 
    
  
    
    
    
        
        
     Phỏng Dịch Đường Thi  - SongNguyễn HànTú
        
        
    
    
    
	
        
    
        
        
            
            
              曉  發  公  安  數  月  憩  息  此  縣       北  城  擊  柝  復  欲  罷   東  方  明  星  亦  不  遲   鄰  雞  野  哭  如  昨  日   物  色  生  態  能  幾  時   舟  楫  眇  然  去  自  此   江  湖  遠  適  無  前  期   出  門  轉  盻  已  陳  蹟   藥  餌  扶  吾  隨  所  之       杜  甫       Hiểu Phát Công An Sổ Nguyệt Khế Tức Thử Huyện                 Bắc thành kích thác phục dục bãi        Đông phương minh tinh diệc bất trì     Lân kê dã khốc như tạc nhật                 Vật sắc sinh thái năng kỷ thời               Chu tiếp diễu nhiên khứ tự thử              Giang hồ viễn thích vô tiền kỳ              Xuất môn chuyển phán dĩ trần tích        Dược nhĩ phù ngô tùy sở chi                      Đỗ Phủ       (sáng sớm rời huyện Công An sau mấy tháng nghỉ tại huyện này)       (nghe tiếng mõ ở cửa bắc toan bỏ ý định [ra đi])   (nhưng thấy sao sáng ở phương đông thì chưa muộn)   (tiếng gà eo óc nơi thôn xóm như hôm qua)   (vẻ sống của mọi vật [ta còn thấy] được bao lâu ?)   (mái chèo đẩy thuyền đi xa từ lúc này)   (những chuyến đi xa trên sông hồ không có hẹn trước)   (ra khỏi cửa nhìn lại tất cả đã thành dấu vết cũ)   (thuốc men giúp ta tùy tiện cho việc đi xa)       Rời Huyện Công An       Tính ngừng đi, Bắc mõ khua   Phương Đông sao sáng chắc chưa muộn màng   Gà quanh thôn vẫn gáy vang   Còn nhìn muôn vật nhịp nhàng được bao   Nương chèo khua nước tiêu dao   Bước phiêu du có khi nào hẹn đâu   Cảnh xa dần nhạt phía sau   Lênh đênh nhờ thuốc đỡ đau được nhiều       SongNguyễn HànTú                                    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              曉  望       白  帝  更  聲  盡   陽  臺  曙  色  分   高  峰  上  寒  日   疊  嶺  宿  霾  雲   地  近  江  帆  遠   天  清  木  葉  聞   荊  扉  對  麊  鹿   應  共  爾  為  群       杜甫           Hiểu Vọng                                   Bạch Đế canh thanh tận          Dương Đài thự sắc phân          Cao phong thướng hàn nhật     Điệp lãnh túc mai vân              Địa cận giang phàm viễn          Thiên thanh mộc diệp thanh     Kinh phi đối mi lộc                   Ưng cộng nhĩ vi quần                    Đỗ Phủ        (ngắm cảnh buổi sáng sớm)        (tiếng trống báo canh thành Bạch Đế đã ngưng)    (ánh nắng ban mai đã lộ ra trên đài Dưong Đài)    (mặt trời lạnh lẽo đã hiện ra trên ngọn núi cao)    (các đỉnh núi lô nhô trong mây mù)    (bờ đất ở gần, xa xa có cánh buồm trên sông)    (trời trong, có tiếng lá xào xạc)    (trước cổng đan bằng cây kinh có nai và hươu)    (ta muốn thành bầy với tụi bay)       Ngắm Cảnh Buổi Sớm       Cầm canh tiếng trống đã qua rồi   Dương Đài nắng sớm tỏa nơi nơi   Vừng dương lạnh lẽo trên đầu núi   Mờ nhạt hơi sương khắp núi đồi   Đất thấy thật gần, buồm xa tít   Lá khua, trong vắt một bầu trời   Nhìn đám hươu nai nơi đầu ngõ   Muốn cùng nhập bọn nhởn nhơ chơi   SongNguyễn HànTú       *       Cầm canh trống điểm đã ngưng   Dương Đài dần hiện giữa vùng nắng mai   Đỉnh cao vừng Thái nhú rồi   Núi lô nhô giữa khoảng trời mù sương   Xa xa một cánh buồm dương   Lá khua trong gió, khí quang đỉnh trời   Hươu nai chạy nhẩy cổng ngoài   Vu vơ lòng muốn họp bầy nhởn nhơ       NguyễnTâmHàn 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.12.2007 00:56:10 bởi hannguyen >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              湖  口  望  廬  山  瀑  布  水       萬  丈  紅  泉  落   迢  迢  半  紫  氛   奔  流  下  雜  樹   灑  落  出  重  雲   日  照  虹  霓  似   天  清  風  雨  聞   靈  山  多  秀  色   空  水  共  氤 氳       張  九  齡           Hồ Khẩu Vọng Lư Sơn Bộc Bố Thủy         Vạn trượng hồng tuyền lạc                          Thiều thiều bán tử phân                               Bôn lưu há tạp thụ                                      Sái lạc xuất trùng vân                                Nhật chiếu hồng nghê tự                           Thiên thanh phong vũ văn                        Linh sơn đa tú sắc                                    Không thủy cộng nhân uân                         Trương Cửu Linh        (từ Hồ Khẩu ngắm thác nước núi Lư)        (từ trên cao vạn trượng suối nước hổ xuống)    (quãng giữa có làn hơi tía tỏa lan man)    (nước rơi mau xuống rừng đủ loại cây)    (phăng phăng qua nhiều lớp mây)    (ánh nắng chiếu tạo ra cầu vồng)    (trời trong mà nghe như có mưa to và gió mạnh)    (quả núi huyền bí có nhiều màu sắc đẹp)    (nước chảy từ thinh không cộng với khí trời đất)       Ngắm Thác Nước Núi Lư từ Hồ Khấu       Từ muôn trượng nước ầm ầm đổ xuống   Giữa lưng chừng làn hơi tím mịt mù   Nước chảy vào vùng cây cối âm u   Bọt trắng xóa lẫn trong vầng mây thấp   Vạt nắng dọi ánh mống vồng ngũ sắc   Trời trong thanh ngỡ mưa gió vi vu   Cảnh núi non nhìn khách luống thẫn thờ   Khí thanh thoát giữa mênh mông mây nước       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              和  楊  尚  書  罷  相  後,   夏  遊  永  安  水  亭  兼   招  本  曹  楊  侍  郎  同  行       道  行  無  喜  ,退  無  憂   舒  捲  如  雲  得   自  由   良  冶  動  時  為   哲  匠   巨  川  濟  了  作   虛  舟   竹  亭  陰  合  偏   宜  頁   水  檻  風  涼  不   待  秋   遙  愛  翩  翩  雙   紫  鳳   入  同  官  署  出   同  遊       白  居  易           Họa Dương Thượng Thư Bãi Tướng Hậu      Hạ Du Vĩnh An Thủy Đình Kiêm Chiêu         Bản Tào Dương Thị Lang Đồng Hành                 Đạo hành vô hỉ thoái vô ưu                                   Thư quyển như vân đắc tự do                               Lương dã động thì vi triết tượng                           Cự xuyên tế liễu tác hư chu                                   Trúc đình âm hợp thiên nghi hạ                           Thủy hạm phong lương bất đãi thu                       Dao ái phiên phiên song tử phụng                       Nhập đồng quan thự xuất đồng du                            Bạch Cư Dị       (họa thơ của Dương Thượng Thư sau khi   thôi làm quan, mùa hè đi chơi thủy đình Vĩnh An   còn mời quan đồng liêu Thị Lang họ Dương cùng đi)        (khi làm việc không mừng, khi nghỉ việc không lo)   (mở ra cuốn vào như mây theo ý mình)    (khôn khéo, khi làm  là tay thợ giỏi)   (con sông lớn, khi qua rồi là con thuyền không)   (đình trúc rợp mát lúc nào cũng như mùa hè)   (hiên trên nước có gió mát chẳng cần đợi mùa thu)   (có đôi chim phụng tía bay xa bên nhau trìu mến)   (về triều là quan đồng liêu, xuất triều cùng đi chơi)       Họa Thơ Của Quan Thượng Thư  Họ Dương Sau   Khi Nghỉ Việc Đi Chơi Hè Tại Nhà Thủy Tạ Vĩnh An   Có Quan Đồng Liêu Thị Lang Họ Dương Cùng Đi       Theo lẽ đạo, hành hay thôi cũng vậy   Chẳng buồn vui, mở cuốn tựa mây trời   Thợ khéo tay, khéo rèn đúc vậy thôi   Qua sông lớn, thuyền trống không bỏ đó   Đình rợp bóng quanh năm như hè đỏ   Ao ngang hiên đâu cần ngóng thu sang   Nhìn xa xa đôi phượng tía chập chờn   Làm cùng chốn, chơi cùng nơi thư thả       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              和  賈  至  舍  人 早   朝  大  明  宮  之  作           五  夜  漏  聲  催  曉  箭   九  重  春  色  醉  仙  棑   旌  旗  日  煖  龍  蛇  動   宮  殿  風  微  燕  雀  高   朝  罷  香  煙  攜  滿  袖   詩  成  珠  玉  在  揮  毫   欲  知  世  掌  絲  綸  美   池  上  於  今  有  鳳  毛       杜  甫       Họa Giả Chí “Tảo                                Triều Đại Minh Cung” Chi Tác               Ngũ dạ lậu thanh thôi hiểu tiễn           Cửu trùng xuân sắc túy tiên đào         Tinh kỳ nhật noãn long sà động          Cung điện phong vi yến tước cao     Triều bãi hương yên huề mãn tụ          Thi thành châu ngọc tại huy hào          Dục tri thế chưởng ty luân mỹ     Trì thượng ư kim hữu phượng mao         Đỗ Phủ   (họa bài “Chầu Sớm Ở Cung Đại Minh”   của quan Xá nhân Giả Chí)       (năm tiếng trống báo trời đã sáng)   (trên điện chầu vẻ xuân như đang say đào tiên)   (dưới nắng ấm cờ có hình rồng, rắn phấp phới)   (trong cung điện có gió nhẹ, chim yến và chim sẻ trên cao)   (buổi chầu xong  hương thơm tụ đầy tay áo)   (ý thơ thành lập thì cứ vung bút là ra lời châu ngọc)   (muốn biết vẻ đẹp truyền đời của lụa viết lệnh vua}   (thì hãy xem lông chim phượng còn tới nay trên ao)           Họa Bài “Chầu Sớm Nơi Cung Đại Minh”   Của Quan Xá Nhân Giả Chí       Tiếng trống sang canh vừa điểm sáng   Đào tiên ngây ngất vẻ xuân nồng   Rồng rắn trên cờ vờn nắng ấm   Én trong gió nhẹ vút trời không   ...   Qua chầu hương bám thơm tay áo   Bút hạ nét rồng, ý ngọc châu   Uy lực sáng ngời, vằng vặc mãi   Ao còn lông phượng đến ngàn sau       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              和  練  季  才  揚  柳       水  邊  楊  柳  綠  煙  絲   立  馬  煩  君  折  一  枝   惟  有  春  風  最  相  惜   殷  勤  更  向  手  中  吹       楊  巨  源           Họa Luyện Tú Tài “Dương Liễu”           Thủy biên duơng liễu lục yên ti       Lập mã phiền quân chiết nhất chi        Duy hữu xuân phong tối tương tích     Ân cần cánh hướng thủ trung xuy             Dương Cự Nguyên   (họa bài thơ “Dương Liễu” của tú tài họ Luyện)       (dương liễu bên bờ nước ra bông như những sợi khói xanh)   (dừng ngựa mong ai bẻ dùm một cành)   (chỉ có ngọn gió xuân là thương mến nhau nhất)   (nên đã trìu mến thổi tới tận tay)           Họa Bài “Dương Liễu” Của Tú Tài Họ Luyện       Hàng tơ liễu thả buông như khói biếc   Lỏng tay cương đưa tay với...mơ màng   Chỉ gió xuân là quí khách...dịu dàng   Thổi nhè nhẹ đưa vào tay...mơn trớn       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              和  晉  陵  陸  丞  相   早  春  遊  望       獨  有  宦  遊  人   偏  驚  物  候  新   雲  霞  出  海  署   梅  柳  渡  江  春   淑  氣  催  黃  鳥   晴  光  轉  綠  蘋   忽  聞  歌  古  調   歸  思  欲  沾  巾       杜  審  言              Họa Tấn Lăng Lục Thừa Tưóng       “Tảo Xuân Du Vọng”                              Độc hữu hoạn du nhân                          Thiên kinh vật hậu tân                            Vân hà xuất hải thự                                Mai liễu độ giang xuân                           Thục khí thôi hoàng điểu                        Tịnh quang chuyển lục tần                      Hốt văn ca cổ điệu                                  Quy tứ dục triêm cân                                    Đỗ Thẩm Ngôn        (họa bài thơ “Tảo Xuân Du Vọng”    của quan Thừa Tướng họ Lục ở Tấn Lăng)        (chỉ có kẻ làm quan ở nơi xa )    (là sợ cảnh vật và khí hậu đổi mới)    (đám mây ráng hồng sáng hiện ra trên mặt biển)    (hoa mai và liễu thắm xuân ở bên kia bờ sông)    (khí trời ấm dịu khiến chim vàng đua hót)    (ánh nắng khô ráo chiếu trên cỏ tần xanh)    (chợt nghe tiếng ca theo điệu cổ)    (ý muốn trở về nhà khiến lệ tràn dâng)       Họa Bài Thơ “Đi Chơi Xem Cảnh Xuân Sớm”   Của Lục Thừa Tướng Ở Tấn Lăng       Phải nhậm chức chốn xa xôi viễn xứ   Lòng bâng khuâng sợ nhìn cảnh đổi thay   Mới sáng ra ráng trên biển tỏa đầy   Bên sông rợp bóng liễu mai xanh ngắt   Khí trong mát tiếng oanh vàng réo rắt   Loài tần xanh tắm nắng ấm chan hòa   Vẳng bên tai bài hát cổ ngân nga   Muốn về quá, lệ sầu tuôn lã chã       SongNguyễn HànTú                                            
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                  華  清  宮       草  遮  回  磴  絕  鳴  鑾   雲  樹  森  森  碧  殿  寒   明  月  自  來  還  自  去   更  無  人  倚  玉  欄  杆       崔  魯           Hoa Thanh Cung                                Thảo già hồi đắng tuyệt minh loan    Vân thụ sâm sâm bích điện hàn         Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ         Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can                 Thôi Lỗ    (cung Hoa Thanh)        (cỏ đã mọc lan thềm đá, tiếng chuông xe loan đã hết)    (mây và cây cối u ám, điện ngọc lạnh lẽo)    (trăng sáng cứ mọc rồi cứ lặn)    (càng không có ngưòi nào đứng dựa lan can ngọc)           Cung Hoa Thanh       Bài 1   Bậc đá cỏ che chẳng nhạc rung   Cây vương sương phủ điện lạnh lùng   Vẫn vầng trăng cũ lu rồi tỏ   Lầu ngọc thiếu người cảnh vắng không       Bài 2   Lối đá cỏ che vắng âm xưa   Cây quanh cung lạnh phủ sương mờ   Vẫn kia vầng nguyệt  lu rồi tỏ   Lầu ngọc không người quá tiêu sơ       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              畫  鷹       素  練  風  霜  起   蒼  鷹  畫  作  殊   摐  身  思  狡  兔   側  目  似  愁  猢   倏  鏇  光  堪  摘   軒  楹  勢  可  呼   何  當  擊  凡  鳥   毛  血  洒  平  蕪       杜  甫       Họa Ưng                                         Tố luyện phong sương khởi       Thương ưng họa tác thù              Song thân tư giảo thố                 Trắc mục tự sầu hồ                     Điều tuyền quang kham trích     Hiên doanh thế khả hô               Hà đương kích phàm điểu          Mao huyết sái bình vu                    Đỗ Phủ       (chim ưng vẽ)       (trên nền lụa trắng đẹp, hiện ra nền gió sương)   (rồi  hình con chim ưng màu xanh rất khéo)   (nghiêng mình nghĩ về con thỏ tinh ranh)   (xụ mắt xuống như con khỉ buồn)   (sợi dây xích sáng loáng như có thể sờ được)   (đậu trên trụ ngoài hiên ở tư thế có thể gọi nghe)   (khi nào mới tấn công chim tầm thường?)   (khi đó lông và máu sẽ vương vãi trên bãi cỏ bằng)           Bức Vẽ Chim Ưng       Trên lụa trắng hiện ra nền sương gió 
  Hình chim ưng khéo vẽ bộ lông xanh 
  Thế nghiêng nghiêng như dáng thỏ tinh ranh 
  Mắt xụp xuống tựa khỉ già buồn bã 
  Trông tưởng thật sợi xích chân sáng lóa 
  Đậu ngoài hiên, trên trụ, thế chờ kêu   Sao chẳng thêm vài nét vẽ tuyệt chiêu   Cảnh lông máu chim hoang trên bãi cỏ           SongNguyễn HànTú        
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              懷  廬  山  舊  隱       九  疊  芙  蓉  峭  到  天   悔  隨  瀑  水  下  寒  煙   深  秋  猿  鳥  來  心  上   徹  夜  松  杉  在  眼  前   書  架  壞  知  成  朽  菌   石  窗  倒  定  漫  流  泉   一  枝  竹  杖  遊  江  北   不  見  廬  峰  二  十  年       棲  一           Hoài Lư Sơn Cựu Ẩn                              Cửu điệp Phù Dung tiếu đáo thiên      Hối tùy bộc thủy há hàn yên                Thâm thu viên điểu lai tâm thượng     Triệt dạ tùng sam tại nhãn tiền             Thư giá hoại tri thành hủ khuẩn           Thạch song đảo định mạn lưu tuyền     Nhất chi trúc trượng du Giang Bắc       Bất kiến Lư phong nhị thập niên              Thê Nhất        (chín tầng núi Phù Dung cao tới trời)    (hối hận đã theo dòng thác mà xuống chỗ khói lạnh)    (cuối thu vượn và chim đi vào lòng người)    (suốt đêm trước mắt chỉ là tùng và bách)    (giá sách đã hư nay chắc đã thành gỗ mục)    (cửa sổ đá chắc đã đổ vào dòng suối chảy)    (chống gậy trúc ngao du miền Giang Bắc)    (đã không thấy núi Lư hai chục năm rồi)       Nhớ Lư Sơn       Nhìn đỉnh núi Phù Dung cao ngất   Bỗng chạnh lòng nuối tiếc chốn xưa   Nơi thu tàn mỗi độ   Đàn chim, vượn bên lòng   Giờ đêm đối bóng hàng thông   Kệ xưa chắc có còn không?   Mục rồi!   Đá xây cửa chắc rã rời   Tan trong dòng suối về nơi xa ngàn   Trời Giang Bắc   Gậy đỡ thân   Hai mươi năm chẳng một lần ghé Lư       SongNguyễn HànTú                    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              淮  上  喜  會  梁  川  故  人       江  漢  曾  為  客   相  逢  每  醉  還   浮  雲  一  別  後   流  水  十  年  間   歡  笑  情  如  舊   蕭  疏  髮  已  斑   何  因  不  歸  去   淮  上  對  秋  山       韋  應  物           Hoài Thượng Hỉ Hội               Lương Xuyên Cố Nhân               Giang Hán tằng vi khách         Tương phùng mỗi túy hoàn     Phù vân nhất biệt hậu              Lưu thủy thập niên gian          Hoan tiếu tình như cựu            Tiêu sơ phát dĩ ban                  Hà nhân bất quy khứ               Hoài thượng đối thu san                         Vi Ứng Vật        (mừng gặp bạn cũ    trên sông Hoài đất Lương Xuyên)       (từng là khách lưu lạc vùng Giang Hán)    một lần uống say trở về ta gặp nhau)   (lúc chia tay như đám mây bay)   (như dòng nước chảy đã 10 năm)   (cười vui trong tình cảm như xưa)   (tóc lưa thưa đã điểm sương)   (vì sao ta chưa chịu về quê?)   (mà cứ ở mãi trên sông Hoài trước núi thu này)       Trên Sông Hoài Gặp Bạn Cũ       Bước lưu lạc từng gặp nơi Giang Hán   Đã một lần cùng ngất ngửng say sưa   Rồi chia tay như mây chẳng bến bờ   Tưởng mới đấy mà mười năm qua hết   Chẳng đổi khác vẫn vui đùa một nết   Chỉ khác xưa tóc thưa thớt trắng phau   Chả hiểu sao không trở lại quê yêu   Thu về vẫn bên sông Hoài đồi núi       SongNguyễn HànTú            
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                
  黃  鶴  樓 
    
  昔  人  已  乘  黃  鶴  去 
  此  地  空  餘  黃  鶴  樓 
  黃  鶴  一  去  不  復  返 
  白  雲  千  載  空  悠  悠 
  晴  川  歷  歷  漢  陽  樹 
  芳  草  萋  萋  鸚  鵡  洲 
  日  暮  鄉  關  何  處  是   煙  波  江  上  使  人  愁 
    
  崔  顥           Hoàng Hạc Lâu                                               Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ           Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu         Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản        Bạch vân thiên tải không du du              Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ     Phương thảo thê thê Anh Vũ châu         Nhật mộ hương quan hà xứ thị             Yên ba giang thượng sử nhân sầu               Thôi Hiệu    (Lầu Hoàng Hạc)        (người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi)    (chỗ này chỉ còn là lầu Hoàng Hạc trống không)    (hạc vàng đã đi sẽ không trở lại)    (mây trắng vẫn ngàn năm bay mãi mãi)    (cây xứ Hán Dương hiện rõ bên dòng sông phẳng lặng)    (cỏ thơm tươi tốt trên bãi Anh Vũ)    (xế chiều rồi, cổng làng đi về hướng nào)    (khói sóng trên sông làm biồn lòng người )       Lầu Hoàng Hạc       Người tiên cưỡi hạc đi rồi   Lầu vàng vẫn đứng rã rời đợi trông   Nhìn lên hạc có về không   Chỉ toàn mây trắng mênh mông lững lờ   Hán Dương cây đứng thờ ơ   Bãi Anh Vũ trải một bờ cỏ xanh   Nhớ quê lòng nặng bao tình   Nhìn theo khói sóng lênh đênh nỗi buồn       SongNguyễn HànTú     
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2008 23:38:00 bởi hannguyen >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              橫  江  詞       橫  江  館  前  津  吏  迎   向  余  東  指  海  雲  生   郎  今  欲  度  緣  何  事   如  此  風  波  不  可  行       李  白           Hoành Giang Từ                                         Hoành Giang quán tiền tân lại nghênh     Hướng dư đông chỉ hải vân sinh              Lang kim dục độ duyên hà sự                  Như thử phong ba bất khả hành                   Lý Bạch        (bài ca sông Hoành Giang)        (trước quán bến sông Hoành Giang gặp lính gác)    (chỉ cho ta thấy mây trên biển đông đang đùn lên)    (nay bạn vì chuyện gì mà lại muốn qua sông)    (sóng gió như thế này chắc không thể đi)       Bài Ca Hoành Giang       Trước Hoành Giang người chiến binh tư lự   Chỉ phương đông biển vần vũ mây trời   Vẻ chân thành, giọng e ngại khuyên lời   Giông gió tới   E qua sông chẳng ổn       SongNguyễn HànTú           Gặp lính gác bến Hoành Giang   Chỉ mây vùng biển từng hàng kéo lên   Này ông …chú ngỏ lời khuyên   Đừng đi, sóng cả chẳng yên được nào   NguyễnTâmHàn                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              
Trích đoạn: hannguyen 
   
    
  黃  鶴  樓 
    
  昔  人  已  乘  黃  鶴  去 
  此  地  空  餘  黃  鶴  樓 
  黃  鶴  一  去  不  復  返 
  白  雲  千  載  空  悠  悠 
  晴  川  歷  歷  漢  陽  樹 
  芳  草  萋  萋  鸚  鵡  洲 
  日  暮  鄉  關  何  處  去 
  煙  波  江  上  使  人  愁 
    
  崔  顥 
    
    
  Hoàng Hạc Lâu                                     
    
    
  Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ         
  Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu       
  Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản      
  Bạch vân thiên tải không du du            
  Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ   
  Phương thảo thê thê Anh Vũ châu       
  Nhật mộ hương quan hà xứ khứ           
  Yên ba giang thượng sử nhân sầu         
    
  Thôi Hiệu 
   (Lầu Hoàng Hạc) 
    
   (người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi) 
   (chỗ này chỉ còn là lầu Hoàng Hạc trống không) 
   (hạc vàng đã đi sẽ không trở lại) 
   (mây trắng vẫn ngàn năm bay mãi mãi) 
   (cây xứ Hán Dương hiện rõ bên dòng sông phẳng lặng) 
   (cỏ thơm tươi tốt trên bãi Anh Vũ) 
   (xế chiều rồi, cổng làng đi về hướng nào) 
   (khói sóng trên sông làm biồn lòng người ) 
    
  Lầu Hoàng Hạc 
    
  Người tiên cưỡi hạc đi rồi 
  Lầu vàng vẫn đứng rã rời đợi trông 
  Nhìn lên hạc có về không 
  Chỉ toàn mây trắng mênh mông lững lờ 
  Hán Dương cây đứng thờ ơ 
  Bãi Anh Vũ trải một bờ cỏ xanh 
  Nhớ quê lòng nặng bao tình 
  Nhìn theo khói sóng lênh đênh nỗi buồn 
    
  SongNguyễn HànTú 
  
        Theo mình biết là chữ cuối cùng của câu kế cuối không đúng       
日  暮  鄉  關  何  處  是 
  煙  波  江  上  使  人  愁 
         Nhật mộ hương quan hà xứ thị           
  Yên ba giang thượng sử nhân sầu        Xin mạn phép Gia Chủ nhé!       Lầu Hoàng Hạc 
    
  Người tiên cưỡi hạc đi rồi 
  Lầu vàng vẫn đứng rã rời đợi trông 
  Nhìn lên hạc có về không 
  Chỉ toàn mây trắng mênh mông lững lờ 
  Hán Dương cây đứng thờ ơ 
  Bãi Anh Vũ trải một bờ cỏ xanh 
  Nhớ quê lòng nặng - tình anh 
  Nhìn theo khói sóng mong manh nỗi buồn       Nếu có gì không phải thì xin tạ tội cùng Song Nguyễn nhé! Thân chào 
   
   
   
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              SNHT chân thành cảm tạ thi hữu đã bắt dùm con sâu to tướng. 
Đôi khi làm rồi đọc đi đọc lại cũng chả tìm ra cái sai mà người khác 
vừa ngó qua là thấy líền. Tôi đã điều chỉnh lại.
Xin đa tạ. 
SNHT
 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2008 23:43:42 bởi hannguyen >
            
         
     
    
 
    
     
 
     
    
    
    
    
	
    
    
    
    
        
            
    
        Thống kê hiện tại
        Hiện đang có  0 thành viên và  2 bạn đọc.
        
 
            
         
     
    
    
    
    
    
    
        
        
        
	
            Kiểu: