(url) Về 100 bài thơ hay thế kỷ
TTL 18.05.2007 05:47:32 (permalink)
"100 bài thơ hay của thế kỷ". Xin xem ở đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=255292&mpage=7&key
"30 bài thơ hay và 70 bài thơ dở nhất thế kỷ 20" (tác giả Trần Mạnh Hảo). Xin xem ở đây:
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=266401 



**********
 
Lên tiếng về 100 bài thơ hay thế kỷ (1)
Nguyễn Văn Lục

Làm thơ là một sự phi thường,
Chế Lan Viên

Kể từ lúc tôi đọc bài phát biểu của nhà văn Lê Lựu, ngày 11/3/2007, Giám Đốc Trung tâm Văn Hóa Doanh Nhân tại lễ ra mắt trung tâm đến nay, thời gian đã gần một tháng. Đã có một số không ít người lên tiếng chỉ trích việc tuyển chọn này. Tôi viết sau hóa chậm. Nhưng:

Đi xa về hoá chậm
Biết bao là nhiêu khê

(Chế Lan Viên)




Chế Lan Viên (1920-1989)
Nguồn: wikimedia.org












Vâng, tôi đã thấy biết bao là nhiêu khê trong tập 100 bài thơ này. Phần tôi vẫn kiên nhẫn chờ đợi không lên tiếng, không viết bài. Chỉ vì lý do đơn giản là tôi chưa có quyển sách trong tay.

Nay thì tôi đã có tuyển tập đó từ Sài Gòn gửi qua, tôi có một số nhận xét sau đây:

Cảm tưởng chung chung là ông nhà thơ Lê Lựu nói quá lời. Huyênh hoang và khoác lác quá, thiếu trung thực, che giấu sự thực về cách tuyển chọn, việc làm thì nhiều khuất tất, thiếu trách nhiệm của người cầm bút, nếu không nói là thiếu lương thiện?

Tôi tự hỏi có cần ông phải lên tiếng xin lỗi như trường hợp cô nhà thơ Phan Huyền Thư không? Việc làm này dưới mắt một người Việt hải ngoại cho chúng tôi thấy thêm một lần nữa tính cách phỉnh gạt cũng giống như trong trường hợp việc vinh danh 17 Việt Kiều mới đây?

Sau bài viết L’odeur de la gloire, tôi vẫn hy vọng đến thất vọng là có một vị nào đó trong số 17 vị được vinh danh từ chối hoặc tự ý rút lui ra khỏi danh sách ấy. Không danh sách vẫn đủ 17 vị.

Tưởng rằng chỉ phải viết L’odeur de la gloire một lần thôi là đủ. Không chắc còn phải tiếp tục và đây là loạt bài thứ hai mang tinh thần Mùi danh vọng.

Thơ vốn cao quý. Bởi vì là một cuộc hành trình vào cõi bên trong. Đến nỗi người ta nói rằng cái gì giải thích được không còn là thi ca nữa. Vì thế, đừng đụng đến nó và như lời của Chế Lan Viên ở phần trích dẫn đầu bài coi việc làm thơ là việc phi thường.

Nhưng đọc 100 bài thơ thế kỷ 20, nỗi thất vọng của tôi chỉ thấy ở đó là một chợ thơ.

Trong lời nói đầu, chắc là ông Lê Lựu, đại diện cho Trung tâm Văn Hóa Doanh Nhân Việt Nam và NXB Giáo Dục (1) viết rằng

...Việc tuyển chọn thật công phu, nghiêm túc và có trách nhiệm trong hàng vạn bài thơ của hàng nghìn tác giả đã được công bố trên thi đàn Việt Nam trong suốt thế kỷ 20, qua sự sàng lọc, chọn lựa của hàng nghìn thí sinh, đồng thời là giám khảo chọn ra 100 bài thơ hay này. Một thế kỷ nghĩa là 100 năm chỉ chọn có 100 bài thơ hay(2)



Lê Lựu: “Gần 10.000 (tôi không nhớ con số chính xác) thư bình chọn đã gửi đến BTC...
Nguồn: (Tuổi Trẻ 7/3/2007)









Công phu, nghiêm túc và có trách nhiệm? Vậy mà một trong năm người trong ban chung khảo – Năm vị đó là nhà thơ Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa, Bằng Việt, gs Nguyễn Đăng Mạnh – lại không nghĩ như thế và đã lên tiếng không đồng ý.

Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Nhân Dân, ngày 30/3/2007, ông Bằng Việt tiết lộ ông nhận được một chồng chừng 1000 bài thơ do dân chúng chọn lựa, ông nhận xét và trả lại, sau đó, ông nhận được danh sách 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20 với lời yêu cầu vội vàng: Đây là bản cuối cùng, đề nghị xem và cho ý kiến nhanh. Nhưng sau đó thì không thấy người bên phía ông Lựu đến lấy lại danh sách và ý kiến. Nhất là sau đó kết quả trong sách lại không đồng nhất với danh sách mà chúng tôi nhận được.

Nghĩa là tự ý sửa đổi thay thế bằng những bài thơ khác. Và ông kết luận chỉ chừng 50% là xứng đáng.

Nay thì đến những nhận xét riêng của cá nhân tôi.

Thứ nhất, trong 5 vị trong ban chung khảo thì có đến 4 vị được độc giả bình chọn có bài thơ hay thế kỷ. Hoặc ban chung khảo tự chọn chính mình. Trường hợp thi sĩ Nguyễn Hữu Thỉnh là rõ nhất. Trong giải thưởng của Hội nhà Văn, dù là hội trưởng, dù nằm trong ban tuyển chọn, ông vẫn tự chọn mình, tự diễn thuyết rồi tự vỗ tay, tự phát giải và phát cho chính mình. Xin nhắc lại có 4 nhà thơ, cả bốn đều có thơ trong 100 bài thơ thế kỷ 20. Có nhiều quá không nhỉ? Ai đã bình chọn quý ông? Có rơi vào tình trạng mà Tây Phương gọi là conflit d’intérêt, tự mình chọn mình? Chỉ lọt sổ có mình ông giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh vì một lý do dễ hiểu là ông không làm thơ. Đó là các nhà thơ Hữu Thỉnh với bài Nghe tiếng Quốc kêu. Nhà thơ Phạm Tiến Duật với bài Cô bộ đội ấy đã đi rồi. Nhà thơ Trần Đăng Khoa với bài Gửi bác Trần Nhuận Minh. Nhà thơ Bằng Việt với bài Bếp lửa. Đến như thế thì người ta có thể nói rằng, muốn chắc chắn được chọn có bài thơ hay nhất thể kỷ thì hãy ở trong ban chung khảo?

Để cho việc tuyển chọn trong sáng, tôi thiết nghĩ cả bốn ông nên từ chức, rút lui ra khỏi Ban Chung Khảo.

Nhận xét thứ hai là trong số 100 bài thơ hay nhất thế kỷ, tôi đếm được có đến 53 thi sĩ đã tạ thế. Kể là quá nhiều, như thể người chết dành chỗ người sống. Cẩn thận kẻo rơi vào một tình trạng nghĩa địa thơ mà tôi gọi là nền văn chương phúng điếu. Hễ chết là có hiếu hỉ, là có xí xóa, phải khen, phải vinh danh.

Trong 53 vị ấy, tôi có thể chắc chắn một điều là chỉ vì họ đã chết mà họ có tên trong 100 bài thơ hay thế kỷ 20. Chẳng hạn nhà thơ Yến Lan, bạn nhà thơ Chế Lan Viên. Hay Trần Mai Ninh, chết năm 1947. Tôi tự hỏi ai còn giữ được tập thơ Thơ văn Trần Mai Ninh để phổ biến, để mọi người biết mà bình chọn?

Từ đó, vấn đề đặt ra là 10 ngàn thí sinh bình chọn này lấy đâu ra tài liệu thơ văn của 100 tác giả đó để bình chọn? Chẳng hạn bài thơ Người đẹp của Lò Ngần Sủng, người dân tộc Dáy, Lào Cay không dễ gì được phổ biến rộng rãi đến tay bạn đọc thơ? Cũng vậy bài thơ Nhớ vợ của Cầm Vĩnh Út, Nhớ vợ, chắc chỉ có một bài, chẳng biết in ấn ở đâu, năm nào. Vậy thì làm thế nào, các độc giả có thể bình chọn bài thơ này?

Nêu ra hai trường hợp các nhà thơ người thiểu số này để chỉ cho rõ tính cách dấm dúi, cần có mặt cho đủ các nhà thơ đại diện các sắc tộc mà không qua sàng lọc, bình chọn của độc giả?

Trong số những người còn sống có thơ được tuyển chọn, tôi cũng nhận ra một điều đến ngạc nhiên là họ đều già, thuộc thế hệ các nhà thơ chống thực dân Pháp trước và một số ít trong thời gian chiến tranh chống Mỹ.

100 bài thơ hay này lộ ra một điều rất quan trọng:

Thiếu vắng những nhà thơ trẻ trên dưới 30 tuổi. Làm thơ thì phải già thơ mới chín mùi chăng?

Những người trẻ không có chỗ đứng nào trong sân chơi văn học? Hay độc giả quên họ? Hay họ không có cơ hội thi triển tài năng? Hay dấu hiệu về một sự lão hóa toàn diện trong văn học? Hay là do sự chèn ép của mấy củi mục mặc dầu đã hết thời?

Người trẻ nhất có lẽ là thần đồng thi sĩ Trần Đăng Khoa, sinh năm 1958, nghĩa là năm nay cũng 50 tuổi rồi. Một thần đồng xấp xỉ 50 tuổi? Thi sĩ nữ trẻ nhất về tay cô Đinh Thị Thu Vân, 1955, rồi đến cô Lâm Thị Mỹ Dạ, vợ ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1949 và nữ thi sĩ Lê Thị Mây, cũng sinh năm 1949.

Sinh sau 1958, kể như không có một nhà thơ trẻ nào có trong danh sách 100 bài thơ thế kỷ 20. Điều đó muốn báo hiệu một điều gì ? Nó báo hiệu sự suy thoái và tàn mạt của thi ca như ở nước Mỹ chăng? Nền thi ca ở nước Mỹ kể như bị chôn vùi vào quá khứ? Chắc không phải vậy, phải tìm một lối lý giải khác.

Điều này có thể hiểu được rằng kể từ sau năm 1958, cả hai miền không còn có một nhà thơ nào đủ tầm vóc và được chọn lựa trong Những bài thơ hay thế kỷ? Điều này cho thấy một khoảng trống đáng ngại, một cái vide trong văn học, một sự đứt đoạn thế hệ?

Có lẽ nào sau, 1954, chúng ta không thể nào chọn lựa ra được các bài thơ hay thế kỷ?

Về điểm này, tôi không tin là quần chúng, người đọc thơ đã chọn như thế mà có sự sắp xếp riêng của ông Lê Lựu. Tôi đặt câu hỏi trực tiếp với ông Lê Lựu là có bao nhiêu phần trăm sự chọn lựa tùy thuộc vào độc giả và bao nhiêu phần trăm do chính ông tự chọn, tự quyết định? Chính vì vậy mà ông thi sĩ Bằng Việt chỉ đánh giá 50% là xứng đáng và yêu cầu nên làm lại với những tiêu chí rõ ràng.

Như vậy là không có tiêu chí rõ ràng trong việc bình chọn.

Nhận xét thứ ba là xét theo địa phương thì có đến 94 các bài thơ và nhà thơ sinh trưởng ở phía Bắc, hoặc theo phe Cộng Sản. Còn lại lèo tèo vài nhà thơ có thể sinh trưởng ở miền Bắc, nhưng lại sống ở miền Nam.

Và có thể xếp họ vào các nhà thơ miền Nam trước 1975.

Tôi muốn nhân dịp này nhắc tới anh Trần Hoài Thư đã có công sưu tập thành một cuốn sách dày 856 trang, bao gồm 263 nhà thơ miền Nam với nhan đề: Thơ miền Nam trong thời chiến và được Đặng Tiến giới thiệu:

Những ai như tôi, nghĩ rằng thơ cần cho đời sống, là thành phần của đời sống, sẽ cùng tôi biểu dương công trình của ban sưu tầm và biên tâp…

Có bao nhiêu nhà thơ miền Nam trong số 263 nhà thơ miền Nam trong tuyển tập của Trần Hoài Thư được bình chọn trong 100 bài thơ hay thế kỷ 20?

Hỏi là để trả lời, tôi vẫn nghĩ rẵng, còn cần nhiều cố gắng và thiện chí nữa để mảng văn học miền Nam 1954-1975 phải được nhìn nhận và có vị trí xứng đáng của nó … Cho đến nay thì mảng văn học ấy vẫn chưa có trong mắt chính quyền miền Bắc và như các anh Trần Hoài Thư, Đặng Tiến mong muốn, nó sẽ không phải là một thứ nghĩa trang – văn học của miền Nam .. Vì thế, những cố gắng của nhà thơ Phan Hoài Thư, giới thiệu Thanh Tâm Tuyền trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ V thật đáng khích lệ.



Phạm Thiên Thư, làm thơ tình năm 24 tuổi, “Vết chim bay”, khi đã đi tu (hoàn tục sau 10 năm ở chùa).
Nguồn: thotre.com










Con số nhà thơ miền Nam có mặt thật ít ỏi. Nhưng phải ghi nhận đây là một thiện chí và cố gắng phi thường rồi. Trong tập thơ, 100 bài thơ Việt Nam 1945-1975, xuất bản năm 1976, nghĩa là sau ngày giải phóng, tôi ghi nhận là không có bất cứ một nhà thơ nào của VNCH có tên trong danh sách.

Nay thì ít ra, ta có được Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Đinh Hùng, Á Nam Trần Tuấn Khải.

Nhưng ở đây câu hỏi lại đặt ra một lần nữa với ông Lê Lựu, sự có mặt của các nhà thơ miền Nam trong danh sách 100 bài thơ, phải chăng là do chính ông chọn lựa hay do độc giả bình chọn? Tôi thật nghi ngờ những bàn tay phù thủy dơ dáy mó vào? Những độc gỉả bình chọn 100 bài thơ hay lấy đâu ra thơ của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải để bình chọn bài Gánh nước đêm? Nếu quả thực có sự bình chọn, giới trẻ miền Nam, giới sinh viên, mười người hết chín biết Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa hơn là cụ Á Nam Trần Tuấn Khải? Sự có mặt của cụ với bài thơ khá là ngô nghê đẩy tới sự nghi ngờ sắp xếp dàn dựng lố bịch của ông Lê Lựu đến tận cùng của sự khôi hài đen. Không ai diễu dở như thế.

Ngay cả những thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa thì trên 30 năm rồi, sau cuộc tịch thu và đốt sách vào 1975, còn bao nhiêu tài liệu để cho độc giả bình chọn họ? Còn những ai có được tập thơ Nguyên Sa? Càng khó khăn hơn nữa tập thơ Những năm sáu mươi của ông? Chúng tôi có được tập này in Ronéo do nhà xuất bản Nam Sơn in và nay anh Trịnh Viết Đức, cựu chủ nhà in Nam Sơn, in lại ít cuốn để chia nhau làm kỷ niệm. Thật không dễ có được.

(Còn tiếp)

Trích DCVOnline









(1): NXB Giáo Dục – thương hiệu uy tín nhất được “độc quyền” in sách giáo khoa tại Việt Nam.
(2): Trích dẫn Lời nói đầu 100 Bài thơ hay hay thế kỷ 20, trang 6
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2007 00:58:29 bởi TTL >
#1
    TTL 18.05.2007 05:49:23 (permalink)
     
    Lên tiếng về 100 bài thơ hay thế kỷ (Kết)
    Nguyễn Văn Lục
    Cũng vậy, sự có mặt lần này của Lê Đạt, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán, Hữu Loan là do chỉ thị ở trên cho vào danh sách? Thay vì do độc giả bình chọn? Không thể cùng một lúc, trước đây họ bị đặt ra ngoài lề, nay cùng lúc có trong danh sách?

    Việc bình chọn này xem ra chẳng khác gì việc đi bỏ phiếu của dân chúng. Bầu ai thì cứ việc bầu, nhưng quyết định chọn ai thì đã có danh sách sẵn cả rồi.

    Cuộc bình chọn trong suốt hai năm theo như lời ông Lê Lựu, phải chăng chỉ là một trò dàn dựng, quảng cáo, đánh lừa người đọc?

    Trong số những nhà thơ tiếng là người ở miền Nam, nhưng thật ra, họ là người của chính quyền cộng sản. Tôi thấy không thể xếp chung họ với nhóm Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương được. Số nhà thơ sinh trưởng ở phía Nam, nhưng sau này đi theo Cộng sản mà tôi không thể biết chắc được tiểu sử của họ như thế nào?

    Đó có thể là trường hợp Lâm Thị Mỹ Dạ, Đinh Thị Thu Vân, Trần Vàng Sao, Ý Nhi, Giang Nam, Nguyễn Mỹ, Trang Thế Hy, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo vv..







    Tại buổi giao lưuu do Trung tâm Văn hoá Doanh nhân Việt Nam tổ chức: Kevin Bowen và Nguyễn Bá Chung (GĐ William Joiner Center và nhân viên)
    Nguồn: vhdn.com.vn


    Có trường hợp khá đặc biệt là nhà thơ Nguyễn Bá Chung, học Đại học Văn khoa Sài Gòn, trước 1975, du học Mỹ và hiện nay dạy đại học Massachussetts, đồng thời là Phó giám Đốc, phụ trách Trung tâm Joiner ở Boston. Trong phần ghi chú dưới tiểu sử của anh, tôi đọc vỏn vẹn có một dòng: Việt kiều tại Mỹ. Điều đó cho thấy, ông Lê Lựu chẳng hỏi, chẳng tiếp xúc gì với anh Nguyễn Bá Chung. Việc làm của ông Lê Lựu thật tùy tiện, tắc trách và ít trách nhiệm thay vì việc tuyển chọn nghiêm túc như ông tuyên bố. Ông chọn bài Quê hương mà không cho biết rút ra từ tập thơ nào của tác giả. Theo anh Nguyễn Bá Chung cho biết thì bài thơ trên trích từ tập thơ: Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh, xuất bản 1999, ở trong nước

    Để được bình chọn thì ít ra tập thơ của Nguyễn Bá Chung phải được in ra ít nhất là trên 10 ngàn cuốn? Điều đó chắc đã không thể xảy ra rồi. Khi thấy tên anh Nguyễn Bá Chung thì việc đầu tiên là tôi nghi ngờ muốn anh xác nhận anh có phải là tác giả bài thơ Quê Hương không? Xin phép trích lá thư anh Nguyễn Bá Chung:


    Việc chọn thơ thật bất ngờ. Một người bạn hỏi tôi có phải là Nguyễn Bá Chung trên danh sách ấy không? Tôi trả lời quả thật tôi không biết. Bài thơ đó trích trong tập thơ: Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh








    Ngày thơ Việt Nam lần thứ V giới thiệu Thanh Tâm Tuyền
    Nguồn: DCVOnline


    Tôi chỉ đặt vấn đề với ông Lê Lựu trong trường hợp này. Mà không đặt vấn đề với 100 nhà thơ được tuyển chọn. Ông có thể nào trả lời một cách vô tư, khách quan trong việc chọn bài thơ của anh Nguyễn Bá Chung? Được biết anh Nguyễn Bá Chung là người đã dịch cuốn Thời xa vắng, Temps, loin au de – hay Moment, loin de – là của chính ông Lê Lựu. Phải chăng cái mối liên hệ này như một cách trả ơn gián tiếp công việc chuyển ngữ của anh Nguyễn Bá Chung cũng như những giúp đỡ của anh ấy để ông được sang Mỹ?

    Việc chọn lựa 100 bài thơ hay nhất thế kỷ, phải chăng chỉ là việc trả ơn và thi ơn? Tôi mong mỏi được ông giải thích rõ ràng về vấn đề này, ngay cả trường hợp những người bạn thân của ông như Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật?

    Nhận xét thứ tư là tôi đã nhận ra một điều mà tôi cho là ghê tởm nhất: Tuyển tập 100 bài thơ hay nhất thế kỷ chỉ là một trò sao chép, sào xáo lại.

    Đối với phần đông bạn đọc phía Nam và hải ngoại thì tuyển tập này có điều gì mới lạ, một công trình sưu tập làm việc trong suốt hai năm trời, thu tập khoảng 10 ngàn ý kiến bạn đọc gửi về bình chọn. Thật ra là sai gấp 10 lần. Theo nhà thơ Bằng Việt, ông chỉ nhận được khoảng trên dưới 1000 bài thơ gửi về, có nghĩa là chỉ có khoảng 1000 người tham dự, không phải 10000 người tham dự. Và cũng theo nhà thơ,


    kết quả gây bất ngờ, tôi cũng không biết? Từ lúc thành lập Hội đồng vào cuối tháng 9 năm ngoái cho đến tận bây giờ, Ban tổ chức cuộc bình chọn vẫn chưa hề tổ chức một cuộc họp nào giữa các thành viên hội đồng?


    Cho nên, tất cả lớp lang, cái được gọi là chọn lựa của độc giả hay cái cái được gọi là ban chung khảo chỉ là hữu danh vô thực ... chỉ là trò chơi bạc giả không hơn không kém. Và để chứng minh điều này, tôi xin được đưa ra một dẫn chứng có tình cách chung thẩm như sau.

    Đây không phải là lần đầu tiên có những màn tuyển chọn thơ như thế này. Trước đó đã có những tuyển tập bình chọn như: Tuyển tập thơ Việt Nam 1945-1975, Thơ Việt Nam 1945-1960, Thơ miền Nam 1960-1970.

    Con số chẵn 100 bài thơ là con số ước lệ và copie lại tuyển tập thơ: Thơ Việt Nam 1945-1975, xuất bản tại Hà nội, năm 1976, in tại miền Nam. Ban tuyển chọn gồm Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên. Tôi có tuyển tập thơ này trước mặt. Cũng đúng 100 tác giả và cũng có đủ 4 tên thi sĩ trong ban tuyển tập có thơ được tuyển chọn. Và cả 4 nhà thơ đều chọn cho mình nhều bài thơ nhất. Xuân Diệu có 6 bài, Tế Hanh 5 bài, Hoàng Trung Thông 4 bài, Chế Lan Viên 5 bài.

    Hóa ra thời nào cũng giống nhau cả

    Ông Lê Lựu chỉ sao chép lại cái ước lệ đã có sẵn, 100 bài thơ thay vì 100 nhà thơ.

    Nếu việc chọn lựa một tuyển tập thơ do một số nhà thơ tuyển chọn thì sự giống nhau giữa tuyển tập này với tuyển tập kia, nghĩa là tuyển tập trước đó không có gì để nói.


    Giống nhau là chuyện bình thường

    Nhưng nếu do độc giả vô danh trên cả nước 83 triệu dân và hơn 3 triệu người hải ngoại chọn lựa thì sự giống nhau giữa tuyển tập: Thơ Việt Nam 1945-1975 với 100 bài thơ hay thế kỷ 20 của ông Lê Lựu là một điều bất bình thường đến quái gở. Bởi vì chẳng những là một sự sao chép thiếu lương thiện mà còn là sự lừa dối hàng ngàn người gửi thư về bình chọn. Đó là sự gian trá, thiếu sự tôn trọng độc giả bình chọn và qua mặt 5 tác giả trong ban chung khảo.

    Sự giống nhau này đọc và so sánh thấy quái gở lắm. Trong số 100 nhà thơ được chọn trong Thơ Việt Nam, 1945-1975, tôi thấy có 42 nhà thơ cũng có mặt trong 100 bài thơ hay thế kỷ 20. Và bao giờ Hồ Chí Minh cũng đứng đầu danh sách, không theo thứ tự vần A, B, C...

    Độc giả có hàng ngàn nhà thơ để bình chọn, hà cớ gì bình chọn ngẫu nhiên, giống nhau đến gần phân nửa số nhà thơ của tập Thơ Việt Nam?

    Vì vậy con số 42 nhà thơ giống nhau giữa hai cuốn sách tự nó tố cáo cách bình chọn của ông Lê Lựu có điều gì không ổn. Nhất là độc giả bình chọn nếu sống ở trong Nam, khá xa lạ với tên các nhà thơ giống nhau như các thi sĩ Nguyễn Mỹ, Giang Nam, Hồng Nguyên, Hoàng Lộc, Trần Đăng Khoa, Minh Huệ, Thôi Hữu, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Hữu Thung v.v…

    Riêng cá nhân tôi, hầu như không biết gì về danh tính các nhà thơ vừa kể trên.

    Trong cuốn Thơ Việt Nam, 1947-1975, ít ra có lời của nhà xuất bản như sau:


    Phần thơ của Hồ Chủ tịch, chúng tôi kính cẩn dành riêng để mở đầu cho tập thơ, còn tất cả các tác giả khác đều được xếp theo tứ tự ABC...


    Ít ra bài thơ của ông Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt, bài Chúc Năm mới, 1 tháng 1 năm Đinh Hợi, 1947.

    Trong 100 bài thơ hay thế kỷ 20, bài thơ của ông Hồ tiếc thay lại viết bằng chữ Hán. Chữ Hán đã hẳn không phải chữ Việt và có thể nào xếp vào loại gọi là thơ hay thế kỷ 20 được chăng?

    Trong tuyển tập thơ, người ta có quyền kính cẩn dành riêng, vì ông Hồ thuộc loại Hors classe để chọn thơ Hồ Chí Minh, nhưng trong việc bình chọn của ông Lê Lựu, có thực sự độc giả bình chọn thơ ông Hồ không và lại chọn một bài thơ bằng chữ Hán?

    Đôi khi, tôi hiểu rằng, nguời miền Bắc thần phục đến chỗ mù quáng lãnh tụ của mình và thấy là rất tự nhiên để tên ông Hồ không chút ngại ngùng. Nhưng phần dân miền Nam, tâm trạng và thái độ của họ không hẳn là như thế.

    Thành thật mà nói, chúng tôi khó châp nhận lối thần phục lố lăng như thế. Làm lãnh tụ cả nước, làm cha già thiên hạ đã để lại di sản khổ lụy cho đên tận bây giờ, tham chi cái danh thi sĩ nữa. Có thể nào tha cho chúng tôi một lần khỏi phải đọc thơ ông Hồ không?

    Và vì thể, tôi cảm thấy khó chịu khi thấy tên ông Hồ trong danh sách thi sĩ hay thế kỷ 20. Vinh danh ông Hồ là một nhà thơ hàng đầu của Việt Nam là một sự xỉ nhục ông ấy, là một trò cười lố bịch. Các ông Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông chọn thơ ông Hồ là quyền của các ông ấy, nhưng đổ vào đầu trách nhiệm bình chọn thơ ông lên đầu của người đọc là một phỉ báng họ, lại còn ngoa ngữ nói rằng:


    Phải nói rằng đây là một công trình tập thể của những người yêu thơ trong và ngoài nước và cũng phải nói rằng đây mới chỉ là bước đầu, cho dù đã hết sức khắt khe, nghiêm túc và minh chính … ( Trích Lời nói đầu )


    Hãy đừng làm như thế nữa.

    Tôi xin mượn chữ của nhà thơ Nguyên Sa trong tập thơ Những năm sáu mươi, ông gọi: Nhà nước là một nhân vật buồn cười, để ám chỉ chính quyền miền Nam.

    Quả là buồn cười thật cái nhà nước XHCH

    Vì thế, tôi không tài nào hiểu được, sự chọn lựa của tuyển tập thơ và sự bình chọn của độc giả có thể trùng hợp nhau đến 42 tác giả, gần như sự ngẫu nhiên trùng hợp đến một nửa tổng số bài thơ?

    Điều đó không thể cách nào có được trong số hàng ngàn nhà thơ như thế? Nó chỉ có thể cắt nghĩa là chính bàn tay ông Lê Lựu mang tuyển tập thơ cũ ra, nhặt ra những tên tuổi đã có sẵn và bỏ thêm tên những nhà thơ miền Nam và đám nhà thơ nhân văn giai phẩm, cộng với đám nhà thơ bằng hữu của ông.

    Sự quái gở còn có thể dẫn chứng một cách hùng hồn hơn thế nữa là trong 42 nhà thơ giống nhau giữa hai tuyển tập, tôi còn lọc ra được 13 bài thơ đã được chọn trong tuyển tập trùng hợp với 13 bài thơ do độc giả bình chọn. Tỉ lệ trùng hợp là 1/3. Điều không thể xảy ra trên thực tế được

    Thiệt là phép lạ xảy ra giữa ban ngày để có sự trùng hợp giống nhau giữa các bài thơ của hai tuyển tập. Đó là các bài thơ của các thi sĩ Vũ Cao, Nông Quốc Chấn, Sông Hồng, Nguyên Hồng, Minh Huệ, Thôi Hữu, Hoàng Lộc, Dương Hương Ly, Tú Mỡ, Nguyễn Mỹ, Giang Nam, Hồng Nguyên, Thanh Thảo.

    Trong số những nhà thơ này, tôi đặc biệt mong ông Thanh Thảo đọc được bài viết này và lên tiếng giải thích lý do sự trùng hợp quái gở đến như vậy?


    Kết luận







    100 bài thơ
    Nguồn: i3.tinypic.com


    Nếu có cái bả vinh danh vinh hoa phú quý trong cái danh sách tuyển chọn 17 vị Việt Kiều Hải ngoại nhận giải mà không biết ngượng, không biết là trò hề dàn dựng bởi cái chính quyền nhà nước là nhân vật buồn cười thì cũng một lẽ ấy, 100 bài thơ hay của thế kỷ 20 do đạo diễn Lê Lựu là 100 cái buồn cười.

    Chúng ta đang sống trong một xã hội với một chính quyền buồn cười với lớp người dân khờ khạo đến buồn cười.

    Tập thơ 100 bài thơ hay thế kỷ 20 phản ảnh sự buồn cười và khờ khạo đó. Và xin mượn lời nhà thơ Chế Lan Viên để viết rằng:

    Làm thơ đã là một việc phi thường, nhưng sao chép, ráp nối, lừa đảo như ông Lê Lựu thật ra chỉ là một việc bình thường ở nước ta.

    Viết xong bài này, tôi cũng lại có một hy vọng hão huyền là mong có một nhà thơ nào còn sống hay đã chết xin rút tên ra khỏi danh sách 100 bài thơ hay thế kỷ 20.

    Phần tôi, xin mạo muội thay nhà thơ Nguyên Sa, đã quá vãng, rút tên ra khỏi danh sách này, vì một lẽ dản dị, tự thâm tâm, ông không muốn là kẻ đồng hành.

    Dù chỉ là:


    Đồng Hành
    Trong cõi chết

    (trích thơ Những năm sáu mươi)


    Trích DCVOnline

    #2
      TTL 21.05.2007 21:17:21 (permalink)
      “Đi tìm những bài thơ phóng tác”
      HAY LÀ CHUYỆN “VIỆT NAM NÉT”
      VU CÁO NHÀ THƠ HỮU THỈNH ĐẠO THƠ ?
      Trần Mạnh Hảo
      Trên báo điện tử Việt Nam Nét ngày 09-11-2006, có in bài của tác giả Đại Lãng Du Tử với tiêu đề : “Đi tìm những bài thơ phóng tác” ( http://vietnamnet.vn/vanhoa/tacpham/2006/11/631823/ ) làm chấn động dư luận văn học Việt Nam : liên quan tới bài thơ “HỎI” - một bài thơ nổi tiếng vào bậc nhất của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc Hội đương nhiệm, kiêm Tổng biên tập “TẠP CHÍ THƠ” của Hội Nhà Văn Việt Nam, người vừa được Giải thưởng văn học Hội Nhà Văn Việt Nam với tập thơ gây tranh luận : “Thương lượng với thời gian” ( lần thứ 5 ông HT được giải thưởng). Chúng tôi xin trích một phần bài viết của tác giả Đại Lãng Du Tử ( bỏ đi phần giới thiệu các bài thơ Tây khác được phỏng dịch), chỉ dẫn đoạn liên quan tới “vấn đề” bài thơ HỎI của nhà thơ Hữu Thỉnh, “bị” Đại Lãng Du Tử tiên sinh phát hiện ra… chuyện “đạo thơ” tày trời này mà thôi.
      Đây là đoạn văn của Đại Lãng tiên sinh :






      Christa Reinig18:30' 09/11/2006 (GMT+7)
      (VietNamNet) - Có lẽ các nhà nghiên cứu nên sớm có tiếng nói về vấn đề này. Cái gì cũng cần có chính danh: xếp cho sự vật một cái tên đúng là mọi chuyện sẽ trở nên dễ hiểu và trật tự ngay!
      Trong văn chương có hiện tượng khá thú vị là phóng tác. Theo tôi, nó xuất hiện đã từ lâu và ranh giới phân biệt nó khá mong manh, chẳng hạn với “phỏng tác”, “phỏng dịch”... hay với cái mà ông Thái Bá Tân đưa ra và thực hành là “tác dịch” (ông Tân có hẳn một tập Cổ thi tác dịch); rồi lại với khái niệm hay được dùng trên báo chí gần đây là “đạo” - đạo văn, đạo nhạc, đạo thơ, v.v. và v.v... Có lẽ các nhà nghiên cứu nên sớm có tiếng nói về vấn đề này. Cái gì cũng cần có chính danh: định cho sự vật một cái tên đúng là mọi chuyện sẽ trở nên dễ hiểu và trật tự ngay!
      Tôi không phải người hiểu biết trong lĩnh vực này, nhưng tình cờ thấy trong thơ Việt Nam thế kỉ qua có những phóng tác sau đây, tiện ghi lại trình bạn đọc.
      ...
      III. Và đây là bài thơ của nữ nhà thơ Đức Christa Reinig (sinh năm 1926):

      Gott schuf die sonne
      Ich rufe den wind
      wind antworte mir
      ich bin sagt der wind
      bin bei dir
      ich rufe die sonne
      sonne antworte mir
      ich bin sagt die sonne
      bin bei dir
      ich rufe die sterne
      antwortet mir
      wir sind sagen die sterne
      alle bei dir
      ich rufe den menschen
      antworte mir
      ich rufe - es schweigt
      nichts antwortet mir
      (Trong tập Thơ (Gedichte), nxb S. Fischer, 1963).

      Trong tạp chí Văn học nước ngoài năm 2002 có đăng bản dịch của Quang Chiến:

      Thượng đế đã làm ra mặt trời
      Tôi gọi gió
      Gió hãy trả lời tôi
      Gió nói
      Tôi ở bên em.
      Tôi gọi mặt trời
      Mặt trời hãy trả lời tôi.
      Mặt trời nói
      Tôi ở bên em.
      Tôi gọi các vì sao,
      Xin hãy trả lời tôi
      Các vì sao nói
      Chúng tôi ở bên em.
      Tôi gọi con người,
      Xin hãy trả lời tôi
      Tôi gọi - im lặng
      Không ai trả lời tôi.
      Quang Chiến dịch

      Trước đây, ở miền Nam cũ cũng có bản dịch tôi không nhớ của ai, xin ghi lại như sau:

      Thượng đế sinh ra mặt trời
      Tôi hỏi gió
      Gió với em thế nào ?
      - Gió luôn ở bên em.
      Tôi hỏi mặt trời
      Mặt trời với em thế nào ?
      - Mặt trời luôn ở bên em.
      Tôi hỏi các vì sao
      Các vì sao với em thế nào ?
      - Các vì sao luôn ở bên em.
      Tôi hỏi con người
      Con người với em thế nào ?
      - Con người im lặng không ai trả lời tôi

      Tình cờ, gần đây tôi cũng được biết một bài có thể gọi là phỏng dịch của nhà thơ Hữu Thỉnh, đó là bài Hỏi:

      Hỏi
      Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào ?
      - Chúng tôi tôn cao nhau.
      Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào ?
      - Chúng tôi làm đầy nhau.
      Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào ?
      - Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
      Tôi hỏi người:
      - Người sống với người như thế nào ?
      Tôi hỏi người:
      - Người sống với người như thế nào ?
      Tôi hỏi người:
      - Người sống với người như thế nào ?

      ***
      Xin nhắc lại, tôi không phải người có thẩm quyền, mà chỉ lãng du trong lĩnh vực này, xin được ghi nhận như vậy, kính mong các nhà chuyên môn nên quan tâm đến hiện tượng văn chương độc đáo và thật thú vị này.
      Hà Nội, cuối mùa Thu 2006
      Đại Lãng Du Tử

      Thưa với tác giả Đại Lãng Du Tử và báo điện tử Việt Nam Nét rằng : bài thơ HỎI có in trong tập thơ “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh là một bài thơ sáng tác của chính ông Hữu Thỉnh, chứ nào phải là phỏng dịch từ thơ của nữ thi sĩ Đức Christa Reinig như quý vị vừa phát hiện . Bài thơ HỎI này theo các văn bản đã công bố của tác giả, thì chính do ông Hữu Thỉnh mới sáng tác sau năm 1975 in trong tập thơ trứ danh : “Thư mùa đông” đã được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam và giải thưởng văn học VUA THÁI LAN – 1000 USD ( Bi đánh tráo, lạm dụng từ ngữ mà gọi là giải thưởng văn học ASEAN). Bài thơ HỎI này còn được ông Chủ tìch Hội Nhà Văn Việt Nam chọn in trong “Tuyển thơ Việt Nam thế kỷ XX”, được nhiều nhà phê bình bình giảng khen hay trên các báo, lại được bình trên đài truyền hình, nghe đâu đã được tuyển vào sách giáo khoa văn Trung học để học trò cả nước học ( ?)
      Thưa quý bạn đọc và báo điện tử Việt Nam Nét cùng tác giả Đại Lãng Du Tử, qua bằng chứng quý vị nêu trên chính xác đến không thể chối cãi, thì bài thơ Hỏi trên không phải của nhà thơ Hữu Thỉnh mà chính của nữ nhà thơ Christa Reinig năm nay đã 80 tuổi, đã từng được giới thiệu trên báo Văn học Nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 2002. Bài thơ này đã được nữ thi sĩ Đức viết từ trước năm 1963, năm ông Hữu Thỉnh 19 tuổi chưa từng xuất hiện trên thi đàn ?
      Chuyện động trời này chúng tôi không dám tin là sự thật. Một người mũ cao áo dài, tên tuổi không chỉ là thương hiệu của nền văn học Việt Nam, mà còn là thương hiệu của chế độ như ông Chủ tich Hội Nhà Văn Việt Nam Hữu Thỉnh, lẽ nào lại đi ăn cắp thơ của người khác làm thơ mình ?
      Hay là có chuyện ngược lại : nữ thi sĩ Đức sinh năm 1926 Christa Renig có thể “đạo thơ” của Hữu Thỉnh từ trước năm 1963, năm bà in tập thơ có bài thơ này chăng ?
      Chúng tôi viết bài báo này xin dư luận và nhà thơ Hữu Thỉnh làm rõ ra mọi chuyện : rằng, ông cắp thơ của Christa Renig hay Christa Renig “ăn cắp” thơ của ông ?
      Đây không chỉ là vấn đề danh dự cá nhân của nhà thơ Hữu Thỉnh nữa, mà còn là danh dự chung của nền văn học Việt Nam, của nước Việt Nam…Không làm rõ chuyện này, nền văn học , hơn nữa, nền văn hoá Việt Nam sẽ bị một cú “sốc” kinh khiếp, khiến kẻ viết những dòng này cũng thấy đau buốt ruột gan và không thể cầm lòng đặng.,.
      Sài Gòn đêm 11 rạng sáng ngày 12-11-2006

      T.M.H.
      #3
        TTL 21.05.2007 21:19:43 (permalink)
        TIẾP CHUYỆN HỮU THỈNH
        ĂN CẮP THƠ CỦA CHRISTA REINIG VÀ
        ĂN CẮP THƠ CỦA VUA TỰ ĐỨC
        HAY NHÀ THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO
        LÊN TIẾNG VỀ GIẢI THƯỞNG THƠ NĂM NAY
        Trần Mạnh Hảo
        Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 12 -11-2006 đang là đêm của Việt Nam, Trần Mạnh Hảo thức dậy vì những cú điện thoại ( cùng nhắn tin) uỳnh oàng như súng liên thanh… từ khắp trong nước và hải ngoại gửi tới máy di động, sửng sốt vì bài viết về chuyện ông Hữu Thỉnh Chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam ăn cắp thơ của nữ thi sĩ ngưởi Đức tung ra trên Việt Nam Nét của tiên sinh Đại Lãng Du Tử do Trần Mạnh Hảo tường trình lại cho rõ hơn trong bài : “ …VIỆT NAM NÉT VU CÁO HỮU THỈNH ĐẠO THƠ ?” in trên Internet ngày 10-11-2006.
        Trong các thư điện tử gửi tới TMH, có ngót trăm thư gửi tới bàn luận về chuyện tày trời … của ông Hữu Thỉnh, bởi hành vi đạo thơ nơi gương mặt số 1 của chế độ này về văn học nghệ thuật tức ông Hữu Thỉnh đang là “quả bom nguyên tử” nổ inh trời dư luận Việt Nam, Trần Mạnh Hảo đã nhận được một Email của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo (ông bạn quý từng tham gia Hội đồng thơ các khoá trước cùng với TMH). Email của anh Nguyễn Trọng Tạo - một nghệ sĩ tài danh : vừa là nhà thơ nổi tiếng, nhạc sĩ, họa sĩ nổi tiếng, kiêm nhà báo, nhà phê bình văn học uy tín - gồm có 2 bài :
        - Bài thứ nhất : AI “ĐẠO” AI ?
        - Bài thứ 2 : KHÔN CHỐN VĂN CHƯƠNG LÀ KHÔN DẠI (Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trả lời phỏng vấn báo “Nhà báo & Công luận” về giải thưởng năm nay của Hội Nhà Văn Việt Nam)
        Trần Mạnh Hảo xin trân trọng giới thiệu hai bài báo dưới đây cùng quý vị độc giả Internet kính mến. Qua đây, chúng tôi cũng tỏ lòng tri ân tới các website đã chuyển tải kịp thời những bài viết này đến quý độc giả. Xin cám ơn và kính chúc quý vị sức khỏe, niềm vui.
        Kính thư : Trần Mạnh Hảo

        Chuyện Hội Nhà Văn vui phát khóc. Có mấy bài trên mạng xin chuyển tiếp tới các quí vị.
        AI “ĐẠO” AI :

        BÀI THƠ “HỎI” CỦA HỮU THỈNH
        VÀ BÀI THƠ “THƯỢNG ĐẾ SINH RA MẶT TRỜI” CỦA CHRISTA REINIG

        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã từng khen bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh: “đọc Hữu Thỉnh, dễ nhận thấy anh thường chặt ở câu mà lỏng ở bài. Có người bảo anh là “nhà thơ nhiều câu ít bài”, kể cũng có lý của họ… (Nhưng trong tập “Thư mùa đông” - TN) hiệu quả lập tứ hiện rõ ở các bài Người ấy, Chạm cốc với Xa-in, và đặc biệt là bài Hỏi (…) Đấy là một nghệ thuật cô đúc, tinh vi chặt chẽ đến nỗi, ít mà không thiếu, nhiều mà chẳng thừa. Tác giả hoàn toàn làm chủ những con chữ của mình, mà người đọc vẫn cảm thấy như tự bài thơ nó vốn thế, nó là một khối vẹn toàn, lấp lánh tâm hồn và trí tuệ. Những bài thơ như thế làm mới Hữu Thỉnh…” (VĂN CHƯƠNG CẢM VÀ LUẬN – nxb VHTT 1999).
        Nhận xét như thế là rất đúng với bài thơ “Hỏi”. Nhưng lúc đó, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo không hề biết là trước Hữu Thỉnh, đã có bài thơ “Thượng đế sinh ra mặt trời” của nữ thi sĩ Đức Christa Reinig (sinh năm 1926), trong một tập thơ của bà đoạt giải thưởng Văn chương Bremen 1964. Bài thơ đã được dịch ra tiếng Việt:

        THƯỢNG ĐẾ SINH RA MẶT TRỜI
        Tôi hỏi gió
        Gió với em thế nào ?
        - Gió luôn ở bên em.
        Tôi hỏi mặt trời
        Mặt trời với em thế nào ?
        - Mặt trời luôn ở bên em.
        Tôi hỏi các vì sao
        Các vì sao với em thế nào ?
        - Các vì sao luôn ở bên em.
        Tôi hỏi con người
        Con người với em thế nào ?
        - Con người im lặng không ai trả lời tôi.

        Bài thơ này còn có một bản dịch khác, của Quang Chiến, in trên tạp chí “Văn Học Nước Ngoài” của HộI Nhà Văn VN số 6 – 2002.
        Còn bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh đã in ở nhiều sách, nó còn là bài đọc thêm trong sách giáo khoa phổ thông (chắc các nhà biên soạn sách giáo khoa cũng chưa hề biết bài thơ trên của Christa Reinig). Nguyên văn như sau:

        HỎI
        Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào ?
        - Chúng tôi tôn cao nhau.
        Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào ?
        - Chúng tôi làm đầy nhau.
        Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào ?
        -Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
        Tôi hỏi người:
        - Người sống với người như thế nào ?
        Tôi hỏi người:
        - Người sống với người như thế nào ?
        Tôi hỏi người:
        - Người sống với người như thế nào ?

        Đặt 2 bài thơ của 2 tác giả một Đức một Việt cạnh nhau sao nó giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy. Christa chọn 4 đối tượng để hỏi: Gió, mặt trời, sao, người. Hữu Thỉnh cũng chọn 4 đối tượng để hỏi: Đất, nước, cỏ, người. Ba đối tượng trên có thể thay đổi thế nào cũng được, ví dụ có thể hỏi bò, lợn, chó xem nó sống với nhau thế nào, chắc cũng sẽ có những câu trả lời hay. Ví dụ:

        Tôi hỏi bò: Bò sống với bò thế nào ?
        - Chúng tôi nhường cỏ cho nhau.
        Tôi hỏi lợn: Lợn sống với lợn thế nào ?
        - Chúng tôi ủn ỉn cùng nhau.
        Tôi hỏi chó: Chó sống với chó thế nào ?
        - Chúng tôi sủa cùng nhau.

        Nhưng muốn bài thơ có tứ hay, nhất thiết là phải giữ nguyên đối tượng thứ tư, đấy là con người, thì bài thơ mới trở nên hoàn chỉnh. Với bài thơ “Bò lợn chó” trên đây, chỉ cần ghép thêm vào đoạn kết của Christa hoặc của Hữu Thỉnh là không chê vào đâu được.
        Vậy thì nhà thơ cần sáng tác ra bài thơ, hay chỉ cần đi sửa lại đôi chút thơ người khác ? Tất nhiên đã là nhà thơ thì phải tự mình làm ra ý, ra tứ, ra lời, tức là làm ra “bài thơ của mình”. Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ… những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh “trẻ người non dạ” mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội Nhà Văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội Nhà Văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không ? Biêt nó là giải thật hay giải dổm ?
        Nghe nói Hữu Thỉnh là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc ca dao tục ngữ. Nhưng ông đâu chỉ ảnh hưởng ca dao tục ngữ - thơ ca khuyết danh, có cóp cũng chẳng sao. Tỷ như Hữu Thỉnh đã “sửa” hai câu thơ của Tự Đức (vì tưởng là của Khuyết Danh ?): “Đập cổ kính ra tìm thấy bóng - Xếp tàn y lại để dành hơi” thành ra thơ của mình: “Mở trăng ra tìm – Trăng còn in bóng - Mở cỏ ra xem - Cỏ còn hơi ấm”. Nhưng cứ như bài thơ “Hỏi” thì ông còn “ảnh hưởng” cả thơ hữu danh của Tây Đức. Nếu mà ông không biết chuyện này, sang làm việc với các nhà văn Đức, lại đem bài thơ “Hỏi” ra đọc, và người ta dịch lại tiếng Đức bằng chính bài thơ của Christa, chắc sẽ được vỗ tay đến không về nước được.
        Văn nghệ Việt Nam gần đây kể cũng hơi bị buồn. Chưa xong câu chuyện “tự nguyện” rút khỏi giải thưởng khi bị các nhạc sĩ tố giác “đạo nhạc” của nguyên Tổng thư ký Hội Nhạc, đã đến chuyện “đạo thơ” và tự trao giải thưởng cho mình của ông Chủ tịch Hội Văn. Âu cũng là câu chuyện có vay có trả vậy. Thôi thì người của công chúng cũng “nhân bất thập toàn” mà. Tôi đưa ra cái chuyện “Ai đạo ai” này chẳng qua tôi cũng là kẻ muốn trị bệnh cứu người, và muốn những nhà soạn sách giáo khoa cũng nên xem kỹ lại bài thơ “Hỏi” mà thôi. Đừng để con cháu ta bị nhầm lẫn mãi.
        7.11.2006
        THƯỜNG NHÂN



        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:
        Khôn chốn văn chương là khôn dại
        Từng tham gia Hội đồng giám khảo thơ của Hội nhà văn VN 5 năm, từ 2001 đến 2005, song năm nay Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo không tham gia. Hỏi, anh cho hay: “Mình là người không dễ thoả hiệp thì không nên ngồi lâu ở đó. Thứ nữa, người ta cũng chẳng thích gì mình khi mình cứ như thế”.
        “Không dễ thoả hiệp”, vậy anh đã phải đấu tranh như thế nào ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Năm đầu tiên tham gia tôi không đồng ý khi Hội đồng thơ đưa ra 2 tập thơ để tặng giải. Tôi đã đề nghị Ban chấp hành làm lại, nếu không tôi xin rút và không bao giờ tham gia. Cuối cùng đã được chấp nhận. Tôi đề nghị xem lại một tập thơ - mà trước đó đã được vứt ra sọt rác (loại) để cùng thảo luận. Đó là tập trường ca “Trầm tích” của Hoàng Trần Cương. Tác phẩm chưa phải là thực sự cách tân mới mẻ, chưa có bước đột phá lớn, nhưng nó có cá tính mạnh mẽ và độc đáo, đồng thời nó đánh dấu sự trở lại của trường ca. (Đến nay, có nhiều người đánh giá “Trầm tích” là tập thơ hay nhất về miền Trung - PV). Và sau khi tranh luận, tập thơ được số phiếu bầu cao nhất, giành giải thưởng của năm.
        Cùng với đấu tranh thì như anh nói: Muốn trung thực phải có cách nhìn trung thực về văn chương ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Không những thế, mà còn phải rất kiên quyết bày tỏ ý kiến riêng của mình mà không sợ ai khác thù hận. Vì giá trị văn học là câu chuyện cuối cùng. Nếu không vì văn học, thì xét giải thưởng không có ý nghĩa gì. Để có thể bình đẳng hơn, khi tham gia trong Hội đồng thơ, tôi đã rút tập thơ của mình ra khỏi danh sách chấm giải. Cũng phải cân nhắc lắm tôi mới quyết định như thế.
        Vậy qua 5 năm là thành viên của Hội đồng thơ, anh có hài lòng với kết quả giải thưởng thơ hàng năm ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Nói thật là chỉ hài lòng 1/3. Mình không bảo thủ - duy trì ý kiến riêng đến quá cực đoan, nhưng nếu nhìn về tổng thể, giải thưởng được trao theo kiểu “dĩ hoà vi quý” thì không có gì là sang trọng cả.
        Anh không hài lòng vì thơ không tìm được tác giả thực sự xuất sắc hay vì Hội đồng không mạnh dạn trao giải cho những cây viết trẻ có cá tính, có những đổi mới đáng ghi nhận ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Có cả 2. Có năm có tác phẩm xuất sắc, có năm không, có khi là bó đũa chọn cột cờ. Nhưng vì một nền văn hoá, bao giờ cũng phải qúy trọng những tìm tòi táo bạo của những người viết. Họ làm thay đổi tư duy về văn học, tư duy về quan niệm sống, về những giá trị của văn chương. Nói cho cùng, một xã hội nói chung, và văn học nói riêng thì sáng tạo đồng nghĩa với phát triển.
        Dẫu thế, công chúng và các nhà văn vẫn luôn nghĩ và phải nghĩ Giải thưởng của Hội nhà văn VN là danh giá ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Đúng là giải thưởng HNV VN là đáng giá và cao nhất về chuyên môn. Nhưng qua mấy chục năm trao giải thì hầu hết không chính xác. (Cũng có tác phẩm chính xác). Năm ngoái tiểu thuyết “Dòng sông mía” của Đào Thắng trong cuộc thi Tiểu thuyết của Hội NV, nếu trao giải nhất là xứng đáng, nhưng lại không được trao độc lập, mà trao giải A cùng 2 tác phẩm nữa.
        Và năm nay, dư luận trong và ngoài giới nhà văn chưa bao giờ bức xúc như thế ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Tập thơ “Thương lượng với thời gian” của Hữu Thỉnh phải nói là kém. Một bước đi lùi so với 2 lần từng nhận giải HNV trước đây của anh. Nếu tính về cái mới, cái ấn tượng thì “Lô lô” của Ly Hoàng Ly vượt hơn cả. Kể cả “Paris 11-8” của Thuận có ngôn ngữ khá độc đáo, khác với những cái đã có. Song chỉ được tặng thưởng (không phải giải thưởng chính thức) nên Ly Hoàng Ly từ chối giải và Thuận thì thờ ơ với giải là đúng.
        Đúng là thêm một giải thưởng khi tên tuổi đã được khẳng định (nhất là ở vị trí cao nhất của HVN) liệu nhà thơ Hữu Thỉnh có thêm phần giá trị, cao sang ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Chất lượng thấp không làm sang cho bất cứ điều gì. Nếu xuất sắc thì lại là chuyện khác.
        Còn ngược lại. Lớp trẻ cá tính, mạnh mẽ, tự tin, họ không quá quan tâm đến những hư danh ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Họ bất bình trước cách xét tặng không công bằng. Họ không làm điệu hay làm sang mà có bản lĩnh. Nhìn mình, nhìn xung quanh và họ biết mình đang ở đâu. Còn tác phẩm mới mẻ, cách tân bao giờ cũng đứng trước sóng gió của dư luận. HNV VN sợ hãi dư luận mà lại không đưa được chuẩn mực để trao giải thưởng. Vì thế, giải thưởng không tạo được uy tín, người được nhận cũng bị hạ giá. Người trao không oai gì vì tiêu chí rất mù mờ. Giải thưởng như bị vỡ trận. Không đủ bình tĩnh để tự tin.
        Phần tặng thưởng là gây bất bình và dường như là một cách nhìn nhận tác phẩm nửa vời nên đã bị phản ứng ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Những giải được trao kiểu này đã chứng tỏ tính “khôn khéo” của HNV VN, như một cái gì cố hữu. Song tôi lại nhớ rất rõ một câu thơ xa: “khôn chốn văn chương là khôn dại”. Tôi không biết HNV VN có dại hay không nhưng đúng là “khôn quá” khi ứng xử với văn chương ? Trao giải không chỉ vì mục đích xoa dịu, mà còn tỏ ta nịnh bợ quá rõ. Trong lúc cần hướng tới giá trị đích thực của văn chương, thì không thấy đâu.
        Các nhà thơ trẻ gây ồn ào thời gian qua, thực chất như thế nào, theo con mắt của anh, họ có xứng đáng được trao giải ?
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Nếu họ xin vào HNV chắc dễ hơn là trao giải cho họ. Thơ của họ - những người thể hiện cá tính, quan niệm và phong cách mạnh - nói chung được coi là “có vấn đề. Cuộc sống và khả năng sống của họ ở thời hiện đại này khác với tư duy khá bảo thủ của thế hệ trước nằm trong Hội đồng và BCH HNV. Dẫu thơ trẻ có sự đua đòi, thể hiện một cái gì đấy chưa chuẩn, nhưng nếu không có những làn sóng mới, trẻ trung trong văn học nghệ thuật thì không thể nào tiến bộ được. Rõ ràng là họ khác với những gì đã có. Cái khác đó sẽ chín chắn dần theo thời gian có thể tạo ra ngôn ngữ mới cho văn học nghệ thuật hiện tại và tương lai.
        BOX: Đặng Thái Sơn từng nói: “Mục đích của tôi không phải là giải thưởng, nhưng giải thưởng giúp tôi nhanh chóng tiếp xúc với công chúng như một thương hiệu, nếu giải thưởng đó là đích thực.”
        Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Mỗi giải thưởng không chỉ khẳng định những giá trị của văn học hay nghệ thuật mà còn khẳng định giá trị của tổ chức trao giải. Nếu giải thưởng đích đáng, tổ chức cũng xây dựng được thương hiệu của chính mình: uy tín, tường minh. Người được trao oai mà tổ chức trao cũng oai.
        BOX: Dẫu người ta cứ hay nói về một nền văn học đẳng cấp và chuyên nghiệp nhưng đúng là phải có sự chuẩn bị và hy sinh. Trong 1000 người cầm bút, may ra có một vài thành danh lớn. Văn chương là thế. Cứ làm đi. Ai tài, ai can đảm không xuất hiện chỗ này, sẽ xuất hiện chỗ khác.
        Hằng Nga
        (Thực hiện)
        Báo Nhà Báo Và Công Luận
        #4
          Nhatho_PhamNgocThai 22.05.2007 13:08:26 (permalink)
                                             


                                                           

                                                                                                         nhà thơ PHẠM NGỌC THÁI


                  
                         Thay vì lời nhận xét về sự lựa chọn 100 BÀI THƠ HAY THẾ KỶ NÀY của các vị
                     trong Hội nhà văn VN  - Tôi xin tặng các vị bài thơ  " người chơi mưa " trong Tuyển Thơ
                     Đại Bàng  của tôi :





          Bài thơ 271: 


                        
                     NGƯỜI CHƠI MƯA 
                               
          . Tặng các nhà thơ có tên tuổi đương thời của HNVVN  

                             
          Mưa dại mưa khôn mưa đồng mưa phố 
          Mưa mãi rồi cũng võng mái nhà tôi
          Đứng đái vào mưa làm cái thú của người
          Nước này trắng hơn hay những thứ mưa kêu
                                        như kèn, la, gõ mõ?

          Ta lấy mưa chơi cho thoả chí
          Sao lu hết rồi ếch nhái nhảy tứ tung
          Ngẫm khúc mưa nay mà thấy lạ lùng
          Khi gió giật lung tung lúc lại lầm rầm như thằng lẫn.

          Xem những thứ mưa hò reo làm trò quẫn
          Điệp khúc nào nghe cũng nhàm tai
          Mới lấy mưa để mưa chơi
          Nhìn các loại qua màu nước lã...

          Hữu ý - Vô tình: ai biết ai nhân bản?
          Họ lên diễn đàn còn tôi đứng chơi mưa
          Cứ đái vào mưa như một trò đùa
          Oàm oạp quanh hồ tai nghe toàn chão chuộc! 

                                            
          Phạm Ngọc Thái


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2011 11:52:55 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
          #5
            Nhatho_PhamNgocThai 23.05.2007 02:08:55 (permalink)
             



                                                Đây mới là những bài thơ tình hay nhất thế kỉ !

                   Tạm thời tôi xin rút ra 4 bài thơ tình , được trích trong Tuyển Thơ Đại Bàng của Phạm Ngọc Thái đã đăng trên VNTQ... Đồng thời những bài thơ này & lời bình cũng đều lấy theo  nguyên bản của tập thơ "Rung động trái tim" tại NXB Thanh niên xuất bản năm 2009

                         




                                               Bài thứ nhất :


                      


                      NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG

                           Người đàn bà đi trong mưa rơi
                            Chứa một trời thầm như hoa vậy...

                                                *

            Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
            Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
            Đôi mắt em đong những áng mây
            Người Đàn Bà Trắng!...

            Em đi - về... chao những hàng cây
            Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
            Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
            Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

            Nỗi niềm thao thức
            Những đêm trăng nước...
            Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
            Người đàn bà ai mà định nghĩa (?)

            Đường xưa đó về đây em ơi!
            Những con đường đã đầy xác lá rơi
            Xác ve xác gió và xác của mưa.

            Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
            Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
            Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
            Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau (!)

            Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
            Những đêm sao buồn những đêm gió khát
            Khúc thơ tình anh lại viết về em!
            Người đàn bà... ngậm cả vầng trăng...

                         


              Nhà thơ gọi em bằng cái tên Người Đàn Bà Trắng (NĐBT), thực ra khi ấy em vẫn còn là một thiếu nữ:

                       Chiếc mũ trắng mềm em đội bàu trời
                       Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc

            Từ chiếc mũ vải trắng mềm em thường đội trên đầu lẫn vào trong khóm mây, và khóm mây kia nghiêng trôi trên mái tóc em. Nghĩa là, bóng em đi hiển hiện dưới một bàu trời cao vời vợi: ấn tượng nhà thơ về em cứ vờn bay cùng trời mây gió cuốn. Đến đôi mắt của người yêu:

                       Đôi mắt em đong những áng mây

            Đôi mắt của mùa thu êm ái ngọt ngào, trong xanh và xa thẳm. Bích Khê trong bài thơ Tranh Loã Thể cũng đã tả về đôi mắt người mỹ nữ:

                       Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường

            "châu" ở đây là châu ngọc - Đôi mắt đẹp của người đàn bà được thi nhân mô tả ấy là những cảm xúc mang tính mỹ học (châu ngọc, nghê thường), thân thể nàng cũng trinh trắng bay ra như hương như tuyết. Khoé mắt nàng lung linh ánh sáng kỳ ảo dị thường. Còn NĐBT - đôi mắt em lại đẹp một cách hiền dịu , mộng mơ... Nhà thơ đã cảm xúc hình ảnh từ trong vũ trụ, trời đất mà tả về em.

            "...đong những áng mây" : anh đã phiêu du trong đôi mắt ấy. Đôi mắt người yêu vừa huy hoàng lại vừa nhân ái. Nó chìm ngập một thế giới...chiếu rọi vào những ngõ ngách tăm tối, làm cho cuộc đời anh sáng bừng lên! Và cũng từng làm tan nát trái tim anh! Đôi mắt người yêu mang đầy sự huyền ảo như Xuân Diệu đã viết:

                       Đến tan cả đất trời
                       Anh mới thôi dào dạt

            Em thật hiền! Ta đã yêu em từ đôi mắt ngời lên như một trời châu báu, là cánh cửa tâm hồn của người đàn bà... mà thăm thẳm bao la cả bể ái tình. Sang đoạn thơ hai hình ảnh người thiếu nữ hiện lên đi giữa cuộc đời, qua một khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:

                       Em đi - về... chao những hàng cây
                       Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
                       Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội...

            Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa của đất trời, rồi gió thổi, cây đưa...Vẫn chiếc mũ vải trắng mềm xưa mà em thường đội lệch, che lên khuôn mặt đẹp của em như một vầng trăng mọc. Cái bờ hồ gió thổi ấy chứng kiến bao nhiêu kỷ niệm của nhà thơ đã có với em. Những tháng năm anh đã sống trong êm đềm, hạnh phúc của tình yêu! Giờ đi lại những con đường đã qua, anh như nghe thấy cả một khúc tình ca đang sống lại! Và ở đó, mái tóc người con gái xưa vẫn xoã tung bay trên đôi vai trần trắng của nàng :

                       Xoã ngang vai mái hất tơi bời

            "tơi bời" ở đây có ý nghĩa của sự chói loà, chói ngợp...bởi sự chinh phục thời con gái của em. Là tình yêu tơi bời, mãnh liệt và sấm sét của nàng. Tơi bời là tơi bời xuống sự sống, là bão cuốn gió nổi phong ba, là sức mạnh phóng túng của con người Nàng có thể làm say đắm , ngả nghiêng cả tâm hồn, trí não và trái tim ta!

            "Xoã ngang vai mái hất tơi bời" : Nó tôn vinh thêm sự choáng ngợp, rực rỡ bởi quyền năng thời con gái của em. Em đi - Vẫn bàu trời trong xanh, mĩ miều mềm mại... với chiếc mũ vải mềm xưa và khóm mây trắng nghiêng trôi trên mái tóc: Nhịp thơ trải dài ra như những làn mây, lớp lớp trên những dòng thơ. Bồi hồi trong kí ức xưa, hồn nhà thơ như con đò mộng lạc vào nơi bến vắng cô đơn! Chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp mưa sa, cùng những lá vàng tháng năm rơi phủ xuống trong trời đất. Trong cảm xúc, tiếng lòng nhà thơ đã cất lên gọi vọng tình em:

                       Đường xưa đó về đây em ơi!
                       Những con đường đã đầy xác lá rơi
                       Xác ve xác gió và xác của mưa... (đoạn thơ 4)

            Những con đường ấy giờ đây thật là hoang dã... Cảnh thơ đã nói về qui luật bụi cát của thời gian. Trên con đường người con gái đã đi qua cuộc đời nhà thơ, dù cuộc sống có bao nhiêu trăn trở, thời gian cứ trôi đi, nhưng những tháng năm ấy...hình bóng em không phai nhoà. Thân thể của người yêu như một vườn đầy chim và hoa thơm của trái. Tấm thân em, tấm thân của người đàn bà quí giá vô vàn. Tình yêu em để lại đang làm xa xót trái tim anh!...Người con gái năm xưa ấy cũng đang phiêu dạt nơi nào trong gió mưa phủ táp cuộc đời? Dông bão sẽ dội xuống quanh em. Bể đời phong ba, mà em như một đoá hoa thơm rực rỡ đang bị nhấn chìm , vò xé ở trong đó! Hình ảnh đoạn thơ nghe như trong giấc mộng : xác gió, xác mưa... đã đầy xác lá xác ve...trôi. Đọc đoạn thơ lên ta thấy như những năm tháng, những lớp lớp thời gian chồng lên nhau, cùng với xác hoa lá thiên nhiên phủ xuống nấm mồ tình! Bụi cát thời gian đang trôi qua cuộc đời họ. Những kỉ niệm êm đềm, và những tối yêu em, rất xa...nhưng vẫn lẩn khuất trong tâm tư của lòng chàng. Khi những ánh điện đêm thành phố, bàu trời sao giăng chiếu qua khoảng trống của những tán lá cây soi lên mình em...khuôn mặt em tha thiết biết bao. Đôi má em bàu mịn mà như một miếng trăng thơm, anh chỉ muốn cắn hôn lên đó. Mắt em nhìn thân thương, dịu dàng trìu mến. Anh khẽ kéo em vào đắm đuối trên đôi môi nàng ngọt ngào như thể trái cây. Bóng cây mờ tỏ che khuất đi những cử chỉ thèm muốn của nỗi đam mê (?) Anh lần qua làn áo mỏng xoa trên thân thể nồng cháy của nàng. Anh đặt lên bộ ngực êm mát của nàng - Hai bàu trái cũng mũm mĩm, nóng hổi cứ xúng xính trong tay anh. Mắt em nghiền nhắm lại đưa hồn vào cõi ru mê!...Ôi! Cái của người thiếu nữ mãi mãi là báu vật mà nàng mang tặng nó cho ta! Bàn tay anh chỉ muốn đi tìm vào cõi thiên thai của nàng - Đi từ trên xuống dưới tới tận chỗ cuối cùng để vào tận nơi thẳm sâu ở trong em. Bà Hồ Xuân Hương đã tả về cái đó của em thế nào:

                       Cỏ gà lún phún leo quanh mép
                       Cá diếc le te lách giữa dòng...

                Anh lại gọi đó là những sợi lông tơ tiên, là những cánh hoa kim. Anh đã xoa lên những sợi lông tơ như những cánh hoa kim ấy. Anh khẽ vén búi cỏ gà để vuốt ve hai bên mép thiên tạo của em. Đôi chân trần trắng như ngà em giương cao như đôi cánh hạc, để lộ ra cả một vòm điện ngọc : Đó là cổng trời!...Ở nơi ấy vào cung nguyệt, một động ngọc ngà tuyệt đẹp! Khe vào cổng sâu thẳm để đón tình yêu của anh vào với em. Nơi giáp gianh giữa trời đất, âm dương tận cùng gặp nhau. Như trong bài thơ NĐBT đã viết:

                       Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
                       Người đàn bà ai mà định nghĩa(?) 

            Đó là chuyện tình ái vĩnh cửu và khả ái mà người đàn bà đã mang lại cho ta! Cụ Nguyễn Du cũng đã tả về cái của nàng Kiều:

                       Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên

                  Khi ta ngả mình lên em...thân thể em như cả một bàu trời trắng toát. Vũ trụ đang toả ngợp tràn loá đầy ánh sáng. Sức hút nơi ấy của em còn mạnh hơn sức hút của trái đất. Một núm con con... Nhưng đây là vòm cửa của cả một động thiên thai! Cái vòm cửa vũ trụ tạo hoá đã dầy công để tạo ra, mà gắn lên tấm thân người đàn bà. Nơi ở giữa, khi hai bên kẹp đùi em khẽ nép lại, đã loá ra những ánh sao thần tiên và tuyệt mĩ biết bao! Vũ trụ ấy của em đã sinh ra tất cả các kiệt tác của nhân loại này, cao vời vợi và bất tử! Chính tình yêu và tấm thân em đã sinh ra cả mùa xuân bất diệt đầy hoa thơm, trái ngọt cho cuộc sống. Sinh ra mùa thu của bàu trời trong xanh êm đềm, với những đêm thu tuyệt diệu đầy những mộng mơ. Của mùa hè gió mát và tiếng chim ca rộn rã. Nhưng đồng thời em cũng sinh ra cả mùa đông giá lạnh băng hàn...

                 Giờ đây nhà thơ chỉ còn nghe thấy tiếng gió mưa phủ lên những con đường ấy ( đã đầy xác lá, xác ve...trôi ). Cái bờ hồ gió thổi ấy ngàn năm sau vẫn còn quyến luyến bóng hình em ở đó! Mẫi mãi ở trong anh...

            Tôi xin trở lại phân tích sâu thêm về đoạn thơ ba:

                       Nỗi niềm thao thức
                       Những đêm trăng nước...
                       Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai !
                       Người đàn bà ai mà định nghĩa (?)

                "Chùm trinh em hát..." hình ảnh thơ ca đã được cách điệu hoá. Trong bài thơ Bẽn Lẽn của Hàn Mặc Tử : Vào một đêm trăng sao lòng những cô đơn - Thi nhân đã mơ đến những giây phút được vui vầy với người trinh nữ : Ông mường tượng ra cả cái của nàng cũng giống như vành nguyệt đang in soi trong khe nước. Lòng thi nhân bồi hồi thảng thốt kêu lên:

                       Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
                       Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...

                Đó là một áng thi tuyệt tác, có thể coi đó là những câu thơ vàng... Ông run rẩy mê man đắm nhìn cái vầng trăng của người trinh nữ ấy:

                      Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?

            Chính bởi thế Bẽn Lẽn đã trở thành một trong số bài thơ hay hàng đầu của ông. Còn cái ấy của NĐBT thì sao?

                       Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!

            Hình ảnh thơ mô tả lại mang màu sắc trừu tượng và gợi cảm.

            " Chùm trinh em hát...": Nó đã mang cái của nàng bay lên! Suy cho cùng vũ trụ và thế giới đều tồn tại và sinh ra ở đó! Nó vừa vĩ đại vừa man dại... Nếu không có cái chỗ thiên thai ấy của người đàn bà thì không có thế giới, không có cả linh hồn lẫn sự sống và cũng không có ý nghĩa gì về lịch sử của thế gian này!

                       Người đàn bà ai mà định nghĩa(?)

            Tôi nhớ đã được đọc những trang sách viết về thân thế và sự nghiệp của văn hào Nga vĩ đại Lép Tônxtôi - Ông là một thiên tài xây dựng hàng trăm tính cách về đàn bà có những mẫu mực khác nhau. Người từng nói những câu đại ý rằng: Không thể đưa ra những luân lý có tính khuôn mẫu nhất định đối với người đàn bà, mà chỉ có những sự tìm tòi, tìm tòi và tìm tòi mãi...

            Nàng không thể nào định nghĩa được trong sự tồn tại của đời ta? Câu thơ treo trên đầu ta như một câu hỏi vĩnh cửu, lại như thể một định mệnh!

            "Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!" - Đoạn thơ tả khúc triết này đã đưa thi phẩm NĐBT bay vào cõi vô biên! Và là bài ca bất hủ , huyền bí linh thiêng viết về đàn bà. Mỗi khi " chùm trinh em hát ": Dường như cả vũ trụ dạo nhạc quanh ta. Cái vòm cửa thiên thai ấy lại mở ra để cất cao bản xô-nát tuyệt hảo nhất thế gian:

                       Người đàn bà ai mà định nghĩa (?)
                       Người đàn bà ai mà định nghĩa (?)

            Đó là những câu thơ về đàn bà hay đạt đến độ đẳng cấp. Viết về tình yêu và đàn bà: NĐBT hay vào hàng kiệt tác! Rồi nó sẽ trở thành một tượng đài lộng lẫy của thi ca...

            Tôi xin bình sang đoạn thơ 5 - Đây lại là một mảng thơ đời! Nó đã triết lý về tình yêu và cuộc sống giữa nhà thơ với nàng:

                       Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                       Anh cũng không làm chàng Trương Chi suốt đời chèo sông vắng
                       Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
                       Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau (!)

            Mâu thuẫn giữa cuộc sống - Tình yêu là vậy! Đó cũng là hai mặt nghịch lý của cuộc đời trong cõi nhân gian:

                      Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu

            Còn anh cũng không đầy mình để cứ làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng cô đơn, rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Thực ra, chảy trong tình thơ thì anh cũng đã thầm tương tư em suốt đời rồi! Mối tình duyên của nhà thơ với NĐBT cũng là một bi kịch tình! Vết thương trái tim đôi trai gái ấy tháng năm vẫn không lành lại được:

                       Vết thương lòng không dễ đã lành đâu

                  Nhưng cái Con Đường Lông Ngỗng Trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thuỷ theo, thần tượng thì rất đẹp! Để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nhưng nó bi ai quá! Cái hay của khúc triết lý tình trong bài thơ NĐBT là nó đã được viết như đời. Trong tấn bi kịch tình yêu ấy: mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ đã không kết thúc bằng sự bi thảm như một định mệnh - Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tai! Dù là theo chiều gió cuốn của cuộc đời...Phải chăng đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch Tình - Đời trên bờ bến nhân gian? Cả đoạn thơ thấm đẫm giọt lệ, nó như những tiếng than bật ra trong đời sống đầy mất mát và đau đớn của tình yêu!

                 Đây là một trong hai mảng thơ xương cốt nhất - Mảng thứ nhất như trên đã nói chính là đoạn thơ ba: "Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!"... Làm thành nền tảng - Nó như tim óc, như tuỷ sống, như cái cây đã được kết thành trái chín cho cả tình thơ NĐBT này.

                 Trên con đường vô định... nhà thơ vẫn thiết tha, khao khát gặp lại người thiếu nữ. Trong những đêm hoang vắng và sâu thẳm của không gian mênh mông, lòng anh lại âm thầm khắc khoải:
            Những đêm sao buồn những đêm gió khát

                       Khúc thơ tình anh lại viết về em!

            Những ngôi sao trên vòm trời xa xôi kia, nó cũng hiu hắt như nỗi vắng vẻ, trống lạnh của nhà thơ. Những ngọn gió đêm vô tình bay qua, như thể vẫn còn cất giữ ngọn lửa tình mà người thiếu nữ xưa từng sưởi ấm trái tim anh! Để rồi bài thơ đã được kết thúc bằng một câu thơ tuyệt bút đẹp nhất về nàng:

                       Người đàn bà... ngậm cả vầng trăng...

                 Cái vầng trăng ấy của nàng quen quen mà vẫn lạ! Nó cứ nguyên thuỷ như hang động thời tiền sử, lại huyền bí như Thánh linh... Đây là một câu thơ siêu thực chứa đầy trầm tích ẩn dụ đã được thăng hoa! Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà hay chính nàng là một vầng trăng? Nhưng chao ôi!...Dù gì thì nàng cũng đã "ngậm" cả cái vầng trăng của nàng để rời bỏ nhà thơ để đi rồi! Những tháng năm buồn nhớ về em: Anh đã viết thiên tình ca NĐBT bất diệt này để lại cho thế gian!

                  Cuối cùng xin mượn cụ Nguyễn Du đôi câu thơ mà Người đã kết trong Kiều để khép lại bài viết bình về thi phẩm NĐBT ở đây! Nhưng nếu chẳng may có ai đó không ưa cách bình tán thơ như tác giả ở trên, xin cũng được miễn thứ! Đó chẳng qua cũng chỉ là những tiếng nói tri âm thôi mà... Thiết nghĩ: trong cái bể khổ trầm luân này, nếu có thể mang lại được cho nhau những phút giây cảm khoái - Thì âu đó cũng là một điều có nghĩa:

                      Lời quê chắp nhặt dông dài
                       Mua vui cũng được một vài trống canh.


                                                                                            ( Viết mùa thu năm Quí Mùi )





            ________________________________________________________________________________________________




                                        Bài thứ hai :

             


                               EM VỀ BIỂN

                       Bờ Bãi Đời Người - Cuộc Sống Tình Yêu
                      Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ!
                      Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                      Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.

                           
                                   kỉ niệm K.A - Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
                                                                    Quê hương thành phố biển


                                                        *


            Em về biển để vùi vào trong cát
            Nỗi buồn nước mắt
            Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

            Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
            Xô mãi bờ với lá thông reo
            Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
            Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu (?)

            Tháng năm trôi.Tình cũ cháy như khêu
            Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
            Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
            Đã thổi thành bão tố ở trong anh !

            Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
            Anh còn đây - Em hỡi! Anh còn đây,
            Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
            Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...

            Tóc nửa bạc rồi! Tình vẫn đó - em ơi!

                    


              Có lẽ sau khi tốt nghiệp trường SPNN, người nữ sinh đã trở về sống và công tác trên quê hương thành phố biển của em , để lại phía sau cả một mối tình dang dở - Với một:

                       Nỗi buồn nước mắt
                                      
                   Bài thơ kể lại câu chuyện về mối tình của người con gái đó đối với nhà thơ. Một mối tình đầy lệ!

                       Em về biển để vùi vào trong cát
                       Nỗi buồn nước mắt
                       Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

              Hình ảnh "cát" ở đây mang đầy màu sắc thơ siêu thực:

                       Em về biển để vùi vào trong cát

                Nghĩa là - Dạt vào trong chốn gió bão cuộc đời. Cát bụi chân trời...Nó còn được tác giả khắc hoạ lại một lần nữa:

                       Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                                                      

                  Một bãi cát cuộc đời trắng phau, vô vi. Tình yêu bị tan vỡ, người nữ sinh ấy ôm vết thương lòng ra đi! Biển - Là thành phố quê hương em. Nhưng biển ở đây cũng là Bãi Biển Đời Người. Trở thành những biểu tượng "tình em biển cả", "biển cuộc đời" đầy sóng bão, người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người:

                       Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
                       Xô mãi bờ với lá thông reo
                       Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                       Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?

               Biển tự quặn đau dâng ngập bến ngày đêm. Để rồi chính biển lại tự xé lòng mình thành tan nát. Nó khao khát về một thời dĩ vãng, khi hàng thông bên bờ vẫn vi vút gió reo:

                       Xô mãi bờ với lá thông reo
                                               
                  Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát, khắc khoải về người trinh nữ... Vừa như sự vô tình, vừa hữu tình của thiên nhiên, một cách thơ mộng mà xa xót lạnh lùng. Sự nghịch lý ngỡ như vô tri giữa tạo hoá và bể tình đời đầy nước mắt - Như tình em năm tháng cào xé mãi không thôi! Người con gái đã đi không trở lại:

                       Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?
                                               
                 Tôi xin bình bốn câu thơ làm tựa đề của bài:

                       Bờ Bãi Đời Người - Cuộc Sống Tình Yêu
                       Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật Tổ!
                       Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                       Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.

                Như Puskin đã từng nói: Chỉ có tình yêu mới giết được thù oán!... Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen nát bàn Phật Tổ của đời anh! Thế mà trên Bờ Bãi Con Người ấy, thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu. Thì ra, tình yêu không chỉ là hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời. Cái triết lý hình tượng của 4 câu thơ đã đạt đến điểm đỉnh, nó khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài. Để đưa tấm phẩm bích Em Về Biển (EVB) , vào trong ngôi đền, miếu mạo của thi ca. Đây là 4 câu thơ hay nhất bài - Đặt vương miện cho cả tình thơ! Tôi xin bình tiếp vào bài:

                      Tháng năm trôi. Tình cũ cháy như khêu
                       Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
                       Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
                       Đã thổi thành bão tố ở trong anh!

                Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mỏi mòn mãi, năm tháng dần thành mục ải... Thì - Mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa lại hiện về, xoa bớt nỗi đau của lòng anh. Hình ảnh người sinh nữ âm thầm lặng lẽ mà cào xé, tưởng như những trận bão lòng không dứt.

                Thi sĩ Bích Khê là một thi nhân có danh tiếng thời tiền chiến. Ông đã viết một bài thơ có tiếng tăm: Tranh Loã Thể - Khi ông miêu tả:

                       Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
                       Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?...

            Hay là:

                      Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
                       Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm

                 Nghĩa là, tất cả những khuất khúc, những nét đầy phong hoa ngọc thể của tấm thân người thiếu nữ chứa vô vàn châu báu:

                       Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
                       Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
                       Vài chút trăng say đọng ở làn môi
                
                 V.v... Như Hàn Mặc Tử có nhận xét về ông: "Ở Tranh Loã Thể, sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng và của tuyết - Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì từ thực tế thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu".

                Nói như thế để ta thấy rằng: từ sự thực thành chiêm bao, hay từ chiêm bao sang huyền diệu... là thế giới mộng mơ của người thi sĩ! EVB tuy không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của em , hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình qua các hình ảnh:

                       Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
                                                   
                 Hay vòm ngực tan vỡ của người yêu !... như ở trên đã phân tích. Sự trần truồng, dù đó là sự trần truồng trinh trắng, cũng đều không thấy xuất hiện trong bài thơ này. Chỉ có những hương vị thơm tho nên thơ, thanh thoát được hiện lên. Đó là những hình ảnh mang đầy cảm xúc da diết , mộng mơ, năm tháng không phai nhoà trong anh. Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh - Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau... để những trận bão gió lòng anh thổi mãi không thôi!

                Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào, tình thơ lại càng thêm tha thiết:

                       Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
                       Anh còn đây - Em hỡi! Anh còn đây,
                       Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ...

                Những buổi đón người yêu bên cổng trường - Nó gợi lại bao nhiêu kỉ niệm, để nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước đi em nhè nhẹ, những chiếc lá rơi dưới chân khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều tiêu tan mềm nhũn, để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ... tựa như đôi mỏm núi kì vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm, và là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người! Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó : nó nóng hổi và huyền thoại...

                 Ta từng sống qua nửa thế kỉ, chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người - Để cuối cùng lại quay về, chỉ ngợi ca em bất tử hơn mọi thứ trên đời! Thế mà, đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định, tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời:

                      Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
                       Tóc nửa bạc rồi! Tình vẫn đó - Em ơi!...

                 Tình thơ EVB đã được kết thúc ở đó. Mái tóc sương của nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng vô tận của thời gian, lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Ta khóc cho bể tình chính là để ngợi ca muôn năm bể tình ấy! Anh đã hát và hát mãi - Để rồi năm tháng qua đi... lặng lẽ mà héo úa, như những chiếc lá vàng rơi rụng xuống , phủ lên trên cuộc đời em một nấm mộ tình!...







             
             


            >






               
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2010 02:10:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
            #6
              Nhatho_PhamNgocThai 23.05.2007 02:31:56 (permalink)
               




                                            Bài thứ ba:
               
               
               
               
                                    SÁNG THU VÀNG

                               
                                  Gặp lại em một sáng thu vàng
                                  Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
                                  Với trời xanh... Hồ xanh gió...
                                  Gió đưa làn tóc em bay

                           
                              (Kỉ niệm BĐ - Gặp lại em sáng đó bên hồ gió...Anh
                               đã viết để lại cho đời bài thơ mùa thu mĩ lệ này!)

                                                   


              Sáng thu này trĩu cả hàng cây
              Đô thành dịu mát
              Ông lão ngồi bên gốc cây
                               bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
              Bà xúc tép váy khều khào nước.
              Một thời xa lắc
              Em nghiêng chao về một thời xa...

              Người con gái đã thành chính quả!
              ( phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha )
              Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
              Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
              Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

              Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
              Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
              Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
              Và trái tim cũng không còn.

              Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
              Những con đường xưa tắm hơi em
              Môi em cười...hoa lá nát đau thêm
              Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.

              Một mùa thu lá lá
              Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
              Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
              Người đàn bà!
                        Em nuốt mùa thu tan...

                        


                Sáng Thu Vàng (STV) được xây dựng như một thiên tình ca. Một khoảng không gian thiên nhiên được dựng lên, bên câu chuyện tình như truyền thuyết. Đó là một buổi sáng trong đô thành dịu mát , có:

                          Ông lão ngồi bên gốc cây
                                           bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời

                   Chữ "vói" nghe như những tiếng sáo trúc réo rắt,vút lên trong mùa thu. Bà xúc tép thì "váy khều khào nước" ở bên hồ. Những hình ảnh mà ngày ngày tác giả đi qua đọng vào trong tiềm thức anh...Tới một lúc nào đó đi vào bến bờ mơ mộng của thi ca! Với những nét hoạ phốp pháp kiểu dân dã ấy, tạo cho phong dáng của bài thơ mùa thu vốn đượm sắc ảo huyền,lại thêm chất dân gian. Đem nó trải rộng ra: STV là cả một tấm pan-nô hoành tráng, để kể về chuyện của một đôi trai gái đầy khúc triết sâu xa.

                  Đô Thành hôm nay đang ngày càng trở thành một thành phố công nghiệp, thương mại hoá, hiện đại hoá và thị trường kinh tế hoá. STV gợi cho ta nhớ về một Hà Nội trong kí ức xa xưa... Sang đoạn thơ thứ hai thì câu chuyện tình mùa thu thực sự được bắt đầu. Nhưng ngay ở cuối đoạn thơ thứ nhất tác giả đã hạ hai câu thơ:

                          Một thời xa lắc
                          Em nghiêng chao về một thời xa...

                   Cả một mùa thu nghiêng chao theo người con gái, để nhắc lại một thuở đôi trai gái đã từng hạnh phúc yêu nhau. Hai câu thơ này là nhịp cầu bắc nối giữa hai đoạn thơ : giống như con suối rừng khi chảy qua triền đá có các khe ngách, những hoạ tiết ở đoạn thơ đầu đã bắn toá ra thêm mấy nhánh (đó là những hình ảnh của đô thành), đến đây con suối thơ lại được reo trở lại... để câu chuyện tình mùa thu vẫn chảy theo dòng.

                 Trong toàn bộ đoạn thơ hai chân dung của người con gái được hiện lên:

                          Người con gái đã thành chính quả!
                                                           
                   Có nghĩa, giờ đây nàng đã thành một người đàn bà trẻ. Như qui luật sinh nở của tạo hoá, thiếu nữ năm xưa đã khai hoa kết trái: ấy là khi nàng đã thành chính quả! Hai chữ "chính quả" nghe như có cả tiếng kinh nguyện của chùa chiền, báo về sự đắc đạo của nàng. Một sự chuyển hoá từ tiết trinh sang tiết hạnh! Có lẽ lúc này khi gặp lại người tình xưa ấy, lòng nhà thơ vấn an nơi chốn cửa thiền...nên ngôn ngữ thi ca mới chứa chất tính Phật đài như thế. Cả đến câu sau khi anh miêu tả:

                          Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha
                                                            
                   Tựa như cảnh vật trong tạo hoá, tất thảy năm tháng đều không tránh khỏi qui luật rêu phong. Nói đến khối tình phàm tục cõi đời mà thơ đượm màu sắc Phật. Linh hiệu của tình thơ... cứ như thể chảy từ chốn thiêng trong Đất Thánh mà ra. Cũng trong đoạn thơ hai này, ta hãy nghe xem tác giả tả về nàng ra sao:

                          Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
                                                             
                 Đây là đôi mắt đẹp của mùa thu thăm thẳm mơ màng. Bóng trúc phủ trong đôi mắt: thơ trìu tượng. Nồng nàn ân ái, hiền hoà... Hai chữ "bay xoà" mang màu sắc ảo rợp lên! Câu thơ từ trong cảm rung đã thần xuất mà thành.Và:

                          Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
                                                              

                 Nói về hình tượng thơ đã dùng vầng trăng để ví, ta liên tưởng tới hình ảnh thơ cụ Nguyễn Du đã tả nàng Thuý Vân:

                          Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

                 Cái vầng trăng tròn trịa dịu dàng này, cụ lấy từ cách thường ví trong dân gian...để miêu tả nét đẹp mực thuớc , đoan trang của Thuý Vân, khác vẻ đẹp kiêu sa sắc sảo của Kiều:

                          Làn thu thuỷ nét xuân sơn
                          Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

                 Số Kiều bạc mệnh! Bởi đến cả trời đất cũng ganh ghét với nàng. Phương pháp so sánh trong thơ cụ Nguyễn Du, tuy sử dụng thi pháp thơ miêu tả của dòng thơ cổ điển, nhưng thật thần bút, sinh động và hàm xúc.

                 Trở lại với STV: khi tác giả mô tả về nàng như một "vầng trăng đầy nở" , đó là phương pháp miêu tả thơ tượng trưng của dòng thơ hiện đại. Hiểu được thơ phải lắng cảm từ trong tư duy, tâm thức...chứ không chỉ bằng vốn hiểu biết của kiến thức sách vở hoặc kinh nghiệm dân gian. "Đuường phúc hậu như vầng trăng..." - Đường, mà lại... để nói lên cả tấm thân, làn da, vóc dáng con người nàng...(chứ không phải chỉ là "khuôn trăng" để chỉ riêng mỗi khuôn mặt của nàng Thuý Vân mà cụ Nguyễn Du mô tả). Mà lại là:...vầng trăng đầy nở/ - Nghĩa là, từ khuôn mặt thân thể và tâm hồn nàng đã toát ra. Nàng đẹp một cách dịu dàng, mộng mơ và cám dỗ như trăng. Để rồi tác giả hạ một câu kết đoạn:

                          Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

                  Ta nghe như có cả tiếng mùa thu rơi, đổ sập từ trên trời cao xuống. Tức là trái tim và tâm hồn chàng đang tan vỡ! Có thể coi đoạn thơ thứ hai này là nhân trung thần cốt, điểm hội tụ chói sáng nhất của tình thơ STV. Nó chứa đầy bích ngọc trong thơ, đưa STV đậu lên tầm cao của những bài thơ mùa thu!...Những đoạn ba-bốn-năm sau đó, phát triển cùng với những kỉ niệm xưa...trong nỗi lòng chàng tan nát. Cuộc sống thì trống vắng, mùa thu vàng vừa xa xót, vừa bay rợp bóng xuống ngổn ngang. Lòng thơ như nhát chém:

                          Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
                          Và trái tim cũng không còn
                                                    

                 Tình yêu thiếu nữ như một cánh rừng hoang ư? Hay là, thiếu nữ đi rồi để lại trong chàng cả một cánh rừng hoang? Trái tim chàng tan vỡ đã đành, đằng này... chàng lại không còn tim! Nghĩa là trái tim chàng cũng đã rời bỏ để đi theo người con gái mất rồi! Chắc rằng, đời sẽ còn nhiều bình luận khác nhau về những hình ảnh thơ này?      Thơ là vậy, nhiều người thường có những cảm nhận và lý giải riêng. Nhà thơ chỉ biết lúc đó nó ra như thế thì viết như thế!

                 Hay là ở đoạn thơ thứ tư:

                          Môi em cười...hoa lá nát đau thêm
                          Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.

                 Hoa lá đến mức độ phải héo hắt, nát đau trước đôi môi người đàn bà trẻ! Thì không biết đôi môi nàng chan chứa, mĩ miêù hấp dẫn đến mức nào? v.v... Mỗi đoạn thơ đều được tác giả níu giữ bằng những câu thơ sâu sắc ấy. Bởi vậy tuy các tứ thơ được viết ra tự do, phóng túng...mà cảm xúc của tâm hồn vẫn đằm đìa, cô đọng ở trong thơ. STV bọc chứa tạo cho thiên tình ca một thi phong độc đáo!

                 Chỗ này chỗ khảc trong suốt bài thơ : khung cảnh thiên nhiên được phục hiện, miêu tả bao quanh đôi tình nhân năm xưa. Ngay ở trong đoạn thơ làm tựa đề, tác giả đã giới thiệu quang cảnh họ gặp nhau:

                          Gặp lại em một sáng thu vàng
                          Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố...

                 Tiếp đến tác giả miêu tả về mùa thu đó:

                          Sáng thu này trĩu cả hàng cây

                " trĩu cả hàng cây" nghĩa là, một mùa thu đang trĩu xuống và chín mọng - ( lối cảm thơ này cũng như khi Hàn Mặc Tử dã viết Mùa Xuân Chín ), thuộc loại thơ tượng trưng thi cảm. Đến đoạn ba thì tình thơ trào lên dào dạt:

                          Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ    
                                                      

                 Tựa như đôi trai gái đang đứng bên bờ biển xanh, đầy sóng vỗ vậy. Rồi cảnh thơ gợi lại những con đường mà họ đã dẫn nhau đi ngày xưa:

                          Những con đường xưa tắm hơi em
                                                        
              Và:

                         Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
                          Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
                                                      

                  Quang cảnh phục hiện ở hai câu thơ này thuộc cảnh thơ siêu thực: cảnh có mà không có. Nó chỉ được gợi lên trong tâm thức mà thôi v.v...và v.v...

                 Trước khi bàn về phương pháp nghệ thuật xây dựng thi dáng STV - Xin đioểm qua mấy nét đôi bài thơ mùa thu hay trong thi đàn! Đố là bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư (LTL) và Thu Điếu của Nguyễn Khuyến (NK).

                 Tiếng Thu của LTL là một bức tranh mùa thu mĩ lệ! Được viết trong mộng cảm phiêu diêu của cố thi nhân. Từ xúc cảm "dưới trăng mờ thổn thức"...đến cảnh chia ly mùa thu (chỉ mang tính ước lệ): về nỗi lòng người cô phụ trông ngóng bóng chinh phu! Vì mùa thu là biểu tượng của chia ly. Nhưng sở dĩ bài thơ có thể đạt đến độ là một kì thơ, vì ông đã vẽ lên bức tranh có con nai vàng đạp trên lá mùa thu khô kêu xào xạc. Nhưng đọc Tiếng Thu để ta hưởng thụ, ngắm nghía vẻ kiều mĩ của bức tranh...nhiều hơn sự rung cảm bởi nỗi thơ!
                
                  Để cho rõ, xin phân tích mấy lời về sự khác nhau so với bài Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (HMT).

                 Nếu coi Tiếng Thu của LTL xuất hiện như một ngôi sao sa quẹt trên bàu trời thi ca!...Ta hò reo , ngắm nhìn vẻ đẹp lung linh, kì ảo của nó. Ai cũng thấy đẹp, thấy ngay - Thế thôi! Nhìn cho thích mắt rồi vào nhà mà ngủ cho ngon...(sự so sánh cũng chỉ mức độ để tác giả đễ diễn đạt ý mà thôi). Chẳng cần bận tâm nhiều lắm về thế giới trong thơ...Nhưng Đây Thôn Vĩ Dạ của HMT thuộc trong số ít những bài thơ hay nhất thế kỉ: chứa đầy nỗi u tình, uẩn khúc...Nó giống như một vòm trời sao xanh thăm thẳm. Nhìn sâu hút mãi vòm trời ấy, ta khám phá ra thế giới của nó! Bao chứa rung rinh rất nhiều các ánh ngọc, hào quang trong tiểu tiết các vì sao.Đó chính là thế giới trong thơ! Nhưng không phải ai nhìn vào cũng thích ngay?...Chẳng thế mà bài thơ được thi nhân viết ra tới 30 năm sau nó mới thực sự nổi tiếng. Nó đã thuộc vào hàng thơ tầm cao, không phải ai cũng đủ khả năng nhìn thấu vòm trời sao xanh ấy! Hiểu càng sâu ta càng rung động, bị cảm hoá trước cái hay huyền diệu của thi ca!

                 Thu Điếu của NK là một bài thơ tả cảnh tình câu cá mùa thu trong ao khuya. Với gam màu xanh vắt và hơi hiu hắt. Ngôn ngữ hoạ tiết thơ thanh và xao...Nét tả của ông thì thật kiêu sa, lắng đọng của một tầm bậc danh nhân ẩn sĩ. Đây thuộc lối chơi thơ phú vịnh, dạng thơ miêu tả tinh tế của các bậc tổ tiên ta.

                 Giờ xin trở lại để bình tiếp STV - Thu vàng của PNT được xây dựng theo nhịp điệu như một cánh võng mùa thu. Làn điệu thơ chuyển dần... Như ở đoạn thơ làm tựa đề thì làn thơ còn đưa nhẹ:

                         Với trời xanh... Hồ xanh gió...
                          Gió đưa làn tóc em bay

              Hình ảnh người con gái, tóc em xoà bay trong gió. Giọng thơ có vẻ hơi uyển chuyển. Sau đó cánh võng thơ trĩu xuống, chao nghiêng đi và chòng chành:

                          Sáng thu này trĩu cả hàng cây
                          Đô thành dịu mát...

                 Sang đến đoạn ba và đoạn bốn , thì cánh võng mùa thu đã đươc đẩy bay bổng lên cao vút:

                         Sáng thu vàng mông mênh mênh mông 
                          ....................                                      
                          Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
                                                               

                  Một cánh võng mùa thu để chứa trong lòng nó mọi điều về mối tình đôi nam nữ. Đến đoạn cuối cùng cánh võng xoà ra, thả xuống một mùa thu đầy lá rụng:

                          Một mùa thu lá lá
                          Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
                          Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang

                   Nghĩa là nơi gặp nàng giờ đây đã thành xa vắng, cỏ dại mọc đầy lên. Như trên đã phân tích: ảnh bướm vàng và hoa cũ ấy, như thực mà phi thực. Đó là ảnh của kí ức nuối tiếc mối tình xưa. Để rồi tác giả kết bài:

                          Người đàn bà!
                                         Em nuốt mùa thu tan...

                  Chẳng ai "nuốt" được mùa thu cả! Chữ nuốt đầy sắc thơ siêu thực. Nàng đi để cả mùa thu trống vắng còn ở lại, hay đã mang theo mùa thu đi mất rồi? Ai có thể trả lời? Không ai cả!...và chính tác giả cũng không thể trả lời.

                 STV hoà quyện nhiều trường phái: lãng mạn, tượng trưng trìu tượng và siêu thực. Nhiều hình ảnh thơ cô đúc tính triết lý, phảng phất phong dáng của trường ca. Nó đã đứng vào hàng thơ có tầm bậc! Các hoạ tiết thơ phát triển xum xuê, tạo nên cả một khoảng trời mùa thu toả bóng xuống thi ca! Nhưng nó đã đứng đến tầm bậc của ngọn núi thi nào? Vẫn phải để thời gian và các thời đại trả lời (!?)






              __________________________________________________________________________________________





                                              Bài thứ tư:
               
               
               


                          KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC



              Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
              Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
              Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
              Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

              Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
              Cốc chết bên Sồi lại hoá thành non...(*)
              Nhưng để làm gì khi tình vô vọng (?)
              Chút hương nàng vẫn ấm Khoảng Đời Con.

              Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
              Mà miệng còn muốn cắn Vú Người Yêu!
              Ôi! Hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
              Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

              Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
              Thơ rỏ đôi hàng. Lệ tràn một chén.
              Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
              Mai chết rồi làm nước tắm cho em...


                         


              (*) Huyền thoại kể: Nàng Công ( con gái quan lang dân tộc ) thương nhớ chàng Cốc khóc mà chết! Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi) thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây Sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - nên mới có tên gọi Hồ Núi Cốc!


                     Vào một đêm mưa gió, không gian hồ núi huyền thẳm hoang dại và vô tận.Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm.Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng: một niềm đam mê man dại. Trời ơi! Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị! Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên - Khóc Bên Hồ Núi Cốc (KBHNC) được dựng lên bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về... và, chính giữa đêm mưa gió đó tình thi diễm lệ ấy đã ra đời!

                  Lamartin - thi sĩ thuộc trường phái thơ lãng mạn Pháp (1790-1869) đã viết bài thơ tình Hồ -A-Đờ nổi tiếng thế giới! Hình ảnh người đàn bà rền xéo lên tâm hồn và trái tim thi sĩ mà vang động khắp không gian:

                       Xin giữ lại trong hiu hiu ngọn gió / Trong âm vang xao động mãi hai bờ / Trong gương mặt nguyệt hằng có vầng trán bạc / Đang toả lan dìu dịu sáng trên hồ/...Hay là: Ôi thời gian, hãy ngừng bay. Và những giờ tươi đẹp / Vội vàng chi, thôi cuồn cuộn đi nào / Cho ta kịp hưởng trọn niềm diễm tuyệt / Của những ngày ta kì diệu ngọt ngào/...

                  Sở dĩ tôi trích một số trong bài thơ dài 52 câu của ông, để bạn đọc nhìn ra dung dáng và phong cách cảm xúc - Khi phân tích về bài KBHNC ta sẽ thấy: tuy cùng thuộc loại thơ tình lãng mạn, tình yêu với người đàn bà rền xiết trên hai mặt hồ...nhưng giữa hai bài thơ đã được ra đời cach nhau đến hơn hai trăm năm này, thi pháp thơ của chúng cũng rất khác biệt nhau.

                 Gọi là KBHNC nhưng bài thơ không phải là một tiếng khóc, nó là khúc tình ca! Dù khúc tình ca ấy trào ra từ một nỗi tình bi. Viết thế cho có vẻ đượm màu sắc lâm ly mà thôi:

                           Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                           Gửi hồn theo dòng nươc trôi thây...

                Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến vô bờ. Xin bình tiếp câu ba:

                          Gió gào thét trong lặng chìm tim óc

                Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc cả một thế giới tĩnh lặng đến rùng mình của tim óc con người (bên trong) : chúng cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả thể xác và tâm hồn tình yêu trong nó! Để đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, mà bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng hoàn bích nhất về nàng:

                          Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay...

              Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả :

                           Rõ màu trong ngọc trắng ngà
                           Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên.

                Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của KBHNC chỉ là bức tranh ảo: bởi ấn tượng từ trong kí ức, với một niềm khao khát cồn cào của trái tim nhà thơ bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể nàng, thế mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Hình ảnh người đàn bà đã được tháo gỡ, bóc ra nõn nà trong trắng khắc hoạ trên nền trời Hồ Núi Cốc: "...trên bóng bến xưa bay" - thần sắc ảo mà vẫn sống động và man dại.Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca chứ đâu phải là một bi kịch tình? Đó là sự bùng nổ của ánh sáng và sự sống muôn đời.

                 Những yếu tố cảm xúc này theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX hoà phối trong dòng thơ lãng mạn...để hình ảnh ngôn ngữ, ý tình thơ được hàm xúc cô đọng. Chứ không viết chảy tràn theo tình cảm...mà các trào lưu của các trường phái thơ lãng mạn đã có ở châu Âu từ thế kỉ XVIII về trước đó ( Người tiêu biểu là nhà thơ Lamartin như đã trích dẫn trên. Tuy nhiên bài thơ Hồ-A-Đờ của ông cũng đã lấp lánh không ít những hình ảnh tượng trưng ).

                 Sang đoạn thơ hai là sự gắn bó giữa câu chuyện huyền thoại xưa với câu chuyện tình nay , nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái:

                           Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                           Cốc chết bên Sồi lại hoá thành non...

                 Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ đã quyết quên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước còn chàng lại hoá thành non! Không có tình yêu tất cả trở nên vô nghĩa. Tình yêu gái trai là nơi trú ngụ , ý nghĩa tồn tại của cuộc đời ta:

                           Nhưng để làm gì khi tình vô vọng (?)
                           Chút hương nàng vẫn ấm Khoảng Đời Con!

              Tôi xin phân tích đôi nét về ba chữ " khoảng đời con " - Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết bốn câu thơ:

                          Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
                           Giấc mơ con đè nát Cuộc Đời Con
                           Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
                           Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.

                 Cách nhìn như vậy của ông xuất phát trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Ba chữ "cuộc đời con" mang theo những quan niệm của hệ thống tư tưởng đang bao trùm lúc đó - Ba chữ Khoảng Đời Con của bài thơ KBHNC này vì thế đã ra đời : để phản ảnh một quan niệm khác, về nhân sinh cùng thế giới quan của nó!

                 Trong bài thơ tình nổi tiếng của nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ F.K.Đaglargia với nhan đề Tình Yêu, chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn:

                          Yêu, có nghĩa
                           Là cùng người yêu
                           Chia đều
                           Trái đất thành hai nửa.

                  Nghĩa là, hai người yêu nhau là cả trái đất, là tất cả! Còn nhà thơ Nga M.Lermôntốp (1814-1841) bằng một cách nói khác trong thi ca, đã ví về tình yêu bất hủ đối với người đàn bà:

                           Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                            Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ

              Lật mặt kia của hình ảnh thơ thì ý cũng có nghĩa như:

                            Chút hương nàng vẫn ấm Khoảng Đời Con!

                  Không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy!... thì thử hỏi: sự sinh tồn trên trái đất này để làm gì? Không có sự phát quang, bùng nổ hay tiến bộ xã hội nữa! Nó tạo thành máu chảy, sáng tạo và cả huỷ diệt - Mặc dù tác giả có đặt câu hỏi:

                            Nhưng để làm gì khi tình vô vọng (?)

                  Đó chẳng qua chỉ là một tiếng than thở hắt ra mà thôi. Người than cho câu chuyện tình trong trời đất của nàng Công, chàng Cốc hay là than cho mình? Mượn tình xưa để nói nỗi đời nay, ý tình cứ rền xiết lên nhau như hai câu thơ khác trong đoạn thơ bốn:

                            Thơ rỏ đôi hàng. Lệ tràn một chén.
                             Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm

                  Cảm xúc thơ cứ tràn ứa mà đẫm lệ. Tôi bình sang đoạn ba, là đoạn thơ máu thịt nhất của bài:

                            Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                            Mà miệng còn muốn cắn Vú Người Yêu!
                            Ôi! Hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                            Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

              Khi mưa gió phủ táp xuống miền hồ núi, ta nghe như tiếng câu chuyện tình xưa nghiền xé vang lên:

                           Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ

                  Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta bao nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau. Chẳng thế mà Lamartin (cũng trong bài thơ Hồ-A-Đờ ) đã thốt lên:

                            Hãy yêu nhau, hãy yêu! Khắc giờ đang vụt biến
                            Vội vàng lên cho hưởng trọn giờ vui
                            Thời gian không có bờ, con người không có bến
                            Thời gian trôi đi, đời người mau qua thôi!

                 Trong bài thơ KBHNC tác giả khoác lên cả không gian kia một dải băng tang trắng: Nghĩa là, trời đất cũng để tang linh hồn và trái tim son sắt của tình yêu! Nói về thi pháp của cả 4 câu thơ trong đoạn thơ ba này: ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trìu tượng, để nuôi một câu thơ thật, thật và rất đời! Chính là câu thơ 2 trong đoạn:

                            Mà miệng còn muốn cắn Vú Người Yêu!

              Hình ảnh thơ đã động tới cái chốn linh thiêng ấy, có thể sờ mó, xoa nắn được...Nhưng tôi xin tạm dừng ở đây để bình những câu thơ ảo trước (câu 1 đã bình trên):

                            Ôi! Hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                            Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

                  "Máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu! Thơ ngả sang màu siêu thực: cái bóng xanh rì muôn thuở của non ngàn, với "bức phù điêu" đã được tạc lên trên nền thiên nhiên kì vĩ kia, là bởi máu và nước mắt tình của những đôi trai gái tắm vào trong nó ! Nghĩa là thơ không dừng lại để than vãn cho sự tan vỡ của cuộc tình, cả trong bất hạnh đau thương nó cũng tô đẹp, là bản tình ca bất hủ trong vũ trụ cũng như cuộc sống con người.Chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già...đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời. Trên nền thảm xanh ảo huyền của hồ núi, có cả băng tang và máu chảy...

                  Bằng một cách định nghĩa thi ca Chế Lan Viên đã viết:

                           Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy
                            Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ
                                              (trích di cảo - Bờ bên kia )

                 Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới thơ của nó!

                 Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ 2 của đoạn - Nếu không có Vú Người Yêu thì thử hỏi: Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa... để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này, nếu không có Vú Người Yêu thì loài người gây ra nó cũng để làm gì? Cắn Vú Người Yêu là một hình tượng rất đời thực được đưa vào trong thơ, hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng...(như trên đã nói: ba câu thơ ảo để nuôi một câu thơ thật)-Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca của tình thơ KBHNC! Nỗi tình , hình ảnh thơ như tia lửa hạt nhân bùng nổ để cháy cả hoàn cầu...Nó sẽ còn sống mãi để đưa bài thơ đi xa ca giữa bến bờ Thi!...Viết xong bài thơ KBHNC này, tôi biết rằng: Tôi đã đi đến tột đỉnh thi ca của đời tôi mất rồi! Cứ cho là tôi vẫn còn có thể viết ra những tình thơ hay khác, Nhưng hay hơn Hồ Núi Cốc thì chắc là không !?KBHNC sẽ mãi mãi là bản tình ca man dại bất hủ và, tôi cũng đã hoàn thành sứ mạng của Sự Nghiệp Thế Giới Thơ Tôi!

                 Đến đây tác giả chỉ xin nói thêm đôi chút nữa về câu thơ cuối cùng của bài:

                           Mai chết rồi làm nước tắm cho em...

              Xuân Diệu thì nói rằng:

                            Anh không xứng là biển xanh
                            Nhưng cũng xin làm bể biếc

                 Còn đây, tác giả lại viết : "Mai chết rồi..." thậm chí cả kiếp sau nữa, chỉ làm một dòng nước tắm cho em!...Con người có thể làm bao chuyện phi thường - lên cả vũ trụ mà chinh phục sao Hoả, sao Kim cùng các vì sao. Bao nhiêu phát minh khoa học vĩ đại, sáng chế ra cả những tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu... Ấy thế mà! Phải, ấy thế mà: liệu có gì còn có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh, hay thậm chí chỉ là một bồn nươc trong nho nhỏ...để mà kì cọ tắm rửa thoả thuê cho cả cuộc đời và thân thể của người yêu?

                    Đấy, nhà thơ của bài Khóc Bên Hồ Núi Cốc này chỉ xin được kết tình thơ ở đó!...

















               
               






              <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2010 02:12:44 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
              #7
                Nhatho_PhamNgocThai 23.05.2007 03:03:51 (permalink)
                 




                                     
                           Nói là Bốn - Nhưng vì nhiều thơ hay quá !... thì xin trích thêm
                                            bài  thơ thứ 5 nữa cho đỡ phí :
                 
                 
                 
                 
                                            TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM

                                      Những tối trăng ngời...dưới ánh sao khuya...
                                      Anh vẫn đắm mình về phương ấy 
                                      Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
                                      Và cuộc chia ly đã hoá cánh buồm...


                                      


                Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
                Nó nói gì không biết (?)
                Chắc con mái ham nơi vui thú khác
                Đã không về !...con trống gọi suốt đêm...

                Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
                Năm tháng nắng mưa non ngàn bão tố
                Có lẽ nào em không về nữa!
                Để hồn anh hoang mạc bơ vơ.

                Đã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ
                Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi.
                Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại: 
                Thành quách loài người

                                 em thiêu trụi thành tro !... 
                                

                Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
                Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa:
                Mọi giá trị vĩnh hằng , nếu có
                Sẽ là gì? Khi thiếu vắng em ta!...

                Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
                Anh bổi hổi một thời qua vọng lại...
                Và tất cả đã trở thành trống trải
                Sao em lại phụ bạc tình: Con mái thương yêu (?)

                            



                                   
                Trong đêm tiếng con chim nào đó kêu xé lên, rồi nó rúc từng hồi thảm thiết. Con chim đang có nỗi gì? Một tiếng kêu lẻ bóng cô đơn giữa khoảng không vắng lặng:

                              Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
                              Nó nói gì không biết (?)

                    Mới chiều đó chúng còn có đàn có đôi...và nhà thơ nào đó đã viết :" một tiếng chim ca sáng cả rừng" - Nhưng đó là tiếng chim ca chào bình minh buổi sớm, nó đã trở thành thông lệ theo bản năng véo von của loài chim sau giấc ngủ một đêm dài. Đằng này Tiếng Rúc Chim Đêm (TRCĐ) là tiếng kêu phát ra từ trái tim đau đớn của con chim:

                              Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
                              Năm tháng nắng mưa non ngàn bão tố

                  Tiếng chim gọi người yêu náo động vào trong tâm trạng của nhà thơ!Tiếng nó khắc khoải rền rã vượt qua cả không gian, thời gian, năm tháng,nắng mưa, non cao, rừng rậm...trở thành tiếng vọng tình yêu của cả loai người:
                Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại:
                 
                             THÀNH QUÁCH LOÀI NGƯỜI
                                                  EM THIÊU TRỤI THÀNH TRO!...

                     Ý nói về sự sống muôn đời của con người: Tình yêu là ánh sáng, là ý nghĩa của sự tồn tại. Mọi giá trị thế giới sẽ không có gì cả, nếu không có tình yêu trai gái! Ở đoạn thơ đầu - cái tiếng rúc con chim trống như nỗi lòng cô quạnh của người con trai:

                              Chắc con mái ham nơi vui thú khác (?)
                              Đã không về!...con trống gọi suốt đêm...
                 
                     Cái đêm đó không hiểu vì sao con mái không về? Có lẽ nó đã bỏ đi theo người tình khác? và con chim đực cứ gọi, gọi mãi...trong vô vọng. Cũng nỗi lòng đó, đứng trên thềm nhớ của không gian mênh mông, nhà thơ đã nhớ về em:

                              Đã xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng mơ
                              Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi 

                      Bài thơ bay về với dĩ vãng, nhớ lại những kỉ niệm xưa: " Dĩ vãng trăng mơ..." là mơ trong bóng trăng xưa. Tuy nói là "mùa dĩ vãng" nhưng đó chỉ là những khoảnh khắc tươi đẹp đã vụt qua, còn lại trong hoài niệm. Hai câu thơ ấy trải ra trong đời cuốn đi theo chiều gió: Cuộc sống không chỉ có những năm tháng sung sướng, hạnh phúc bởi tình yêu! Mà còn là một vòng cát bụi cuộc đời. Như bóng mây bay qua... Người con trai chỉ còn biết đứng trên bờ nỗi khát vọng dày vò khắc khoải. Nó xa rồi, xa mãi không bao giờ trở lại:

                              Có lẽ nào em không về nữa(?)
                              Để hồn anh hoang mạc bơ vơ

                      Thế rồi chảy theo mạch cảm xúc, vào ngay đoạn thơ ba (từ câu 9 đến 12 như đã phân tích trên) - Đoạn thơ được tạo nên từ hai mảng màu: Từ cõi trăng mơ...đến dòng cát bụi, là một mảng "màu đời"! Chất liệu lấy ra từ trong sướng khổ bèo dạt mây trôi, với bao vật vã tháng năm của cuộc đời. Còn mảng màu thứ hai, ý thơ nhảy vọt lên thăng hoa để bao quát cả bể nhân tình:

                              Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
                              Thành quách loài người em thiêu trụi thành tro!...
                 
                      Mặt sau ý nghĩa nhân bản của tình yêu, mặc nhiên nó phủ định cả chiến tranh, tội ác...Những thành luỹ thôn tính nhau của những kẻ ham muốn làm bá chủ xây lên bằng quyền lực. Đức Thánh Thiện đã tạo lập nên trong đoạn thơ này là ở lý đó! Nó đâu có dừng lại chỉ ở lòng đam mê vui sướng trai gái thông thường? Thực ra nó đã phủ nhận , phủ nhận và phủ nhận sự tồn tại của thế giới con người như ngày nay: khi mà cái ác cứ ngày một tràn lan nhiều lên! Như nhà văn Nga Ai -Ma-Tốp đã từng cảnh báo về con người hiện đại, trong tác phẩm "đoạn đầu đài" nổi tiếng một thời của ông rằng: con người còn ác hơn con sói! Nó tôn sùng sự thiêng liêng của ái tình! Cho dù ái tình đó còn mang tính thế tục, hay còn nhuốm màu sắc bản năng - Để quay sang đoạn thơ thứ tư đã triết lý:
                 
                             Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
                              Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa
                 
                     Nội chiến nước Nga để làm gì? Thế giới I, Thế giới II và lại còn đe doạ cả Thế giới III nữa, để làm gì? Người trinh nữ (nói theo hình tượng) chẳng phải là vẻ đẹp thần thánh nhất, ngôi miếu thờ thiên đường nhất hay sao?Cuộc đời chỉ yêu! Con người chỉ yêu! Thế giới chỉ yêu!...có hơn không?

                              Sẽ là gì?...khi thiếu vắng em ta!
                 
                     Không là gì cả, tất cả là vô nghĩa! Triết lý thế đấy : và đó chính là ĐẠO của thi ca! Đến đây, trước khi bình vào đoạn cuối, tôi muốn bay qua vài áng thi xưa có bóng chim trong thơ:

                     Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) đã viết một bài thơ vào hàng mẫu mực của niêm luật thơ đường - "qua Đèo Ngang tức cảnh":
                 
                             Bước tới Đèo Ngang nắng xế tà
                              Cỏ cây chen đá lá chen hoa
                              Lom khom dưới núi tiều vài chú
                              Lác đác bên sông chợ mấy nhà

                  Bốn câu thơ đầu này mới là sự vịnh cảnh thuần tuý, chưa tạo thành một áng thi đặc sắc. Nhưng đến hai câu 5-6:

                              Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                              Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

                      Thì sự tả cảnh vật giờ đây đã hình tượng hoá, thể hiện cả tâm tư tình cảm của lòng Bà : Tiếng con chim quốc quốc nỉ non kêu, gọi rạc cổ họng suốt mùa hè rồi chết. Còn con gia gia lại chu lên giữa chốn đèo hoang vu...bên nỗi lòng quạnh vắng của kẻ xa nhà. Bà Huyện xao xiết chạnh nhớ về thôn hương mà hiu hắt buồn. Truyền kể lại rằng : BHTQ không chỉ là một phụ nữ đoan thục đảm việc nhà, còn rất giỏi giang giúp Ông Huyện xử nhiều vụ kiện tụng chốn công đường lo toan việc nước - Thì đến đây, tiếng của con quốc quốc và gia gia ấy vào thơ Bà mang đầy âm hưởng nỗi lòng người. Chúng kêu mãi, kêu mãi...Hình ảnh con quốc quốc tượng trưng nghĩ về chuyện nước non, cái gia gia lại nói lên niềm thương nhớ nhà!Tình người, cảnh vật hoà nhau giữa chốn đèo mây, được reo hạ bằng câu thơ kết tuyệt bút:

                              Một mảnh tình riêng ta với ta

                      Bởi vậy, tuy chỉ tức cảnh... nhưng bọc chứa cô đọng bao nỗi tâm sự đầy vơi của nhà thơ, tình thi mới trở thành nổi tiếng !

                      Nguyễn Khuyến đã viết ba bài thơ về mùa thu (Thu Vịnh, Thu Điếu, Thu Ẩm) - Bài mà tôi muốn nói tới (có tiếng chim kêu trong thơ) là Thu Vịnh:
                 
                             Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
                              Ngõ trúc lơ phơ gió hắt hiu
                              Nước biếc trông như tầng khói phủ
                              Song thưa để mặc bóng trăng vào

                      Một bậc danh nhân ẩn sĩ nhàn tản ngẫm cảnh mà vịnh thơ! Bốn câu thơ đầu của bài Thu Vịnh này , thực cũng chưa có gì độc đáo. Nhưng sang đến hai câu 5-6, đây mới là hai câu thơ hay:
                 
                             Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
                              Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

                      Vốn dĩ bản sắc thanh tao, không thể hoà vào chốn quan trường nhiễu nhương gian thần tiểu nhân đắc chí. Nguyễn Khuyến đã từ quan về quê ở ẩn. Song phải sống những năm tháng hắt hiu buồn tẻ, chôn thân phận mình nơi thôn dã... Lòng ông không khỏi những ngậm ngùi cảm hoài nuối tiếc: Có tài sức mà không được mang ra phụng sự quốc gia, không được cùng nước non tung hoành cho phỉ chí - Chính hai câu thơ đó trong Thu Vịnh, đã toát bật lên nỗi lòng dày vò xa xót ấy của ông!

                      Nghe tiếng con chim ngỗng bay qua kia thì buông ra một câu hỏi: Con ngõng đang kêu đó là ngỗng của nước nào? Hỏi thế chứ?...chả quan tâm, chả để làm gì! Rồi nhìn những chùm hoa trước giậu nhà lại nở...thì nó cũng như hoa năm ngoái, năm xưa thôi-tàn rồi lại nở, vẫn vậy! Người khác chi cánh bèo trôi theo thời gian cuộc đời, rồi năm tháng lụi tàn đi. Vậy là cả cảnh hoa nở cùng tiếng con chim ngỗng kêu : hai câu thơ liên kết với nhau để bật lên một khối đời trắc ẩn, với nỗi lòng buồn chán vô vi.

                      Cảnh hoạ mà ẩn đầy những nội tâm, tình thơ da diết máu tim. Chỉ tiếc là đến cuối bài ông lại rời khỏi cảnh thu để kết bằng hai câu tự thán:

                              Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
                              Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

                      (Ông Đào ở đây tức là ông Đào Tiềm đời nhà Tấn, đỗ đến bậc tiến sĩ song cũng chán cảnh cung đình, treo ấn từ quan lui về ở ẩn). Tuy hai câu kết ấy cũng biểu hiện một mối tâm sự của nhà thơ thôi...Nhưng đã lệch khỏi van tuyến đối với một bài thu vịnh, nên chưa đắt thơ! Không hay được bằng bài Thu Điếu của Ông.

                      Sở dĩ Thu Điếu (tức là câu cá mùa thu) trở thành nổi tiếng bởi vì: Sau khi đã lang thang tả cảnh xóm trúc quanh co, lá vàng bay vèo trước gió...cùng với mây trời thì xanh lơ lửng v.v...Tác giả vẫn quay về với cảnh tình câu cá đêm thu ấy, để hạ bằng hai câu kết thật hay:
                 
                             Tựa gối buông cần lâu chẳng được
                              Cá đâu đớp động dưới chân bèo

                      Sống động và rung rinh. Nó gợi mở không chỉ là cảnh cá đớp trong ao, mà chính cả lòng người đang bồn chồn xôn xao trong đó.

                  Giờ xin lại trở về với bài Tiếng Rúc Chim Đêm của PNT, ta hãy đọc đến đoạn thơ cuối cùng:

                              Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
                              Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
                              Và tất cả đã trở thành trống trải
                              Sao em lại phụ bạc tình: con mái thương yêu (?)
                 
                    Con chim trống vẫn run rẩy cất tiếng kêu rúc lên trong vòm xanh. Trên bờ bến nhân gian, tiếng gọi của con chim ấy còn vọng mãi vào những năm tháng xa xôi...vô cùng vô tận kia! Như anh gọi em, như chàng gọi nàng...

                    Có thể sau đó con chim mái đã quay về và nó thanh minh với con chim trống rằng: Con mái nó không phụ tình! Chỉ bởi vì cuộc sống ngày nay kiếm miếng ăn khó khăn quá...nên đã phải đi xa rồi bị lạc, lỡ đêm không về kịp được. Rồi nó hờn giận với con chim trống: đã không thông cảm cho nỗi khổ nhục của nó thì thôi, lại còn buông ra những lời oán trách nghĩ xấu cho nó? Thật là không phải lối!...

                      Tiếng Rúc Chim Đêm là một bản tình ca, nó đã đưa tình yêu lên tận đỉnh tháp cao xa của loài người - khi mà các chủ nghĩa cùng chính trị thế giới đều rơi vào sự bế tắc, không giải thoát nổi... đã không thể đưa được cái phần bản chất cuồng dã của con người ra khỏi những vòng của dã tâm tội ác! (đức lương thiện ngày càng bị đàn áp, lấn át)...gieo lên những cảnh khổ hạnh điêu linh, bởi bất công bạo ngược vẫn hà hiếp lên bao kiếp sống của các chúng sinh - thì chính tình yêu trai gái: ĐẠO mà trời đất đã sinh ra, lại cứu sống linh hồn cho cả trái đất này!

                     Vì nếu như không có cả niềm đam mê tột cùng của hạnh phúc gái trai: thì thế giới - chắc con người sẽ chẳng khác nào những giống sinh linh nhung nhúc lâm vào cái cảnh bị tâm thần loạn trí...và khắp toàn cầu sẽ phủ toàn một màu băng tang trắng.
                 
                      Tình yêu! Để con người quên vợi đi những tâm địa độc ác của mình. Người ta không cần đến chiến tranh, con người không còn ham vọng bóc lột nhau nữa...và thế giới chỉ còn vang lên trong tiếng gọi của hoà bình! Đó cũng chính là linh hồn, ý tưởng...chân dung của bài thơ Tiếng Rúc Chim Đêm này. Là ý nghĩa nhân bản thiêng liêng đối với tình yêu và sự sống của thế giới con người!...
                 

                 
                 
                 
                _____________________________________________________________________________________
                 
                 
                 
                 
                                                     Trích thêm bài thơ  thứ 6 nữa đi - Bởi vì bài này
                                                 cũng là  bài thơ hay !
                 
                 
                 
                                                   TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN (i)

                                       (Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang gần Hòn Chồng. Truyền kể:

                             Nàng Mỹ Nhân  nằm ở đó nhiều năm tháng chung thuỷ chờ chồng, đi đã không về...)

                                                                      
                                                                                       


                Bờ Hòn Chồng quán gió một trưa chiều
                Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
                Nghe cả biển , tình yêu và đời vỗ...
                Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

                Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây,
                Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
                Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
                Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

                Cho anh hôn lên đôi Vú Đá tơi bời
                Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ!
                (xin lỗi những mảng đời ta đang có
                Đôi lúc thèm được bám rêu xanh).

                Gió hút Hòn Chồng bể sóng mênh mông
                Ta! Con chim đã trúng bao vết đạn
                Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
                Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân (?)

                Bóng nàng nằm trơ mãi Cái Nước Non
                Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
                Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
                Cây Thánh Giá Cuộc Đời anh đặt dưới chân em!

                Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
                Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
                Hồ yêu tinh - và đàn bà nơi trần thế
                Vừa là tiên vừa là quỉ: nàng ơi!

                Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
                Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
                Đã kể tôi nghe chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
                Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...

                                 


                         
                Đứng trên Hòn Chồng vào buổi sớm mai, khi mặt trời lan toả những ánh nắng vàng rực rỡ...nhìn ra một dải núi nằm giữa biển Nha Trang. Ngươì ta thấy nổi lên đôi gò núi , trông giống như đôi gò vú của một nàng thiếu nữ.Nàng đang ngả mình phơi nắng. Triền núi xanh thoai thoải làm nên thân thể nàng.Khe núi xanh chạy dài xuống mặt sóng như mái tóc nàng xoã xuống biển: Ngươì Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, gọi là Núi Mỹ Nhân! Nàng Mỹ Nhân đã nằm ở đó chung thuỷ chờ chồng - Chồng nàng là một tướng cướp trẻ của đạo quân cướp bể. Trong một chuyến đi, thuyền bè của họ đã bị bão biển đánh đắm. Xác họ dạt vào bờ và hoá thành bãi sỏi đá.Hiện vẫn còn dấu tích tại đó:

                             Bờ Hòn Chồng quán gió một trưa chiều
                             Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
                             Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
                             Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

                     Cái bóng nàng Mỹ Nhân vẫn nằm ở đó để làm một tượng thần trong trắng, giữa chốn đời thường bụi bặm, xô bồ này mà tạc vào năm tháng:

                             Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
                             Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời
                                                             

                     Sau những ngày giải phóng miền Nam, người chiến sĩ giải phóng đã qua đây - Anh còn là một nhà thơ! (bài thơ được anh nhớ lại để viết vào gần 20 năm sau đó). Vừa là sự minh chứng của lịch sử, vừa là sự trải nghiệm chốn dâu bể trong đời người: Những thương tích chiến tranh, dù bao bom đạn đã bắn vào thân thể anh cũng chỉ là nỗi đau thể xác. Nhưng nỗi đau nơi nhân tình thế thái này...đã bắn vào cả trái tim, tâm hồn anh còn đau đớn nặng nề hơn! Đó mới chính là vết đạn ngàn thu bao giờ lành lại được? Cho nên dừng chân nghỉ lại trước bờ biển sóng mênh mông, ngước nhìn đỉnh núi Mỹ Nhân kia, anh mới thốt lên rằng:
                 
                            Ta! Con chim đã trúng bao vết đạn
                             ... Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?
                                                              

                     Anh muốn ngả vào lòng nàng, trong vòng tay êm ái của tình yêu nàng - Phải, chỉ có nàng! Chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa bớt được vết thương sâu nhói tận trái tim anh:

                             Cho anh hôn lên đôi Vú Đá tơi bời
                             Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ!
                                                              

                     Anh ru nàng và nàng ru anh! Nhưng trong cuộc đời thực này, tình yêu của nàng Mỹ Nhân âu lại cũng chỉ là mộng ảo? Dẫu vậy, anh vẫn muốn ngủ trong tình yêu ấy, để quên hết đi chốn nhân tình thế thái, quên hết đi cái cõi đời mệt mỏi, hỗn loạn và đầy rẫy những lo âu:

                             Xin lỗi những mảng đời ta đang có
                             Đôi lúc thèm được bám rêu xanh...
                                                                 v.v...

                    Đến đây, tôi xin đi sâu phân tích vào đoạn thơ thứ 5 của bài:

                             Bóng nàng nằm trơ mãi Cái Nước Non
                             Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
                             Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại...

                     Hình ảnh của đỉnh núi Mỹ Nhân nằm mãi giữa biển khơi xanh, chờ người chồng đi xa mãi mà không trở về...Tình của nàng chỉ có vầng nguyệt tháng năm soi tỏ. Dù sông cạn đá mòn nàng vẫn thuỷ chung - Ôi! Sự hoang dại tạo hoá chẳng phải là đỉnh cao hùng vĩ muôn đời trong thế giới hỗn mang mà chúng ta đang sống hay sao? Đó cũng là chính kiến của nhà thơ trứơc thần tượng vĩnh hằng của đỉnh núi Mỹ Nhân! Nghĩa là, sự thần tượng về tình yêu với người đàn bà sinh ra trong cõi thế gian này. Nó đã được tác giả dồn nén vào trong câu thơ cuối đoạn:
                 
                            Cây Thánh Giá Cuộc Đời anh đặt dưới chân em!

                     Nhà thơ không phải là người theo tôn giáo, nhưng hình tượng Cây Thánh Giá Cuộc Đời cần hiểu theo nghĩa tượng trưng - Người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà. Người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà!...Cho nên, nhà thơ mới phát biểu quan niệm , chính kiến của mình trong sự tồn tại thế giới : "Cây Thánh Giá Cuộc Đời anh đặt dưới chân em "! Nó còn biểu hiện một sự phản ứng mãnh liệt của tác giả, trước thực tại của thế giới con người đầy rẫy những bạo lực phi lý, còn nhiều dã tâm mãnh thú nữa...Đến đây tình thơ đã được đẩy cao lên và mang tầm thời đại. Hình ảnh thơ bốc lửa và cháy sáng! Cùng với đoạn thơ thứ 6 , là hai đoạn thơ trung tâm cốt lõi nhất của bài. Tôi xin phân tích tiếp về đoạn thơ thứ 6:

                            Hồ yêu tinh - và đàn bà nơi trần thế
                             Vừa là tiên vừa là quỉ :nàng ơi!

                     Đàn bà - Đúng là cuộc sống không thể thiếu được họ! Thiếu họ, cuộc đời ta sẽ trở nên hoang tàn vô nghĩa. Nhưng chính đàn bà cũng đem đến cho ta bao mệt mỏi? Có nhiều khi ta chỉ muốn vào quách trong chùa để đi tu, cho cuộc đời được sống yên. Có họ và không có họ đều dở cả - Họ là thiên đường trong cuộc đời ta , nhưng đồng thời cũng là âm phủ!...Họ vừa là linh hồn, là tiên nữ, lại vừa là quỉ dạ xoa...Chả trách , thi sĩ Tản Đà đã từng một thời tìm đường lên núi tu tiên, để dứt bỏ chốn hồng trần. Nhưng rồi ông vẫn lại phải quay về với cõi đời thường ấy, để sống tiếp cuộc đời chán chường với bao nỗi đoạ đầy. Vì lẽ đó - Đứng trước đỉnh núi Mỹ Nhân thanh cao kia, nhà thơ mới thốt lên:

                             Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
                             Anh nguyện với nàng cả đời vui thú!
                                                               

                     Hình ảnh đoạn thơ chan chứa tình yêu, làm cho bài thơ mang sâu sắc tính đời và gắn liền vào trong cuộc sống - Tình thơ Trước Núi Mỹ Nhân mới thật sự trở thành một thi phẩm hoàn bích và viên mãn!... 






                 
                 


                <

                              
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2010 01:52:51 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                #8
                  long tong 26.05.2007 12:55:12 (permalink)


                  Trích đọan :  Nhatho_PhamNgocThai

                  Thiên tài Phạm Ngọc Thái 


                       [sm=wakka-wakka.gif]

                  [sm=rollin.gif]
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.05.2007 12:58:09 bởi long tong >
                  #9
                    Nhatho_PhamNgocThai 10.06.2007 13:18:15 (permalink)
                     


                     
                                      Lại tặng Ban giám khảo  về " 100 bài thơ hay thế kỉ "
                                   cùng các nhà thơ có tên tuổi hoắng hít đương thời !

                     
                                                                     --------
                     
                     

                                  CÁI THỜI BUỔI THƠ PHÚ VĂN CHƯƠNG
                                BÁT NHÁO CHI KHƯƠN CỦA HỘI NHÀ VĂN


                                           - Cảm tác sau khi gặp một bạn thơ ngang đường với
                                            vài ba câu chuyện vu vơ về làng thơ văn hôm nay.

                                                                            *


                    Nghe tĩnh lặng một khoảng không nhạt lạnh
                    Đời đi, về... ảm đạm tựa thây ma,
                    Anh bạn nhà thơ gặp tôi chiều nắng xế
                    Buông vài ba câu chuyện rồi đi.

                    Đời chỉ thế: có gì vui, hả bạn?
                    Chuyện làm thơ? Thôi, kể làm gì.
                    Bọn làm thơ chúng ta đồng nghĩa
                                      với phường gian manh cả,
                    Còn lũ làm văn - Thây kệ, cho chó nó nhai đi !
                      
                    ĐĐB (1)... là đứa rất điển hình của những đứa làm thơ
                                                            gian manh ta đấy !
                    Đã gian manh thì chết cũng rứa thôi...
                    Gian manh giữa đời, gian manh thơ,
                                         gian manh cả khi ăn, giấc ngủ,
                    Dẫu khi sống mồ côi hay lúc đã phải cùng với mẹ dưới mồ.

                    Thằng làm văn Nguyễn Huy Thiệp có nói quá đi,
                                                đừng nên trách nó ! (2)
                    Bởi chính nó cũng gian manh vô học thôi mà.
                    Đến Hữu Thỉnh, Bằng Việt hay Phạm Tiến Duật...
                                         chắc có hơn gì đâu cơ chứ? (3)
                    Ta yêu đời ư?
                    Thì gian manh mới có thể yêu mà.

                    Ta nói đời buồn: buồn trong văn chương,
                                                buồn trong cuộc sống
                    Thơ phú đời nay như hát xẩm í-a...
                    Cả kẻ đọc cũng ba lăng nhăng trống rỗng
                    Hội Đồng Thơ toàn những đứa đẻ non mà. (4)

                    Cuộc sống xô bồ gian manh như chấu
                    Đất nước lắm tà ma, ra ngõ vấp lọc lừa.
                    Muốn sống cho yên ư?
                    Hoạ khi cắt tóc vào chùa mà nương náu.
                    Chưa chắc đâu? Gặp phải thằng bán tơ... (5)
                    Sư cũng  mang vạ phạt, nam mô !

                    Ôi ! Cái thời nay như thời nảo thời nào
                    Trời như không sao đất đầy bọ rệp
                    Sống giữa cuộc đời: biết tìm đâu ra lối thoát?
                    Dầu thơ hay cũng rơi tõm xuống bùn ao...


                                          Phạm Ngọc Thái
                               (viết theo kiểu di cảo Chế Lan Viên)
                                        chiều 16/7/2005
                                       ĐT: 01683024194



                    (1)   Ngày tôi viết bài thơ này nhà thơ ĐĐB còn sống. Tới cuối tháng giêng 2006 thì nghe tin chết.

                    (2)   Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng viết và đăng trên báo Ngày Nay... chửi cả làng văn chương rằng:

                      Các nhà thơ lưu manh, nhà văn vô học - Đã gây cuộc tranh cãi, chửi bới nhau với Trần Mạnh Hảo
                      một thời trên báo chí.

                    (3)   Hữu Thỉnh: Đại Hội VI - là Tổng thư kí Hội nhà văn VN. Chuẩn bị Đại Hội VII ( có lẽ để tranh giành ghế
                      Ban chấp hành HNV ), Phạm Tiến Duật viết bài bài xích Hữu Thỉnh... cũng không kém thủ đoạn. Nhưng lại
                      sử dụng một cái vỏ của một thứ tình cảm đầy sở khanh, cá sấu với tít đề :" Tình bạn trong văn chương " 

                      - Hữu Thỉnh cũng dùng một đệ tử của mình trong làng văn thơ, báo chí... viết bài đả lại Phạm Tiến Duật.
                      Suy cho cùng cũng mèo mả, gà đồng cả thôi !

                    (4)   Hội Đồng Thơ HNV cho các giải thơ hàng năm toàn bát nháo chi khươn? Bao năm nay chẳng có tác phẩm
                      thơ nào tầm vóc có thể kha khá lưu lại cho đời. Nói chung bọn nhà thơ có tên tuổi bây giờ đầy nhố nhăng...
                      với lũ ăn theo kém cỏi, hò reo phụ hoạ.

                    (5)   Gặp phải thằng bán tơ : Kiều đã phải bán mình để chuộc cha...  



                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2010 01:59:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
                    #10
                      Chuyển nhanh đến:

                      Thống kê hiện tại

                      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                      Kiểu:
                      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9