Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
岳 陽 晚 景 晚 景 寒 鴉 集 秋 風 旅 雁 歸 水 光 浮 日 出 霞 彩 映 江 飛 洲 白 蘆 花 吐 園 紅 柿 葉 稀 長 沙 卑 濕 地 九 月 未 成 衣 張 均 Nhạc Dương Vãn Cảnh Vãn cảnh hàn nha tập Thu phong lữ nhạn quy Thủy quang phù nhật xuất Hà thái ánh giang phi Châu bạch lô hoa thổ Viên hồng thị diệp hi Trường Sa ti thấp địa Cửu nguyệt vị thành y Trương Quân (cảnh buổi chiều Ở Nhạc Dương) (cảnh buổi chiều với quạ lạnh run đậu đầy) (chim nhạn đi ăn xa trở về trong gió thu) (mặt trời xế bóng như nổi trên mặt nước quang đãng) (ráng chiều rực rỡ bay qua phản chiếu trên mặt sông) (bãi sông trắng xóa những bông hoa lau rụng) (trong vườn thấp thoáng những lá thị màu đỏ) (Trường Sa [chỗ lưu đày] là nơi nhỏ bé và ẩm thấp) (tháng chín rồi mà áo [lạnh] vẫn chưa may xong) Cảnh Chiều Ở Nhạc Dương Khắp lối chiều hôm quạ ướt mưa Gió thu hiu hắt nhạn lưa thưa Long lanh trời nổi trên sông nước Rực rỡ ánh mầu ráng đong đưa ... Bãi sông trắng xóa những hoa lau Cây thị le hoe lá sậm mầu Vùng đất Trường Sa trời ẩm thấp Đã vào tháng chín áo xong đâu SongNguyễn HànTú
樂 仙 觀 樂 氏 騎 龍 上 碧 天 東 吳 遺 宅 尚 依 然 悟 來 大 道 無 多 事 化 後 丹 經 不 必 傅 老 樹 夜 風 蟲 喫 葉 古 壇 春 雨 蘚 生 磚 松 傾 鶴 死 桑 田 變 華 表 歸 鄉 未 有 年 若 虛 Nhạc Tiên Quán Nhạc thị kỵ long thướng bích thiên Đông Ngô di trạch thượng y nhiên Ngộ lai đại đạo vô đa sự Hoá hậu đan kinh bất tất truyền Lão thụ dạ phong trùng khiết diệp Cổ đàn xuân vũ tiễn sinh chuyên Tùng khuynh hạc tử tang điền biến Hoa biểu quy hương vị hữu niên Nhược Hư (đạo quán của ông tiên họ Nhạc) (ông họ Nhạc đã cưỡi rồng bay lên trời xanh) (ngôi nhà cũ ở đất Đông Ngô vẫn còn nguyên) (đã ngộ được đạo lớn thì không còn thiết sự đời nữa) (sau khi đã hóa [tiên] kinh son chẳng truyền cho ai) (trong gió đêm, côn trùng ăn lá cây già) (dưới mưa xuân, rêu phát sinh trên gạch đạo tràng cũ) (thông nghiêng đổ, hạc chết, ruộng dâu thành biển) (chưa có năm nào về thăm trụ đá trước mộ [tổ tiên]) Đạo quán của Nhạc Tiên Ông Trên lưng rồng, đã về trời Đất Ngô nhà cũ của người như xưa Đạo bàng bạc tựa hư vô Kinh tiên truyền tụng...lững lờ nước, mây Nghe sâu gậm lá trên cây Gió đêm nhẹ thoảng Mưa bay mơ hồ Nóc đàn cổ …rêu xanh mờ Thông nghiêng, hạc ch ết... nào ngờ biển dâu Chưa thăm bia đá, mộ sâu ?! SongNguyễn HànTú
入 若 耶 溪 輕 舟 去 何 疾 已 到 雲 林 境 起 坐 雲 鳥 間 動 搖 山 水 影 岩 中 響 自 答 溪 里 言 彌 靜 事 事 令 人 幽 停 橈 向 余 景 崔 顥 Nhập Nhược Da Khê Khinh chu khứ hà tật Dĩ đáo vân lâm cảnh Khởi tọa vân điểu gian Động dao sơn thủy ảnh Nham trung hưởng tự đáp Khê lý ngôn di tĩnh Sự sự linh nhân u Đình nhiêu hướng dư cảnh Thôi Hiệu (vào khe Nhược Da) (thuyền nhẹ nên đi nhanh làm sao!) (đã tới cảnh rừng có mây phủ rồi) (đứng ngồi giữa đám chim trên mây) (hình núi phản chiếu trên mặt nước lay động) (trong hang đá tiếng vang tự vọng lại) (trong khe tiếng nói càng lặng thinh) (mọi sự đều làm người ta thấy an nhàn) (dừng mái chèo mà ngắm phong cảnh) Vào Khe Nhược Da Thuyền lướt nhẹ,
chả lẽ nhanh đến thế !
Vừa mới đây rừng mây phủ trập trùng
Chim tung trời trùm kín khắp không trung
Làm bóng núi rung rinh trên mặt nước
Trong hang động âm thanh vang dội ngược
Suối rì rào, lời nhoà nhạt như mơ
Hồn lâng lâng giữa cảnh đẹp nên thơ
Buông chèo ngắm chốn thần tiên dương thế SongNguyễn HànTú
入 天 台 樹 入 天 台 石 路 新 雲 和 草 靜 迥 無 塵 煙 霞 不 省 生 前 事 水 木 空 疑 夢 後 身 往 往 雞 鳴 岩 下 月 時 時 犬 吠 洞 中 春 不 知 此 地 歸 何 處 須 就 桃 源 問 主 人 曹 唐 Nhập Thiên Thai Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân Vân hòa thảo mộc quýnh vô trần Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự Thủy mộc không nghi mộng hậu thân Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt Thời thời khuyển phệ động trung xuân Bất tri thử địa quy hà xứ Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân Tào Đường (vào [núi] Thiên Thai) (đường đá vào Thiên Thai có nhiều cây và trông như mới) (mây êm trôi, cỏ yên tĩnh, tuyệt không đâu vương bụi) (sương khói và ráng chiều làm khách quên hết những sự việc trước kia) (nước suối và cây cối làm khách ngờ rằng đang sống trong mộng) Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt (xa xa có tiếng gà gáy dưới trăng bên vách đá) (lâu lâu có tiếng chó sủa trong hang động xuân) (không biết nơi này sẽ dẫn tới xứ nào?) (chắc là phải tới [xóm] Đào Nguyên hỏi chủ nhà) Nhập Thiên Thai Đường đá mới Lối Thiên Thai rợp bóng Cảnh êm đềm, mây lờ lững buông trôi Khói huyền mơ Ráng chiều đẹp tuyệt vời Đây là thực hay chỉ là ảo mộng Tiếng gà gáy dưới núi trăng nghiêng bóng Chó sủa vang nơi hang động trời xuân Lối về đâu Lòng tự vấn bao lần Chắc phải gặp chủ nhân Đào Nguyên hỏi SongNguyễn HànTú
入 四 口 洪 河 一 派 清 淮 接 蔓 草 蘆 花 萬 里 秋 煙 樹 蒼 茫 分 楚 澤 海 雲 明 滅 見 楊 州 望 深 江 漢 連 天 遠 思 起 鄉 關 滿 眼 愁 惆 悵 路 岐 真 此 處 夕 陽 西 下 水 東 流 李 紳 Nhập Tứ Khẩu Hồng hà nhất phái thanh Hoài tiếp Mạn thảo lô hoa vạn lý thu Yên thụ thương mang phân Sở trạch Hải vân minh diệt kiến Dương Châu Vọng thâm giang Hán liên thiên viễn Tứ khới hương quan mãn nhãn sầu Trù trướng lộ kỳ chân thử xứ Tịch dương tây há thủy đông lưu Lý Thân (vào cửa sông Tứ) (một nhánh sông lớn [sông Tứ] chảy vào sông Hoài nước trong) (mùa thu, cỏ dây leo và hoa lau mọc dài cả vạn dặm) (chỗ cây cối tỏa sương khói xanh âm u là đầm đất Sở) (chỗ mây biển khi tỏ khi mờ là huyện Dương Châu) (còn vọng nhìn về sông Hán thì xa xôi lắm) (càng nhìn lòng nhớ quê càng làm buồn bã thêm) (chính chỗ này gợi niềm đau chia rẽ) (mặt trời chiều lặn phía tây còn sông nước chảy về đông) Vào Cửa Sông Tứ Nhập dòng Hoài nước xanh lơ Bao la lau cỏ mịt mờ sắc thu Sương lam phảng phất mơ hồ Xa xa mây biển tỏ mờ Dương Châu Vời nhìn Giang Hán dòng sâu Nhớ quê khắc khoải, dạ sầu mênh mông Ngó theo ngã rẽ đau lòng Trời Tây bóng xế... nẻo Đông nước về SongNguyễn HànTú ************************************ 日 暮 牛 羊 下 來 久 各 已 閉 柴 門 風 月 自 清 夜 江 山 非 故 園 石 泉 流 暗 壁 草 露 滴 秋 根 頭 白 燈 明 裡 何 須 花 燼 繁 杜 甫 Nhật Mộ Ngưu dương há lai cửu Các dĩ bế sài môn Phong nguyệt tự thanh dạ Giang son phi cố viên Thạch tuyền lưu ám bích Thảo lộ trích thu căn Đầu bạch đăng minh lý Hà tu hoa tẫn phồn Đỗ Phủ (trời chiều) (trâu dê xuống núi về đã lâu) (mọi nơi đều đã đóng cổng cây) (ban đêm trăng thanh gió mát) ([nhưng] núi sông này không phải chốn vườn cũ) (suối chảy bên vách đá u ám) (sương móc trên ngọn cỏ rơi xuống gốc trong tiết thu) (mái đầu bạc bên ngọn đèn sáng) (đâu cần ra hoa đèn nhiều) Chiều Sườn núi vắng,
dê trâu về thôn dã
Khắp mọi nhà cổng tre đã cài then
Cảnh im lìm giữa trăng gió trời đêm
Sông với núi thật khác xa chốn ấy
Nghe róc rách trên đá mờ suối chảy
Ngọn cỏ già chẳng lưu luyến sương thu
Dưới ánh đèn tóc bạc trắng như tơ
Thiết gì đến đám hoa đèn nở rộ SongNguyễn HànTú
農 父 運 鋤 耕 斸 侵 星 起 隴 畝 豐 盈 滿 家 喜 到 頭 禾 黍 屬 他 人 不 知 何 處 拋 妻 子 張 碧 Nông Phủ Vận sừ canh chúc xâm tinh khởi Lũng mẫu phong doanh mãn gia hỉ Đáo đầu hòa thử thuộc tha nhân Bất tri hà xứ phao thê tử Trương Bích (ông già làm ruộng) (mang bừa, cày, cuốc ra đồng từ lúc sao trời chưa lặn) (ruộng đất thu hoạch tốt cả nhà đều vui mừng) (cuối cùng thì thóc lúa thuộc về người khác [chủ đất] ) (biết vứt bỏ vợ con đi chỗ nào bây giờ?) Nhà Nông Mới sáng sớm đã ra đồng cuốc đất Ruộng được mùa ai nấy cũng mừng vui Gặt vừa xong thóc chuyển đến nhà người Vợ con đói đem vứt đâu trời hỡi ! ! ! SongNguyễn HànTú **************************************** 烏 夜 啼 黃 雲 城 邊 烏 欲 棲 歸 飛 啞 啞 枝 上 啼 機 中 織 錦 秦 川 女 碧 紗 如 煙 隔 窗 語 停 梭 悵 然 憶 遠 人 獨 宿 孤 房 淚 如 雨 李 白 Ô Dạ Đề Hoàng vân thành biên ô dục thê Quy phi á á chi thượng đề Cơ trung chức ẩm Tần Xuyên nữ Bích sa như yên cách song ngữ Đình thoa trướng nhiên ức viễn nhân Độc túc cô phòng lệ như vũ Lý Bạch (quạ kêu đêm) (phía thành có đám mây vàng quạ đang tìm chỗ đậu) (chúng bay về đậu trên cành cây kêu inh ỏi) (cô gái xứ Tần Xuyên ngồi bên khung cửi dệt gấm) (nàng thì thầm sau bức màn lụa xanh mỏng như sương khói) (ngừng đưa thoi, buồn bã nhớ đến người ở xa) (một mình trong phòng vắng, nước mắt rơi như mưa) Quạ Kêu Đêm Thành mây vàng ửng lưng trời
Qụa kêu inh ỏi tìm nơi họp đàn
Bên khung cửi
Gái Tần Xuyên
Thẫn thờ dệt gấm bên rèm lụa xanh
Thì thầm than thở riêng mình
Tay thoi đờ đẫn nhớ tình vắng xa
Cô đơn . . . lả tả lệ nhòa SongNguyễn HànTú
烏 棲 曲 姑 蘇 臺 上 烏 棲 時 吳 王 宮 裏 醉 西 施 吳 歌 楚 舞 歡 未 畢 青 山 欲 銜 半 邊 日 銀 箭 金 壺 漏 水 多 起 看 秋 月 墜 江 波 東 方 漸 高 奈 樂 何 李 白 Ô Thê Khúc Cô Tô đài thượng ô thê thì Ngô vương cung lý túy Tây Thi Ngô ca Sở múa hoan vị tất Thanh sơn dục hàm bán biên nhật Ngân tiễn kim hồ lậu thủy đa Khởi khan thu nguyệt trụy giang ba Đông phương tiệm cao nại lạc hà Lý Bạch (khúc hát Quạ Đậu) (vào lúc quạ đậu [ngủ đêm] trên đài Cô Tô) (vua Ngô ở trong cung đang say mê nàng Tây Thi) (bài hát xứ Ngô, điệu múa nước Sở vui thú chưa tàn cuộc) (mặt trời đã lên nửa vành trên núi xanh rồi) (mũi tên bạc trong bình vàng chỉ nước nhỏ giọt đã lâu) (xem kìa trăng thu đã lặn xuống sóng nước rồi) (phương đông dần dần sáng rõ, vui mãi được sao?) Khúc Hát Quạ Đậu Đài Cô Tô nhởn nhơ loài quạ đậu Vua vẫn say bên người ngọc Tây Thi Bài hát Ngô, điệu vũ Sở còn mê Núi đã ngậm nửa mặt trời chẳng biết Nước ngâm tên rong bình vàng rỉ hết Ngẩng trông lên... Trăng thu đã rơi rồi Tan giữa làn sóng bạc lặng lờ trôi Mặt trời đã lên cao...còn mê mẩn SongNguyễn HànTú
怨 情 美 人 卷 珠 帘 深 坐 顰 蛾 眉 但 見 淚 痕 濕 不 知 心 恨 誰 李 白 Oán Tình Mỹ nhân quyển châu liêm Thâm tọa tần nga mi Đản kiến lệ ngân thấp Bất tri tâm hận thùy? Lý Bạch (giận hờn) (người đẹp cuốn rèm ngọc lên) (ngồi lâu yên lặng, chau mày ngài) (chỉ thấy ngấn lệ chứa chan) (chẳng biết lòng nàng đang giận ai đây?) Sầu Tình Thẫn thờ rèm ngọc cuốn lên
Giai nhân lặng lẽ ngồi nhìn xa xa
Rưng rưng mắt lệ hoen nhòa
Hờn ai mỹ nữ lệ sa tủi buồn SongNguyễn HànTú ***************************************** 烏 衣 巷 朱 雀 橋 邊 野 草 花 烏 衣 巷 口 夕 陽 斜 舊 時 王 謝 堂 前 燕 飛 入 尋 常 百 姓 家 劉 禹 錫 Ô Y Hạng Chu Tước kiều biên dã thảo hoa Ô Y hạng khẩu tịch dương tà Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến Phi nhập tầm thường bách tính gia Lưu Vũ Tích (ngõ xóm “Áo Đen”) (bên cầu Chu Tước cỏ ra hoa) (ngoài ngõ xóm “Áo Đen” mặt trời đang lặn) (những con én thường ngụ trước nhà họ Vương, họ Tạ thời xa xưa) (đã bay vào các nhà tầm thường trăm họ) Ghi chú : Đời Đông Tấn (khoảng năm 317) có hai nhà quyền quý là Vương Tấn và Tạ An lập ấp tại huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô ngày nay. Người trong hai họ đều mặc quần áo màu đen. Tang thưong biến đổi, hai họ không còn ở đấy nữa, nhưng còn để lại tên ngõ xóm Ô Y này. Hẻm Ô Y Cầu Chu Tước rặt hoa đồng cỏ dại
Chiều dần buông nơi ngõ hẹp Ô Y
Nhà Tạ, Vương xưa chim én đi về
Giờ tản mạn khắp hang cùng ngõ hẹp SongNguyễn HànTú
怨 情 美 人 卷 珠 帘 深 坐 顰 蛾 眉 但 見 淚 痕 濕 不 知 心 恨 誰 李 白 Oán Tình Mỹ nhân quyển châu liêm Thâm tọa tần nga mi Đản kiến lệ ngân thấp Bất tri tâm hận thùy? Lý Bạch (giận hờn) (người đẹp cuốn rèm ngọc lên) (ngồi lâu yên lặng, chau mày ngài) (chỉ thấy ngấn lệ chứa chan) (chẳng biết lòng nàng đang giận ai đây?) Sầu Tình Thẫn thờ rèm ngọc cuốn lên
Giai nhân lặng lẽ ngồi nhìn xa xa
Rưng rưng mắt lệ hoen nhòa
Hờn ai mỹ nữ lệ sa tủi buồn SongNguyễn HànTú ***************************************** 怨 詞 樓 頭 桃 李 疏 池 上 芙 蓉 落 織 錦 猶 未 成 蟲 聲 入 羅 幕 崔 國 輔 Oán Từ Lâu đầu đào lý sơ Trì thượng phù dung lạc Chức cẩm do vi thành Trùng thanh nhập la mạc Thôi Quốc Phụ (lời oán hận) (phía đầu nhà trái đào trái mận thưa thớt) (trên ao hoa sen rơi rụng) (việc dệt gấm vẫn chưa xong) (tiếng côn trùng lọt qua màn lụa [vào phòng]) Lời Oán Lối kia đào mận vắng thưa
Trên ao sen súng cũng vừa tả tơi
Gấm đâu đã dệt xong rồi
Mà giun dế đã rộn ngoài màn treo SongNguyễn HànTú *********************************** 汾 上 驚 秋 北 風 吹 白 雲 萬 里 渡 河 汾 心 緒 逢 搖 落 秋 聲 不 可 聞 蘇 頲 Phần Thượng Kinh Thu Bắc phong xuy bạch vân Vạn lý độ hà Phần Tâm tự phùng dao lạc Thu thanh bất khả văn Tô Đĩnh (ngán tiết thu trên sông Phần) (gió bấc xua đuổi mây trắng) (đi xuôi dòng muôn dặm trên sông Phần) (tâm tư nhằm lúc nhìn gió lay lá rụng) (nên không thể nghe được tiếng thu) Nỗi Ngại Mùa Thu Trên Sông Phần
Ào ào gió bấc lùa mây
Đường trường muôn dặm lối này qua sông
Lá rơi xao xuyến tim lòng
Chẳng nghe được nỗi não nùng tiếng Thu
SongNguyễn HànTú
廢 宅 風 飄 碧 瓦 雨 摧 垣 卻 有 鄰 人 為 鎖 門 幾 樹 好 花 閑 白 晝 滿 庭 芳 草 易 黃 昏 放 魚 池 涸 蛙 爭 聚 棲 燕 梁 空 雀 自 喧 何 獨 淒 涼 眼 前 事 咸 陽 久 已 變 寒 原 吳 融 Phế Trạch Phong phiêu bích ngõa, vũ thôi viên Khước hữu lân nhân vị tỏa môn Kỷ thụ hảo hoa hưu bạch trú Mãn đình phương thảo dị hoàng hôn Phóng ngư trì hạc oa tranh tụ Thê yến lưong không tước tự huyên Hà độc thê lương nhãn tiền sự Hàm Dưong cửu dĩ biến hàn nguyên Ngô Dung (nhà bỏ hoang) (gió thổi bay ngói xanh, mưa làm đổ vách) (có người hàng xóm vị tình khóa cửa giùm) (có vài cây ra hoa lặng lẽ trong nắng) (cỏ thơm mọc đầy sân trước âm u như chiều buông) (ao nuôi cá khô cạn, ếch nhái tranh nhau tụ tập) (rường nhà nơi én làm tổ, trống không, chim sẻ ríu rít) (đâu phải chỉ có cảnh trước mát mới thê lương) (ngay thành Hàm Dương đã biết thành cánh đồng lạnh lâu rồi) Nhà Bỏ Hoang Mưa đổ vách, mái ngói xanh tơi tả Cửa mở toang người hàng xóm khép dùm Cây nở hoa khắp lối Sân cỏ mọc tối om Tiếng ếch nhái kêu vang vùng ao cạn Nhạn vắng xa, sẻ ríu rít từng đàn Nào đâu chỉ riêng nơi đây hoang phế Ngay Hàm Dương thành đồng ruộng...nát tan ! SongNguyễn HànTú ************************************************ 房 兵 曹 胡 馬 胡 馬 大 宛 名 鋒 稜 瘦 骨 成 竹 批 雙 耳 峻 風 入 四 蹄 輕 所 向 無 空 闊 真 堪 託 死 生 驍 騰 有 如 此 萬 里 可 橫 行 杜 甫 Phòng Binh Tào Hồ Mã Hồ mã Đại Uyển danh Phong lăng sấu cốt thành Trúc phê song nhĩ tuấn Phong nhập tứ đề khinh Sở hướng vô không xứ Chân kham thác tử sinh Kiêu đằng hữu như thử Vạn lý khả hoành hành Đỗ Phủ Con Ngựa Hồ Của Ông Tào (con ngựa xứ Hồ này thuộc giống Đại Uyển danh tiếng) (xương nhỏ [nhưng cứng] như làm bằng cạnh mũi mác) (hai tai như tre vót nhọn vểnh cao) (bốn vó nhẹ nhàng như có gió nhập vào) (thích chạy tới những vùng bao la vô tận) (thực sự chấp nhận phó mặc cho lẽ sống chết) (có thể chạy vùn vụt như thế) (mới cho thể tung hoành vạn dặm xa) Con Ngựa Hồ Của Ông Tào Loài Đại Uyển lừng danh có khác Xương cứng như cạnh mác tạo thành Tai lá tre chọc trời xanh Nhẹ nhàng lướt gió soải khinh đường dài Hướng vùng cao giữa trời đùa giỡn Vùn vụt lao nào quản tử sinh Nhởn nhơ nhịp vó thỏa tình Vượt qua vạn dặm tung hoành như chơi SongNguyễn HànTú ********************************** 訪 戴 天 山 道 士 不 遇 犬 吠 水 聲 中 桃 花 帶 露 濃 樹 深 時 見 鹿 溪 午 不 聞 鐘 野 竹 分 青 靄 飛 泉 挂 碧 峰 無 人 知 所 去 愁 倚 兩 三 鬆 李 白 Phỏng Đái Thiên Sơn Đạo Sĩ Bất Ngộ Khuyển phệ thủy thanh trung Đào hoa đới vũ nùng Thụ thâm thời kiến lộc Khê ngọ bất văn chung Dã trúc phân thanh ái Phi tuyền quải bích phong Vô nhân tri sở khứ Sầu ỷ lưỡng tam tùng Lý Bạch (thăm đạo sĩ Đái Thiên Sơn không gặp) (có tiếng chó sủa lẫn trong tiếng nước [suối róc rách]) (hoa đào đẫm nước mưa) (cây cối um tùm, thỉnh thoảng thấy hươu nai) (đến giờ ngọ không thấy tiếng chuông trong khe núi) (khóm tre rừng cách biệt với đám mây xanh) (dòng suối chảy tuôn [trông như] treo từ đỉnh núi xanh biếc) (không ai biết [đạo sĩ] đi đâu) ( buồn bã đứng tựa đôi ba cây thông) Thăm Đạo Sĩ Đái Thiên Sơn Không Gặp Tiếng chó sủa giữa suối reo róc rách Tắm trong mưa hoa đào thắm hồng tươi Cây um tùm, thỉnh thoảng một bóng nai Giữa khe vắng chả nghe chuông điểm ngọ Bụi trúc hoang cách đỉnh trời xa quá Dòng suối tuôn như treo giữa non xanh Người vắng xa ta thơ thẩn riêng mình Vệt sầu đọng... Dựa gốc thông... Ngơ ngẩn SongNguyễn HànTú
楓 橋 夜 泊 月 落 烏 啼 霜 滿 天 江 楓 漁 火 對 愁 眠 姑 蘇 城 外 寒 山 寺 夜 半 鐘 聲 到 客 船 張 繼 Phong Kiều Dạ Bạc Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền Trương Kế (thuyền đậu đêm tại Phong Kiều) (trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời) (hàng cây phong , lửa bếp ghe chài, chằn chọc buồn) (từ chùa Hàn San ở ngoại ô thành Cô Tô) (nửa đêm tiếng chuông vẳng tới thuyền khách du) Đêm Phong Kiều Trời mù sương, quạ kêu vang, trăng lặn
Đèn chài mờ, phong đứng, giấc không yên
Ngoại Cô Thành chùa Hàn phủ sương đêm
Chuông khuya vọng âm vang thuyền viễn khách SongNguyễn HànTú ********************************************** 訪 袁 拾 遺 不 遇 洛 陽 訪 才 子 江 嶺 作 流 人 聞 說 梅 花 早 何 如 此 地 春 孟 浩 然 Phỏng Viên Thập Di Bất Ngộ Lạc Dương phỏng tài tử Giang Lĩnh tác lưu nhân Văn thuyết mai hoa tảo Hà như thử địa xuân Mạnh Hạo Nhiên (thăm quan Thập di họ Viên không gặp) (thăm người hiền tài ở Lạc Dương) (mới hay [người ấy] đã phải đi lưu dày ở Giang Lĩnh) (nghe nói ở đó hoa mai nở sớm) (nhưng xuân chắc không bằng được nơi đây [Lạc Dương}) Thăm Quan Thập Di Không Gặp Trọng hiền ghé Lạc Dương thăm Ngờ đâu Giang Lĩnh buộc chân người tài Nghe đồn chốn ấy hoa mai Thường hay nở sớm khác trời nơi đây SongNguyễn HànTú ************************************* 鄜 洲 留 別 張 員 外 江 南 相 送 君 山 下 塞 北 相 逢 朔 漠 中 三 楚 故 人 皆 是 夢 十 年 往 事 只 如 風 莫 言 身 世 他 時 異 且 喜 琴 樽 數 日 同 惆 悵 只 愁 明 日 別 馬 嘶 山 店 雨 濛 濛 韋 莊 Phu Châu Lưu Biệt Trương Viên Ngoại Giang Nam tương tống quân sơn hạ Tái bắc tương phùng sóc mạc trung Tam Sở cố nhân giai thị mộng Thập niên vãng sự chỉ như phong Mạc ngôn thân thế tha thời dị Thả hỉ cầm tôn sổ nhật đồng Trù trướng chỉ sầu minh nguyệt biệt Mã tê sơn điếm vũ mông mông Vi Trang (viết giã từ Trương viên ngoại ở Phu Châu) (ở Giang Nam đã từng tiễn nhau dưới núi Quân) (nơi biên ải mạn bắc đã từng gặp ông trong sa mạc) (người cũ vùng Tam Sở [gặp nhau] như trong mộng) (chuyện xưa trong mười năm thoảng như cơn gió) (xin đừng nói thân thế sau này sẽ đổi khác) (hãy cùng nhau vui vài ngày bên chén rượu và đàn) (lòng buồn rầu vì ngày mai đã cách biệt) (ngựa hí bên quán miền núi, mưa rơi mịt mùng) Thơ Từ Biệt Trương Viên Ngoại Tại Phu Châu Nơi Giang Nam núi Quân Sơn tiễn biệt Gặp nhau vùng sa mạc bắc ải quan Tựa giấc mơ nơi Tam Sở thân quen Việc đời đã mười năm như gió thoảng Tạm bỏ việc mai sau vào quên lãng Cùng vui ca bên chén rượu vài ngày Chỉ buồn cho nỗi xa cách mai này Quán ven núi mưa mù trời, ngựa hí SongNguyễn HànTú
復 愁 萬 國 尚 戎 馬 故 園 今 若 何 昔 歸 相 識 少 早 以 戰 場 多 杜 甫 Phục Sầu Vạn quốc thượng nhung mã Cố viên kim nhược hà? Tích quy tương thức thiểu Tảo dĩ chiến trường đa Đỗ Phủ (lại buồn) (khắp nơi vẫn còn giặc giã) (vườn cũ [ở Lạc Dương] bây giờ ra sao?) (lần về trước [cách 9 năm] gặp người quen ít) (vì lúc đó nhiều nơi sớm thành chiến trường rồi) Lại Buồn Binh đao tràn ngập khắp nơi Nào hay vườn cũ cuối trời ra sao Xưa về, người cũ phương nào Khắp nơi chốn ấy binh đao lan tràn SongNguyễn HànTú ************************************** 逢 俠 者 燕 趙 悲 歌 士 相 逢 劇 孟 家 寸 心 言 不 盡 前 路 白 將 斜 錢 起 Phùng Hiệp Giả Yên Triệu bi ca sĩ Tương phùng Kịch Mạnh gia Thốn tâm ngôn bất tận Tiền lộ bạch tương tà Tiền Khởi (hiệp sĩ gặp nhau) (hiệp sĩ nước Yên và nước Triệu hát những lời bi tráng) (khi gặp nhau tại nhà của Kịch Mạnh) (tấc lòng lời nói không diễn tả hết được) (con đường trước mặt sắp xế chiều) Hiệp Khách Gặp Nhau Lời buồn bã những cao nhân Yên Triệu Khi gặp nhau nơi Kịch Mạnh gia trang Nói làm sao cho hết nỗi đoạn trường Vận nước đã như trời chiều bóng ngả SongNguyễn HànTú ********************************** 逢 入 京 使 故 園 東 望 路 漫 漫 雙 袖 龍 鐘 淚 不 乾 馬 上 相 逢 無 紙 筆 憑 君 傳 語 報 平 安 岑 參 Phùng Nhập Kinh Sứ Cố viên đông vọng lộ man man Song tụ long chung lệ bất can Mã thượng tương phùng vô chỉ bút Bằng quân truyền ngữ báo bình an Sầm Tham (gặp người [quen] đi sứ vào Kinh đô) (ngoảnh về nhà cũ phương đông, đường xa thăm thẳm) ([lòng buồn] hai tay áo đẫm nước mắt rơi ướt chưa khô) (đang ngồi trên lưng ngựa gặp nhau, không giấy bút) (vậy nhờ ông nhắn miệng [cho nhà ] tôi vẫn bình an) Gặp người đi sứ kinh đô Trông về phương cũ dặm trường
Cả hai tay áo lệ vương đầm đìa
Gặp người đi sứ cùng quê
Sóng đôi lưng ngựa nhắn về bình an
SongNguyễn HànTú
過 崔 八 丈 水 亭 高 閣 橫 秀 氣 清 幽 併 在 君 簷 飛 宛 溪 水 窗 落 敬 亭 雲 猿 叫 風 中 斷 漁 歌 月 裏 聞 閒 隨 白 鷗 去 沙 上 自 為 群 李 白 Quá Thôi Bát Trượng Thủy Đình Cao các hoành tú khí Thanh u tinh tại quân Thiềm phi Uyển khê thủy Song lạc Kính Đình vân Viên khiếu phong trung đoạn Ngư ca nguyệt lý văn Nhàn tùy bạch âu khứ Sa thượng tự vi quần Lý Bạch (qua nhà cụ Thôi Bát bên suối) (nhà lầu cao đẹp hoành tráng) (thanh tịnh và u nhàn tất cả là nhờ bàn tay của cụ) (nước suối Uyển như bay trước thềm) (qua cửa sổ thấy mây thấp trên núi Kính Đình) (tiếng vượn hú vừa dứt trong gió) (lại nghe tiếng bác chài hát trong ánh trăng) (cứ cất bước nhàn tản theo đàn chim âu) (rốt cuộc quây quần với nhau trên bãi cát) Qua Nhà Trên Nước Của Cụ Tám Thôi Gác cao giữa cảnh hữu tình Nhờ tay người khéo nét thanh êm đềm Nước khe Uyển chảy ngang thềm Vương trên cửa sổ mây trên Kính Đình Gió đưa tiếng vượn lênh đênh Bên sông vọng lại lời tình dưới trăng Theo đàn âu dạo lang thang Tụ quanh trên bãi cát hoang thành bầy SongNguyễn HànTú *************************************** 過 陳 琳 墓 曾 於 青 史 見 遺 文 今 日 飄 零 過 古 墳 詞 客 有 靈 應 識 我 霸 才 無 主 始 憐 君 石 麟 埋 沒 藏 秋 草 銅 雀 荒 涼 對 暮 雲 莫 怪 臨 風 倍 惆 悵 欲 將 書 劍 學 從 軍 溫 庭 筠 Quá Trần Lâm Mộ (*Trần Lâm: Người thời Tam Quốc, nổi tiếng với bài hịch kể tội Tào Tháo) Tằng ư thanh sử kiến di văn Kim nhật phiêu linh quá cổ phần Từ khách hữu linh ưng tri ngã Bá tài vô chủ thủy liên quân Thạch lân mai một tàng thu thảo Đồng tước hoang lương đối mộ vân Mạc quái lâm phong bồi trú trướng Dục tương thu kiếm học tòng quân Ôn Đình Quân (*Trần Lâm: Người thời Tam Quốc, nổi tiếng với bài hịch kể tội Tào Tháo) ([tôi] đã từng đọc bài hịch [của ông] trong sử sách) (hôm nay tình cờ đi ngang ngôi mộ cũ [của ông]) (khách làm thơ có linh thiêng tất biết ra tôi) (tôi bắt đầu cảm thương cho người tài mất chủ nhân) (lân đá chìm khuất trong cỏ thu um tùm) (chim sẻ bằng đồng hoang lạnh trong mây chiều) (xin đừng lạ sao tôi buồn bã trước gió nổi) (vì tôi sắp mang bút và gươm tòng quân như ông) Qua Mộ Trần Lâm Văn ông trong sử lưu truyền Hôm nay may được hữu duyên viếng mồ Hồn linh thiêng hẳn hiểu cho Kẻ tài không chủ thẫn thờ cảm thông Lân vùi giữa cỏ bên đường Sẻ đồng lạnh giá chiều vương mây sầu Gió về càng gợi niềm đau Muốm đem kiếm, sách cúi đầu tòng quân SongNguyễn HànTú *************************************** 過 酒 家 此 日 長 昏 飲 非 關 養 性 靈 眼 看 人 盡 醉 何 忍 獨 為 醒 王 績 Quá Tữu Gia Thử nhật trường hôn ẩm Phi quan dưỡng tính linh Nhãn kiến nhân tận túy Hà nhẫn độc vi tinh Vương Tích (qua quán rượu) (hôm ấy uống lâu đến say mèm) (không màng gì đến việc tu dưỡng tâm tính) (mắt thấy người người ai cũng say cả) (sao nỡ một mình làm người tỉnh) Qua quán rượu Say đi, hãy uống say đi Ai cười cũng mặc ngán gì chẳng say Quanh ta người đã ngất ngây Chỉ riêng ta tỉnh có hay nỗi nào SongNguyễn HànTú
觀 祈 雨 桑 條 無 葉 土 生 煙 簫 管 迎 龍 水 廟 前 朱 門 幾 處 看 歌 舞 猶 恐 春 陰 咽 管 弦 李 約 Quan Kỳ Vũ Tang điều vô diệp thổ sinh yên Tiêu quản nghênh long thủy miếu tiền Chu môn kỷ xứ khan ca vũ Do khủng xuân âm yết quản huyền Lý Ước (xem cầu mưa) (cành dâu không còn lá, mặt đất bốc hơi nóng) (trước miếu Thủy thần [người ta] thổi sáo mời rồng tới [để làm mưa]) (ở vài lầu son [người giàu sang vào] coi ca múa) (lại sợ trời xuân râm mát [lúc chuyển mưa] sẽ làm đàn và sáo bị át đi) Xem Lễ Cầu Mưa Cành dâu xơ xác, khói mù tung
Trước miếu tiêu vang vút đón rồng
Đứng chốn lầu son xem hát múa
Trời xuân tiếng sáo mất âm trong SongNguyễn HànTú ********************************* 關 山 月 明 月 出 天 山 蒼 茫 雲 海 間 長 風 幾 萬 里 吹 度 玉 門 關 漢 下 白 登 道 胡 窺 青 海 灣 由 來 征 戰 地 不 見 有 人 還 戍 客 望 邊 色 思 歸 多 苦 顏 高 樓 當 此 夜 歎 息 未 應 閑 李 白 Quan San Nguyệt Minh nguyệt xuất Thiên Sơn Thưong mang vân hải gian Trường phong kỷ vạn lý Xuy độ Ngọc Môn quan Hán há Bạch Đăng đạo Hồ khuy Thanh Hải loan Do lai chinh chiến địa Bất kiến hữu nhân hoàn Thú khách vọng biên sắc Tư quy đa khổ nhan Cao lâu đương thử dạ Thán tức vị ưng nhàn Lý Bạch (trăng nơi biên ải vùng núi) (trăng sáng ló ra từ núi Thiên Sơn) (đám mây xám mênh mông như biển) (ngọn gió mạnh đã mang đi vạn dặm) (thổi tới cửa ải Ngọc Môn này) (quân Hán kéo xuống đường đi núi Bạch Đăng) (giặc Hồ nhòm ngó vũng Thanh Hải) (từ xưa tới nay nơi chiến địa) (chưa thấy người nào trở về) (người lính trú đóng nhìn cảnh tượng nơi biên ải) (nỗi nhớ nhà hiện rõ trên khuôn mặt buồn rầu) (cùng đêm đó nơi lầu cao kia) ([chinh phụ] than thở [ngủ] không yên) Trăng Quan San Trăng khuất Thiên San
Biển trời mờ mịt
Ải Môn quan
Gió lộng lan tràn
…
Đường thành Bạch ầm ầm quân Hán
Lối vịnh Thanh ngàn vạn rợ Hồ
Than ơi chinh chiến tự xưa
Sa trường mấy kẻ trở về mà mong
Người lính thú não nùng đau khổ
Ngó biên thùy lòng nhớ quê hương
Chơ vơ vọng gác đêm sương
Xót xa thân phận đoạn trường thảm thay SongNguyễn HànTú ********************************* 官 倉 鼠 官 倉 老 鼠 大 如 斗 見 人 開 倉 亦 不 走 健 兒 無 糧 百 姓 飢 誰 遣 朝 朝 入 君 口 曹 鄴 Quan Thương Thử Quan thương lão thử đại như đấu Kiến nhân khai thương diệc bất tẩu Kiện nhi vô lương bách tính cơ Thùy khiển triêu triêu nhập quân khẩu Tào Nghiệp (chuột ở trong kho nhà nước) (con chuột già trong kho của nhà nước to như cái đấu) (thấy người mở kho cũng không thèm chạy) (lính không lương thảo, trăm họ đói khổ) (vậy ai sáng sáng đút [gạo] vào miệng mi ?) Con Chuột Trong Kho Nhà Nước Lão chuột già ẩn trong kho nhà nước Đầu thù lù coi người chẳng ra gì Lính đói meo, dân tình khổ trăm bề Mà thóc gạo vô miệng già đầy ắp SongNguyễn HànTú
郡 中 言 懷 功 名 無 力 愧 勤 王 以 近 終 南 得 草 堂 身 外 盡 歸 天 竺 偈 腰 間 未 解 會 嵇 章 何 時 臘 酒 逢 山 客 可 惜 梅 枝 亞 石 床 歲 晚 我 知 無 別 事 擬 心 久 在 白 雲 鄉 羊 士 諤 Quận Trung Ngôn Hoài Công danh vô lực quý cần vương Dĩ cận Chung Nam đắc thảo đường Thân ngoại tận quy Thiên Trúc kệ Yên gian vị giải Cối Kê chương Hà thời lạp tửu phùng sơn khách Khả tích mai chi á thạch sàng Tuế vãn ngã tri vô biệt sự Nghĩ tâm cửu tại bạch vân hương Dưong Sĩ Ngạc (nói lên nỗi lòng trong quận đường) (hổ thẹn vì không đủ tài giúp vua [ở kinh đô]) (đã có được ngôi nhà cỏ bên núi Chung Nam) (tâm hồn đã gửi vào lời kinh tiếng kệ xứ Thiên Trúc) (ngang lưng vẫn còn đeo quan chức Cối Kê) (đến bao giờ mới được cùng khách vùng núi rượu thịt ?) (tiếc cho cành mai không [tiện ích] bằng giường đá này) (tôi biết cuối năm chẳng có sự việc gì khác lạ xảy ra) (nên thả tâm hồn trôi mãi vào quê hương mây trắng) Nói lên nỗi lòng trong quận đường Tài thô thiển, danh không thành hổ thẹn Muốn về Chung nơi nhà cỏ ẩn cư Bên câu kinh, tiếng kệ, hướng chân như Nhưng lưng vẫn áo với đai vướng mắc Muốn cùng bạn rượu, thịt rừng thù tạc Thương nhánh mai đứng trơ trẽn bên giường Cuối năm rồi việc cũng bớt nhiễu nhương Lòng thảnh thản mơ vùng trời mây trắng SongNguyễn HànTú ****************************************** 觀 永 樂 公 主 入 蕃 邊 地 鶯 花 少 年 來 未 覺 新 美 人 天 下 落 龍 塞 始 應 春 孫 逖 Quan Vĩnh Lạc Công Chủ Nhập Phiên Biên địa oanh hoa thiểu Niên lai vị giác tân Mỹ nhân thiên hạ lạc Long tái thủy ưng xuân Tôn Địch (xem công chúa Vĩnh Lạc vào đất Phiên) (nơi biên giới chim oanh và hoa thưa thớt) (năm mới đã tới mà chẳng thấy có gì mới cả) (người đẹp như từ trời lạc bước) (cửa ải Long mới bắt đầu cảm thấy có mùa xuân) Xem Vĩnh Lạc Công Chúa Vào Đất Phiên Hoa, chim oanh vắng bóng Năm mới chẳng thắm tươi May tiên tới tự trời Ải Long bừng xuân sắc SongNguyễn HànTú ************************************* 歸 州 昭 君 廟 獻 之 閑 坐 說 歸 州 曾 到 昭 君 廟 裡 游 自 古 行 人 皆 怨 恨 至 今 鄉 土 尚 風 流 泉 如 珠 淚 侵 階 滴 花 似 紅 妝 滿 路 愁 河 畔 猶 殘 翠 眉 樣 有 時 新 月 傍 簾 鉤 李 遠 Quy Châu Chiêu Quân Miếu Hiến Chi nhàn tọa thuyết Quy Châu Tằng đáo Chiêu Quân miếu lý du Tự cổ hành nhân giai oán hận Chí kim hương thổ thượng phong lưu Tuyền như châu lệ xâm giai trích Hoa tự hồng trang mãn lộ sầu Hà bạn do tàn thúy mi dạng Hữu thời tân nguyệt bạng liêm câu Lý Viễn (miếu Chiêu Quân ở Quy Châu) (Hiến Chi ngồi nhàn kể chuyện Quy Châu) (nói đã từng ghé thăm miếu Chiêu Quân) (từ xưa khách du ai cũng tỏ lòng thương xót) (nay thì quê hương [nghèo] của nàng đã khá nhiều) (nước suối đổ xuống thềm như những giọt nước mắt ngọc) (hoa trang điểm màu hồng trên suốt con đường buồn bã) (bờ sông vẫn mang dáng vẻ khóe mắt biếc tàn tạ [của người xưa]) (bữa đó trăng non mọc gần rèm câu) Ghi Chú: Chiêu Quân sắc nước hương trời, là cung nữ đời Hán Nguyên Đế. Vì nhà nghèo không có tiền đút lót nên bị họa sỉ vẽ xấu. Vua đã không đoái hoài mà còn cống cho rợ Hồ. Nàng chết trên đất Hồ, mộ chôn tại Quy Châu, nay thuộc huyện Tuy Quy, tỉnh Tuy Viễn. Miếu Chiêu Quân Dáng nhàn hạ Hiến Chi ngồi kể chuyện Qua Qui Châu ghé thăm miếu Chiêu Quân Niềm xót thương còn mang mang chưa dứt Chốn làng xưa đã khấm khá hơn dần ............................................. Giòng suối chảy nước tràn như mắt lệ Hoa bên đường lộng thêm vẻ u sầu Ven sông vẫn nét xanh xanh mày liễu Vầng trăng non nghiêng bóng trước rèm câu SongNguyễn HànTú
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: