NGƯỜI CON ĐẤT THÉP 1 Nhớ từ thuở vua Hùng dựng nước
Một nghìn năm Bắc thuộc đớn đau
Pháp đi Mỹ lại nhảy vào
Trăm năm xương trắng máu đào lầm than.
Thương nhân dân cơ hàn vất vả
Hận quân thù tàn phá quê hương
Bác Hồ tiến bước lên đường
Tìm ra chân lý chủ trương hợp thời
Người về nước khắp nơi phơi phới
10 Bao đêm dài chờ đợi thái dương
Aùnh hồng rọi khắp muôn phương
Thanh niên lớp lớp lên đường diệt Tây
Thế chiến lần thứ hai bùng nổ
Quân phát-xít tìm chỗ bủa vây
Đông Dương u ám khói mây
Nhật vào hất cẳng Pháp bay khỏi vòng
Ôi!Một cổ ba tròng thảm khốc
Nhà nhà không còn thóc để ăn
Trăm bề thiếu thốn khó khăn
20 Aùo quần chẳng có vận chăn bố tời
Hai triệu người không nơi nương tựa
Ăn rau rừng lá bứa chùm bao
Chuối cây thái trộn xen vào
Thay cơm qua bữa cồn cào xót xa!
Lá cây hết người ta dùng cỏ
Máu cạn dòng lìa bỏ trần ai
Than ôi!Trời sập đất quay!
Đau thương này biết đến ngày nào nguôi
Dân lành sao chôn vùi thân xác
30 Kiếp phù du có khác chi đâu!
Trời buồn trời đổ mưa ngâu
Đất buồn đất cũng ngậm sầu nuốt cay!
Gió ru người ,người bay theo gió
Riêng một vùng cây cỏ đìu hiu
Rừng thu ảo nảo cô liêu
Mây sầu một dãy ráng chiều thê lương
Đồng bào ta bốn phương nổi dậy
Giành chánh quyền bằng gậy tầm vông
Thề nguyền theo Đảng chung lòng
40 Đánh Tây đuổi Nhật non sông thái bình
Mùa thu về Ba Đình ấm áp
Bản Tuyên ngôn độc lập ra đời
Lời Người vang khắp nơi nơi
Non sông nước Việt sáng ngời từ đây.
Nhưng giận thay ! Giặc Tây trở lại!
Ta không hề quản ngại gian truân
Bác Hồ kêu gọi toàn dân
Đồng tâm chung sức diệt quân bạo tàn
Đáp lời Người hàng ngàn trai trẻ
50 Rất hiên ngang vui vẻ lên đường
Ruộng đồng để lại hậu phương
Công nông trí thức diệt phường sài lang.
Chốn trời Nam xóm làng tan nát
Giặc Pháp tìm tàn sát nam nhi
Thành đồng đất thép Củ Chi
Anh hùng bất khuất sá gì đạn bom
Mẹ quê nghèo lưng khom da nám
Cha đánh Tây dũng cảm hy sinh
Sâu ân, nặng nghĩa, thâm tình
60 Lao đao lận đận thân hình héo hon
Mẹ không còn khi con mười tuổi
Sông chưa già để suối bơ vơ!
Đêm ngày côi cút thẩn thờ
Mẹ đi để lại trẻ thơ một mình
Sao nỡ rẽ chia tình mẫu tử
Con khờ chưa biết chữ a,o ….
Gặp khi sóng lớn bão to!
Tương lai ai biết con đò về đâu?
Một đời người bể dâu mấy cuộc?
70 Nỗi buồn này lấy thước nào đo?
Miếng cơm manh áo ai lo?
Giữa thời đói khổ ai cho gạo tiền?
Ngẩn ngơ nhớ mẹ hiền khuất bóng
Kể từ đây kiếp sống ra sao?
Đêm nằm lệ thảm tuôn trào:
“Đầu xanh gánh chịu thương đau não nùng!
Quê cha xã anh hùng Nhuận Đức
Đẹp tình người sáng rực nghĩa nhân
Dân làng cày cấy chuyên cần
80 Vườn xanh che bóng giai nhân lạnh lùng
Sinh con ra trong vùng lửa đạn
Lúc nước nhà gặp nạn binh đao
Ra đi ruột thắt gan bào
Tên con cha đã mang vào gió sương
Đó là Nguyễn An Khương yêu dấu,
Khi cha đi chiến đấu hiên ngang
Quê nhà mẹ rất gian nan
Đầu thôn rạng sáng, cuối làng hoàng hôn,
Nhớ mẹ cha bồn chồn tấc dạ
90 Nung lòng con sắt đá vững thêm
Lời ru của mẹ êm đềm
Vẫn còn ngân mãi bên thềm lều tranh”
Xót thương cho đầu xanh ở đợ!
Biết bao giờ trả nợ non sông
Vào tay địa chủ phú ông
Chữ Bàng là họ, Đại Hồng là tên,
Luồn cúi Pháp lập nên sản nghiệp,
Biến nông dân thành kiếp trâu cày.
An Khương lâm cảnh đọa đày
100 Chăn bò cắt cỏ ngày ngày khổ thân
Thường hai bữa cơm phần lưng lửng
Đêm mệt nhoài giã thúng gạo to
Quanh mình nhiều việc âu lo
Chén cơm nô lệ chưa no lại sầu
Thiếu niên phải cày sâu cuốc bẫm
Aùo quần luôn ướt đẫm mồ hôi
Vùi thân làm kiếp tôi đòi,
Tay bùn chân lấm rã rời tấm thân
Lệch chi bấy cán cân tạo hóa
110 Cũng là người sao quá bất công?
Kẻ giàu ruộng đất mênh mông
Người nghèo không có một đồng trong tay
Trẻ thơ sao đêm ngày lam lũ?
Thế mà còn mất ngủ thiếu ăn!
Lắm khi chủ giận mắng xằng!
Đòn roi chẳng tiếc để lằn trên da!
Cuối canh ba sương sa ướt lá
Nhạc côn trùng rỉ rả ngân nga
Thôn xa văng vẳng tiếng gà
120 Lung linh huyền ảo cỏ hoa một vùng
Vạc kêu đêm não nùng con trẻ
Lòng tái tê nhớ mẹ thương cha
Bồi hồi thổn thức tính ra
Từ ngày ở đợ nay là sáu năm
Sờ tay chai âm thầm nuốt khổ
Nhìn qua song lộ nhỏ trăng soi
Giục lòng yêu nước thương nòi
An Khương quyết chí theo đòi nghiệp cha
Trong đêm khuya cả nhà địa chủ
130 Đại Hồng say giấc ngủ nô vong
Vươn vai tay sắt chân đồng
An Khương lặng lẽ gói khăn lên đường
Chân mềm đạp sỏi sương thu lạnh
Chim xổ lồøng tung cánh bay cao
Bầu trời sáng ánh trăng sao
Thênh thênh đất rộng vui nào vui hơn?
Gió từng cơn đường thôn hiu quạnh
Thân trai hùng một mảnh áo tơi
Con đường Cách mạng sáng ngời
140 Bước đi mỗi bước nhớ lời nước non:
“Nung nấu lòng sắt son dũng khí
Tôi luyện thành ý chí đấu tranh
Bẻ xiềng phá xích tung hoành
Đuổi Tây cho nước yên lành ấm no”
Lối mòn nhỏ quanh co nhiều hố
Lời Bí thư chi bộ hiện về
Một mình trên nẻo đường quê
Trên trăng dưới bóng bên lề cỏ tươi
Xa xa thấp thoáng người đi lại
150 Hồi hộp thay biết phải làm sao?
Bụi cây Khương rẽ nép vào
Chờ xem người ở phương nào đến đây?
Khoảng cách từng phút giây thu ngắn
Nguy hiểm qua , may mắn đến gần
An Khương gặp được ân nhân
Trăng tròn tháng trước một lần gặp nhau
Chàng vui mừng ra chào cán bộ:
Là Bí thư chi bộ xã nhà
Tưởng đâu kẻ lạ người xa
160 Nào ngờ là Phạm Văn Ba quê mình
Ngồi phân tích tình hình đất nước
Dưới bóng dầu mười thước cao cao
Nhật hàng Pháp lại trở vào
Non sông khói lửa binh đao ngút trời
Ba đưa Khương về nơi căn cứ
Học làm người học chữ Việt Nam
Đọc thông viết thạo tròn năm
Quân khu bố trí cho làm giao liên
An Khương trải khắp miền Nam bộ
170 Nghìn dặm xa, tuy khổ nhưng vui
Nhiều khi gió dập mưa vùi
Nóng chân nắng hạ , lạnh người rét đông
Lúc vượt qua ruộng đồng vất vả
Khi làm người câu cá thong dong
Mật thư giữ kín mấy phong
Bảo toàn để khỏi phụ lòng nước non
Sáng ở sông Sài Gòn Chợ Cũ
Đêm về khuya lại ngủ Thanh An
Băng rừng vượt suối gian nan
180 Vạc kêu quốc gọi nung gan anh hùng
Nay mang tin đến vùng Tà Thiết
Mai bôn ba sóng biếc Đồng Nai
Dạn dày sương gió thân trai
Nặng tình phụ mẫu,nặng vai sơn hà
Rồi những buổi chiều tà bên rạch
Bìm bịp ngân giục khách đường xa
Bồi hồi thương nước nhớ nhà
Dòng sông còn đó,mẹ cha mất rồi!
Đường công tác xa xôi vạn lối
190 Từng lá thư mang tới từng nơi
Trao tay đúng lúc kịp thời
Hoàn thành nhiệm vụ sáng ngời chí trai
Vào mùa xuân ,ban mai thanh vắng
Dòng sông Sài Gòn lặng lẽ trôi
Lững lờ mây trắng lưng trời
Trên bờ cò đậu nhìn người qua sông
Thuyền nhỏ bơi giữa dòng nước biếc
Lục bình trôi mấy chiếc về đâu?
Nghiêng nghiêng nón lá trên đầu
200 Đò ngang cô lái dãi dầu nắng mưa
An Khương nơi gốc gừa đứng đợi
Nhìn tóc nàng từng sợi thương thương
Bồng bềnh sóng nước vương vương
Bóng hình gái đảm in gương trai hùng.
Thuyền cặp bến xanh vùng cây cỏ
Aùnh bình minh soi tỏ muôn phương
Long lanh lá đọng hạt sương
Giữa trời ấm áp trông dường kim cương
Hoa hậu nay phải nhường nhan sắc
210 Thúy Kiều xưa thấy mặt cũng ghen
Xa trông tưởng cỏ hoa hèn
Đến gần mới rõ đóa sen ngọc ngà
Mặt trái son, làn da in tuyết
Mày xanh xanh ,mắt biếc sóng thu
Mượt mà mái tóc gió ru
Hương thơm hoa bưởi đến từ phương nao?
Mũi dọc dừa cao cao xinh xắn
Miệng môi hồng răng trắng đẹp tươi
Thân cao một mét sáu mươi
220 Mặn mà tha thướt nói cười thanh tao
Bàn tay thon cắm sào Bến Dược
Gót chân son thấm nước Sài Gòn
Bà ba đen ,áo cổ tròn
Che lòng trung hậu sắt son hiền hòa
Tuổi mười bảy tươi hoa sáng ngọc
Trên chiếc thuyền độc mộc thong dong
Đưa bao lượt khách sang sông
Lần này sao thấy trong lòng vấn vương
Nàng e lệ nhìn Khương không nói
230 Chàng ung dung chào hỏi mấy câu:
“Lần đầu mình mới gặp nhau,
Lênh đênh mặt nước biết đâu là nhà?
Đường đi xa lòng ta lưu luyến
Bến sông quê một chuyến đò ngang.
Hỡi em gái nhỏ đưa đàng
Vui lòng cho biết tên nàng được không?”
Nàng bẽn lẽn ửng hồng đôi má
Liếc nhìn ,nghe tim đã đập nhanh:
“Rành rành một bậc trai thanh
240 Người đâu trông vẻ hiền lành dễ thương
Mắt sáng soi nẻo đường sông núi
Mày ngài chớm nở tuổi thanh niên
Tóc đen ngắn, mặt chữ điền
Mũi cao, tai phật,tâm kiên chí cường
Da ngăm ngăm gió sương nắng trải
Thân cao một mét bảy oai phong
Cười tươi răng trắng môi hồng
Đôi tay rắn chắc chân không dép giày”
Người đứng đấy lòng đây xao xuyến
250 Lời oanh vàng nói chuyện có duyên:
“Tên em là Phạm Thanh Uyên
Nhà em ở xã Thanh Tuyền bên sông.”
“Cha mẹ còn hay không em nhỉ?
Thanh Uyên có tri kỉ hay chưa ?
Sáng chiều mấy chuyến đò đưa?
Mai sau em nhớ gốc gừa này không?”
“Cha em chết giữa đồng Bến Súc
Tây bắn cha đang lúc cày bừa
Đò ngang chiếc bóng sớm trưa
260 Suốt đời nhớ mãi gốc gừa anh ơi!”
Chàng xuống thuyền, nàng bơi thong thả
Khương đưa tay vớt lá rừng rơi
Nhìn cây nhìn nước nhìn trời
Mây bay lơ lửng ,người lơi tay chèo:
“Thân em như mảnh bèo trên sóng
Anh là cánh én bổng trầm bay
Ở đâu mà đến nơi đây?
Anh tên gì nhỉ năm này mấy xuân?”
"Chuyến đi dài gian truân nắng lửa
270 Quê Nhuận Đức chan chứa tình thương
Tên anh là Nguyễn An Khương
Tuổi anh mười tám bốn phương là nhà
Mai cách xa , thiết tha thương nhớ
Bến đò ngang của thuở ban đầu
Dù cho sông hóa nương dâu
Người,cây, mây,nước khắc sâu tim mình.”
“An Khương ơi, hành trình thiên lý!
Ai là người tri kỉ tri âm?
Lạnh lùng trời đổ mưa dầm
280 Để ai chiếc bóng âm thầm nhớ ai?
Rồi mai đây thân trai quắc thước
Vượt nguy nan tiến bước đi lên
Mong ai tâm vững chí bền
Đừng vui trăng tỏ mà quên đèn lòa”
“Thanh Uyên ơi, đường xa vời vợi
Anh mong em cố đợi gắng chờ
Bao giờ thuyền đến bến bờ
Là ngày độc lập tự do hòa bình
Đến khi ấy chúng mình tròn ước
290 Giờ giữa dòng đứng trước sóng to
Chung lòng chung sức chèo đò
Đưa thuyền non nước tới bờ vinh quang.”
Cùng ghi nhớ lời vàng tiếng ngọc
Gió xuân ru mái tóc bay bay
Thuyền vào bến, khách chia tay
Ngỏ lời lưu luyến hẹn ngày gặp nhau
Người lên bờ bước mau khuất dạng
Kẻ trên thuyền đứng lặng trông theo
Một vùng mây nước buồn teo
300 Én về nẻo đấy cánh bèo còn đây
Từ dạo ấy ngày ngày mong nhớ
Người phương xa giờ ở nơi đâu?
Non cao, suối vắng, rừng sâu?
Hay là cồn cát ,bãi dâu ,thác ghềnh?
Ngày hai buổi chồng chềnh trên nước
Đêm một mình dạo bước nhìn sao
Khương ơi! Khương ở phương nao?
Khăn thêu mấy chữ chờ trao tay chàng:
“Trai Việt Nam hiên ngang anh dũng
310 Ra tiền tuyến cầm súng giết Tây
Quyết tâm bảo vệ đất này
Dù cho trải mật phơi thây không sờn”
Thương người đi từng cơn tim nhói
Khi đứng nhìn mờ khói hoàng hôn
Đàn cò hạ cánh cô thôn
Sóng khơi hình bóng ,bồn chồn dạ đây:
“Bến đò ơi ! Nước mây còn đó
Để riêng ai vò võ đợi trông
Tình đâu đọng mãi trong lòng
320 Trăm năm một sợi tơ hồng mà thôi”.
Đường hiểm trở xa xôi thanh vắng
Chàng dầm mưa dãi nắng bước nhanh
Bằng lăng tím nở mấy cành
Chích chòe nhảy múa hoàng anh hót chào
Nhìn hoa rừng nao nao nhớ bạn
Nghe tiếng chim thanh thản tâm hồn
Lên đồi xuống suối,qua cồn
Cheo leo dốc đá không chồn chân Khương
Lòng phơi phới trên đường Cách mạng
330 Tình quê hương tươi sáng tương lai
Dù cho nguy hiểm chông gai
Cũng không cản được chí trai anh hùng
Trổ trí tài một vùng ngang dọc
Cứu non sông thảm khốc điêu linh
Đuổi Tây đem lại thái bình
Xả thân vì nước ,quên mình vì dân.
Cho mẹ già bớt phần lam lũ
Cho em thơ giấc ngủ bình yên
Cho người trên khắp ba miền
340 Từ Nam chí Bắc nối liền núi sông.
Dù cảnh thay nhưng lòng không đổi
Cánh phượng tàn trải lối người đi.
Bên đường cỏ mọc xanh rì
Lá cây ru khẽ nhành quì nhẹ lay
Đường quê hương chiều hây hẩy gió
Khương lần theo lối nhỏ ven sông
Một vầng trăng sáng phương đông
Xanh tre, xanh trúc, xanh đồng lúa xanh
Đây rồi mái nhà tranh vách đất
350 Bên vườn cau cao ngất rung rinh
Hàng dừa nghiêng bóng soi mình
Trên dòng nước bạc lung linh hữu tình
Khương dừng chân đứng nhìn phong cảnh
Từ trong nhà mẹ Aùnh đi ra
Che thân tấm áo bà ba
Bao năm vất vả thân già bên sông
Chồng không còn ,gánh gồng nuôi trẻ
Vì đàn con lòng mẹ thương đau
Tóc xanh nay đã bạc màu
360 Má nhăn thế chỗ má đào ngày xưa
Con của mẹ đi chưa trở lại
Quê nhà mẹ đợi mãi tin con
Tính ra đã bốn năm tròn
Con vào bộ đội,mỏi mòn mẹ mong
Để đáp lại tấm lòng của mẹ
Quân khu cho thư trẻ về đây
Chào nhau Khương hỏi mẹ ngay:
“Dì là mẹ Ánh nhà này phải không?”
Mẹ rằng : “Nơi ruộng đồng sông vắng
370 Có việc chi cháu lặn lội tìm
E rằng bay mỏi cánh chim
Uổng công đáy bể mò kim một mình "
Rằng : "Đây, lòng chân thành của cháu,
Mang tin thư đến báo dì hay.
Vượt qua trăm dặm đường dài
Sợ dì thấp thỏm ngày ngày ngóng trông".
Thanh Uyên đang ở trong nhà bếp
Nghe tiếng quen, khép nép nhìn ra:
"Đúng người tri kỷ đây mà!
380 Bấy lâu xa cách giờ đà thấy nhau"
Nàng hớn hở ra chào, duyên dáng
Thưa mẹ : "Khương là bạn của con
Bao ngày chờ đợi héo hon
Hôm nay gặp lại vẫn còn như xưa."
"Cháu đừng buồn,dì ngừa mật thám
Lúc gần đây chúng cám dỗ người
Dùng lời đường mật làm mồi
Nếu không cảnh giác hại đời như chơi."
"Cháu cảm ơn những lời dì dạy
390 Trường hợp này không phải là gian
Quân khu đóng dấu rõ ràng
Đây là thư của Thanh Nhàn dì ơi! "
Thanh Uyên reo: "Đúng rồi mẹ ạ!"
Mở ra xem ,lả chả lệ rơi
Mẹ con mừng tủi khôn nguôi
Mời Khương nghỉ lại hỏi han ân cần.
Tin Nhàn còn,thêm phần vui vẻ
Mẹ Aùnh ôn tồn kể chuyện qua:
"Chồng dì là Phạm Thanh Hà
400 Bị Tây bắn chết mười ba năm rồi
Thanh Bình con trưởng thôi học chữ
Quyết lên đường diệt lũ xâm lăng
Chống càn chiến đấu rất hăng
Giết hai,ba ,bốn,năm thằng giặc Tây
Rồi một hôm leo cây quan sát
Ôi! Quân thù đã phát hiện ra!
Đạn đồng xối xả tan da
Máu xương tô thắm nước nhà quê hương
Đứa con thứ Thanh Dương tiếp bước
410 Vào chiến khu vì nước quên thân
Đánh Tây thắng trận nhiều lần
Làm cho giặc Pháp tinh thần hoang mang
Tổ quốc gọi lời vàng tha thiết
Con ra đi biền biệt không về
Hy sinh giữ trọn lời thề
Vì dân, vì Đảng,vì quê hương mình.
Sau Quốc Khánh tình hình biến đổi
Thanh Nhàn vào bộ đội quân khu
Quyết tâm tiêu diệt kẻ thù
420 Kể từ dạo ấy mù mù dặm khơi."
Khương ngậm ngùi cảm lời mẹ kể
Mẹ trầm ngâm nuốt lệ vào lòng
Nhớ con rồi lại thương chồng
Vào sinh ra tử giữa vòng đạn bay
Uyên nhanh tay bưng khay trầu,nước
Nàng đoan trang tha thướt thỉnh mời
Cùng nhau dùng chén trà tươi
Trầu nồng,trà ấm tình người,tình quê
Mẹ hỏi: "Đường đi về cách trở,
430 Gia đình của cháu ở nơi đâu?
Đêm ngày sương gió dãi dầu,
Cha đau,mẹ yếu ,ai hầu,ai lo?"
Khương thưa: "Cháu như đò trên nước
Đảng dắt dìu từng bước đi lên
Rèn tâm, luyện chí, vững bền
Hiếu dân, trung nước, không quên quê nhà
Nguyễn An Hòa là cha của cháu
Mẹ là Trần Thị Sáu, hiền lương
Cùng quê Nhuận Đức,thân thương
440 Cha đi giải phóng quê hương của mình
Đánh Tây cha hy sinh năm ấy
Tính đến nay mười bảy năm rồi
Vừa khi cháu mới thôi nôi
Mẹ con hiu quạnh cuộc đời đắng cay
Trải qua bao tháng ngày lam lũ
Cháu lên mười ,mẹ ngủ thiên thu
Đêm nằm nghe tiếng gió ru
Côn trùng trỗi nhạc,sương mù lạnh rơi
Từ độ đó rã rời thân cháu
450 Nhà phú ông hết sáu năm dài
Sổ lồng chấp cánh chim bay
Quân khu rèn luyện đến ngày hôm nay"
Mẹ đớn đau u hoài không nói
Đôi mắt nhìn vào cõi xa xăm
Gan bào ruột thắt bao năm
Đảm đang trung hậu âm thầm nhớ thương.
Đêm nay trên quê hương Bến Cát
Trời đầy sao gió mát trăng thanh
Lung linh khóm mít vườn chanh
460 Phất phơ lá chuối ,lay cành trúc mai
Đường thôn nhỏ tre gai in bóng
Sông Sài Gòn gợn sóng nhấp nhô
Một vùng bến đợi sông chờ
Dưới trăng Nguyệt Lão bao giờ se duyên?
Khương xin mẹ cho Uyên đi dạo
Mẹ gật đầu khuyên bảo hai con:
"Vui đừng quên việc nước non
Nhớ về ngơi nghỉ mai còn đi xa."
Bước song song đi ra bến vắng
470 Cùng xuống đò chở nặng tình trong
Thuyền tình một chiếc thong dong
Buông chèo theo nước xuôi dòng ước mơ
Nàng cho đò cập bờ Bến Dược
Nơi gốc gừa hôm trước gặp nhau
Aùnh trăng lấp lánh sóng xao
Kề vai đôi bạn ngồi vào bóng cây
Hương hoa bưởi quanh đây phảng phất
Thời gian trôi, trái đất tròn quay
Gần nhau biết được bao ngày?
480 Xa nhau biết mấy dặm dài nhớ thương?
Chàng rằng: "Trên nẻo đường Cách mạng
Thanh Uyên ơi ! Người bạn tri âm
Trải bao nắng gắt mưa dầm
Hình em ghi khắc thâm tâm của mình
Do yêu cầu tình hình đất nước
Ngày mai, anh tiến bước lên đường
Ra đi giải phóng quê hương
Nhớ người em nhỏ hậu phương mong chờ
Nhớ mẹ già bơ phờ tóc bạc
490 Nhớ hàng dừa xanh mát ven sông
Nhớ diều giấy lượn trên không
Nhớ người trang lứa mục đồng ngày xưa
Nhớ tiếng võng đưa trưa hè nóng
Chị ru em trầm bổng ngân nga
Nhớ cha, nhớ mẹ ,nhớ nhà
Bà con cô bác gần xa nghĩa tình
Nhớ buổi đầu bình minh xuân ấy
Nhớ dòng sông nước chảy hiền hòa
Nhơ ùmây ,cây cỏ, lá hoa
500 Nhớ bao kỉ niệm nhất là nơi đây.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.08.2007 21:29:31 bởi lenthgo >