Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
題 袁 氏 別 業 主 人 不 相 識 偶 坐 為 林 泉 莫 謾 愁 沽 酒 囊 中 自 有 錢 賀 知 章 Đề Viên Thị Biệt Nghiệp Chủ nhân bất tương thức Ngẫu tọa vị lâm tuyền Mạc mạn sầu cô tửu Nang trung tự hữu tiền Hạ Tri Chương (viết về nhà riêng của họ Viên) (ta chưa hề biết chủ nhà) (chỉ vì thích suối rừng mà tình cờ ngồi bên nhau) (xin đừng buồn phiền về việc mua rượu) (vì trong túi đang có sẵn tiền) Viết về nhà riêng của họ Viên Dù rằng ta chẳng quen người Suối tiên cảnh đẹp ngồi chơi chút nào Muốn thì tí rượu chẳng sao Có tiền chuốc một vài ngao đỡ buồn SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
題 袁 氏 別 業
主 人 不 相 識
偶 坐 為 林 泉
莫 謾 愁 沽 酒
囊 中 自 有 錢
賀 知 章
Đề Viên Thị Biệt Nghiệp
Chủ nhân bất tương thức
Ngẫu tọa vị lâm tuyền
Mạc mạn sầu cô tửu
Nang trung tự hữu tiền
Hạ Tri Chương
(viết về nhà riêng của họ Viên)
(ta chưa hề biết chủ nhà)
(chỉ vì thích suối rừng mà tình cờ ngồi bên nhau)
(xin đừng buồn phiền về việc mua rượu)
(vì trong túi đang có sẵn tiền)
Viết về nhà riêng của họ Viên
Dù rằng ta chẳng quen người
Suối tiên cảnh đẹp ngồi chơi chút nào
Muốn thì tí rượu chẳng sao
Có tiền chuốc một vài ngao đỡ buồn
SongNguyễn HànTú
Viết về nhà riêng của họ Viên
Chủ nhà nào hay biết
Suối rừng ngắm ngồi bên
Muộn phiền chi chuyện rượu
Túi đây sẵn đủ tiền
Hobac
題 王 處 士 山 居 雲 木 沉 沉 夏 亦 寒 此 中 幽 隱 幾 經 年 無 多 別 業 供 王 稅 大 半 生 涯 在 釣 般 蜀 魄 叫 迴 芳 草 色 鷺 鶿 飛 破 夕 陽 煙 干 戈 蝟 起 能 高 臥 真 箇 逍 遙 是 謫 仙 李 咸 用 Đề Vương Xử Sĩ Sơn Cư Vân mộc trầm trầm hạ diệc hàn Thử trung u ẩn kỷ khinh niên Vô đa biệt nghiệp cung vuơng thuế Đại bán sinh nhai tại điếu thuyền Thục phách khiếu hồi phương thảo sắc Lộ tư phi phá tịch dương yên Can qua vị khởi năng cao ngoạ Chân cá tiêu dao thị trích tiên Lý Hàm Dụng (viết về nơi ở ẩn trên núi của người họ Vưong) (mây mù và cây cối âm u nên hè vẫn lạnh) (người ở ẩn nơi u tịch này đã được vài năm rồi) (không có nghề gì nên khỏi đóng thuế vua) (quá nửa đời sống là ở trên thuyền câu) (chim cuốc gọi nhau trong đám cỏ thơm) (vài cánh cò bay trong sương khói chiều tà) (khắp nơi loạn lạc mà người vẫn nằm cao được) (thật quả là 1 vị tiên bị đày tiêu dao nơi cõi tục) Nơi Họ Vương Ỏ Ẩn Giữa hè vẫn lạnh, cảnh âm u Nhàn tản nơi đây đã mấy mùa Thuế khóa lấy đâu mà đóng góp Thuyền câu một mảnh giữa đong đưa ..... Nghe hồn tiếng cuốc bên phương thảo Cò soải trong sương giữa nắng tà Thanh thản mặc mịt mờ binh lửa Lưu đầy trần thế kiếp tiên xưa SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
題 王 處 士 山 居
雲 木 沉 沉 夏 亦 寒
此 中 幽 隱 幾 經 年
無 多 別 業 供 王 稅
大 半 生 涯 在 釣 般
蜀 魄 叫 迴 芳 草 色
鷺 鶿 飛 破 夕 陽 煙
干 戈 蝟 起 能 高 臥
真 箇 逍 遙 是 謫 仙
李 咸 用
Đề Vương Xử Sĩ Sơn Cư
Vân mộc trầm trầm hạ diệc hàn
Thử trung u ẩn kỷ khinh niên
Vô đa biệt nghiệp cung vuơng thuế
Đại bán sinh nhai tại điếu thuyền
Thục phách khiếu hồi phương thảo sắc
Lộ tư phi phá tịch dương yên
Can qua vị khởi năng cao ngoạ
Chân cá tiêu dao thị trích tiên
Lý Hàm Dụng
(viết về nơi ở ẩn trên núi của người họ Vưong)
(mây mù và cây cối âm u nên hè vẫn lạnh)
(người ở ẩn nơi u tịch này đã được vài năm rồi)
(không có nghề gì nên khỏi đóng thuế vua)
(quá nửa đời sống là ở trên thuyền câu)
(chim cuốc gọi nhau trong đám cỏ thơm)
(vài cánh cò bay trong sương khói chiều tà)
(khắp nơi loạn lạc mà người vẫn nằm cao được)
(thật quả là 1 vị tiên bị đày tiêu dao nơi cõi tục)
Nơi Họ Vương Ỏ Ẩn
Giữa hè vẫn lạnh, cảnh âm u
Nhàn tản nơi đây đã mấy mùa
Thuế khóa lấy đâu mà đóng góp
Thuyền câu một mảnh giữa đong đưa
.....
Nghe hồn tiếng cuốc bên phương thảo
Cò soải trong sương giữa nắng tà
Thanh thản mặc mịt mờ binh lửa
Lưu đầy trần thế kiếp tiên xưa
SongNguyễn HànTú
Nơi Họ Vương Ỏ Ẩn
Mây mù cây thẳm hè vương lạnh
Trốn ẩn tịch u một cõi xanh
Không nghiệp chẳng nghề thôi phải thuế
Nửa đời lẽ sống thuyền một manh
Cuốc lần gọi bạn nơi cỏ biếc
Cò vút kêu sương bờ khói thanh
Ly loạn gối cao nằm tự tại
Phải tiên trần thế bước du hành
Hobac
易 水 送 別 此 地 別 燕 丹 壯 士 髮 衝 冠 惜 時 人 已 沒 今 日 水 猶 寒 駱 賓 王 Dịch Thủy Tống Biệt * Thử địa biệt Yên Đan Tráng sĩ phát xung quan Tích thời nhân dĩ một Kim nhật thủy do hàn Lạc Tân Vương Dich nghĩa: (tiễn đưa bên sông Dịch) (Thái tử Đan nước Yên từ biệt chỗ này) (tóc tráng sĩ dựng phồng cả mũ lên) (tiếc thương người xưa đã khuất) (dòng nước cho đến hôm nay vẫn còn lạnh) *** Ghi chú: Dịch Thuỷ là sông Dịch, nay ở huyện Dịch, tỉnh Hà Bắc. Thời Chiến Quốc là gianh giới của nước Yên và nước Triệu. Thái tử nước Yên tên là Đan, tổ chức ám sát Tần Thủy Hoàng để tránh cho nước Yên khỏi bị nước Tần thôn tính. Sát thủ Kinh Kha đóng vai sứ giả nước Yên sang Tần dâng bản đồ nước Yên và đầu 1 phản tướng của Tần. Ngày Kinh Kha lên đường, Thái tử Đan đưa tiễn tới tận bờ sông Dịch . *** Từ biệt bên bờ Dịch Thủy * Chia tay Thái tử chốn này Bừng bừng hào khí quyện bay ngất trời Bao năm tráng sĩ đi rồi Dòng sông nước vẫn cuốn trôi lạnh lùng * SongNguyễn HànTú
艷 女 詞 露 井 棑 花 發 雙 雙 燕 並 飛 美 人 姿 態 裡 春 色 上 羅 衣 自 愛 頻 窺 鏡 時 羞 欲 掩 扉 不 知 行 路 客 遙 惹 五 香 歸 梁 鍠 Diễm Nữ Từ * Lộ tĩnh đào hoa phát Song song yến tịnh phi Mỹ nhân tư thái lý Xuân sắc thượng la y Tự ái tần khuy kính Thì tu dục yêm phi Bất tri hành lộ khách Dao nhạ ngũ hương quy * Lương Hoàng Dich nghia: (bài từ: cô gái xinh) (bên giếng đượm sương đào nở hoa) (đôi yến vẫn bay song song) (trong dáng dấp của người đẹp) (áo lụa làm nhan sắc tăng thêm) (tự yêu nên cứ ngắm gương hoài) (có lúc mắc cỡ muốn khép cửa sổ) (đâu dè khách qua đường) (vẫn thưởng thức được hương thơm từ xa) **** Bài Từ Cô Gái Xinh * Bên giếng hoa đào nở Đôi yến lượn la đà Giai nhân dáng yểu điệu Vẻ xuân vương áo lụa mượt mà ......... Yêu mình gương đối bóng Thẹn thùng nép bên song Đâu hay mùi phấn thoảng Khiến khách qua dạo dực tơ lòng * SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
艷 女 詞
露 井 棑 花 發
雙 雙 燕 並 飛
美 人 姿 態 裡
春 色 上 羅 衣
自 愛 頻 窺 鏡
時 羞 欲 掩 扉
不 知 行 路 客
遙 惹 五 香 歸
梁 鍠
Diễm Nữ Từ
*
Lộ tĩnh đào hoa phát
Song song yến tịnh phi
Mỹ nhân tư thái lý
Xuân sắc thượng la y
Tự ái tần khuy kính
Thì tu dục yêm phi
Bất tri hành lộ khách
Dao nhạ ngũ hương quy
*
Lương Hoàng
Dich nghia:
(bài từ: cô gái xinh)
(bên giếng đượm sương đào nở hoa)
(đôi yến vẫn bay song song)
(trong dáng dấp của người đẹp)
(áo lụa làm nhan sắc tăng thêm)
(tự yêu nên cứ ngắm gương hoài)
(có lúc mắc cỡ muốn khép cửa sổ)
(đâu dè khách qua đường)
(vẫn thưởng thức được hương thơm từ xa)
****
Bài Từ Cô Gái Xinh
*
Bên giếng hoa đào nở
Đôi yến lượn la đà
Giai nhân dáng yểu điệu
Vẻ xuân vương áo lụa mượt mà
.........
Yêu mình gương đối bóng
Thẹn thùng nép bên song
Đâu hay mùi phấn thoảng
Khiến khách qua dạo dực tơ lòng
*
SongNguyễn HànTú
Cô Gái Xinh
(Bên giềng hoa đào nở)
Đôi yến quyến luyến bay
Người đẹp xuân khoe dáng
Lụa tôn sắc phơi bầy
***
Mơ màng ngắm trước gương
Thẹn thùng toan khép cửa
Bên đường hay khách ngẩn
Xạ hương vương đẩy đưa
Hobac
鳥 嗚 澗 人 閑 桂 花 落 夜 靜 春 山 空 月 出 驚 山 鳥 時 嗚 春 澗 中 王 維 Điểu Minh Giản Nhân nhàn quế hoa lạc Dạ tĩnh xuân sơn không Nguyệt xuất kinh sơn điểu Thời minh xuân giản trung Vương Duy (Suối Chim Kêu) (người thảnh thơi, hoa quế rụng rơi) (đêm tĩnh mịch, núi xuân im ắng) (trăng nhô lên cao làm chim rừng kinh sợ) (lúc đó chúng kêu lên trong khe suối xuân) Tiếng Chim Trong Khe Vương vương hoa quế rụng đầy Trời xuân tĩnh mịch, cỏ cây im lìm Ánh trăng vừa mới nhú lên Chim bay hoảng loạn vang miền suối Xuân SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
鳥 嗚 澗
人 閑 桂 花 落
夜 靜 春 山 空
月 出 驚 山 鳥
時 嗚 春 澗 中
王 維
Điểu Minh Giản
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
Vương Duy
(Suối Chim Kêu)
(người thảnh thơi, hoa quế rụng rơi)
(đêm tĩnh mịch, núi xuân im ắng)
(trăng nhô lên cao làm chim rừng kinh sợ)
(lúc đó chúng kêu lên trong khe suối xuân)
Tiếng Chim Trong Khe
Vương vương hoa quế rụng đầy
Trời xuân tĩnh mịch, cỏ cây im lìm
Ánh trăng vừa mới nhú lên
Chim bay hoảng loạn vang miền suối Xuân
SongNguyễn HànTú
Chim Kêu Trong Khe
Nhàn trông hoa Quế rụng
Đêm tịch núi xuân trong
Trăng nhô chim rừng hoảng
Tiếng loạn suối xuân lồng
Hobac
悼 亡 姬 鳳 杳 鸞 冥 不 可 尋 十 汌 仙 路 彩 雲 深 若 無 少 女 花 應 老 為 有 嫦 娥 月 易 沉 竹 葉 豈 能 銷 積 悵 丁 香 從 此 折 同 心 湘 江 水 闊 蒼 梧 遠 何 處 相 思 續 舜 琴 韋 莊 Điệu Vong Cơ Phụng yểu loan minh bất khả tầm Thập châu tiên lộ thái vân thâm Nhược vô thiếu nữ hoa ưng lão Vị hữu Thường Nga nguyệt dị trầm Trúc diệp khởi năng tiêu tích trướng Đinh hương tòng thử chiết đồng tâm Tương Giang thủy khoát Thương Ngô viễn Hà xứ tương tư tục Thuấn cầm Vi Trang Dich nghĩa (thương tiếc người thiép vừa mất) (phượng đã đi xa, loan nhạt nhòa, không thể tìm đâu nữa) ([nàng đã lên] mười châu trên cõi tiên đầy mây màu rực rỡ) (nếu không có cô gái trẻ chắc hoa sẽ già đi) (vì có Hằng Nga ở trển mà mặt trăng dẽ lặn) (rượu Trúc Diệp có thể làm tan mối sầu tích tụ hay sao?) (từ đây giải đồng tâm màu đinh hương đã đứt) (dòng Tương Giang thì rộng, núi Thương Ngô thì xa) (biết gửi bản đàn tưởng nhớ vua Thuấn về đâu?) Ghi chú: Vua Thuấn (đời thượng cổ bên Tàu) mất ở núi Thương Ngô. Hai bà hoàng hậu thương khóc mãi mà chết ỏ sông Tương Thương Tiếc Người Thiếp Phượng khuất bóng, loan mịt tăm chẳng thấy Mười cõi tiên mây rực rỡ kéo đầy Vắng bóng nàng, hoa chắc cũng buồn lây Hằng xinh quá nên trăng hay chìm đắm Dù Trúc Diệp chẳng làm tan buồn thảm Giải đồng tâm đã hai ngả không cùng Núi Thương xa, dòng Tương rộng mênh mông Nỗi nhung nhớ sao nối đàn vua Thuấn SongNguyễn HànTú
渡 漢 江 嶺 外 音 書 絕 經 冬 復 立 春 近 鄉 情 更 怯 不 敢 問 來 人 李 頻 Độ Hán Giang Lĩnh ngoại âm thư tuyệt Kinh đông phục lập xuân Cận hương tình cánh khiếp Bất cảm vấn lai nhân Lý Tần Dich nghĩa: (qua sông Hán) (ở núi không có tin tức gì bên ngoài) (mùa đông đã qua, mùa xuân lại tới) (càng tới gần quê lòng càng kinh hãi) (không dám hỏi người qua đưòng) Qua Sông Hán * Tin thư vắng bặt từ lâu Đông vừa qua hết , tiết đầu lập xuân Gần nhà lòng vẫn ngại ngần Gặp người chẳng hỏi, phân vân không cùng * SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
渡 漢 江
嶺 外 音 書 絕
經 冬 復 立 春
近 鄉 情 更 怯
不 敢 問 來 人
李 頻
Độ Hán Giang
Lĩnh ngoại âm thư tuyệt
Kinh đông phục lập xuân
Cận hương tình cánh khiếp
Bất cảm vấn lai nhân
Lý Tần
Dich nghĩa:
(qua sông Hán)
(ở núi không có tin tức gì bên ngoài)
(mùa đông đã qua, mùa xuân lại tới)
(càng tới gần quê lòng càng kinh hãi)
(không dám hỏi người qua đưòng)
Qua Sông Hán
*
Tin thư vắng bặt từ lâu
Đông vừa qua hết , tiết đầu lập xuân
Gần nhà lòng vẫn ngại ngần
Gặp người chẳng hỏi, phân vân không cùng
*
SongNguyễn HànTú
Qua Sông Hán
Núi cách tin đưa bặt
Đông hết tiết xuân sang
Cảnh quê lòng kinh hãi
Hỏi khách sợ hoang mang
Hobac
渡 荊 門 送 別 渡 遠 荊 門 外 來 從 楚 國 遊 山 隨 平 野 盡 江 入 大 荒 流 月 下 飛 天 鏡 雲 生 結 海 樓 仍 憐 故 鄉 水 萬 里 送 行 舟 李 白 Độ Kinh Môn Tống Biệt * Độ viễn Kinh Môn ngoại Lai tòng Sở quốc du Sơn tùy bình dã tận Giang nhập đại hoang lưu Nguyệt hạ phi thiên kính Vân sinh kết hải lâu Nhưng lân cố hương thủy Vạn lý tống hành chu Lý Bạch * (tiễn khách qua núi Kinh Môn) (qua khỏi núi Kinh Môn) (là dong chơi nước Sở) (từ chân núi là bình nguyên) (sông chảy vào miền hoang dã) (trăng thấp như tấm kiếng trời đang bay) (mây tụ lại như hình lâu đài trên biển) (lòng vẫn thương dòng sông về quê cũ) (nay tiễn khách lên thuyền đi muôn dặm) Ghi chú: Kinh Môn là tên núi, nay ở huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc Sở là tên nước cũ đời Xuân Thu, bao gồm nhiều tỉnh, trong đó có Hồ Bắc. * Tiễn khách qua núi Kinh Môn Bồng bềnh thuyền vượt cửa Kinh Giáp vùng đồi núi đồng xanh ngút trời Quanh co dòng nước êm trôi Luân lưu vào chốn đất trời hoang vu Trăng trôi tựa tấm gương mờ Mây tầng kết bóng cảnh xưa lâu đài Nhớ dòng sông nhỏ cuối trời Vùng quê yêu dấu đưa người viễn phương SongNguyễn HànTú
渡 桑 乾 客 舍 并 汌 已 十 霜 歸 心 日 夜 憶 咸 陽 無 端 更 渡 桑 乾 水 卻 望 并 汌 是 故 鄉 賈 島 Độ Tang Càn Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy Khước vọng Tinh Châu thị cố hương Giả Đảo (qua sông Tang Càn) (ở trọ nơi Tinh Châu đã 10 năm) (ngày đêm lúc nào lòng cũng muốn trở về Hàm Dương) (tình cờ bây giờ lại đi trên sông Tang Càn này) (ta vọng nhìn Tinh Châu như là quê cũ) Ghi chú: Tang Càn là tên 1 con sông ở tỉnh Sơn Tây Tinh Châu là tên đất cũng ở tỉnh Sơn Tây, có sông Tang Càn chảy qua Hàm Dương là tên đất ở tỉnh Thiểm Tây Qua sông Tang Càn Mười năm trọ đất Tinh Châu Nhớ Hàm Dương nặng nỗi sầu riêng mang Chiều qua bến nước sông Tang Nhìn Tinh Châu ngỡ xóm làng mình đây SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
悼 亡 姬
鳳 杳 鸞 冥 不 可 尋
十 汌 仙 路 彩 雲 深
若 無 少 女 花 應 老
為 有 嫦 娥 月 易 沉
竹 葉 豈 能 銷 積 悵
丁 香 從 此 折 同 心
湘 江 水 闊 蒼 梧 遠
何 處 相 思 續 舜 琴
韋 莊
Điệu Vong Cơ
Phụng yểu loan minh bất khả tầm
Thập châu tiên lộ thái vân thâm
Nhược vô thiếu nữ hoa ưng lão
Vị hữu Thường Nga nguyệt dị trầm
Trúc diệp khởi năng tiêu tích trướng
Đinh hương tòng thử chiết đồng tâm
Tương Giang thủy khoát Thương Ngô viễn
Hà xứ tương tư tục Thuấn cầm
Vi Trang
Dich nghĩa
(thương tiếc người thiép vừa mất)
(phượng đã đi xa, loan nhạt nhòa, không thể tìm đâu nữa)
([nàng đã lên] mười châu trên cõi tiên đầy mây màu rực rỡ)
(nếu không có cô gái trẻ chắc hoa sẽ già đi)
(vì có Hằng Nga ở trển mà mặt trăng dẽ lặn)
(rượu Trúc Diệp có thể làm tan mối sầu tích tụ hay sao?)
(từ đây giải đồng tâm màu đinh hương đã đứt)
(dòng Tương Giang thì rộng, núi Thương Ngô thì xa)
(biết gửi bản đàn tưởng nhớ vua Thuấn về đâu?)
Ghi chú: Vua Thuấn (đời thượng cổ bên Tàu) mất ở núi Thương Ngô.
Hai bà hoàng hậu thương khóc mãi mà chết ỏ sông Tương
Thương Tiếc Người Thiếp
Phượng khuất bóng, loan mịt tăm chẳng thấy
Mười cõi tiên mây rực rỡ kéo đầy
Vắng bóng nàng, hoa chắc cũng buồn lây
Hằng xinh quá nên trăng hay chìm đắm
Dù Trúc Diệp chẳng làm tan buồn thảm
Giải đồng tâm đã hai ngả không cùng
Núi Thương xa, dòng Tương rộng mênh mông
Nỗi nhung nhớ sao nối đàn vua Thuấn
SongNguyễn HànTú
Thương Tiếc Người Thiếp
Phượng khuất loan nhòa với cõi không
Mười phương tiên cảnh rực mây hồng
Vắng người xuân nữ hoa tàn héo
Thêm bóng Hằng Nga nguyệt tủi lòng
Trúc Điệp nào tan bờ khuyến luyến
Đinh Hương sao đứt giải tâm đồng
Tương Giang lồng lộng Thương Ngô mịt
Mấy khúc Thuấn cầm tỏ ngóng trông
Hobac
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: