Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
乾 元 中寓 居 同 谷 縣 作 歌 七 首 其 四 有 妹 有 妹 在 鍾 離 良 人 早 歿 諸 孤 痴 長 淮 浪 高 蛟 龍 怒 十 年 不 見 來 何 時 扁 舟 欲 往 箭 滿 眼 杳 杳 南 國 多 旌 旗 嗚 呼 四 歌 兮 歌 四 奏 林 猿 為 我 啼 清 晝 杜 甫 Kiền Nguyên Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ tứ Hữu muội hữu muội tại Chung Ly Lương nhân tảo một chư cô si Trường Hoài lãng cao giao long nộ Thập niên bất kiến lai hà thời Thiên chu dục vãng tiễn mãn nhãn Yểu yểu nam quốc đa tinh kỳ Ô hô tứ ca hề ca tứ tấu Lâm viên vị ngã đề thanh trú Đỗ Phủ (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên) kỳ 4 (có em gái, em gái tại huyện Chung Ly) (chồng mất sớm, các con còn thơ dại) Trường Hoài lãng cao giao long nộ (dòng sông Hoài dài sóng lớn có thuồng luồng dữ) (10 năm chưa gặp, bao giờ mới tới anh) (thuyền nhỏ toan đi nhưng tên bay trước mắt) (miền nam mù mịt cờ xí [loạn lạc] ) (than ôi! Bài ca thứ tư đã tấu) (vượn trong rừng vì ta mà kêu trong ban ngày khô ráo) Ghi chú: huyện Chung Ly và sông Hoài đều thuộc tỉnh An Huy. bài 4 Có người em gái Nương đất Chung Ly Cuộc tình sớm cảnh phân ly Đàn con côi cút, xuân thì lao đao Mặt sông Hoài Sóng dâng cao Giao long nổi giận Em bao giờ về? Mười năm thương nhớ não nề Muốn đi nhưng ngặt tứ bề đạn tên Cờ xí ngập trời Nam Than ôi! Bốn lần ca ai oán Loài vượn rừng hú thảm giữa bình minh SongNguyễn HànTú
乾 元 中 寓 居 同 谷 縣 作 歌 七 首 其 五 西 山 多 風 溪 水 急 寒 雨 颯 颯 枯 樹 濕 黃 蒿 古 城 雲 不 開 白 狐 跳 梁 黃 狐 立 我 生 何 為 在 窮 谷 中 夜 起 坐 萬 感 集 嗚 呼 五 歌 兮 歌 正 長 魂 招 不 來 歸 故 鄉 杜 甫 Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ ngũ Tứ sơn đa phong khê thủy cấp Hàn vũ táp táp khô thụ thấp Hoàng hao cổ thành vân bất khai Bạch hồ khiêu lương, hoàng hồ lập Ngã sinh hà vi tại cùng cốc Trung dạ khởi tọa vạn cãm tập Ô hô! Ngũ ca hề ca chính trường Hồn chiêu bất lai quy cố hương Đỗ Phủ (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện Đồng Các thời niên hiệu Kiền Nguyên) kỳ ngũ (núi 4 bên đều có gió, nước suối chảy gấp) (mưa lạnh đổ ào ào làm cây khô sũng nước) (cỏ vàng mọc ở cổ thành, mây không có kẽ hở) (chồn trắng nhảy nhót, chồn vàng đứng yên) (sao cuộc đời ta lại ở nơi cùng cốc này?) (trong đêm ngồi dậy với hàng vạn cảm nghĩ hình thành) (Than ôi! Bài ca thứ năm đang ngân dài) (gọi hồn về quê cũ mà không được) bài 5 Bốn phía núi...gió gào...suối tuôn chảy xiết Mưa lạnh lùng Cây sũng nước khắp nơi Thành cỏ vàng giăng...mây phủ ngập trời Chồn chạy nhảy lăng xăng trên đồng vắng Chốn hang cùng... Ta cuộc đời cay đắng Giữa đêm trường, lòng ngập những sầu tư Năm lời ca...hề...sao quá não nề Hồn vời vọng quê nhà sầu chất ngất SongNguyễn HànTú
乾 元 中 寓 居 同 谷 縣 作 歌 七 首 其 六 南 有 龍 兮 在 山 湫 古 木 寵 嵷 枝 相 樛 木 葉 黃 落 龍 正 蟄 蝮 蛇 東 來 水 上 游 我 行 怪 此 安 敢 出 拔 劍 欲 斬 且 復 休 嗚 呼 六 歌 兮 歌 思 遲 溪 壑 為 我 迴 春 姿 杜 甫 Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ lục Nam hữu long hề tại sơn tưu Cổ mộc sủng tùng chi tương cù Mộc diệp hoàng lạc long chính trập Phúc xà đông lai thủy thượng du Ngã hành quái thử an cảm xuất Bạt kiếm dục trảm thả phục hưu Ô hô lục ca hề ca tứ trì Khê hác vị ngã hồi xuân tư Đỗ Phủ (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện Đồng Cốc Thời Niên Hiệu Kiền Nguyên) kỳ lục (phía nam có con rồng ở trong đầm núi) (cây cổ thụ mến núi cao cành quấn quít vào nhau) (lá cây úa rụng, rồng đang chìm ẩn) (rắn độc từ phương đông tới, bơi trên mặt nước) (ta thấy quái lạ, rắn tìm chỗ núp không dám ló ra) (ta rút kiếm toan chém nhưng rồi lại thôi) (Than ôi! Bài ca thứ sáu, ý ca chậm rãi) (suối nguồn vì ta quanh co dáng vẻ xuân) Bài 6 Nơi đầm núi phía nam rồng lẩn khuất Cây cao vời, cành vướng vít xum xuê Rồng ẩn sâu trong lá độ thu về Đoàn rắn độc nhởn nhơ trên mặt nước Thấy cảnh lạ, Tính vung gươm trừ độc Bỗng nghe lòng trắc ẩn lại xuôi tay Sáu lần ca...lời ai oán đất này Dòng suối lượn chung quanh mầu xuân sắc SongNguyễn HànTú
乾 元 中 寓 居 同 谷 縣 作 歌 七 首 其 七 男 兒 生 不 成 名 身 已 老 三 年 饑 走 荒 山 道 長 安 卿 相 多 少 年 富 貴 應 須 致 身 早 山 中 儒 生 舊 相 識 但 話 宿 昔 傷 懷 抱 嗚 呼 七 歌 兮 悄 終 曲 仰 視 黃 天 白 日 速 杜 甫 Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ kỳ thất Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo Trường An khanh tướng đa thiếu niên Phú quý ưng tu trí thân tảo Sơn trung hữu nho sinh cựu tương thức Đản thoại túc tích thương hoài bão Ô hô thất ca hề tiễu chung khúc Ngưỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc Đỗ Phủ (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên) kỳ thất (thân trai sinh ra chưa thành danh thì thân đã già) (đã 3 năm đói khổ lang thang trên miền núi này) (bây giờ ở Trường An quan quyền đa số là người trẻ) (tất nhiên họ đã sớm được hưởng phú quý) (trong núi có gã học trò ta quen biết từ trước) (chỉ nói chuyện xưa thương cho mộng ước [không thành] ) (Than ôi! Đây là bài 7, khúc cuối của những bài ca buồn) (ngửng trông trời vàng, ngày trắng qua mau) Bài 7 Sống chửa nên thân đã thấy già Quẩn nơi rừng núi mấy năm qua Trường An khanh tướng bao người trẻ Võng lọng sang giàu, đỉnh vinh hoa ... Bầu bạn giữa rừng một ngưòi quen Chuyện xưa hoài bão...chuyện sách đèn Bảy lần than thở...liên sầu khúc Ngẩng mặt nhìn trời... đã nhá nhem SongNguyễn HànTú
見 渭 水 思 秦 川 渭 水 東 流 去, 何 時 到 雍 州. 憑 添 兩 行 淚, 寄 向 故 園 流. 岑 參 Kiến Vị Thủy Tư Tần Xuyên Vị Thủy dông lưu khứ Hà thời đáo Ung châu Bằng thiêm lưỡng hàng lệ Ký hướng cố viên lưu Sầm Tham (thấy sông Vị nhớ đất Tần) (nước sông Vị chảy về phía đông) (khi nào chảy tới Ung châu? ) (xin gửi theo hai hàng lệ) (sông có chảy qua vườn (quê) cũ cho ta gửi cùng) Thấy Sông Vị Nhớ Đất Tần Bài 1 Sông Vị nước xuôi dòng Bao giờ đến châu Ung Cho gởi đôi dòng lệ Về chốn gởi tim lòng Bài 2 Nước sông Vị xuôi về đông chảy mãi Này nước ơi bao giờ đến châu Ung Cho ta gửi đôi dòng châu tê tái Về vườn xưa nơi ấp ủ tim lòng SongNguyễn HànTú
結 襪 子 燕 南 壯 士 吳 門 豪 竹 中 置 鉛 魚 隱 刀 感 君 恩 重 許 君 命 泰 山 一 擲 輕 鴻 毛 李 白 Kết Miệt Tử Yên nam tráng sĩ Ngô Môn hào Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao Lý Bạch ịch nghĩa (gã đan vớ) (tráng sĩ miền nam nướcYên và hào kiệt đất Ngô Môn) (dấu dao cùn trong đàn trúc, dấu đao trong bụng cá) (cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn) (gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng) Ghi chú: Kết miệt tử, theo điển tích dài dòng, chỉ người quyết chí báo ơn. Yên, tên nước thời chiến quốc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc Ngô Môn, tên huyện, tỉnh Cam Túc Gã đan vớ Bậc hào kiệt đất Yên, Ngô một thủa Đã trong đàn, trong bụng cá dấu dao Nặng ơn vua mang chí khí anh hào Dâng mạng sống, núi Thái Sơn coi nhẹ SongNguyễn HànT
金 谷 園 繁 華 事 散 逐 香 塵 流 水 無 情 草 自 春 日 暮 東 風 怨 啼 鳥 落 花 猶 似 墜 樓 人 杜 牧 Kim Cốc Viên Phồn hoa sự tán trục hương trần Lưu thủy vô tình thảo tự xuân Nhật mộ đông phong oán đề điểu Lạc hoa do tự trụy lâu nhân Đỗ Mục (vườn Kim Cốc) (những việc xa xỉ náo nhiệt đã tàn theo lớp bụi thơm) (nước vô tình chảy, cỏ tự mang vẻ xuân) (chiều xuống, chim hót ai oán trong gió đông) (cánh hoa rụng mà còn như người nhảy lầu [tự tử] ) Ghi chú : Kim Cốc là tên vườn thời xưa, ở huyện Lạc Dương tỉnh Hà Nam ngày nay. Đời Tấn, Thạch Sùng xây cho người thiếp là Lục Châu ở. Tôn Tú đòi Thạch Sùng nhường thiếp cho mình. Lục Châu nhảy lầu tự tử. Vườn Kim Cốc Phồn hoa rũ sạch Chẳng thế gian hương Nước hờ hững, nét xuân vương Gió chiều Đông tiếng chim muông thêm sầu Hoa rơi... như cảnh nhảy lầu !!! SongNguyễn HànTú
金 陵 六 代 興 亡 國 三 杯 為 爾 歌 茆 方 秦 地 少 山 似 洛 陽 多 古 殿 吳 花 草 深 宮 晉 綺 羅 併 隨 人 事 滅 東 遊 與 滄 波 李 白 Kim Lăng Lục đại hưng vong quốc Tam bôi vị nhữ ca Uyển phương Tần địa thiểu Sơn tự Lạc Dương đa Cổ điện Ngô hoa thảo Thâm cung Tấn ỷ la Tinh tùy nhân sự diệt Đông du dữ thương ba Lý Bạch (thành Kim Lăng) (sáu triều đại khởi lên và mất đi tại đây) (mời ông 3 chén rượu và hát cho ông nghe) (so với đất Tần ít vườn hơn) (nhưng nhiều núi như miền Lạc Dương) (cung điện cổ đời Ngô có hoa và cỏ) (trong cung cũ đời Tấn [phơi] lụa là) (tất cả truyện xưa đã hết) (chuyến đi chơi phương đông chỉ còn nhìn sóng xanh) Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay. Lục đại : sáu triều đại đã đóng đô ở Kim Lăng gồm Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương và Trần. Kim Lăng Giang Sơn đó đã sáu triều thay đổi Mời vài ly, thấm giọng hát cho nghe So với Tần dù hơi ít vườn huê Nhưng lại giống như Lạc Dương nhiều núi Vùng đất Ngô đền đài hoa ngập lối Cung Tấn xưa lụa giăng khắp cung sâu Đã tàn rồi theo năm tháng còn đâu Viếng Đông chỉ mơ màng bên sóng nước SongNguyễn HànTú
金 陵 圖 江 雨 霏 霏 江 草 齊 六 朝 如 夢 鳥 空 啼 無 情 最 是 臺 城 柳 依 舊 煙 籠 十 里 堤 韋 莊 Kim Lăng Đồ Giang vũ phi phi giang thảo tề Lục triều như mộng điểu không đề Vô tình tối thị Đài Thành liễu Y cựu yên lung thập lý đê Vi Trang (bức tranh Kim Lăng) (trên sông, mưa bay lất phất, cỏ mọc ngay ngắn) (sáu triều đại qua như mộng, chim hót trong không gian) (dặng liễu trên Đài Thành là vô tình nhất) (vẫn chìm trong sương khói trên con đê 10 dặm như xưa) Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay, Đài Thành là một địa danh trong thành phố đó. Kim Lăng Mưa bay phơn phớt Giải cỏ xanh xanh Còn đâu chốn cũ kinh thành Sáu triều đại đã qua nhanh hững hờ Tiếng chim lạc lõng bơ vơ Còn như xưa chỉ riêng bờ liễu xanh Trong sương ngày tháng vô tình Đứng bên đê cũ Đài Thành ngả nghiêng SongNguyễn HànTú
金 陵 懷 古 玉 樹 歌 殘 王 气 終 景 陽 兵 合 戍 樓 空 楸 梧 遠 近 千 官 塚 禾 黍 高 低 六 代 宮 石 燕 拂 雲 晴 亦 雨 江 豚 吹 浪 夜 還 風 英 雄 一 去 豪 華 盡 唯 有 青 山 似 雒 中 許 渾 Kim Lăng Hoài Cổ Ngọc Thụ ca tàn vương khí chung Cảnh Dương binh hợp thú lâu không Thu ngô viễn cận thiên quan trũng Hòa thử cao đê lục đại cung Thạch yến phất vân tình diệc vũ Giang đồn xuy lãng dạ hoàn phong Anh hùng nhất khứ hào hoa tận Duy hữu thanh sơn tự Lạc Trung Hứa Hồn (nhớ chuyện xưa ở Kim Lăng) (bài ca Ngọc Thụ đã tàn, khí thế vua đã hết) (quân lính họp ở cung Cảnh Dương, lầu canh bỏ trống) (mồ mả của cả ngàn quan chức thấp thoáng bên cây thu ngô) (cung điện thời Lục Triều nhấp nhô trong đám lúa ) (yến núi bay vào mây, trời tạnh rồi lại mưa) (cá heo quẫy sóng, đêm gió vẫn còn) (một khi anh hùng đã khuất thì vẻ hào hoa cũng không còn) (chỉ còn núi xanh giống như ở Lạc Trung) Ghi chú : Kim Lăng là Nam Kinh ngày nay. Bài ca Ngọc Thụ và cung Cảnh Dương thuộc về vua Trần Hậu Chủ, ông vua cuối cùng ở Kim Lăng bị nhà Tùy diệt. Kim Lăng Hoài Cổ Vương khí hết, Ngọc Thụ thôi vang vọng Lính tụ về dinh Cảnh bỏ lầu canh Mộ quan xưa thu ngô đứng rải quanh Trước dinh thự lúa mọc hoang lởm chởm Loài thạch yến bay tung mây chiều, sớm Cá giang đồn thổi sóng giữa canh khuya Đấng hùng anh đã biền biệt không về Còn chăng chỉ núi xanh như vùng Lạc SongNguyễn HànTú
金 陵 酒 肆 留 別 風 吹 柳 花 滿 店 香 吳 姬 壓 酒 喚 客 嘗 金 陵 子 弟 來 相 送 欲 行 不 行 各 盡 觴 請 君 試 問 東 流 水 別 意 與 之 誰 短 長 李 白 Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương Ngô cơ áp tửu hoán khách thường Kim Lăng tử đệ lai tương tống Dục hành bất hành các tận trường Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy Biệt ý dữ chi thùy đoản trường Lý Bạch (viết lúc chia tay quán rượu ở Kim Lăng) (gió đưa hương hoa liễu thơm ngát cả quán) (cô gái đất Ngô chắt rượu ra mời khách nếm) (con em ở Kim Lăng đều đến đưa tiễn) (kẻ đi người ở đều uống cạn chén) (xin ông hãy thử hỏi dòng nước chảy về phía đông này) (lòng buồn vì ly biệt với dòng sông, ai ngắn ai dài ) Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay. Lời Từ Biệt Trong Quán Rượu Gió phảng phất mùi liễu hương ngập quán Bàn tay ngà người chắt rượu đãi mời Kẻ thân quen đất Kim cảm tình tôi Ghé lại quán ngỏ lời chào từ biệt Đi hay ở...? Nào đâu ai đã biết Nhưng rượu mời thì hẳn phải cạn ly Hãy hỏi dòng nước chảy xuống đông kia Ý ly biệt dài bằng nguồn nước cuốn ? SongNguyễn HànTú
金 縷 衣 勸 君 莫 惜 金 縷 衣 勸 君 惜 取 少 年 時 花 開 堪 折 直 須 折 莫 待 無 花 空 折 枝 杜 秋 娘 Kim Lũ Y Khuyến quân mạc tích kim lũ y Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì Hoa khai kham chiết trực tu chiết Mạc đãi vô hoa không chiết chi Đỗ Thu Nương (áo tơ vàng) (khuyên chàng đừng tiếc áo tơ vàng [mộng công hầu] ) (xin chàng hãy tiếc cho tuổi thanh xuân [của thiếp] } (hoa nở đến lúc bẻ được thì bẻ ngay) (đừng đợi đến lúc hoa rụng chỉ còn nước bẻ cành không) Áo tơ vàng Tiếc gì tấm áo tơ vàng Thanh xuân đừng để bẽ bàng qua đi Ngắt hoa từ độ đương thì Mai đây hoa rụng ngắt chi lá cành SongNguyễn HànTú
經 杜 甫 舊 宅 浣 花 溪 裡 花 深 處 為 憶 先 生 在 蜀 時 萬 古 只 應 留 舊 宅 干 金 無 復 得 新 詩 沙 崩 水 檻 鷗 飛 盡 樹 壓 村 橋 馬 過 遲 山 月 不 知 人 事 變 夜 來 江 上 與 誰 期 蘿 陶 Kinh Đỗ Phủ Cựu Trạch Hoãn Hoa khê lý hoa thâm xứ Vi ức tiên sinh tại Thục thời Vạn cổ chỉ ưng lưu cựu trạch Thiên kim vô phục đác tân thi Sa băng thủy hạm âu phi tận Thụ áp thôn kiều mã quá trì Sơn nguyệt bất tri nhân sự biến Dạ lai giang thượng dữ thùy kỳ? Ung Đào (qua nhà cũ của Đỗ Phủ) (ở nơi hoa nở sâu kín bên suối Hoãn Hoa) (tôi nhớ tới tiên sinh lúc ông sinh sống trên đất Thục) (để lại muôn đời sau có lẽ chỉ có ngôi nhà này) (có trả ngàn vàng cũng không thể có dược bài thơ mới) (cát lở sụp hiên bên sông, hải âu bay đi hết) (cây lấn áp cầu làm ngựa phải chạy chậm) (trăng miền núi không biết đời người đã thay đổi) (đêm đêm vẫn cứ hò hẹn với ai trên sông thế? ) Ghi chú : Hoãn Hoa khê là dòng suối ở tây nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, là nơi Đỗ Phủ dựng ngôi nhà tranh cùng gia quyến sinh sống một thời gian. Qua Nhà Cũ Của Đỗ Phủ Hoa vẫn nở cạnh Hoãn Hoa suối vắng Đất Thục thời người tá túc nơi đây Bao nhiêu năm cũng chỉ mái tranh này Bài thơ mới giờ ngàn vàng chẳng được Bờ cát sụp, chim hải âu bay hết Cây um tùm, chậm bước ngựa qua cầu Trăng vô tình nào hay chuyện bể dâu Vẫn hò hẹn cùng ai bên sông vắng SongNguyễn HànTú
麂 永 與 清 谿 別 蒙 將 玉 饌 俱 無 才 逐 仙 隱 不 敢 恨 庖 廚 亂 世 輕 全 物 微 聲 及 禍 樞 衣 冠 兼 盜 賊 饕 餮 用 斯 須 杜 甫 Kỷ Vĩnh dữ thanh khê biệt Mông tương ngọc soạn câu Vô tài trục tiên ẩn Bất cảm hận bào trù Loạn thế khinh toàn vật Vi thanh cập họa xu Y quan kiêm đạo tặc Thao thiết dụng tư tu Đỗ Phủ (con hoẵng) (vĩnh biệt dòng suối trong) (đành sắp bị làm thức ăn ngon rồi) (không có tài theo các vị tiên ẩn thân) (lại cũng không dám oán hận các tay đầu bếp) (vì thời loạn mọi vật đều bị coi nhẹ) (một tiếng nhỏ cũng đủ mang họa) (bọn quan quyền cũng là bọn trộm cướp) (phải gọi là bọn tham ăn hung dữ mới đúng) Con Hoẵng Vĩnh biệt nhé khe suối xanh trong trẻo Ta sắp lên để làm món ăn ngon Chẳng có tài như tiên chồn thiên sơn Đâu dám trách bọn phổ ky hạ thủ Thời loạn lạc dễ thường hay uổng tử Vừa hé môi là họa gió tai bay Đám quan viên nào khác lũ cướp ngày Họ thật đúng loài tham ăn hung dữ SongNguyễn HànTú
寄 杜 位 寒 日 經 簷 短 窮 猿 失 木 悲 峽 中 為 客 久 江 上 憶 君 時 天 地 身 何 在 風 塵 病 敢 辭 封 書 兩 行 淚 沾 洒 浥 新 詩 杜 甫 Ký Đỗ Vị Hàn nhật kinh thiềm đoản Cùng viên thất mộc bi Giáp trung vi khách cữu Giang thượng ức quân thời Thiên địa thân hà tại Phong trần bịnh cảm từ Phong thư lưỡng hàng lệ Triêm sái ấp tân thi Đỗ Phủ (gởi Đỗ Vị) (những ngày lạnh qua thềm ngắn) (con vượn cùng khốn vì mất cây nương tựa, buồn bã) (ta lưu lạc nơi thung lũng này đã khá lâu) (lúc ở trên sông ta nhớ bác) (ta ở đâu trong khoảng trời đất này?) (đã đầy gió bụi mà bệnh tật cũng không tha ta) (lúc dán thư hai hàng lệ chứa chan) (làm ướt cả bài thơ mới làm) Gởi Đỗ Vị Mùa đông lạnh mặt trời đi ngủ sớm Vượn cùng đường cũng mất chỗ nương thân Kiếp xa nhà nơi thung lũng chôn chân Trên sông vắng lòng ngẩn ngơ nhớ bạn Giữa trời đất đời mang nhiều hoạn nạn Sống nổi trôi mà bệnh tật đâu từ Lệ tuôn trào lúc cúi dán bì thư Rơi ưới đẫm cả bài thơ mới viết SongNguyễn HànTú
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: