Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
渡 荊 門 送 別
渡 遠 荊 門 外
來 從 楚 國 遊
山 隨 平 野 盡
江 入 大 荒 流
月 下 飛 天 鏡
雲 生 結 海 樓
仍 憐 故 鄉 水
萬 里 送 行 舟
李 白
Độ Kinh Môn Tống Biệt
*
Độ viễn Kinh Môn ngoại
Lai tòng Sở quốc du
Sơn tùy bình dã tận
Giang nhập đại hoang lưu
Nguyệt hạ phi thiên kính
Vân sinh kết hải lâu
Nhưng lân cố hương thủy
Vạn lý tống hành chu
Lý Bạch
*
(tiễn khách qua núi Kinh Môn)
(qua khỏi núi Kinh Môn)
(là dong chơi nước Sở)
(từ chân núi là bình nguyên)
(sông chảy vào miền hoang dã)
(trăng thấp như tấm kiếng trời đang bay)
(mây tụ lại như hình lâu đài trên biển)
(lòng vẫn thương dòng sông về quê cũ)
(nay tiễn khách lên thuyền đi muôn dặm)
Ghi chú: Kinh Môn là tên núi, nay ở huyện Nghi Đô, tỉnh Hồ Bắc
Sở là tên nước cũ đời Xuân Thu, bao gồm nhiều tỉnh, trong đó có Hồ Bắc.
*
Tiễn khách qua núi Kinh Môn
Bồng bềnh thuyền vượt cửa Kinh
Giáp vùng đồi núi đồng xanh ngút trời
Quanh co dòng nước êm trôi
Luân lưu vào chốn đất trời hoang vu
Trăng trôi tựa tấm gương mờ
Mây tầng kết bóng cảnh xưa lâu đài
Nhớ dòng sông nhỏ cuối trời
Vùng quê yêu dấu đưa người viễn phương
SongNguyễn HànTú
Tiễn Bạn Qua Núi Kinh Môn
Cửa Kinh Môn tiễn biệt
Sở quốc bạn rong chơi
Trước núi bình nguyên thẳm
Bên sông hoang dã đời
Trăng bay soi tọa cảnh
Mây kết phủ, lầu mời
Ta, khúc quê dòng vợi
Bạn này, vạn dặm vui
Hobac
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2007 12:11:12 bởi hobac >
Trích đoạn: hannguyen
渡 桑 乾
客 舍 并 汌 已 十 霜
歸 心 日 夜 憶 咸 陽
無 端 更 渡 桑 乾 水
卻 望 并 汌 是 故 鄉
賈 島
Độ Tang Càn
Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương
Giả Đảo
(qua sông Tang Càn)
(ở trọ nơi Tinh Châu đã 10 năm)
(ngày đêm lúc nào lòng cũng muốn trở về Hàm Dương)
(tình cờ bây giờ lại đi trên sông Tang Càn này)
(ta vọng nhìn Tinh Châu như là quê cũ)
Ghi chú: Tang Càn là tên 1 con sông ở tỉnh Sơn Tây
Tinh Châu là tên đất cũng ở tỉnh Sơn Tây, có sông Tang Càn chảy qua
Hàm Dương là tên đất ở tỉnh Thiểm Tây
Qua sông Tang Càn
Mười năm trọ đất Tinh Châu
Nhớ Hàm Dương nặng nỗi sầu riêng mang
Chiều qua bến nước sông Tang
Nhìn Tinh Châu ngỡ xóm làng mình đây
SongNguyễn HànTú
Qua sông Tang Càn
Tinh Châu tình cũng đủ mười năm
Tuy dạ Hàn Dương giấc chẳng nằm
Chiều nay quá bến Tang Càn nhớ
Lại ngóng Tinh Châu quê cũ thăm
Hobac
杜 少 府 之 任 蜀 川 城 闕 輔 三 秦 風 煙 望 五 津 與 君 離 別 意 同 是 宦 游 人 海 內 存 知 己 天 涯 若 比 鄰 無 為 在 歧 路 兒 女 共 沾 巾 王 勃 Đỗ Thiếu Phủ Chi Nhiệm Thục Xuyên Thành khuyết phụ Tam Tần Phong yên vọng Ngũ Tân Dữ quân ly biệt ý Đồng thị hoạn du nhân Hải nội tồn tri kỷ Thiên nhai nhược tị lân Vô vi tại kỳ lộ Nhi nữ cộng chiêm cân Vương Bột (quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức) (lệnh vua sai ta ra phụ giúp vùng Tam Tần) (ta thấy sương khói từ vùng Ngũ Tân [ông sẽ tới]) (cùng ông ta có ý [muốn chào] ly biệt) (vì cùng là quan chức đi nhậm nơi xa) (trong đời đã là tri kỷ của nhau) (thì dù có xa nhau cũng như sống bên nhau) (tới ngã rẽ rồi, ta đừng làm như...) (thói nhi nữ khóc ướt khăn) Ghi chú: Thục Xuyên là tỉnh Tứ Xuyên , Tam Tần là tỉnh Thiễm Tây ngày nay Ngũ Tân là vùng có 5 bến sông trong đất Thục Xuyên Đỗ Thiếu Phủ Đi Nhậm Chức Tại Thục Xuyên quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức Đi Tam Tần chấp lệnh vua Ngũ Tân sương gió mịt mờ khói mây Hai ta cảnh biệt ly này Cùng đi nhậm chức tận nơi xa vời Đã là tri kỷ trong đời Dù xa trời biển như ngồi gần nhau Nơi chia lối Chớ thương đau Lệ rơi khăn ướt, lẽ nào nữ nhi SongNguyễn HànTú
渡 湘 江 遲 日 園 林 悲 昔 遊 今 春 花 鳥 作 邊 愁 獨 憐 故 國 人 南 竄 不 似 湘 江 水 北 流 杜 審 言 Độ Tương Giang Trì nhật viên lâm bi tích du Kim xuân hoa điểu tác nhân sầu Độc lân cố quốc nhân nam thoán Bất tự Tương Giang thủy bắc lưu Đỗ Thẫm Ngôn (qua sông Tương) (cả ngày trong rừng thưa nhớ thương chuyến đi chơi ngày cũ) (xuân năm nay cả hoa và chim cũng chẳng làm ta vui nơi biên ải) (một mình thương xót người quê cũ lánh nạn phương nam) (không giống như dòng Tương Giang nước chảy về phương bắc) Ghi chú: Tương Giang là con sông ở tỉnh Hồ Nam, nước chảy vào hồ Động Đình ở phía bắc Qua sông Tương Quanh rừng luẩn quẩn nhớ người Xuân biên cương chẳng làm vui được lòng Phương Nam người phải long đong Chảy về phương Bắc chỉ dòng Tương thôi SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
杜 少 府 之 任 蜀 川
城 闕 輔 三 秦
風 煙 望 五 津
與 君 離 別 意
同 是 宦 游 人
海 內 存 知 己
天 涯 若 比 鄰
無 為 在 歧 路
兒 女 共 沾 巾
王 勃
Đỗ Thiếu Phủ Chi Nhiệm Thục Xuyên
Thành khuyết phụ Tam Tần
Phong yên vọng Ngũ Tân
Dữ quân ly biệt ý
Đồng thị hoạn du nhân
Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tị lân
Vô vi tại kỳ lộ
Nhi nữ cộng chiêm cân
Vương Bột
(quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức)
(lệnh vua sai ta ra phụ giúp vùng Tam Tần)
(ta thấy sương khói từ vùng Ngũ Tân [ông sẽ tới])
(cùng ông ta có ý [muốn chào] ly biệt)
(vì cùng là quan chức đi nhậm nơi xa)
(trong đời đã là tri kỷ của nhau)
(thì dù có xa nhau cũng như sống bên nhau)
(tới ngã rẽ rồi, ta đừng làm như...)
(thói nhi nữ khóc ướt khăn)
Ghi chú: Thục Xuyên là tỉnh Tứ Xuyên , Tam Tần là tỉnh Thiễm Tây ngày nay
Ngũ Tân là vùng có 5 bến sông trong đất Thục Xuyên
Đỗ Thiếu Phủ Đi Nhậm Chức Tại Thục Xuyên
quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức
Đi Tam Tần
chấp lệnh vua
Ngũ Tân sương gió mịt mờ khói mây
Hai ta cảnh biệt ly này
Cùng đi nhậm chức tận nơi xa vời
Đã là tri kỷ trong đời
Dù xa trời biển như ngồi gần nhau
Nơi chia lối
Chớ thương đau
Lệ rơi khăn ướt, lẽ nào nữ nhi
SongNguyễn HànTú
quan Thiếu phủ họ Đỗ đi Thục Xuyên nhậm chức
Vua lệnh giúp Tam Tần
Đã sương bến Ngũ Tân
Bạn ơi tình biệt ly
Quan cảnh chốn xa gần
Tri kỷ đời tìm mấy
Dù cách nhớ muôn phần
Ngã rẽ, nào chào nhé
Lệ chi thói ướt khăn
Hobac
獨 坐 敬 亭 山 眾 鳥 高 飛 盡 孤 雲 獨 去 閑 相 看 兩 不 厭 只 有 敬 亭 山 李 白 Độc Tọa Kính Đình Sơn Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn Tương khán lưỡng bất yếm Chỉ hữu Kính Đình Sơn Lý Bạch (ngồi 1 mình ở núi Kính Đình) (chim muông đã bay cao đi hết cả rồi) (chỉ còn đám mây lẻ loi bay lờ lững) (hai ta cùng ngắm nhau không chán) (chỉ có núi Kính Đình [vói ta] mà thôi Ghi chú: Kính Đình Sơn là ngọn núi ở huyện Tuyên Thành tỉnh An Huy ngày nay Ngồi một mình trên Kính Đình Sơn Chim muông đã khuất cuối trời Chỉ còn mây trắng lẻ loi lững lờ Kính Đình một đỉnh chơ vơ Chỉ ta và núi thẫn thờ như nhau SongNguyễn HànTú
對 酒 勸 君 莫 拒 杯 春 風 笑 人 來 桃 李 如 舊 識 傾 花 向 我 開 流 鶯 啼 碧 樹 明 月 窺 金 罍 昨 來 朱 顏 子 今 日 白 髮 催 棘 生 石 虎 殿 鹿 走 姑 蘇 臺 自 古 帝 王 宅 城 闕 閉 黃 埃 君 若 不 飲 酒 昔 人 安 在 哉 李 白 Đối tửu Khuyến quân mạc cự bôi Xuân phong tiếu nhân lai Đào lý như cựu thức Khuynh hoa hướng ngã khai Lưu oanh đề bích thụ Minh nguyệt khuy kim lôi Tạc lai châu nhan tử Kim nhật bạch phát thôi Cức sinh Thạch Hổ điện Lộc tẩu Cô Tô đài Tự cổ đế vương trạch Thành khuyết bế hoàng ai Quân nhược bất ẩm tửu Tích nhân an tại ai? Lý Bạch (trước rượu) (xin ông chớ từ chối chén rượu mời này) (khi gió xuân đang chào đón người mới tới) (cây đào và cây mận như người quen biết cũ) (cứ hướng về ta mà nở hoa) (chim oanh vừa chuyền vừa hót trên cây xanh) (trăng sáng chiếu trên chén vàng) (hôm qua mặt mũi còn hồng hào) (cây gai dại mọc đầy ở điện Thạch Hổ) (hươu nai chạy trong đài Cô Tô bỏ hoang) (từ xưa tới nay những chỗ đế vương ở) (thành quách phủ trong lớp bụi vàng) (nếu ông không uống rượu) (thì xin hỏi ông người xưa đang ở đâu?) Ghi chú: Thạch Hổ điện là cung điện của vua Thạch Hổ nhà Hậu Triệu, trước khi bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt. Cô Tô đài là đền đài của vua Phù Sai nước Ngô trước khi bị vua nước Việt là Câu Tiễn thôn tính. Trước Rượu Chén rượu quý thì chẳng nên từ khước Khi gió xuân còn lui tới cợt cười Hãy nhìn kìa những đào mận xinh tươi Như người cũ Nghiêng về ta mà nở Oanh ca hát trên cành xanh rực rỡ Ánh trăng thanh rọi lóng lánh chén vàng Mới ngày nào còn đầy nét hiên ngang Giờ nhìn lại thì tóc râu đã bạc Thạch Hổ điện mà cây gai còn mọc Thành Cô Tô đám hươu chạy lăng xăng Tự ngàn xưa nơi cung điện đế vương Vẫn thường bị lớp bụi vàng đóng bẩn Rượu không uống Xin hỏi lời dớ dẩn Những người xưa giờ đang ở nơi đâu?! SongNguyễn HànTú
對 雪 戰 哭 多 新 鬼 愁 吟 獨 老 翁 亂 雲 低 薄 暮 急 雪 舞 迴 風 瓢 棄 樽 無 綠 爐 存 火 似 紅 數 汌 消 息 斷 愁 坐 正 書 空 杜 甫 Đối Tuyết Chiến khốc đa tân quỷ Sầu ngâm độc lão ông Loạn vân đê bạc mộ Cấp tuyết vũ hoàn phong Biều khí tôn vô lục Lô tồn hỏa tự hồng Sổ châu tiêu tức đoạn Sầu tọa chính thư không Đỗ Phủ (trước tuyết) (nhìều hồn ma tử sĩ mới chết than khóc) (chỉ một mình lão ông đây ngâm thơ buồn) (trời về chiều, mây thấp trôi lộn xộn) (tuyết bay nhanh như nhảy múa trong gió lốc) (quăng bỏ bầu, chén không còn rượu [màu xanh]) (trong lò lửa vẫn còn đỏ) (một vài châu mất tin tức) (ngồi buồn viết thơ vào hư không) Trước Tuyết Hồn ma than khóc nỉ non Gục đầu ông lão tiếng buồn ngân nga Chiều về vần vũ mây sa Lốc cuồng , gió rít mịt mờ tuyết bay Quăng bầu, ly cạn, sầu đầy Lò than nhen nhúm còn dây chút hồng Tin nhiều miền bị địch công Trong không nguệch ngoạc nỗi lòng sầu tư SongNguyễn HànTú
桐 柏 觀 東 南 一 境 清 心 目 有 此 千 峰 插 翠 微 人 在 下 方 衝 月 上 鶴 從 高 處 破 煙 飛 巖 深 水 落 寒 侵 骨 門 靜 花 開 色 照 衣 欲 識 蓬 萊 今 便 是 更 於 何 處 學 忘 機 周 朴 Đồng Bách Quán Đông nam nhất cảnh thanh tâm mục Hữu thử thiên phong sáp thúy vi Nhân tại hạ phương xung nguyệt thướng Hạc tòng cao xứ phá yên phi Nham thâm thủy lạc hàn xâm cốt Môn tĩnh hoa khai sắc chiếu y Dục thức Bồng Lai kim tiện thị Cánh ư là xứ học vong cơ Chu Phác (nơi đạo sĩ cư trú Đồng Bách) (phía đông nam có một cảnh làm ta sáng mắt sáng lòng) (với cả ngàn ngọn núi phủ cây rừng xanh ngắt) (người ở dưới leo lên như muốn tới mặt trăng) (chim hạc ở trên đỉnh cao rẽ sương khói mà bay) (hang sâu nước trút hơi lạnh thấu xưong) (cửa hang yên tĩnh sắc hoa mới nở hắt trên y phục) (ngày nay muốn biết cảnh Bồng Lai ra thế nào) (thì đâu cần đi đâu nữa để tìm hiểu xứ thần tiên) Ghi chú: Đồng Bách là di tích phía đông nam núi Thiên Thai nay thuộc tỉnh Chiết Giang, là nơi xưa các đạo sĩ ẩn cư Quán Đồng Bách Thoả lòng mắt dõi cảnh đông nam Ngàn vạn non xanh biếc ngút ngàn Lối tận đỉnh trời dường hái nguyệt Vút cao cánh hạc đuổi mây tan ---- Thăm thẳm hang sâu lạnh thấu xương Cửa vắng hoa khoe sắc ven đường Ý hẳn Bồng Lai là đây nhỉ Nào cần tìm kiếm tận viễn phương SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
渡 湘 江
遲 日 園 林 悲 昔 遊
今 春 花 鳥 作 邊 愁
獨 憐 故 國 人 南 竄
不 似 湘 江 水 北 流
杜 審 言
Độ Tương Giang
Trì nhật viên lâm bi tích du
Kim xuân hoa điểu tác nhân sầu
Độc lân cố quốc nhân nam thoán
Bất tự Tương Giang thủy bắc lưu
Đỗ Thẫm Ngôn
(qua sông Tương)
(cả ngày trong rừng thưa nhớ thương chuyến đi chơi ngày cũ)
(xuân năm nay cả hoa và chim cũng chẳng làm ta vui nơi biên ải)
(một mình thương xót người quê cũ lánh nạn phương nam)
(không giống như dòng Tương Giang nước chảy về phương bắc)
Ghi chú: Tương Giang là con sông ở tỉnh Hồ Nam, nước chảy vào hồ Động Đình ở phía bắc
Qua sông Tương
Quanh rừng luẩn quẩn nhớ người
Xuân biên cương chẳng làm vui được lòng
Phương Nam người phải long đong
Chảy về phương Bắc chỉ dòng Tương thôi
SongNguyễn HànTú
Qua sông Tương
Qoanh quẩn rừng thưa nhớ dạo xưa
Hoa thắm chim kêu biên ải thừa
Phương nam nạn lánh lòng cô quất
Thẹn với dòng Tương phương bắc đưa
Hobac
Trích đoạn: hannguyen
獨 坐 敬 亭 山
眾 鳥 高 飛 盡
孤 雲 獨 去 閑
相 看 兩 不 厭
只 有 敬 亭 山
李 白
Độc Tọa Kính Đình Sơn
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khán lưỡng bất yếm
Chỉ hữu Kính Đình Sơn
Lý Bạch
(ngồi 1 mình ở núi Kính Đình)
(chim muông đã bay cao đi hết cả rồi)
(chỉ còn đám mây lẻ loi bay lờ lững)
(hai ta cùng ngắm nhau không chán)
(chỉ có núi Kính Đình [vói ta] mà thôi
Ghi chú: Kính Đình Sơn là ngọn núi ở huyện
Tuyên Thành tỉnh An Huy ngày nay
Ngồi một mình trên Kính Đình Sơn
Chim muông đã khuất cuối trời
Chỉ còn mây trắng lẻ loi lững lờ
Kính Đình một đỉnh chơ vơ
Chỉ ta và núi thẫn thờ như nhau
SongNguyễn HànTú
Ngồi một mình trên Kính Đình Sơn
Muôn chim bóng vút đã mờ rồi
Tầng không mây lẻ lững lờ trôi
Và hai ta nữa sầu âu yếm
Cô khách, Kính Đình chỉ vậy thôi
Hobac
Trích đoạn: hannguyen
對 酒
勸 君 莫 拒 杯
春 風 笑 人 來
桃 李 如 舊 識
傾 花 向 我 開
流 鶯 啼 碧 樹
明 月 窺 金 罍
昨 來 朱 顏 子
今 日 白 髮 催
棘 生 石 虎 殿
鹿 走 姑 蘇 臺
自 古 帝 王 宅
城 闕 閉 黃 埃
君 若 不 飲 酒
昔 人 安 在 哉
李 白
Đối tửu
Khuyến quân mạc cự bôi
Xuân phong tiếu nhân lai
Đào lý như cựu thức
Khuynh hoa hướng ngã khai
Lưu oanh đề bích thụ
Minh nguyệt khuy kim lôi
Tạc lai châu nhan tử
Kim nhật bạch phát thôi
Cức sinh Thạch Hổ điện
Lộc tẩu Cô Tô đài
Tự cổ đế vương trạch
Thành khuyết bế hoàng ai
Quân nhược bất ẩm tửu
Tích nhân an tại ai?
Lý Bạch
(trước rượu)
(xin ông chớ từ chối chén rượu mời này)
(khi gió xuân đang chào đón người mới tới)
(cây đào và cây mận như người quen biết cũ)
(cứ hướng về ta mà nở hoa)
(chim oanh vừa chuyền vừa hót trên cây xanh)
(trăng sáng chiếu trên chén vàng)
(hôm qua mặt mũi còn hồng hào)
(cây gai dại mọc đầy ở điện Thạch Hổ)
(hươu nai chạy trong đài Cô Tô bỏ hoang)
(từ xưa tới nay những chỗ đế vương ở)
(thành quách phủ trong lớp bụi vàng)
(nếu ông không uống rượu)
(thì xin hỏi ông người xưa đang ở đâu?)
Ghi chú: Thạch Hổ điện là cung điện của vua Thạch Hổ nhà Hậu Triệu,
trước khi bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt.
Cô Tô đài là đền đài của vua Phù Sai nước Ngô trước khi bị
vua nước Việt là Câu Tiễn thôn tính.
Trước Rượu
Chén rượu quý thì chẳng nên từ khước
Khi gió xuân còn lui tới cợt cười
Hãy nhìn kìa những đào mận xinh tươi
Như người cũ
Nghiêng về ta mà nở
Oanh ca hát trên cành xanh rực rỡ
Ánh trăng thanh rọi lóng lánh chén vàng
Mới ngày nào còn đầy nét hiên ngang
Giờ nhìn lại thì tóc râu đã bạc
Thạch Hổ điện mà cây gai còn mọc
Thành Cô Tô đám hươu chạy lăng xăng
Tự ngàn xưa nơi cung điện đế vương
Vẫn thường bị lớp bụi vàng đóng bẩn
Rượu không uống
Xin hỏi lời dớ dẩn
Những người xưa giờ đang ở nơi đâu?!
SongNguyễn HànTú
Trước Rượu
Bạn ơi chén chớ từ
Gió xuân mừng bạn tới
Mận đào thay áo mới
Vạn cánh đang nhìn ta
Oanh ríu rít cành xanh
Trăng lung linh chén vàng
Xưa trai trí dọc ngang
Nay sương pha tuyết mạng
Thạch Hổ điện hoang gai
Hươu dại Cô Tô đài
Cổ kim nơi đế ngụ
Thành quách bụi vàng phai
Rượu không uống hỏi ai
Đâu nơi người cũ ở?
Hobac
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.09.2007 05:03:50 bởi hobac >
Trích đoạn: hannguyen
對 雪
戰 哭 多 新 鬼
愁 吟 獨 老 翁
亂 雲 低 薄 暮
急 雪 舞 迴 風
瓢 棄 樽 無 綠
爐 存 火 似 紅
數 汌 消 息 斷
愁 坐 正 書 空
杜 甫
Đối Tuyết
Chiến khốc đa tân quỷ
Sầu ngâm độc lão ông
Loạn vân đê bạc mộ
Cấp tuyết vũ hoàn phong
Biều khí tôn vô lục
Lô tồn hỏa tự hồng
Sổ châu tiêu tức đoạn
Sầu tọa chính thư không
Đỗ Phủ
(trước tuyết)
(nhìều hồn ma tử sĩ mới chết than khóc)
(chỉ một mình lão ông đây ngâm thơ buồn)
(trời về chiều, mây thấp trôi lộn xộn)
(tuyết bay nhanh như nhảy múa trong gió lốc)
(quăng bỏ bầu, chén không còn rượu [màu xanh])
(trong lò lửa vẫn còn đỏ)
(một vài châu mất tin tức)
(ngồi buồn viết thơ vào hư không)
Trước Tuyết
Hồn ma than khóc nỉ non
Gục đầu ông lão tiếng buồn ngân nga
Chiều về vần vũ mây sa
Lốc cuồng , gió rít mịt mờ tuyết bay
Quăng bầu, ly cạn, sầu đầy
Lò than nhen nhúm còn dây chút hồng
Tin nhiều miền bị địch công
Trong không nguệch ngoạc nỗi lòng sầu tư
SongNguyễn HànTú
Trước Tuyết
Hồn tử sĩ khóc than
Lão đây hát thơ buồn
Trời chiều mây ngồn ngộn
Gió lốc tuyết loạn cuồng
Rượu cạn bầu, chén quẳng
Lò khơi lửa hồng hồng
Vắng tin vài châu phủ
Dạ viết thơ giữa không
Hobac
冬 景 天 時 人 事 日 相 崔 冬 至 陽 生 春 又 來 刺 繡 五 紋 添 弱 線 吹 葭 六 管 動 飛 灰 岸 容 待 臘 相 舒 柳 山 意 衝 寒 欲 放 梅 雲 物 不 殊 鄉 國 異 教 兒 且 覆 掌 中 杯 杜 甫 Đông Cảnh Thiên thời nhân sự nhật tương thôi Đông chí dương sinh xuân hựu lai Thích tú ngũ vân thiêm nhược tuyến Xuy hà lục quản động phi hôi Ngạn dung đãi lạp tương thư liễu Sơn ý xung hàn dục phóng mai Vân vật bất thù hương quốc dị Giáo nhi thả phúc chưởng trung bôi Đỗ Phủ (cảnh mùa đông) (vận trời và con người hàng ngày tác dụng vào nhau) (mùa đông đến khi có nắng ấm là xuân trở lại) ([trời như] gấm thêu chỉ ngũ sắc thêm những sợi nhỏ) ([gió như] thổi 6 điệu sáo làm tung bay bụi tro cỏ hà) (liễu trên bờ đợi tháng chạp ra trồi non) (núi như đang tuôn khói lạnh cho mai nở) (mây và cảnh vật như nhau nhưng quê cũ khác nhau) (con trẻ đâu hãy rót rượu vào chén [cho ta]) Cảnh Mùa Đông Việc người quyện sát vận trời Hết mùa Đông lạnh tiết thời vào Xuân Năm mầu mây đẹp vô ngần Gió reo sáu khúc tung vân tro hà Bên ven trồi liễu đợi chờ Núi tuôn khí lạnh nhắc giờ đón mai Cảnh cũng vậy, khác quê thôi Con đâu lấy rượu châm bồi cho ta SongNguyễn HànTú
冬 夜 聞 蟲 蟲 聲 冬 思 苦 於 秋 不 解 愁 人 聞 亦 愁 我 是 老 人 聽 不 畏 少 年 莫 聽 白 君 頭 白 居 易 Đông Dạ Văn Trùng Tùng thanh đông tứ khổ ư thu Bất giải sầu nhân văn diệc sầu Ngã thị lão nhân thính bất úy Thiếu niên mặc thính bạc quân đầu Bạch Cư Dị (đêm đông nghe côn trùng kêu) (tiếng côn trùng mùa đông nghe não lòng hơn mùa thu) (người không dễ buồn, nghe cũng phải buồn) (ta già rồi nên không ngán nghe) (tuổi trẻ không nên nghe, vì nghe sẽ bạc đầu) Tiếng Côn Trùng Mùa Đông Tiếng côn trùng giữa đêm đông rả rích Rã rời hơn lá xào xạc mùa thu Dạ chẳng buồn nghe cũng phải thẫn thờ Già còn đỡ, Trẻ... Đừng nghe... Đầu bạc ! SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.09.2007 00:06:38 bởi hannguyen >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: