu sao tôi không tức. Chỉ thấy lòng dịu dàng. Tôi biết tới nỗi dịu dàng con gái hình như hơi sớm.

              Lên cấp ba, học sinh phải về trường huyện dưới Kinh Đào. Trường cách nhà bảy cây. Bà đi cùng xuống huyện, tìm nhà cho tôi trọ, dặn dò đủ thứ không làm sao nhớ hết. Tôi nhõng nhẽo:
              - Bà đừng gửi gì qua chú Phú. Để cháu về hàng tuần cháu lấy. Cháu thích về ngủ với bà.
              Thứ bảy tan học tôi nhịn bữa trưa đi luôn. Đường đê nắng tháng chín rang bỏng cát. Vắng ngắt vắng ngơ. Dưới sâu kia dòng sông thì thào rào rạt một điều gì bất tận. Bên này triền đê là những ruộng mía đang vào cữ ngọt. Lá mía lao rao lao rao. Thành phố nhiều cây. Nhưng không có tiếng gió tiếng lá nào giống tiếng gió luồn trong ruộng mía. Tôi đi một mình. Lần nào ra khỏi nhà chừng độ một cây cũng thấy Phú bước mải sau lưng. Đứa trước đứa sau, nhũng nhẵng, im lặng.

              Một lần giữa năm lớp chín tôi thấy Phú tha lôi theo đồ lề: Chăn chiếu xoong nồi ba lô quần áo. Sự im lặng thành khó thở. Về gần tới làng, Phú đi vượt lên ngang tôi, nói nhỏ, rõ ràng: 'Xin lỗi!' Tôi bối rối, buồn rầu nhìn theo Phú đi chúi chúi đầu.
              Buổi tối đó tôi biết Phú bỏ học.
              Hai tháng sau ký Hiệp định Paris. Tôi trở về với phố.

              Bà bảo:
              - Thằng Phú phục viên rồi đấy. Mày nằm nghỉ rồi chiều nhảo qua nó một chốc. Chẳng gì thì cũng là chú cháu trong nhà, lại còn là bạn học. Đánh nhau mấy năm thì không sao. Đến lúc hòa bình thì cụt cẳng. Đâu như nó bị lựu đạn khi bảo vệ điểm bầu cử gì trong Sà goòng. Là bà nghe bà Chút mẹ nó bảo thế. Thôi thế vẫn là sống. Mà bà bảo mày có nghe gì không đấy?
              Buổi chiều tôi đi sang nhà Phú. Giàn bầu còn quả loáng thoáng. Chắc để làm giống. Lá bầu chưa xác xanh như ngọc lọc nắng xuống mảnh sân vôi quét rất sạch. Các dại cửa che nắng đều sập nửa chừng. Hai bà cô họ tôi, hai đứa em gái Phú đang loay hoay gọt vỏ khoai môn. Không thấy bóng ông bà họ tôi. Không thấy bóng Phú. Tôi lẳng lặng đi về, lẳng lặng vào bếp vơ một mớ rơm ngồi xuống bên bà. Nồi khoai môn đã chắt hết nước vần trên bếp. Bà lấy đũa chọc một củ thăm dò rồi chìa cho tôi. Tôi phì phò thổi khoai. Giống khoai núi dân làng tôi thường buôn về ăn độn mùa giáp hạt, không mềm như khoai sọ nhưng bùi hơn. Tự dưng tôi thấy mắt mình nặng nước. Bà lẳng lặng nhìn tôi, lẳng lặng ra sân rút quần áo.

              Con em họ năm nào cùng sống với tôi những ngày sơ tán cười như con điên:
              - Chú Phú của chị lấy vợ rồi đấy. Trẻ hơn em nhiều. Em về bà đúng dịp được bà dẫn sang ăn cưới. Đám cưới nhà quê buồn cười không thể tả được. Bà mừng một buồng chuối để nấu tam tam. Hai yến gạo. Là mừng sang lắm đấy. Cô dâu mặc quần lụa, áo trắng, may kiểu giống mình ngoài này nhưng mà vừa chật vừa ngắn. Nghe bảo đám cưới nhà quê cô dâu phải khóc mà nào có thấy gì đâu. Cô dâu với phù dâu em nhìn chả biết ai ra ai, cười rúc ra rúc rích. Cỗ bàn cũng buồn cười. Lòng lợn. Thịt luộc. Thái vừa to vừa dày. Canh tam tam. Giống ngày xưa bà hay nấu những hôm mưa bão ấy. Nhưng toàn mùi oi khói. Mà dân tình ăn mới rộn ràng chứ. Em thì chống đũa. Chỉ sợ có ai gắp cho miếng thịt mỡ nào.

              Tôi ôm lấy đứa con mới được bảy tháng, rúc mặt vào bụng con, mắng yêu cô em: 'Cứ cười đi. Người ta mười bảy mười tám đã có người mang trầu cau đến chạm ngõ. Dì ấy thì hai tư hai nhăm rồi mà vẫn phải đến bế nhờ con con nhỉ. Dì ấy cười thế nhưng đến lúc cưới lại chẳng đần độn vì hạnh phúc hơn thế ấy con nhỉ!'
              Con bé cười sằng sặc, tè luôn ra mẹ. Tôi cúi mặt thay tã cho con, bụng đau thắt nghĩ tới cái chân thiếu một bàn chân của Phú. Không dám nhớ. Ngày xưa... Triền đê... Bờ sông...

              Con tôi nay mười ba. Cái tuổi nửa trẻ con nửa người lớn như tôi ngày xưa. Nhưng không ngây ngô như chúng tôi ngày xưa. Tính tình thì tự tin và động một cái là cấm cảu. Lúc tôi bé như nó, tôi nhút nhát và nói chung là dịu dàng. Chồng tôi không lấy làm băn khoăn về tính khí của con mà còn tự hào ra mặt: 'Con gái giống cha.'
              Vợ chồng tôi trung thành với mẫu gia đình lý tưởng một con. Phú thì đã bốn đứa. Cô vợ bụng lùm lùm sau vạt áo vừa ngắn vừa chật. Không biết lại có mang hay vì đẻ nhiều bụng sổ. Cô ta lúng túng đến tội nghiệp khi tôi gọi thím xưng cháu.
              Lúc hai mẹ con tôi xin phép ra về, Phú gọi thằng cu nhớn:
              - Hai anh em ra cắt cho chị quả bầu. Rồi chiều có rỗi đi cào cho chị rổ hến...

              Hai hôm sau mẹ con tôi đi. Lúc tới đầu cầu tôi gặp Phú cùng với thằng cu con. Phú phục viên về, mất một bàn chân, việc đồng áng để vợ lo, tự mình ra đầu cầu đón xe tải từ Hà Nội vào từ Miếu Môn ra, ăn với cánh lái xe buôn đủ thứ: Tre. Gỗ. Đá răm. Phú nhìn hai mẹ con tôi:
              - Hai mẹ con về quê nhoáng cái đã đi rồi. Cháu về làng ở thế đã buồn chưa? Ông trẻ hôm nay chỉ có đá răm... Nhưng có cái này...
              Phú chìa cho con tôi một cái lọ hoa làm bằng một đoạn tre lên nước vàng óng. Trông giống cái chụp đèn phòng không năm nào Phú làm cho tôi. Nhưng vát một đầu mềm mại chứ không khoét lỗ để lọt sáng.
              Tôi nhìn Phú. Phú nhìn tôi:
              - Hương đi nhé. Rỗi rãi thì năng cho cháu về làng.
              Chưa bao giờ Phú gọi tôi bằng tên. Chưa bao giờ ngày xưa Phú nói với tôi dịu dàng như thế. Tôi nhìn ra ngã ba sông. Bên Lưu có một đám ma. Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống theo gió tạt ngang sông, vọng tới chỗ chúng tôi, nghe mất hẳn vẻ não nuột. Bóng người áo xô đi giật lùi trước áo quan, từng lúc lại bò lăn ra đường. Lạ thế! Cách nhau một ngã ba sông, làng này nghe tiếng chuông lễ chiều làng kia giục con đổ dầu đèn, làng kia qua chợ làng này không thiếu một phiên. Nhưng mỗi làng mỗi khác, từ đám cưới tới đám ma, tới giọng nói. Bao đời rồi. Thành phố đổi từng ngày. Tôi ngỡ mình cũng đổi. Bây giờ, ở đây, tôi nhìn Phú. Nước da Phú ngày xưa, mắt Phú ngày xưa, cả tóc, trông như người ấn. Bây giờ, vẫn màu nâu ấy, nhưng da Phú sạm, tóc chớm bạc hai bên thái dương. Nhưng mắt Phú không khác. Dòng sông dưới kia tháng tháng ngày ngày trôi qua mố cầu, nhưng cũng không khác, vẫn bên này xóm tôi lở bên kia bồi, vẫn hai mùa nước. Không có gì trôi qua. Không có gì thay đổi. Cả tôi.

              Tôi dẫn con đi bộ qua cầu rồi mới lên xe. Con bé hôm nay có vẻ dễ dãi hẳn:
              - Mẹ này! Con phải gọi thằng cu ấy là chú hay là cậu? Mẹ gọi ông Phú là chú, nhưng con phải gọi con ông Phú là cậu đúng không? Ra Hà Nội con mà kể mới phát hiện ra ông chú học lớp một thì bạn con chắc cười vỡ ruột.
              Nó lặng im, ngẩng mặt nhìn trời. Trên cầu dào dạt gió. Gió đầu đông, có nắng, lạnh mà không buốt. Lúc lên xe, con gái tôi mới liến láu trở lại:
              - Nhưng mẹ này, có khi đứa nào cũng như con thôi mẹ nhỉ! Nếu mà có quê. Thế nào đứa nào cũng phải có một xốc chú bác bé con như thế mẹ nhỉ! Được rồi mẹ! Lọ hoa con cầm đằng sau cũng được mà mẹ. Ngày xưa mẹ gọi ông Phú thế nào?
              Tôi giật mình. May quá, con bé đã quên ngay điều vừa hỏi:
              - Bầu nấu hến ngon ghê mẹ nhỉ? Cả canh riêu nữa. ở nhà quê không nấu bằng quả dọc như mình đâu mẹ. Con thấy bác Dự nấu với khế với mẻ. Sao nhà mình mẹ không gây mẻ như bác? Ra Hà Nội, mẹ mua hến con nhặt cho, nấu canh bầu hay nấu riêu như hôm qua hôm kia.

              ở Hà Nội tôi rất ngại làm món này. ở Hà Nội người ta bán hến theo cân, phải nhặt tay từng con, không thể đãi như ở đây. Sông quê tôi nhiều hến, nhất là những chỗ nước nông có doi cát nổi lên. Cuối xuân, nước còn lạnh, các nhà đã rủ nhau đi cào hến về nấu cháo. Gánh cả gánh hến luộc rồi ra bến sông đãi, ai xuống bến cũng mời bốc lấy một bát về nấu canh. 'Hến đầu mùa ngọt nước lắm. Chốc nữa sai đứa nào mang bát qua nhà mà lấy nước.'
              Hến mùa này còn gầy. Nhưng con tôi cũng thích ăn hến như tôi ngày xưa. Bất giác tôi mỉm cười. Con tôi nay mười ba tuổi.
              Ngày ấy tôi mười lăm.

              9. 97
              #22
                vinataba 28.08.2004 08:45:31 (permalink)
                XUÂN PHƯƠNG SHOP


                Tấm biển bề thế đóng chắc vào tường ở ngay ngã tư đầu phố. Nền xanh, chữ in hoa, sơn đen nổi bật: Xuân Phương shoes shop, ở dưới là hai dòng quảng cáo, chữ ngả, hoa mỹ: Đến với Xuân Phương bạn sẽ hài lòngWelcome to Xuân Phương!. Góc phải vẽ một đôi giày cao gót đang nhảy nhót làm bắn ra những tia vàng lấp lánh. Góc trái hình một đôi giày nam đen nhánh, kiểu môđen. Dưới cùng là mục Tel và Fax, nhưng hai mục này còn để trống. Ngày ngày, độ tám rưỡi sáng, ông Xuân Phương vác một cái hòm gỗ tạp đựng đồ nghề và một manh chiếu ra trải dưới tấm biển. Đấy là dấu hiệu shop ông mở cửa cho quý khách vào sửa giầy. Hôm nào trời mưa, shop ông có thêm tấm nilông màu xám che cho khỏi ướt. Còn nếu trời nắng thì cứ lộ thiên cho thoáng. Ông Xuân Phương có một chú phụ việc người bé nhỏ. Lúc nào vắng khách, hai ông con ngồi duỗi thẳng chân trên chiếu, gió hây hẩy, tán phượng xanh om đu đưa trên đầu, nom rất là thoát tục.

                Bên trái ông Xuân Phương là cô bán trứng vịt lộn, bên phải là bà hàng chè chén. Xa hơn một chút có bún ốc, bún riêu, xôi chè, cháo sườn, phở... Cả tập hợp hàng quán này với những bàn gỗ xam xám chật ních bát đũa, giấy ăn, dấm tỏi ớt, những cái ghế con con thấp tịt thỏa hiệp giữa ngồi bệt và ngồi xổm..., lúc nào cũng đông đúc tạo thành một khu chan gắp nhai húp xì xụp hân hoan vui sống. Giữa cái đám hổ lốn vô danh ấy, ông Xuân Phương với tấm biển uy nghi của ông là một cái gì vượt trội lên, độc đáo, làm người ta chợt liên tưởng tới con mối chúa ung dung ngự giữa bầy đàn nhốn nháo điên khùng vì cuộc mưu sinh.

                Mà ông Xuân Phương ung dung thật. Khi tôi mang giầy ra, còn đang đứng lớ ngớ, ông khoát tay mời ngồi, cử chỉ đàng hoàng như thể cho phép tôi ngự trên chiếc ghế bành êm ru chứ không phải là cái ghế con cập kênh bên bờ cống lờ đờ nước chảy. Ông Xuân Phương khề khà bảo: "Chú ở bên 46 chứ gì? Từ độ chuyển về đây chưa ra mắt hàng xóm láng giềng đấy nhé. Tôi cũng định sang thăm chú mà chưa thu xếp thời gian được." Tôi đâm rối trí, không biết có nên lấp liếm bảo mình ra đây để hỏi thăm sức khỏe ông, hay cứ đưa giầy ra sửa. Thì ông Xuân Phương lại ân cần khuyên tôi nên lấy vợ:
                -Chú năm nay bao nhiêu tuổi, băm tư rồi hả? Chưa vợ con gì thế là không ổn., phải an cư rồi mới lạc nghiệp. Chú lương tháng được bao nhiêu? ... Đàn bà bây giờ thiếu gì, hay là kén quá, để tôi giới thiệu cho một cô, hay là làm rể tôi nhé?
                Tôi vội vàng đưa đôi giày hỏng ra để hãm ông lại. Nhưng đã muộn. Băng pháo đã châm ngòi không thể tự tắt được, những lời hỏi thăm của ông Xuân Phương vẫn hồn nhiên bắn tung vào tôi, rát rạt. Tính tôi hay bị mất tinh thần. Ngày còn bé, lòng can đảm của tôi thường được đo bằng số lần thay quần ướt đũng. Bây giờ từng trải hơn, tuyến bài tiết cũng tốt hơn, nhưng những khi bị vặn vẹo, tôi vẫn không khỏi rịn chút mồ hôi. Nay trước uy thế của ông Xuân Phương, tôi đâu dám lảng tránh không trả lời. Ông Xuân Phương gật gù, chị hàng trứng và bà bán nước hai bên cùng vui vẻ góp tai góp miệng. Chẳng mấy chốc, khi ông Xuân Phương xỏ được mũi kim đầu tiên vào đôi giầy hỏng, đời tư của tôi đã khỏa thân tênh hênh nằm trên kênh thông tin của shop Xuân Phương. Ông Xuân Phương thân mật gọi một chén nước chè mời tôi. Tôi rút bao thuốc mời lại ông một điếu. Tình xóm giềng mới được xây đắp tuy hơi muộn mằn nhưng xem ra cũng ấm cúng. Ông Xuân Phương chùi tay vào quần, đón điếu thuốc, rít một hơi. Cặp mắt ông chợt hơi mờ đi, mơ màng. Lúc này là lúc có thể chuyển đề tài, tôi gợi ý:
                -Bác có tấm biển hiệu đẹp quá!
                Ông Xuân Phương mở choàng mắt, nhìn tôi đắc ý:
                -ấy đấy. Cả phố này đố có cái nào địch được. Mà chính thằng Xuân Phong nhà tôi thiết kế đấy!
                Ông chỉ tay sang cậu phụ việc đang nhoay nhoáy đánh giầy bên cạnh. à, ra đó là cậu Xuân Phong. Tôi khen thực thà:
                -Cậu nhà có hoa tay thật. Mà lại cả tiếng Anh nữa cơ đấy!
                Ông Xuân Phương không dấu nổi vẻ tự hào:
                -Không, tiếng Anh là con chị nó. Con Xuân Hương. Con bé trình độ lắm nhé, học hết lớp mười hai rồi, bây giờ đang học tiếng Anh đã đến bằng gì rồi ấy. Nó học đến đâu, chữ vào thun thút đến đấy chứ không ngu lâu như cái thằng này.
                Cậu Xuân Phong gầm gừ tiếng gì không rõ trong cổ, cái búa cầm tay bổ chan chát vào đế giầy. Ông Xuân Phương bình luận:
                -Mày cứ bổ thật lực cho nó vỡ mẹ nó đi để bố mày đền tiền người ta một thể.
                Rồi quay sang tôi than vãn:
                -Thời thế xoay vần đấy chú ạ. Ngày xưa, nhà tôi chả gì cũng tiếng tăm lừng lẫy cái đất Hà Nội này...

                Ông Xuân Phương kể ông sinh năm ất Dậu. Các anh chị ông đều nhận những cái tên quê mùa miễn cho có cái mà gọi. Nhưng ông thì khác. Ông sinh vào đúng buổi chiều cờ đỏ Việt Minh bay khắp làng. Cha ông theo người ta phá kho thóc Nhật, được chia hẳn một thúng gạo đầy. Cả làng khí thế hừng hực. Đổi đời rồi! Mẹ ông phấn khởi quá đẻ tuột ra ông không cần phải rặn. Cả nhà, cả họ bảo thằng này số sướng, sinh ra đúng vào Mùa Xuân của dân tộc nên đặt tên chữ là Xuân Phương. Các con ông sau này cứ đệm chữ Xuân ấy mà đặt ... Khi ông Xuân Phương lớn lên thì cụ thân sinh ra ông đã làm chủ một hiệu bán dép lốp, dép râu và guốc mộc ở ngay gần cầu Long Biên. Chỉ nhờ bán dép mà nhà ông sắm nổi tivi, cả phố đến xem ké. Lúc tan phim ra, không ai nhận nổi dép mình. Cả mấy chục cái dép ngổn ngang, giống nhau y đúc, đều là hàng Xuân Phương cả. Một nửa Hà thành xài dép lốp Xuân Phương. Cụ thân sinh ra ông còn ôm mộng được trang bị dép lốp cho toàn thể phi công Việt Nam "chân dép lốp bay vào vũ trụ". Nhưng ước mơ của cụ không thành... Ông Xuân Phương thở dài nuối tiếc, chỉ tay sang cậu Xuân Phong, hậm hực:
                -Mà cũng tại chúng nó nữa. Cái hồi dép Xuân Phương ế, tôi đã quyết nhà mình cứ giữ truyền thống đi dép Xuân Phương. Đời cha không hết thì con cháu đi dần, mãi người ta cũng phải nhận ra giá trị của mình. Nhưng mới độ một tháng, con Xuân Hương đã tha ngay về đôi dép nhựa xanh lè, đi vài bữa thì nước ăn toét cả mười kẽ ngón chân. Tôi đánh nó, chửi nó cũng chẳng ăn thua, nghĩ chỉ còn hi vọng vào thằng Xuân Phong. Thằng bé vẫn bền bỉ đôi dép râu, ai cười mặc ai. Hóa ra nó tích góp tiền, đùng một cái rước về một đôi giày tây. Báu ngọc gì đâu, cứ tập tễnh y thể thằng què. Đi vài bữa, cả giày, cả tất bốc mùi lên như chuột chết. Tôi thắp hương trên bàn thờ ông chúng nó, khóc vì không dạy được con...

                Chuyện đang đến hồi gay cấn thì phải dừng lại. Ông Xuân Phương có khách. Không phải khách sửa giày mà là bạn thơ. Ra ông Xuân Phương còn sinh hoạt câu lạc bộ Thơ phường. Chủ tịch câu lạc bộ thơ đến giục ông nộp bài cho buổi sinh hoạt thơ phụ lão tuần sau, đề tài khuyến khích sinh đẻ có kế hoạch. Ông Xuân Phương oang oang đọc thơ để duyệt trước. Tôi tự biết mình không thể đọ sức với nàng thơ để buộc ông Xuân Phương quay vào với mớ giầy hỏng nên kiên nhẫn chờ. Ông Xuân Phương đọc một bài lục bát rất dài. Tôi nghe loáng thoáng thấy "gian lao" với "cõi u mê", sau lại thấy "bừng lên" rồi "đẹp giàu", chắc là triển vọng cũng tươi sáng. Ông đại diện thơ phường gật gù nhận xét tư tưởng thế là vững nhưng chủ đề chưa nổi bật. Ông Xuân Phương phản đối, bảo câu "Rồi từ khi biết đặt vòng, đời em như ánh nắng hồng ban mai. Sinh con nhiều nhất là hai. Gia đình hạnh phúc, tương lai đẹp giầu... " thế là rõ ý lắm rồi. Ông chủ tịch câu lạc bộ thơ cao hứng đọc một bài họa vần. Ông Xuân Phương bắt đầu bình luận. Cô hàng trứng ngơ ngẩn lắng nghe, bà hàng nước lơ đãng đuổi ruồi. Ông Xuân Phương lại đọc sang bài thơ thứ hai. Một anh bán thuốc tẩy đi qua, loa phóng thanh cũng thơ ra rả: “Lòng em trong trắng, áo dính nhựa cây, thuốc tẩy anh đây, bôi vào là sạch... ". Rồi một xe hàng rong nữa, lần này là nhạc vàng thánh thót: "Trái tim ngục tù. Anh yêu em đến ngàn thu... ". Đệm vào màn trình diễn thơ nhạc trữ tình ấy là giàn còi inh ỏi của ôtô, xe máy, và thỉnh thoảng, tiếng búa của cậu Xuân Phong đóng đinh chí chát trên những gót giầy đang được tân trang lại.

                Trong lúc đó, đôi giày của tôi vẫn nằm ỳ ra trên chiếu, mõm há hốc cầu cứu. Bất chấp tình hàng xóm giữa tôi với ông Xuân Phương đã được vun đắp, bất chấp quá khứ lừng lẫy của nhà dép lốp Xuân Phương, bất chấp cả bao nhiêu thơ nhạc thánh thót rót vào, nó vẫn ngoan cố toang hoác ra như thế, cái nó cần là mấy mũi khâu hay chỉ vài giọt keo thôi. Tôi không đủ kiên nhẫn, lì lợm như đôi giầy của tôi. Tôi tính nước bỏ của chạy lấy người, nhưng thơ của ông Xuân Phương vẫn ào ào xối xả, lời từ biệt của tôi vất vả lách vào rồi lại bị đẩy bắn ra. Vị cứu tinh đến bất ngờ giữa lúc tôi sắp chết đuối giữa bài thơ thứ bao nhiêu của ông Xuân Phương. ấy là một ông tây được tấm biển tiếng Anh mời mọc, tự tin đặt đôi giày lấm lên chiếu của Xuân Phương shop. Ông Xuân Phương lập tức ngừng bặt. Ông chủ tịch câu lạc bộ thơ phường lập tức cáo lui. Cậu Xuân Phong nhanh nhẹn lấy đồ nghề. Ông Xuân Phương phụ trách chân phải, cậu phụ trách chân trái, hai chiếc bàn chải lia vù vù thần tốc, nom rất ngoạn mục. Tôi ngẩn ngơ nhìn ông chủ một thời của dép lốp, dép râu đang nhiệt tình đánh giầy tây. Ông ưu tiên khách quốc tế thế là phải, còn tôi hàng xóm láng giềng, giải quyết nội bộ lúc nào chả được. Đôi giầy của ông tây sạch bong trong nháy mắt, xi đánh đen nhay nháy. Ông Xuân Phương lịch sự đưa cả hai tay ra nhận tiền. Ông chỉ tay lên tấm biển Xuân Phương shop, hai bố con cười hân hoan. Ông tây cũng cười ra ý hài lòng. Cô hàng trứng, bà bán nước và tôi bất giác cười theo. Cả Xuân Phương shop bỗng dưng tưng bừng hớn hở, không khí rất là dễ chịu

                Cuối cùng cũng đến lượt tôi. Ông Xuân Phương tính dán đế năm nghìn, khâu mũi mười nghìn, vừa dán vừa khâu tổng cộng bốn chiếc bốn chục ngàn. Phương châm của Xuân Phương shop là "Chắc - Bền - Rẻ", tôi cứ đi thử thì biết, lần sau lại ra đây. Ông Xuân Phương có vẻ quý tôi. Ông hứa sẽ giới thiệu cho tôi một đám, lại mời tôi khi rảnh rỗi cứ ghé lại đây, ông sẽ đọc thơ cho mà nghe. Lời mời nhiệt tình của ông làm tôi đâm hoảng, cho nên từ lần sau, tôi cứ tránh đi qua ngã tư ấy. Chỉ thỉnh thoảng, tôi đứng xa xa nhòm ra chỗ ông Xuân Phương. Ngày ngày ông vẫn chễm chệ thiết triều ở cái góc cố định. Cao trên đầu lấp lánh tấm biển hiệu hứa hẹn tiến thẳng đến một tương lai quốc tế hóa bằng giầy tây, tiếng tây, Tel và Fax, kiên cố ở dưới là cả cái vỉa hè trải chiếu ngời ngời tính dân tộc. ở đó, ông sẽ không bao giờ ngã, không bao giờ thoái vị, vĩnh viễn tự hào về quákhứ dép lốp và ung dung ngồi sửa giầy tây, khi rảnh rỗi lại rung đùi đọc thơ hay củng cố tình thân hữa láng giềng... Một dạo thành phố ra chiến dịch "đường thông hè thoáng", ông Xuân Phương không chạy kịp bị tịch thu mất cái chiếu, nhưng tấm biển may còn giữ được. Vài hôm yên ắng, lại thấy shop ông mở cửa. Mọi thứ vẫn y như cũ, chỉ có cái chiếu mới hơn và nghe đâu dạo này ông Xuân Phương chuyển sang làm thơ phê phán xã hội ghê lắm… ./.
                #23
                  vinataba 28.08.2004 08:49:30 (permalink)
                  Bão


                  Bão được báo trước. Tối tối tivi thông báo từng bước đi của nó. Hướng bão. Sức gió. Bão lần này sẽ đổ vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những vùng chịu ảnh hưởng của bão. Người lớn nhà nghèo dặn con xem lại can dầu và lau ống thông phong. Người lớn nhà giàu loay hoay nạp điện cho mấy cái đèn neon nhỏ. Mấy bà chép miệng rồi gạo lại lên đùng đùng. 'Rau nữa. Dập nát hết. Mấy con mẹ bán rau thế nào cũng thẽ thọt bác đi cả chợ xem có kiếm được mớ rau nào ngon hơn rau em không?' Và tất cả cười ù, háo hức chờ 'Một mình chống lại maphia.' Diễn viên dũng cảm y như thật.

                  Cơn bão mạnh không ngờ. Dù Hà Nội chỉ là vùng chịu ảnh hưởng. Gió lồng lộn. Gió khan. Cả khu tập thể chẳng nhà nào còn cửa kính từ hơn hai mươi năm trước, khi Mỹ đánh phá khu vực Vĩnh Tuy và làng Thanh Nhàn bên đê. Thư đã cẩn thận cặp chặt một tấm nilon vào hai cánh cửa chớp, lại còn chặn thêm cả cái thớt gỗ nghiến nặng chịch mẹ thỉnh từ quê ra. Vậy mà gió hất tung, hắt nước như tát vào phòng. Cả nhà loay hoay trong diện tích hẹp còn khô ráo sát cửa ra vào. Không ai ngủ nổi. Rồi cuối cùng Thư phải bò lên gác xép vốn là giang sơn của bố mẹ, nơi không có cửa sổ và có thể nằm đưa cánh tay lên là chạm trần.

                  Bão tan lúc gần sáng. Thư dậy sớm, uể oải dọn dẹp nhà cửa. Chủ nhật, Thư có tại nhà một lớp học thêm thi đại học. Nhưng trời đất thế này chắc chẳng có đứa học trò nào. Vậy mà chúng vẫn bò tới. Một cô bé nhà ở tít Nghĩa Đô sụt sịt cười: 'Em mất dép cô ạ. Chỗ hồ Thiền Quang nước ngập ngang thắt lưng em. Trôi tuột hết. Bao nhiêu người hôi cá. Xe máy thành xe lội nước. Người giàu cũng khóc'. Bọn trẻ lục tục theo nhau vào chào râm ran trong khi bố mẹ Thư tươi tỉnh theo nhau ra khỏi cửa sang nhà hàng xóm ngồi nhờ để con gái có chỗ lên lớp. Lòng Thư bồn chồn: 'Chúng nó thiết tha với việc học hay thiết tha với gì?'

                  Bữa cơm trưa mỗi mình mẹ nói. Toàn thông tin bà lượm lặt được từ sáng tới giờ. Một tay giáo viên trường Dược bên dốc Thọ Lão đưa em vợ ra ga đúng lúc bão to trở về thì bị một cành cây rơi trúng đầu. 'Chết. Chết ngay chứ còn gì nữa.' Trên Thi Sách có một cặp vợ chồng đi làm ca đêm về vấp phải dây điện đứt. 'Để lại hai đứa trẻ. Khổ.' Bố hững hờ khêu một ngọn rau xào: 'Thôi mẹ nó ăn đi cho con còn dọn.' Thư nhìn mâm. Mưa bão mà mẹ vẫn lo được mâm cơm chu đáo cho ngày chủ nhật. Rau muống xào tỏi vắt chanh, thêm chút mắm tôm xanh ngắt. Đĩa thịt quay. Đĩa kiệu chua. ớt thái từng lát mỏng nổi lập lờ giữa bát nước chấm trong một màu nâu quý. 'Thiếu kinh giới.' - Mẹ phàn nàn - 'Mưa bão thế này... Nhà nào trồng rau thơm thì chỉ có nước khóc.'

                  Buổi chiều Thư dắt xe ra khỏi nhà. Đi lăng quăng. Đường phố ngổn ngang cây đổ. Hồ Gươm. Cây cối ven hồ bị vặt trụi hết lá. Mặt hồ trống trải soi rõ từng tảng mây trắng nhờ nặng nước đang lừ đừ trôi ngang. Thư ngó về phía Nhà Thờ. Ngày trước Thư hay lên phố ấy. Ngày trước nhà Trung ở phố ấy.
                  Cả nhà Thư tiếc Trung. Trung khi đó hai hai tuổi. Vừa xong đại học quân sự, được phân công về một chỗ rất thơm. Nhà Trung gia giáo. Trung lại không phải là con cả. Đằng sau cũng chỉ còn một cô em sắp ra trường. Trung mê Thư và bố mẹ Trung xoắn xuýt kết Thư làm con dâu.
                  Thư hay lên nhà Trung từ trước đó. Theo bà chị có gần bảy năm phổ thông cùng Trung. Nhà mái ngói, không có trần chống nóng. Nhưng rộng. Giữ được nguyên cả số nhà sau khi tiếp quản Thủ đô như thế không phải dễ. Ông bà nội Trung ở nhà ngoài. Ông cụ gần tám mươi, còn nguyên phong thái của một công chức thời cũ. Mùa đông áo khoác dạ và mũ phớt. Mùa hè quần áo đũi màu sáng. Batoong và tẩu. Tươi cười nhưng không niềm nở. Bà cụ là đời vợ thứ hai của ông lão, không biết xuất thân thế nào nhưng bao giờ cũng dịu dàng: 'Thưa cậu, dạ thưa cậu, tôi đã... dạ chưa...' Không hiểu sao cái phong cách sống bặt thiệp lỗi thời đó của hai ông bà già lại quyến rũ Thư.
                  Nhưng lối sống của nhà Trung thì xô bồ. Trừ đoạn thưa gửi. Bố mẹ Trung đều là dân Bách khoa khóa một, ra trường xung phong về Hòn Gai. 'Xung phong trước khi bị phân công về đúng chỗ ấy, sau còn dễ cựa.' Mẹ Trung có lần cười cười giảng giải. Thư không biết bản tính năng nổ dễ dàng thích nghi với đời sống của bà hay mười mấy năm vùng mỏ đã đưa lại cho bà cách sống xởi lởi, ăn to nói lớn, rất dễ chan hòa cùng hàng phố. Cái để người ta có thể đoán ra gốc gác của bà có lẽ chỉ là cách ăn mặc. Bao giờ cũng giản dị, mà thực ra rất cầu kì. Trung có lần đã tự hào: 'Ông bà ngoại anh ngày xưa có tới một nửa phố như phố này để cho thuê.'

                  Thư biết chính mẹ Trung mới là người chèo lái gia đình chứ không phải ông bố đạo mạo chuyên môn thuần túy và suốt đời cả nể. Nói chuyện với bà thật dễ chịu. Không phải rụt rè khép nép mỗi lần theo Trung ra phố. Thư đã tưởng mười mươi mình về làm dâu phố ấy. Còn phải làm gì nữa nhỉ để cho một đám cưới diễn ra? Chạm ngõ. Ăn hỏi. Chia trầu cau chè hạt sen thành từng gói nhỏ dán giấy bóng đỏ để đưa cùng thiếp mời. Nhà thân thêm cặp bánh cốm. Và may áo cưới, đặt hoa. Không dơn trắng kèm một dải hồng bạch dài thật dài kết cùng với thật nhiều lá măng. Sẽ chỉ một vài bông cúc nhỏ... Nhưng đám cưới ấy không bao giờ có. Không ai biết vì sao. Bố mẹ hai đứa không biết. Trung không biết. Đến Thư cũng không biết, dù sau này, đã nhận mình lỡ một thì con gái rồi, Thư vẫn cật vấn mình trong những đêm khó ngủ.

                  Có phải mọi sự bắt đầu từ mấy cái chậu nhôm méo hứng nước giột mẹ Trung đặt rải trong phòng chưa kịp đổ đi sau một đêm mưa mùa hạ? Có phải là vì Trung đã không vào phòng trong mặc quần áo dài lúc Thư tới mà lại tươi cười đâm bổ ra đỡ lấy cái ghi đông xe đạp của Thư và cô bạn đi cùng. Trung trưa đó đánh độc một cái quần đùi, vai ngực nhễ nhại mồ hôi. Thư nhớ là lúc đó không hiểu sao Thư ngần ngại không muốn nhìn Trung và chỉ muốn ngồi lại phòng ngoài nói chuyện với ông cụ bà cụ.

                  Hay điều đó bắt đầu từ mâm cơm em gái Trung bùng xụng bùng xịu dọn ra cho Trung và Thư một buổi xế chiều nào? Mùa xuân. Mưa phùn.Trời nồm. Không khí nặng trịch hơi nước. Quần áo cả nhà Trung phơi trong phòng không biết mấy ngày vẫn chưa khô quyện với mùi bếp dầu vừa tắt làm Thư khó thở. Chỗ nào cũng ướt rườn rượt. Nền nhà. Ghế ngồi. Chiếu rải trên giường. Cái bát cầm trên tay cũng có cảm giác dinh dính nhơm nhớp. Và Thư đã nhắm mắt đưa miếng giò thủ Trung vừa gắp cho vào miệng, nuốt. Thứ giò mậu dịch thái dối gói dối bán đầy vỉa hè sau tết. Thư không dám nhìn. Những sợi lông lợn tua tủa. Miếng giò sắp nhão. Dường như đã hơi có mùi. Hay là Thư cảm thấy thế. Cái mâm nhôm xam xám, đĩa giò, bát nước chấm còn vương một mảnh lá rau, chiếc bát Thư cầm trên tay có một đường rạn đã thâm lại... Một mâm cơm bình thường trong hoàn cảnh một nhà bình thường. Nhưng chính vào lúc đó Thư đột nhiên hiểu rằng mình không thể, không thể ngày ngày ngồi bên một mâm cơm như thế, cầm một cái bát như thế, cầm đũa nhấc cả tảng rau luộc từ rổ đặt vào đĩa như thế.

                  Mẹ vẫn bảo Thư khảnh ăn và kỹ tính như một bà già phố cổ. Phần cơm cho Thư, mẹ với chị phải thận trọng rót nước mắm mới, thận trọng khơi từng ngọn rau ra đĩa, có miếng cháy cũng phải gạt đàng hoàng sang thành nồi. 'Nhưng mẹ ơi, đấy là tại mẹ. Tại sao mẹ lại nuôi con như thế? Tại sao mẹ không dạy con biết xô bồ?' Cũng lạ lùng. Ông bà ngoại người nhà quê, ông chỉ là giáo làng, thế mà ra Hà Nội làm dâu mẹ lại dễ dàng tiếp thu trọn vẹn nếp sống Hà Nội cũ. Thư không dám cắt nghĩa cho mẹ hiểu vì sao đột nhiên Thư lảng Trung. Nhà Thư nghèo hơn nhà Trung. Từ đời cụ đời kỵ đã nghèo hơn. Thư chỉ biết về một cuộc sống khá hơn qua lối sống của ông bà Trung, qua đĩa thịt đầy hơn, đĩa rau vơi hơn nhoáng mỡ hơn, mùi gạo thơm hơn trong nồi cơm của các nhà khác. Nhưng không hiểu sao Thư thiết tha đặc biệt với lối sống của những gia đình như gia đình ông bà nội Trung. Dường như nó đã mất hẳn sau mấy chục năm vất vả. Mất ngay ở chính nơi nó ra đời.

                  Nhà Trung nay không còn ở phố cũ. Thời mở cửa, nhà mặt phố, lại ở trung tâm. Núi vàng. Hai ông bà cụ đã nằm xuống cả rồi. Việc chia chác con cháu thu xếp nhẹ nhõm. Ông bác Trung một đời thắt ca vát đi phiên dịch ở Tây tháng trước chồng đủ số tiền các em trai gái dâu rể định giá, tháng sau thuê thợ đập nhà cũ xây khách sạn mini. Cái phố nhỏ đùng đùng đổi lốt. Những nhà hai tầng ba tầng mọc trồi lên bên trên những nhà một tầng mái ngói trông giống những chiếc răng vàng của mấy ông thoát ly mấy bà buôn chuyến không hề bị sâu răng một thời. Nhà Trung nhận phần tiền được chia mua đất xây nhà mạn Hồ Tây. 'Bọn em mới xin ra ăn riêng. Ông bà nội chia cho tầng ba. Khi nào mời chị lên chơi với bố mẹ em. Nhà dễ tìm lắm. Ông bà nội cháu vẫn nhắc chị.' Cô vợ rất trẻ của Trung, núng nính hơi sớm với tuổi, ngồi trên xe máy sau lưng Trung, một chân đặt hờ trên vỉa hè, hai tay ôm eo chồng đầy ý thức sở hữu mời vồn vã, mắt lạnh teo. Trung, béo ra, nhìn Thư trìu mến, dò hỏi. Trung đã chuyển ngành, giờ quay ra hùn vốn mở công ty trách nhiệm hữu hạn. 'May mà Trung không có dáng hỉ hả.' Câu đó Thư không nói khi kể cho mẹ với chị nghe cuộc gặp gỡ tình cờ.

                  Bây giờ với Thư sao lắm cuộc gặp gỡ không tình cờ. Đi dạy về, có tháng tối nào Thư cũng thấy anh kỹ sư mới về phòng của bố đến thỉnh ý ông cụ. Rồi bạn của anh rể Thư. Đến rồi đi. Người 'chì' nhất cũng lai vãng được tới cả năm. Và anh hàng xóm Trung biết từ bé bố mẹ vào Sài Gòn chạy trốn bệnh thấp khớp để lại cho căn phòng, mùa hè cởi trần cuốn một chiếc phula quanh bụng vì đau dạ dày giờ không thấy cởi trần hôm nào đi về Thư cũng gặp khi dắt xe ngang cửa. Mẹ dạo này hay than thở chị Thư lấy chồng cách nhà cả một đầu thành phố nhiều khi mẹ muốn nhờ việc gì cũng không được và nhắc tới anh. Như ngày xưa hay nhắc Trung.

                  Ngày xưa, buổi tối, Trung hay đến đón Thư đi. Lang thang. Mùa đông. Mùa hạ. Vị bánh trôi Tầu một đêm mưa phùn. Tiếng gió chuyển huyền bí trên vòm sấu chứa đầy bóng tối. Góc đường hai đứa ngồi nhâm nhi cốc nước mía lạnh buốt. Những vòng bánh xe quay trong gió lạnh bời bời. Nhịp đời chậm rãi, cam chịu, dường như thanh thản ấy không bao giờ có nữa. Cũng không bao giờ có lại nữa cái nhịp đời Thư thấy ở nhà ông bà Trung và mong được sống qua. Bây giờ xe máy lao ầm ầm. Người ta không thể nhận ra cái yên tĩnh kì lạ của một trưa hè đột nhiên ve bặt tiếng, hay tiếng gió mùa xao xác bay trên mặt phố tinh tươm màu nắng hanh vàng. Cũng chẳng thể vừa nhấn ga vừa ngước mắt tìm trong đêm một vì sao dường như biết nói...

                  Nhưng mùa vẫn không khác. Tại sao mùa vẫn không khác? Và mình nữa, tại sao không biết khác ngày xưa? Thư cúi mặt, dừng chân, nhấc xe lên vỉa hè, nghe loáng thoáng bà hàng quà rong nói với bà đồng nát về một mùa bão sớm.

                  1998
                  #24
                    vinataba 28.08.2004 08:52:47 (permalink)
                    Nguyên Xuân


                    -Mình cố gắng nhịn đến sáng mai được không?
                    Ông đeo kính hỏi, mắt thất thần nhìn gương mặt méo mó đẫm mồ hôi của vợ. Bà đỡ gắt:
                    -Đau đẻ còn chờ sáng giăng. Đàn ông đàn ang mò vào đây làm gì?
                    Ông đeo kính cum cúp đi. Đứng ngoài hành lang, chốc chốc thót người nghe tiếng rên la từ trong phòng đẻ vọng ra. Khi tia nắng đầu ngày chọc xiên qua lớp mây đông thì có tiếng trẻ con oe lên. Ông đeo kính nhảy chồm sung sướng:
                    -Nhịn được rồi! Ra rồi!
                    Con bé được đặt tên là Nguyên Xuân. Bố mẹ đã đồng lõa dành cho nó một ngày sinh đặc biệt: mùng một tháng một. Phía trước nó là một năm mới tinh khôi với nguyên vẹn mùa xuân.

                    ở nhà thì Nguyên Xuân được gọi là Nhịn, có lẽ để vinh danh thành tích nhịn đẻ ba mươi sáu tiếng của mẹ. Nhịn được dạy dỗ rằng ở đời, có nhịn thì nên. Sau này Nhịn được biết thêm rằng nhịn nhà mình là gia giáo thâm thúy lắm chứ không phải nhịn bừa bãi vô tổ chức. Như mấy ông bà nhà quê dở buổi làm đồng nhịn dành cứt về nhà bón cây, đấy là thói nhịn tiểu nông. Hay như cô Dự hàng xóm, chồng say đánh ngày ba bận, nuốt nước mắt cắm mặt nuôi con, ấy là thứ nhịn đàn bà ngu muội. Nhịn nhà mình đây có chữ thờ đàng hoàng, nét mực Tàu đen xì, nền giấy ố vàng, đồ cổ xịn. Nghe bảo cụ tổ làm quan to, cuối đời ngẫm nghĩ, viết ra độc chữ ấy truyền lại cho con cháu. Cả họ thờ chữ ấy mấy đời, đến đời bố thì cuộn lại, sợ tàn tích phong kiến. Mấy năm sau này, bố lục đục lấy ra, treo lên. Đứng giữa cửa ngắm nghía, bố lớn giọng bảo chúng nó có sắm sa lông, cúp kiếc, giàn karaôkê ôkiếc gì gì thì được chứ đừng hòng sắm nổi truyền thống. Một chữ này của nhà mình, đố thằng trọc phú nào mua nổi. Nhịn hỏi đấy là chữ gì hả bố. Bố cũng không rõ lắm, chắc là chữ "Nguyễn", họ nhà mình.
                    -Tao học chữ Tây chứ có học chữ Nho đâu. Để hỏi lại xem.
                    Bố đi hỏi khắp nơi, hóa ra đấy là chữ "Nhẫn". Bộ "đao" đứng trên bộ "tâm", "nhẫn" ý như cầm dao cắt gọt con tim nông nổi của mình, nhẫn nhục nuôi chí lớn. Bố vỗ đùi đánh đét, công nhận các cụ thâm thật. Chữ này phải lồng khung kính mà treo mới xứng. Nhưng hỏi giá mấy nơi làm khung đắt quá, mẹ cằn nhằn phí tiền, bố và chữ "nhẫn" đành chờ. Buổi trưa, Nhịn nằm ngọ nguậy trên giường, tay bị bố giữ chặt. Giá được đi chơi thì thích hơn nhưng bố bắt Nhịn phải ngủ trưa để lấy sức chiều học tiếp. Nhịn he hé mắt đếm những vệt cứt ruồi bám trên tờ chữ gia bảo, nhiều quá, lần nào cũng đếm dở dang là ngủ mất.

                    Gương mặt bố mẹ rạng rỡ tự hào khi đón Nguyên Xuân vào nhà mới. Từ lúc ở nước ngoài, Xuân đã được xem ảnh, nhưng thực tế vẫn làm choáng váng. Cái nhà ba tầng đồ sộ, mái củ tỏi Nghìn lẻ một đêm, cột chống Hi lạp, phòng ốc kiểu Tây nhưng trang trí nội thất á Đông. Bàn ghế, tủ chè nhất loạt thửa từ Đồng Kỵ, gỗ gụ đen khảm trai óng ánh, tưng bừng những chim những hoa.
                    -Con thấy thế nào? -Bố mẹ đồng thanh hỏi.
                    -Đẹp lắm ạ.
                    Xuân đáp, đưa mắt khắp phòng cố tìm một vật dụng quen thuộc.
                    -Bức thư pháp "Nhẫn" đâu hả bố?
                    -Treo cái này hay hơn chứ! -Bố chỉ tay vào bức thêu to bằng cái mâm treo cạnh tủ thờ, chữ "Phúc" vàng trên nền kim tuyến đỏ lấp lánh.
                    -Chữ này lộn ngược -Xuân nhận xét.
                    Bố đắc ý:
                    -Ăn nhau ở cái lộn ngược ấy đấy! Phúc lộn ngược là "Phúc đảo", đồng âm với "Phúc đáo", là "phúc đến", gọi phúc lộc đến nhà mình. Từ hôm treo nó lên, bố mẹ bán nhà cũ được giá, mua đất cát cũng gặp thời nên mới lên được cơ ngơi này đấy con ạ.
                    Ngày thứ hai, Xuân chắp tay sau lưng, đứng xa ngắm nghía cái nhà, càng ngắm càng tự hỏi sao lại củ tỏi, sao lại vôi hồng, sao lại cửa sổ xanh lá cây. Mẹ giải thích:
                    -Bố mẹ già rồi, mua nhà xây sẵn cho tiện. Mái củ tỏi hết mốt nên được giảm giá. Củ tỏi trên mái, mình trong nhà, có phải nhìn đâu mà sợ. Kệ thiên hạ.
                    Ngày thứ ba, Xuân đi vòng quanh nhà, cố không bình luận về tranh thảm Ba tư, chùm đèn thủy tinh mạ vàng sáng chóe, nhưng không nhịn được lại hỏi:
                    -Cái tượng kia ai tặng nhà mình?
                    Bức tượng nàng tiên cá đứng ưỡn vú dưới chữ Phúc lộn ngược. Bố tự hào:
                    -Bố mua từ tận Đà Nẵng đấy. Đá trắng nguyên khối quý lắm, ai cũng phải khen.
                    Nàng tiên cá tự biết mình trắng đẹp, ngoảnh mông vào ông Lộc bụng phệ tay nâng thoi vàng miệng cười hể hả. Cạnh ông này là ông Lã Vọng cù rù ngồi câu cá trên hòn non bộ xi măng, một anh nông phu nằm tênh hênh bên cây cầu, con trâu, mái chùa... tất cả to bằng nhau, cùng nép bóng cây si bonsai. Nhìn mãi thấy vui mắt.
                    Sang đến ngày thứ tư, Xuân đã tập được thói quen đi vệ sinh xong không giật nước. Bệ xí Thái Lan trắng tinh hiện đại nhưng giật nước ào ào tốn chết. Mẹ cẩn thận đặt cái chậu nhựa đầy nước và cái gáo bên cạnh, xong việc chỉ cần với tay múc đúng hai gáo dội là vừa đủ. Xuân cũng học cách vào nhà vệ sinh không bật đèn khi trời còn sáng và trong bóng tối nhờ nhờ tránh bước thẳng vào chậu nước dội, chậu rửa mặt, chậu ngâm quần áo bày la liệt như bát quái trận đồ trên sàn. Nhà có máy giặt nhưng mẹ thích giặt tay. Giặt máy tuy không phải động chân tay nhưng ngồi rỗi mà nghe nước chảy rồ rồ, máy quay rung tường nhà, tưởng tượng ra con quái vật phàm phũ mỗi phút ngốn bao nhiêu là điện, là nước, là xà phòng, gan vàng dạ sắt nào chịu cho thấu. Nhưng thiếu nó thì không được. Ngày ngày, mẹ âu yếm lau bụi trên máy hút bụi, máy giặt, máy điều hòa, lò vi sóng, đầu video... Rồi mẹ bồi hồi ôn lại ngày xưa, nhà mình chỉ có độc cái tủ với cái phản. Căn phòng mười một mét vuông, sinh hoạt tất tật bên trong, kéo riđô để bố dạy học bên ngoài. Tối tối, hai mẹ con nằm trong giường, cấm nói chuyện sợ ảnh hưởng đến buổi dạy của bố. Con vân vê núm vú mẹ, món đồ chơi duy nhất. Khi ấy, mẹ ôm con vào lòng, ao ước có cái máy khâu để máy hàng thuê phụ bố đỡ vất vả. Mơ có một chỗ nấu ăn, rửa bát trời mưa không bị ướt đầu. Có tiền thì mình sắm cái chạn để chống chuột, mua cho hai bố con chiếc bàn học nhỏ kê ở góc kia. Rồi cả tivi, tủ lạnh. Căn phòng mười một mét vuông chật ních những đồ đạc mơ ước. Đến hôm mua được tủ lạnh, mẹ vui mất ngủ, nghĩ nhà mình thế là có máu mặt trong xóm, chẳng thiếu thứ gì. Mùa hè, cả xóm phải sang xin đá, mẹ xởi lởi đem cho, thật nở mày nở mặt... Mẹ kể, vừa kể vừa cười mình ngày xưa sao khổ thế, khổ mà không biết là mình đang khổ. Chiều muộn, bóng tối lan trùm căn phòng, Xuân với tay định bật đèn nhưng mẹ ngăn lại. Ngồi không có làm gì đâu mà bật đèn cho tốn điện. Xuân bùi ngùi nhìn mẹ ngồi trong bóng tối, kể mãi chuyện đổi đời. Cái xóm ngày xưa, theo lời mẹ, bây giờ nhà nào cũng triệu phú tỉ phú. Bố mẹ bán căn phòng nhỏ ở trung tâm, mua nhà ba tầng ven đô tưởng đã to nhưng thấm vào đâu so với nhà mặt tiền của các chú các bác. Động đến là trăm cây, nghìn cây vàng. Bà Sâm từ độ bán nhà đâm ra lên huyết áp vì lo trấn lột. Nhà mới của bà tường cao kín mít rắc mảnh chai nhưng vẫn phải nuôi thêm chó dữ. Hai con bécgiê lồng lộn đuổi nhau suốt ngày trong mảnh sân kín, mở cửa ra là nước đái chó xông lên người chết cũng phải tỉnh dậy. Bà Sâm lam lũ với hai con chó chả khác nào khi xưa phải tăng gia lợn trong nhà. Chú Thịnh cũng là tỉ phú. Chú mua hơn nghìn mét đất, xây tường bao, kẻ biển "Biệt thự Triệu Bông Hồng". Chú Thịnh nguyên văn sĩ bỏ nghề về phụ vợ bán cháo lòng, còn tí máu văn chương trút cả vào cái biển, tô vẽ hoa hồng rực rỡ. Cũng phải tâm hồn lãng mạn lắm mới tưởng tượng ra được Triệu Bông Hồng giữa khu đất chó ỉa bên cống thối sông Tô Lịch quanh năm nghẽn đặc rác rưởi, xác mèo, chuột chết trương phềnh.

                    Thế là cả xóm lên đời hết. Chữ "Nhẫn" qua lần chuyển nhà thất lạc vào đâu chẳng biết, châm ngôn mới của bố nghe oanh liệt hơn: "Cứ đạn bắn xối xả là xong". Túi bố luôn có "đạn", là mấy tờ đô xanh xanh không phải để tiêu mà để làm "chúng nó" sợ. Bố uống bia để bụng phát triển tự nhiên. Bụng phệ cộng với đô la trong ví là tướng giám đốc, đi đâu cũng được vị nể khác thường. Mẹ không còn tiêu những buổi tối vào mơ ước nữa. Cái gì mua được bằng tiền thì đã mua rồi, mẹ đâm buồn. Thú vui của mẹ bây giờ là đi gọi hồn. Nói chuyện với người sống chán rồi, bây giờ mẹ chuyển sang tín nhiệm ma.

                    Bà Sâm giới thiệu cho mẹ một cô đồng rất giỏi. Bà là khách thường xuyên của cô đồng, hai tuần đến gọi hồn một lần, khi đi háo hức, khi về bâng khuâng. Mẹ úp mở bà ấy đang có bồ đấy. Bố bực dọc:
                    -Nhảm nhí! Sắp xuống lỗ rồi còn bồ bịch gì. Đến tai chồng bà ấy thêm rách việc ra.
                    Mẹ hứ một tiếng:
                    -Tôi mắt thấy tai nghe nhé, không thèm đặt điều! Ông có ở đấy đâu mà biết. Không tin thì tuần sau đi với tôi. Mà không, ông đi thì "họ" lại ngượng, vía dữ như hùm ấy. Thôi để con Xuân đi với tôi. Với lại cô đồng này cũng hay lắm, xem một lần cho biết.
                    Bà Sâm là chị họ bố, ngót nghét bảy chục tuổi. Bà thuộc loại phụ nữ cổ, chỉ chăm chăm chúi chúi vào chồng con, suốt ngày ru rú trong nhà. Con cái lớn dựng vợ gả chồng ra ở riêng hết, bà sống với ông chồng, tiền bán cái nhà cũ thừa ra, ăn đến chết cũng không hết. Chồng bà còn khỏe, nhập hội "Ham sống sợ chết", các cụ già rủng rỉnh, ăn chơi dối già, đi vắng suốt. Còn lại mình bà với hai con chó giữ nhà và màn hình tivi mở từ sáng đến khuya. Bà ngồi, cằm phị xuống tận ngực, chương trình gì cũng mở tới cùng nhưng không ai dám chắc bà đang thức hay ngủ bởi cặp mắt sụp mí, những nếp nhăn trên mặt không động đậy. Thỉnh thoảng như sực tỉnh, bà đấm thùm thụp vào cái chân bị thấp khớp, rên "Ôi giời" bình luận cho tất cả các chương trình từ hoạt hình, phim hài, bạo lực đến tin thời sự động đất, tăng năng suất lúa, cúp bóng đá, thăm viếng ngoại giao. Bà Sâm bây giờ cũng xoay ra bồ bịch thì khiếp thật, mà lại có ông già nào lãng mạn đến mức vắt ra được giọt tình ở bà lão bảy mươi như thế.

                    Nhưng mà có khi mẹ chẳng nói ngoa.. Buổi sáng hôm sang rủ bà Sâm đi gọi hồn, Xuân kinh ngạc thấy một bà Sâm hoàn toàn khác. Tivi vẫn bật nhưng bà không xem mà lăng xăng đi lại. Đồ lễ đã chuẩn bị tươm tất. Gà quay, xôi gấc, hoa quả thượng hạng. Nhất là một bó hồng đỏ lộng lẫy, cành vừa mập vừa dài, mười bông như một, cánh nhung lóng lánh nước đọng, đẹp không chê vào đâu được. Mẹ ghé tai Xuân thì thào: "Hồng tặng bồ đấy. Bà này thế mà lãng mạn lắm!" Bà Sâm hôm nay diện quần tây, áo nhung đen, tóc búi cài trâm, nom nhẹ nhõm, trẻ trung ra cả chục tuổi. Xuân nghi hoặc để ý bà đang trang điểm. Nhìn các bà già son phấn bao giờ cũng cảm động. Giống như hàng rau xót xa vảy đẫm nước vào mớ rau héo chợ chiều, biết chắc là vốn liếng sắp đi tong rồi nhưng vẫn cứ ngồi cố đến khi tàn bóng. Cái cách bà Sâm hôm nay chải chuốt không giống thế. Nó nắn nót, âu yếm trên từng nếp nhăn. Chưa hết, thay vì bôi dầu Nhị Thiên Đường như thường lệ, bà lại xịt tí nước hoa. Bảy chục tuổi, cả đời hết nuôi lợn đến nuôi chó mà bây giờ bỗng dưng thích nước hoa thì nhất định là có vấn đề.

                    Nhà cô đồng nằm sâu trong ngõ, trên gác. Cửa chính treo mành mành nhưng cửa sổ mở rộng nên thoáng. Chính giữa phòng là điện thờ, khói hương nghi ngút. ánh sáng nhiều nên không khí không có vẻ âm u, huyền bí như Xuân tưởng. Bà Sâm nhanh nhẹn bày đồ lễ. Cô đồng dọn ra đĩa gạo, đĩa muối, chén rượu, thuốc lá, bình trà. Mẹ rút nén hương thắp, cắm vào cốc gạo để trước mặt cô đồng. Người nào việc nấy thành thạo, nhịp nhàng. Xong xuôi, ba người quỳ một hàng sau lưng cô đồng. Cô này xuýt xoa khấn vái, gieo âm dương rồi chắp tay, đầu gục xuống. Im phăng phắc. Xuân nhớ ông nội. Hôm ra thăm mộ ông, Xuân khóc. Khóc với người chết dễ hơn với người sống. Không cần giải thích, không cần kể lể, chỉ nước mắt mặn chát rơi xuống, thấm vào đất mộ. Thần giao cách cảm. Ông linh thiêng chắc hiểu vì sao Xuân bỗng dưng bỏ việc, ngàn dặm trở về... Cô đồng chợt rùng mình như có ai đẩy. Cô ngáp, mặt vếch lên bốn nhăm độ, cặp mắt khép hờ toàn lòng trắng liếc xéo sang bên, dài dại:
                    -Trung. Trung đây.
                    Mẹ và bà Sâm nhìn nhau. Đồng thanh thưa:
                    -Dạ, không quen hồn nào tên là Trung cả.
                    -Trung họ Vũ. Tìm cô Bé.
                    -Dạ, chắc hồn nhầm người.
                    -Thôi thế hồn đi vậy.
                    Cô đồng lại ngáp. Rùng mình. Hồn đi. Nửa tiếng trôi qua, có hồn ông Lục tìm bà Tài, hồn cụ Tô tìm Uyên, hồn cô Vị, hồn bà cả Tẹo tạt qua chơi, không ai nhận lại đi. Mỗi lần hồn nhập, hồn đi, cô đồng lại ngáp. Miệng cô chắc là cửa để hồn chui ra chui vào. Xuân quỳ mãi mỏi chân, lơ đãng ngó ra cửa sổ, tưởng tượng các hồn đang đi mây về gió đông đúc. Mẹ thì thào :"Mãi chưa thấy ông Tuấn về. Mọi khi nhanh lắm cơ." Cô đồng lại ngáp:
                    -Tuấn đây.
                    Bà Sâm nhổm lên:
                    -Anh đã về.
                    Mẹ bấm tay Xuân. Hai mẹ con dỏng tai nghe. Bà Sâm trách:
                    -Hôm nay anh về chậm thế.
                    -Anh bận đi mua thuốc cho em. Qua đò đông phải chờ lâu quá. Thế hôm nọ ngã có đau không?
                    Bà Sâm bắt đầu sụt xịt:
                    -Em vấp vào cái xích chó, chúi đầu xuống. May mà chỉ tím chân thôi chứ không gẫy xương.
                    Cô đồng dịu dàng:
                    -Anh đã gọi mà em không nghe. Anh đỡ cho em đấy. Thế em đã bóp thuốc chưa?
                    Cô đồng cầm tay bà Sâm, nắn bóp nhẹ nhàng. Mắt cô đồng vẫn khem khép, miệng thủ thỉ:
                    -Anh thương em.
                    Nước mắt bà Sâm trào ra, giàn dụa:
                    -Sao không về thăm, báo mộng cho em?
                    -Hôm nọ anh về, là con bướm nâu bay quẩn mãi trong bếp của em đấy thôi. Gớm hai con chó nó cứ vừa cắn vừa sủa. Mấy lần khác thì bà cô ông mãnh nhà em không cho anh vào.
                    Hồn khoe với bà Sâm đã xin được việc mới, lương khá lắm, bà không phải đốt tiền âm nữa. Hồn lại dặn kỹ tuần sau bà Sâm đi chợ, thấy chị áo xanh bán thuốc thấp khớp thì mua. Thuốc ấy đích thân hồn tìm cho bà, uống vào sẽ đỡ... Trời gần đứng bóng. Nắng chiếu qua cửa sổ sáng rực căn phòng. Xuân kinh dị nhìn bà Sâm với cô đồng ngồi miên man trong nắng, lời tâm sự nửa thật, nửa kỳ quái hoang đường.

                    Mẹ và Xuân hôm ấy về không. Thăm nom cũng có giờ, hồn ông bà nội ngoại chắc thấy tình yêu của bà Sâm mãnh liệt quá nên nhường. Mẹ cứ tấm tắc hồn thiêng thật, chuyện bà Sâm ngã, đến ông chồng kề bên cũng không biết, thế mà hồn nói vanh vách.Bà Sâm hỉ mũi, ngậm ngùi:
                    -Ông ấy theo tôi hơn bốn chục năm nay, chuyện gì mà không biết!
                    Mồ ma ông Tuấn si mê bà Sâm từ lúc bà còn con gái nhưng chả được xơ múi gì ngoài một tấm ảnh. Ông chết trận lúc mới hai tư, ảnh người tình trong mộng đút túi áo ngực cũng chôn theo. Cho đến năm vừa rồi đi gọi hồn, bà Sâm mới ngớ ra là mình được yêu suốt mấy chục năm. Hồn kể ra trăm ngàn kỷ niệm, bao nhiêu lần hồn luẩn quẩn bên bà những khi bà ốm đau, buồn giận chuyện chồng con. Một chồng, bốn con với bảy đứa cháu nội ngoại, thế mà ngẫm suốt đời, hóa ra không ai gần gụi bà như hồn. Mà cũng chỉ có ma mới chung tình vô đìều kiện như thế! Bà Sâm cảm tấm lòng ấy nên nhận lời yêu ma sau hơn bốn chục năm âm dương cách trở. Bà Sâm chia tay mẹ con Xuân, đi ngay ra Hàng Mã. Bà đã hứa với hồn là mua sổ tay và bút máy để hồn chép thơ, chắc là thơ tình.

                    Nhưng sổ với bút ấy không đến tay được hồn tình. Bà Sâm đang lom khom hóa vàng thì ông chồng ở đâu xồng xộc về. Ông túm tóc bà, lôi thẳng vào buồng. Này thì đồng cốt! Này thì đú đởn! Này thì nhân tình nhân bánh! Không cần tra hỏi, cứ mỗi câu ông thụi cho bà một quả. Hai ông bà già, sức lực chẳng còn mấy, chỉ thấy xương với da đụng nhau lục cục. Bà Sâm không cãi, cũng không đỡ đòn, chỉ khóc. Bà càng khóc, ông càng điên tiết. Mấy chục năm cứ tưởng lấy được con vợ đức hạnh, nào ngờ nó bồ bịch ngay trước mũi ông, làm người ta đồn giăng giăng đến tai ông, rằng ăn ở với vợ ra làm sao mà bà ấy chán đến độ xoay ra mê một cô hồn. Yêu hồn thì làm sao ông kiểm soát được, ai mà biết đêm nào chúng nó cũng tình tẹo với nhau trên giường ông, ông sờ sờ ra đấy mà chúng nó làm gì ông cũng đành chịu. Khốn nạn quá! Cái sừng vô hình bị ma cắm bốn mươi mấy năm chắc đã sum xuê gốc rễ. "Mày yêu ma. Mày có giỏi ngủ với nó được không? Nó có cái này không?" Ông hùng hục trật quần, phô bày vốn quý hơn hẳn con ma. Nhưng bất chấp nộ khí xung thiên của ông, thằng cu - bây giờ gọi là ông lão cũng được- chỉ rủ xuống rất nhu mì. Hai ông bà nhìn chăm chăm vào nó một lúc. Nó rung rung dịu dàng, không ngẩng lên. Ông đỏ mặt, càng giận hơn, chửi :"Đồ ngu" rồi kéo phắt quần lên. Ông lao ra đá tung chậu vàng mã, đái thẳng vào ngọn lửa đang thoi thóp. Cuốn sổ thơ cháy dở dang thâm đen, những lời tình tự không chỗ đậu theo tàn tro bay tứ tung. Ông hầm hầm lên công an phường tố cáo cô đồng hành nghề mê tín dị đoan. Đòn dương đã vậy, đòn âm, ông thuê hẳn một thày pháp cao tay trấn bùa, mấy lá bùa đỏ ngoằn ngoèo dán từ cổng chính vào buồng ngủ. Ông còn đặt con dao dưới gối, dọa ma nào vớ vẩn mò đến ông chém chết. Họp gia đình, ai cũng trách bà dại dột, tin đồng cốt quàng xiên, cúng bao nhiêu tiền cho nó. Bà Sâm đổ ra ốm một trận tưởng chết. Hôm Xuân sang thăm, bà đã đỡ nhưng còn yếu, chỉ ngồi bất động trước tivi, đến cái câu "Ôi giời" mọi khi cũng không thấy bà nói nữa.

                    Xuân một mình tìm đến cô đồng. Biết là chẳng ích gì nhưng vẫn đến. Có một chút niềm tin dù là hoang đường vẫn còn hơn chẳng có gì. Nhà cô đồng khóa cửa im ỉm. Xuân về, ngang qua quán cà phê cũ. Nắng cuối thu lốm đốm rơi qua tán lim già, lá sẫm xanh, bí ẩn. Xanh như mười năm trước, khi Xuân nói "Em sẽ đi xa", xanh như hôm qua Xuân lại nói "Em muốn trở về". Hai lần cùng nói với một người. Hai lần người ấy chỉ nhìn Xuân thương xót, thương như Xuân nhìn bà Sâm tình tự với hồn ma. Xuân nhớ lúc ấy có một cái lá lim bay tạt xuống mặt bàn. Nó nằm chơ vơ, con mắt xanh lặng lẽ. Mười năm có khi cũng rơi như thế, mười năm, là một phần mấy của cuộc đời?

                    Xuân ra sân bay vào buổi chiều cuối năm rét ngọt. Xe băng ngang sông Hồng. Dưới chân cầu những xoáy nước đỏ quạch phù sa như vết thương hun hút. Một lá ngô già ngập ngừng nơi mé nước rồi thong thả xuôi dòng. Xuân ngoái ngược trở lại phía những cụm nhà lố nhố ven đô, cố tìm cái mái củ tỏi màu hồng, sao bây giờ ngó thân thương hơn mọi thứ khác. Gió lùa cay mắt. Ngước lên trời cao, chợt thấy mình không phải là người đàn bà cứng cỏi, mạnh mẽ như bạn bè vẫn bảo, chỉ là con bé Nhịn tay bị giữ chặt, buồn nhìn chữ "Nhẫn" bộ "đao" đè lên bộ "tâm" nghiệt ngã. Lưỡi dao vô hình cắt gọt con tim nông nổi, gọt bao nhiêu cho tròn một kiếp người?

                    Xuân ngồi nhìn căn buồng mới thuê trống trải, trang trí duy nhất là cành hoa sữa đã rụng tiệt hoa sau chuyến bay gần trọn một ngày. Tay Xuân luồn trong túi áo mân mê cái chìa khóa ngôi nhà cũ. Nó không quá xa, nửa tiếng chạy xe, Xuân sẽ về lại đấy. Lò sưởi bập bùng, salon bọc da êm ái, và một người đàn ông quen thuộc. Anh ta sẽ đón Xuân vào, đại lượng như đón người đàn bà dại dột, vài năm một lần đem đời mình ra đập vỡ chơi rồi loay hoay hàn gắn lại. Sẽ không đả động gì đến chuyện Xuân đã bỏ việc, đã dọn đi ..., những cơn đồng bóng đàn bà. Sẽ bình thản cùng ngồi xem tivi như năm ngoái, năm kia, như mười năm trước. Bình thản cho đến khi anh ta lột chiếc áo ngủ, ấn giúi Xuân xuống nệm. Vùi sâu, xoáy lút những nhát đâm ngoáy vào vết thương chưa bao giờ khép miệng giữa hai người... Xuân rùng mình, rút hẳn chìa khóa ra khỏi túi, tìm một phong bì. Nắn nót viết lên địa chỉ căn nhà cũ. Bỏ chìa khóa vào. Dán kín.

                    Khi Xuân từ bưu điện trở về thì pháo lác đác rộ lên. Sắp giao thừa. Xuân mở gói quà mang theo từ Hà Nội. Một bức thư pháp. Mực tàu đen đằm trên nền giấy dó, nét bút tinh anh, phóng khoáng. Chữ "Tâm". Không có bộ "đao" ở trên, chỉ một chữ "tâm" thật đậm, cái đường móc hất lên, nửa như khát khao, nửa như thách thức. Xuân treo bức thư pháp lên khoảng tường trống gần cửa. Gió lùa qua khe chữ lay nhè nhẹ. Văng vẳng tiếng chuông nhà thờ. Xuân mở tung cửa sổ. úp mặt vào làn không khí giá băng tinh khiết, nồng nàn hương pháo. Nền trời đen thẫm bùng lên muôn vạn chùm hoa lửa. Nước mắt ấm trên môi, Xuân nhận món quà sinh nhật bố mẹ đã dành cho từ lúc chào đời. Một năm mới phong kín như chưa từng mất mát. Nguyên Xuân.


                    Amsterdam 14-12-2002
                    Viết cho ngày sinh



                    HẾT
                    < Sửa đổi bởi: vinataba -- 27.8.2004 22:14:19 >
                    #25
                      vinataba 28.08.2004 08:57:19 (permalink)
                      Lê Minh Hà
                      Sinh ngày 24.8.1962 tại Hà Nội
                      Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội 1, khoa Ngữ Văn, khóa 1979 - 1983
                      Dạy học tại Hà Nội (1984 - 1986: trường phổ thông trung học Đan Phượng; 1986 -1994: truờng phổ thông trung học Hà Nội Amsterdam)
                      Hiện sống tại Đức.

                      Tác phẩm:
                      Đã in:
                      Trăng góa - Thanh Văn - Mỹ - 1998
                      Gió biếc - Văn Mới - Mỹ - 1999
                      Thương thế, ngày xưa... - Văn Mới - Mỹ - 2001
                      Những giọt trầm - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân- 2002
                      Sẽ in:
                      Sông sẽ còn chảy mãi
                      Gió tự thời khuất mặt

                      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/3817/FD01B10BDC36424A9D73355E9175D84E.jpg[/image]
                      < Sửa đổi bởi: vinataba -- 27.8.2004 22:09:11 >
                      Attached Image(s)
                      #26
                        vinataba 28.08.2004 09:07:27 (permalink)
                        Phạm Hải Anh

                        Sinh năm 1970, quê quán Hà Nội.
                        Từ 1991-1998: giảng viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
                        Hiện sống và làm việc ở Amsterdam, Hà Lan.

                        Tác phẩm đã in:
                        “Huyết đằng”, tập truyện ngắn, nxb Văn Mới, California, USA 2001
                        “Đi hết đường mưa”, tập truyện ngắn, nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội 2002

                        Sẽ ra mắt:
                        “Tìm trăng đáy nước”, tập truyện ngắn

                        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/upfiles/3817/F47EFCF9320543D9ACC4AE690F2D3084.jpg[/image]
                        < Sửa đổi bởi: vinataba -- 27.8.2004 22:10:00 >
                        Attached Image(s)
                        #27
                          thatsonanhhung 30.08.2004 02:51:42 (permalink)
                          Thân chào vinataba,

                          Truyện đã được đưa vào thư viện.

                          Xin chân thành cảm ơn vinataba đã góp sức cho VNTQ.
                          #28
                            Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 28 trên tổng số 28 bài trong đề mục
                            Chuyển nhanh đến:

                            Thống kê hiện tại

                            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                            Kiểu:
                            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9