Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
江 梅 梅 蕊 臘 前 破 梅 花 年 後 多 絕 知 春 意 好 最 奈 客 愁 何 雪 樹 元 同 色 江 風 亦 自 波 故 園 不 可 見 巫 岫 鬱 嵯 峨 杜 甫 Giang Mai Mai nhụy lạp tiền phá Mai hoa niên hậu đa Tuyệt tri xuân ý hảo Tối nại khách sầu hà Tuyết thụ nguyên đồng sắc Giang phong diệc tự ba Cố viên bất khả kiến Vu tụ uất tha nga Đỗ Phủ (cây mai ở ven sông) (cây mai hé nhụy trước tháng chạp) (ra giêng thì nở nhiều hoa) (ý xuân đã rõ ràng là tốt) (nhưng khách vẫn buồn thì làm sao?) (tuyết và cây vốn cùng một màu) (gió làm sông nổi sóng) (vườn nhà cũ không thể thấy được) (vì núi Vu cao chót vót và cây cối um tùm) Mai Ven Sông Mai chúm chím vào ngày tháng chạp Vừa xuân sang tiết hạp nở đầy Ý tình xuân đẹp đã hay Nhưng làm sao biết ai đây nhuốm sầu Cây với tuyết một mầu trắng xóa Gió lên, sông sóng cả mịt mùng Vườn quê xa cách muôn trùng Rườm rà cây núi Vu trông mịt mờ SongNguyễn HànTú
江 南 逢 李 龜 年 岐 王 宅 裏 尋 常 見 崔 九 堂 前 幾 度 聞 正 是 江 南 好 風 景 落 花 時 節 又 逢 君 杜 甫 Giang Nam Phùng Lý Quy Niên Kỳ Vương trạch lý tầm thường kiến Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn Chính tại Giang Nam hảo phong cảnh Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân Đỗ Phủ (gặp Lý Quy Niên tại Giang Nam) (thường tìm gặp ông ở dinh Kỳ Vương) (vài dịp được nghe ông hát trước nhà Thôi Cửu) (nay ở xứ Giang Nam phong cảnh đẹp này) (lại được gặp ông trong tiết trời hoa rụng) Gặp Lý Quy Niên Tại Giang Nam Vẫn thường gặp tại dinh Kỳ Trước nhà Thôi Cửu đã nghe giọng vàng Giờ trong cảnh đẹp Giang Nam Lại nghe người hát giữa ngàn hoa rơi SongNguyễn HànTú
江 南 春 十 里 鶯 啼 綠 映 紅 水 村 山 郭 酒 旗 風 南 朝 西 百 八 十 寺 多 少 樓 臺 煙 雨 中 杜 牧 Giang Nam Xuân Thập lý oanh đề lục ánh hồng Thủy thôn sơn quách tửu kỳ phong Nam Triều tứ bách bát thập tự Đa thiểu lâu đài yên vũ trung Đỗ Mục (Giang Nam trong mùa xuân) (mười dặm đường chim oanh hót, lá xanh chen hoa đỏ) (xóm bên sông, quách trên núi, gió thổi cờ quán rượu) (thời Nam Triều có 480 chùa) (nhiều ít lâu đài trong khói mưa ) * Mùa Xuân Giang Nam Xanh pha hồng, mười dặm đường oanh hót Xóm chân thành, quán rượu bóng cờ bay Thủa Nam Triều chùa khắp chốn nước này Giờ thành quách lầu đài mưa khói phủ SongNguyễn HànTú Dặm dài chim hót, lá đỏ xanh Phất phới cờ bay quán chân thành Một thuở Nam Triều chùa khắp nẻo Lầu đài lác đác khói vây quanh * NguyễnTâmHàn
江 南 春 暮 寄 家 洛 陽 城 見 梅 迎 雪 魚 口 橋 逢 雪 送 梅 劍 水 寺 前 芳 草 合 鏡 湖 亭 上 野 花 開 江 鴻 斷 續 翻 雲 去 海 燕 差 池 拂 水 迴 料 得 心 知 寒 食 近 潛 聽 喜 鵲 望 歸 來 李 紳 Giang Nam Xuân Mộ Ký Gia Lạc Dương thành kiến mai nghênh tuyết Ngư Khẩu kiều phùng tuyết tống mai Kiếm Thủy tự tiền phương thảo hợp Kính Hồ đình thượng dã hoa khai Giang hống đoạn tục phiên vân khứ Hải yến si trì phất thủy hồi Liệu đắc tâm tri Hàn Thực cận Trầm thinh hỉ thước vọng quy lai Lý Thân (chiều xuân ở Giang Nam viết gửi về nhà) (ở Lạc Dương thấy hoa mai chào đón tuyết) (nhưng ở cầu Ngư Khẩu này thì tuyết tiễn hoa mai) (cỏ thơm mọc nhiều trước chùa Kiếm Thủy) (hoa đồng nội nở rộ trong đình Kính Hồ) (chim hồng trên sông lác đác rẽ mây bay đi) (chim nhạn biển bay chạm nước trở về) (lòng đã biết tiết Hàn Thực sắp tới) (thầm nghe chim thước báo tin vui người xa về) * Chiều Xuân Tại Giang Nam Gởi Về Nhà Lạc Dương mai đón tuyết sang Cầu Ngư tuyết tiễn mai vàng về xuôi Cỏ chùa Kiếm Thủy xanh tươi Kính Hồ rực rỡ khắp nơi hoa đồng Rẽ mây lác đác chim hồng Én chao tung nước trên sông trở về Tiết Hàn Thực đã cận kề Thầm nghe chim báo người đi tương phùng SongNguyễn HànTú
江 村 清 江 一 曲 抱 村 流 長 夏 江 村 事 事 幽 自 去 自 來 堂 上 燕 相 親 相 近 水 中 鷗 老 妻 畫 紙 為 棋 局 稚 子 敲 針 作 釣 鉤 多 病 所 須 唯 藥 物 微 軀 此 外 更 何 求 杜 甫 Giang Thôn Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu Trường hạ giang thôn sự sự u Tự khứ tự lai đường thượng yến Tương thân tương cận thủy trung âu Lão thê họa chỉ vi kỳ cục Trĩ tử khao châm tác điếu câu Đa bệnh sở tu duy dược vật Vi khu thử ngoại cánh hà cầu Đỗ Phủ (xóm bên sông) (một đoạn sông nước trong chảy quanh xóm) (mùa hè dài, mọi sự trong xóm đều lặng lẽ) (chim én vẫn bay tới bay lui trên nóc nhà) (chim âu trên sông vẫn gần gũi với người) (vợ già vẽ bàn cờ trên giấy) (con trẻ uốn kim làm lưỡi câu cá) (bệnh nhiều cần có thuốc) (ngoài thuốc ra, thân còm này chẳng cần gì khác) Xóm Bên Sông Dòng sông uốn khúc lượn quanh Ngày dài thôn xóm vắng tanh mùa Hè Mái nhà én đã tụ về Quen người âu vẫn cận kề bến sông Bàn cờ vợ đã vẽ xong Dùng kim con uốn thành vòng lưỡi câu Chỉ mong chút thuốc trợ đau Ốm o, già bệnh nào cầu thêm chi SongNguyễn HànTú
江 村 即 事 罷 釣 歸 來 不 繫 船 江 村 日 落 正 堪 眠 縱 然 一 夜 風 吹 去 只 在 蘆 花 淺 水 邊 司 空 曙 Giang Thôn Tức Sự Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền Giang thôn nhật lạc chính kham miên Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ Chỉ tại lô hoa thiển thủy biên Tư Không Thự (việc xóm ven sông) (câu xong trở về không buộc thuyền) (xóm làng đã tối mà buồn ngủ quá) (rủi ban đêm gió có thổi đi) (thì cũng tấp vào bờ lau cạn) Truyện Xóm Bên Sông Câu xong trở lại thuyền không buộc Nhướng mắt chẳng lên, xóm tối rồi Dù đêm mưa gió thuyền trôi dạt Cũng tấp bờ lau bãi cạn thôi SongNguyễn HànTú **************************** Câu về chẳng kịp buộc thuyền Mắt đờ sụp xuống xóm đêm tối rồi Dù cho gió thổi thuyền trôi Tấp vào bãi cạn quanh thôi ngại gì * NguyễnTâmHàn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.12.2007 01:41:03 bởi hannguyen >
江 上 吟 木 蘭 之 枻 沙 棠 舟 玉 簫 金 管 坐 兩 頭 美 酒 尊 中 置 千 斛 載 妓 隨 波 任 去 流 仙 人 有 待 乘 黃 鶴 海 客 無 心 隨 白 鷗 屈 平 詞 賦 懸 日 月 楚 王 臺 榭 空 山 邱 興 酣 落 筆 搖 五 岳 詩 成 笑 傲 凌 滄 洲 功 名 富 貴 若 長 在 漢 水 亦 應 西 北 流 李白 Giang Thượng Ngâm Mộc lan chi duệ sa đường châu Ngọc tiêu kim quản tọa lưỡng đầu Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc Tái kỹ tùy ba nhiệm khứ lưu Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc Hải khách vô tâm tùy bạch âu Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt Sở Vương đài tạ không sơn khâu Hứng hàm lạc bút dao Ngũ Nhạc Thi thành tiếu ngạo lãng Thương Châu Công danh phú quý nhược trường tại Hán Thủy diệc ưng tây bắc lưu Lý Bạch (khúc ngâm trên sông) (lái làm bằng gỗ mộc lan, thuyền bằng gỗ sa đường) hai đầu thuyền có ống tiêu ngọc và ống sáo vàng) (trong chén chứa ngàn hộc rượu ngon) (chở ca kỹ theo sóng muốn đi đâu thì đi) (người tiên chờ cưỡi chim hạc vàng ) (người ở biển thờ ơ nhìn chim âu) (văn và phú của Khuất Bình treo mãi với trời trăng) (đền đài của Sở Vương nay là núi trống không) (khi say có hứng múa bút rung chuyển cả Ngũ Nhạc) (thơ viết xong cười ngạo nghễ với Thương Châu) (nếu công danh phú quý mà được dài lâu) (thì sông Hán Thủy chắc phải chảy hưóng tây bắc) Khúc Ngâm Trên Sông Mộc lan tay lái Thuyền gỗ sa đường Hai đầu sáo ngọc tiêu vàng Rượu ngon ngàn hộc nào màng gì hơn Bềnh bồng mặt nước Thuyền mặc sóng vờn Mỹ nhân tha thướt trong khoang Lửng lơ một cõi hạc vàng tung bay Người khách biển theo loài chim trắng Lời Khuất Bình còn vẳng đâu đây Ai hay lầu Sở giờ này Một gò quạnh quẽ tháng ngày nắng mưa Đượm nồng men rượu Dào dạt lời thơ Cười vang át sông hồ Oang oang tiếng hát...ngẩn ngơ núi rừng Nếu công danh mãi chẳng ngừng Dòng sông Hán Thủy vượt dòng bắc tây SongNguyễn HànTú
江 上 值 水 如 海 勢 聊 短 述 為 人 性 僻 耽 佳 句 語 不 驚 人 死 不 休 老 去 詩 篇 渾 漫 與 春 來 花 鳥 莫 深 愁 新 添 水 檻 供 垂 釣 故 著 浮 槎 替 入 舟 焉 得 思 如 陶 謝 手 令 渠 述 作 與 同 遊 杜 甫 Giang Thượng Trị Thuỷ Như Hải Thế Liêu Đoản Thuật Vi nhân tính tích đam giai cú Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu Lão khứ thi thiên hồn mạn dữ Xiuân lai hoa điểu mạc thâm sầu Tân thiêm thủy hạm cung thùy điếu Cổ trước phù tra thế nhập châu Yên đắc tứ như Đào Tạ thủ Lệnh cừ thuật tác dữ đồng du Đỗ Phủ (kể sơ qua lúc mặt sông nước lên như mặt biển) (ta là người tính tình kỳ quái thích câu thơ hay) (nếu lời thơ chưa kinh động thì chết chưa chịu) (đến tuồi già các bài thơ mang tâm hồn phóng túng) (xuân tới hoa và chim không còn làm buồn nhiều) (hiên bên sông vừa cất thêm để ngồi câu cá) (do đó đã dùng bè nổi thay cho thuyền) (ước chi có được ý thơ như họ Đào, họ Tạ) (và cùng họ trò chuyện, làm thơ, du ngoạn lắm thay!) Ghi chú: Đào Tạ tức Đào Uyên Minh đời Tấn (thế kỷ III) và Tạ Linh Vận đời Lục Triều (thế kỷ V) đều là các nhà thơ phái tự nhiên. Đỗ Phũ thế kỷ VIII. Sơ Lược Cảnh Sông Lúc Nước Dâng Cao Tính cổ quái yêu câu thơ thoát tục Thơ chưa hay đến chết vẫn chưa yên Tuổi xế chiều lời thơ thoát tự nhiên Mùa xuân đến hoa, chim thôi kích động Mới đóng được mái hiên sau khá rộng Ngồi buông câu hay bè thả thay thuyền Mơ áng thơ giống Đào, Tạ tự nhiên Kết vần đẹp, cùng ngao du sơn thủy SongNguyễn HànTú
江 雪 千 山 鳥 飛 絕 萬 徑 人 蹤 滅 孤 舟 簑 笠 翁 獨 釣 寒 江 雪 柳 宗 元 Giang Tuyết Thiên sơn điểu phi tuyệt Vạn kính nhân tung diệt Cô chu thoa lạp ông Độc điếu hàn giang tuyết Liễu Tông Nguyên (tuyết trên sông) (trên ngàn núi chim đã bay đi hết) (trên vạn lối đi dấu chân đã bị che hết) (một ông lão mặc áo tới, đội nón lá ngồi trên thuyền lẻ loi) (một mình ngồi câu trên con sông tuyết lạnh) Tuyết Trên Sông Chim ngàn rời núi bay đi Trên đường khắp nẻo chẳng ghi dấu người Trên sông thuyền chiếc lẻ loi Tuyết rơi, áo lá, lão ngồi thả câu SongNguyễn HànTú
江 南 曲 嫁 得 瞿 唐 賈 朝 朝 誤 妾 期 早 知 潮 有 信 嫁 與 弄 潮 兒 李 益 Giang Nam Khúc Giá đắc Cù Đường cổ Triêu triêu ngộ thiếp kỳ Tảo tri triều hữu tín Giá dữ lộng triều nhi Lý Ich (ca khúc Giang Nam) (làm vợ anh chàng lái buôn ở Cù Đường) (sáng nào cũng lỡ hẹn với thiếp) (nếu sớm biết thủy triều đúng giờ giấc) (thiếp thà lấy chàng nào thích dỡn thủy triều) Khúc Giang Nam Đem thân gả gã lái buôn Chả thương tiếc ngọc lại luôn hẹn liều Sớm hay biết xuống lên đều Chẳng thà lấy béng Thủy triều còn hơn SongNguyễn HànTú
下 終 南 山 過 紏 斯 山 人 宿 置 酒 暮 從 碧 山 下 山 月 隨 人 歸 卻 顧 所 來 徑 蒼 蒼 橫 翠 微 相 攜 及 田 家 童 稚 開 荊 扉 綠 竹 入 幽 徑 青 蘿 拂 行 衣 歡 言 得 所 憩 美 酒 聊 共 揮 長 歌 吟 松 風 曲 盡 河 星 稀 我 醉 君 復 樂 陶 然 共 忘 機 李 白 Hạ Chung Nam Sơn Quá Hộc Tư Sơn Nhân Túc Trí Tửu Mộ tòng bích sơn hạ Sơn nguyệt tùy nhân quy Khước cố sở lai kính Thương thương hoành thúy vi Tương huề cập điền gia Đồng trĩ khai kinh phi Lục trúc nhập u kính Thanh la phất hành y Hoan ngôn đắc sở khế Mỹ tửu liêu cộng huy Trường ca ngâm “Tùng Phong” Khúc tận hà tinh hi Ngã túy quân phục lạc Đào nhiên cộng vong cơ Lý Bạch (xuống sườn núi Chung Nam, ghé nhà người dân bản địa là Hộc Tư uống rượu) (buổi chiều ta đi xuống sườn núi xanh) (bóng trăng miền núi như theo người cùng về) (trông lại con đường đã đi) (chỉ thấy đường nằm ngang xanh xanh nhỏ xíu) (nắm tay mừng chủ nhà làm ruộng) (đám trẻ nhỏ mở cổng làm bằng cây gai) (ta đi vào một con đường có bóng tre xanh mát rượi) (những đọt cây leo đong đưa chạm cả vào áo khách) (vui mừng nói đã có chỗ nghĩ ngơi) (cùng nhau nâng chén rượu ngon) (ca ngâm bài “Tùng Phong” dài) (hết bài thì sao trên ngân hà chỉ còn lác đác) (ta đã say, ông cũng vui) (vui quá ai cũng quên hết mọi toan tính) Lý Bạch Ghé Bạn Uống Rượu Trời chạng vạng bước lần theo đường núi Ánh trăng lan giõi theo bước người đi Quay lại nhìn ... ơ hay nhỉ chút gì Như sương phủ mờ dần vùng núi biếc Theo chân bạn tạm quên đời đơn chiếc Đến trước nhà nghe bọn trẻ chào thưa Qua cổng gai lối tre tối lờ mờ Lá mơn trớn ghé vai người ngả ngớn Tạ tri kỷ vui đêm nay cho trọn Nào nâng ly cùng thưởng thức men nồng Hứng men cay ngâm ca khúc “Tùng Phong” Bài ca dứt sao sông Ngân thưa thớt Tuyệt diệu nhỉ thấm hơi men ngây ngất Ta vui say cùng quên cả việc đời SongNguyễn HànTú
下 江 陵 朝 辭 白 帝 彩 雲 間 千 里 江 陵 一 日 還 兩 岸 猿 聲 啼 不 住 輕 舟 已 過 萬 重 山 李 白 Hạ Giang Lăng Triêu từ Bạch Đế thái vân gian Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn Lý Bạch (xuôi Giang Lăng) (buổi sáng rời thành bạch Đế lúc có mây rực rỡ) (Giang Lăng xa ngàn dặm di một ngày tới) (hai bên bờ vượn hú không lúc nào nguôi) (chìếc thuyền nhẹ đã vượt cả vạn núi) Ghi chú : Giang Lăng, tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc Bạch Đế thành, di tích thời Tam Quốc, Lưu Bị đem đại quân phạt Ngô, bị thất trận chạy về chết ở đây; nay thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên. Hồ Bắc và Tứ Xuyên giáp ranh nhau, có sông Trường Giang chảy qua cả hai. Trở Lại Giang Lăng Bạch thành một sớm mây giăng Ngàn xa về tới Giang Lăng một ngày Bên bờ vượn hú không ngơi Con thuyền nhẹ lướt núi đồi vượt nhanh SongNguyễn HànTú
何 滿 子 故 國 三 千 里 深 宮 二 十 年 一 聲 何 滿 子 雙 淚 落 君 前 張 祐 Hà Mãn Tử Cố quốc tam thiên lý Thâm cung nhị thập niên Nhất thanh “Hà Mãn Tử” Song lệ lạc quân tiền Trương Hựu (khúc hát “Hà Mãn Tử”) (quê cũ cách xa ba ngàn dặm) (ở trong cung cấm đã hai chục năm) (nghe thấy một câu trong bài “Hà Mãn Tử”) (hai hàng lệ đã rơi trước mặt ông) Ghi chú : “Hà Mãn Tử” là tên một khúc hát nổi tiếng trong thời Đường Minh Hoàng. Do một ca kỹ bị tội tử hình làm ra đễ xin tha mạng, nhưng không thành công. Hà Mãn Tử Quê hương cách ngàn trùng Hai mươi năm thâm cung Vẳng lời “Hà Mãn Tử” Trước người lệ tuôn dòng SongNguyễn HànTú
Trích đoạn: hannguyen
下 江 陵
朝 辭 白 帝 彩 雲 間
千 里 江 陵 一 日 還
兩 岸 猿 聲 啼 不 住
輕 舟 已 過 萬 重 山
李 白
Hạ Giang Lăng
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn
Lý Bạch
(xuôi Giang Lăng)
(buổi sáng rời thành bạch Đế lúc có mây rực rỡ)
(Giang Lăng xa ngàn dặm di một ngày tới)
(hai bên bờ vượn hú không lúc nào nguôi)
(chìếc thuyền nhẹ đã vượt cả vạn núi)
Ghi chú : Giang Lăng, tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc
Bạch Đế thành, di tích thời Tam Quốc, Lưu Bị đem đại quân phạt Ngô,
bị thất trận chạy về chết ở đây; nay thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên.
Hồ Bắc và Tứ Xuyên giáp ranh nhau, có sông Trường Giang chảy qua cả hai.
Trở Lại Giang Lăng
Bạch thành một sớm mây giăng
Ngàn xa về tới Giang Lăng một ngày
Bên bờ vượn hú không ngơi
Con thuyền nhẹ lướt núi đồi vượt nhanh
SongNguyễn HànTú
Lâu quá rồi đệ mới ghé lại chơi cùng huynh!
Chúc huynh sức khoẻ, vạn sự như ý nhe huynh!
Trở Lại Giang Lăng
Sớm Bạch Đế cùng mây rực rỡ
Giang Lăng xa ngàn dặm đơn côi
Bên ghềnh thác vượn hú nào nguôi
Con thuyền lướt núi đồi sau tít
Hobac
Trích đoạn: hannguyen
何 滿 子
故 國 三 千 里
深 宮 二 十 年
一 聲 何 滿 子
雙 淚 落 君 前
張 祐
Hà Mãn Tử
Cố quốc tam thiên lý
Thâm cung nhị thập niên
Nhất thanh “Hà Mãn Tử”
Song lệ lạc quân tiền
Trương Hựu
(khúc hát “Hà Mãn Tử”)
(quê cũ cách xa ba ngàn dặm)
(ở trong cung cấm đã hai chục năm)
(nghe thấy một câu trong bài “Hà Mãn Tử”)
(hai hàng lệ đã rơi trước mặt ông)
Ghi chú : “Hà Mãn Tử” là tên một khúc hát nổi tiếng trong thời Đường Minh Hoàng.
Do một ca kỹ bị tội tử hình làm ra đễ xin tha mạng, nhưng không thành công.
Hà Mãn Tử
Quê hương cách ngàn trùng
Hai mươi năm thâm cung
Vẳng lời “Hà Mãn Tử”
Trước người lệ tuôn dòng
SongNguyễn HànTú
Khúc Hà Mãn Tử
Ba ngàn dặm ấy má hồng
Hai mươi năm lẻ thâm cung khóc thầm
Hàn Mãn Tử vọng thanh âm
Lệ tuôn suối mắt buốt câm hỡi chàng
Hobac
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: