Chào , chuyện gì ra chuyện nấy phải không. Chuyện tôi phản hồi bài thơ của bạn trên bài " các điềm báo " là 1 chuyện , nhưng đây là diễn đàn KHHB , nên chúng ta vào đây với tính cách cùng nhau trao đổi những bài viết , những tư liệu , những thông tin , những kiến thức về KHHB , có phải không nhỉ ?
NCd tôi chỉ muốn góp thêm 1 tý về cái gọi là Tam Hợp , Tứ Hình Xung thôi nhé !
Bạn nói có phần đúng mà chưa đủ , NCD tôi xin bổ sung thêm thôi:
Tam hợp là 1 liên kết chậm nhưng bền lâu.
Ngoài Tam Hợp ra , trong khoa Trạch Cát , PT , Tử Vi , Lý Số còn sự thuận hợp khác nữa :
_
LỤC HỢP : Tý+Sửu , Dần+Hợi , Mẹo+Tuất , Thìn+Dậu , Tị+Thân , Ngọ+Mùi.
Nói là Lục Hợp nhưng cũng còn phân ra làm 2 trường hợp nữa :
a/.
Trong hợp có khắc :
Là các trường hợp Tý+Sửu , Mẹo+Tuất , Tị+Thân
Vì sao? Sửu Thổ khắc Tý Thủy ,Mẹo Mộc khắc Tuất Thổ , Tị Hỏa khắc Thân Kim. Rơi vào trường hợp này , thường thì khắc khẩu, dễ bất đồng ý kiến.
b/. Trong hợp có sinh :
Là các trường hợp còn lại kia. Vì lý do tương sanh của ngũ hành,tính như trên
_ Ngoài cái Địa Chi , người ta còn tính cái Thiên Can nữa. Có 10 Thiên Can :
Giáp , ất , bính đinh , mậu , kỷ , canh , tân , nhâm ,quý.
Khi 10 Thiên Can phối với 12 Địa Chi được 60 trường hợp , đó là " 60 năm cuộc đời " MLH hát đấy , mà dạn trong nghề gọi là Lục Thập Hoa Giáp vậy.
Trong phạm vi bài này , NCD tôi chỉ xin nói qua về Ngũ Hợp của Thiên Can thôi ,để bổ sung cho ý của bạn nad được trọn vẹn hơn.10 thiên Can đó hợp hóa thành :
Giáp hợp với Kỷ hóa Thổ , Ất hợp với Canh hóa Kim , Bính hợp với Tân hóa Thủy , Đinh hợp với Nhâm hóa Mộc , Mậu hợp với Quý hóa Hỏa.
Các trường hợp chúng hóa thành 1 Ngũ hành khác chính là yếu tố rất quan trọng trong dự đoán Tứ Trụ( hay Bát Tự cũng thế ), và trong PT cũng xài hợp hóa này , trong Trạch Cát chọn ngày cũng cần nó , rất quan trọng. Và 1 điều mà NCD tôi muốn nói ,
rất quan trọng trong lĩnh vực bói toán , mà nhiều thầy bói cố tình đánh lạc hướng hay che giấu , đó là :
THIÊN CAN LÀ CHÁNH NGŨ HÀNH. Chính sự Sinh-Khắc của Thiên Can mới là yếu tố quan trọng , hơn cả Địa Chi. Sự sinh khắc này dựa trên Ngũ Hành của chúng thôi :
Giáp-Ất thuộc Mộc , Bính-Đinh thuộc Hỏa ,Mậu-Kỷ thuộc Thổ ,Canh-Tân thuộc Kim , Nhâm-Quý thuộc Thủy. Và chúng vẫn Sinh -Khắc như Ngũ Hành bình thường vậy ( là Mộc khắc Thổ , Hỏa khắc Kim , Kim sanh Thủy....vv....)
Nói đến Tứ Hình Xung gần như ai cũng từng nghe qua ít nhất 1 lần trong đời
nhưng mấy ai biết trong đó có nặng có nhẹ , có lúc lại không xung , có lúc lại hóa tốt ?
Tứ Hình Xung chia làm Thượng ,Trung ,Hạ. Nặng nhất là Thượng , chính là trường hợp của Tý _Ngọ _ Mẹo _Dậu. Sự Xung khắc rất mạnh , trong đó cũng có chia ra thành từng cặp khắc nhau , chứ không phải khắc loạn xạ như nhiều người hiểu lầm đâu. Tý-Dậu là 1 cặp , Ngọ-Mẹo là 1 cặp , đây là thuộc cách Địa Chi tương phá. Tý-Ngọ là 1 cặp , Mẹo-Dậu là 1 cặp , đây là cách
Địa Chi tương xung rất nặng , nên cẩn thận. Ngoài lề 1 tý , còn có trường hợp Dậu-Dậu ,Ngọ-Ngọ là Địa Chi tương hình nữa. Sự Hình Xung của cách này nặng hơn do chúng là 4 trục chính đối xung nhau (Tý Khảm thủy, Ngọ Ly hỏa , Mẹo Chấn mộc ,Dậu Đoài kim ) , các Ngũ Hành của chúng xung khắc với nhau rất quyết liệt vậy.
Cách Tứ Hình Xung hạng trung là của Dần , Thân, Tị , Hợi. trong đó cũng phân ra thành cặp như trên : Dần-Thân , Tị-Hợi là
trường hợp đối xung trực tiếp nên rất nặng. Kế đến là Dần-Tị , Thân-Hợi , đây là cách Lục Hại (Với trường hợp vợ chồng thường gây đau yếu , bệnh hoạn). Ngoài ra , còn lại Dần Hợi và Tị Thân đã là Lục Hợp ở trên rồi.
Cách thứ ba
là gần như không xung , đó là Thìn Tuất Sửu Mùi , vì sao ? vì chúng đều có chung Ngũ Hành là Thổ , mà Lưỡng Thổ Thành Sơn , nên chúng gần như không xung. Duy chỉ các cặp Đối Xung trực tiếp là nên tránh thôi : Thìn
và Tuất , Sửu và Mùi.
Trong khoa này ngoài sự Xung khắc của Tứ Hình Xung , còn có Lục Hại :
Mùi , Tý gặp nhau lắm họa tai
Ngọ cùng Sửu đối sợ không may
Tị , Dần tương hội thêm đau đớn
Thân , Hợi xuyên nhau thật đắng cay
Mẹo thấy Thìn kia càng khổ não
Dậu trông Tuất nọ lắm bi ai Ngoài sự Xung khắc của Địa Chi thì còn 1 sự Xung Khắc có lực mạnh hơn nữa là sự Xung Khắc của Thiên Can. Ở đây , NCD tôi muốn nói đến sự Xung Khắc khác với cách Ngũ Hành của thiên Can , đó là Thiên Can tương phá :
Giáp phá Mậu , Ất phá Kỷ , Bính phá Canh , Đinh phá Tân , Mậu phá Nhâm ,Kỷ phá Quý , Canh phá Giáp , Tân phá Ất , Nhâm phá Bính , Quý phá Đinh . Cách dễ nhớ nhất là quý vị cứ đếm tới theo thứ tự , CAN THỨ 5 là Thiên Can tương phá , CAN THỨ 6 là Thiên Can tương hợp đã nói ở trên vậy. Quý vị để ý thử xem : Giáp là Dương Mộc , khắc Mậu là Dương Thổ ,lại HẠP với Kỷ là Âm Thổ.
Canh là Dương Kim khắc Giáp là Dương Mộc , nhưng HẠP với Ầt là Âm Mộc vậy...
Nói đến Tam Hợp , ta phải thận trọng , nhất là khi không đủ Tam Hợp thì nó sẽ phân ra làm 2 : Tiền Bán Tam Hợp , và hậu Bán Tam Hợp. Chúng lấy Địa Chi ở giửa làm ranh giới chia ra làm 2 vậy
_ Dần Ngọ Tuất : Khi không đủ thì chỉ có Dần Ngọ hợp , Ngọ Tuất hợp.
_ Hợi Mẹo Mùi : Khi không đủ thì chỉ có Hợi Mẹo hợp, Mẹo Mùi hợp.
_ Thân Tý Thìn : Khi không đủ thì chỉ có Thân Tý hợp , Tý Thìn hợp.
_ Tị Dậu Sửu : Khi không đủ thì chỉ có Tị Dậu hợp , Dậu Sửu hợp.
Xin chớ lầm cả 3 lúc nào cũng hợp là mang họa đấy ! Cẩn thận ! Cẩn thận !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.05.2007 19:28:58 bởi Ct.Ly >