Phỏng dịch Đường Thi- NguyễnTâmHàn
大林寺桃花 白居易 人間四月芳菲盡 山寺桃花始盛開 長恨春歸無覓處 不知轉入此中來 Đại Lâm tự đào hoa Bạch Cư Dị
Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận ,
Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai .
Trường hận xuân qui vô mịch xứ ,
Bất tri chuyển nhập thử trung lai .
Hoa đào chùa Đại Lâm Hoa tàn tạ, đã tháng tư Quanh chùa đỉnh núi đào vừa trổ bông Từ đâu Xuân lại bực không Giờ còn lẩn khuất tận trong núi này NguyễnTâmHàn
滕王閣
王勃
滕王高閣臨江渚﹐
佩玉鳴鸞罷歌舞。
畫棟朝飛南浦雲﹐
朱帘暮捲西山雨。
閑雲潭影日悠悠﹐
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在﹐
檻外長江空自流。
Đằng Vương Các
Vương Bột
Đằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại Trường giang không tự lưu
Lầu Xưa Đằng Vương Nhìn lầu trên bãi sông Xưa vui ca, giờ quá não nùng Cột trên thân vẽ hoa Giữa bình minh một thoáng mây qua Vời trông qua trướng thêu Núi nẻo xa mờ phủ mây chiều Ngàn năm mây vẫn bay Trên đầm in còn mãi không phai Đời bao nhiêu đổi thay Đâu người xưa ở chốn gác này Kìa bên hiên nước trôi Mãi ngàn năm về chốn xa xôi NguyễnTâmHàn
Đề thành đô nam trang Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu xuân phong
Thôi Hộ
Bài 1 Năm qua bên cửa dáng ai Hây hây má thắm, hồng tươi sắc đào Giờ nàng biền biệt phương nào Chỉ hoa vẫn đó khoe mầu sắc thôi Bài 2 Năm qua cũng tại cửa này Hoa đào khoe sắc, em hây má hường Giờ người biền biệt xa phương Chỉ hoa vẫn nở trong vườn thắm tươi NguyễnTâmHàn
秋夕
銀燭秋光冷畫屏
輕羅小扇撲流螢
天階夜色涼如水
臥看牽牛織女星
Thu tịch
Ngân chúc thu quang lănh họa bình
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh
Thiên giai dạ sắc lương như thủy
Tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh
Đêm Thu Tĩnh Mịch Ánh đèn leo lét rọi bình phong Quạt luạ phất quơ đóm lòng vòng Trời đêm trong mát như nguồn nước Ngắm sao Ngưu Chức giữa không trung NguyễnTâmHàn
孟浩然
望洞庭湖贈張丞相
八月湖水平, 涵虛混太清。
氣蒸雲夢澤, 波撼岳陽城。
欲濟無舟楫, 端居恥聖明。
坐觀垂釣者, 空有羨魚情。
Lâm Động Đình
(Vọng Động Đình hồ tặng Trương Thừa Tướng)
Bát nguyệt hồ thủy bình
Hàm hư hỗ thái thanh
Khí chưng Vân mộng trạch
Ba hám Nhạc dương thành
Dục tế vô chu tiếp
Đoan cư sỉ thánh minh
Tọa quan tùy điếu giả
Đồ hữu tiễn ngư tình Mạnh Hạo Nhiên Đến hồ Đông Đình Tháng tám hồ phẳng lặng Nước trời một mầu xanh Đầm Vân khí toả lênh đênh Nhấp nhô sóng lượn lay thành Lạc Dương Muốn qua không thuyền giúp Ở, lòng luống thẹn thuồng Ngồi nhìn dây thả câu buông Cá đâu chẳng thấy, lòng vương nỗi niềm NguyễnTâmHàn
東山與拜梅子飲 幾度到清華; 東山今始過。 野草侵幽徑; 仙洞接人家。 山廟苔鋪舊; 湖樓酒酌斜。 銅鼓何時擊; 餘聲動碧波。 Đông Sơn dữ Bái Mai Tử ẩm Kỷ độ đáo Thanh Hoa;
Đông Sơn kim thủy qua.
Dã thảo xâm u kính;
Tiên động tiếp nhân gia.
Sơn miếu đài phô cựu;
Hồ lâu tửu chước tà.
Đồng cổ hà thời kích?
Dư thanh động bích ba!
Mấy lần đã tới Thanh Hoa Đông Sơn giờ mới ghé qua lần này Đường vắng hoe Cỏ mọc đầy Động tiên san sát cạnh ngay nhà người Sườn non nóc miếu rêu phơi Bên lầu nâng chén rượu mời ngả nghiêng Tự bao giờ trống điểm lên Mà dư âm động còn trên sóng hồ NguyễnTâmHàn
十五夜望月
王建
中庭地白樹棲鴉,冷露無聲濕桂花。
今夜月明人盡望,不知秋思落誰家。
Thập ngũ dạ vọng nguyệt
Trung đình địa bạch thụ thê nha,
Lảnh lộ vô thanh thấp quế hoa.
Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng,
Bất tri thu tứ lạc thuỳ gia?
Vương Kiến DỊCH NGHĨA
ĐÊM RẰM NGẮM TRĂNG
Sân ngời sáng, quạ trĩu cây Nhạt nhoà sương móc đọng đầy quế hoa Thế gian cùng hưởng trăng ngà Ý Thu chả biết ghé qua nhà nào NguyễnTâmHàn
韋 應 物
聽 江 笛 送 陸 侍 御
遠 聽 江 上 笛
臨 觴 一 送 君
還 愁 獨 宿 夜
更 向 郡 齋 聞
Thính giang địch, tống Lục Thị ngự
Viễn thính giang thượng địch,
Lâm trường nhất tống quân.
Hoàn sầu độc túc dạ,
Cánh hướng quận trai văn.
Vi Ứng Vật
Nghe sáo sông, tiễn quan Thị ngự họ Lục Tiêu ai văng vẳng bên sông Giữa khi rượu tiễn nỗi lòng đầy vơi Đêm buồn một bóng ngậm ngùi Tiếng tiêu đêm ấy hỏi người nhớ chăng NguyễnTâmHàn
聽流人水調子
王昌齡
孤舟微月對楓林﹐
分付鳴箏與客心。
嶺色千重萬重雨﹐
斷弦收與淚痕深。
Thính lưu nhân thuỷ điệu tử
Cô chu vi nguyệt đối phong lâm
Phân phó minh tranh dữ khách tâm
Lãnh sắc thiên trùng vạn trọng vũ
Đoạn huyền thâu dữ lệ ngân thâm Vương Xương Linh Rừng phong trăng cô đơn Tiếng đàn buồn ngập hồn Âm mờ mịt cả không gian băng giá Đàn ngưng rồi dòng lệ mãi rơi tuôn NguyễnTâmHàn
秋夜獨坐
王維
獨坐悲雙鬢,空堂欲二更。
雨中山果落,燈下草虫鳴。
白發終難變,黃金不可成。
欲知除老病,唯有學無生。
Thu dạ độc toạ
Độc tọa bi song mấn,
Không đường dục nhị canh.
Vũ trung sơn quả lạc,
Đăng hạ thảo trùng minh.
Bạch phát chung nan biến,
Hoàng kim bất khả thành.
Dục tri trừ lão bệnh,
Duy hữu học vô sinh.
Vương Duy
ĐÊM THU NGỒI MỘT MÌNH Thương mình tóc đã thay mầu Canh hai sắp hết mối sầu chưa vơi Mưa nặng hạt, trái cây rơi Đèn mờ giun dế rã rời nỉ non Tóc phai tuổi trẻ đâu còn Tiên đan nào có trên non mà tìm Muốn không già…cõi tịnh yên Vô sinh, vô tử … hẳn miền Phật tâm NguyễnTâmHàn
樂府
王維
秋夜曲
桂魄初生秋露微, 輕羅已薄未更衣。
銀箏夜久殷勤弄, 心怯空房不忍歸。
Thu Dạ Khúc
Quế phách sơ sinh thu lộ vi,
Kinh la dĩ bạc vị canh y.
Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng,
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy.
Vương Duy
Khúc hat đêm thu Trăng lên lẩn giữa sương mờ Ánh vàng tựa dải lụa tơ phai mầu Tiếng đàn ray rứt đêm thâu Dùng dằng sợ cảnh bên lầu cô đơn NguyễnTâmHàn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2008 10:42:12 bởi hannguyen >
秋夜曲
張仲素
丁丁漏水夜何長,
漫漫輕雲露月光。
秋逼暗蟲通夕響,
征衣未寄莫飛霜。
Thu dạ khúc
Trương Trọng Tố
Đinh đinh lậu thuỷ dạ hà trường,
Mạn mạn khinh vân lộ nguyệt quang.
Thu bức ám trùng thông tịch hưởng,
Chinh y vị ký mạc phi sương.
Khúc hát đêm thu Tong tong điểm mãi đêm dài Không gian mây tản rạng ngời ánh trăng Đêm Thu tiếng dế gáy vang Chinh y chưa gởi mong sương khoan về NguyễnTâmHàn
孟浩然
望洞庭湖贈張丞相
八月湖水平, 涵虛混太清。
氣蒸雲夢澤, 波撼岳陽城。
欲濟無舟楫, 端居恥聖明。
坐觀垂釣者, 空有羨魚情。
Lâm Động Đình
(Vọng Động Đình hồ tặng Trương Thừa Tướng)
Bát nguyệt hồ thủy bình
Hàm hư hỗ thái thanh
Khí chưng Vân mộng trạch
Ba hám Nhạc dương thành
Dục tế vô chu tiếp
Đoan cư sỉ thánh minh
Tọa quan tùy điếu giả
Đồ hữu tiễn ngư tình Mạnh Hạo Nhiên Đến hồ Đông Đình Tháng tám hồ phẳng lặng Nước trời một mầu xanh Đầm Vân khí toả lênh đênh Nhấp nhô sóng lượn lay thành Lạc Dương Muốn qua không thuyền giúp Ở, lòng luống thẹn thuồng Ngồi nhìn dây thả câu buông Cá đâu chẳng thấy, lòng vương nỗi niềm NguyễnTâmHàn
江行無題 錢起 睡穩葉舟輕 風微浪不惊 任君蘆葦岸 終夜 動秋聲 Giang hành, vô đề
Tiền Khởi
Thụy ổn, diệp chu khinh ,
Phong vi, lãng bất kinh .
Nhậm quân lô vĩ ngạn ,
Chung dạ động thu thanh .
Đi trên sông , vô đề
Giấc nồng thuyền nhẹ lướt nhanh Thảnh thơi trong dạ, gió lành, sóng yên Mặc bờ lau sậy ngả nghiêng Thâu đêm man mác mạn thuyền tiếng Thu NguyễnTâmHàn
Giang Thành tử Ất mão chính nguyệt nhị thập nhật dạ ký mộng
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang.
Bất tư lường,
Tự nan vong.
Thiên lí cô phần ,
Vô xứ thoại thê lương.
Túng sử tương phùng ưng bất thức,
Trần mãn diện,
Mấn như sương.
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương.
Tiểu hiên song ,
Chính sơ trang.
Tương cố vô ngôn,
Duy hữu lệ thiên hàng.
Liệu đắc niên niên đoạn trường xứ,
Minh nguyệt dạ,
Đoản tùng cương.
Tô Thức Điệu Giang Thành Tử Ký mộng đêm 20 tháng Giêng năm Ất Mão Đã mười năm kẻ tuyền đài người trần gian…cách biệt Có đâu ngờ… Duyên thắm sớm ly tan Nơi ngàn xa cảnh mộ chí hoang tàn Trời đất hỡi… đau thương nào siết kể Phải nàng đó Hay là ai đâu thế Lấm bụi đường Tóc đã điểm sương pha Về trong mơ … Nàng hiện trước hiên nhà Đứng trang điểm trong âm thầm lặng lẽ Mặt u uẩn, mắt tuôn dòng suối lệ Mối thương hoài mãi mãi xé tim gan Đồi thông nhoà nhạt …giữa ánh trăng lan * NguyễnTâmHàn
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: