 
    
  
    
    
    
        
        
     Phỏng Dịch Đường Thi  - SongNguyễn HànTú
        
        
    
    
    
	
        
    
        
        
            
            
              乾  元 中寓  居   同  谷  縣  作  歌  七  首       其  四   有  妹  有  妹  在  鍾  離   良  人  早  歿  諸  孤  痴   長  淮  浪  高  蛟  龍  怒   十  年  不  見  來  何  時   扁  舟  欲  往  箭  滿  眼   杳  杳  南  國  多  旌  旗   嗚  呼  四  歌  兮  歌  四  奏   林  猿  為  我  啼  清  晝       杜  甫           Kiền Nguyên Ngụ Cư                            Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ                                    kỳ tứ   Hữu muội hữu muội tại Chung Ly      Lương nhân tảo một chư cô si             Trường Hoài lãng cao giao long nộ     Thập niên bất kiến lai hà thời               Thiên chu dục vãng tiễn mãn nhãn      Yểu yểu nam quốc đa tinh kỳ              Ô hô tứ ca hề ca tứ tấu                         Lâm viên vị ngã đề thanh trú                   Đỗ Phủ    (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện   Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)       kỳ 4    (có em gái, em gái tại huyện Chung Ly)    (chồng mất sớm, các con còn thơ dại)   Trường Hoài lãng cao giao long nộ  (dòng sông Hoài dài sóng lớn có thuồng luồng dữ)    (10 năm chưa gặp, bao giờ mới tới anh)   (thuyền nhỏ toan đi nhưng tên bay trước mắt)    (miền nam mù mịt cờ xí [loạn lạc] )    (than ôi! Bài ca thứ tư đã tấu)    (vượn trong rừng vì ta mà kêu trong ban ngày khô ráo)       Ghi chú: huyện Chung Ly và sông Hoài đều thuộc tỉnh An Huy.                     bài 4       Có người em gái   Nương đất Chung Ly   Cuộc tình sớm cảnh phân ly   Đàn con côi cút, xuân thì lao đao   Mặt sông Hoài   Sóng dâng cao   Giao long nổi giận   Em bao giờ về?   Mười năm thương nhớ não nề   Muốn đi nhưng ngặt tứ bề đạn tên   Cờ xí ngập trời Nam   Than ôi!   Bốn lần ca ai oán   Loài vượn rừng hú thảm giữa bình minh       SongNguyễn HànTú            
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              乾  元  中  寓  居   同  谷  縣  作  歌  七  首       其  五       西  山  多  風  溪  水  急   寒  雨  颯  颯  枯  樹  濕   黃  蒿  古  城  雲  不  開   白  狐  跳  梁  黃  狐  立   我  生  何  為  在  窮  谷   中  夜  起  坐  萬  感  集   嗚  呼  五  歌  兮  歌  正  長   魂  招  不  來  歸  故  鄉       杜  甫       Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư                          Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ                                kỳ ngũ       Tứ sơn đa phong khê thủy cấp             Hàn vũ táp táp khô thụ thấp                 Hoàng hao cổ thành vân bất khai         Bạch hồ khiêu lương, hoàng hồ lập      Ngã sinh hà vi tại cùng cốc                  Trung dạ khởi tọa vạn cãm tập             Ô hô! Ngũ ca hề ca chính trường          Hồn chiêu bất lai quy cố hương                Đỗ Phủ    (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện       Đồng Các thời niên hiệu Kiền Nguyên)       kỳ ngũ        (núi 4 bên đều có gió, nước suối chảy gấp)    (mưa lạnh đổ ào ào làm cây khô sũng nước)    (cỏ vàng  mọc ở cổ thành, mây không có kẽ hở)    (chồn trắng nhảy nhót, chồn vàng đứng yên)    (sao cuộc đời ta lại ở nơi cùng cốc này?)    (trong đêm ngồi dậy với hàng vạn cảm nghĩ hình thành)    (Than ôi! Bài ca thứ năm đang ngân dài)    (gọi hồn về quê cũ mà không được)           bài 5       Bốn phía núi...gió gào...suối tuôn chảy xiết   Mưa lạnh lùng   Cây sũng nước khắp nơi   Thành cỏ vàng giăng...mây phủ ngập trời   Chồn chạy nhảy lăng xăng trên đồng vắng   Chốn hang cùng...   Ta cuộc đời cay đắng   Giữa đêm trường, lòng ngập những sầu tư   Năm lời ca...hề...sao quá não nề   Hồn vời vọng quê nhà sầu chất ngất       SongNguyễn HànTú        
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              乾  元  中  寓  居   同  谷  縣  作  歌  七  首       其  六       南  有  龍  兮  在  山  湫   古  木  寵  嵷  枝  相  樛   木  葉  黃  落  龍  正  蟄   蝮  蛇  東  來  水  上  游   我  行  怪  此  安  敢  出   拔  劍  欲  斬  且  復  休   嗚  呼  六  歌  兮  歌  思  遲   溪  壑  為  我  迴  春  姿       杜  甫           Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư                 Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ                  kỳ lục       Nam hữu long hề tại sơn tưu                 Cổ mộc sủng tùng chi tương cù            Mộc diệp hoàng lạc long chính trập     Phúc xà đông lai thủy thượng du          Ngã hành quái thử an cảm xuất             Bạt kiếm dục trảm thả phục hưu            Ô hô lục ca hề ca tứ trì                           Khê hác vị ngã hồi xuân tư                         Đỗ Phủ       (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện   Đồng Cốc Thời Niên Hiệu Kiền Nguyên)       kỳ lục       (phía nam có con rồng ở trong đầm núi)   (cây cổ thụ mến núi cao cành quấn quít vào nhau)   (lá cây úa rụng, rồng đang chìm ẩn)   (rắn độc từ phương đông tới, bơi trên mặt nước)   (ta thấy quái lạ, rắn tìm chỗ núp không dám ló ra)   (ta rút kiếm toan chém nhưng rồi lại thôi)   (Than ôi! Bài ca thứ sáu, ý ca chậm rãi)   (suối nguồn vì ta quanh co dáng vẻ xuân)           Bài 6       Nơi đầm núi phía nam rồng lẩn khuất   Cây cao vời, cành vướng vít xum xuê   Rồng ẩn sâu trong lá độ thu về   Đoàn rắn độc nhởn nhơ trên mặt nước   Thấy cảnh lạ,   Tính vung gươm trừ độc   Bỗng nghe lòng trắc ẩn lại xuôi tay   Sáu lần ca...lời ai oán đất này   Dòng suối lượn chung quanh mầu xuân sắc       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              乾  元  中  寓  居   同  谷  縣  作  歌  七  首       其  七       男  兒  生  不  成  名  身  已  老   三  年  饑  走  荒  山  道   長  安  卿  相  多  少  年   富  貴  應  須  致  身  早   山  中  儒  生  舊  相  識   但  話  宿  昔  傷  懷  抱   嗚  呼  七  歌  兮  悄  終  曲   仰  視  黃  天  白  日  速       杜  甫           Kiền Nguyên Trung Ngụ Cư                       Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ                           kỳ thất       Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão     Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo                   Trường An khanh tướng đa thiếu niên        Phú quý ưng tu trí thân tảo                          Sơn trung hữu nho sinh cựu tương thức     Đản thoại túc tích thương hoài bão             Ô hô thất ca hề tiễu chung khúc                  Ngưỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc             Đỗ Phủ        (làm 7 bài ca khi cư ngụ tại huyện   Đồng Cốc thời niên hiệu Kiền Nguyên)       kỳ thất        (thân trai sinh ra chưa thành danh thì thân đã già)    (đã 3 năm đói khổ lang thang trên miền núi này)    (bây giờ ở Trường An quan quyền đa số là người trẻ)    (tất nhiên họ đã sớm được hưởng phú quý)    (trong núi có gã học trò ta quen biết từ trước)    (chỉ nói chuyện xưa thương cho mộng ước [không thành] )    (Than ôi!  Đây là bài 7, khúc cuối của những bài ca buồn)    (ngửng trông trời vàng, ngày trắng qua mau)           Bài 7       Sống chửa nên thân đã thấy già   Quẩn nơi rừng núi mấy năm qua   Trường An khanh tướng bao người trẻ   Võng lọng sang giàu, đỉnh vinh hoa   ...   Bầu bạn giữa rừng một ngưòi quen   Chuyện xưa hoài bão...chuyện sách đèn   Bảy lần than thở...liên sầu khúc   Ngẩng mặt nhìn trời... đã nhá nhem       SongNguyễn HànTú        
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                      見  渭  水  思  秦  川       渭  水  東  流  去,   何  時  到  雍  州.   憑  添  兩  行  淚,   寄  向  故  園  流.       岑  參           Kiến Vị Thủy Tư Tần Xuyên         Vị Thủy dông lưu khứ                  Hà thời đáo Ung châu                   Bằng thiêm lưỡng hàng lệ            Ký hướng cố viên lưu                       Sầm Tham        (thấy sông Vị nhớ đất Tần)        (nước sông Vị chảy về phía đông)    (khi nào chảy tới Ung châu? )    (xin gửi theo hai hàng lệ)   (sông có chảy qua vườn (quê) cũ cho ta gửi cùng)       Thấy Sông Vị Nhớ Đất Tần       Bài 1       Sông Vị nước xuôi dòng   Bao giờ đến châu Ung   Cho gởi đôi dòng lệ   Về chốn gởi tim lòng       Bài 2       Nước sông Vị xuôi về đông chảy mãi   Này nước ơi bao giờ đến châu Ung   Cho ta gửi đôi dòng châu tê tái   Về vườn xưa nơi ấp ủ tim lòng       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              結  襪  子       燕  南  壯  士  吳  門  豪   竹  中  置  鉛  魚  隱  刀   感  君  恩  重  許  君  命   泰  山  一  擲  輕  鴻  毛       李  白       Kết Miệt Tử                                            Yên nam tráng sĩ Ngô Môn hào           Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao           Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh      Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao     Lý Bạch        ịch nghĩa       (gã đan vớ)       (tráng sĩ miền nam nướcYên và hào kiệt đất Ngô Môn)   (dấu dao cùn trong đàn trúc,  dấu đao trong bụng cá)   (cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn)   (gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng)       Ghi chú: Kết miệt tử, theo điển tích dài dòng, chỉ người quyết chí báo ơn.                  Yên, tên nước thời chiến quốc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc                   Ngô Môn, tên huyện, tỉnh Cam Túc           Gã đan vớ       Bậc hào kiệt đất Yên, Ngô một thủa   Đã trong đàn, trong bụng cá dấu dao   Nặng ơn vua mang chí khí anh hào   Dâng mạng sống, núi Thái Sơn coi nhẹ       SongNguyễn HànT 
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              金  谷  園       繁  華  事  散  逐  香  塵   流  水  無  情  草  自  春   日  暮  東  風  怨  啼  鳥   落  花  猶  似  墜  樓  人       杜  牧           Kim Cốc Viên                                     Phồn hoa sự tán trục hương trần      Lưu thủy vô tình thảo tự xuân         Nhật mộ đông phong oán đề điểu    Lạc hoa do tự trụy lâu nhân                 Đỗ Mục    (vườn Kim Cốc)        (những việc xa xỉ náo nhiệt đã tàn theo lớp bụi thơm)    (nước vô tình chảy, cỏ tự mang vẻ xuân)    (chiều xuống, chim hót ai oán trong gió đông)    (cánh hoa rụng mà còn như người nhảy lầu [tự tử] )       Ghi chú : Kim Cốc là tên vườn thời xưa, ở huyện Lạc Dương tỉnh Hà Nam ngày nay.                   Đời Tấn, Thạch Sùng xây cho người thiếp là Lục Châu ở. Tôn Tú đòi                    Thạch Sùng nhường thiếp cho mình. Lục Châu nhảy lầu tự tử.           Vườn Kim Cốc       Phồn hoa rũ sạch   Chẳng thế gian hương   Nước hờ hững,   nét xuân vương   Gió chiều Đông tiếng chim muông thêm sầu   Hoa rơi...   như cảnh nhảy lầu !!!       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              金  陵       六  代  興  亡  國   三  杯  為  爾  歌   茆  方  秦  地  少   山  似  洛  陽  多   古  殿  吳  花  草   深  宮  晉  綺  羅   併  隨  人  事  滅   東  遊  與  滄  波       李  白       Kim Lăng                                    Lục đại hưng vong quốc         Tam bôi vị nhữ ca                   Uyển phương Tần địa thiểu     Sơn tự Lạc Dương đa              Cổ điện Ngô hoa thảo              Thâm cung Tấn ỷ la                 Tinh tùy nhân sự diệt               Đông du dữ thương ba                 Lý Bạch        (thành Kim Lăng)        (sáu triều đại khởi lên và mất đi tại đây)    (mời ông 3 chén rượu và hát cho ông nghe)    (so với đất Tần ít vườn hơn)    (nhưng nhiều núi như miền Lạc Dương)    (cung điện cổ đời Ngô có hoa và cỏ)    (trong cung cũ đời Tấn [phơi] lụa là)    (tất cả truyện xưa đã hết)    (chuyến đi chơi phương đông chỉ còn nhìn sóng xanh)       Ghi chú : Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay.                   Lục đại : sáu triều đại đã đóng đô ở Kim Lăng gồm Đông Ngô,                    Đông Tấn, Tống,  Tề, Lương và Trần.                 Kim Lăng       Giang Sơn đó đã sáu triều thay đổi   Mời vài ly, thấm giọng hát cho nghe   So với Tần dù hơi ít vườn huê   Nhưng lại giống như Lạc Dương nhiều núi   Vùng đất Ngô đền đài hoa ngập lối   Cung Tấn xưa lụa giăng khắp cung sâu   Đã tàn rồi theo năm tháng còn đâu   Viếng Đông chỉ mơ màng bên sóng nước       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              金  陵  圖       江  雨  霏  霏  江  草  齊   六  朝  如  夢  鳥  空  啼   無  情  最  是  臺  城  柳   依  舊  煙  籠  十  里  堤       韋  莊           Kim Lăng Đồ                                         Giang vũ phi phi giang thảo tề           Lục triều như mộng điểu không đề    Vô tình tối thị Đài Thành liễu            Y cựu yên lung thập lý đê                      Vi Trang        (bức tranh Kim Lăng)        (trên sông, mưa bay lất phất, cỏ mọc ngay ngắn)    (sáu triều đại qua như mộng, chim hót trong không gian)    (dặng liễu trên Đài Thành là vô tình nhất)    (vẫn chìm trong sương khói trên con đê 10 dặm như xưa)       Ghi chú :  Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay, Đài Thành là một địa danh trong                      thành phố đó.           Kim Lăng       Mưa bay phơn phớt   Giải cỏ xanh xanh   Còn đâu chốn cũ kinh thành   Sáu triều đại đã qua nhanh hững hờ   Tiếng chim lạc lõng bơ vơ   Còn như xưa chỉ riêng bờ liễu xanh   Trong sương ngày tháng vô tình   Đứng bên đê cũ Đài Thành ngả nghiêng       SongNguyễn HànTú            
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              金  陵  懷  古           玉  樹  歌  殘  王  气  終   景  陽  兵  合  戍  樓  空   楸  梧  遠  近  千  官  塚   禾  黍  高  低  六  代  宮   石  燕  拂  雲  晴  亦  雨   江  豚  吹  浪  夜  還  風   英  雄  一  去  豪  華  盡   唯  有  青  山  似  雒  中       許  渾           Kim Lăng Hoài Cổ                                  Ngọc Thụ ca tàn vương khí chung        Cảnh Dương binh hợp thú lâu không    Thu ngô viễn cận thiên quan trũng        Hòa thử cao đê lục đại cung                  Thạch yến phất vân tình diệc vũ           Giang đồn xuy lãng dạ hoàn phong      Anh hùng nhất khứ hào hoa tận            Duy hữu thanh sơn tự Lạc Trung               Hứa Hồn        (nhớ chuyện xưa ở Kim Lăng)        (bài ca Ngọc Thụ đã tàn, khí thế vua đã hết)    (quân lính họp ở cung Cảnh Dương, lầu canh bỏ trống)    (mồ mả của cả ngàn quan chức thấp thoáng bên cây thu ngô)    (cung điện thời Lục Triều nhấp nhô trong đám lúa )    (yến núi bay vào mây, trời tạnh rồi lại mưa)    (cá heo quẫy sóng, đêm gió vẫn còn)    (một khi anh hùng đã khuất  thì vẻ hào hoa cũng không còn)    (chỉ còn núi xanh giống như ở Lạc Trung)       Ghi chú :  Kim Lăng là Nam Kinh ngày nay. Bài ca Ngọc Thụ và cung Cảnh Dương thuộc                      về vua Trần Hậu Chủ, ông vua cuối cùng ở Kim Lăng bị nhà Tùy diệt.           Kim Lăng Hoài Cổ       Vương khí hết, Ngọc Thụ thôi vang vọng   Lính tụ về dinh Cảnh bỏ lầu canh   Mộ quan xưa thu ngô đứng rải quanh   Trước dinh thự lúa mọc hoang lởm chởm   Loài thạch yến bay tung mây chiều, sớm   Cá giang đồn thổi sóng giữa canh khuya   Đấng hùng anh đã biền biệt không về   Còn chăng chỉ núi xanh như vùng Lạc       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                          金  陵  酒  肆  留  別       風  吹  柳  花  滿  店  香   吳  姬  壓  酒  喚  客  嘗   金  陵  子  弟  來  相  送   欲  行  不  行  各  盡  觴   請  君  試  問  東  流  水   別  意  與  之  誰  短  長       李  白       Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt                  Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương    Ngô cơ áp tửu hoán khách thường        Kim Lăng tử đệ lai tương tống              Dục hành bất hành các tận trường         Thỉnh quân thí vấn đông lưu thủy          Biệt ý dữ chi thùy đoản trường                  Lý Bạch        (viết lúc chia tay quán rượu ở Kim Lăng)        (gió đưa hương hoa liễu thơm ngát cả quán)    (cô gái đất Ngô chắt rượu ra mời khách nếm)    (con em ở Kim Lăng đều đến đưa tiễn)    (kẻ đi người ở đều uống cạn chén)    (xin ông hãy thử hỏi dòng nước chảy về phía đông này)    (lòng buồn vì ly biệt với dòng sông, ai ngắn ai dài )       Ghi chú :  Kim Lăng là thành phố Nam Kinh ngày nay.           Lời Từ Biệt Trong Quán Rượu       Gió phảng phất mùi liễu hương ngập quán   Bàn tay ngà người chắt rượu đãi mời   Kẻ thân quen đất Kim cảm tình tôi   Ghé lại quán ngỏ lời chào từ biệt   Đi hay ở...?   Nào đâu ai đã biết   Nhưng rượu mời thì hẳn phải cạn ly   Hãy hỏi dòng nước chảy xuống đông kia   Ý ly biệt dài bằng nguồn nước cuốn ?       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              金  縷  衣       勸  君  莫  惜  金  縷  衣   勸  君  惜  取  少  年  時   花  開  堪  折  直  須  折   莫  待  無  花  空  折  枝       杜  秋  娘           Kim Lũ Y                                                Khuyến quân mạc tích kim lũ y          Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì    Hoa khai kham chiết trực tu chiết       Mạc đãi vô hoa không chiết chi              Đỗ Thu Nương        (áo tơ vàng)        (khuyên chàng đừng tiếc áo tơ vàng [mộng công hầu] )    (xin chàng hãy tiếc cho tuổi thanh xuân [của thiếp] }    (hoa nở đến lúc bẻ được thì bẻ ngay)    (đừng đợi đến lúc hoa rụng chỉ còn nước bẻ cành không)       Áo tơ vàng       Tiếc gì tấm áo tơ vàng   Thanh xuân đừng để bẽ bàng qua đi   Ngắt hoa từ độ đương thì   Mai đây hoa rụng ngắt chi lá cành       SongNguyễn HànTú                
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              經  杜  甫  舊  宅       浣  花  溪  裡  花  深  處   為  憶  先  生  在  蜀  時   萬  古  只  應  留  舊  宅   干  金  無  復  得  新  詩   沙  崩  水  檻  鷗  飛  盡   樹  壓  村  橋  馬  過  遲   山  月  不  知  人  事  變   夜  來  江  上  與  誰  期       蘿  陶           Kinh Đỗ Phủ Cựu Trạch                 Hoãn Hoa khê lý hoa thâm xứ       Vi ức tiên sinh tại Thục thời          Vạn cổ chỉ ưng lưu cựu trạch         Thiên kim vô phục đác tân thi        Sa băng thủy hạm âu phi tận           Thụ áp thôn kiều mã quá trì            Sơn nguyệt bất tri nhân sự biến      Dạ lai giang thượng dữ thùy kỳ?        Ung Đào        (qua nhà cũ của Đỗ Phủ)        (ở nơi hoa nở sâu kín bên suối Hoãn Hoa)    (tôi nhớ tới tiên sinh lúc ông sinh sống trên đất Thục)    (để lại muôn đời sau có lẽ chỉ có ngôi nhà này)    (có trả ngàn vàng cũng không thể có dược bài thơ mới)    (cát lở sụp hiên bên sông, hải âu bay đi hết)    (cây lấn áp cầu làm ngựa phải chạy chậm)    (trăng miền núi không biết đời người đã thay đổi)    (đêm đêm vẫn cứ hò hẹn với ai trên sông thế? )       Ghi chú : Hoãn Hoa khê là dòng suối ở tây nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, là nơi                   Đỗ Phủ dựng ngôi nhà tranh cùng gia quyến sinh sống một thời gian.           Qua Nhà Cũ Của Đỗ Phủ       Hoa vẫn nở cạnh Hoãn Hoa suối vắng   Đất Thục thời người tá túc nơi đây   Bao nhiêu năm cũng chỉ mái tranh này   Bài thơ mới giờ ngàn vàng chẳng được   Bờ cát sụp, chim hải âu bay hết   Cây um tùm, chậm bước ngựa qua cầu   Trăng vô tình nào hay chuyện bể dâu   Vẫn hò hẹn cùng ai bên sông vắng       SongNguyễn HànTú        
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              麂       永  與  清  谿  別   蒙  將  玉  饌  俱   無  才  逐  仙  隱   不  敢  恨  庖  廚   亂  世  輕  全  物   微  聲  及  禍  樞   衣  冠  兼  盜  賊   饕 餮   用  斯  須       杜  甫       Kỷ                                                Vĩnh dữ thanh khê biệt            Mông tương ngọc soạn câu     Vô tài trục tiên ẩn                    Bất cảm hận bào trù                 Loạn thế khinh toàn vật           Vi thanh cập họa xu                 Y quan kiêm đạo tặc                Thao thiết dụng tư tu                    Đỗ Phủ    (con hoẵng)        (vĩnh biệt dòng suối trong)    (đành sắp bị làm thức ăn ngon rồi)    (không có tài theo các vị tiên ẩn thân)    (lại cũng không dám oán hận các tay đầu bếp)    (vì thời loạn mọi vật đều bị coi nhẹ)    (một tiếng nhỏ cũng đủ mang họa)    (bọn quan quyền cũng là bọn trộm cướp)    (phải gọi là bọn tham ăn hung dữ mới đúng)       Con Hoẵng       Vĩnh biệt nhé khe suối xanh trong trẻo   Ta sắp lên để làm món ăn ngon   Chẳng có tài như tiên chồn thiên sơn   Đâu dám trách bọn phổ ky hạ thủ   Thời loạn lạc dễ thường hay uổng tử   Vừa hé môi là họa gió tai bay   Đám quan viên nào khác lũ cướp ngày   Họ thật đúng loài tham ăn hung dữ           SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
              寄  杜  位       寒  日  經  簷  短   窮  猿  失  木  悲   峽  中  為  客  久   江  上  憶  君  時   天  地  身  何  在   風  塵  病  敢  辭   封  書  兩  行  淚   沾  洒  浥  新  詩       杜  甫       Ký Đỗ Vị                                   Hàn nhật kinh thiềm đoản      Cùng viên thất mộc bi           Giáp trung vi khách cữu         Giang thượng ức quân thời     Thiên địa thân hà tại                Phong trần bịnh cảm từ          Phong thư lưỡng hàng lệ        Triêm sái ấp tân thi                     Đỗ Phủ       (gởi Đỗ Vị)        (những ngày lạnh qua thềm ngắn)    (con vượn cùng khốn vì mất cây nương tựa, buồn bã)    (ta lưu lạc nơi thung lũng này đã khá lâu)    (lúc ở trên sông ta nhớ bác)    (ta ở đâu trong khoảng trời đất này?)    (đã đầy gió bụi mà bệnh tật cũng không tha ta)    (lúc dán thư hai hàng lệ chứa chan)    (làm ướt cả bài thơ mới làm)           Gởi Đỗ Vị       Mùa đông lạnh mặt trời đi ngủ sớm   Vượn cùng đường cũng mất chỗ nương thân   Kiếp xa nhà nơi thung lũng chôn chân   Trên sông vắng lòng ngẩn ngơ nhớ bạn   Giữa trời đất đời mang nhiều hoạn nạn   Sống nổi trôi mà bệnh tật đâu từ   Lệ tuôn trào lúc cúi dán bì thư   Rơi ưới đẫm cả bài thơ mới viết       SongNguyễn HànTú    
            
            
         
     
    
 
    
     
 
     
    
    
    
    
	
    
    
    
    
        
            
    
        Thống kê hiện tại
        Hiện đang có  0 thành viên và  3 bạn đọc.
        
 
            
         
     
    
    
    
    
    
    
        
        
        
	
            Kiểu: