CHIA TAY Ý THỨC HỆ - Hà Sĩ Phu
nguyễn văn dân 16.06.2007 00:34:55 (permalink)
CHIA TAY Ý THỨC HỆ
Sự IM LẶNG nuôi dưỡng ÁP BỨC ! -FRANCOIS MITTERRAND

Kính tặng những người Cộng sản Việt Nam


Lời mở đầu


Kỷ nguyên Văn minh Tin học chẳng những đem lại một cuộc canh tân tuyệt vời về thông tin và điều khiển, một thị trường năng động toàn cầu, một trào lưu dân chủ đa nguyên, một chủ nghĩa quốc tế mới nhân bản và khoa học... mà bao trùm lên hết thảy là ánh sáng của một phương pháp tư duy mới tương xứng với thời đại. Nhưng cùng với một nền Nhân văn mới, thì một cục diện đấu tranh sinh tồn mới và một phản lực "thú hóa" mới cũng bắt đầu. Một sự đảo lộn ghê gớm với cả mặt phải, mặt trái .Và từ cả hai mặt đều cần một hệ tư duy mới để ứng xử, để thích nghi.

Những xã hội chẳng may bị lịch sử buộc chặt vào những khuôn vàng thước ngọc của những quốc giáo,những ý thức hệ, thì về lý luận đang đứng trước một cuộc khủng hoảng sinh tử về phương pháp luận, và về thực tiễn đang đứng trước một cuộc đấu tranh về phương pháp ứng xử để tìm lối ra.

Để giữ yên cái ghế thống trị của mình, giới tăng lữ hoặc lãnh tụ của các nước ấy một mặt cố sức trói buộc xã hội ở tình trạng ngu dân bằng phương pháp tư tưởng cũ và nhất là đạo đức cũ dưới bàn tay bảo trợ của bạo lực; nhưng một mặt họ cũng như tất cả mọi người, đang lao như điên vào cuộc "đổi mới" kinh tế và ngoại giao mà thực chất là cuộc đấu tranh sinh tồn để mau chóng thích nghi, để khỏi bị gạt ra bên lề dòng chảy. Miệng nói một đằng tay làm một nẻo. Chẳng cần thông minh gì lắm cũng nhận ra rằng "sự nghiệp đổi mới" do Đảng ta "khởi xướng" và lãnh đạo, dưới ánh sáng Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh, làm kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa chính là một ví dụ điển hình của cái cục diện xã hội ấy.

Ở nước ta, hệ tư tưởng Mác xít cũng không khác gì một "quốc giáo", thực chất chỉ là biến tướng của tư tưởng phong kiến. Nhân dân mang tiếng là người làm chủ xã hội, nhưng không được biết gì về sự thật to lớn ấy; ai nói sự thật ấy là làm lộ "bí mật quốc gia". Người dân không có thông tin ắt không hiểu vì sao giữa lúc bộ mặt đất nước đang rạng rỡ chưa từng có, (như vẫn hiện ra trên mọi phương tiện truyền thông nhà nước) thì Ông Cộng sản Ba-son Nguyễn Hộ, cả nhà và cả đời làm Cộng sản, đã từng sát cánh với các ông Nguyễn văn Linh, Võ văn Kiệt, lại quyết ly khai Đảng vì đã "chọn nhầm lý tưởng"; không hiểu vì sao ông Cộng sản trí thức Ba-Lê Nguyễn Khắc Viện, người đã rời nước Pháp hoa lệ để theo cụ Hồ về nước kháng chiến, bỗng dưng lại kêu lên "Hãy bước vào cuộc kháng chiến mới"! Tiếng kêu chìm nghỉm như tiếng sỏi rơi xuống ao tù lạnh tanh!

Cuộc kháng chiến nào?

Mỉa mai thay cho những người Cộng sản bảy-tám mươi tuổi gần đất xa trời ấy phải chống gậy bước vào "cuộc kháng chiến từ bỏ ý thức hệ"!

Nhưng khốn thay, ý thức hệ đang trói buộc ta ấy không phải từ trên trời rơi xuống, lúc đầu không do ai áp đặt. Nó là sản phẩm lịch sử của nhân loại trong cơn "Khủng hoảng do tăng tốc" (thế kỷ 18-19) của con tàu Văn minh. Về lý luận, nó không là gì cả (sẽ phân tích sau), nhưng về thực tiễn nó đã là người mang "thông điệp Giải phóng" của Nhân dân. Hơn thế nó đã luyện khát vọng và sức mạnh của Nhân dân thành chiếc gậy thần của Tôn Ngộ Không, giáng vào mặt bọn vua chúa Tư bản, và dạy cho chúng (cũng là dạy cho cả nhân loại) biết rằng: không thể hướng sức mạnh của nền văn minh mới để phục vụ cho mưu đồ cá nhân, hòng thiết kế những ngai vàng mới trên đầu nhân loại! Và dẫu còn điều này điều khác thì vai trò lịch sử ấy của trào lưu Cộng sản mãi mãi vẫn được ghi nhận.Và cùng với hiệp sĩ ấy, nhân dân ta đã có những ngày sống đẹp thanh khiết như thần tiên. Và phải nhận rằng Người "anh hùng áo vải" này đã ôm trong vòng tay của mình cả mấy thế hệ những người Việt nam tử tế, rất tử tế, số đông đến hôm nay vẫn còn tử tế và tội nghiệp!

Bi kịch là: sứ giả mang "thông điệp giải phóng" ấy lại lên ngôi báu. Ở ngôi báu anh ta đã phản lại chính "thông điệp" này.Trừ một số tồi tệ ma quái ra, nhìn chung sự phản bội lúc đầu không tự ý thức. Bởi tất cả đã được "chương trình hóa" ở trong cẩm nang, mà chính người viết cẩm nang thì cũng không vượt ra khỏi được sự "chương trình hóa" của thời đại. Chỉ có cái khát vọng là vượt bay lên phía trước.

Theo điều tôi nhận thức được thì...

... bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thủy (hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn minh Công nghiệp.
Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính súc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là những dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.

Một hệ tư tưởng như thế, trong thế giới Văn minh Tin học chẳng cần ai đánh cũng tự tan rã.

Về mặt hệ tư tưởng mà nói, chủ nghĩa Mác-Lê đang rút chạy ra khỏi đời sống xã hội, Đảng Cộng sản vẫn còn đó , nhưng cái hồn Mác-Lê cứ từng bước rút chạy khỏi những Đảng viên của mình. Có hương khói, chiêng trống thanh la gọi hồn cũng không ích gì.

Chủ nghĩa Mác-Lê suy tàn, chạy về cố thủ ở những vùng còn ít ánh sáng dân chủ, nơi mà tư tưởng phong kiến vẫn cứ sống lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia. Trong cuộc sống lưu vong này của chủ nghĩa Mác-Lê (vì quê hương của chủ nghĩa ấy không dung nạp nó nữa), nó đã mất tư cách là ngọn cờ để tuyên chiến với cái gọi là Chủ nghĩa Tư bản giẫy chết, mà được dùng như một thuật trị dân, một công cụ để trị dân. Từ một chủ nghĩa Quốc tế nó thu dần về thành một thể chế Quốc gia, mang tính quốc nội là chính. Nó trút bỏ tính mục đích mà nhận lấy tính phương tiện.

Chẳng những là phương tiện để trị dân, nó chuyển sang làm phương tiện chở những người "Vô sản" cầm quyền vào cõi Tư bản, phản lại mục đích tự thân ban đầu của nó. Giai cấp cần lao không sớm ý thức được điều này thì sẽ đắm đuối như kẻ bị phụ tình, bơ vơ trước hang hùm nọc rắn của một thế giới cạnh tranh như điên của Tư bản buổi đầu tích lũy, nhất là khi thế hệ những người Cộng sản khởi lập không còn nữa. Sự lộn ngược tình thế như vậy mới thực là một cuộc "diễn biến hòa bình" vĩ đại, nó "lật đổ" hết thảy một cách êm đềm.

Sự thể của lịch sử đã như thế thì chút lòng thương người của cái chủ nghĩa Đạo đức liệu sẽ xoay chuyển được gì, hay chỉ là sự vỗ về, là liều ma túy, là tấm màn che cho cuộc diễn biến hòa bình kia, cho cuộc phụ tình vĩ đại kia được muôn phần êm thấm, và để lại sau nó cả một khoảng trống ghê rợn?...

Che đậy điều ấy là bất nhân.

Không nhận thức tới nơi, không có những phút dừng... để nghe thêm những điều khác với báo, với đài...,để sống với cái gì đó xa hơn, lớn hơn cuộc sống cá nhân trước mắt thì người trí thức, cán bộ, đảng viên ... chúng ta bây giờ khó có thể tìm cho mình một phép ứng xử đàng hoàng, đẹp đẽ trước cuộc chia tay ý thức hệ lịch sử này.

Dẫu cho bạn chưa hài lòng với lời nói của tôi...

Nhưng sự đời, cái gì phải đến cứ đến, bịn rịn nữa cũng không được.

Đánh xong giặc Ân, thánh Gióng phải lên trời. Gióng ở lại Gióng sẽ gây tội ác, và ta sẽ mất thánh Gióng.

Tôn Ngộ Không của Ngô Thừa Ân "nhân bản" hơn Tôn Ngộ Không của Mác: dạy xong bài học cho các vua chúa và thánh thần, Ngộ Không không tiếp tục múa cây thiết bảng để đập vào đầu đàn khỉ của mình ở Hoa quả sơn, để thiết lập ở đấy một thiên đường nhất khoảnh.

Tôi, chúng ta, các anh các chị...

Chúng ta vẫn sống với nhau hòa thuận

Chỉ cái ý thức hệ của chúng ta chắc chắn phải ra đi, đang ra đi rồi.

Hãy là cuộc chia tay bi tráng! Bậc anh hùng hãy chọn cái "bi" (nếu không, nó sẽ thành "hài"), một thứ bi kịch của nhận thức, bi kịch của khát vọng nhân văn, bi kịch trong tự tôn nhân phẩm! Bi kịch trong sự trưởng thành, biểu hiện của trưởng thành, mở đầu cho trưởng thành!

Trào lưu Cộng sản đã xuất hiện như một tất yếu lịch sử và vô cùng chính đáng, nhưng phải nhận rằng đó chỉ là một nấc thang Văn hóa thấp của tiến trình đấu tranh bất tận cho Quyền Con người. Muốn tìm lối ra lại phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa, ở tầm Văn hóa cao hơn.

Nếu đủ tầm văn hóa , chúng ta sẽ làm cho Ý thức hệ ấy một dấu son để lại.

Bằng không, nếu chúng ta không đủ tầm văn hóa, Ý thức hệ sẽ được chia tay trong uất hận, hoặc ngược lại, cứ len lén rút lui khỏi lịch sử không một lời tuyên bố như một kẻ khôn vặt hay một tên đại bịp nào đó ra đi , không trống không kèn. Để lại trên non nước này một món nợ.

Tôi là người Việt nam, tôi không muốn cái lịch sử "tiên rồng" lắm thông minh và nhiều quằn quại này của chúng ta, giữa vận hội hôm nay lại chọn cách "hóa rồng" lươn lẹo đó.

Bạn đọc kính mến.

Có thể có người coi bài viết này là quá lạ tai, nhưng nhiều người lại bảo: thực tiễn đã chạy trước nhận thức của anh lâu rồi.

Đà lạt ngày 22- 4- 1995
HSP
4E - Bùi thị Xuân , Đàlạt

Nội dung
Trang
Lời nói đầu ........................... 1
Nội dung ........................... 4
Phần 1 : Triết học Mác-Lê : khủng hoảng phương pháp luận . ........................5
Phần 2 : Chính trị Mác-Lê : Phong kiến biến tướng . .....................................14
Phần 3 : Tính Văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản ............................ 25
Phần 4 : Đổi mới là tự vượt qua mình. ............................................. 35
Thay lời kết : Triều đại Phong kiến cuối cùng
và chiếc bình phong ...................................... 56
Phụ lục 1 : Sơ bộ tập hợp Ý kiến độc giả về những bài viết của HSP
Phụ lục 2 : Hồi ức về cuộc khủng bố Chủ nghĩa xét lại ở Việt nam
Phụ lục 3 : Ba bài thơ di cảo của Chế Lan Viên
Phụ lục 4 : Lời những người Cộng sản lão thành gửi Đảng và toàn dân.


http://hasiphu.com/ll3.html
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.06.2007 01:06:31 bởi nguyễn văn dân >
#1
    nguyễn văn dân 19.06.2007 00:54:05 (permalink)

    PHẦN 1
    TRIẾT HỌC MÁC-LÊ
    Khủng hoảng Phương pháp luận

    Trước cảnh đổ vỡ ý thức hệ, một số nhà lý luận Mác xít thức thời nhất đã chịu lùi tới cỡ này : Cứ cho mọi điều đã nói là sai hết đi, thì Mác-Lê vẫn còn để lại cho nhân loại một tài sản tư tưởng vô giá là phương pháp luận Mácxít-Lêninít.

    Tôi thấy nên nhận thức lại rằng: Cứ cho mọi điều Mác-Lê đã nói là đúng hết đi (để khỏi cần kiểm tra) thì vẫn còn một sai lầm không thể chối cãi là sai lầm về phương pháp luận!.

    (Trước khi trình bày những nội dung,tôi xin phép được lưu ý người đọc mấy điểm:

    - Việc phân tích Mác-Lênin của tôi dù triệt để đến đâu cũng không nhằm mục đích "đánh đổ" Mác -Lênin, vì tôi hiểu: trên nhận thức toàn nhân loại thì Mác-Lê là cái đã đổ rồi. Vả lại lý luận mà lúc nào cũng nhằm để "phục vụ chính trị" thì không còn tỉnh táo để thấy quy luật khách quan, lý luận ấy có thể phục vụ một "sự nghiệp" chính trị nào đó rất đắc lực nhưng dùng xong người ta vứt nó đi . Bởi vậy,việc phân tích Mác-Lê hoặc phân tích Khổng Mạnh hay các tôn giáo ở đây chỉ nhằm lấy cái điểm tựa để trình bày những tư duy mới.

    - Vì mục đích ấy, chưa cần tách bạch Mác với Ăng-ghen,Lênin,Xtalin...hay những người khác, khi ta đã biết tất cả vẫn thuộc một dòng; và sự chuyển hóa từ người nọ sang người kia, về cả những điều kế thừa và sai biệt, đều là hệ quả tất yếu của cái gốc ban đầu. Mặt khác do tính không nhất quán trong hệ lý luận Mác xít nên khi khảo sát một nguyên lý cũng không cần, và không nên, cộng vào đó tất cả những biện giải về sau, thiên kinh vạn quyển, xuôi ngược đủ màu, có tính chất chữa cháy, có khi chống lại chính nguyên lý đó.

    Các nhà lý luận Mácxít thường cứng nhắc, không cho ai cựa quậy ra ngoài khuôn mẫu, nhưng khi ở thế bị phê phán thì lại viện dẫn từ trong chủ nghĩa của mình tính linh động, "mềm đến mức có thể uốn được".

    Chúng ta sẵn sàng "linh động" nên chỉ xoay quanh cái gốc nguyên lý thôi. Nếu cái nguyên lý cũng linh động nốt thì còn gì nữa mà lý luận!

    Trước hết, chúng ta cần nhận biết thế nào là đúng thế nào là sai. Còn cái sai đúng ấy thuộc về ai, đó là công việc các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng và chính trị chuyên nghiệp.

    - Tuy về nội dung, không tán thành thứ "triết học thực dụng" , nhưng trong cách trình bày, nói chung tôi xin phép người đọc để tạm dùng cách viết vắn tắt: HỎI và ĐÁP.

    Khi tìm quy luật khách quan, người khoa học không được định hướng trước theo ý muốn của nhà chính trị. Nhưng khi nhận thức khách quan ấy đã đi đến kết luận rồi thì người khoa học cũng như mọi người khác hoàn toàn có quyền ứng dụng kết luận khoa học ấy vào thực tế đời sống , trong đó có đời sống chính trị ,mà không sợ mâu thuẫn với tính khoa học khách quan.
     
    Có làm được cả hai điều ấy hay không là tùy thuộc khả năng phân thân của người khoa học. Tôi đã cố gắng và tự tin vào khả năng phân thân ấy của mình, còn kết quả đến đâu xin người đọc phán xét.

    Trước hết hãy đẩy nhận thức tới tận cùng xem chân lý ra sao, chân lý không thể uốn. Sau đó ứng xử với thực tế thế nào lại là chuyện mềm dẻo. Không sợ nhận thức rành mạch thì thái độ sẽ cực đoan. Trái lại,có hiểu thấu đáo mới tránh được cực đoan và tùy tiện!
     
    Mục đích bài viết của tôi trước hết là trình bày nhận thức.

    Mong muốn dùng nhận thức ấy để làm tốt xã hội trước mắt lại là chuyện sau.Nếu chỉ nhằm những mục tiêu thực tế trước mắt ấy thì không ai dại dột đi theo con đường dài dòng từ "vật chất và ý thức" trở đi làm gì cho mất thì giờ vô ích. Con đường kinh tế và Chính trị nhanh gọn hơn nhiều !).

    1) HỎI: Nên đánh giá khái quát thế nào về phương pháp luận Mác xít?

    ĐÁP: Triết học Duy vật và Biện chứng chứa nhiều yếu tố tiến bộ, trong đó đâu là phần Mác kế thừa,đâu là phần Mác sáng tạo,đâu là điểm thống nhất và sai biệt giữa Mác và Ăng-ghen... đều đã được nghiên cứu khá đầy đủ.

    Nhưng điều cần nói là: Ngay trong cái gốc Duy vật và Biện chứng Mácxít rất tiến bộ ấy đã có những kẽ hở mang màu sắc phân tích cực đoan, duy tâm chủ quan, tách rời, máy móc, mà quan niệm "vật chất và ý thức" là một ví dụ điển hình. Càng đem vận dụng thì cái khiếm khuyết ấy cứ lớn mãi ra, từ chỗ tưởng như vô hại đến chỗ trở nên trầm trọng không cứu vãn được nữa. Cái tiến bộ khi xưa, nay không còn là tiến bộ.

    Người đầu tiên chịu tác hại của khiếm khuyết ấy chính là Mác và Ăng-ghen, khi các ông phát triển tinh thần "duy vật" và "biện chứng" của mình vào xã hội để hình thành nên phương pháp luận "duy vật lịch sử". Có thể nói "Duy vật lịch sử" đã phản lại "duy vật biện chứng". Duy vật biện chứng về cơ bản là tích cực, duy vật lịch sử về cơ bản là tiêu cực.

    Trên đà trượt ấy, những người Mác xít về sau đã rơi tuột vào một cõi vừa duy tâm giáo điều vừa duy vật thực dụng, lại mang thêm hội chứng thần kinh phân lập và phát xít. Càng về sau triết học Mácxít càng chìm sâu vào con đường chính trị hóa, đại chúng hóa và tôn giáo hóa. "Tha hóa" đến mức không còn là triết học. Về mặt chính trị thì chủ nghĩa Mác đã chịu các quá trình Lênin hóa, Xtalin hóa, Mao hóa... và Việt nam hóa nữa.
    Một nhà Mác-học than phiền với tôi rằng chỉ tại người ta không trung thành với lý thuyết của Mác. Tôi nói: Ngay cả Mác cũng không thể trung thành với một lý thuyết như thế. Lý thuyết ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn, chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và sau đó tất yếu là sự phản bội.

    2) HỎI: Nghĩ gì về phạm trù "Vật chất và ý thức"?

    ĐÁP: Đây là "vấn đề cơ bản của Triết học" mà các triết gia vẫn dùng để phân biệt triết học

    Duy vật với triết học Duy tâm. Các triết gia Mácxít cho mình là đúng khi khẳng định vật chất là "cái có trước", ý thức là "cái có sau". Vật chất "quyết định" ý thức. Vật chất "phản ánh" vào ý thức, sau đó ý thức "tác động trở lại" vào thế giới vật chất...v.v. Có lẽ toàn bộ đảng viên Cộng sản và hầu hết cán bộ do hệ thống này đào tạo đều đinh ninh rằng quan niệm ất là tuyệt đối khoa học rồi !

    Tôi xin góp một ý kiến vào cuộc thảo luận:

    Quan niệm Mác xít ấy rõ ràng vẽ ra hai thế giới. Bởi càng 'phản ánh' vào nhau, càng 'tác động' vào nhau mãnh liệt bao nhiêu, cái thế giới 'có trước' càng 'quyết định' cái thế giới 'có sau' bao nhiêu thì điều ấy càng khẳng định đó là hai chứ không phải là một !

    Tin vào sự tồn tại vững chắc của cái cặp "vật chất và ý thức" ấy các ông đã dùng cái này làm chỗ tựa để định nghĩa cái kia một cách luẩn quẩn: 'Ý thức' của con người là cái 'tồn tại'(tức vật chất) được ý thức; còn cái 'vật chất'(tức tồn tại) kia thì chính là'cái thực tại khách quan ... được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh...'

    Như vậy, nói cho dễ hiểu thì ý thức là cái vật chất đã được phản ánh vào đầu óc con người, còn vật chất thì là cái tồn tại bên ngoài mà ý thức đã phản ánh. Sự phản ánh ấy ngày càng tiệm cận với sự thật.

    Tinh thần cơ bản của 'phản ánh luận Mácxít' là vậy. Cứ song song như một người thật và cái bóng của hắn ta trên tường. Bóng là cái hình của hắn ta in vào tường, còn hắn thì là cái bản thể mà cái bóng kia phản ánh. Hắn ta có trước, cái bóng có sau, hắn quyết định cái bóng của hắn..v.v.(chỉ có điều khác là cái bóng ở đây là ý thức thì nó năng động, nó có thể vươn ra khỏi tường và tu sửa lại hình dung của hắn ta).

    Nội dung cái cặp "vật chất và ý thức" ấy bắt nguồn từ một ý niệm rất rành mạch nhưng rất sơ khai khi ta phân biệt cái bên trong với cái bên ngoài, phân biệt cái ta với cái khác ta, phân biệt con người có ý thức với cái thế giới vật chất vô ý thức, phân biệt vật chất với tinh thần, phân biệt quy luật khách quan với ý chí chủ quan...

    Trong trực cảm, tất cả những ranh giới ấy tồn tại hiển nhiên đến mức chẳng cần bàn cãi, song thực ra tất cả những ranh giới đó là 'vớ vẩn' cả; khẽ nhích vấn đề sang một bình diện khác lập tức những ranh giới ấy biến mất.

    Nếu đã hiểu thuộc tính quan trọng nhất của ý thức là tính phản ánh thì phải biết rằng thuộc tính ấy là của vật chất nói chung, biểu hiện ở tất cả mọi mức độ từ thấp lên cao. Cục sắt và thanh nam châm, vật nọ phát tín hiệu và phản ánh vào vật kia và tác động trở lại vào vật kia. Giữa các phân tử ôxy và hydro cũng như vậy... chúng 'nhận thức' lẫn nhau và 'tác động' lẫn nhau. Đã đành quan hệ ấy còn rất đơn giản nhưng từ cái đơn giản ấy đến ý thức của con người đã có vô vàn mức độ tiến hóa trung gian nối liền lại. Không thể tách ý thức của con người ra khỏi khả năng phản ánh và tác động của thế giới vật chất nói chung. Không phải đến con người thì cái ý thức thiêng liêng ấy mới đột nhiên xuất hiện.


    Nói cách khác, Ý thức cũng tiến hóa như Vật chất. Con người là mức độ tiến hóa cao nhất của Vật chất nên nó được bao hàm trong khái niệm Vật chất nói chung, Vật chất là một khái niệm "lớn" nhất, bao quát nhất, điều đó đúng.

    Nhưng về Ý thức cũng có vấn đề tương tự. Ý thức của con người cũng là mức độ cao nhất của sự tiến hóa về 'Ý THỨC' nói chung và được bao hàm trong cái Ý THỨC nói chung ấy. Nếu dùng chữ "Ý thức" chỉ với nghĩa Ý thức của con người thôi thì sao có thể coi đó cũng là một khái niệm"lớn" nhất, bao quát nhất, tương tự như khái niệm Vật chất được?

    Thừa nhận sự tiến hóa của Vật chất nhưng lại không thừa nhận sự kế thừa và tiến hóa của Ý thức, coi Ý thức chỉ là chuyện của thế giới loài người thì thật là siêu hình và duy tâm chủ quan.

    Những nghiên cứu về các tập tính và các hoạt động có tính chất tinh thần của động vật nói riêng và cả giới sinh vật nói chung, những nghiên cứu về cơ chế sinh học của hoạt động tinh thần, cơ chế vật lý hết sức đơn giản của máy tính hiện đại ... đã mở đường cho con người "tung hoành" vào thế giới của Ý THỨC, một thế giới mà những nhà triết học từ Mác trở về trước chỉ có đứng ngoài chiêm ngưỡng và suy luận.

    Chẳng thể đòi hỏi gì nhiều hơn ở Mác, nhưng khi ta đã có trong tay những máy tính siêu đẳng mà chẳng học được ở những máy tính ấy điều gì hơn triết học của Mác thì thật đáng tiếc biết bao nhiêu!

    Ý thức, Tinh thần cũng là thuộc tính vốn có của thế giới vật chất, tiến hóa từ thấp lên cao.

    Nếu hiểu theo nghĩa chung nhất ấy thì không thể có cái thứ vật chất không có tinh thần, cũng không có thứ tinh thần ngoài vật chất. Tách thành Vật chất và Tinh thần để rồi cho rằng cái này có trước, cái kia có sau, tức là tách Vật chất ra khỏi thuộc tính của nó thì vô nghĩa biết chừng nào ? Thử hỏi thanh nam châm và cái thuộc tính hút sắt của nó thì cái nào có trước? Vật chất và thuộc tính "phản ánh" của nó cũng vậy.

    Không thể có "Vật chất và Ý thức", chỉ có thế giới Vật chất đang vận động, đang tự ý thức, tự tác động phần này vào phần kia và tự biến đổi. Con người của ta lẫn ý thức của ta cũng hoàn toàn thuộc về cái thế giới ấy rồi, cái thế giới vật chất nhưng không hề là "vật chất tầm thường"
    "vật chất giản đơn" hay "vật chất thô bỉ" mà đủ sức dung nạp bao điều huyền bí mà triết học "Duy vật" trước đây không dung nạp nổi. Không phải cái xác của ta thì thuộc thế giới 'Vật chất', còn ý thức của ta lại như cái gì đó đứng bên ngoài để chụp ảnh...

    Và như vậy thì cả triết học duy tâm lẫn triết học duy vật đều đã bị thời đại của chúng ta vượt qua rồi.

    Muốn cho nhận thức luận được sáng tỏ trước hết phải đưa vào đó khái niệm 'lát cắt' hay 'mặt cắt' mà nội hàm của nó là cái ranh giới giả tạo mà con người 'bịa' ra để làm một phương tiện nhận thức thế giới. Đứa trẻ nhìn cái bánh trưng chỉ thấy cái bề ngoài, nó cắt đôi cái bánh ra, và từ đó trí tưởng tượng của nó về cái bánh trưng đầy đủ hơn trước, thấy cả ruột bánh bên trong, nhưng trong nhận thức của nó cái mặt cắt nhân tạo kia phải được xóa đi. Cái bánh vẫn nguyên vẹn mà vẫn bộc lộ được cái ruột bên trong, đó là sự khác nhau căn bản giữa nhận thức và thực nghiệm. Mỗi kiểu lát cắt cung cấp thêm cho ta một mẩu nhận thức, nhưng rồi tất cả các lát cắt đều cần được xóa đi khỏi nhận thức, nếu không nó làm sai lệch đối tượng ta muốn nhận thức.

    Ranh giới giữa Vật chất và Ý thức cũng là một 'lát cắt' nhân tạo thông minh mà ta 'bịa' ra, không hề có thật. Ranh giới giữa ta với thế giới ngoài, ranh giới giữa chủ thể tác động và đối tượng hay kết quả tác động... cũng chỉ rất tạm thời, rất 'tương đối', suy cho cùng cũng đều giả tạo. Cái 'ta' là 'chủ thể nhận thức' nhưng đồng thời cũng đang bị cái bên ngoài 'nhận thức' đúng vào lúc 'ta' đang 'nhận thức' chúng.

    Đừng tưởng mình là đại diện cho Ý thức, đang đem quy luật đi cải tạo thế giới vật chất mà quên rằng cùng lúc đó mình cũng đồng thời là cái sản phẩm rất vật chất, đang là nạn nhân, nạn vật một cách rất vô ý thức.
     
    Đừng tưởng mình là cái bên ngoài mà quên mình cũng đồng thời là cái bên trong.

    Về điều này có lẽ nhận thức của Mác mềm dẻo hơn so với Anghen và Lênin, song cũng chưa đủ để bứt phá, nên cứ quanh quẩn để cuối cùng vẫn bị cuốn vào một quyết định luận mang nhiều tính phân ly máy móc , đơn giản và cực đoan. Tôi trộm nghĩ nếu Mác được ảnh hưởng nhiều hơn của lối tư duy tổng hợp Đông phương (chứ không phải chất phong kiến và cù nhầy của Đông phương) và quy luật tiến hóa sinh học thì tình hình có thể khá hơn. Song lịch sử làm gì có chữ "nếu" ! ...

    Chẳng hạn, nếu vậy... thì làm sao Mác có thể tưởng tượng ra một 'Đảng tiền phong' với một 'ý thức' trong suốt như pha lê và kiên định như kim cương , để nhân loại có thể trao hết vận mệnh của cái thế giới 'vật chất' ngoắt ngoéo đầy sự tha hóa bẩn thỉu này cho Đảng dìu dắt tới thiên đường Cộng sản xa xôi kia ? Nếu thực sự duy vật và biện chứng hẳn các ông phải hiểu như thế là 'gửi trứng cho ác', là 'mỡ treo miệng mèo', nửa đường nó không sài luôn thì để làm gì ? (bất giác tôi nghĩ tới chuyện Mã Giám Sinh hộ tống Kiều).

    Tưởng quá duy vật, khách quan mà thành duy tâm chủ quan !

    Về nhận thức luận thì "Vật chất và Ý thức" là phạm trù bao trùm, nhưng cũng là đề tài để muôn đời tranh cãi. Rất may là dù"duy vật" hay "duy tâm" mọi người vẫn có thể chung sống với nhau hòa thuận .Trong thực tiễn không phải sự đúng sai nào về suy nghĩ cũng như hành động cũng đều gắn với sự "đúng sai" về quan niệm này.

    Nhưng khi con người ngộ nhận rằng quan niệm của mình (về phạm trù này) là duy nhất đúng, và thiếu một độ dung hòa cần thiết, thì khi ấy nhận thức này sẽ phát huy vai trò "nền tảng" của nó , trở thành phương pháp luận cho một hệ tư duy và ứng xử mang tính chủ quan,áp đặt và phân liệt.

    Chúng ta đã phải "thấm nhuần" quan niệm duy vật Mácxít kinh điển ấy vào mọi hoạt động và mọi tư duy văn hóa,khoa học, nghệ thuật mà còn phải liên hệ nó với việc đánh giá toàn bộ phẩm chất con người: chẳng những đánh giá về ý thức giai cấp mà từ đó còn có thể quy kết nhau là tiến bộ hay lạc hậu, và đôi khi liên quan đến chuyện yêu nước hay "phản động" nữa ...(Ví dụ khi chúng tôi học môn Di truyền học, chỉ một chi tiết rằng Mendel là một thầy tu là đủ làm bằng chứng hùng hồn để phủ định rồi!).

    3) HỎI: Tại sao nói Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử mang tính Duy tâm và Siêu hình?

    ĐÁP: Nói cách khác : chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mác xít đã chống lại tinh thần Duy vật Biện chứng, Cái nhìn của chủ nghĩa Duy vật lịch sử Mácxít đối với con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ:

    + "Con người" có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê để cho "con người xã hội" nuốt chửng mất "con người cá nhân". (để trong thực tế tạo tiền đề cho một vài cá nhân nuốt chửng xã hội !).

    + Đảng Cộng sản, cũng như "Con người", đều có mặt phải mặt trái, mặt thiện mặt ác, thì Mác Lê chỉ thấy mặt thiện. Trong khi đó xã hội "tư bản" cũng có hai mặt thì Mác Lê chỉ thấy mặt ác, mặt trái của nó.

    + Nhà nước bao giờ cũng có hai mặt công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của Nhà nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà nước, kết quả là cái Nhà nước quá độ mà các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được.(trừ khi xã hội ấy nhất tề từ chối chủ nghĩa Mác-Lê như Liên xô và Đông Âu).

    + Sở hữu tư nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực,nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của công hữu, nên phá tư hữu,lập công hữu. Hệ quả là tạo điều kiện cho một số người chiếm của công thành của tư và đang trở thành những nhà tư sản thực thụ.

    + Sự "chiếm hữu" trong xã hội như cái sào huyệt mafia gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu quyền lực.Nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản xuất , bèn nống cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ai ngờ cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần.

    + Vấn đề "giá trị thặng dư" cũng vậy. Cũng có 2 mặt :phát triển kinh tế và tạo nguy cơ mất công bằng. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt "bóc lột" của giá trị thặng dư mà không thấy mặt tích cực và hợp lý của nó. Kết quả là bây giờ các đảng viên vừa được khuyến khích " làm giầu" (thực chất là không tránh khỏi bóc lột giá trị thặng dư),lại vừa phải nói khéo để khỏi làm tủi vong linh tác giả "Tư bản luận".

    + Vấn đề "đấu tranh giai cấp" cũng có 2 mặt , mặt làm đối trọng tích cực để làm xã hội phát triển và mặt phá phách làm nhiễu xã hội.Nhưng Mác Lê tâng bốc đấu tranh giai cấp thành động lực duy nhất thúc đẩy tiến hóa để có sức mạnh mà giành chính quyền, đến lúc mình cầm quyền rồi ,quan hệ giai cấp vẫn còn đó thì xử lý với chuyện" đấu tranh giai cấp là động lực của tiến hóa" ra sao để cái ghế của mình được yên? Cái thuyết "đấu tranh giai cấp" và chống kinh tế thị trường của cụ Mác bây giờ lại làm ta "kẹt" quá, vậy thì nó phải "mềm đến mức có thể uốn được"! Nên bây giờ cụ Mác đang bị uốn, lý thuyết Mác xít buộc phải biến dạng,và xem chừng nếu cụ Mác chịu uốn không nổi nữa thì đến lượt cụ Hồ...

    + Chủ nghĩa Mác-Lê nói "Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp là động lực của tiến hóa" . Nhưng xã hội có giai cấp chỉ là một giai đoạn trong lịch sử loài người (chính Mác-Lê đã nói thế).Vậy xin hỏi: Trong toàn bộ lịch sử loài người nói chung , kể cả khi có giai cấp và khi không có giai cấp, thì động lực của tiến hóa nói chung là gì?

    Bởi chưa quan tâm đúng mức đến cái toàn bộ đã quyết đoán về cái cục bộ, nên tiến trình cách mạng Vô sản lên chủ nghĩa Cộng sản cứ như một ngoại lệ ,ngang phè phè, trật khớp ra khỏi lịch sử. Ăng ghen lại biện bạch điều đó bằng tính cách mạng "đoạn tuyệt một cách triệt để nhất..." (!).
    Nếu biết nhìn lịch sử một cách thật biện chứng như một quá trình thống nhất ắt các ông phải thấy "trí tuệ" mới là động lực (động lực mang tính khách quan,khác với động cơ mang tính chủ quan), và không dựng ra một học thuyết đấu tranh giai cấp rùm beng như thế.

    + Tính cực đoan,phiến diện ấy khi thì gây ra bệnh quá tả như trên vừa nói, khi thì gây bệnh hữu khuynh: Đấu tranh sinh tồn (trong đó đấu tranh giai cấp là một biểu hiện) là quy luật phổ biến,bao giờ hết được. Vậy mà các ông định làm một " cuộc chiến đấu cuối cùng" là nghĩa làm sao? Dựa vào ý tưởng hữu khuynh về đấu tranh giai cấp ấy những người cầm quyền Cộng sản đã kìm hãm tối đa sự đấu tranh giai cấp của những giai cấp và tầng lớp lao động mới.

    + Công trình lớn nhất của Mác là tập "Tư bản", rất công phu, rất nhiều kiến thức nhưng điều mấu chốt thì lại không giúp gì cho việc giải bài toán xã hội. Chẳng những thừa mà còn có hại cho mục đích này bởi nó gây sự hiểu lầm, tưởng rằng tội lỗi sinh ra là ở chỗ có giá trị thặng dư. Nhà triết học đập vào "giá trị thặng dư" thì khác nào người công nhân trút căm thù vào máy móc. Tách bài toán phân chia sản phẩm ra khỏi bài toán phân chia quyền lực và bài toán phát triển sản xuất thì làm sao tìm ra đáp số cho bài toán xã hội?

    Nhiều người vẫn nghĩ rằng việc đề cao yếu tố kinh tế như trên và việc tìm ra một lực lượng vật chất là giai cấp công nhân là bằng chứng về tính duy vật của chủ nghĩa. Song,như trong phần bàn về "vật chất và ý thức" tôi nhận thấy nếu duy vật một cách phiến diện,cắt rời ,mang tính định hướng chủ quan và lãng mạn thì lại chạy sang duy tâm.

    Nói "duy vật", "duy tâm" là dùng hệ ngôn ngữ chúng ta đã quen dùng. Theo ý riêng tôi trong hệ tư duy mới thì ranh giới duy vật duy tâm không thể tồn tại như ta quan niệm, và khi ấy vấn đề sẽ được diễn đạt một cách khác.

    Tóm lại toàn bộ nhãn quan "duy vật lịch sử" Mác xít là một nhãn quan phi biện chứng, đầy tính duy tâm chủ quan. Những điều này tôi đã phân tích trong một tài liệu có tính chất lý luận cơ bản: "Đôi điều suy nghĩ của một công dân."(ĐĐSN...) (1).

    Nhiều luận lý Mác xít là những "tam đoạn luận" máy móc, xuất phát từ một tiên đề chủ quan nên kết thúc phi lý. Ra đời trong giai đoạn chưa chín của Văn minh Công nghiệp, phương pháp luận Mác xít đã mang nhiều dấu ấn của "bệnh Công nghiệp": "công nghiệp" hơn cả Công nghiệp, thể hiện ở xu hướng thích quy mô lớn, thích đồng loạt, thích cơ chế một cách máy móc (thậm chí biện chứng một cách máy móc, "uyển chuyển" một cách máy móc), thích kinh tế, cực đoan hóa tính "vật chất", cực đoan hóa sự phân tích và loại trừ...

    Nói "công nghiệp" hơn cả Công nghiệp là vì: Công nghiệp sản xuất đại trà trên cơ sở sảnxuất chính xác từng đơn vị sản phẩm. Còn Mác quan tâm đến "tổng thể những quan hệ xã hội" , quan tâm giải phóng xã hội, mà vi phạm sự giải phóng cá nhân (nên coi nhẹ vấn đề Quyền Con người, vì nghĩ rằng Xã hội là đã có Con người nằm trong đó rồi !) (2).

    Nói "công nghiệp"hơn cả Công nghiệp là vì trong quy trình vận hành của Công nghệ bao giờ cũng phải có "cơ chế ngược" (feedback) để tự kiểm tra, tự khống chế, tự dừng, tự sửa chữa..., nhưng Chuyên chính Vô sản là bộ máy máy chỉ vận hành theo chiều thuận mà hoàn toàn không có những "cơ chế ngược" ấy,nên lúc đầu thì ổn mà về sau quyền lực cứ bành trướng vô hạn độ, đến nỗi người thiết kế ra nó cũng trở thành nạn nhân!

    Những điều này cùng với những đặc điểm mang tính lãng mạn và phong kiến (sẽ phân tích sau) chắc cũng đủ cho nhận định rằng Chủ nghĩa Xã hội Mácxít chỉ là đại biểu cuối cùng của dòng các chủ nghĩa Xã hội không tưởng.

    Hệ lý luận Mác xít càng phát triển càng tự mâu thuẫn, càng xa thực tế và càng lúng túng, bởi xây dựng trên những tiên đề và phương pháp luận chủ quan,phiến diện. Nói đến sai lầm của học thuyết này thì sai lầm đầu tiên và bao trùm hết thảy chính là sai lầm về phương pháp luận ! Đảng Cộng sản buộc phải thừa nhận những sai lầm khác nhưng lại kiên quyết bảo vệ phương pháp luận (!). Xem cái cung cách mà cả một đội ngũ các nhà chính trị và lý luận Mác xít bây giờ đang hì hục nai lưng ra vá víu, che chắn, người ta không khỏi phì cười vì thấy hiện ra một đám anh hề, cố sức lau nhà cho khô nhưng lại cứ để cái rô-bi-nê phía sau ồ ồ phun nước!

    4) HỎI: Nhận định gì về tính Tiền phong và những Dự đoán Mácxít?

    ĐÁP: Tính Khoa học, tính Tiền phong và khả năng Dự đoán là một bộ ba liên hoàn.

    Nếu có tính Khoa học thật sự, ắt có tính Tiền phong và khả năng Dự đoán. Ngược lại nếu Dự đoán luôn luôn sai hay chủ yếu là sai thì bản chất khó lòng là Tiền phong và Khoa học được.

    Một khi chủ nghĩa Mác -Lê đã tự xác định mình là "Chủ nghĩa Xã hội Khoa học" thì việc tự xưng là Đảng Tiền phong và tiến hành những Dự đoán như đinh đóng cột cũng là hợp với tư duy lôgic và "phép biện chứng tự nhiên".
    Nhưng ngược lại, nếu những dự đoán như đinh đóng cột ấy đổ thì đương nhiên không ai dám nhận mình là Khoa học và Tiền phong nữa, vì đó là cũng là lôgic tự nhiên và là sự tự trọng tối thiểu.

    Người Cộng sản rất tài giỏi trong thực tế tranh đấu, trong đó có sự ứng dụng khoa học thật sự, do đó những dự đoán chiến thuật thường là đúng, nếu không thì sao thắng được. Nhưng dự đoán chiến lược lại là một vấn đề khác hẳn.
     
    Dự đoán Mác xít có tính chiến lược bao trùm nhất , kết tinh của tư duy Cộng sản toàn thế giới là tuyên bố của 81 đảng Cộng sản về "nội dung thời đại" : ...''Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới,mở đầu bằng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10 vĩ đại. ... Là sự sụp đổ của chủ nghĩa Đế quốc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa, là sự xuất hiện ngày càng nhiều dân tộc tiến lên con đường XHCN. Giai cấp Côngnhân quốc tế, mà đại diện là những Đảng Mác xít Lênin nít chân chính, đang đứng ở vị trí trung tâm của Thời đại mới,đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa Xã hội !".

    Đảng Cộng sản Việt nam còn đi xa hơn, không phải "dự đóan" nữa mà đã nhìn thấy " ba dòng thác": dòng thác tan rã của chủ nghĩa Tư bản, dòng thác sinh sôi của chủ nghĩa Xã hội và dòng thác của thế giới thứ ba.

    Đối chiếu với thực tế ngày nay, liệu còn gì để bình luận?

    Hãy chú ý rằng đấy là trí tuệ tập trung của cả thế giới Cộng sản, trí tuệ ở vào lúc khá nhất của phong trào Cộng sản (khá nhất vì trong đó tính giai cấp kiêu ngạo cực đoan phi thực tế đã được điều chỉnh đi rất nhiều), khá đến mức bị những người Cộng sản khác lên án là "xét lại", mà còn sai đến mức lộn ngược như thế thì hệ thống lý thuyết ấy ở dạng "chân chính" còn khủng khiếp biết chừng nào?

    Vậy mà đến tận hôm nay, những trí thức gọi là tiên tiến nhất của thế giới tư duy Cộng sản vẫn chưa nhìn ra được cái sai từ nơi gốc rễ, vẫn cứ xưng là "Khoa học", là "Tiền phong" thì đủ biết khả năng "ngu hóa" của lý thuyết ấy đã đến độ tuyệt hảo vậy.

    Có người không đồng ý với tôi, lại bảo: Người ta chẳng dốt đâu, người ta biết cả đấy !

    Nếu vậy thì còn kinh khủng hơn. Đẩy được trí tuệ ra khỏi đầu những nguời vốn thông minh đã là điều tài tình, thì việc đẩy được lương tâm và danh dự ra khỏi những trái tim vốn đầy tính lương thiện và lý tưởng quả là một siêu ma lực đáng để loài người muôn đời nghiền ngẫm .

    Kẻ làm chính trị mà dùng được "ngu lực" hay ma lực này thì lo gì không vô địch?

    Và người vô địch không bao giờ ngu dốt, trái lại, tinh khôn tuyệt vời.
    Thông minh và ngu dốt luôn song song trong mỗi con người,bởi lượng trí khôn mà Tạo hóa ban cho mỗi con người bình thường gần là một hằng số như nhau (Trừ những người bất thường thì không kể.Chỉ số thông minh IQ cũng chỉ là một mặt của trí khôn thôi).Dùng hết tinh khôn cho việc này thì ngu dốt trong việc khác . Vô địch trong điều kiện này thì đại bại trong điều kiện khác. Thoạt nhìn thì Chân lý mang tính "cù nhầy".

    Nhưng nếu lấy sự Tiến hóa và Hạnh phúc chung của cả Nhân quần làm chuẩn thì Chân lý có những tiêu chuẩn xác định, không thể lộn ngược.
    Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc, Đảng Lao động Việt nam gồm những người yêu nước nhất, dám hy sinh, biết tổ chức và có sách lược nên có vai trò tiền phong thật sự. Nhưng bước vào giai đoạn "cách mạng" tức cuộc đấu tranh giai cấp nhằm mục đích tối hậu là xây dựng chủ nghĩa Cộng sản thì tình hình dần dần xoay ngược trở lại.

    Dựa trên một lý thuyết phi khoa học thì chủ trương và hành động sẽ chống quy luật, sẽ bị thực tế phủ định. Bản chất của lý thuyết dẫn đường là lạc hậu,không tiền phong, nhưng muốn giành vị trí tiền phong thì quy trình giành lấy tiền phong phải diễn ra theo 4 bước tuần tự:

    Bước 1 : Thấy cái "tiền phong thật" ngược với mình, nên coi là phản động.

    Bước 2 : Không chống được, đành buông lỏng, để cái "tiền phong thật" tồn tại không chính thức .

    Bước 3 : Thấy cái "tiền phong thật" hữu hiệu , hợp lý nên phải làm theo.

    Bước 4 : Tuyên bố cái "tiền phong thật" ấy là do mình khởi xướng.

    Và mỗi bước chuyển đổi ấy đều được coi là một bước khám phá, sáng tạo trên con đường tiền phong!

    Trong thực tiễn "Cách mạng" Việt nam, từ việc to việc nhỏ đều có thể dẫn ra vô số sự kiện đã diễn ra theo kiểu ấy, tức là lếch thếch chạy theo thực tiễn để đoạt lấy tiền phong: từ chủ trương khoán sản, thị trường tư nhân, tự do luyến ái, y phục thời trang, quan hệ với người nước ngoài, hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, nhân quyền, pháp trị, xã hội công dân, tự do lập hội, trí tuệ là động lực ... ... , rồi chẳng bao lâu nữa sẽ là những thứ mà ngày hôm nay đang coi là phản động, như: từ bỏ Chuyên chính Vô sản, Dân chủ đa nguyên, tự do báo chí, tự do truyền bá tư tưởng, thông tin Internet ,tự do xuất bản,hủy hệ thống "trường Đảng",nhìn nhận lại bản chất tư tưởng Mác-Lê, nhìn nhận lại vấn đề "tư tưởng Hồ chí Minh" và lăng Hồ chủ tịch, Đảng đối lập, Tổng thống chế, tự do vận động tranh cử...vân vân...(xin nhắc lại: nhiều vấn đề ấy đang bị coi là cấm kỵ, nhưng vì khuôn khổ của bài viết nên xin chưa thảo luận ở đây).

    Ngay những bài viết của tôi cũng như của nhiều trí thức tiến bộ , hôm nay còn bị "thông báo nội bộ" coi là phản động thì rồi đây chắc chắn sẽ được 'biến thành' quan điểm của Đảng (!). Kể ra, nếu rồi đây Đảng cũng nghĩ như thế thật thì rất đáng mừng, vì điều quan trọng đối với xã hội không phải ỡ chỗ quan điểm ấy là của ai, mà ở chỗ quan điểm tiến bộ ấy được thực hiện như thế nào, do thực tâm muốn đổi mới vì đất nước hay vì buộc phải thích nghi để duy trì được quyền lợi của tập đoàn. Và từ đó sẽ phát sinh những hệ quả rất khác nhau.

    Trong những phần sẽ trình bày sau , có đề cập đến một số Dự đoán mang tính hiện thực và Tiền phong bởi nó dựa trên tư duy Khoa học thực sự.
     
    ___________

    GHI CHÚ:
     
    (1) HÀ SĨ PHU, Đôi điều suy nghĩ của một công dân , Nhà xuất bản TIN, Paris 1993.
    (2) HOÀNG VĂN HÀO,CHU THÀNH : Quyền Con người, quyền Công dân-Khái lược lịch sử và lý luận. ( Sách: Quyền Con người trong thế giới hiện đại , Tài liệu tham khảo nội bộ, Viện Thông tin khoa học xã hội, HÀ NỘI 1995).
    Trích : ..."Về mặt lý luận, trong một thời gian dài lý luận về Quyền Con người, Quyền Công dân trong chủ nghĩa Xã hội đã không có quan điểm kế thừa những giá trị Nhân quyền trong lịch sử." ... ..." Điều đó thể hiện trong cương lĩnh, đường lối của các đảng cầm quyền cũng như trong hiến pháp, pháp luật ở các nước Xã hội chủ nghĩa." , "...khi các nước phương Tây dùng ngọn cờ Nhân quyền để tiến công chủ nghĩa Xã hội, các nước Xã hội chủ nghĩa thường tỏ ra lúng túng, bị động, chỉ đối phó khi bị công kích, đánh đâu đỡ đấy...". (trang 39).
    " Trước đây, ở các nước Xã hội chủ nghĩa, Quyền Con người ít được nói đến, mặc nhiên đồng nhất Quyền Con người với Quyền Công dân ! Trong các văn kiện pháp lý (hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ Quyền Công dân! Khi khởi xướng công cuộc cải cách, đổi mới, những tri thức hợp lý của nhân loại được tiếp thu !" (trang 21).

     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2007 01:07:36 bởi nguyễn văn dân >
    #2
      nguyễn văn dân 29.06.2007 02:32:03 (permalink)
      .
      PHẦN 2
      CHÍNH TRỊ MÁC-LÊ :
      Phong kiến biến tướng
       
      5) HỎI: Vì sao trong bài "Đôi điều suy nghĩ..." (ĐĐSN...) anh luôn đối chiếu Mác-Lê với Khổng-Mạnh?

      ĐÁP: Theo nhận thức của tôi thì tư duy chính trị Mác xít chỉ là tư duy Đức trị phong kiến mang màu sắc Công nghiệp.

      Trước đây, bản chất Phong kiến của hệ thống chính trị Mác-Lê bị che mờ đi là do mấy nguyên nhân sau:

      * Về nội dung: Người ta thấy lý thuyết Mác-Lê có những nhân tố mà lý thuyết Đức trị phong kiến không có như "Giai cấp công nhân và Đảng tiền phong", "tính Quốc tế", tính "tập thể", "tính Công nghiệp","tính Duy vật biện chứng"... Hơn thế, lý thuyết Mác-Lê luôn nói về ý thức hệ phong kiến như ý thức hệ phản động cần phải tiêu diệt.

      * Về vai trò lịch sử: Có sự ngộ nhận rằng "chủ nghĩa Đế quốc" là giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Tư bản sắp cáo chung thì phải có cái gì thay thế nó chứ! Trong cơn khủng hoảng của thế giới ở những thế kỷ đầu của Văn minh Công nghiệp thì sự phê phán đối với xã hội Tư bản đương thời và khát vọng về một thế giới khác đã trở nên mảnh đất tuyệt vời để nảy mầm hạt giống Cộng sản, người ta ngưỡng vọng nó như một cái gì hoàn toàn mới mẻ.. Sau những thắng lợi huy hoàng ở giai đoạn đầu của trào lưu Cộng sản: chiến thắng phát xít, sự xuất hiện một siêu cường Cộng sản với nền công nghiệp nặng, vũ khí hạt nhân, thám hiểm vũ trụ... thì ngưỡng vọng ấy càng trở thành niềm tin thực sự. Thực tế ấy khiến cho cả những người dù có nhìn thấy những điều không ổn trong tư duy Mácxít cũng không dám nghĩ rằng tư tưởng Mácxít chỉ là bản sao mang màu sắc Công nghiệp của tư tưởng phong kiến lỗi thời.

      Nhưng nếu xem xét vấn đề từ sự tiến hóa Đức trị sang Pháp trị sẽ thấy bản chất này hiện ra rất rõ.

      6) HỎI: Đức trị và Pháp trị khác nhau thế nào? Chuyên chính Vô sản là Đức trị hay Pháp trị?

      ĐÁP: So sánh đầy đủ ắt phải viết nhiều pho sách, vì trong lịch sử từ Đông sang Tây đã có nhiều biến thể phức tạp. Ở đây chỉ có thể rút ngắn chuyện nghìn năm vào một vài trang, với một vài điều cốt lõi.

      Trên đường tìm kiếm những phương pháp để tổ chức, duy trì và điều hành xã hội, các nhà tư tưởng phương Tây cũng như phương Đông rút cuộc đều phát hiện các nhu cầu Đức trị, Pháp trị và nhu cầu 'phối hợp' cả hai yếu tố đó. Ba xu hướng này, với vô số biến thể của chúng, đã tồn tại và đấu tranh với nhau từ trước Công nguyên cho tới hôm nay, và cùng với chúng là những cách nhìn khác nhau về bản chất cao quý hoặc tàn bạo của Chính trị và của Nhà nước, cùng với chúng là những cẩm nang khác nhau để dạy những thủ đoạn chính trị cho nội bộ giới cầm quyền mỗi nước mỗi thời.Những chuyện "bếp núc" tàn bạo và dối trá của Chính trị, ta tạm gác sang một bên.

      Về triết học mà nói, bao quát hết thảy chỉ có hai phạm trù tư tưởng về tổ chức xã hội, xây dựng trên hai nền nhân văn khác nhau: chủ nghĩa Nhân văn cổ điển và chủ nghĩa Nhân văn mới. Đạo trị nước của Nhân văn cổ điển là Đức trị, đạo trị nước của Nhân văn mới là Pháp trị. Đức trị cực thịnh ở chế độ Phong kiến, ứng với Văn minh Nông nghiệp. Quản Trọng, Hàn Phi, Vệ Ưởng, Machiavel... tuy đã đụng chạm đến "Pháp trị" nhưng về toàn cục thì vẫn nằm trong quỹ đạo Đức trị.

      Đức trị hay Pháp trị không phải đơn giản là phẩm chất cá nhân hay phương pháp cá nhân của người cầm quyền hay của một triều đại như nhiều người lầm tưởng. Lại càng không nên tưởng lầm rằng áp dụng pháp luật cho cứng dắn là đề cao Pháp trị! Những chế độ phong kiến hay "Ý thức hệ trị" không thể nào có một nền Pháp trị theo đúng nghĩa .

      Pháp trị chỉ có thể ra đời cùng với Văn minh Công nghiệp, mở đầu bằng "Dân chủ Tư sản" và phát triển thành nền Dân chủ Đa nguyên ngày nay. Pháp trị ngày nay cũng có yếu tố Đạo đức, song về tư duy nó khác với Đức trị về "chất", không thể lẫn lộn với Đức trị được nữa.

      Chúng ta hãy xem nền chính trị "Chuyên chính Vô sản" nằm ở chỗ nào trong bậc thang tiến hóa ấy?

      Trước hết phải hiểu cơ sở triết học của Nhân văn cổ điển và Nhân văn mới. Cả hai nền Nhân văn đều muốn hướng xã hội và con người đến Chân Thiện Mỹ, cho con người được hạnh phúc trong sự "hòa" với nhau và "thuận" với quy luật. Song mỗi bên nhận thức về Con người một khác và từ đó đưa ra những tiên đề khác hẳn.

      Tư duy Nhân văn cổ điển dựa trên tiên đề: Con người ta bản chất là thiện và giống nhau, nhưng trong quá trình sống bị cái ác làm cho "tha hóa" đi và phân ly ra (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn). Vậy phải chống cái ác và chống sự phân ly, chống sự "tha hóa", thu về một mối! Tư duy chiến lược của Đức trị là "nhất thể hóa" xã hội, mà đỉnh cao của nó thể hiện ở tính "tập thể", "quốc tế", "đại đồng"... Đức trị, song cái ác mà Tuân tử nói tới chỉ là cái bản tính thứ sinh thôi, bởi "nếu biết tích thiện thì kẻ tầm thường cũng có thể thành kẻ sĩ rồi thành thánh nhân" thì như thế cái ác sao có thể coi là bản tính được. Về toàn cục Tuân tử vẫn là đại biểu của Đức trị.

      Tư duy "nhất thể hóa" ấy đương nhiên dẫn đến chỗ phải tìm kiếm và khẳng định xem cái khuôn mẫu "thiện" duy nhất ấy là cái gì. Phong kiến khi xưa thì khẳng định đó là "đạo trời", (hoặc biến thái thành "đạo người", "đạo vua"...) mà Thiên tử được ủy nhiệm, Mác Lênin thì khẳng định đó là "hệ tư tưởng của giai cấp công nhân" tiêu biểu cho Thời đại, mà Đảng Cộng sản là đội tiên phong được Lịch sử giao phó. Những khẳng định ấy đều mang tính tiên đề nghĩa là chỉ được giải thích chứ không được chứng minh, hoặc đã chứng minh một lần rồi là không bao giờ được "xét lại" nữa. Bởi tất cả những "chân lý" ấy đều là do những đại biểu của họ viết ra chứ có ai biết mặt mũi ông Trời và ông Lịch sử ra sao đâu. Điều này giải thích tại sao tất cả các chính thể Đức trị đều không thoát khỏi màu sắc Tôn giáo.

      Về biện pháp, lúc đầu nặng về khuyên răn, giáo dục (cẩu bất giáo, tính nãi thiên: nếu không giáo dục thì cái tính sẽ sai lệch đi), nhưng biện pháp "thiện"này bất lực trước thực tiễn, và các nhà Đức trị đã buộc phải cầu viện đến cái "ác" trong biện pháp. Machiavel khuyên quân vương phải biết lừa đảo và tàn nhẫn, (vừa như con vật vừa như thằng người). Thế mà theo Creel thì Machiavel so với Hàn Phi vẫn chưa thấm vào đâu ( ); Hàn Phi, Thân Bất Hại ... đề cao cái "Thuật" trong phép trị nước. Đến Mác-Lê thì sự quyết liệt này lại lên cao thêm một cấp độ nữa, không ngần ngại nói thẳng ra rằng người Cộng sản mà không dám đẩy cái đấu tranh giai cấp tới cấp độ Chuyên chính Vô sản thì cũng chưa xứng với tầm Cộng sản..!

      Nếu tính ác trong chính trị Machiavel còn được ý thức là cái ác mà quân vương buộc phải làm, cái ác trong chính trị Hàn Phi còn manh nha cho Pháp trị, thì đến Mác-Lê cái Chuyên chính hoàn tòan không được nhận thức như cái ác, mà là cái thiện gấp triệu lần những cái thiện khác, không còn là biện pháp bất đắc dĩ của quân vương mà biến thành cái chân lý mà quần chúng cần hướng tới, không phải mở đường cho Pháp trị mà lại trèo lên trên Pháp trị, ức chế Pháp trị. Đến Mác-Lê thì mâu thuẫn thiện-ác nội tại của Đức trị đã lên tột đỉnh.

      Hệ tư duy Đức trị khởi thủy là "toàn thiện": con người thiện, phương pháp thiện, đi đến cái đích cực thiện. Nhưng lối suy nghĩ duy tâm ấy va phải thực tế nên buộc phải bổ sung bằng cách sử dụng cái Ác với tư cách phương pháp, có nghĩa là tự thâu nhận vào trong lòng mình cái Ác, và thế là phải chấp nhận cái đối lập với mình, vì bản tính của thế giới khách quan vốn là Đa nguyên. Những người Mác xít luôn nói đến tính muôn màu muôn vẻ của tự nhiên mà không nhận ra cái lẽ Đa nguyên rất tự nhiên của trời đất, bởi dẫu đã cố gắng duy vật và biện chứng (đồng thời vẫn rất duy tâm và siêu hình) nó vẫn quanh quẩn trong hệ ý thức Nhân văn cổ điển, luôn "nhất thể hóa" xã hội, cứ muốn thu xã hội về một mối, tỏa ra từ một nguồn.

      Hệ Nhân văn cổ điển tuy có tự bổ sung như vậy vẫn không thoát khỏi bế tắc. Lúc đầu ta tự an ủi rằng cái ác chỉ là phương tiện để đi tới cái thiện nên ráng nhắm mắt mà chịu cho qua giai đoạn "quá độ". Nhưng việc tách mục đích và phương tiện một cách rành mạch như thế không "biện chứng" chút nào. Mục đích lồng trong phương tiện, và phương tiện cũng lồng trong mục đích , mục đích của công đoạn trước có khi là phương tiện cho công đoạn sau (Cái lát cắt chia đôi mục đích với phương tiện chỉ là lát cắt giả tạo !), mục đích và phương tiện luôn đổi chỗ cho nhau.

      Cái Ác cũng biết tự vệ, nửa đường nó dừng lại để tự sinh sôi và không tiếp tục con đường 'hành Thiện' nữa.Thiện sử dụng Ác làm phương tiện, thì Ác cũng biết dùng Thiện làm phương tiện! Giai đoạn "quá độ" kéo dài vô thời hạn. Thiện Ác dồn lại một cục, Đạo đức và Phi đạo đức cứ xoắn vào nhau, lẫn lộn không biết đâu mà phân biệt. Quá rành mạch cuối cùng lại không rành mạch. (Khi ấy, cái lát cắt chia đôi Thiện và Ác cũng không giúp ta phân định mọi điều được nữa! Những người chỉ một mực đưa cái Tâm lên đầu để khuyến Thiện thì nhất định sẽ trở thành người 'ba phải', không thể khác được!).

      Chưa kịp đối phó với bệnh giáo điều coi "phương tiện Mác-Lê" là mục đích để gây cái hại chung, đã phải quay sang đối phó với tật thực dụngdùng Mác-Lê làm phương tiện để tạo cái lợi riêng.

      Cái bế tắc ấy của thể chế Xã hội chủ nghĩa không mới mẻ gì, chỉ là cái bế tắc nghìn đời của lý tưởng Đức trị ,mà đáng lẽ đã được lịch sử cho phép cáo chung cùng với sự cáo chung của chế độ Phong kiến và Văn minh Nông nghiệp rồi.

      Các nền Đức trị bế tắc vì coi cái gốc của Thiện là ở bên trên, ở Vua, ở Đảng tiền phong..., nên khi chính cái gốc ấy tha hóa thì không tự "hoàn Thiện" được. Pháp trị khơi thông được bế tắc này là nhờ coi nguồn Thiện vô tận là từ biển cả Nhân dân, nên chủ trương tạo điều kiện gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế sự tha hóa của quyền lực thống trị và làm nó lành mạnh trở lại.

      Sự ra đời của sản xuất Công nghiệp và Kinh tế thị trường đã chiếu một tia sáng hoàn toàn mới vào tư duy của con người trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Người ta nhận ra cái nghịch lý rằng muốn cho xã hội có đạo đức hơn thì phải giả thiết là nó gồm những người những người chưa có đạo đức, và không thể gom họ về một mối tốt đẹp đã định sẵn được. Nguy cơ vô đạo đức nhất luôn phát xuất từ kẻ đi thi hành đạo đức, bởi quy luật của quyền lực là bành trướng vô hạn độ, nếu không gặp phản lực. Những người đạo đức thực sự bây giờ giác ngộ rằng phải tạm gác "phương án tối đa" để đảm bảo cho "phương án tối thiểu": Chưa cần anh đạo đức, xin anh hãy sòng phẳng với chúng tôi cái đã !

      Nghĩa là xã hội loài người phải đổi "luật chơi".

      * Thay vì sử dụng sức mạnh xã hội theo chiều từ trên xuống để tác động vào đám dân đen, bây giờ phải gây sức mạnh từ dưới lên để khống chế thế lực cầm quyền, thông qua quyền bầu cử và các quyền công dân khác , mà quyền cơ bản nhất là quyền tư hữu.

      * Thay vì tập trung quyền lực vào một nguồn (nhất nguyên), bây giờ phải "tam quyền phân lập" và chấp nhận nhiều tổ chức chính trị độc lập với nhau trong xã hội (đa nguyên). Thay quyền lực định sẵn, kéo dài vô hạn, bằng quyền lực dân cử, định kỳ hữu hạn.

      * Thay vì nhân danh một lý tưởng cao xa do áp đặt đơn phương, người cầm quyền chỉ được nhân danh cái khế ước rất cụ thể do mọi người trong xã hội cùng nhau thỏa thuận, gọi là luật pháp. Thay vì bị quy định trong tất cả mọi việc làm ,người dân bây giờ chỉ bị quy định về những điều không được làm, do đó phạm vi tự do cá nhân được nới rộng một cách căn bản.

      * Thay vì lấy chuẩn "tĩnh" là vua hoặc một tập đoàn gọi là tiền phong, phải lấy chuẩn "động" là những lực lượng tiên tiến luôn xuất hiện từ trong xã hội.

      * Kết quả là một xã hội thần dân ổn định giả tạo dưới ách chuyên chế được thay bằng một xã hội công dân linh hoạt và hơn hẳn về tính Dân chủ.

      Tư duy khoa học và tiến bộ này được từ khơi nguồn từ John Locke (1632-1704), Montes quieu (1689-1755)..., phát triển thành nền "Dân chủ tư sản" thế kỷ 18-19, rồi thành nền Dân chủ đa nguyên Pháp trị ngày nay.

      Đức trị đã có vô số biến thể thì Pháp trị cũng không thể quy về một hình mẫu cứng nhắc nào. Một thể chế xã hội tốt, nhất định phải phù hợp với những đặc điểm Dân tộc và Lịch sử của mình. Nhưng không thể vin vào đó để duy trì một chế độ Đức trị Mácxít ảo tưởng, mà thực chất là nền Chuyên chính của thiểu số nhân danh Vô sản, thiết lập trên đầu Nhân dân, trong khi Nhân loại đã chuyển sang kỷ nguyên Pháp trị !

      Trên cơ sở những điều đã trình bày trên tôi thấy có thể kết luận rằng:

      Bản chất của dòng tư tưởng Mác-Lê về xã hội là dòng tư tưởng Phong kiến phục hưng, cộng với ảo tưởng Cộng sản nguyên thủy (hoặc ảo tưởng Nô lệ) trong cơn khủng hoảng tăng tốc của nền Văn minh Công nghiệp.

      Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính xúc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là những dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.

      7) HỎI: Quan hệ giữa Đức trị và Đạo đức ?

      ĐÁP: Đạo đức là một giá trị tinh thần cao quý, nhưng cũng biến đổi theo thời đại. Khi thời đại thay đổii thì Đạo đức là yếu tố tương đối ổn định nên biến đổi chậm hơn so với những biến đổi của kỹ thuật,kinh tế, chính trị...Vì thế tác dụng của Đạo đức mang tính hai mặt . Mặt tích cực là duy trì tính ổn định của xã hội, nhất là của dân tộc, chống lại những điều "nhí nhố" nhất thời. Mặt tiêu cực là tính ỳ cao, ở những giao thời của lịch sử thì Đạo đức đương thời luôn thuộc về hệ thống cũ. Lực lượng mới của xã hội muốn đi tới bao giờ cũng phải làm cái động tác phá vỡ Đạo đức cũ như con gà con phá vỏ trứng để chui ra. Vì thế bản chất của tiến hóa và sinh sôi là "phi đạo đức" !

      Đạo đức còn có một thuộc tính nữa là rất dễ bị bắt chước để làm giả. Đạo đức giả còn "mê ly" hơn cả Đạo đức thật. Nhà chính trị lão luyện nào cũng phải là một tay "chơi Đạo đức". Vì thế luật của Pháp trị lành mạnh là "Cấm trị nước bằng Đạo đức!"

      Một thuộc tính khác của Đạo đức là xu hướng tự hoại, nghĩa là trong môi trường mà Đạo đức cầm trịch thì Đạo đức sẽ tự mất đi.

      Đạo đức là giá trị cao quý mà mỗi con người cần có để đối xử với nhau và giáo dục nhau, muôn đời không ai dám nói bỏ Đạo đức, nhưng Đức trị thì loài người thông minh ngày nay không sài nữa rồi. Phê phán Đức trị tuyệt đối không có nghĩa coi nhẹ Đạo đức, trái lại chính là vì để có Đạo đức thật.  Chừng nào chưa biết ghê sợ Đức trị thì dân tộc ấy còn ở trong cơn mê man để làm mồi ngon cho những mưu toan.

      Trừ khi cả dân tộc ấy (cả tầng lớp thống trị và bị trị) đều là những tay "chơi Đạo đức" thì không kể ! Nhưng chẳng lẽ điều này lại có thể xảy ra, và nếu tất cả đều ranh ma như thế thì tôi còn viết những lời ngốc nghếch này ra đây làm gì? Không, không thể như thế, Nhân dân, ít ra là nhân dân lao động và một thiểu số trí thức, bao giờ cũng lương thiện!

      8) HỎI: Thực tiễn nào ở Việt nam minh chứng cho quan điểm của anh về bản chất Phong kiến của nền Đức trị Mác xít?

      ĐÁP: Có thể nói toàn bộ thực tiễn Việt nam và thực tiễn trong "phe" Xã hội chủ nghĩa minh chứng cho quan điểm của tôi. Xin kể mấy ví dụ điển hình:

      * Theo trí tưởng tượng của Mác thì ý thức hệ Phong kiến là rất xưa cũ, phải trải qua ý thức hệ Tư sản rồi mới tiến lên ý thức hệ Vô sản, mà mỗi "bước" chuyển biến ấy là cả một kỷ nguyên mới, trong lịch sử phải đo bằng ngàn năm chứ đâu phải chuyện chơi! Ý thức lại là cái thay đổi rất chậm so với kinh tế, vậy mà chẳng hiểu sao những nước Phong kiến lạc hậu như Trung hoa, Việt nam, Lào, Cao miên... lại tiếp nhận thẳng ngay ý thức hệ Vô sản một cách nhạy bén đến thế, mà tiếp nhận rồi thì bám chặt lấy, tẩy cũng không đi. Trong khi đó những nước đã ở trình độ cao của ý thức hệ Tư sản thì lại tỏ ra ngu dốt không tiếp thu nổi ý thức hệ tiên tiến của Mác?
      Có gì đâu mà lạ! Cùng một chất Phong kiến như nhau thì thâm nhập vào nhau đâu khó khăn gì !

      Lúc đầu người ta cứ tưởng Việt nam chưa có giai cấp công nhân bao nhiêu, toàn nông dân thì tiếp thu ý thức hệ Vô sản chắc là khó lắm, ai ngờ bây giờ mới biết cái xứ sở Nông dân Phong kiến lạc hậu này mới chính là mảnh đất lý tưởng của Mác-Lê!

      Cái chất Phong kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa bởi một nền Dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng rất "ngon lành" trong hệ chuyên chính, "dân chủ tập trung" !

      Cái chất Đức trị sặc mùi Tam Cương ngũ Thường chưa bị thanh toán đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể chế "Ý thức hệ trị", một thứ Đức trị mới toàn những Nghị quyết, những "Cương" lĩnh, "Thường" vụ...

      Nếu nhìn thấy 55 tập Lênin in tuyệt đẹp chắc cụ Khổng cụ Mạnh phải ghen tỵ không được sống tới bây giờ, để Tứ thư, Ngũ kinh cũng được làm quen với giấy "cút-sê"!

      Nói: chủ nghĩa Xã hội chính là sự kéo dài của chế độ phong kiến là chí lý lắm vậy.

      Mối tương hợp ấy Mác cũng đã mường tượng ra, nhưng ông lại giải thích nó một cách khác. Theo ông, những "Công xã nông thôn", những "Cộng đồng làng xóm"  chính là chỗ dựa của nền "Chuyên chế phương Đông" là những thứ nhất định sẽ bị thanh toán khi tiến lên chủ nghĩa Tư bản, nhưng lại trở thành cái "khởi điểm trực tiếp để đi tới chủ nghĩa Xã hội" (!) (?).

      Đấy chẳng là bằng chứng về sự tương hợp giữa hai thứ Chuyên chế là gì?

      Bây giờ thử nhìn vào đội ngũ những người đã du nhập chủ nghĩa Mác-Lê vào Việt nam.

      Trước hết về chủ tịch Hồ chí Minh. Theo lời cụ Hồ, cũng như theo lời những người nghiên cứu về cụ Hồ đều thống nhất rằng cụ Hồ gốc là một nhà Nho. Nho giáo ở cụ Hồ là Khổng giáo. Tư tưởng chính trị của Khổng giáo là Đức trị, thậm chí chống Pháp trị.

      Về chất Nho của cụ Hồ, ta sẽ không nói tới cái Nho trong cách biểu đạt tư tưởng, trong đó rất nhiều câu nhiều ý là từ sách vở Khổng giáo, chỉ bàn về nội dung tư tưởng bên trong cách biểu đạt đó.

      - Cụ Hồ thấm nhuần đạo Khổng ở tính Đạo đức của nó. ("Đạo Khổng là một môn giáo dục về đạo đức và phép xử thế", lời cụ Hồ nói với nhà thơ Ôxíp Manđenxtam). Về biện pháp để có đạo đức thì xoay quanh mấy chữ "học", "dạy", "tu dưỡng bản thân", "phê bình và tự phê bình" ..  Cụ nói :"Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân.". "Muốn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội thì trước hết phải có những con người Xã hội chủ nghĩa !". Tức là cụ Hồ đã đi đúng vào cái vết xe mà Đức trị đã đi suốt mấy nghìn năm: chính tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ! Rồi cũng bằng chính tấm lòng khát khao có một thể chế Đức trị cho dân tộc ấy, cụ Hồ đã bắt gặp lý thuyết Chuyên chính Vô sản và "mê" ngay từ buổi gặp đầu. Tôi dùng chữ "cộng hưởng" là vì vậy.
      Những cái hay cái đẹp như các cụ nói nào có ai phản đối. Vấn đề là làm thế nào để thực hiện? Khi xã hội đã tiến vào sản xuất Công nghiệp và kinh tế Thị trường thì việc trị nước bằng cách lấy Cá nhân làm gốc để tỏa ra làm tốt xã hội, lấy Giáo dục làm biện pháp trung tâm chắc hẳn đã bị đẩy vào quá khứ cùng với nền Đức trị phong kiến, nếu trên đời đã không sinh ra kẻ kế thừa nó, là nền Chuyên chính Vô sản.

      Nếu cụ Hồ chỉ là nhà giáo dục, nhà thơ... thì ta chẳng nói, nhưng cụ Hồ đã nhận mình là "nhà Cách mạng chuyên nghiệp" tức nhà chính trị, tức người cầm quyền thì xã hội chờ đợi ở Cụ một Cơ chế tổ chức xã hội, một bộ luật, và một hệ thống quyền lực sao cho trong đó cái đạo đức cứ được phát sinh và nuôi dưỡng, cái phi đạo đức cứ bị lọc ra và trừng trị; giáo dục rèn luyện chỉ còn là biện pháp hỗ trợ. Thế mới là Đạo đức thật sự, và đó chính là cái Đạo đức của Pháp trị. Nhưng thực tế , cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy Đức trị Vô sản đã gây những hiệu quả ngược lại với Đạo đức.

      Có gì khó hiểu đâu. Hãy xem vai trò người tối cao của bộ máy hành pháp: Thủ tướng!

      Sinh thời của Hồ chủ tịch thì thủ tướng là cụ Phạm văn Đồng. Người Việt nam gọi cụ Phạm văn Đồng là vị thủ tướng "của Đạo đức" (!), cả một đời nói Đạo đức, đặc biệt là đạo đức Hồ chí Minh. Cụ Đồng nói nhiều đến đến ĐỨC và TÀI, đến HỒNG và CHUYÊN.

      Nhưng ĐỨC và TÀI thì cụ Hồ đã giảng bằng lời của sách Đại học (một trong Tứ thư): "Đức giả bản giã, Tài giả mạt giã! (Tài chỉ là ngọn, Đức mới là gốc). Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức là không có căn bản!".

      Đề cao Đức không phải là sai, nhưng sau khi đã đưa được Đức lên vị trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của Chuyên chính Vô sản: chữ TRUNG! Mà "trung" là phải "trung với Đảng"! Rồi mới "Hiếu với Dân !...vân ...vân...

      Tuy Dân có được kể đến ở ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh đề "Đảng với Dân là một"

      Tuy được "là một" nhưng ngồi chung vào cái ghế này "Dân" sẽ bị "Đảng" thôn tính, vì Dân phải nhớ rằng Đảng luôn là người "lãnh đạo trực tiếp,toàn diện và tuyệt đối"! Thế thì Dân còn chỗ nào mà đứng? Thương thay cho Dân đã thực sự trở thành con đỏ, được ru được nựng, được bế ẵm hết chỗ này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay "mẹ hiền" mất rồi, không khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi "mẹ hiền" cầm sữa lại cầm cả roi!

      Sự tước đoạt ấy là trong phạm vị ý thức hệ. "Hình chiếu" của nó ra thực tế là sự tước đoạt về "sở hữu" và "nhân quyền": Đảng hô hào đấu địa chủ để "người cày có ruộng"!."Có ruộng chưa được mấy ngày đã phải vào tổ đổi công rồi vào hợp tác, giao hết ruộng hết trâu cho "Ban Chủ nhiệm". Và từ đấy trở đi là cảnh:

      Mỗi người "làm việc bằng hai"
      Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe !
      Mỗi người "làm việc bằng ba"
      Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân !


      "Chủ nhiệm" là ai, dứt khoát là người trong Cấp ủy Đảng, nên quyền sinh quyền sát trong tay. Bị chủ nhiệm trù thì con thi vào đại học rồi cũng bị xã gọi về, bố mẹ có sang tỉnh khác để kiếm ăn cũng không thoát khỏi bàn tay quản lý hộ khẩu của Đảng ! Trạch trong rỏ cua làm gì có quyền tự do đi học, tự do cư trú ...? Có liều lĩnh "tự do ngôn luận" mà gửi đơn kiện tới Thủ tướng thì Thủ tướng lại giảng Đạo đức, Đạo đức thì phải "trung với Đảng" nên đơn kiện lại chuyển đúng về Đảng ủy xã để Đảng ủy hành... pháp !

      Con đường Đức trị vòng vèo quá nên người dân đâu có nhìn thấy, Đảng an ủi cho vài câu đạo đức là lại tỉnh cả người, và lại có sức để tiếp tục "làm việc bằng hai"!.

      Người không hiểu thì tưởng cụ Hồ chỉ mượn Khổng giáo cái chữ nghĩa, còn nội dung thì đã có "Đảng", có "hợp tác xã" nghĩa là đã mang tính Cách mạng rất mới mẻ rồi ! Có biết đâu nội dung phong kiến của chữ TRUNG vẫn được giữ nguyên, "trung" là dứt khoát không được nghĩ đến vị chúa tể thứ hai, "lưỡng Đảng" chẳng hạn là mắc tội chết rồi .Cái mới mẻ là: đáng lẽ trung với với Vua thì nay phải trung với Đảng. Đảng đứng thay vào chỗ của Vua trong cõi tâm linh của người dân Việt, được hưởng trọn tấm lòng "trung quân" mà chế độ Phong kiến phải mất cả ngàn năm mới xây dựng được !

      Ví dụ nhỏ trên đây chắc có thể giúp bạn nhận ra rằng sự Tập thể hóa kia không hề khử đi cái nội dung Phong kiến của chữ Trung, trái lại nó làm cho chữ Trung phong kiến được "cập nhật hóa" để nó có thể sống yên giữa thời sản xuất Công nghiệp, ít ra là trong buổi đầu.

      Đức trị Vô sản, đem đối chiếu với Đức trị Phong kiến thì tính "cách mạng" chỉ có nghĩa là thay "sự trung thành của cá nhân thần dân với cá nhân Vua" bằng "sự trung thành của một tập thể dân với một tập thể cầm quyền", để rồi trong tập thể cầm quyền này sự trung thành tối hậu sẽ được giải quyết bằng Đảng tính và nguyên tắc Dân chủ tập trung.

      Điều chua chát là trong sự tranh chấp ở cung đình này nhiều phen cụ Hồ và cụ Đồng với tư cách lãnh tụ chân chính của Đảng ,đã không phải là người được nhận sự trung thành tối hậu đó. Tôi được nhiều Đảng viên hưu trí kể rằng: Cụ Đồng rất nhiều tâm sự, Cụ bảo "cả đời làm Thủ tướng, tham nhũng như rươi mà tôi chưa cách chức được một cán bộ nào! Hiện nay ta chống tham nhũng nhưng cũng chỉ chống được từ vai trở xuống thôi !".

      Nghĩa là Tham nhũng ở trên đầu là không chống được! Người dân có thể chia sẻ với Cựu Thủ tướng những tâm tư ấy, nhưng chắc vị Cựu Thủ tướng của chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ rằng cội nguồn của bi kịch này là ở bản chất Phong kiến của nền Đức trị Vô sản ! Chẳng thế mà ít lâu sau cụ Đồng lại tiếp tục cuộc đánh Tham nhũng bằng ... những bài giảng Đạo đức, đạo đức Hồ chí Minh!

      Chính cụ Hồ với Đạo đức Hồ chí Minh có thật trong tay mà chưa chống được tham nhũng, huống hồ một người nào đó không phải Hồ chí Minh, chỉ nói Đạo đức Hồ chí Minh chứ chắc gì đã có Đạo đức thật, thì thử hỏi chống thế nào được tham nhũng ?

      Xin hãy lắng nghe lời mách nước của thời đại (nếu thực tâm muốn nghe): Hãy quên " Đạo Đức" đi, để làm Pháp trị cho ngon lành thì Tham nhũng nó mới sợ !

      Muốn có công bằng mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn luôn dẫn đến mất công bằng. Muốn có dân chủ mà chọn Đức trị là đồ ngốc, vì tình cảm luôn dẫn đến quân phiệt. Muốn được giải phóng mà chọn Đức trị là đồ ngốc vì Đạo đức là cái bẫy của kẻ thống trị để bẫy nhũng kẻ có tâm mà trí không đủ, chỉ thấy gần mà không thấy xa. Càng hướng thiện bao nhiêu, càng cựa quậy để tìm Đạo đức bao nhiêu thì càng rúc sâu vào bẫy bấy nhiêu. Kẻ thống trị chỉ cần nắm cái bẫy Đạo đức giơ lên là xỏ mũi được cả đàn. Không biết đến bao giờ Nhân dân mới nhận ra điều ấy, lúc ấy người ta sẽ tìm Pháp trị.

      Xin nối lại một chút cái mạch suy nghĩ về ĐỨC và TÀI. Khởi đầu có vẻ như đây là hai giá trị song song. Nhưng không, ý thức hệ Đức trị buộc phải coi Đức là gốc, Tài là ngọn. Rồi cái gốc Đức ấy lại phải mang nội dung số 1 là "trung với Đảng". Chỉ cần thuyết giảng hai bước ấy thôi là TÀi đã tụt xuống thân phận đầy tớ cho sự nghiệp Chính trị của Đảng. TÀI mà không phục vụ được sự nghiệp Chính trị của Đảng thì cũng "không bằng cục phân". Đừng nghĩ rằng điều quá quắt này là ở bên Tàu những năm về trước. Chính ở Việt nam đây, ngày hôm nay, giữa lúc "sự nghiệp đổi mới" rất "thành công" này, điều ấy càng đúng hơn bao giờ hết !

      Đảng ta đang trọng trí thức và càng ngày càng trọng trí thức, điều ấy xin đừng ai nghi ngờ.

      Vì Đảng ta thừa biết nếu chỉ dùng mấy anh bất tài thì dẫu có giữ độc quyền sở hữu đất đai để độc quyền mua bán với nước ngoài cũng không thể hòa nhập được vào thế giới đầy trí tuệ hôm nay. Nên mọi tài năng ắt được sử dụng, nhưng... với một điều kiện: phải phục vụ cho sự nghiệp "chính trị" của Đảng (chú ý rằng "Chính trị" Mác xít thì bao giờ cũng có Kinh tế trong đó rồi! Mác Lê chỉ dạy "Kinh tế-Chính trị học" Économie politique, mà không dạy Khoa học Chính trị Science politique !). Sự nghiệp của Đảng thì luôn đồng nghĩa với sự nghiệp của đất nước, nên ở Việt nam này, dù nói "vì đất nước" hay "vì Đảng" thì ý nghĩa chính trị công khai của câu văn cũng không có gì thay đổi (nhưng trong chốn lương tri thầm kín thì hai câu văn kia lại có nghĩa đạo đức trái ngược hẳn, người ta biết anh vì đất nước thì người ta trọng, chứ biết anh là kẻ vì Đảng thì người ta lánh xa đấy , không "là một" được đâu! ).

      Vừa ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN, trái ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TAI! Chọn đường nào thì chọn!
      Trí thức Việt nam nhạy bén, họ hiểu ý Đảng nên chẳng dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình Bác Hồ chỉ lối, để "Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân" ... thì " đánh đâu thắng đấy!". "Cứ có Bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, Chuyên chính Vô sản chỉ nghe lời Bác Hồ "! Người Việt thời nay nói về đồng tiền cách mạng một cách rất đạo đức như thế !

      Đấy là bài Đạo đức mà xã hội Mác-Lê đã dạy cho họ. Trong thâm tâm họ thừa hiểu những bài Đạo đức của lãnh tụ Vô sản thuyết giáo, vô tình chỉ để tạo ra một tầng lớp Cường hào mới giầu có gấp vạn lần bọn Cường hào phong kiến khi xưa.

      Thời cực thịnh của Đức trị là Phong kiến, ngày nay cứ ham Đức trị là rơi vào Phong kiến, mà Phong kiến ngày nay thì đâu còn cái nét đẹp của phong kiến cực thịnh ngày xưa? Thế nhưng, về ý thức hệ, Việt nam vẫn đang nằm trong vòng Ý thức hệ Phong kiến nên đối với đa số dân chúng,việc ca ngợi Đức trị nghe dễ thuận tai hơn.

      Phân tích như trên tôi không có ý gì muốn xúc phạm đến tấm lòng của cụ Hồ chí Minh, cụ Phạm văn Đồng là những vị có công Cứu nước, cũng như không dám xúc phạm đến tấm lòng cụ Các Mác thánh thiện. Trái lại tôi muốn khẳng định rằng tấm lòng dù thánh thiện đến đâu cũng không thoát khỏi cái vòng Kim cô của Ý thức hệ. Đối với những người điều hành xã hội, vấn đề là phải giải phóng Ý thức hệ trong cái đầu, chứ chủ yếu không phải là khổ công rèn luyện để "chính cái Tâm "!

      Đứng trong ý thức hệ ấy thì cái Tâm cũng chẳng " chính" mãi được đâu ! "Chính" thật thì ra rìa !

      9) HỎI: Có thể bàn gì về "Tư tuởng Hồ chí Minh" ?

      ĐÁP: Về cơ bản,vấn đề này không còn là vấn đề khó nhận thức nữa, song ở một chừng mực
      nào đó, lúc này vẫn còn là việc khó nói, và có lẽ chưa tiếng nói nào có thể là tiếng nói cuối cùng, song cũng đã là việc không thể không nói.

      Hồ chí Minh đã thành nhân vật lịch sử của Dân tộc và của thế giới. Tốt nhất không nên coi Hồ chí Minh là thủ lĩnh, hay thần tượng,hay kẻ thù, của anh, của tôi nữa. Cuộc đời của Chủ tịch đã để dấu ấn khắp nơi, tôi có nói thêm, anh có nói bớt cũng không được. Tốt nhất là ai nghĩ sao nói vậy, biết sao nói vậy, thẳng thắn và chân thành.,có thể ý kiến ấy chưa đạt tính hệ thống và toàn diện.

      Về phần tôi, tất cả những ý kiến đã trình bày và sẽ trình bày trong bài viết này về Ý thức hệ Vô sản, về tình hình đất nước cũng đã là lời bàn về nhân vật lịch sử số 1 ấy rồi. Đây chỉ là mấy lời bàn thêm:

      * Cụ Hồ thuộc những nhà Nho yêu nước lớn của Việt nam, là một người Việt nam điển hình của thế kỷ 20, tài giỏi về nhiều mặt. Sự gặp gỡ của Hồ chí Minh với Phong trào Cộng sản là biến cố bao trùm cuộc đời của Cụ, và do đó góp phần quyết định chiều hướng phát triển của ngót một thế kỷ đầy biến cố lớn lao của lịch sử Việt nam,và ảnh hưởng sang cả nhiều nước cùng cảnh ngộ. Trong "cuộc gặp gỡ lịch sử" ấy, Hồ chí Minh đã xử lý một cách thành công đồng thời cũng không thành công.

      * Nương theo trào lưu Cộng sản đang tràn dâng trên thế giới để đánh thức và tập hợp sức sống của một cộng đồng Dân tộc, làm cuộc Khởi nghĩa Tháng 8 thành công và sau đó là 9 năm trường kỳ kháng chiến thắng lợi, đem lại khuôn mặt mới và khí thế mới cho nước Việt nam từ nô lệ và nghèo đói là một sự nghiệp thần kỳ.

      * Song, điều đáng tiếc là sự nghiệp Hồ chí Minh đã không đi tiếp vào con đường Dân tộc hòa bình sáng lạn.

      Mặt tiêu cực của sự gặp gỡ giữa dân tộc Việt nam nói chung và Hồ chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng sản là đã du nhập vào đất nước mình một mô hình Xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt căn bản trên một ý thức hệ phong kiến tân thời, một "thiên đường" trại lính Maoít, nên nước Việt nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của thế giới mà trở thành nạn nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của các nước lớn.

      Sau cuộc huynh đệ tương tàn oan uổng, ý thức hệ ấy lại tiếp tục chỉ huy những cuộc hành hạ lẫn nhau, tạo môi trường cho những yếu tố hủ bại hãnh tiến lên ngôi,phá hoại kỷ cương, phá hủy những giá trị lương thiện và tiến bộ.

      * Cuối cùng thì Ý thức hệ đang rút lui khỏi lịch sử một cách không tuyên bố, nhưng đất nước vẫn tìm lối ra theo cung cách như trên , với một nhịp điệu ghê gớm hơn,và gây ra những hậu quả sâu sắc hơn. Và bi kịch thay, thần tượng anh hùng dân tộc Hồ chí Minh rất đẹp đẽ lại được dùng làm bình phong để bảo trợ cho tiến trình lắt léo này. Đó là tất cả sự khôn ngoan Việt nam.

      * Chủ tịch Hồ chí Minh đã thành công trong một sự nghiệp lớn, nhưng lại không thành công trong một sự nghiệp lớn hơn, bao quát hơn. Xét về nguyên nhân chủ quan, ta thấy nhữngï thành công đều gắn với bản chất thông minh và nhân hậu, ý chí kiên cường và đặc biệt khôn ngoan khi xử lý tình huống, khả năng lợi dụng tình hình và thời cơ, tận dụng những nhân tố có sẵn từ bên trong và bên ngoài thành sức mạnh tổng hợp để đạt mục tiêu. Nhưng sang một bài toán lớn hơn, mang tính thời đại hơn,thì những ưu điểm ấy không đủ.

      Do bản năng nhạy bén , Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy từ trào lưu Cộng sản sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy trong đó có điều phải cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng như khách quan đã không cho Nguyễn Ái Quốc đủ nhận thức hệ thống để phân định vấn đề tận gốc, nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại bi kịch nhân loại mà những nước khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi không khiển nổi âm binh, để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc đời riêng của mình.

      Vậy nếu phải nói về chỗ bất cập của người anh hùng Hồ chí Minh trước bài toán lịch sử của Dân tộc, tôi sẽ nói rằng nhà Chính trị yêu nước tài ba ấy không phải là một nhà tư tưởng. Nhà Nho yêu nước ấy kế thừa tư tuởng Đức trị phong kiến Khổng giáo nên đã cộng hưởng với chất Đức trị Vô sản trong chủ nghĩa Mác; đạo đức ấy rất đẹp nhưng trong xã hội hôm nay nó chỉ còn là chỗ ẩn nấp rất lý tưởng cho những thứ phi đạo đức.

      * Lịch sử đã quay hết một vòng, nay ngồi nghĩ lại mà so sánh một đường cách mệnh của cụ Nguyễn Ái Quốc theo gót Mã-Khắc-Tư và Lý-Ninh (Marx, Lênin), với con đường "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" của cụ Phan Tây Hồ theo gót Mạnh-đức-Tư-cưu và Lư -Thoa (Montesquieu,Rousseau) thì mới biết câu "Dục tốc bất đạt" của cổ nhân chí lý lắm vậy.Muốn nhanh thì không tới được! Đường lên Văn minh không có lối tắt, đi tắt để "tiến thẳng" lại hóa ra đi vòng quanh, đi mãi cuối cùng lại phải vòng về điểm xuất phát ban đầu!

      * Trình bày chừng ấy ý kiến, chắc cũng đủ nói lên nguyện vọng của tôi, một người dân Việt hậu sinh về cái việc lập ra hẳn một Viện Tư tưởng Hồ Chí Minh là một việc không nên chút nào! Trong nhân dân, biết bao nhiêu điều dị nghị:

      - Việc áp dụng (dẫu là áp dụng tài tình) một hệ tư tưởng đã có, chẳng lẽ lại là một hệ tư tưởng nữa hay sao? Về mặt tư tưởng thì cụ Mác cụ Lê còn lo không đứng được huống chi học trò, lại là một học trò không chuyên về tư tưởng, chủ yếu trông coi phần thực nghiệm?

      - Cụ Hồ mang nhiều tính truyền thống Việt nam điển hình, trong đó có truyền thống thực dụng, không có tư tưởng, không chính thống, không coi trọng lý luận (chỉ dùng lý luận khi cần ngụy biện). Cứ chắp vá mỗi thứ một tý, vay mượn Khổng Mạnh, Mác Lê, Thích Ca, Giê Su, Tôn Dật Tiên.. đủ cả, miễn sao đạt mục đích.

      - Nếu Việt nam có nhà tư tuởng riêng thì sao lại tự chấp nhận sự phân cấp "Chủ nghĩa: Mác-Lênin! Tư tưởng: Mao trạch Đông! Tác phong: Hồ chủ tịch !"

      Nhiều lần cụ Hồ đã "khoán trắng" phần tư tưởng cho các lãnh tụ khác. Ví dụ Cụ Hồ chỉ lên ảnh Xta-lin và Mao trạch Đông để trấn an tư tuởng cán bộ: " Tôi có thể sai, nhưng những ông này không thể sai !". "Tôi không viết lý luận, lý luận Bác Mao viết cả rồi !".

      - Có người lại viện dẫn định nghĩa của Lênin về Nhà tư tuởng , và nói rằng theo định nghĩa ấy thì Hồ chí Minh dứt khoát là Nhà tư tưởng !

      Nếu có Nhà tư tưởng thật thì đâu phải định nghĩa mới thành Nhà tư tuởng. Dân tộc không cần một "Nhà tư tưởng theo định nghĩa". Một người yêu chẳng hạn mà chỉ "theo định nghĩa" thì ngán biết chừng nào?

      - Tôi không biết vẽ mà bạn phong tôi là danh họa bậc nhất thế giới thì đúng là bạn "xỏ" tôi rồi! Lập tức những người thân yêu nhất của tôi sẽ cười bò ra: Đúng rồi, có lần anh ấy vẽ ảnh tặng em, lập tức em đem treo ở chuồng gà, thế là em không bị mất gà nữa! Thành trò đùa, thế có phải là tự nhiên lại làm khổ tôi không?

      Lâm Bưu đã chẳng "xỏ" Mao trạch Đông bằng cách đi đâu cũng chìa cuốn Mao tuyển đỏ chót ra đấy thôi! "Yêu nhau thì lại bằng mười hại nhau" là vậy đó !

      - Sao bao nhiêu năm không thấy "tư tưởng Hồ chí Minh", bây giờ thấy Mác Lê hết thiêng rồi mới dựng cụ Hồ ra thay thế? Phải chăng đây là một nước cờ lấp lửng, bảo cụ Hồ vẫn là Mác Lê cũng được, mà bảo cụ Hồ chỉ mượn Mác Lê là phương tiện cho Dân tộc thôi cũng được !

      - Úi dào, có bày ra chương trình nọ chương trình kia thì mới rút được tiền ngân sách ra mà chia nhau, chứ họ thiết gì. Nếu yêu mến Cụ thật thì người ta đã chẳng chữa Di chúc... ...

      Vậy là "Kính chẳng bõ phiền" !

      Người ta so sánh: xét về tầm Trí tuệ và Tâm huyết của Lãnh đạo thì "chiến dịch Tư tưởng Hồ chí Minh" cũng hao hao giống như "chiến dịch làm lại Quốc ca" năm xưa vậy. Sợ rồi kết thúc lại cũng như thế !

      Nghiên cứu những nhân vật lịch sử là thuộc khoa học lịch sử, là chuyện lâu dài.Nhiều tư liệu về Chủ tịch Hồ chí Minh còn đang được phát hiện, nhiều sự đánh giá đang được bổ sung, chỉnh lý. Phát huy tác dụng của những nhân vật lịch sử để có ích cho xã hội trước mắt là việc rất nên làm, nhưng cũng chỉ nên làm có mức độ, và phải trung thực với sự thật lịch sử, tô vẽ thêm hay xuyên tạc đi đều có hại như nhau. Cái gì làm quá đi cũng phản tác dụng.

      "Uy tín" có một thuộc tính là luôn luôn phải được "cập nhật hóa" và không mượn được.Thế hệ hôm nay chọn con đường nào là việc cuả thế hệ hôm nay. Không thể lấy sự lựa chọn của Bác Hồ để cấm sự lựa chọn của thế hệ hôm nay, cứ đem ra cho toàn dân xét duyệt đàng hoàng, cái nào tốt, đúng, hợp với thế giới ngày nay thìdùng. Cũng như không thể lấy sự lựa chọn của chúng ta hôm nay để hù dọa thế hệ con cháu chúng ta, vấn đề là phải giúp thế hệ sau chuẩn bị cái vốn Trí tuệ và Nhân tính để họ có đủ bản lĩnh mà tự lựa chọn, chứ không thể làm thay. Uy tín hôm nay thì hôm nay phải tự mình tạo ra, nếu không ắt người ta bảo mình là kẻ "ăn mày Dĩ vãng"

      http://hasiphu.com/ll3.html
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.06.2007 03:11:07 bởi nguyễn văn dân >
      #3
        NuHiepDeThuong 01.07.2007 17:28:52 (permalink)


        Chia tay ý thức hệ - Hà Sỹ Phú  đã có trong thư viện.

        NVD có thể duyệt trước ở đây :   http://vnthuquan.net/truyen

        Tìm theo tựa truyện hay tên tác giả, hầu tránh việc đăng bài trùng lặp.

        Cảm ơn sự đóng góp bài vở của NVD.
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9