HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp
silverbullet 08.05.2007 13:02:56 (permalink)

HỒ CHÍ MINH
Nhận Định Tổng Hợp   

Tác phẩm nghiên cứu

Của Nhà Biên Khảo MINH VÕ 
 
Tủ Sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG
Virginia
 xuất bản
2003
  
 
MỤC LỤC
 

LỜI NÓI ĐẦU

PHẦN I: NHẬN ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH - từ một số tác phẩm loại tiểu sử

Chương 1: WILLIAM J. DUIKER và Ho Chi Minh, a life
Chương 2: JEAN LACOUTURE và HCM, A Political Biography
Chương 3: PIERRE BROCHEUX và Hồ Chí Minh
Chương 4: DAVID HALBERSTAM và Ho
Chương 5: BERNARD FALL và Ho Chi Minh on Revolution
Chương 6: JEAN SAINTENY và Face à Ho Chi Minh
Chương 7: TƯỞNG VĨNH KÍNH và Hồ Chí Minh tại Trung Quốc
Chương 8: SOPHIE QUINN-JUDGE và Ho Chi Minh, the missing years
Chương 9: TRẦN DÂN TIÊN và Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch
Chương 10: HỒNG HÀ và Bác Hồ trên đất nước Lê Nin
Chương 11: PHÙNG THẾ TÀI và Bác Hồ, những kỷ niệm không quên
Chương 12: NGUYỄN KHẮC HUYÊN và Vision accomplished ?
Chương 13: NHÓM ĐƯỜNG MỚI và HCM, sự thật về thân thế và sự nghiệp
Chương 14: HOÀNG QUỐC KỲ và Ma đầu Hồ Chí Minh
Chương 15: NGUYỄN THUYÊN và Bộ mặt thật của Hồ Chí Minh
Chương 16: VIỆT THƯỜNG và Con Yêu Râu Xanh
Chương 17: NGUYỄN PHƯƠNG MINH và HCM tên phản quốc số một của thời đại

PHẦN II: NHẬN ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH - từ một số tác phẩm viết về cuộc chiến VN

Chương 18: 6 TÁC GIẢ và Le Livre Noir du Communisme
Chương 19: JOSEPH BUTTINGER và Vietnam: The Unforgettable Tragedy
Chương 20: DOUGLAS PIKE và History of VN Communism
Chương 21: ROBERT SHAPLEN và The Lost Revolution
Chương 22: MICHEL TAURIAC và Viet Nam, le dossier noir du Communisme
Chương 23: P. J. HONEY và Communism in North Việt Nam
Chương 24: PHILLIP B. DAVIDSON và Vietnam At War
Chương 25: ELLEN HAMMER và The Struggle For Indochina
Chương 26: DANIEL ELLSBERG và Secret
Chương 27: DENNIS J. DUNCANSON và Government and Revolution in Viet Nam
Chương 28: P. DEVILLERS & J. LACOUTURE và La Fin d’une Guerre
Chương 29: DENIS WARNER và The Last Confucian
Chương 30: VÕ NGUYÊN GIÁP và Những năm tháng không thể nào quên
Chương 31: NGUYỄN THỊ BÌNH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng MNVN
Chương 32: TRẦN VĂN GIÀU và Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam
Chương 33: HOÀNG VĂN HOAN và Giọt Nước Trong Biển Cả
Chương 34: SƠN TÙNG và bài nói về Hồ Chí Minh
Chương 35: HOÀNG TÙNG và HCM, Trung Quốc và Liên Xô
Chương 36: BÙI TÍN và Vietnam, la face cachée du régime
Chương 37: NGUYỄN MINH CẦN và Đảng Cộng Sản Việt Nam …
Chương 38: VŨ THƯ HIÊN và Đêm giữa ban ngày
Chương 39: BẢO ĐẠI và Con rồng Việt Nam
Chương 40: TRẦN GIA PHỤNG và Án Tích Cộng Sản Việt Nam
Chương 41: ĐỖ MẠNH TRI và Di sản Mác-xít tại Việt Nam
Chương 42: MỘT SỐ TÁC GIẢ KHÁC  

PHẦN III: MỘT SỐ VẤN ĐỀ về trách nhiệm của HỒ CHÍ MINH

Chương 43: Bối cảnh chiến tranh ý thức hệ của tình hình Việt Nam  
Chương 44: HỒ CHÍ MINH và sự du nhập chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam 
Chương 45: HỒ CHÍ MINH và vụ bán Phan Bội Châu cho Pháp  
Chương 46: HỒ CHÍ MINH từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 tới Cải Cách Ruộng Đất 1953  
Chương 47: HỒ CHÍ MINH và Mặt trận Việt Minh  
Chương 48: HỒ CHÍ MINH và tình trạng bị thủ hạ khống chế  
Chương 49: HỒ CHÍ MINH và cuộc sống thánh thiện  
Chương 50: HỒ CHÍ MINH và Tito Việt Nam?  
Chương 51: HỒ CHÍ MINH và vị đại anh hùng ái quốc  
Chương 52: LỜI CUỐI SÁCH  
Phụ Lục  
Thơ Mục 
*********
Notes : Bài liên quan nên xem

Tản mạn chuyện Bằng cấp - Phê Bình (I) & (II)

http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=268161&mpage=1&#268164
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.05.2007 18:24:44 bởi silverbullet >
#1
    silverbullet 08.05.2007 13:08:56 (permalink)
    Lời Nói Đầu  
     
    Từng nghe nói trong mỗi con người luôn tiềm ẩn một thiên thần và một ác quỷ.

    Nhưng con người không phải là thần cũng chẳng phải là quỷ. Lý tưởng mà con người theo đuổi, thành quả mà con người đạt được cùng với hành vi biểu hiện cuộc sống của con người sẽ cho phép nhận diện con người nghiêng về phía thần hay về phía quỷ.
    Điều này càng đúng khi áp dụng với những người đấu tranh chính trị. Mục tiêu mà họ theo đuổi, phương thức dành quyền lực mà họ thi thố, quyền lực mà họ vận dụng, ảnh hưởng vai trò của họ tác động vào sinh hoạt xã hội nói chung ... chính là nền tảng cụ thể nhất để đánh giá họ nghiêng về phía nào.
    Hồ Chí Minh là người tham gia đấu tranh chính trị và là một nhân vật lịch sử Việt Nam. Thời kỳ đấu tranh của Hồ Chí Minh cũng là thời kỳ lịch sử Việt Nam gắn liền với nhiều biến cố trọng đại của thế giới trong thế kỷ 20. Vì thế, Hồ Chí Minh còn được coi là một nhân vật lịch sử của thế giới trong thế kỷ vừa qua.
    Nhưng, có những nhân vật lịch sử thường xuyên hiện ra giữa ánh sáng chói chang thì cũng có những nhân vật lịch sử luôn lẩn khuất sau nhiều lớp sa mù. Có những nhân vật lịch sử hoàn toàn trở thành dấu tích dĩ vãng ngay sau khi từ giã cõi đời thì cũng có những nhân vật lịch sử tiếp tục tác động vào mọi sinh hoạt của nhiều thế hệ tiếp nối.
    Hồ Chí Minh không nằm trong số nhân vật lịch sử mau chóng trở thành dĩ vãng. Ông trút hơi thở cuối cùng từ ngày 2 tháng 9 năm 1969, nhưng gần như vẫn có mặt trong từng biến cố của Việt Nam sau ngày đó. Hồ Chí Minh cũng không nằm trong số nhân vật lịch sử mà toàn bộ cuộc sống và con người là những trang sách luôn mở rộng cho bất kỳ ai muốn tìm đọc. Cuộc sống và con người Hồ Chí Minh lẩn khuất sau nhiều lớp màn che với những màu sắc trái ngược để luôn là một bí ẩn giữa những huyền thoại.
    Chính vì thế, Hồ Chí Minh trở thành đối tượng được diễn tả theo nhiều cách khác biệt, thậm chí trái ngược như  ngày với đêm, như trắng với đen.
    Nhiều nhà văn, nhà báo, nhà viết sử trên thế giới đã coi Hồ Chí Minh là một chính trị gia tài ba, một người nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa hơn là tinh thần quốc tế chủ nghĩa dù Hồ Chí Minh là người cộng sản. Một số tác giả còn đi xa hơn không ngần ngại gọi Hồ Chí Minh là nhà ái quốc của Việt Nam. Đa số các tác giả này đều nghĩ rằng Hồ Chí Minh đã được toàn thể hoặc ít nhất là phần lớn dân chúng Việt Nam tôn kính và tin tưởng. Nhiều tác giả đã nhắc tiếng “Bác” mà người dân Việt Nam dùng gọi Hồ Chí Minh, nhắc chuyện Hồ Chí Minh được sùng bái như một vị thần, được dân chúng ở vài nơi lập miếu thờ và coi đó như bằng chứng xác minh nhận định của họ là trong trái tim người dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có vị thế của một “lãnh tụ vĩ đại”, một “anh hùng cứu quốc”, một “cha già dân tộc”...
    Đồng thời, không thiếu những người cầm bút khác lại nhìn Hồ Chí Minh như kẻ đại phản quốc đối với dân tộc Việt Nam. Dưới mắt những tác giả này, Hồ Chí Minh đã say mê lý tưởng cộng sản tới mức sẵn sàng đưa đất nước và đồng bào vào những thảm cảnh đau đớn cùng tột để cố giành thắng lợi cho Khối Đệ Tam Quốc Tế trong cuộc đối đầu với các quốc gia Tây Phương. Không những thế, Hồ Chí Minh còn là con người tàn ác xảo trá, trọn đời là một chuỗi dài thủ đoạn hiểm độc. Chứng cớ viện dẫn cho nhận định này là hành vi sát hại các nhà ái quốc vào thời gian trước và sau 1945 để nắm độc quyền lãnh đạo, hành vi bịp bợm tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản năm 1945, hành vi dối gạt dư luận tự tô vẽ một bề ngoài thánh thiện trong khi sống nhầy nhụa như một kẻ vô luân, hành vi tắm máu nửa triệu người vô tội với chính sách cải cách ruộng đất thời khoảng 1953-1955, hành vi cưỡng chiếm miền Nam bằng võ lực gây nên cuộc chiến đẫm máu suốt 20 năm, và trên hết là sự đẩy lui đất nước vào cảnh sống đọa đày trong ngu dốt, đói nghèo và ngục tù áp chế cho tới ngày nay... Tất nhiên, theo những tác giả này, hình tượng Hồ Chí Minh trong trái tim người dân Việt Nam chỉ có thể diễn tả bằng những từ thóa mạ đã xuất hiện ngay từ 1945-46 như “cáo Hồ”, “quỷ vương”, “ma đầu”... Bằng chứng cao hơn hết cho sự khiếp hãi và lòng thù hận của người dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh là sự kiện hàng triệu người bỏ trốn khỏi miền Bắc năm 1954 và ít nhất hơn hai triệu người đã bất chấp mọi nỗi hiểm nghèo, kể cả sóng gió đại dương, bỏ quê hương vượt biển ra đi sau ngày 30.4.1975.
    Tóm lại, ý kiến nhận định về Hồ Chí Minh rải rác trong hàng trăm tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam và về tiểu sử Hồ Chí Minh được chia làm hai loại rõ rệt, hoàn toàn trái ngược. Một bên coi ông như thần tượng, một bên coi ông là "tên phản quốc số một của thời đại".
    Sự kiện này không chỉ xảy ra với riêng Hồ Chí Minh và có thể dễ dàng gạt qua nếu Hồ Chí Minh không thuộc hàng ngũ đấu tranh chính trị, tức cuộc sống và hành vi của ông không gắn liền với các biến cố chung trong một giai đoạn lịch sử. Ở trường hợp này, dù ông là thiên thần hay ác quỉ thì ảnh hưởng lớn nhất vẫn không vượt khỏi giới hạn thúc đẩy sự ngưỡng mộ hay khinh ghét đối với riêng một cá nhân biệt lập. Sự ngưỡng mộ hay khinh ghét dành cho một nghệ sĩ chẳng hạn không trở thành mối bận tâm của xã hội, vì đó là biểu hiện quyền tự do và không hề dẫn tới những nhận định sai lạc về các biến cố chung đã diễn ra. 
    Sự kiện này vẫn có thể gạt qua dù Hồ Chí Minh thuộc hàng ngũ đấu tranh chính trị nhưng nằm trong số những nhân vật lịch sử đã hoàn toàn trở thành dĩ vãng. Những bạo chúa như Tần Thủy Hoàng, Neron... những lãnh tụ tàn ác như  Hitler, Staline... ngay giờ phút này vẫn có thể còn được một số người ngưỡng mộ và tiếp tục là đề tài ca ngợi của một số người cầm bút nào đó trên thế giới. Nhưng việc bày tỏ sự ngưỡng mộ những nhân vật này và sự xuất hiện các tác phẩm ca ngợi họ không thể khiến đổi ngược thực chất mọi biến cố mà họ từng tham dự. Đồng thời, dù được chiếu sáng bằng ánh hào quang nào thì họ cũng không thể vượt khỏi vai trò dấu tích của một thời đã khuất để tác động nổi vào tiến trình sinh hoạt chung của xã hội hiện nay.
    Hồ Chí Minh nằm ngoài cả hai trường hợp trên.
    Với tư cách chính trị gia, con người và hoạt động của Hồ Chí Minh gắn kết với hàng loạt biến cố có tầm mức xoay chuyển hẳn chiều hướng sinh hoạt xã hội Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua. Không thể bác bỏ dấu ấn Hồ Chí Minh trên thực tế Việt Nam kể từ đầu thập niên 1940 hay nói một cách khác, lịch sử Việt Nam từ thời điểm trên không thể tách khỏi con người và hành động của Hồ Chí Minh.
    Nhu cầu đánh giá chính xác các biến cố đương nhiên bao gồm nhu cầu đánh giá chính xác về con người và hành động của Hồ Chí Minh. Tác động hỗ tương giữa người và việc ở đây rất rõ ràng. Điều này đã lý giải sự trạng có một số đông người cầm bút trên thế giới viết về Hồ Chí Minh. Con người và tên tuổi Hồ Chí Minh chưa hẳn đủ tầm vóc khiến nổi số người trên chọn đề tài Hồ Chí Minh, nhưng mức tác động vào đời sống thế giới của vấn đề Việt Nam từ nửa thế kỷ qua đòi hỏi phải được tìm hiểu thấu đáo và trong tiến trình đánh giá các biến cố tại Việt Nam, các tác giả không thể không đánh giá về nhân vật Hồ Chí Minh.
    Tiến trình đánh giá các biến cố tại Việt Nam chưa dừng lại vì nhiều ẩn số vẫn chưa tìm được giải đáp dứt khoát. Chứng cớ cụ thể là đang hiện diện song song hai lối nhìn trái ngược về Hồ Chí Minh. 
    Cần xác định ngay rằng sự hiện diện hai lối nhìn trái ngược về riêng một con người không phải động cơ chủ yếu thúc đẩy việc tiếp tục nhận dạng Hồ Chí Minh. Nhận dạng Hồ Chí Minh hoàn toàn không cần thiết nếu nằm ngoài ý nghĩa là một đoạn đường trên con đường nhận dạng một thời kỳ lịch sử. Vấn đề được đặt ra, và bắt buộc phải đặt ra, chính là yêu cầu thẩm định chính xác về mọi biến cố tại Việt Nam, trong đó không thể bỏ qua sự thẩm định chính xác về nhân vật Hồ Chí Minh.
    Yêu cầu trên càng khẩn thiết do tính nối dài liên tục của những biến cố khởi đầu từ thập niên 1940. Cho tới nay, thực tế và tương lai Việt Nam không chỉ in hằn dấu vết những biến cố đã qua mà tiếp tục bị nhào nặn, bị khuôn nén bởi chính những biến cố đó. Nếu hình dung Việt Nam như một con thuyền thì con thuyền Việt Nam chưa ra khỏi cảnh ngộ quay cuồng giữa cơn lũ dấy lên từ hơn nửa thế kỷ qua. Điều kiện tất yếu cho nỗ lực định hướng vượt qua sóng gió để thuận mái xuôi dòng chính là sự đáp ứng đòi hỏi nhận thức chính xác về cơn lũ.
    Ngoài ra, sự hiện diện của Hồ Chí Minh trong các biến cố đang tiếp diễn tại Việt Nam là điều không thể phủ nhận. Tính tới nay, Hồ Chí Minh đã qua đời tròn 34 năm, nhưng dưới chế độ hiện nay trong nước, từng ngày từng giờ tên Hồ Chí Minh vẫn được nhắc nhở như ánh sáng soi đường cho mọi công việc và khuôn mẫu sống cho mọi lứa tuổi, từ trẻ đến già. Hồ Chí Minh không chỉ là dấu ấn trên thực tế của một thời kỳ mà tiếp tục là động cơ chi phối thực tế xã hội Việt Nam. Vì thế, việc nhận dạng Hồ Chí Minh còn vượt xa thêm khỏi ý nghĩa một đoạn đường nhận dạng các biến cố lịch sử. 
    Phải nhận dạng Hồ Chí Minh, nếu muốn đánh giá chính xác các biến cố đã và đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Và, càng phải nhận dạng Hồ Chí Minh, nếu muốn đánh giá chính xác hướng tương lai của đời sống Việt Nam dưới ảnh hưởng trùm lấp mọi phương diện sinh hoạt xã hội của ông.
    Đây là hai động cơ chủ yếu thúc đẩy sự hình thành nội dung cuốn sách này –  nhận dạng một con người đã và đang tiếp tục chi phối đời sống Việt Nam để góp phần nhận dạng một giai đoạn lịch sử, đồng thời góp phần đánh giá chính xác chiều hướng diễn biến của thực tế xã hội Việt Nam hiện nay. 
     
    *
    Qua nhận định của những tác phẩm mà chúng tôi được đọc, nhân vật Hồ Chí Minh đã được quan sát từ nhiều góc độ và được khắc họa bằng nhiều màu sắc. Chân dung nhân vật Hồ Chí Minh không chỉ là một hình tượng mà bao gồm toàn bộ khía cạnh sống của con người từ tâm tưởng, ý chí, lời lẽ, hành vi, tương quan, sự nghiệp ... thậm chí gồm cả những nét diễn tả theo huyền thoại và theo cảm xúc riêng của một số người viết.
    Tất nhiên, các góc độ quan sát khác biệt đã đưa đến những bức chân dung khác biệt và không thể có sự tương hợp hoàn toàn giữa các bức chân dung. Nhưng mức độ khác biệt dù mở lớn tới cùng cực vẫn chỉ đặt vào mọi bức chân dung hai màu sắc chủ yếu để có thể phân thành hai loại tương phản như đã nhắc ở trên.
    Lý do nào khiến xuất hiện hai loại chân dung Hồ Chí Minh tương phản như thế?  
    Bằng cách nghĩ bình thường, người ta dễ dàng cho rằng sự kiện trên chỉ do thế đứng đối nghịch của các tác giả trong tình trạng phân tranh từng diễn ra tại Việt Nam. Ngay từ tháng 8-1945, chính trường Việt Nam đã có sự đối đầu giữa những người chọn chủ nghĩa Cộng Sản làm lý tưởng và những người tham gia đấu tranh với tinh thần quốc gia yêu nước. Cuộc phân tranh kéo dài đã tác động vào hướng suy tư của nhiều người cầm bút trên thế giới và dần dần hình thành thái độ hỗ trợ phía này hoặc phía khác.
    Các tác giả thuộc phe Cộng Sản hoặc nghiêng về phe này dĩ nhiên phải ca tụng Hồ Chí Minh, phải tìm thấy ở nhân vật này mọi đức tính của một con người cao cả, một bậc anh hùng. Ngược lại, các tác giả thuộc phe đối kháng không thể nhìn nhận Hồ Chí Minh là người yêu nước vì vai trò cán bộ Quốc Tế Cộng Sản của ông ta và không ngần ngại đổ hết mọi sự tàn ác gian trá lên đầu kẻ tiêu biểu cho phe đã đánh bại mình.
    Sự thực có giản dị như vậy không?
    Đành rằng không thể phủ nhận thái độ hận thù do phe phái, nhưng không thể vì thế mà dễ dàng đẩy hết người trên khắp thế giới vào phe này hay phe kia để tùy tiện đánh giá mọi nhận định đã được phát biểu.
    Trong thực tế, bên cạnh những người cộng sản Việt Nam vốn là thủ hạ của Hồ Chí Minh cầm bút ca ngợi lãnh tụ vẫn có nhiều người cầm bút trên thế giới không hề đứng chung trận tuyến với họ có cái nhìn về Hồ Chí Minh phần nào tương hợp với họ. Đồng thời, bên cạnh những người Việt Nam thù hận Cộng Sản sẵn sàng thóa mạ Hồ Chí Minh cũng có không ít người cầm bút trên thế giới chưa từng chọn thế đứng chống đối Cộng Sản đã khắc họa Hồ Chí Minh như một tai họa đối với dân tộc Việt Nam. 
    Hơn nữa, trong số những tác phẩm xóa bỏ các huyền thoại tô vẽ cho Hồ Chí Minh và coi ông ta như một kẻ xảo quyệt, tham tàn lại có những tác phẩm mà tác giả chính là người cộng sản Việt Nam. Cũng không thể quên rằng nhiều tài liệu được các tác giả dùng làm cơ sở cho nhận định chính là tài liệu được lưu trữ hoặc công bố bởi các cơ quan hay giới chức từ Mạc Tư  Khoa và Bắc Kinh.
    Thái độ thù hận phe phái dù là một thực tế nhưng không đủ để lý giải sự nhận định trái ngược đang có về Hồ Chí Minh.
    Theo thiển kiến, nhận định trái ngược này xuất phát từ quan niệm khác nhau về lý tưởng và tiếp theo là quan niệm khác nhau về lý tưởng mà Hồ Chí Minh theo đuổi.
    Sự đánh giá cao lý tưởng cộng sản với mục đích đấu tranh giai cấp trên toàn thế giới hay đánh giá cao lý tưởng quốc gia với mục đích đấu tranh giải phóng dân tộc là nền tảng thứ nhất hình thành cái nhìn khác biệt về Hồ Chí Minh. Nền tảng thứ hai hình thành cái nhìn khác biệt là sự xác định về lý tưởng của bản thân Hồ Chí Minh. Dù Hồ Chí Minh là cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế với những nhiệm vụ rõ rệt được trao phó từ Liên Xô nhưng vẫn có người cho rằng Hồ Chí Minh không theo con đường đấu tranh giai cấp mà là một người yêu nước.
    Những nhận định khởi từ nền tảng thứ nhất có thể dễ dàng giải thích bằng thế đứng nghiêng về phía này hay phía khác và cũng dễ dàng thẩm định mức độ chân xác do dụng ý đề cao hoặc hạ thấp đối tượng. Từ nền tảng này, thế đứng của người cầm bút luôn giữ vai trò quyết định sự hình thành các nhận định được phát biểu trong khi yêu cầu khắc họa chính xác về đối tượng có thể sẵn sàng bị gạt bỏ nếu cần thiết.
    Những nhận định khởi từ nền tảng thứ hai không nằm trong vòng chi phối của các thế đứng nghiêng về phía này hay phía khác nên có thể kể là biểu hiện hoàn toàn hướng nhìn chủ quan của người cầm bút. Nhưng hướng nhìn chủ quan của bất kể cá nhân nào cũng không thoát khỏi qui luật hình thành dựa trên tác động của mọi mặt diễn hóa sự sống bao gồm từ cảnh ngộ, tâm tư riêng biệt của từng cá nhân tới khung cảnh thực tế chung của thời đại thông qua cách tiếp nhận cũng hoàn toàn riêng biệt của từng cá nhân. Một thảm cảnh chiến tranh, một hành vi tranh đấu, một lời nói dịu dàng, một giai thoại cảm động hay vóc dáng, cử chỉ của một nhân vật nào đó... luôn ghi lại dấu ấn khác nhau trong tâm tư của các đối tượng để từ đó dẫn tới những hướng nhận định không thể tương hợp. Những nhận định trái ngược từ nền tảng này rất khó khăn cho nỗ lực giải thích và thẩm định mức chân xác vì không giới hạn theo một định hướng và vô cùng phức tạp.
    Dù vậy, đối diện với những nhận định đã có về Hồ Chí Minh vẫn là bước bắt buộc phải qua để xóa những lớp mây mù che khuất một khuôn mặt thật đầy bí ẩn hầu có thể hoàn tất cái công việc nhận dạng chính xác về một nhân vật lịch sử mà nhu cầu thực tế Việt Nam đang đòi phải đáp ứng.
    Chúng tôi sẽ cố gắng xem xét tất cả những nhận định trên từ nhiều góc độ, phân tích trên cả 3 phương diện lịch sử, chiến lược sách lược và chủ thuyết với mong ước đi tới một nhận định tổng hợp thể hiện mức chính xác hơn.
    Khi dùng từ tổng hợp, chúng tôi đã nhớ tới từ ngoại ngữ synthétique hay synthetical và có thể khiến bạn đọc liên tưởng tới các từ synthèse hay synthesis vừa có nghĩa khoa học vừa có nghĩa triết học đã được biết trong quá trình biện chứng tam cấp của Hégel: Đề (thèse), Phản Đề (antithèse),Hợp Đề hay Tổng Đề (synthèse) (1).  Sự liên tưởng như vậy không có hại gì, vì trong hàng trăm tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, hoặc hàng ngàn câu nói ca tụng hay chỉ trích ông, quả tình, nói chung, có hai xu hướng trái ngược nhau, như đề với phản đề. Nếu từ đó đưa ra một nhận xét cân bằng hơn thì cũng là một thứ tổng đề hay hợp đề nào đó.
    Nghĩa khoa học của từ tổng hợp (synthèse) thì biểu hiện cụ thể bằng công việc tại các phòng thí nghiệm: phân tích (analyse, analysis)tổng hợp (synthèse, synthesis). Đem nước phân tích sẽ thành khinh khí và dưỡng khí. Đem 2 chất khí này tổng hợp theo tỷ lệ H2O sẽ có nước. Như vậy tổng hợp khác hẳn tổng cộng và càng khác với pha trộn (mélange).
    Chính trong khái niệm đó, chúng tôi chọn từ tổng hợp với ý nghĩ xác định không theo đuổi công việc pha trộn hay chỉ đúc kết, tổng cộng các nhận định đã được phát biểu về Hồ Chí Minh.
    Nhưng việc phân tích và tổng hợp khoa học luôn đòi phải có chất xúc tác thì việc nhận dạng một con người không thể thiếu nhận thức về môi trường sống của con người đó. Tác động hỗ tương giữa môi trường sống và con người không chỉ giúp xác định mức chính xác của các biến cố liên hệ đến con người mà còn giúp thấu triệt quá trình hình thành những nét đặc trưng của chính con người. Môi trường của một con người luôn thay đổi theo thời gian và con người cũng có thể liên tục thay đổi môi trường nên việc đáp ứng nhu cầu nhận thức về khía cạnh này đòi hỏi không thể rời xa những thay đổi đó.
    Một cách cụ thể, để nhận dạng Hồ Chí Minh, bắt buộc phải nhìn lại những môi trường sống của ông khi còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung tự Cuông hay Coong hay Bé Con, khi mang tên Nguyễn Tất Thành để đến trường cho tới lúc xuất dương, khi mang tên Ba ở trên tàu biển, khi mang tên Nguyễn Ái Quốc ở Pháp chung với các nhà cách mạng Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh (và có thể cả Phan Châu Trinh), khi một mình mang cái tên đó, khi lấy tên Lý Thụy, Vương, Tống Văn Sơ,  Hồ Quang... ở Trung Hoa và ở Xiêm, khi chọn cái tên cuối cùng Hồ Chí Minh “để ghi nhớ không nguôi người vợ Trung Hoa Tăng Tuyết Minh”, một nữ hộ sinh Kitô giáo, một đảng viên cộng sản trung kiên và một người chung tình.(**) 
    Tất nhiên khi nhận dạng một nhân vật đấu tranh, những ghi nhận về môi trường sống không thể khuôn hạn trong thực trạng sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa mà bắt buộc phải mở rộng qua phạm vi chính trị với những ghi nhận chính xác về các biến cố, các lực lượng cùng các chủ thuyết, các chiến lược sách lược đấu tranh... Thiếu những ghi nhận trên, bức tường trở ngại sẽ trở thành bất khả vượt với độ cao vòi vọi.
    Bởi vì, bằng cách nào để nhận dạng nhân vật Hồ Chí Minh khi không thấu hiểu về chủ nghĩa cộng sản, không thấu hiểu về chiến lược sách lược của tổ chức Đệ Tam Quốc Tế (cụ thể là Liên Xô), không thấu hiểu về cách thức Cộng Sản thu dụng, đào tạo Hồ Chí Minh cùng nhiệm vụ ông đã nhận lãnh? Và bằng cách nào để nhận dạng Hồ Chí Minh, khi không thấu hiểu về tổ chức Đảng và Chính Phủ do ông lãnh đạo, không thấu hiểu về chủ trương đường lối của ông trong cuộc chiến Việt Nam, không thấu hiểu về cái chế độ mà ông đã để lại như một di sản?
    Ý thức về yêu cầu đó khiến chúng tôi hiểu rằng dù chọn từ tổng hợp để định danh cho công việc của mình, giới hạn hiểu biết của chúng tôi khó cho phép chúng tôi vượt qua mức độ chỉ góp phần cho nỗ lực tiến tới một nhận định tổng hợp về Hồ Chí Minh.
     
    *
    Về suy luận, chúng tôi phối hợp phương pháp cổ điển giản đơn của Aristote (384–322 B.C) từng phổ cập bởi các triết gia lớn như Saint Thomas Aquinas (1225-1274), René Descartes (1596-1650)... với biện chứng pháp của Friedrich Hégel (1770-1831), duy vật biện chứng của Karl Marx (1818-1883), suy diễn theo cả diễn dịch pháp (deduction) lẫn quy nạp pháp (induction), vừa khởi từ các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết để đi tới những sự kiện cụ thể, vừa đi ngược từ những sự kiện cụ thể trở về các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết. Nói một cách nôm na, xét cây để hiểu quả, và ngược lại, xem quả để biết cây.
    Đây là một con đường gập ghềnh, nhưng chúng tôi không còn chọn lựa nào khác để có thể đạt kết quả tương đối hợp với mong mỏi.
    Chúng tôi hy vọng phương pháp này sẽ giúp vượt khỏi khuyết điểm võ đoán rất thường xẩy ra với tất cả mọi người để góp phần tích cực vào công việc loại bỏ những đám mây mù cho tới lúc này vẫn không ngừng che phủ nhân vật Hồ Chí Minh và vì thế vẫn tiếp tục ngăn trở mọi nỗ lực đánh giá chính xác về thực tế lịch sử Việt Nam nửa thế kỷ qua. Nhưng chúng tôi đạt được mức độ nào trong công việc vẫn là vấn đề của thực tế và hoàn toàn theo sự lượng định của bạn đọc.
     
    *
    Nội dung sách được chia làm 3 phần.
    Phần I và II giới thiệu và phân tích sơ lược về những tác phẩm viết về đề tài Hồ Chí Minh đã xuất bản, gồm 2 loại: Loại tiểu sử loại nhận định.
    Mỗi loại này đều được chia thành 2 theo phân loại tác giả:
    – 1. Tác giả ngoại quốc
    – 2. Tác giả Việt Nam.
    Những tác phẩm được giới thiệu hầu hết đều trên dưới 500 trang với nội dung đa dạng và phức tạp. Do đó, chúng tôi chỉ tóm tắt những ý kiến trực tiếp liên hệ đến nhân vật Hồ Chí Minh hoặc giúp tìm hiểu bối cảnh sống của Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên cuộc chiến Việt Nam, đảng CSVN, Quốc Tế CS, chủ nghĩa CS, chiến lược chiến thuật CS ... đều là những bối cảnh cần lưu ý. Việc chọn lọc và trưng dẫn ý kiến của các tác giả tùy theo nhu cầu của đề tài và mục đích của cuốn sách. Có những ý chúng tôi trưng dẫn nhiều lần có thể do được nhiều tác giả cùng lập lại, có thể do muốn nhấn mạnh sự tương đồng hay dị biệt giữa các tác giả và cũng có thể do dụng ý để độc giả tự giải thích lý do tại sao đã có sự đồng ý hoặc bất đồng về một vấn đề nào đó.
    Khi chọn giới thiệu các tác phẩm, chúng tôi không đặt nặng vấn đề xu hướng chính trị mà trước tiên dựa vào tầm vóc nội dung và mức độ đóng góp cho vấn đề nhận dạng Hồ Chí Minh. Tuy vậy nếu xét về xu hướng đối nghịch của các tác giả được giới thiệu, chúng tôi vẫn giữ được mức tỷ lệ tương đối cân bằng. Thực ra, ngoài các tác giả đứng hẳn về một phe rõ rệt, thái độ chính trị của các tác giả, dù có thể gọi là đối nghịch, vẫn rất đa dạng thay đổi từ cực tả sang cực hữu hoặc ngược lại với nhiều sắc thái khác nhau.
    Chúng tôi cũng không gạt bỏ một số tác giả thực sự là thủ hạ của Hồ Chí Minh hoặc một số tác giả chống đối không che dấu thái độ hằn học với ông Hồ, dù sự việc này có thể khiến những nhà nghiên cứu không đồng ý vì phải đối diện với thái độ tôn sùng quá độ hoặc những từ ngữ thiếu tao nhã. Theo chúng tôi, thái độ tôn sùng mù quáng của thủ hạ cũng có thể phản ảnh phần nào tính cách của nhân vật trong khi giữa thảm họa chết chóc, đau thương xẩy ra với hàng chục triệu sinh linh, tiếng nói của các nạn nhân hay nhân chứng từng trải những cảnh tàn bạo khủng khiếp, biểu hiện sự phẫn nộ và lòng đau xót cũng có một giá trị đóng góp tích cực cho công việc nhận dạng nhân vật có cuộc đời gắn liền với sự trạng đó.
    Trong Phần III, chúng tôi chắt lọc một số ý kiến khác nhau cùng những dữ kiện đa dạng mà các tác giả cung cấp đã được giới thiệu nơi phần I và II để tìm lời giải thích cho mọi vấn đề liên quan đến nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh Việt Nam theo hướng góp phần giúp độc giả đánh giá một cách tổng hợp về nhân vật này.
    Ý kiến của các tác giả rất phức tạp, vừa trái ngược gay gắt vừa bao gồm từ cực tả sang cực hữu vừa mở rộng liên quan đến rất nhiều vấn đề.
    Trong nỗ lực của mình, chúng tôi đã tập trung các ý kiến đó trong một số điểm chủ yếu thường gây tranh cãi như sau:
    – Hồ Chí Minh là quốc gia hay cộng sản?
    – Hồ Chí Minh đã có thể là một Tito Việt Nam?
    – Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm về việc bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu, về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, về cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, về vụ Tết Mậu Thân...?
    – Hồ Chí Minh là người có lòng nhân ái hay chỉ khéo đóng kịch?
    – Hồ Chí Minh đã bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ lấn át kiềm chế nên gây ra cuộc chiến đẫm máu sau 1954?
    – Nếu Hồ Chí Minh còn sống đến 1975, tình hình Việt Nam đã tốt đẹp hơn?...
    Những vấn đề nêu trên sẽ được lý giải trong các chương của Phần III.
      
    CHÚ THÍCH:
    __________________________
     
    (01) Về sau Karl Marx, học trò của Hégel, cho là duy tâm nên đã biến chế ra một quá trình "tam cấp" khác của biện chứng pháp duy vật: Quyết thể (affirmation), Hủy thể (négation) và Hủy thể của hủy thể (négation de la négation). Hay Khẳng Định, Phủ Định và Phủ Định của Phủ Định.
    (02)  Theo tác giả Trung Cộng Hoàng Tranh cho biết năm 2001
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 14:07:21 bởi silverbullet >
    #2
      silverbullet 08.05.2007 13:58:13 (permalink)
       
      * Chương 01 *
      WILLIAM J. DUIKER
      và  Ho Chi Minh, a  life
       
      Tuần báo Far Eastern Economic Review – Kinh Tế Viễn Đông số ra ngày 8-8-2002 bị hạn chế phổ biến tại Hànội vì đăng một bài có tựa đề Các nhà kiểm duyệt bàn cãi về tiểu sử ông Hồ. Sự việc này đã dẫn tới lời qua tiếng lại giữa hãng thông tấn Reuters và phát ngôn viên ngoại giao Phan Thúy Thanh của Hà Nội. Chung quy chỉ vì tác phẩm Ho Chi Minh, a life (1) của William J. Duiker mà một số người tại Hà Nội có ý định dịch ra tiếng Việt.
      Ngoài lời tán tụng của một số sử gia Mỹ nổi tiếng như Douglas Pike, Marilyn Young, tờ Washington Post đã nhận định tác phẩm của William J. Duiker “có lẽ đầy đủ và có uy tín nhất từ trước đến nay” trong các sách nói về Hồ Chí Minh. Stanley Karnow, nhà báo lão thành trở thành sử gia tên tuổi với cuốn Vietnam, a history cũng viết “Người ta đã viết nhiều về Hồ Chí Minh, nhưng chưa có cuốn nào bằng (equals) cuốn của W. J. Duiker”. Chữ bằng ở đây có thể được hiểu theo nhiều nghĩa: Hay, hấp dẫn, nhiều chi tiết mới hoặc nhiều trang nhất. Quả tình cho tới nay chưa có cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh nào nhiều trang như cuốn này: 700 trang khổ lớn.
      Để hoàn thành tác phẩm, Duiker đã dành 20 năm cho việc đọc và gặp gỡ những tác giả đi trước, những nhân chứng, những người cầm bút ở Mỹ, Úc, Âu châu, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản... Ông nêu ra hàng loạt tên tuổi, trong đó phần lớn là viên chức các cơ quan tại Hà Nội như Viện Mác Lênin, Viện Sử Học, Đại Học Hà Nội và những nhân vật Cộng Sản Việt Nam mà ông gọi là các học giả và nhà nghiên cứu thường quan tâm tới Hồ Chí Minh hay tới cuộc cách mạng Việt Nam. Một số người còn được ông nêu đích danh như Nguyễn Huy Hoàn ở Viện Bảo Tàng Hồ Chí Minh, Trần Thanh, bốn nhà sử học Phùng Hữu Phu, Lê Mậu Hân, Phạm Xanh, Phạm Công Tùng cùng các nhân vật Hà Huy Giáp, Đặng Xuân Kỳ, Đỗ Quang Hưng, Ngô Phương Ba, Văn Tạo, Trần Hữu Đính, kể cả Lưu Doãn Huỳnh thuộc Viện Liên Lạc Quốc Tế của Cộng Sản Việt Nam ....
      Cuối lời Tựa, tác giả "tha thiết mãi mãi cám ơn Yvonne (2) tỏ ra kiên nhẫn chịu đựng ông Hồ, người đã trở thành gần như một thành viên của gia đình"…
      Những lời trên cho thấy tác giả chẳng những sống với nhân vật của mình mà còn lôi cuốn cả vợ con chia xẻ tình cảm của mình đối với ông Hồ. Rõ ràng phải cảm phục ông Hồ lắm, tác giả mới có thể kết thúc tác phẩm như sau: “Bất kể cuối cùng người đời phán xét về di sản của ông để lại cho dân tộc mình ra sao, ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ” (3).
      Duiker trách nhà cầm quyền Paris và Washington “đã bỏ lỡ cơ hội không nắm tay Hồ Chí Minh khi ông này giơ tay cho họ bắt, để đến nỗi đem lại hậu quả thảm khốc cho nhân dân Việt Nam và cho cả thế giới.” (4) Theo Duiker, chính tổng thống Truman chịu phần lớn trách nhiệm về tình hình Việt Nam do hành vi năm 1945 bác bỏ lá thư của Hồ Chí Minh xin Hoa Kỳ ủng hộ khi ông mới chân ướt chân ráo về nước. Tác giả nhìn lại thời điểm này qua tường trình, báo cáo của mấy nhân vật trung cấp Hoa Kỳ có dịp tiếp xúc với Hồ Chí Minh những năm 1945-46 như Archimedes Patti, Charles Fenn vốn là những người ngay thẳng, không có kinh nghiệm về cung cách ứng xử của ông Hồ.
      Thực ra, cũng khó quyết đoán là Duiker quá tin ở những tài liệu trên để nghĩ như thế hay ông đã dùng những tài liệu trên như điểm tựa cho ý nghĩ vốn có của mình mà người đọc có thể lượng trước qua sự cảm phục đối với nhân vật Hồ Chí Minh. 
      Khi xây dựng tác phẩm, Duiker đã được tài trợ để qua Việt Nam, qua Liên Xô thu góp tài liệu, đồng thời lại có sẵn tài liệu của nhiều tác giả đi trước. Khối tài liệu mà ông sử dụng hết sức dồi dào và đa dạng vì bao gồm từ tài liệu chính thống tới  tài liệu đả phá do ông tham khảo ở một vài tác giả chống Cộng. Khi phân tích tài liệu, Duiker luôn tỏ ra vô tư bằng cách nêu lên nhiều giả thuyết trái ngược, nhưng phần lớn kết luận của ông bao giờ cũng ngả theo tài liệu chính thống trước các nghi vấn đang gây tranh cãi.
      Chẳng hạn trong nghi vấn về vụ nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt, Duiker đưa ra rất nhiều lời biện bạch để cho rằng chính Nguyễn Thượng Huyền, một người thân tín của cụ Phan, đã báo cho Pháp bắt cụ Phan chứ không phải Lâm Đức Thụ là kẻ cộng tác mật thiết với Hồ Chí Minh như sử gia Phạm Văn Sơn hay tác giả Hoàng Văn Chí và nhiều tác giả khác đã viết. Riêng tác giả Việt Thường, một nhà báo cộng sản hoạt động cho đến 1976 tại miền Bắc đã quả quyết người âm mưu bán đứng cụ Phan chính là Hồ Chí Minh. Khi nói về nghi vấn này, Duiker cũng không nhắc tới cái chết của Lâm Đức Thụ mà theo một số tác giả là do Hồ Chí Minh chủ trương để giữ bí mật việc ông ta có dính vào vụ báo cho Pháp bắt cụ Phan, mặc dù Duiker từng nhắc tới mối liên hệ khăng khít giữa Lâm Đức Thụ và Hồ Chí Minh (5).
       Karnow khen Duiker đã giải mật (demystifies) về nhân vật Hồ Chí Minh, làm cho các huyền thoại, các bí ẩn được sáng tỏ. Nhưng chính Duiker lại viết ở cuối đoạn mở đầu: "Ngồi trên tòa cao của đền thánh dành cho các anh hùng cách mạng, Hồ Chí Minh hẳn sẽ thích thú biết rằng, ít nhất qua cuốn tiểu sử này, cái dáng dấp huyền bí bao quanh ông vẫn còn nguyên vẹn (remains intact)." (6)
      Có thể hiểu đó là lời thú nhận sự bất lực trong việc giải tỏa các nghi vấn về tiểu sử Hồ Chí Minh và cũng có thể hiểu đó lời khẳng định thái độ tôn trọng đối với nhân vật nên cố ý giữ sự nguyên vẹn cho những huyền thoại đã có. Theo dõi những trang sách, người đọc khó bác bỏ cách hiểu thứ hai qua nhiều trường hợp lãng quên của tác giả trước một số sự việc.
      Ở đoạn viết về tương quan giữa Hồ Chí Minh với Mikail Borodin, Duiker lập lại nguyên vẹn tài liệu của Hồng Hà (7) với nhiều chi tiết hơn từ việc hai người ở chung tại khách sạn Lux Mạc Tư Khoa tháng 12-1923 và thường trò chuyện với nhau bằng tiếng Anh tới việc được cử sang Trung Hoa với tư cách phụ tá và thông dịch cho Borodin lúc đó là Trưởng Phái Bộ Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Quảng Đông và cuối cùng cũng kết luận y hệt Hồng Hà:“Chỉ riêng vợ chồng Borodin biết căn cước thực của ông” (8).
      Nhưng chính Hồ Chí Minh dưới bút hiệu Trần Dân Tiên đã kể khác hẳn về tương quan với Borodin. Ông Hồ kể rằng lúc đó ông qua Trung Quốc để tìm đường về nước với mục đích truyền bá lý tưởng bình đẳng, tự do, bác ái học được ở Pháp. Tại Trung Quốc, ông phải đi bán báo và thuốc lá để kiếm sống nên nhân đó mới đọc thấy lời quảng cáo tìm thông ngôn và đã đến xin việc với Borodin. Trần Dân Tiên là một trong 5 bút hiệu của Hồ Chí Minh nên lời kể trên chính là lời tự kể. Duiker đã tới Việt Nam sưu tầm đủ loại tài liệu về Hồ Chí Minh chắc chắn không thể bỏ qua tập tự truyện của Hồ Chí Minh. Tuy vậy, Duiker coi như không hề có cuốn sách của Trần Dân Tiên (9).  Tại sao?
      Có thể cho rằng Duiker đã gạt cuốn sách sang bên chỉ đơn giản là do thấy những lời kể trong đó sai với sự thực chăng? Cách giải thích này e khó hợp lý khi lời kể sai sự thực kia chính là lời tự kể của nhân vật đang được nhận dạng. Hơn nữa, mỗi lời kể sai về sự thực bản thân của bất kỳ ai đều phải có hậu ý và trong trường hợp Hồ Chí Minh, hậu ý đó không thể dễ dàng bỏ qua, nhất là đối với một sử gia đang làm công việc tìm hiểu về con người và cuộc sống của chính Hồ Chí Minh.
      Nghi vấn thứ nhất cần được giải đáp là lý do khiến Hồ Chí Minh kể sai như thế. Hồ Chí Minh chỉ muốn vẽ ra một cảnh gian khổ để tự đề cao hay muốn che giấu vai trò đảng viên Cộng Sản Quốc Tế ? Ý nghĩa của dụng ý đề cao hoặc che giấu đó là gì?
      Nghi vấn thứ hai là công việc thực sự của Hồ Chí Minh lúc đó tại Trung Hoa. Hồ Chí Minh là phụ tá cho Borodin với nhiệm vụ phát triển ảnh hưởng Đệ Tam Quốc Tế qua Trung Hoa và  Đông Nam Á hay đúng như Hồ Chí Minh kể là chỉ muốn đem tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái của Cách Mạng Dân Quyền Pháp về truyền bá tại Việt Nam? Ngay cả khi tin tưởng tuyệt đối các tài liệu của Liên Xô và tác phẩm của Hồng Hà cũng không thể không xét đến lời kể của chính Hồ Chí Minh dù đã được ông che giấu dưới một cái tên khác.
      Nghi vấn thứ ba nằm trong thời điểm Hồ Chí Minh đưa ra lời kể trên. Đó là năm 1948, sau khi xuất hiện ý hướng xoay chiều của người Pháp trong cuộc chiến Việt Nam và vấn đề chống Cộng đã được đặt lại trong dư luận ở nhiều nơi, kể cả vùng Pháp chiếm đóng lẫn vùng kháng chiến. Tình thế lúc đó đã dẫn tới việc Hồ Chí Minh phải che mờ các khuôn mặt cộng sản quá khích như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng ... bằng tấm màn cải tổ chính phủ hồi tháng 7-1947 với sự trình diện một số nhân vật tên tuổi cũ hoặc không lộ rõ màu sắc cộng sản như Phan Kế Toại, Tạ Quang Bửu, Hoàng Minh Giám ... Cuốn sách của Hồ Chí Minh có tương quan với tình hình trên không và ý nghĩa tương quan đó ra sao?  Trong khuôn khổ nghi vấn này cũng không thể bỏ qua tiết lộ của Pierre Brocheux, tác giả cuốn Ho Chi Minh, cho biết ngay từ đầu năm 1948, Hồ Chí Minh đã có bản dịch tiếng Pháp của cuốn sách và trao cho một nhân viên Cộng Sản Việt Nam tại Miến Điện để dịch ra tiếng Anh cùng các thứ tiếng khác. Như vậy, khi nhận dạng Hồ Chí Minh, không thể bỏ qua cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch do mức độ quan trọng của cuốn sách theo đánh giá của chính ông ta.
      Ngoài những nghi vấn về hậu ý khi viết sách, sự hiện diện của cuốn sách cũng là một nghi vấn cần xét về nhân cách của người viết. Một người viết hồi ký kể sai về một sự việc luôn bị nhìn là kẻ bất khả tín thì một người cố tình giấu mặt để tô vẽ mình bằng những huyền thoại tự tạo chứng minh mình có một cuộc sống vô cùng thánh thiện, mình đã được toàn dân tôn xưng là anh hùng cứu nước, được toàn dân coi là cha già dân tộc cần nhận dạng ra sao?
      Có lẽ lời giải thích hợp lý nhất về việc Duiker bỏ qua cuốn sách kia chỉ có thể dựa trên phát biểu của chính tác giả là ít nhất qua cuốn tiểu sử của tác giả, cái dáng dấp huyền bí bao quanh ông vẫn còn nguyên vẹn.
      Duiker không muốn phá vỡ các huyền thoại mà Hồ Chí Minh đã tự dựng lên về mình nên mới coi như không có cuốn sách. Bởi vì, nếu đưa cuốn sách ra mổ xẻ để đối chiếu với thực tế, hoặc chỉ để đối chiếu với một số tài liệu khác, thì hình ảnh thực của Hồ Chí Minh khó có thể giúp ông Hồ chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ như lời diễn tả của Duiker.
      Thực ra, Duiker không chỉ tránh va chạm tới các huyền thoại xuất phát từ lời kể của chính Hồ Chí Minh mà còn góp thêm một số huyền thoại qua cuốn sách dày cộm của mình. 
      Khi nói về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh, Duiker viết: "Mẹ Cung (Hồ) cũng có chút ít kiến thức văn chương Việt Nam và thường ru con ngủ bằng hát ca dao hay ngâm những vần thơ trích trong truyện Kiều cổ điển, một truyện tình thương tâm của cặp tình nhân vướng vào mạng lưới luân lý cổ truyền.”
      Nói về bà của Hồ Chí Minh, Duiker viết: "Đến đêm, bà của Cung, trước khi đặt cháu lên võng thường đọc cho bé nghe về chuyện những bậc anh hùng. Cung thông minh và tò mò nên nhanh chóng hấp thụ kiến thức”. (10)
      Duiker còn kể chuyện ông Cử Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh, đã từ chối không nhận tiệc khao để đem phân phát thịt trâu cho dân nghèo và thường kể cho con nghe về những thần thoại, những bậc anh hùng Việt Nam trong quá khứ. (11)
      Tác giả cũng đưa cả ông thợ rèn hàng xóm ra để chứng tỏ cậu bé Cung đã được tiêm nhiễm tinh thần dân tộc từ nhỏ như thế nào. Qua sự diễn tả của tác giả, ông thợ rèn này đã kể cho Cung nghe về mọi chuyện tranh đấu trong lịch sử Việt Nam từ chuyện Lê Lợi, chuyện Mai Thúc Loan, chuyện Phan Đình Phùng tới phong trào Cần Vương... (12)
      Điểm tựa cho sự bác bỏ hay nhìn nhận những diễn tả trên hết sức mơ hồ kể cả trong trường hợp tác giả nêu nổi bằng chứng cụ thể cho cái nếp sinh hoạt thơ ấu của cậu bé Cung là như thế và ông thợ rèn hàng xóm là một người rất thông hiểu về lịch sử Việt Nam. Vì ngay trong trường hợp này vẫn không có gì xác nhận cậu bé đã được ru ngủ bằng những vần thơ Kiều, được nghe kể mọi chuyện về Lê Lợi, về Mai Thúc Loan ... và xác nhận cậu bé đã nhanh chóng hấp thụ kiến thức. Dù muốn dù không, vẫn phải nhìn nhận diễn tả trên chỉ phản ảnh quan niệm quen thuộc về ảnh hưởng tác động vào xu hướng tinh thần của con người để dựa trên bối cảnh chung của xã hội nông thôn Việt Nam cuối thế kỷ 19 mường tượng ra vài cảnh sống coi như tiêu biểu của nhân vật. Nói một cách khác, tính chất tưởng tượng đã thay thế tính chất sử liệu trong diễn tả này.
      Nhưng, chuyện mẹ ru con ngủ bằng ca dao và truyện Kiều, chuyện bà kể cho cháu nghe về các anh hùng dân tộc, chuyện bố cõng con trên đường vừa đi vừa kể về các thần thoại và các nhân vật lịch sử Việt Nam, chuyện ông thợ rèn hàng xóm hun đúc lòng yêu nước của cậu bé bằng sự nhắc lại những cuộc khởi nghĩa, những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vv… lại được Duiker gom thành tiền đề cho lời xác quyết về nhiệt tình yêu nước của Nguyễn Tất Thành khi Thành lên đường vào mùa hè 1911 để ra đi tìm phương cứu nước.(13)
      Và, để giữ vững xác quyết này, Duiker đã đưa ra một giải thích hoàn toàn chủ quan trước nghi vấn đang được đặt ra về lá đơn đề ngày 15-9-1911 của Hồ Chí Minh xin được nhập học trường thuộc địa như một học sinh nội trú với mong mỏi sẽ trở nên hữu ích cho nước Pháp ... Nhiều tác giả coi lá đơn này như chứng cớ cho thấy Hồ Chí Minh không hề nghĩ đến chuyện đấu tranh vào lúc đó nhưng Duiker quả quyết ý định thực sự của Nguyễn Tất Thành khi viết lá đơn trước hết là để giấu kín ý đồ cứu nước của mình và kế đó chỉ là để có cơ hội học hỏi thêm (14). Nếu sự việc chỉ đơn giản như vậy và còn biểu hiện tính thận trọng, tính cầu tiến rất đáng nêu gương cho giới trẻ thì tại sao Hồ Chí Minh giấu kín việc viết lá đơn và đảng Cộng Sản Việt Nam cũng coi như không có lá đơn, kể cả khi được lôi ra khỏi Thư Khố Paris đầu thập niên 1980?
      Theo Duiker, ngoài nhiệt tâm yêu nước, Hồ Chí Minh còn có một nhãn quan chính trị rất sắc bén mà chứng cớ cụ thể là đã chê nhà cách mạng Phan Bội Châu, không thèm nhận lời mời tham gia phong trào Đông Du từ trước khi cụ Phan xuất ngoại, năm 1904. (15) Giả dụ lời mời được đưa ra vào năm 1904 thì lúc đó Hồ Chí Minh đang là nhân vật như thế nào? Tiểu sử Hồ Chí Minh ghi ông sinh năm 1890, giấy tờ hộ tịch tại làng Kim Liên ghi Hồ Chí Minh sinh năm 1894, còn thông hành của ông khi từ Pháp qua Nga ghi sinh năm 1895. Vậy năm 1904, Hồ Chí Minh chỉ là cậu bé mới 9 tuổi hoặc tối đa 14 tuổi. Một cậu bé ở cỡ tuổi đó đã có đức tính gì và đóng góp gì để nhận được lời mời tham gia cách mạng và có thể tin nổi rằng cậu bé đó đủ nhận thức bác bỏ đường lối hoạt động của một phong trào đấu tranh chăng?
      Thực ra, câu trả lời nằm sẵn ở ngay cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Trong cuốn sách này, Hồ Chí Minh đã viết “ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công Hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng”. Lời mô tả này nhắm cho thời kỳ trước khi Hồ Chí Minh qua Mỹ tức là thời gian mà Hồ Chí Minh đã ngoài 20 tuổi. Một chàng trai ngoài 20 tuổi vẫn chưa biết thế nào là chính đảng, thế nào là bãi công có thể là hậu thân của cậu bé chỉ mới trên dưới 10 tuổi đã biết phán xét, và phán xét sắc bén, đường lối đấu tranh của những nhà cách mạng tiền bối chăng? Nếu không muốn nhìn tới cuốn sách của Hồ Chí Minh thì Duiker vẫn không thể không biết một câu tương tự do chính mình đã trích dẫn là Hồ Chí Minh sau này đã nói với nhà báo Mỹ Anna Louise Strong rằng cho tới khi viếng thăm Hoa Kỳ khoảng 1913, ông chẳng biết gì về chính trị (16).
      Sự mâu thuẫn và bỏ sót rõ rệt nhất của Duiker còn nhiều hơn trong những trang nói về cuộc sống tình cảm riêng của Hồ Chí Minh. Về khía cạnh này, Duiker có khá nhiều tài liệu nhưng có vẻ không lưu tâm. Duiker nhắc tên một loạt các người vợ, người tình của Hồ Chí Minh như Nguyễn Thị Minh Khai, Tăng Tuyết Minh, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân, Nguyễn Thị Phương Mai... một cô ở Pháp, vài cô ở Nga và cả chuyện ông Hồ nhờ một cán bộ cao cấp Trung Cộng giới thiệu cho một cô gái trẻ để hưởng tuổi già ... theo lối nhìn dành cho những chi tiết lặt vặt và vui vui trong đời một lãnh tụ. Có thể đây là lối nhìn mà chính Duiker đã có nhưng cũng có thể đây là chủ đích định hướng nhận dạng đối tượng mà tác giả muốn có nơi người đọc. Dù thuộc trường hợp nào, cách diễn tả của Duiker cũng bị vướng mắc khá nhiều.
      Chỉ qua trường hợp Nguyễn Thị Minh Khai đã thấy rõ vướng mắc đó. Duiker tỏ ra có khá nhiều tài liệu. Duiker biết Nguyễn Thị Minh Khai là chị của Nguyễn Thị Minh Giang, vợ Võ Nguyên Giáp. Duiker biết liên hệ tình cảm giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai là bí ẩn rắc rối nhất trong đời ông Hồ. Duiker biết bút hiệu T.Lan chính là viết tắt tên Trần Thái Lan, một tên khác của Nguyễn Thị Minh Khai. Nhưng Duiker không nhắc tới chi tiết cuộc tình bí ẩn này mà chỉ đưa ra những danh xưng rất dễ gây lúng túng cho người đọc. Chẳng hạn khi Duiker gọi Minh Khai là “vợ Quốc”, khi gọi là “vợ cũ”, khi gọi là “vợ Lê Hồng Phong” và Duiker còn ghi rõ Lê Hồng Phong chính thức kết hôn với Minh Khai tại Liên Xô (17).
      Sự việc này cho thấy Duiker đã coi nhẹ vấn đề tới mức không lưu tâm tới các nghi vấn về tương quan giữa Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai hoặc chỉ dựa theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam (18) để giữ vẹn màu sắc thần thánh cho Hồ Chí Minh. Trong trường hợp sau, việc ông dùng danh xưng “vợ cũ của Quốc” để gọi Nguyễn Thị Minh Khai không hẳn là do cẩu thả mà chính là cố ý tạo sẵn lời giải thích cho bất kỳ thắc mắc nào có thể nẩy ra về cuộc tình bí ẩn trên. Người thắc mắc sẽ tự tìm cho mình lời giải thích rằng Nguyễn Thị Minh Khai là “vợ cũ” của Hồ Chí Minh vì đã chia tay với nhau, sau đó mới trở thành vợ Lê Hồng Phong. Cách giải thích này có thể giúp thay đổi hẳn cái nhìn về phẩm cách của Hồ Chí Minh so với  tình tiết thực của mối tình tay ba qua ghi nhận của nhiều tác giả mà Duiker đã bỏ qua. 
      Theo những tình tiết này thì Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai từng hứa hôn từ khi qua Trung Quốc làm việc tại Đông Phương Bộ Quốc Tế Cộng Sản năm 1930. Năm 1931, Minh Khai bị mật thám Pháp bắt giữ cho tới năm 1934 mới được thả. Đây là lúc Lê Hồng Phong và Minh Khai được chọn làm đại biểu tham dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 7 tại Mạc Tư Khoa. Lê Hồng Phong lên đường trước, còn Minh Khai ở lại thụ huấn với Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho việc tham gia Đại Hội. Thời gian ngắn ngủi này dẫn tới việc Minh Khai có thai với Hồ Chí Minh và khi hai người tới Mạc Tư Khoa đã có sự can thiệp của tổ chức Đảng ở đây để Hồ Chí Minh và Minh Khai chính thức thành hôn. Do đó mới có nghi vấn về bản giá thú của Hồ Chí Minh với Minh Khai lưu trữ tại Văn Khố Mật Liên Xô
      Theo bộ sách 10 tập của Cộng Sản Việt Nam, Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, thì 3 đại biểu của Đông Phương Bộ Quốc Tế Cộng Sản tham gia Đại Hội Quốc Tế Thanh Niên lần 6 khai mạc tại trụ sở công đoàn Liên Xô, Mạc Tư Khoa ngày 25-9-1935 là Hồ Chí Minh, Minh Khai và Tú Hưu (tức Hoàng Văn Nọn). Tài liệu ghi rõ tên trong Đảng của Hồ Chí Minh lúc đó là Teng Man Huon, còn tên trong Đại Hội là Lin. Không có tài liệu nào của Cộng Sản nói về sự có mặt của Lê Hồng Phong bên cạnh Hồ Chí Minh hay Nguyễn Thị Minh Khai tại Nga vào thời gian này. Khi Nguyễn Thị Minh Khai về nước năm 1936, Hồ Chí Minh cũng xin về nhưng chuyến đi bị hủy bỏ nên mãi cuối năm 1938, Hồ Chí Minh mới về tới Quế Lâm, làm việc tại Văn Phòng Bát Lộ Quân dưới cái tên mới là Hồ Quang, cấp bậc Thiếu Tá.
      Không có tài liệu nào cho biết thêm về tương quan giữa Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai, ngoài những tài liệu của Đảng nói về việc Nguyễn Thị Minh Khai có một người con gái và nói đó là con của Lê Hồng Phong. Lê Hồng Phong bị bắt năm 1938 tại Chợ Lớn sau khi chia tay với Hồ Chí Minh tại Hong Kong để về nước. Cuộc gặp gỡ giữa Lê Hồng Phong và Hồ Chí Minh diễn ra hết sức bí mật nên việc bị bắt của Lê Hồng Phong cũng thành một nghi vấn là có thể do bàn tay hãm hại của ông Hồ vì ông vẫn biết Lê Hồng Phong chưa nguôi thù hận về câu chuyện tình với Minh Khai nên ra tay trừ khử. 
      Duiker có ghi Hà Huy Tập, một đảng viên cùng đợt với Lê Hồng Phong, từng tố cáo với Quốc Tế Cộng Sản về việc Hồ Chí Minh đã gây ra tai họa cả trăm đảng viên bị sát hại. (19) Tuy nhiên, Duiker không đả động tới nghi vấn về vụ bị bắt của Lê Hồng Phong, dù chỉ đề cập để bác bỏ.
      Thực ra, Duiker bỏ qua rất nhiều nghi vấn và sự việc trong cuộc đời tình cảm của Hồ Chí Minh bằng lối kể lửng lơ. Qua cuốn sách của Duiker, người đọc không hiểu diễn biến cuộc sống vợ chồng của Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh ra sao, không nắm vững hết tương quan tình cảm giữa Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai thế nào, không biết gì về cái kết cục bi thảm dành cho Nông Thị Xuân cùng số phận tất cả những người tình khác...Dường như Duiker chỉ đề cập tới khía cạnh này để chứng tỏ đã đọc nhiều, biết nhiều và nhất là không thể tránh né để chứng tỏ cái nhìn vô tư của một sử gia. Duiker đã chọn một cách đề cập có cân nhắc để không gây tác hại cho cái nhìn vốn có của mình dành cho nhân vật được ngưỡng mộ. Dù vậy việc phổ biến cuốn sách bằng tiếng Việt vẫn gặp rắc rối vào tháng 8-2002 như đã ghi ở đầu chương.
      Nhưng ngay những người ngăn cản việc phổ biến tác phẩm của Duiker tại Hà Nội chắc chắn cũng phải nhìn nhận Duiker đã góp phần rất tích cực cho việc đánh giá cao tinh thần yêu nước và tài ngoại giao của Hồ Chí Minh. Tương tự một số tác giả khác có cảm tình với Hồ Chí Minh, Duiker xác quyết ông Hồ là người yêu nước thương dân, người hiền hậu khoan dung và những tàn hại mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu đều do thủ hạ lộng quyền, tiêu biểu là nhóm Lê Duẩn, gây ra.
      Theo Duiker, Lê Duẩn không chấp nhận đường lối ôn hòa được Liên Xô cổ võ giữa thập niên 1950 và đã được ghi vào nghị quyết của Đảng, vì Duẩn tin theo chủ thuyết Mao Trạch Đông, chủ trương thống nhất đất nước bằng bạo lực là điều mà Hồ Chí Minh không tán thành. Duiker không trưng dẫn một tài liệu nào làm điểm tựa cho lập luận này nhưng rõ ràng là một biện bạch rất cần thiết cho lối nhìn đã có về Hồ Chí Minh thể hiện từ hình ảnh những cảnh đời thơ ấu của cậu bé Nguyễn Sinh Cung qua sự tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành tới hành vi của Tổng Thống Mỹ Truman năm 1945 từ chối ủng hộ Hồ Chí Minh mà Duiker gọi là sai lầm. Theo diễn tả của Duiker, Hồ Chí Minh luôn là người thánh thiện, nhiệt tình với dân với nước nhưng luôn bị lâm cảnh gánh chịu tai tiếng về những thảm họa. Cuộc chiến Việt Nam 1945-1954 là do Tổng Thống Truman gián tiếp gây nên bởi bác bỏ đề nghị xin ủng hộ của Hồ Chí Minh và cuộc chiến Việt Nam 1954-1975 là do chủ trương của Lê Duẩn. Nhưng chính Duiker lại tỏ ra tự mâu thuẫn khi ghi nhận rằng Hồ Chí Minh là người ủng hộ việc bổ nhiệm Lê Duẩn vào chức bí thư thứ nhất tức là chức vụ có quyền cao nhất trong Đảng với lý do để có thể an tâm rằng kẻ kế vị ông sẽ dành ưu tiên cao cho vấn đề thống nhất đất nước.  (20)
      Với ghi nhận này, khó thể nghĩ Hồ Chí Minh chống lại chủ trương dùng bạo lực của Lê Duẩn và không chia xẻ trách nhiệm về những thảm cảnh sau này của đất nước.
      Hai điểm nhấn mạnh khác của Duiker trong bức chân dung Hồ Chí Minh là tinh thần quốc gia và tính khoan hòa nhân ái. 
      Tinh thần quốc gia của Hồ Chí Minh là điều được Duiker nhắc liên tục từ đầu tới cuối tác phẩm qua hình dạng một người yêu nước và tranh đấu vì chủ nghĩa dân tộc. Cho nên Duiker cho rằng Hồ Chí Minh không phải là người theo đường lối Cộng Sản Quốc Tế và khẳng định Hồ Chí Minh chỉ muốn làm vừa lòng Stalin khi nhắn với Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam rằng phải tuyệt đối tuân theo chính sách mặt trận thống nhất đã được thông qua tại Đại Hội 7 Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản chứ không thực sự muốn thi hành các điểm đã nêu, trong đó có điểm 4 mà Hồ Chí Minh đã nhắc lại như sau: “Chúng ta không thể nhượng bộ điều gì cho nhóm Tờ-Rốt-Kít. Chúng ta phải làm tất cả mọi việc có thể được để lột mặt nạ của chúng là những con chó của Phát Xít và tiêu diệt chúng về chính trị." (21)   
      Song song với lời bào chữa được đưa ra, Duiker lại ghi về mối tương quan và các hoạt động của Hồ Chí Minh trong thời gian ở Trung Hoa luôn nằm trong tầm chi phối của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Những nhân vật liên hệ với Hồ Chí Minh như Manuilsky, Joseph Ducroux có bí danh Serge Lefrank, Hilaire Noulens ... đều là người của Đệ Tam Quốc Tế và hoạt động của Hồ Chí Minh đều do Đệ Tam Quốc Tế chỉ thị. Duiker còn nêu các tài liệu cho biết Hồ Chí Minh đã được Đệ Tam Quốc Tế cấp phương tiện tiền nong cũng như việc thành lập các Đảng Cộng Sản Đông Dương và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được Đệ Tam Quốc Tế hướng dẫn ra sao. Có thể bảo mối tương quan và các hoạt động đó cũng chỉ là cách lấy lòng Stalin chăng?
      Vả lại, chính Duiker đã cho biết Hồ Chí Minh hết sức yêu kính và trung thành với Lênin và còn trích dẫn một bài viết của ông Hồ trên tờ Sự Thật – Pravda của Liên Xô số ra ngày 27-1-1924  với lời kết như sau: "Khi còn sống, người là cha, là thày, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Nay người là ngôi sao dẫn đường đưa tới cách mạng xã hội. Lênin sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. Người bất tử."
      Đi xa hơn, Duiker trích phát biểu của một đảng viên Cộng Sản Pháp rất thân với Hồ Chí Minh nhưng về sau bỏ Đảng, từng gọi Hồ Chí Minh là "Staliniste”, người theo chủ nghĩa Stalin thuần thành. (22)
      Như thế, Hồ Chí Minh không chỉ bị Cộng Sản chi phối do nhận nhiệm vụ, nhận tiền trợ cấp để hoạt động cho các mục tiêu của Đệ Tam Quốc Tế mà bản thân Hồ Chí Minh đã tự nguyện đi theo con đường của Đệ Tam Quốc Tế vì lòng tin tuyệt đối dành cho các lãnh tụ tổ chức này. Những tài liệu trích dẫn trên là những trở lực khó vượt qua để khoác cho Hồ Chí Minh bộ áo người quốc gia yêu nước, dù mức độ ước mong của Duiker lớn tới cỡ nào.
      Khía cạnh khác của Hồ Chí Minh mà Duiker đề cao là tính khoan hòa, lòng nhân hậu và sự thấu triệt về phương thức đấu tranh. Theo Duiker, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng luân lý Khổng Mạnh nên luôn chú trọng các tiêu chuẩn đạo đức như cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chân thành phục thiện, cầu học cầu tiến, lễ độ khiêm cung và trên hết là khoan hòa độ lượng...
      Tất nhiên Duiker không có dịp trực diện với Hồ Chí Minh mà chỉ ghi theo một số nhân chứng nào đó và qua suy diễn. Trên thực tế, nếu có những nhân chứng đã kể Hồ Chí Minh có các đức tính trên thì cũng không thiếu nhân chứng xác nhận Hồ Chí Minh là kẻ đại gian đại ác và như thế vấn đề lại trở thành tranh cãi. Cách duy nhất mà người nhận dạng Hồ Chí Minh phải chọn chính là nhìn thẳng vào những gì liên hệ tới cuộc sống và hoạt động đã được ghi lại.
      Trước mắt Duiker đã có những thảm cảnh lịch sử Việt Nam từ 1945, có những nạn nhân của chính sách cải cách ruộng đất, có những người Cộng Sản Đệ Tứ Quốc Tế bị Hồ Chí Minh gọi là những con chó của Phát Xít và ra lệnh tiêu diệt...
      Trước mắt Duiker chắc chắn cũng có những tài liệu cho biết ngày 28-12-1967, Hồ Chí Minh đã họp Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng quyết định mở đợt tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam và tháng 3-1968, trong khi toàn miền Nam chìm trong máu lửa tóc tang, Hồ Chí Minh đã hào hứng sáng tác 2 bài thơ  “Vô Đề” được Đảng lưu lại như di sản quý báu:
      I
      Đã lâu chưa làm bài thơ nào
      Đến nay thử làm xem ra sao
      Lục mãi giấy tờ vẫn chưa thấy,
      Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao
      II
      Thuốc kiêng rượu cữ đã ba năm
      Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần
      Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn
      Một năm là cả bốn mùa Xuân. (23)
      Một người lấy cảnh chết chóc đau khổ của đồng bào mình làm nguồn hứng sáng tác thơ, trong khi chính người đó từng tuyên bố với báo chí “gộp tất cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” (24) liệu có thể là con người nhân ái và trung thực, chân thành không?
      Duiker còn có thể nhìn lại điều chính mình đã đưa ra để xác định tầm thấu triệt phương thức đấu tranh của Hồ Chí Minh qua sự việc cuốn Con Đường Kách Mệnh của Hồ Chí Minh gần như giống hệt cuốn Kinh Bổn của Người Cách Mạng của Sergey Nechayev.
      Theo Duiker, Nechayev nhấn mạnh đến vai trò của người làm cách mạng chẳng khác gì một dụng cụ mù quáng của mục tiêu cách mạng.“Anh ta phải tàn nhẫn, nham hiểm như Machiavel, trong khi cổ võ cho mục đích cách mạng. Anh ta phải tỏ ra tuyệt đối phục tùng đảng của anh ta và sẵn sàng từ bỏ mọi liên hệ bạn bè và gia đình. Cũng phải sẵn sàng hy sinh những tiêu chuẩn đạo lý đã được nhìn nhận một cách phổ quát, để có thể nói dối, ăn gian vì lợi ích cách mạng….Nói chung cuốn sách đã được Lênin tán thưởng và trở thành thánh kinh của nhóm đa số (quá khích) của ông”. (25)
      Nechayev từng được Lênin coi như một thứ siêu Machiavel. Khi thấy Hồ Chí Minh giống hệt Nechayev ắt không thể kết luận khác được rằng Hồ Chí Minh là một con người chỉ sống và hành sử bằng thủ đoạn mà thôi. Trong trường hợp này, diễn tả Hồ Chí Minh bằng hình ảnh một người mang nặng ảnh hưởng luân lý Khổng Mạnh chỉ có thể hiểu là quá mù mịt về Khổng học hoặc cố tình thay trắng bằng đen. Hơn nữa, chính Duiker đã bảo Hồ Chí Minh là đệ tử thuần thành của cả Lênin lẫn Stalin thì dựa vào đâu để nói được rằng Hồ Chí Minh là con người khoan dung, nhân ái, khi chính những người Cộng Sản Liên Xô đã triệt hạ tượng đài của các nhân vật này, coi Lênin là kẻ gian xảo và gọi Stalin bằng biệt danh tên đồ tể?
      Phải nhìn nhận rằng W. J. Duiker đã đưa ra một tác phẩm đồ sộ hơn hẳn những tác giả trước ông với rất nhiều chi tiết về Hồ Chí Minh. Ông đọc nhiều, có một khối tài liệu phong phú nên giúp người đọc hiểu thêm cả những hoàn cảnh và nhân vật xoay quanh đối tượng của mình.  Dù chỉ viết về tiểu sử Hồ Chí Minh, Duiker đã dựng lại nhiều khung cảnh chiến tranh Việt Nam cũng như tình hình thế giới sau Đệ Nhị thế chiến, tình hình nội bộ Liên Xô cùng mối quan hệ Liên Xô - Đức Quốc Xã, cuộc hôn phối cưỡng ép Quốc - Cộng Trung Hoa trong thời gian kháng Nhật và một số hoạt động đảng phái tại Việt Nam.
      Ưu điểm của Duiker là cố phân tích tới từng chi tiết của mọi vấn đề. Nhưng ưu điểm này lại là một phần nguyên do đưa tác giả tới nhiều điểm tự mâu thuẫn khi gặp các chi tiết quá phức tạp vượt khỏi tầm xác định. Ưu điểm này cũng khiến lộ rõ những cố tình tránh né của tác giả trước nhiều chi tiết được bỏ qua.
      Phần khác, theo chúng tôi, tác giả có vẻ bị chi phối bởi định kiến về con người Hồ Chí Minh nên không chịu đặt cuộc chiến mà ông Hồ chủ trương vào đúng bối cảnh chiến tranh ý thức hệ cộng sản hay đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin.
      Duiker đã nhắc đến đề cương Lênin về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thuộc địa và ghi nhận việc Lênin hô hào liên kết với các giai cấp phi vô sản để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc trong một quốc gia chỉ là chiến thuật giai đoạn và có điều kiện. Nhưng Duiker lại không chịu nhìn sâu vào chiến lược sách lược toàn bộ cuộc đấu tranh đó để xác định vai trò của Hồ Chí Minh với tính chất chủ yếu là lệ thuộc vào Liên Xô.
      Chính vì thế, Duiker không đếm xỉa đến nỗi đau khổ cùng cực của nhân dân Việt Nam với tính cách nạn nhân trực tiếp trong quá trình theo đuổi lý tưởng của Hồ Chí Minh cũng như không nhận ra những lời lẽ đầu môi chót lưỡi và thủ đoạn xảo trá của một chính trị gia tham tàn, mặc dù trong chương IX, tác giả đã viết: Môn học chính mà ông Hồ dậy các học viên đàn em của ông là tuyên truyền (26) và nhắc đến cái tên trung đội võ trang tuyên truyền giải phóng quân được đặt cho đạo quân bé nhỏ đầu tiên của Võ Nguyên Giáp khi mới thành lập.
      Có thể bảo tất cả cuộc chiến Việt Nam nằm gọn trong 2 chữ tuyên truyền theo các nguyên tắc đấu tranh của Lênin dưới ảnh hưởng tinh thần vô luân Nechayev mà Hồ Chí Minh tín phục và tuân thủ. Nếu không do cố ý bởi sự chi phối bởi một định kiến thì chỉ có thể nói là đã hoàn toàn lạc hướng khi đề cập tới vai trò Hồ Chí Minh trong cuộc chiến Việt Nam mà không nhìn thẳng vào tính chất này.
      Trong trường hợp nhìn tác phẩm của Duiker ở khía cạnh lạc hướng, có thể giải thích là trong quá trình thu góp tài liệu, Duiker chỉ tiếp xúc giới hạn với một số khuôn mặt khoa bảng thuộc các cơ quan Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam và chỉ đọc những tác phẩm chính thống tức là những tác phẩm đã được nhào nặn, đo lường rất kỹ về từng chi tiết trước khi phổ biến. Trong giới hạn này, vóc dáng lãnh tụ luôn luôn là vóc dáng được tô điểm vì hình thành từ cái nhìn của thủ hạ và gay gắt hơn là cái nhìn đã được uốn nắn.
      Trên thực tế, cái nhìn từ phía quần chúng, thậm chí từ phía nạn nhân, có thể có một giá trị đóng góp tích cực hơn do tính trung thực vì vừa phản ảnh tâm tư của đám đông vừa chưa bị uốn nắn. Suốt nửa thế kỷ qua, con người và sự nghiệp Hồ Chí Minh đã được nhiều thế hệ dân chúng Việt Nam đánh giá qua không ít những mẩu chuyện cười, những vần “thơ ghế đá” ... và đây là nguồn tài liệu mà Duiker bỏ qua. Tư cách sử gia của tác giả Hồ Chí Minh, a life rõ ràng bị hạn chế do sự chăm chút cho mặt được chiếu sáng của tấm huy chương, trong khi tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó.
      Chúng tôi nghĩ rằng sự việc xảy ra vào tháng 8-2002 về việc phổ biến cuốn sách tại Việt Nam có thể đã gợi nhắc tác giả về một ý nghĩ nào đó.
      Duiker nghĩ sao khi những người Cộng Sản Việt Nam đặt thẳng vấn đề phải cắt bỏ một số chi tiết trong cuốn sách mới được phép phổ biến tại Việt Nam? Trong lá thư gửi nhà xuất bản Hyperion Books, New York, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tại Hà Nội đã ghi rõ cần bỏ đi một vài đoạn không phù hợp với những thông tin hiện có trong hồ sơ của chúng tôi.
      Duiker đã viết cuốn sách dựa trên phần lớn tài liệu chính thức và nhận định từ những nhân vật của chế độ. Nhưng sách vẫn không thể phổ biến vì cách khai thác tài liệu không phù hợp với cái nhìn của chế độ và chế độ cũng không giấu kín ý đồ muốn kiểm duyệt mọi lời phát biểu của tác giả. Chế độ đó có thể phù hợp với mong mỏi của toàn thể những người dân Việt Nam vẫn đòi hỏi dân chủ tự do từ 1945 tới nay không và chế độ đó là di sản của ai?
      Ít nhất có thể Duiker cũng phải nhìn lại câu phát biểu mà ông đã viết: “Ông Hồ đã chiếm được một chỗ trong ngôi đền thờ những anh hùng cách mạng từng đấu tranh mạnh mẽ để những người cùng khổ trên thế giới có được tiếng nói đích thực của họ”. Hồ Chí Minh đã tạo ra cái di sản ngăn cấm ngay tiếng nói của một sử gia thì có thể là bậc anh hùng đã đấu tranh mạnh mẽ cho tiếng nói đích thực của những kẻ cùng khổ được cất lên chăng?
       
      CHÚ THÍCH
      CHƯƠNG 01
      ______________________________
      (01)  Nhà xuất bản Hyperion Books, New York, 2000.
      (02)  Vợ tác giả.
      (03)-(04)  SĐD  tr. 577, 574
      (05) Theo Duiker, chính vợ Lâm Đức Thụ giới thiệu Tăng Tuyết Minh cho ông Hồ tại nhà Borodin để sau đó Tăng Tuyết Minh trở thành vợ ông Hồ. Về Tăng Tuyết Minh, theo tài liệu của giáo sư Hoàng Tranh, Viện Phó Viện Khoa Học Xã Hội Quảng Tây, Trung Cộng tiết lộ cuối năm 2001 thì năm 1926, ông Hồ mang tên Lý Thụy, 36 tuổi đã làm hôn lễ với cô nữ hộ sinh Tăng Tuyết Minh, một thiếu nữ Quảng Châu, 21 tuổi, tín đồ Cơ Đốc giáo. Lễ cưới cử hành tại nhà hàng Thái Bình là nơi một năm trước, Chu Ân Lai làm lễ cưới với Đặng Dĩnh Siêu. Hoàng Tranh cho biết 2 chữ  "Chí Minh" trong tên của HCM có nghĩa là nhớ mãi không quên (Tăng Tuyết) Minh.
      (06)-(08) SĐD tr. 7, 113 nguyên văn: Only Borodin and his wife were aware of his identity. His tức của Nguyễn Ái Quốc, lúc ấy mang tên Lý Thụy.
      (07)  Bác Hồ trên đất nước Lênin,  tr. 148
      (09)  Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. 
      (10)-(11)-(12)-(13)-(14)-(15) SĐD tr. 18, 19, 14, 42, 47, 26.
      (16)  SĐD tr. 5, nguyên văn: “since he later told the US journalist Anna Louise Strong that during his visit to the USA he knew nothing about politics”.
      (17) SĐD  tr. 225
      (18) Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử, Nxb Văn Hóa, Sài Gòn 1999, tr.644 ghi: “Nguyễn Thị Minh Khai lúc nhỏ tên là Vịnh. Năm 1930 sang Trung Quốc làm việc ở Văn Phòng Đông Phương Bộ Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1931 bị mật thám Pháp bắt ở Hong Kong, năm 1934 được trả tự do. Trong năm này bà cùng Lê Hồng Phong được cử làm đại biểu chính thức đi dự đại hội lần thứ 7 của Quốc Tế Cộng Sản tại Mạc Tư Khoa. Sau đó họ làm lễ thành hôn. Tại đấy bà vào học trường Đại Học Đông Phương Staline. Năm 1936, bà được phân công tác ở Sài Gòn, ngày 30.7.1940 bà bị địch bắt. Ngày 28.8.1941 bà bị xử bắn tại Hóc Môn. Hưởng dương 31 tuổi”. 
      (19)-(20)  SĐD  tr. 222, 499, nguyên văn: “Whatever the case, the appointment appeared to have the blessing of HCM, who could rest assured that his successor would give priority to the national reunification”.
      (21)-(22) SĐD tr. 235, 95, nguyên văn: “According to Boris Souvarine, the French Communiste who later left the revolution movement, Nguyen Ai Quoc had now become an accomplished Stalinist ”.
      (23)  HCM, Biên Niên Tiểu Sử – T. 10tr. 139, 161, 163.
      (24) Trả lời báo Granma, Cuba ngày 14.7.1969 - HCM, Biên Niên Tiểu Sử – T. 10,  tr. 373.
      (25)-(26)  SĐD tr. 135, 258
       
      #3
        silverbullet 08.05.2007 22:56:02 (permalink)

        * Chương 02 *
        JEAN LACOUTURE
        và  HCM, A Political Biography
         
        Trước khi xuất hiện tác phẩm Hồ Chí Minh, a life của William J. Duiker, các nhà nghiên cứu thường đánh giá cuốn Hồ Chí Minh, a political biography của Jean Lacouture là tác phẩm đầy đủ nhất về tiểu sử Hồ Chí Minh. Nhiều người còn cho là cuốn sách viết hay nhất.
        Jean Lacouture, sinh năm 1921, người Bordeaux, thành phố nổi tiếng về rượu chát của miền Nam nước Pháp. Tại đây ông theo bậc trung học tại trường Dòng Tên Jésuite (*), rồi đại học văn khoa. Sau đó, ông lên Paris học luật và sinh sống tại đây. Ông là học giả, sử gia, nhà báo, nhà ngoại giao – tùy viên báo chí của Pháp tại Đông Dương từ 1945 đến 1947. Ông viết cho nhiều tờ báo ở Mỹ. Trong khoảng ba chục tác phẩm của ông có 6 cuốn về Việt Nam trong đó được lưu ý là cuốn Việt Nam giữa hai cuộc hưu chiến.
        Nguyên tác tiếng Pháp cuốn Hồ Chí Minh, a political biography xuất bản lần đầu năm 1967. Một năm sau, bản dịch Anh văn của Peter Wiles được Random House, New York cho ra mắt tại Mỹ. Sách viết theo thứ tự thời gian gồm 15 chương từ Người Dân Quê, Người Di Dân, Người Chiến Sĩ… cho đến Bác Hồ và Chú Sam, sau hết là Trận Đánh Cuối Cùng.
        Ngay những trang đầu tác giả đã cho thấy hết sức khâm phục và ngưỡng mộ đối tượng của mình. Tác giả nói rõ nhận định về Hồ Chí Minh là người tranh đấu cho cả lý tưởng cách mạng Lênin lẫn chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Đặc biệt tác giả ca ngợi Hồ Chí Minh là con người hành động, hay như có người chua chát mà cũng chính xác gọi là "kẻ khuấy động” (agitator), "kẻ thức trong khi mọi người ngủ”. (1)
        Tác giả cũng không kém ngưỡng mộ cha của Hồ Chí Minh là phó bảng Nguyễn Sinh Huy (hay Sắc), vì cho rằng ông ta bị huyền chức, không phải vì nghiện rượu hay biển thủ công quỹ mà vì bài Pháp và ủng hộ phong trào Cần Vương, cổ võ cho nhà cách mạng Phan Bội Châu.
        Về cách đối xử của Hồ Chí Minh với anh chị em, tác giả kể khi bà Thanh lên Hà Nội thăm em đã làm chủ tịch nước được ông Hồ tiếp đón niềm nở (with open arms) và khi người anh trai, Nguyễn Sinh Khiêm chết, ông Hồ có gửi điện văn về làng chia buồn, xin lỗi do phải lo việc nước hơn việc nhà. Tác giả cẩn thận ghi chú là lúc ấy (2) chiến trường sôi động, ông Hồ đang phải chiến đấu trong bí mật.
        Chương II, Kẻ Di Dân, nói về hoạt động của Hồ Chí Minh tại Pháp. Sống cực khổ, thất nghiệp, dành thì giờ đọc sách, viết báo, tìm gặp những người có xu hướng cách mạng thuộc nhiều nước Pháp, Nhật, Nga…Tác giả bảo Hồ Chí Minh "tập họp xung quanh mình những Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền”, phần đông lớn hơn cả chục tuổi. Tác giả cũng tiết lộ rằng chính bộ trưởng Albert Sarraut (3) cho biết tên Nguyễn Ái Quốc là một bút hiệu của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Và ở mấy trang sau, tác giả xác nhận bản thỉnh nguyện thư 8 điểm mà Hồ Chí Minh trình ở Hội Nghị Hòa Bình Versailles đã được soạn thảo chung với Phan Văn Trường dưới sự hướng dẫn của Phan Chu Trinh. Hai chi tiết này trái ngược hẳn với các văn kiện chính thức của Cộng Sản Việt Nam vẫn nói tên Nguyễn Ái Quốc là biệt danh của ông Hồ và bản thỉnh nguyện thư trên cũng do ông Hồ nghĩ ra và tự viết.
        Đầu chương III, (4) tác giả kể chuyện "anh chàng lịch lãm, dễ thương Georges Pioch đã làm gương để khuyên Hồ học đàm thoại và ăn nói trước công chúng. Với mục đích đó, Hồ đi dự các cuộc họp tại Câu Lạc Bộ Faubourgh do Leo Poldes lập. Hồ tham gia thảo luận, thoạt tiên còn lúng túng, ngượng nghịu, cố không nói lắp, không nói nhịu...” Qua chi tiết này, Hồ Chí Minh đã được "đào tạo" rất sớm về nghệ thuật tuyên truyền và nói trước quần chúng nên tiến bộ nhanh về các mặt này trong thời gian trau dồi thêm ở Liên Xô từ 1933 đến 1938.
        Tuy nhiên, tác giả chê Bản án chế độ thực dân Pháp viết rất dở, và cho rằng có lẽ do ông Nguyễn Thế Truyền, người đề tựa cho nó, đã viết chứ không phải Hồ Chí Minh. Đây là chi tiết khiến người đọc khó tránh khỏi ý nghĩ Jean Lacouture đánh giá cao đối tượng đến mức không bao giờ chịu tin là Hồ Chí Minh làm một cái gì dở hay kém! Một việc chính Hồ Chí Minh đã đem ra khoe là do mình làm vẫn có thể là do ai đó làm, trong trường hợp nhận thấy không phải việc hay, việc tốt! Trong chương này tác giả cũng dành nhiều trang nói về tờ báo Le Paria mà Hồ Chí Minh chủ trương và đã dành ra 2 năm để nuôi sống nó, dù rằng nó vẫn sống thêm 2 năm nữa, sau khi ông Hồ bỏ đi Nga rồi.
        Chương IV nói về công thống nhất đảng của Hồ Chí Minh. Tác giả ghi từ 1933 đến 1938 là thời gian Hồ nghỉ ngơi và nghiên cứu nhiều tại Mạc Tư Khoa. Trong thời gian này Hồ tham dự đại hội 7 của Đệ Tam Quốc Tế. "Nhưng Lê Hồng Phong, chứ không phải Hồ đã được bầu vào trung ương Đệ Tam Quốc Tế. Sau đó ít lâu, Phong về Đông Nam Á, bị bắt và chết trong tù”. Tác giả không nói rõ địa điểm, thời điểm và trường hợp của sự việc này.
        Chương V, Tù Nhân, tác giả kể lại việc Hồ Chí Minh kín đáo về nước cuối tháng 1-1941, sau 30 năm vắng mặt, lập bản doanh ở vùng "giải phóng" Pác Bó, thuộc tỉnh Cao Bằng và ở đây hơn 1 năm. Dịp này Hồ đã đặt tên ngọn núi là núi Karl Marx và dòng suối là suối Lênin. Tại đây Hồ triệu tập hội nghị toàn phần trung ương đảng kỳ 8. Mặt Trận Việt Minh ra đời trong một túp lều lá với một chiếc bàn duy nhất. Tại hội nghị này có mặt Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thụ, Vũ Anh, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp.
        Tác giả dành gần trọn trang 75 nói về lòng yêu nước của Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ nay mới được tự mình kêu gọi tới lòng yêu nước của nhân dân, lập nên các đoàn thể Cứu Quốc, và dành chỗ cho mọi tầng lớp nhân dân, không chỉ có công nhân, mà cả nông dân, tiểu tư sản, thậm chí cả địa chủ yêu nước.
        Mở đầu chương VI, Người Giải Phóng, tác giả nói đến việc Hồ Chí Minh cổ võ cho chính sách "xâm nhập” tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Qua trung gian tướng Trương Phát Khuê, Hồ đã đạt được ý nguyện. Nhưng chính phủ lâm thời liên hiệp do Trương Bội Công làm thủ tướng chỉ dành cho Hồ một chức bộ trưởng không hứa hẹn gì nên Hồ tìm cách gây liên hệ với liên quân Hoa - Mỹ để thoát hiểm. May mà "phe Trương Bội Công xâu xé lẫn nhau”, trong lúc Hồ bắt đầu lên đường về nước. Chính phủ lâm thời kia hoàn toàn tan rã, nhưng phe Hồ Chí Minh, nhờ có đoàn du kích quân và những mạng lưới riêng, vẫn tồn tại.
        Về nước, Hồ ký lệnh thành lập "trung đội võ trang tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người giao cho Võ Nguyên Giáp điều khiển”. (5) Khi thấy lực lượng Việt Minh lớn mạnh, Pháp dự tính đem quân tiêu diệt. Nhưng còn đúng 3 ngày nữa khởi động thì bị quân Nhật thình lình đảo chính, bắt giam hết người Pháp.
        Tháng 6-1945, Hồ Chí Minh cho lệnh tấn công.
        Theo lời kể của Võ Nguyên Giáp sau này thì lúc đó do quá bệnh và yếu Hồ thều thào nói trong cơn mê sảng: "Dù cho phải đốt cả dẫy Trường Sơn thì cũng quyết dành cho được nền độc lập”. Trưng dẫn câu này, tác giả có thể chỉ nhắm ghi lại một sự việc thực tế hoặc đề cao tinh thần tranh đấu cho dân tộc của Hồ Chí Minh. Nhưng câu nói được trưng dẫn cũng cho thấy Hồ Chí Minh không phải con người ôn hòa và những chiến dịch vườn không nhà trống, tiêu thổ kháng chiến, những chiến thuật cảm tử, biển người hay cuộc chiến đẫm máu sau này không thể bảo do nhóm Lê Duẩn - Lê Đức Thọ hay các thủ hạ khác chủ trương và ép buộc Hồ Chí Minh phải chiều theo như nhiều tác giả vẫn nêu trong tác phẩm của mình.
        Ngày 29-8-1945, thành phần chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo được công bố. Theo Jean Lacouture, nhiều nhà báo thắc mắc Hồ Chí Minh là ai? Vài kẻ thạo tin bảo đó là lãnh tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc. Có người hỏi Hồ có đúng không thì ông chỉ khiêm tốn thoái thác. Jean Lacouture diễn tả Hồ Chí Minh vừa là người khiêm tốn muốn tránh né sự lưu tâm của mọi người vừa là người luôn đặt dân tộc lên cao hơn hết nên coi nhẹ việc xác định màu sắc lý tưởng của bản thân. Nếu tác giả nhìn sự việc trên qua bối cảnh chính trị Việt Nam và xu hướng tâm lý quần chúng lúc đó đối với Cộng Sản thì có thể nhận định khác hơn.
        Trong chương VII, tác giả thuật việc phái đoàn Mỹ tới Hà Nội cuối tháng 8-1945 đã được các người cộng sản hoan nghênh và "khi quốc thiều Mỹ nổi lên, chính Võ Nguyên Giáp giơ nắm tay lên chào kính.(CS chào bằng nắm tay). Họ muốn giữ liên lạc chặt chẽ với Mỹ ở Hà Nội. Họ khai thác triệt để tinh thần chống thực dân của người Mỹ đối với các vấn đề Á châu. Thiếu tá Archimèdes Patti, đại úy Farris và ngay cả tướng Gallagher thường thấy xuất hiện cùng với Hồ Chí Minh và chính phủ của ông, trong thời gian  xung đột Việt Pháp sắp sửa xảy ra”… (6)
        Trong chương XI, tác giả tiếp tục ca ngợi Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu cao nhất và hầu như độc đáo, một người có tương quan gắn bó nổi bật với quần chúng và là một người với sức xét đoán vượt trội, với những năng khiếu đột hứng và trí thông minh kỳ diệu để đóng vai hòa giải giữa các đám đông buộc phải đối đầu với chiến tranh vô tận với gian khổ, hà khắc hay một chế độ bạo tàn. (7)
        Tác giả minh chứng uy lực và bản lãnh vượt trội của Hồ Chí Minh bằng sự thuật lại những lời đối đáp với tướng Salan. Khi viên tướng Pháp hỏi Hồ Chí Minh rằng có lo ngại gì khi đi xa để đất nước trong tay những cán bộ trẻ nóng nảy như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp không, ông Hồ đã trả lời: Họ làm được cái gì mà không có tôi? Chính tôi đã tác thành cho họ mà!
        Toàn bộ chương XII được Lacouture dành chứng minh Hồ Chí Minh vừa là người cách mạng vô sản, vừa là nhà ái quốc. Theo tác giả, “điều cần nhấn mạnh trên hết là sự lưỡng diện của mọi cử động của ông Hồ khiến ông trở thành một người theo chủ nghĩa dân tộc (quốc gia) trên hết, cũng như một người theo chủ nghĩa quốc tế trên hết, hơn tất cả các lãnh tụ cộng sản”.
        Lacouture giải thích về nhận định trên như sau: “Ông ta quốc gia nhất, vì không có lãnh tụ cộng sản nào khác đã thực hiện được cuộc cách mạng trong xứ sở mình với ít ngoại viện và ít cán bộ nước ngoài; không ai hết, kể cả Mao hay Tito hay Castro lại có thể mắc nợ người ngoài ít đến thế”. (8) Tác giả đánh giá: "Quả thật, ông ta đã dấn thân vào một nỗ lực vô cùng tận để hoàn thành được sự tổng hợp giữa những yêu cầu của một bên là chủ nghĩa quốc tế vô sản và một bên là chủ nghĩa quốc gia dân tộc Việt Nam…” (9)
        Theo đà suy nghĩ dành trọn ưu ái cho đối tượng, tác giả nhìn thấy việc thành lập Mặt Trận Việt Minh, việc tuyên bố giải tán Đông Dương Cộng Sản Đảng rồi cho sống lại dưới cái tên Đảng Lao Động Việt Nam đều thể hiện tài trí và quyết tâm thực hiện chủ nghĩa quốc gia dân tộc của ông Hồ. Thậm chí tác giả còn cho rằng việc thay thế Đông Dương Cộng Sản Đảng bằng Đảng Lao Động là một thượng sách và là một bước tiến trên đường dân tộc hóa, vì đảng cũ có tính quốc tế, phi dân tộc do bao gồm cả Miên, Lào… trong khi Đảng Lao Động mang cái tên được định tính rõ rệt  là đảng Lao Động Việt Nam.
        Thắc mắc của người đọc trước nhận định này là giới hạn hết sức khó hiểu về nhận thức chính trị của một tác giả tầm cỡ Jean Lacouture. Bởi vì chủ nghĩa quốc tế vô sản luôn xác định triệt để bác bỏ tinh thần quốc gia dân tộc, trong khi bất kỳ người tìm hiểu chính trị nào cũng dư tài liệu để hiểu dễ dàng nội dung bản đề cương chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thuộc địa của Lê Nin có thể tóm tắt trong lời tuyên bố của Staline đã trở thành giáo điều bất khả di dịch về chiến lược chiến thuật đấu tranh Cộng Sản:“Tất cả mọi đảng Cộng Sản và công nhân, hãy giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ mà tiến lên”.
        Người Cộng Sản không bao giờ theo đuổi mục tiêu tổng hợp giữa yêu cầu của chủ nghĩa quốc tế với yêu cầu của chủ nghĩa dân tộc mà chỉ coi chủ nghĩa dân tộc, dân chủ là phương tiện cần khai thác – những ngọn cờ chiêu bài – trong một thời kỳ nào đó trên đường tranh đấu. Việc Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương tháng 11-1945 chỉ là một bước lui chiến thuật để tránh áp lực chống đối và cái tên Đảng Lao Động Việt Nam ra đời cũng mang chung ý nghĩa. Những điều đó chỉ phản ảnh tài năng và thủ đoạn của Hồ Chí Minh trong hành động chứ không phản ảnh mục tiêu phụng sự của ông ta.
        Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã trình diễn bộ mặt quốc gia dân tộc trước dư luận bằng thủ đoạn tinh vi vào những thời điểm cần che kín bộ mặt Cộng Sản. Người trình diễn bộ mặt quốc gia dân tộc và người theo chủ nghĩa dân tộc trên hết luôn luôn là hai người khác nhau.
        Jean Lacouture đã có 6 tác phẩm viết về đề tài Việt Nam không lẽ chưa từng đọc những tài liệu chính thức lưu trữ tại Viện Mác-Lênin nhắc tới sự hiểu lầm của một số người lúc đó như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập về xu hướng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong quan hệ giữa yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế khi hoạch định chiến lược, chiến thuật đã dẫn tới việc có lá thư của Ban Lãnh Đạo Hải Ngoại Đảng Cộng Sản Đông Dương gửi Quốc Tế Cộng Sản ngày 31-3-1935 với luận điệu gay gắt: “Những tàn dư của hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cách mạng ... là một trở ngại rất nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản... Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin (tên Hồ Chí Minh lúc đó) viết một cuốn sách mỏng phê phán chính mình và những khuyết điểm đã qua” (10)
        Sự hiểu lầm này được “giải độc” (11) tại Mạc Tư Khoa nhân dịp Đại Hội 7 Quốc Tế Cộng Sản tháng 8-1935 tán trợ quan điểm vận dụng chính sách Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất để tiến hành đấu tranh. Quan điểm này được ghi lại trong nghị quyết Đại Hội Đông Dương Cộng Sản Đảng lần thứ 8 từ ngày 10 tới 19-5-1941 tại Pac Bó với diễn giải: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc... thì quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”  (12) Mục tiêu được nêu rõ ở đây là quyền lợi của bộ phận giai cấp còn vấn đề giải phóng dân tộc chỉ là bước đi sách lược bắt buộc phải qua.
        Hơn nữa, nếu cứ dứt khoát cho rằng Hồ Chí Minh là người muốn tổng hợp yếu tố dân tộc chủ nghĩa với yếu tố quốc tế vô sản chủ nghĩa, một người cộng sản quốc gia, thì thực tế đã cho thấy trong cảnh luôn bị kiềm tỏa, bị kiểm soát từng ý tưởng như thế, ông Hồ khó giữ nổi mạng sống chứ đâu có thể nhận được cái quyết định mật số 60 ngày 29-9-1938 từ Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa của Quốc Tế Cộng Sản trao cho trở về nước tiếp tục công tác. (13) 
        Một cứ điểm của Lacouture về tính quốc gia nhất của Hồ Chí Minh so với mọi lãnh tụ Cộng Sản khác như Mao Trạch Đông, Tito, Castro... là ít mắc nợ nước ngoài trong khi tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng ở nước mình. Trước hết, ít mắc nợ nước ngoài chưa hẳn đã là quốc gia nhất, vì Lênin, Stalin có thể còn ít mắc nợ nước ngoài hơn. Nhưng trên thực tế, Hồ Chí Minh có mắc nợ nước ngoài không? Cứ điểm trên của Jean Lacouture dù nhắm đề cao Hồ Chí Minh nhưng lại không được củng cố bằng bài báo chính thức sau của một tác giả Cộng Sản Việt Nam: Sáng ngày 10-1-1950, trong cảnh mùa đông rét mướt, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã bí mật rời khỏi thủ đô kháng chiến Tuyên Quang bắt đầu chuyến đi thăm Liên Xô, Trung Quốc. Một chuyến đi không tổ chức tiễn đưa linh đình và một tiểu đội tự vệ đã đưa Người lên Cao Bằng sang Trung Quốc qua cửa Thủy Khẩu - Long Châu, tỉnh Quảng Tây. Tại đây, ngày 20-1-1950, Người gặp Trần Canh, bạn chiến đấu Trung Quốc hồi Người ở Diên An (1938) và Trần Canh đã tổ chức đưa Người đi Bắc Kinh theo một mật lệnh của Thủ Tướng Chu Ân Lai.
        Từ Quảng Tây, Bác Hồ đến Bắc Kinh vào ngày 26-1-1950 và đồng chí Chu Ân Lai đã tổ chức đón tiếp và hội đàm với Người. Sau đó, Người cùng với Chu Ân Lai đáp máy bay từ Bắc Kinh sang thăm Liên Xô... Giữa tháng 2-1950, Xtalin tổ chức đón tiếp và hội đàm với Chủ Tịch Hồ Chí Minh tại điện Kremlin ... Hai bên đã quan tâm đến quan hệ giữa Đảng – Nhà Nước và sự viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam.
        Về quan hệ giữa Đảng và Nhà Nước, Xtalin đề nghị tạm thời chưa công khai mối quan hệ giữa hai Đảng vì lúc này Đảng ta chưa ra hoạt động công khai mà nhấn mạnh đến quan hệ giữa hai Nhà Nước. Trước mắt cần thành lập Đại Sứ Quán Việt Nam tại Liên Xô và sau đó cử vị Đại Sứ đầu tiên của nước ta ở Liên Xô là đồng chí Nguyễn Lương Bằng. Xtalin cũng đề nghị ta nên mở các chiến dịch lớn, mở rộng các khu giải phóng, nhất là khu vực tiếp giáp với Trung Quốc để tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ với các nước bên ngoài. Về viện trợ thì Liên Xô giúp đỡ Việt Nam cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước mắt, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam thuốc men, xe vận tải, các loại vũ khí nặng như pháo cao xạ, súng đại bác, cối hạng nặng... Viện trợ của Liên Xô sẽ được chuyển tới qua con đường Trung Quốc, vừa nhanh chóng vừa bí mật. Đây cũng là lý do để chúng ta mở chiến dịch Biên Giới tháng 10.1950 ...
        Đầu tháng 3.1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh rời Matxcơva bay về Bắc Kinh và ngày 4-3-1950, Người đã hội đàm với Thủ Tướng Chu Ân Lai. Trong cuộc hội đàm này, phía Trung Quốc đồng ý để vùng Quảng Tây tiếp giáp với Việt Nam làm nơi tiếp nhận viện trợ, điều dưỡng, chữa trị thương bệnh binh, mở lớp đào tạo, học tập, bồi dưỡng cho cán bộ, học sinh và cử một phái đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc qua Việt Nam mà Trưởng Phái Đoàn đầu tiên là tướng Trần Canh ... (14)
        Quá nhiều tài liệu và thực tế đã bác bỏ những lời thuyết phục của Jean Lacouture về tính lưỡng diện trong mọi cử động của Hồ Chí Minh vì từ tương quan, hành sử tới hướng suy nghĩ của Hồ Chí Minh không khi nào rời xa khỏi phong trào quốc tế vô sản.
        Chương XIII được tác giả dành để phân tích ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Cộng đối với cách mạng xã hội Việt Nam, nhất là đối với cá nhân Hồ Chí Minh. Theo Lacouture, Hồ Chí Minh nghiêng về Liên Xô do chịu ảnh hưởng nhiều, mang ơn nhiều và cũng có cảm tình nhiều hơn. Tác giả viện dẫn sự kiện Hồ Chí Minh được Liên Xô cử làm phụ tá cho Borodin trong phái đoàn bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên là một sứ mạng đặc biệt, sự kiện Hồ Chí Minh được cử làm đại diện  Đệ Tam Quốc Tế để giải quyết mâu thuẫn giữa các đảng cộng sản tại Đông Dương, tổ chức, thành lập các đảng Cộng Sản Xiêm, Mã Lai, Nam Dương vv..,  sự kiện Hồ Chí Minh được tham dự đại hội 6  Đệ Tam Quốc Tế trong khi Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai không được tham dự… để khẳng định Hồ Chí Minh phải nghiêng về phía Liên Xô hơn. Tác giả tăng thêm sức mạnh cho lập luận của mình bằng sự trưng dẫn một câu tuyên bố của Hồ Chí Minh khi trả lời Danielle Hunebelle, đại diện Truyền Hình Pháp, tháng 7-1964. Danielle Hunebelle hỏi: “Liệu Bắc Việt trong tình trạng bị cô lập có thể sẽ bó buộc trở thành một vệ tinh của Trung Cộng không? Ông Hồ giơ tay lên quả quyết: Không bao giờ!" (15)  Dẫn chứng loại này khó có giá trị tích cực, vì cũng tương tự như lời cam kết của Hồ Chí Minh với tướng Trương Phát Khuê vào tháng 9-1944  là “tôi có một lời bảo đảm đặc biệt với ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 tới” (16) và câu trả lời “tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho độc lập, thống nhất thật sự của tổ quốc tôi”, khi một nhà báo Mỹ đưa ra câu hỏi “Cụ có phải người Cộng Sản không” vào tháng 3-1949 (17).
        Dù vậy, tác giả vẫn tin Hồ Chí Minh mặn mà với Mạc Tư Khoa và tẻ lạnh với Bắc Kinh, đồng thời cho biết thái độ này không được chia xẻ bởi tất cả đảng viên, kể cả các ủy viên bộ chính trị. Tuy nhiên, tác giả tỏ ra dè dặt về trường hợp Lê Duẩn, cho rằng thái độ của Lê Duẩn là một bí ẩn (an enigma), vì các nhà phân tích kinh nghiệm như giáo sư  P. J. Honey của Anh vẫn tin chắc Duẩn phải nghiêng về Liên Xô…trong khi thực sự Duẩn rất quyết liệt trong vấn đề chiến lược cách mạng. Cuối cùng, theo tác giả, Lê Duẩn là người theo lập trường trung dung tương tự Hồ Chí Minh nên ông Hồ mới trao cho chức bí thư thứ nhất.
        Chương XIV, Bác Hồ và Chú Sam, nói về liên hệ giữa Hồ Chí Minh và một số nhân vật Mỹ thời kỳ trước 1946, về bản yêu sách 8 điểm gửi đến hội nghị Versailles họp tại Pháp tháng 6-1919 do sáng kiến của tổng thống Mỹ Willson, về những lần Hồ Chí Minh dừng chân trên đất Mỹ khoảng 1915-1916, về viên phi công Shaw bị rớt máy bay được Phạm Văn Đồng dẫn đến gặp Hồ, về việc Hồ Chí Minh trích tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ đem vào tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, về cả bài thơ viết trong tù của Hồ Chí Minh có nhắc đến Wendell Willkie, ứng cử viên tổng thống đối thủ của Roosevelt, và về việc Hồ nghiên cứu Tam Dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên, trong đó Tôn Dật Tiên nói nhiều đến Abraham Lincoln vv... Tác giả nhấn mạnh chính sách chống thực dân của tổng thống Mỹ Roosevelt… coi đó là điểm khiến Hồ Chí Minh thực lòng muốn có quan hệ tốt đẹp với Mỹ. Tác giả còn ghi rõ xu hướng ủng hộ, chống đối, hay ngờ vực ông Hồ của những nhân vật Mỹ ở Hà Nội, Sài Gòn, Hoa Nam đồng thời không quên cả sự kiện ở Hà Nội những năm 1945-46 đã có một hội Hữu Nghị Việt Mỹ và trên khắp phố phường luôn xuất hiện nhiều biểu ngữ bằng tiếng Anh, chứ không có biểu ngữ nào bằng tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa, hay tiếng Nga vv...
        Tất cả những sự kiện lớn nhỏ được đưa ra để chứng tỏ Hồ Chí Minh không giành được sự ủng hộ của Mỹ không phải thiếu thành tâm cộng tác mà chỉ vì chính sách đối ngoại của chính quyền Truman lúc đó dựa theo quan điểm của nhà ngoại giao sành sỏi Dean G. Acheson đã bỏ đường lối của cố tổng thống Roosevelt để quay ra ủng hộ Pháp vì thấy rằng lúc ấy Pháp cần cho việc chống cộng sản thế giới. Tác giả viết chương này khá công phu, tham khảo tác phẩm của nhiều tác giả như Jean Sainteny, Hilaire de Berrier, Robert Shaplen, Devillers, Bernard Fall, Enrica Colotti-Pischel... và trích nhiều đoạn trong Hồ Chí Minh tuyển tập.
        Với khối lượng tài liệu đó, tác giả phân tích tương đối kỹ từng hành động, thái độ của ông Hồ và còn tỏ ra không muốn gạt bỏ những lời phê bình chỉ trích Hồ Chí Minh là kẻ giả dối, nham hiểm, có nhiều hậu ý được toan tính kỹ cho hành động... Chương này đóng góp lớn cho việc tạo sức lôi cuốn của tác phẩm, tuy nhiên hình ảnh Hồ Chí Minh vẫn hiện ra với những màu sắc nghiêng về phía biểu hiện cảm quan riêng của tác giả.
        Chương XV cũng là chương cuối, Trận Đánh Cuối Cùng, mở đầu bằng lời của ông Hồ: “Hôm nay là trường hợp con châu chấu chọi với con voi. Nhưng ngày mai con voi sẽ bị mổ lòi ruột ra” . Hồ Chí Minh lấy ý từ một ngạn ngữ Việt Nam "Nực cười châu chấu đá xe, Tưởng rằng chấu ngã chẳng dè xe nghiêng”  và có lẽ đã đổi thành "Hôm nay châu chấu chọi voi. Ngày mai voi sẽ bị lòi ruột ra” .
        Jean Lacouture viết chương này năm 1967 khi cuộc chiến Việt Nam đang sôi bỏng. Tác giả gần như dành trọn ba chục trang sách cho chủ đề truy tầm trách nhiệm gây chiến thuộc về ai. Để giải đáp, tác giả phân tích tỉ mỉ nhiều sự kiện với các tài liệu chứng minh lòng yêu nước, yêu hòa bình của Hồ Chí Minh, chứng minh thái độ chống đối của nhân dân miền Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm và tinh thần hiếu chiến của chính giới Mỹ.
        Về con người Hồ Chí Minh, tác giả ghi lại cuộc gặp gỡ với ông Hồ tháng 11-1961, khi tác giả tới Hà Nội và được Phạm Văn Đồng đang là Thủ Tướng lúc đó tiếp kiến. Tác giả kể lại lúc ông đang cùng Phạm Văn Đồng bàn về những vấn đề chính trị, chiến tranh, tìm xem có cách nào để Pháp đứng ra làm trung gian hòa giải ... thì Hồ Chí Minh mở cửa bước vào. "Tiếng chân đi nhẹ nhàng tựa hồ tiếng kêu xào xạc của tơ lụa. Ông Hồ mỉm cười và làm hiệu cho chúng tôi cứ ngồi. Rồi nói: "Thủ tướng giải thích về chính sách tốt hơn tôi. Tôi chỉ tới dự như một người bạn và chuyện gẫu về thời xa xưa. Bây giờ thành phố Paris thế nào?” (18)  Cung cách xuất hiện đó của một nhân vật lãnh đạo quả tình dễ tạo ấn tượng sâu sắc và đầy sức lôi cuốn.
        Jean Lacouture khó rời xa quan niệm về tính lưỡng diện của Hồ Chí Minh vừa yêu chủ nghĩa cộng sản vừa yêu nước nên luôn cho rằng ông Hồ chủ trương tiến hành thống nhất trong hòa bình như hiệp ước Genève 1954 quy định là sẽ tổ chức Tổng Tuyển Cử vào tháng 7-1956. Chính quyền Ngô Đình Diệm dưới áp lực của Mỹ bác bỏ việc mở Tổng Tuyển Cử (19) nên Hà Nội không còn con đường nào khác để đi tới thống nhất ngoài việc ủng hộ các cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam từ 1957, nhất là từ tháng 9-1959.
        Tác giả trưng dẫn Gerald C. Hickey viết trong Làng xã tại Việt Nam rằng ngay từ 1958 ở miền Nam đã có tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng và Harold Hinton thuộc đại học George Washington nói cuộc cách mạng chống phe Diệm đã bắt đầu từ 1957.
        Mốc thời gian 1957-1958 được nhấn mạnh để chứng minh cuộc chiến nổ ra là do chính nhân dân miền Nam nổi lên chống chính quyền miền Nam không chịu thi hành hiệp ước Genève 1954 mở Tổng Tuyển Cử để thống nhất đất nước vào năm 1956 chứ Hồ Chí Minh và chế độ Hà Nội hoàn toàn không chủ trương gây chiến. Tác giả còn trưng dẫn lời bộ trưởng ngoại giao Trần Văn Đỗ của miền Nam lúc ấy công nhận trong mấy năm trước 1960 chỉ có 300 quân Bắc Việt xâm nhập miền Nam. 
        Cách diễn tả được hỗ trợ bằng nhiều tài liệu vẫn lộ rõ ý hướng dắt dẫn người đọc hiểu rằng cuộc chiến nổ ra do dân chúng miền Nam nổi dậy chống chính quyền miền Nam theo Mỹ đi ngược nguyện vọng thống nhất của dân tộc và mức hỗ trợ quân sự của Hà Nội dành cho phong trào tranh đấu tại miền Nam hoàn toàn không đáng kể, nếu không có sự kiện Mỹ ồ ạt đưa quân tới sau 1963. Tuy thế, tác giả không dám xác quyết hẳn về tính chất độc lập của tổ chức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam mà nhận định rằng ban đầu được thành lập do cùng thỏa thuận với nhau, về sau được Hà Nội ủng hộ và che chở để trở thành "tự trị về chiến thuật, nhưng bị kiểm soát về chiến lược”. (20) 
        Tác giả cũng đưa ra một thời khoảng lu mờ của Hồ Chí Minh từ 1961 đến 1964 trên chính trường miền Bắc và nhắc đến việc nhà vô địch về du kích Lê Duẩn trở thành bí thư thứ nhất của Đảng từ tháng 9-1960. Thời khoảng 1961-1964, chiến cuộc miền Nam thực sự chuyển hướng để bùng nổ dữ dội nên có vẻ tác giả muốn viện dẫn tình trạng lu mờ để giữ nguyên tính ôn hòa của Hồ Chí Minh và nhìn nhận Hồ Chí Minh đã bị nhóm Lê Duẩn lấn áp. Nhưng như thế thì tác giả lại quên bản thân tác giả từng cho là Lê Duẩn có thể theo con đường trung dung và chính Hồ Chí Minh đã ủng hộ việc đưa Lê Duẩn lên nắm chức bí thư thứ nhất vì Lê Duẩn có chủ trương tương tự về vấn đề thống nhất.
        Dù vậy, tác giả vẫn trút trách nhiệm gây chiến cho chính quyền miền Nam, nhất là chính quyền Mỹ. Về sự kiện này, tác giả nhắc lại vai trò của Mỹ phía sau cuộc đảo chính 1-11-1963 tại Sài Gòn và cho rằng "ông Diệm đã phải lấy mạng sống trả giá sự thất bại, sự vụng về và ý muốn làm một đồng minh quá độc lập không đúng lúc (21) của Hoa Kỳ”. Tác giả cũng nhắc thêm lời ông Hồ nói với một nhà ngoại giao Ấn Độ vài tuần trước khi ông Diệm chết "Diệm có thể là người yêu nước, theo cách của ông ta", để nhấn mạnh về sự can thiệp của người Mỹ mà theo tác giả diễn tả thì sau cái chết của 2 nhân vật lãnh đạo Ngô Đình Diệm và Kennedy trong tháng 11-1963, những người hiếu chiến tha hồ đem chiến tranh vào Việt Nam.
        Sau khi trút hết cho Mỹ trách nhiệm gây chiến với nhiều sự việc chứng minh, tác giả giải thích lời bác bỏ ngưng chiến của Hà Nội vào lúc Mỹ ngỏ ý muốn thương lượng là do thực tế tình hình đã đẩy cả hai phe vào thế phải tiếp tục chiến tranh. Tác giả ghi nhận là Hà Nội tỏ ra cứng rắn sau khi Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông nhưng cho rằng Hồ Chí Minh không bị Bắc Kinh chi phối vì Mao không thể ra lệnh hòa hay chiến cho Hà Nội được.
        Jean Lacouture đã đưa ra hàng loạt sự kiện theo sách vở, báo chí, lời phát biểu của các nhân vật và phân tích tỉ mỉ với cái nhìn khá thấu đáo. Có điều, nhiều tài liệu cũng có giá trị đóng góp không thiếu ý nghĩa lại không được nhìn đến, đặc biệt là hàng đống tài liệu phản ảnh chủ trương, hành động của Hồ Chí Minh và chính quyền Miền Bắc được ghi lại rất chi tiết trong các hồ sơ chính thức.
        Trước hết, mọi tài liệu của Hà Nội đều ghi rõ và không ngừng lập lại hai nhiệm vụ chiến lược do Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng đề ra cho toàn quân, toàn dân là “Xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam”. Và, chỉ cần nhìn lướt qua tập 8 của bộ hồ sơ chính thức Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử đã có thể đối diện với hàng loạt sự việc và lời nói của Hồ Chí Minh diễn tả ý hướng và chủ trương của ông ta liên hệ tới cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam ra sao.
        Ngày 7-5-1956, Hồ Chí Minh đưa ra lời tuyên bố về nhiệm vụ của Quân Đội, nhấn mạnh rằng: “Quân đội ta phải tiến đến chính quy và hiện đại hóa để bảo vệ công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. (22)
        Về tiến hành đấu tranh tại miền Nam, Hồ Chí Minh phân tích trong phiên họp Bộ Chính Trị ngày 20-1-1961 như sau: “Cần phân tích chỗ yếu, chỗ mạnh của địch, từng hoàn cảnh để hành động, phải đề phòng nổi dậy non, chủ quan, nhưng cũng tránh bỏ lỡ cơ hội... Trước tình hình này, chú ý vũ trang nhưng phải coi trọng hàng đầu công tác xây dựng Đảng”. (23)
        Tại phiên họp Bộ Chính Trị ngày 2-10-1961, về cùng vấn đề, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:“Miền Nam cần nhận định thêm tình hình quốc tế để đối phó cho khéo... Ta không lấy đấm trị đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi để bảo vệ cơ sở, phong trào dần sẽ lên”. (24)
        Ngày 3-12-1961, Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng lần thứ 6 thảo luận về việc đưa Đảng Bộ miền Nam ra công khai dưới tên gọi Đảng Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam Việt Nam với lập luận Miền Nam đã có Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng  thì cũng phải có chính đảng của mình. (25)
        Tháng 9-1963, khi đi nghỉ tại Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã gặp gỡ Chu Ân Lai, Trần Nghị và phát biểu về cuộc chiến tại miền Nam: “Đừng nói phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20  năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh”. (26)
        Hồ Chí Minh còn chỉ thị trực tiếp về những việc cụ thể. Ngày 10-12-1963, tại phiên họp Bộ Chính Trị về cuộc chiến miền Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Nên nêu khẩu hiệu “Người Việt không đánh người Việt”. Và, giải thích thêm: “Ta vừa tiêu diệt, vừa tuyên truyền”. (27)
        Đây là thời khoảng mà theo Lacouture, Hồ Chí Minh bị lu mờ. Nhưng sự hiện diện liên tục kể trên của Hồ Chí Minh trong các hoạt động của Đảng lại chứng tỏ ngược lại. Ngoài ra, ý hướng biểu lộ qua lời lẽ, công việc chỉ cho thấy Hồ Chí Minh luôn chủ trương dùng võ lực để giải quyết vấn đề thống nhất. Cũng qua biểu lộ từ những lời lẽ và hoạt động trên, hình ảnh người yêu nước của Hồ Chí Minh đã nhòa nhạt hẳn dưới hình ảnh một con người đầy tham vọng và cuồng tín theo đuổi lý tưởng riêng của mình, một con người không chỉ nham hiểm xảo trá mà còn không hề tiếc xương máu đồng bào trên phương diện hành động đấu tranh.
        Trên thực tế, Cộng Sản Việt Nam đã chuẩn bị cơ sở cho việc thực hiện chủ trương này từ giữa năm 1954 qua việc cài người nằm lại bí mật tại miền Nam dưới rất nhiều hình thức. Dựa theo vài ý kiến và tài liệu mơ hồ của những người hoàn toàn xa lạ với thực tế Việt Nam như Gerald C. Hickey, Harold Hinton... để kết luận cuộc chiến Việt Nam do người dân miền Nam nổi dậy chống chính quyền miền Nam sau năm 1956 là thiếu cân nhắc nếu không muốn nói là cố tình xuyên tạc sự thực, nhất là khi coi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một tổ chức chính trị hoàn toàn tự phát của nhân dân miền Nam chứ không phải bộ phận công cụ của Cộng Sản Hà Nội.
        Về điểm này, chính Lacouture đã chỉnh lại quan điểm của Gerald C. Hickey bằng ý kiến cho rằng tổ chức được thành lập do cùng nhau thỏa thuận với sự ủng hộ của Hà Nội nhưng về sau chỉ còn là tổ chức tự trị về chiến thuật trong khi bị Hà Nội kiểm soát về chiến lược. Ngay ý kiến này của Lacouture cũng xa rời thực tế vì thực tế đã xác nhận dứt khoát rằng đó chỉ là một tổ chức do Cộng Sản Hà Nội dựng lên làm chiêu bài cho việc tấn công miền Nam bằng quân sự mà thôi. 
        Cho nên chỉ có thể nhìn cuộc chiến miền Nam là hậu quả tất yếu của chủ trương dành quyền thống trị cho người Cộng Sản tại Việt Nam và là bước đi tiếp nối trong chiến lược đấu tranh dưới ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa mà Stalin đã hoạch định và Hồ Chí Minh triệt để tuân thủ từ những năm trước 1940. Cuộc chiến đó là không thể tránh khi người Cộng Sản chưa nắm trọn được quyền hành. Ngay cả trường hợp có tổng tuyển cử thống nhất năm 1956 nhưng nếu kết quả nghiêng về phía miền Nam chẳng hạn thì dù có sự can thiệp của người Mỹ hay không, cuộc chiến vẫn bùng nổ bằng những lý do nào đó. Cuộc chiến hoàn toàn không nhắm giải quyết nguyện vọng của người dân mà chỉ nhắm mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng Sản.
        Lúc tác giả kết thúc tác phẩm thì chiến tranh chưa kết thúc và Hồ Chí Minh chưa qua đời. Tác giả đã tiên tri rằng “nếu ông Hồ không thể thấy nước ông được độc lập, thống nhất thì đàn em ông sẽ còn sống để thấy điều đó”.
        Lacouture có thể rất vui khi thấy lời tiên tri của mình trở thành sự thực vào tháng 4-1975. Nhưng cái đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập mà Lacouture vẫn nghĩ là Hồ Chí Minh dành trọn đời để đấu tranh đạt tới có phù hợp với nguyện vọng của người dân không? 
        Câu trả lời đã được chính Lacouture đưa ra trong tác phẩm Le voyage à travers une victoire viết vào năm 1976, sau chuyến viếng thăm Sài Gòn. Cái thực tế não nề khiến tác giả hoàn toàn thất vọng kia hẳn không thể tách rời khỏi mục tiêu cuộc đấu tranh của nhân vật mà tác giả từng khâm phục!
         
        CHÚ THÍCH
        CHƯƠNG 02
        _______________________________
         
         (*)  Tiếng Pháp là Jésuite. Gọi Dòng Tên, vì  lấy tên Chúa Giêsu (Jesus) đặt cho dòng. Chữ  Jésuite từ chữ  Jesus mà ra.
        (01)  SĐD  tr. 4
        (02)  Năm 1950
        (03)  Từng là toàn quyền Đông Dương
        (04)-(05)-(06)  SĐD  tr. 34,  89,  115
        (07)  SĐD tr.205-215, nguyên văn: HCM is first and foremost a man of original and personal style, a man with a distinctive relationship with the people... Hồ with his magisterial powers of judgement, his inspirational gifts and his miraculous ability to act as mediator among masses, doomed to never-ending war, austerity and a harsh, often brutal regime.
        (08)-(09)  SĐD  tr. 23, 233
        (10)  Đỗ Quang Hưng – Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh – Nxb Lao Động, Hà Nội 1999.
        (11)  Đỗ Quang Hưng đặt từ này trong ngoặc kép.
        (12)  Văn Kiện Đảng 1930-1945 – T. III, tr. 196
        (13)  Hồ Chí Minh nhận quyết định số 60 ký ngày 29-9-1938 sau khi gửi thỉnh nguyện thư cho một cán bộ Quốc Tế Cộng Sản. Hồ Chí Minh về Nga năm 1934 dự Đại Hội 7 Quốc Tế Cộng Sản tháng 8-1935 và Đại Hội 6 Quốc Tế Thanh Niên tháng 9-1935. Năm 1936, Hồ Chí Minh xin về hoạt động tại Đông Dương nhưng được lưu lại Viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa và không được giao công tác gì nên ngày 6-6-1938 đã viết lá thư thỉnh nguyện có những câu sau: “Tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này. Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài Đảng..” – HCM, BNTST.2, tr. 60
        (14)  Hồ Thức Hòa – Lao Động, Xuân Canh Thìn, Hà Nội 2000.
        (15)  SĐD  tr. 248
        (16)  Hồ Chí Minh, Biên Niên Tiểu Sử – T.2, tr. 205
        (17)  Hồ Chí Minh Toàn Tập – T.5, tr. 575
        (18)  SĐD  tr. 283-284
        (19)  Lúc đó, chính quyền Miền Nam chỉ nêu điều kiện tiên quyết là Miền Bắc phải ban hành các quyền tự do căn bản, đặc biệt là tự do ngôn luận để tiến tới Tổng Tuyển Cử.
        (20)  SĐD  tr. 294, nguyên văn: Tactically autonomous, strategically controlled.
        (21)  SĐD  tr. 285, nguyên văn: unduly independent ally.
        (22)-(23)-(24)-(25)-(26)-(27) HCM, BNTS –T.8, tr. 164, 21, 150, 176, 457, 492.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2007 23:08:57 bởi silverbullet >
        #4
          silverbullet 17.05.2007 18:27:11 (permalink)
          *Chương 03*
          PIERRE BROCHEUX
          và Hồ Chí Minh
           
          Tác phẩm về Hồ Chí Minh của Pierre Brocheux, chuyên gia Pháp về các vấn đề Đông Dương, mang tựa đề Hồ Chí Minh do Presses de Sciences PO xuất bản tháng 5-2000. So với tác phẩm của Jean Lacouture (1970), David Halberstam (1971), Nguyễn Khắc Huyên (1971) Wilfred Burchett (1972), Paul Mus (1972)… và của Daniel Hemery (1990) rồi William J. Duiker (2000) là những tác giả nổi tiếng về tiểu sử Hồ Chí Minh thì đây là tác phẩm tương đối mới, không những về thời gian phát hành mà cả về cách nhìn. Đặc biệt trong phần thư mục, tác giả đã nêu tên hoặc tác phẩm của một số nhân vật Việt Nam thuộc phía quốc gia tại hải ngoại như các giáo sư  Lê Hữu Mục, Tôn Thất Thiện, Nguyễn Khắc Huyên, Bùi Xuân Quang… Giáo sư Bùi Xuân Quang còn được nêu trong số 10 người được tác giả ghi ơn vì đã giúp ông hoàn thành tác phẩm. Tác giả cho biết đã đọc tác phẩm Hồ Chí Minh, a life của W. J. Duiker, khi còn là bản thảo (1). Như thế, có thể bảo Brocheux đã hoàn thành cuốn Hồ Chí Minh với cả tài liệu, ý kiến và kinh nghiệm của Duiker.
          Khi cả hai cuốn sách cùng ra trong năm 2000, bà Judy Stow, nhà bỉnh bút của đài BBC, đã so sánh và cho rằng Pierre Brocheux cân nhắc, thận trọng hơn, nêu lên được nhiều nghi vấn không thấy trong tác phẩm của Duiker. Theo Judy Stow, Duiker vẫn nhìn Hồ Chí Minh theo cái nhìn cũ dù nhiều tài liệu mật về cộng sản thế giới đã được bạch hóa do tình hình thay đổi. Riêng Brocheux tỏ ra thận trọng khi đặt mọi giá trị nhận định trên hai yếu tố thời gian và thực giả đan xen của những sự kiện. Về thời gian, Brocheux cho rằng chưa đủ mức để những xúc động thời thế lắng xuống hầu đạt tới cái nhìn thật chính xác về một nhân vật lịch sử như Hồ Chí Minh. Cũng từ yếu tố thời gian này nên chưa thể phân biệt rạch ròi giữa chính sử với huyền thoại vốn luôn luôn đan xen, chồng chéo trên nhân vật Hồ Chí Minh.
          Sách gồm 18 chương gom vào 2 phần chính.
          Chương 1, phần I, tác giả dành thuật lại những gì Hồ Chí Minh viết về mình dưới bút hiệu Trần Zân Tiên (2) và T.Lan trong hai cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch Vừa đi đường vừa kể chuyện. Đây là điểm khác biệt hẳn so với các tác phẩm viết về Hồ Chí Minh đã xuất bản. Trong các tác phẩm này, không tác giả nào dành hẳn một chương để nói về những điều mà Hồ Chí Minh tự viết về chính mình.
          Brocheux không chỉ đề cập tới cuốn sách do Hồ Chí Minh dùng bút hiệu khác để tô điểm cho mình mà còn nhìn cung cách lưu tâm của Hồ Chí Minh dành cho cuốn sách  như một sự kiện cần lưu ý. Theo Brocheux, vào năm 1948, Hồ Chí Minh đã có bản dịch Pháp ngữ cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch trao cho một nhân viên phụ trách phòng thông tin Cộng Sản Việt Nam ở Ngưỡng Quang, Miến Điện, tên Hoàng Nguyên, chỉ thị cho nhân vật này tìm người dịch ra Anh ngữ và sau này ra nhiều thứ tiếng khác.
          Tác giả cho rằng chủ đích của Hồ Chí Minh đặt vào hai cuốn sách này là khiến cho người dân yêu mến lãnh tụ và vững tin vào chiến thắng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản. Chủ đích thứ nhất nằm trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch còn cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện dành cho chủ đích thứ hai.
          Tác giả trích dẫn từ cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch: "Đàng khác ông (Hồ) yêu trẻ con và chúng yêu ông. Lòng hiếu thảo được chia sẻ: "Nhân dân gọi Hồ chủ tịch là "Cha Già của dân tộc”. (3) Tác giả chỉ trích dẫn mà không bình luận. Tuy nhiên, câu trích dẫn trên từ bản dịch Pháp ngữ khó thể có tác động làm nẩy ra những ý nghĩ về Hồ Chí Minh so với cái đoạn nguyên tác tiếng Việt mà chính Hồ Chí Minh đã viết như sau: “Mọi người kính mến Hồ Chủ Tịch, nhất là thanh niên và nhi đồng. Ở ngoài mặt trận khi xung phong các chiến sĩ hô lớn: “Vì Tổ Quốc và vì Bác Hồ, tiến lên!”  Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn.
          Về Hồ Chủ Tịch, còn nhiều chuyện khác, viết thành nhiều quyển sách nhỏ, làm thành những bài hát, bài thơ. Một vài chuyện nhỏ kể dưới đây cũng đủ tỏ lòng kính mến của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ.
          Một bức ảnh nhỏ của Người ở Hà Nội có đồng bào mua tới giá một trăm ba mươi vạn đồng. Ở Nam Bộ, một chiến sĩ du kích họa sĩ bị thương ở chiến trường, trong khi chờ đợi cứu thương đến, đã lấy máu mình vẽ lên áo ảnh Hồ Chủ Tịch. Hội Phụ Nữ Cứu Quốc gửi tặng Hồ Chủ Tịch một bộ áo lụa. Hồ Chủ Tịch tặng anh em thương binh bộ áo này. Ban Tổ Chức Giúp Đỡ Thương Binh đem bán đấu giá bộ áo này, thu được bốn mươi sáu vạn bảy nghìn đồng. Nhưng rất nhiều đoàn thể nhân dân từ Nam đến Bắc yêu cầu kéo dài thời hạn bán đấu giá, mong mua được bộ áo ấy với giá đắt hơn.
          Những chuyện như trên còn nhiều, kể không hết được. Thanh niên, nhi đồng các nước bạn cũng thường gửi thư thăm hỏi Bác Hồ. Nhân dân gọi Chủ Tịch là Cha Già của dân tộc, vì Hồ Chủ Tịch là người con trung thành nhất của Tổ Quốc Việt Nam”. (4)
          Giả dụ mọi chuyện ghi trên không hề bịa đặt thì khi nghe một người khác kể lại về mình như vậy, một người thành thực và khiêm cung hẳn khó tránh áy náy về sự tâng bốc mà mình nhận được. Nhưng đây lại là những dòng chữ do một người mượn tên khác để tâng bốc bản thân trước quần chúng thì con người đó sẽ được nhìn ra sao? Brocheux không bình luận có lẽ vì thấy chẳng cần bình luận và cũng có thể vì chưa dứt khoát theo một cách đánh giá nào đó.
          Riêng người đọc có thể thấy cái danh hiệu tôn sùng Cha Già Dân Tộc đã do Hồ Chí Minh đưa ra gợi ý rất sớm (5) rồi sau này thành mệnh lệnh cho đàn em tôn sùng và truyền bá sự tôn sùng đó trong quần chúng. Nhưng nếu Brocheux có thể im lặng không đưa ra một bình luận nào thì nhà báo Mỹ David Halberstam hẳn phải nghĩ về một nhận định từng nêu ra trong tác phẩm viết về tiểu sử Hồ Chí Minh với tựa đề Ho. Halberstam từng quả quyết: "Titô, Stalin, Khrutschev, Mao Trạch Đông... hết thẩy đều mắc bệnh tôn sùng cá nhân. Riêng Hồ Chí Minh thì không”! (6)
          Thật khó hình dung nổi một người không hề mắc bệnh tôn sùng cá nhân mà lại muốn người dân khắp nước gọi mình là Cha già dân tộc, muốn những chiến binh đang quằn quại với thương tích giữa mặt trận nghĩ ngay tới việc lấy máu để vẽ hình ảnh mình, muốn đặt mình ngang với tổ quốc qua cái khẩu hiệu tự chế “Vì Tổ Quốc và vì Bác Hồ Tiến lên !” ....
          Trong cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện, Hồ Chí Minh dành một số trang nói về sự tàn ác của Đức Quốc Xã, về những khó khăn trở ngại của Liên Xô và Trung Cộng trong cuộc chiến chống kẻ thù, nhưng cuối cùng bao giờ Cộng Sản cũng chiến thắng. Brocheux cho rằng Hồ Chí Minh nhắc lại những chuyện này để khuyên nhân dân Việt Nam nuôi chí quyết thắng và cũng là cách in vào tâm trí nhân dân sự tin tưởng chắc chắn rằng cuối cùng chủ nghĩa cộng sản vẫn toàn thắng. Ông Hồ kết thúc cuốn sách Vừa đi đường vừa kể chuyện bằng câu: Chủ nghĩa xã hội chắc chắn sẽ là một thực tại trên toàn thế giới: điều đó cũng sáng tỏ và chắc chắn như mặt trời mọc ở hướng Đông. (7)
          Đoạn này trong tác phẩm Vừa đi đường vừa kể chuyện bản tiếng Việt do Hồ Chí Minh viết như sau: “Những câu chuyện trên đây Bác vừa đi đường vừa kể. Tối đến chỗ nghỉ, chúng tôi nhớ được chừng nào ghi lại chừng nấy. Từ những câu chuyện đó, chúng tôi càng thấy rõ:
          – Một là lực lượng của Mỹ-Tưởng mạnh như thế (hơn 8 triệu quân) mà cũng bị giải phóng quân đánh tan; phát xít Đức-Ý-Nhật hung dữ như thế mà cũng bị hồng quân Liên Xô tiêu diệt.
          – Hai là, phe đế quốc chủ nghĩa ngày càng suy sụp, phe xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh.
          – Ba là, trước đây phát xít Đức đã hết sức dùng mọi cách hung ác trong âm mưu chống Cộng, kết quả chúng đã thất bại một cách tồi tàn. Ngày nay, đế quốc Mỹ đang đi theo vết xe chống Cộng của Hitle, chắc chắn rằng số phận của đế quốc Mỹ cũng sẽ kết thúc một cách thảm hại như số phận của Hitle.
          – Bốn là, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thực hiện khắp thế giới: Điều đó cũng rõ rệt và chắc chắn như mặt trời mọc từ phương Đông”. (8)
          Lưu tâm đặc biệt tới hai cuốn sách này, Brocheux tỏ ra thận trọng và phân tích sự việc tương đối khách quan hơn Duiker trong việc xác định xu hướng lý tưởng của Hồ Chí Minh. Brocheux không bị chìm ngập giữa khối lượng tài liệu để lâm cảnh cây che mất rừng và lẫn lộn giữa thuật chuyện với phân tích sự việc (9) như cảnh Duiker vướng phải và Borcheux đã nhận ra, khi đọc bản thảo của tác giả này.
          Brocheux còn dành thêm 2 chương khác dẫn những ý kiến ngược chiều về Hồ Chí Minh. Qua 2 chương này, Brocheux có vẻ muốn chứng tỏ sự vô tư trong khi nhận định bằng cách đối diện với cả lời khen lẫn tiếng chê. Nếu trước mắt Brocheux đã hiện ra một Hồ Chí Minh trong vóc dáng của nhà hiền triết, nhà ngoại giao lỗi lạc... qua diễn tả của các đồng chí, các thủ hạ, thì Hồ Chí Minh cũng hiện ra trong vóc dáng một kẻ đạo văn, kẻ chuyên đóng kịch... qua diễn tả của phía chống đối.
          Nhưng Brocheux không hoàn toàn khách quan như muốn chứng tỏ qua cách thức cân nhắc các tài liệu được vận dụng, chính xác hơn là cách thức cân nhắc những tài liệu thuộc phía chống đối. Tuy dành hẳn một chương cho những tài liệu này, Brocheux đã đọc tài liệu trong sự bán tín bán nghi và  thường ngả theo xu hướng sẵn sàng bác bỏ hoặc đẩy sự việc về một phía nào đó không liên quan tới đối tượng đang hiện ra trước mắt. Chẳng hạn Brocheux đã hai lần nhắc đến Hoàng Văn Hoan nhưng chỉ nhắc để nói về việc Hoàng Văn Hoan kết tội Lê Duẩn, rồi kết luận đó là sự thanh toán một món nợ giữa hai cá nhân Hoan – Duẩn mà thôi. Tất nhiên trên căn bản đó, mọi phát biểu của Hoàng Văn Hoan trở thành không đáng tin dù qua những phát biểu này, người đọc có thể nhận diện chính xác Hồ Chí Minh với những sự việc diễn ra liên tục nhiều năm từ thuở Hồ Chí Minh trà trộn giữa hàng ngũ những người cách mạng Việt Nam tại Hoa Nam trước 1945.
          Ngay cả khi trưng dẫn Bảo Đại và Vũ Thư Hiên để nói về chuyện Hồ Chí Minh đóng kịch, Brocheux cũng tỏ ra không tin đó là những lời nói thật. Thậm chí khi trích lời Vũ Đình Hùynh do Vũ Thư Hiên ghi lại trong tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày, Brocheux vẫn dè dặt viết thêm “Nếu người ta chấp nhận lời chứng của Vũ Đình Huỳnh ... – Si l'on accepte le témoignage de Vũ Đình Huỳnh…” (10) 
          Tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày với độ dày bảy trăm trang chứa đựng rất nhiều sự kiện phản ảnh cái nhìn về Hồ Chí Minh của nhiều thành phần khác nhau ngay tại miền Bắc Việt Nam đều không được Brocheux nhắc tới, kể cả những vụ án chính trị tàn khốc như vụ tướng Lê Liêm bị Hồ Chí Minh hứa hỗ trợ rồi bỏ mặc cho thủ hạ trấn áp và chuyện Phó chủ tịch Quốc Hội Dương Bạch Mai bị đầu độc do chống lại nghị quyết 9 thúc đẩy đưa quân xâm nhập miền Nam...
          Brocheux còn bỏ quên nhiều tác phẩm chứa đựng các sự việc phản ảnh con người Hồ Chí Minh của nhiều tác giả chống đối hay Cộng Sản ly khai như  Kiều Phong, Việt Thường, Hoàng Văn Chí, Hoàng Quốc Kỳ... Vì vậy, chỉ riêng cái tài đóng kịch của Hồ Chí Minh đã khiến Brocheux băn khoăn bán tín bán nghi dù có thể khẳng định đóng kịch đã trở thành bản tính tự nhiên – une seconde nature – do là thói quen lâu năm của ông Hồ.
          Cảm tưởng rõ rệt của người đọc khi gấp cuốn sách lại là Brocheux chỉ nhìn vào tài liệu sách vở mà không nhìn vào các sự kiện lịch sử Việt Nam trong thời gian Hồ Chí Minh nắm quyền như thanh toán người đối lập, kể cả người chung lý tưởng cộng sản – phe đệ Tứ Quốc Tế –, ban hành chính sách cải cách ruộng đất, mở chiến dịch Tết Mậu Thân 1968  tổng tấn công miền Nam với những thảm cảnh tàn phá chết chóc trong đó có 3000 thường dân gồm cả các nhà văn hóa, từ thiện ngoại quốc bị giết hoặc chôn sống trong mồ tập thể ở Huế ....
          Brocheux cũng không bày tỏ một ý nghĩ gì về tiếng than oán cất lên liên tục nhiều năm qua của người dân Việt Nam và những hành động quyết liệt xa lánh cái chế độ mà Hồ Chí Minh đã dựng lên trên đất nước Việt Nam bằng xương máu của hàng triệu người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ...
          Khuôn bó cái nhìn trong giới hạn những tài liệu sách vở với định kiến nghi ngờ các tiếng nói chống đối nên trước mắt Brocheux, Hồ Chí Minh vẫn hiện ra như thần tượng của người dân Việt Nam. Dường như việc Hồ Chí Minh là con người tham vọng đến mức giả dối, tàn ác vẫn là điều khó hiểu và vì thế là điều khó tin đối với không ít người cầm bút Tây Phương.
          Cho nên, tuy không xác quyết Hồ Chí Minh là người quốc gia yêu nước nhất như Jean Lacouture, không xác quyết Hồ Chí Minh là người đấu tranh mạnh mẽ cho những người cùng khổ trên thế giới như Duiker, nhưng Brocheux vẫn hết sức dè dặt trong nhận định về con người Hồ Chí Minh.
          Thái độ dè dặt này thể hiện ngay trong việc Brocheux trưng dẫn tài liệu về một giai đoạn hoạt động của Hồ Chí Minh từ cuốn sách mà Hồ Chí Minh tự viết về mình dưới bút hiệu Trần Zân Tiên và cuốn sách của sử gia Cộng Sản Việt Nam là đại tá Hồng Hà, Bác Hồ trên đất nước Lê-Nin. Đó là giai đoạn Hồ Chí Minh sống tại Quảng Đông năm 1925 mà Brocheux ghi lại giống như tài liệu của Hồng Hà. Trong trường hợp này, sự giả dối và đóng kịch không còn do người khác kể vì hiện hình bằng chính việc làm của Hồ Chí Minh mà Brocheux đã gạt qua do có thể coi như lời nói không đáng tin, cụ thể là nói dối. Tuy vậy, Brocheux không hề nêu chỉ một dấu hỏi về sự được tôn sùng của Hồ Chí Minh trong dân chúng Việt Nam.
          Dầu sao thì đặt bên cạnh Duiker hoặc nhiều tác giả khác, Brocheux đã thận trọng và phân tích sự việc tương đối khách quan hơn, đặc biệt về xu hướng lý tưởng của Hồ Chí Minh. Với Brocheux, màu sắc quốc gia yêu nước của Hồ Chí Minh có vẻ nhòa nhạt hơn trong khi niềm tin của Hồ Chí Minh đặt vào chủ nghĩa Cộng Sản hiện ra khá đậm đà, nhất là qua những đoạn trích từ tác phẩm Vừa đi đường vừa kể chuyện với lời quả quyết chủ nghĩa cộng sản toàn thắng là thực tại như mặt trời lúc nào cũng mọc ở hướng Đông.
          Hiện nay, giá trị của lời quả quyết kia là điều không còn ai cần bàn tới, nhưng chẳng lẽ cũng không cần nhắc tới thực tế này, khi đánh giá về con người và sự nghiệp của kẻ đã nỗ lực chạy theo ảo tưởng bằng không biết bao nhiêu xương máu và đau khổ của người dân?
          Tóm lại, hình ảnh nhân vật Hồ Chí Minh qua tác phẩm của Brocheux tuy bớt nhiều nét tô vẽ thiên lệch, nhưng chưa vượt khỏi mức hạn chế đó. Lý do chủ yếu có lẽ như Brocheux đã nêu ra, thời gian chưa đủ dài cho các xúc động thời thế lắng xuống để những người làm công việc chép sử có đủ tỉnh táo phá vỡ tình trạng đan xen chồng chéo giữa huyền thoại với chính sử, và vì thế, sự thực vẫn chìm khuất trong khói mù gian trá.
          Như vậy, dù đã có thêm tác phẩm của Brocheux, người đọc vẫn phải tiếp tục hy vọng vào thời gian để chờ tới một ngày nào đó trong tương lai, nếu muốn được nhìn rõ bộ mặt thực của nhân vật Hồ Chí Minh.
           
          CHÚ THÍCH
          CHƯƠNG 03
          _____________________________
          (01)  Tác phẩm này phát hành năm 2000, nhưng không đề tháng còn cuốn của Brocheux ghi rõ ra vào tháng 5-2000.
          (02)  Tác giả giữ nguyên chữ “Z” theo lối viết của Hồ Chí Minh thay cho chữ “D” trong tiếng Việt.
          (03)  Những mẩu chuyện về đời ... - bản Pháp văn,  tr. 149
          (04)  Những mẩu chuyện về đời … - bản Việt văn,  tr. 165-166
          (05)  Sách viết xong đầu năm 1948, ít nhất phải khởi sự  từ 1947.
          (06)  Ho, D. Halberstam,  Nxb Random House, NY, 1971, tr. 16.
          (07)-(09)-(10) SĐD  tr. 90, 75,  59
          (08)  Vừa đi đường vừa kể chuyện – bản Việt văn,  tr. 97
           
          #5
            silverbullet 25.06.2007 13:34:15 (permalink)
             Chương 04*
            DAVID HALBERSTAM
            và  Ho
                                      
            Nhà báo David Halberstam sinh năm 1934, từng nổi tiếng về các tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam như The Making of a QuagmireThe Best and the Brightest.
             
            Năm 1964, lúc làm phóng viên cho tờ Times, Halberstam được tặng giải Pulitzer về báo chí. Năm 1971 nhà xuất bản Random House, New York phát hành cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh của Halberstam với cái tựa vẻn vẹn có hai mẫu tự Ho dưới bức chân dung Hồ Chí Minh đầy vẻ khắc khổ.      
             
            Cuốn sách mỏng 120 trang thu gọn trong 6 chương được tái bản năm 1987. Halberstam dựng lại cuộc đời Hồ Chí Minh dựa phần lớn vào tài liệu trích từ tác phẩm của Jean Lacouture là một trong 10 cuốn mà tác giả tham khảo. Ngoài ra, tác giả cũng trích thêm tài liệu của một số chuyên viên nghiên cứu về Việt Nam như Paul Mus, Bernard Fall, Joseph Buttinger, Robert Shaplen...
             
            Halberstam dành trọn chương đầu nói về bối cảnh xã hội Việt Nam lúc Hồ Chí Minh ra đời, một xã hội bất công do thực dân Pháp tạo nên, với những đặc quyền đặc lợi dành ưu tiên cho người da trắng và giáo hội Công Giáo. Halberstam viết: "Hầu hết những địa vị ưu thế có đặc quyền đặc lợi đều nằm trong tay người công giáo... Người Tây phương coi người công giáo Việt Nam  như là người tốt, có học thức hơn, được rèn luyện kỹ hơn, văn minh hơn, có thể trở thành mẫu mực cho xứ sở trong tương lai. Trái lại, những người Việt Nam khác có vẻ hèn kém; về phần họ, những người này càng ngày càng trở nên chua chát đắng cay, không thể nào nổi lên trong chính xứ sở của mình”.
             
            Nhận định bao quát hóa đầy tính chủ quan này thường đến rất dễ dàng với không ít người làm công việc phân tích thực tế và do đó người đọc có thể gặp ở nhiều tác phẩm khác. Chẳng hạn trong tác phẩm Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại của Chính Đạo, người đọc cũng bắt gặp những nhận định tương tự chiếm gần một phần tư tổng số trang của cuốn sách chỉ trích những nhân vật tiêu biểu của tập thể tín hữu công giáo thời ấy như Paulus Hùynh Tịnh Của, Petrus Trương Vĩnh Ký, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Diệm vv...
             
            Mở đầu chương 2, Halberstam giới thiệu Hồ Chí Minh “là khuôn mặt phi thường của thời đại – một phần là Gandhi, một phần là Lênin, tất cả là Việt Nam. Có lẽ,  hơn bất cứ nhân vật nào trong thế kỷ, ông Hồ là hiện thân cuộc cách mạng của dân tộc ông đối với dân tộc ông và cả đối với thế giới.” (1) 
             
            Sau đó tác giả đã để trong ngoặc đơn, nêu nhận xét rằng ngay sau trận Điện Biên Phủ, nhân dân bất bình với Đảng,nhưng vẫn thận trọng không trách cứ Hồ Chí Minh. "Cộng sản trách nhiệm về những điều xấu; bác Hồ về những điều tốt.” Cũng ở chương này, tác giả ghi lại lời Hồ Chí Minh tâm sự với nhà báo Mỹ Harold Isaacs: "Tôi cô đơn lắm, chẳng có gia đình, chẳng có gì... Đã có lần tôi có vợ đấy…”
             
            Tác giả tiếp tục bày tỏ sự ngưỡng mộ phẩm hạnh của Hồ Chí Minh bằng nhận định Hồ Chí Minh là người không mắc bệnh sùng bái cá nhân như phần lớn các lãnh tụ khác. "Tito, Stalin, Khrushchev, Mao... hết thẩy đều có tật sùng bái cá nhân. Nhưng Hồ thì không…” (2)     
                    
            Chương 3 nói về việc Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Cộng Sản, tác giả trích thuật một số đoạn trong một bài viết của Hồ Chí Minh, Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin (3): "Một đồng chí trao cho tôi đọc Luận cương về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân của Lênin  được công bố trên tờ Nhân Đạo (Humanité)…Tôi quá đỗi vui mừng. Dù chỉ ngồi một mình trong phòng, tôi cũng la lớn lên như nói trước đám đông: "Hỡi các bậc tuẫn tiết, hỡi đồng bào! Đây rồi, điều mà chúng ta cần, đây là con đường giải phóng chúng ta!…Chủ nghĩa Lênin không những là cẩm nang, địa bàn dành cho chúng ta, những người cách mạng và nhân dân; nó cũng là mặt trời rực sáng soi đường dẫn lối tới thắng lợi cuối cùng, tới xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. (4)
             
            Cho rằng Hồ Chí Minh thực sự có thanh thế sau khi bỏ phiếu tán thành Đệ Tam Quốc Tế của Lênin và trở nên đảng viên sáng lập đảng Cộng Sản Pháp, Halberstam trích dẫn lời của Bernard Fall khẳng định cuộc đời Hồ Chí Minh đã thay đổi hẳn từ đó. Tất nhiên, bước đầu tiên trên đoạn đường mới này của Hồ Chí Minh là việc rời Pháp sang Nga năm 1923. Về sự việc này, Halberstam ghi theo lời kể của Trần Dân Tiên rằng Hồ Chí Minh tới Moscow sau khi Lênin đã chết và không nêu ý kiến về những chi tiết trái ngược ghi trong các tài liệu khác.
             
            Đề cập tới thời kỳ Hồ Chí Minh hoạt động tại Hoa Nam, Halberstam dựa khá nhiều vào tài liệu của Jean Lacouture và tán đồng hầu hết ý kiến của tác giả này về các giai đoạn đấu tranh theo sách lược Cộng Sản mà Hồ Chí Minh đã thực hiện qua hành động cụ thể là xâm nhập các tổ chức đấu tranh yêu nước của người Việt Nam tại đây (5) để lũng đoạn và chuyển hóa thành tổ chức cộng sản. Halberstam trích dẫn nhận định của Lacouture nhấn mạnh tới hai bước đi giai đoạn trong sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, theo đó giai đoạn đầu đặt nặng mục tiêu cách mạng dân tộc kêu gọi những thành phần ý thức nhất trong mọi giai cấp với dự kiến thiết lập một chế độ dân chủ tư sản và giai đoạn hai nhắm mục tiêu dẫn tới xã hội chủ nghĩa chỉ thực hiện sau khi đã chuyển hóa các điều kiện kinh tế và xã hội, là việc có thể phải mấy thập niên mới đạt được. (6)
             
            Khác biệt giữa hai tác giả là Lacouture ghi nhận, qua sự việc này, thâm ý cùng sự tuân thủ tuyệt đối của Hồ Chí Minh đối với sách lược giai đoạn do Quốc Tế Cộng Sản hoạch định, trong khi Halberstam hết lời tán tụng tài trí của Hồ Chí Minh. Theo đà tán tụng đó, Halberstam không nhắc đến chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản khi nói về việc thống nhất 3 đảng và liên đoàn Cộng Sản thành Đông Dương Cộng Sản Đảng ngày 3-2-1930 tại khán đài sân vận động Hồng Kông, coi như đây là sáng kiến độc lập của Hồ Chí Minh. (7) 
             
            Một điểm khác biệt nổi bất khác so với những tác giả muốn dập xóa nhiều tin tức bất lợi để tạo hình ảnh Hồ Chí Minh phù hợp sự ngưỡng mộ của mình là Halberstam đã xác nhận việc Hồ Chí Minh báo cho mật thám Pháp bắt Phan Bội Châu để lãnh 150 ngàn bạc Đông Dương tiền thưởng. (8) 
             
            Halberstam nêu ra bốn lý do để biện bạch việc làm trên là hành vi thể hiện tài trí hơn người của Hồ Chí Minh trong đấu tranh cách mạng:
            – Thứ nhất, Hồ Chí Minh thấy rõ cụ Phan đã già nua, lạc hậu, không còn là người của cách mạng nữa.
            – Thứ hai, cụ Phan dù bị bắt cũng chắc chắn giữ được mạng sống vì uy tín quốc tế của cụ sẽ khiến người Pháp không dám đem cụ ra xử tử.
            – Thứ ba, báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan, Hồ Chí Minh và các đồng chí sẽ nhận được một món tiền lớn vốn rất cần cho việc điều hành đại sự.
             
            – Thứ tư, loại được cụ Phan khỏi sân khấu chính trị, Hồ Chí Minh và các đồng chí sẽ nhanh chóng thu nhận – pick up – được rất nhiều thanh niên nhiệt huyết lưu vong đang tập trung xung quanh cụ Phan lúc đó. (9) 
             
            Mức tài trí này còn được chứng tỏ thêm bằng sự an toàn của Hồ Chí Minh khi hàng trăm ngàn người bị sát hại trong cuộc thanh trừng đẫm máu vào thời gian Staline tiêu diệt phe cánh Trotsky và cũng là thời gian Hồ Chí Minh từ Hoa Nam trở về sống tại Nga. Halberstam trích dẫn ý kiến của Bernard Fall coi việc Hồ Chí Minh thoát nạn là điều lạ và giải thích vì "Hồ trung thành vô điều kiện với Stalin và Stalin biết rõ điều ấy.” (10)
             
            Hồ Chí Minh không những sống sót qua cuộc thanh trừng của Staline mà còn được tin cậy để nhận nhiều công tác quan trọng tại Trung Hoa và Đông Nam Á. Năm 1938, Hồ Chí Minh về Hoa Nam làm việc và nghiên cứu học hỏi thêm, rồi mùa đông 1940 cùng với Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp về lập khu giải phóng ở Pac Bó thuộc tỉnh Cao Bằng, đó là lần đầu tiên Hồ bí mật về nước sau 30 năm xa quê hương. (11)  
             
            Chương 4 ghi lại hoạt động của Hồ Chí Minh trong việc thành lập phong trào yêu nước, nhưng Halberstam đã dành những dòng đầu nói về việc Hồ Chí Minh đặt tên một ngọn núi là núi Karl Marx và một dòng suối là suối Lênin. 
             
            Năm 1942, Hồ Chí Minh bí mật qua Trung Hoa để tìm cách liên hệ với chính phủ Tưởng Giới Thạch. Tuy cải trang như một nhà báo Trung Hoa làm việc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn bị bắt ngay sau khi vừa qua biên giới.
             
            Dịp này, Phạm Văn Đồng báo cáo về là Hồ đã chết!
             
            Theo Võ Nguyên Giáp sở dĩ có sự lầm lẫn chỉ vì Phạm Văn Đồng hiểu lầm hai tiếng Trung Hoa, đọc gần giống nhau nhưng nghĩa trái ngược. (Thoát rồi thành ra Chết rồi:“Chu liu! Chu liu! – Xuất liễu! Xuất liễu (very fit) thành ra Su liu! Su liu! – Tử liễu! Tử liễu! (already dead)”. Hồ bị giam 13 tháng.
             
            Về sau Trung Hoa Quốc Dân Đảng muốn dùng lực lượng Việt Minh để lấy tin tức và hậu thuẫn nên thả Hồ Chí Minh và còn tặng 100 ngàn đồng để chi dụng. Với phương tiện cùng kinh nghiệm tình báo và phản tình báo học được từ Liên Xô, Hồ Chí Minh lại quay về nước. (12)  
             
            Chương 5, nói về cuộc kháng chiến chống Pháp và trận Điện Biên Phủ.
             
            Hồ Chí Minh về Hà Nội ngày 25-8-1945, sáu ngày sau cách mạng tháng 8. Ngày 30-8-45, thành phần chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được loan báo. Có nhà báo trực tiếp hỏi Hồ Chí Minh có phải Nguyễn Ái Quốc không, Hồ Chí Minh chỉ lửng lơ trả lời mình là người cách mạng đã đấu tranh để giải phóng dân tộc Việt Nam. Halberstam cho rằng như vậy có nghĩa là cái tên chẳng quan trọng gì đối với Hồ Chí Minh.
             
            Tất nhiên khi xác quyết như vậy, Halberstam không đề cập đến sự chống đối Cộng Sản của nhiều đoàn thể chính trị Việt Nam yêu nước, không nói đến thái độ e dè của đại đa số dân chúng trước danh từ Cộng Sản và nhất là, không nhắc lại nỗi kinh hoàng của một số người trước những cuộc bạo động của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh hồi đầu thập niên 30 với khẩu hiệu "Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” để có thể thấy lúc đó Hồ Chí Minh dù có muốn cũng không dám công khai xác nhận trước dư luận rằng mình chính là Nguyễn Ái Quốc.
             
            Dù vậy, Hồ Chí Minh vẫn không tránh được một khó khăn vào dịp ký kết với Pháp bản thỏa ước 6-3-1946. Dư luận chung đều thấy nội dung thỏa ước dành quá nhiều ưu tiên cho người Pháp trong khi đặt nhẹ quyền lợi của Việt Nam. Halberstam ghi nhận là dư luận đả kích Hồ Chí Minh đã nhượng bộ Pháp quá đáng, thậm chí còn có người cáo buộc Hồ Chí Minh là gián điệp cho Pháp, một kẻ phản quốc. (13)  
             
            Hồ Chí Minh bắt buộc phải giải thích và đã khóc khi lên tiếng trước công chúng: "Tôi, Hồ Chí Minh, đã luôn luôn lãnh đạo đồng bào đi theo con đường dẫn tới tự do; tôi đã dùng cả cuộc đời tôi tranh đấu cho tổ quốc được độc lập. Đồng bào biết tôi thà chết chứ không thể phản bội tổ quốc. Tôi thề tôi đã không phản bội đồng bào”. (14)
            Theo Halberstam, lời lẽ và cách giải thích của Hồ Chí Minh đã được nhân dân hoan hỉ chấp nhận bản thỏa ước! (15) 
             
            Trấn an được dư luận, Hồ Chí Minh qua Pháp theo dõi hội nghị Fontainebleau. Đây là thời gian tại Việt Nam, Võ Nguyên Giáp, ở cương vị bộ trưởng quốc phòng thay thế Phan Anh, đã dùng "kỹ thuật tổ chức cứng rắn tuyệt hảo để âm thầm quét sạch các phần tử quốc gia đối địch”. (16)
             
            Sau đó, Võ Nguyên Giáp đưa quân số Việt Minh lên 100 ngàn, riêng tại miền Bắc, Việt Minh đã có 75 ngàn chống với 15 ngàn quân Pháp. Do đó ngày 18-12-1946 Việt Minh có thể khai chiến và dành thắng lợi vào tháng 5-1954. Trước mắt David Halberstam, mọi thủ đoạn mà Hồ Chí Minh và Cộng Sản thi thố để thu phục nhân tâm đồng thời quét sạch các phần tử đối địch gồm hầu hết là người yêu nước đều biểu hiện mức tài trí đáng khâm phục và không thể chê trách, dù đó là những trò xảo trá, dã man kể cả là tội ác đối với dân tộc.
             
            Sự ngưỡng mộ mà Halberstam dành cho Hồ Chí Minh tiếp tục được bày tỏ qua những trang dành nói về cuộc chiến mà Halberstam gọi là cuộc chiến tranh cách mạng, trong đó địch của Pháp ở khắp mọi nơi, còn về phía Việt Minh thì rừng là bạn, đêm tối là bạn, một thôn nữ cũng có thể là mật báo viên của Việt Minh, sẵn sàng chỉ cho biết quân Pháp di chuyển đi đâu, quân số bao nhiêu. Trong chiến tranh cách mạng, Việt Minh lấy ít thắng nhiều, nhanh chóng tập trung, nhanh chóng rút lui. Đánh vào lúc xuất kỳ bất ý, làm cho đối phương bó buộc phải bám sát lấy đất. Đất trở nên bãi sình lầy, càng ngày càng lún sâu. Và sau này, Mỹ cũng đã sa lầy như Pháp.
             
            Về thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, theo Halberstam, do Pháp không hiểu địch, lầm tưởng Việt Minh không có đại bác, hoặc giả có đại bác cũng không biết xử dụng. Vì vậy, Pháp định lấy cái thung lũng lòng chảo ở Điện Biên Phủ làm mồi nhử Việt Minh đem quân đến để tiêu diệt. Nhưng ngay khi trận chiến xảy ra ngày 13-3-1954, viên chỉ huy trưởng pháo binh  Pháp đã tự tử vì biết mình lầm. Điện Biên thất thủ 56 ngày sau.
             
            Sau hiệp định Genève 1954, Hồ Chí Minh về Hà Nội trên chiếc xe Dodge 4/6, chiến lợi phẩm lấy được của quân đội Pháp, ăn mặc như một nông dân và Halberstam ca ngợi Hồ Chí Minh là anh hùng số một, anh hùng duy nhất của Việt Nam. (17)       
                   
            Chương 6 cũng là chương cuối được dành nói về thất bại của Mỹ và trích lời tiên tri của Bernard Fall: “Mỹ đang đi vào vết chân của Pháp...– The Americans… were walking in the same footsteps” (as the French) – dù cựu ngoại trưởng Foster Dulles từng kiêu hãnh nói Mỹ không có tham vọng thực dân như Pháp. Halberstam cho rằng Mỹ đã lầm khi chọn (?) Ngô Đình Diệm (a bad choice) vì Ngô Đình Diệm có ít cơ sở chính trị lại thừa hưởng một xã hội chia rẽ đến tuyệt vọng, đồng thời, chê trách chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ cản trở cuộc tổng tuyển cử dự trù tổ chức vào năm 1956.
             
            Theo Halberstam, chính sách cải cách điền địa của ông Diệm đem số ruộng đất mà Việt Minh lấy của người giầu chia cho dân nghèo trước kia để hoàn trả các địa chủ là một chính sách nửa vời, làm mất lòng người dân nông thôn.
             
            Khác với Jean Lacouture, Halberstam nhìn nhận năm 1959 Hà Nội gửi quân xâm nhập miền Nam và cuộc chiến tranh Đông Dương thứ II đã bắt đầu từ đó. "Hầu hết các nhà quan sát đều tin rằng quyết định khai chiến được làm ở Hà Nội và mọi đường đi nước bước, chiến lược đều được hoạch định ở Hà Nội.”
             
            Tất nhiên Halberstam tin là phần thắng sẽ nghiêng về miền Bắc như Bernard Fall từng tiên đoán và giải thích thêm về lý do đưa đến kết quả này là miền Bắc làm cách mạng được nông dân ủng hộ còn miền Nam quan cách, dùng toàn người của Pháp; tướng lãnh thì từ hạ sĩ của Pháp mà lên, cho nên phải thua. (18) 
             
            Kết thúc cuốn sách, Halberstam ghi Hồ Chí Minh chết ngày 3-9-69 và ca tụng Hồ Chí Minh “là nhà ái quốc vĩ đại nhất Việt Nam ở thế kỷ 20 – He was the greatest patriot of his people in this century”.
             
            Điểm nổi bật qua tác phẩm Ho là quan điểm nghiêng hẳn về một phía của tác giả, chính xác là quan điểm tán trợ phía Cộng Sản. Halberstam đã đồng hóa chủ nghĩa Cộng Sản với tinh thần cách mạng yêu nước và biến tinh thần này thành nền tảng cho mọi chủ trương hành động của Hồ Chí Minh và những người Cộng Sản. Dưới ánh hào quang của tinh thần yêu nước, mọi sự việc thuộc về phía Cộng Sản đều hiện ra rực rỡ trong khi phía đối nghịch luôn bị đẩy chìm vào bóng tối.

            Có thể nói không sợ sai lạc bao nhiêu là Halberstam đã trở thành tín đồ cuồng nhiệt của cái Đạo có tên là Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam. Cho nên, ngay cả việc bán một người yêu nước được người khắp năm châu kính phục như Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, việc tàn sát những người yêu nước khác chính kiến, việc phát động chiến tranh để đẩy dân chúng cả hai miền Nam Bắc vào tóc tang máu lửa suốt hai mươi năm ... đều là những hành vi tài trí đáng ca ngợi.

            Dù sao, trên căn bản này, Halberstam đã xác định những sự việc trên thực sự có xẩy ra chứ không tìm cách chối bỏ như một số tác giả khác tuy ngưỡng mộ Hồ Chí Minh nhưng chưa đạt tới độ tôn thờ của một tín đồ sùng đạo như Halberstam.
              
            CHÚ THÍCH
            CHƯƠNG 04
            _______________________________
             
            (01) - (02) - (04)  SĐD  tr. 12, 20, 39.
            (03)  Theo Bernard Fall, bài này đăng trên tạp chí Xô-viết "Những vấn đề Đông Phương” tháng 4-1960.
            (05)  Xâm nhập, lũng đoạn tổ chức Tâm Tâm Xã  của các đồ đệ Phan Bội Châu để sau đó biến thành tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
            (06)  SĐD  tr.46, nguyên văn: The first (stage) was basically national, appealing to the most conscientious elements in every class with a view to establish a bourgeois-democratic regime; the second led to socialism only after a transformation of economic and social conditions that might take several decades…
            (07)-(09)-(10)-(11)-(12)  SĐD  tr. 52, 45, 58,  61, 68.
            (08) Từ Thực Dân Đến Cộng Sản - Hoàng Văn Chí, nói 100,000đ. Xin xem chương chót phần I, về HVC.
            (13)  SĐD tr. 86, nguyên văn: Hồ was accused of being a spy, a French agent, a betrayer.
            (14) SĐD  tr. 87, nguyên văn: I, Hồ Chí Minh have always led you along the path to freedom; I have spent my whole life fighting for our country's indepen-dence. You know I would rather die than  betray the nation. I swear, I have not betrayed you.
            (15)-(16) SĐD tr. 87, 91, nguyên văn: using his tough, brilliant organizational techniques to quietly wipe out some rival nationalists.
            (17)  SĐD  tr. 104, nguyên văn: He was a national hero now, the only one; the country was his.
            (18) SĐD tr. 113, nguyên văn: By 1964 the ARVN had been defeated by an indigenous peasant army. It was just as Ho had predicted.
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9