TRUYỆN KỂ CON RỒNG phan vinh
thaisan 21.06.2007 10:07:28 (permalink)
Phải tìm hiểu kỹ mới hiểu được ông lão này.
thaisan
 
 
TRUYỆN KỂ CON RỒNG
Phan-Vinh
xxx
Phần I.-
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY XƯA
 
Truyền thuyết dân gian thời xa xưa. Những ngày tôi còn thơ ấu mùa hè nghỉ học ở nhà đi làm mục đồng chăn trâu cùng với một cụ già lão Lai trong làng  ông cụ là người có học Hán Nôm, thuộc vào hạng trí thức văn hoá thời ấy.
Ông cụ thấy tôi là học trò được thầy đồ dạy dỗ lễ phép, nên ông rất thương mến, những ngày cho trâu ra đồng chăn thã hai ông cháu tôi vẫn quanh quẩn bên nhau, tôi rất thích ông cụ kể chuyện đời xưa, những chuyện  văn học lịch sử địa lý của Tàu của Ta, truyện Tàu thì có các nhân vật anh hùng như: Việt-Vương Câu -Tiễn, Kinh -Kha, Nhiếp-Chánh, Trương-Lương, Lưu-Bang, Hàn-Tín, rồi đến Lưu-Bị, Quan-Công vv…
Nhưng hồi ấy tôi mê nhất là truyện Tây-Du-Ký. Còn truyện Ta thì Lạc-Long-Quân, qua sáu đời vua Hùng, rồi tới Thánh Gióng dẹp giặc Ân, tới Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, tới các vị vua chúa đời xưa Đinh-Bộ-Lĩnh , Lê-Lợi, Quang-Trung .v.v…
Ngày nào tôi cũng năn nỉ ông cụ kể chuyện cho tôi nghe, từ chuyện Tàu đến chuyện Ta,  tôi càng nghe ông kể càng thích thú.
Những chuyẹân Việt-Nam tôi thích nhất là Đinh-Bộ-Lĩnh, nhỏ cũng đi chăn trâu như ông cháu tôi , bẻ bông lau làm cờ tập trận, sau lớn lên chiêu mộ binh sĩ đánh trận dẹp  được mười hai sứ quân, thống nhất  đất Nước, xưng Vua là Đinh-Tiên-Hoàng-Đế. Tôi nghe ông cụ kể dứt câu, tôi thích quá, ước gì  ông cháu mình làm được như ông Đinh-Bộ-Lĩnh ngày xưa ông hỉ:
-Ông nói lại không được mô cháu ơi. Ông ấy là con của trời sai xuống trần gian mới được như rứa. Ông cụ nói tiếp:
-Ông cũng có nghe mấy cụ già đời ôâng cố ông cha kể lại cho  ông nghe như thế nầy…,  để ông kể lại cho cháu nghe. Tôi thích quá xúi:
-Ông kể tiếp cho cháu nghe đi ông. Ông lại kể: ngày xưa các ông thầy Địa-lý thường hay đi tìm long điểm huyệt, nếu chôn hài cốt của cha mẹ nằm trúng hàm  con rồng thì được phát làm vua hay làm quan to trong triều đình, nếu không được làm vua quan cũng được giàu sang suốt đời sung sướng, ông nói tiếp:
-Ngày xưa có mấy ông thầy địa lý ở bên Tàu hay sang Nước mình tìm long điểm huỵêt. Ở ngòai Bắc có mấy con sông lớn lắm, không biết  là sông Hồng-Hà hay Thái-Bình gì đó? Ông Đinh-Bộ-Lĩnh thã trâu chăn trên bờ sông đến trưa trời nắng nóng, trâu của ông xuống sông để đằm cho mát, ông cũng lội xuống sông tắm rửa bơi lặn, gặp một con rồng khổng lồ dang nằm dưới giòng sông, làm bạn với ông rất là dể thương, nên thường ngày trời nóng, trâu xuống sông đằm ông cũng xuống tắm lặn xuống cỡi con rồng chơi cã tiếng đồng hồ mới lên bờ cỡi trâu về nhà. Hàng ngày có một ông thầy địa lý người Tàu biết dưới gìòng sông nầy có một con rồng đang nằm dưới đáy sông, ông ấy ngày nào cũng đến ngồi trên bờ sông theo dõi tình hình thấy cậu mục đồng bơi lặn xuống sông cã tiếng đồng hồ mới lên, ông ta nghi kỵ chắc có chuỵện bí ẩn gì đây, nên ngày nào ông ấy cũng lân la dò xét.
Một ngày nọ ông tìm cách  làm quen với cậu bé chăn trâu này, ông mang quà bánh đến tặng  rồi chuyện trò dò hỏi. Hôm nào ông ấy cũng đến thật sớm ngồi trên bờ sông rình chờ cậu bé tắm xong bước lên bờ thì ông ta mò đến tặng quà và hỏi thăm cậu bé. Câu bé cũng vui vẻ nói chuyện , ông ấy hỏi cậu bé hôm nào cháu cũng lặn xuống sông làm gì mà lâu đến thế ?:
-Nói thật cho bác nghe rồi bác cho cháu thêm tiền Nữa đấy.  Cậu bé kể
-Cháu lặn xuống chơi với bạn cháu vui ơi là vui, bạn cháu là một con rắn khổng lồ rất hiền hòa vui vẻ, nhanh nhẹn bửa nào cháu cũng giỡn với nó, cháu cỡi lên lưng rồi sờ mó râu ria mồm miệng nó hiền khô bác ạ. Ông thày địa lý bão:
-Vậy thì cháu tã hình dáng con rắn ấy cho bác nghe xem nào ?  Cậu bé cũng tã thật:
-Đầu nó to có nhiều sừng, lại có hai sợi râu dài, hai con mắt nó lồi, miệng rộng mình dài có vẩy, đuôi có nhiều vi, bốn chân có móng vuốt đại khái là như vậy đó bác ạ. Ông ta chẵng còn nghi ngờ gì Nữa đích thật là có con rồng nằm dưới giòng sông nầy rồi. Ông ta đi về nhà suy nghĩ tìm cách làm sao đưa được hài cốt của ông bố đến nằm trên hàm con rồng, để ông và con cháu sau này phát đạt làm vua quan giàu có, ông ta cũng hiểu rằng: Để được hài cốt trên hàm  thì được làm vua, trên lưng thì được làm quan, hay giàu có, nếu ai đó không hiểu xui mà trúng nhằm cái đuôi thì tán gia bại sãn. Nếu con rồng này mà nó nằm dưới lòng đất thì quá dễ đối với ông, chỉ về mang hài cốt đến đào đất lên để xuống ngay cái hàm  là hay biết mấy. Ngặt vì một nổi nó nằ êm giữa giòng sông thì thật là khó nghĩ cách thực hiện ý đồ, dưới Nước thì làm sao mà để hài cốt lên hàm  được, nếu có để lên được nó sẽ trôi đi mất. Đêm về ông không ngủ đựơc, cứ nằm suy nghĩ mãi, cuối cùng ông cũng tìm được một cách:
-Chỉ có cho vào mồm để nó ngoạm càng tốt, nếu nuốt vào bụng thì cũng hay.
Ông ta quay trở lại giòng sông tìm cậu bé mục  đồng để thương lượng dụ dỗ.
Khi ông đến găp lại cậu bé trước hết ông ta tặng quà bánh, hai bác cháu tâm sự với nhau một lát rồi ông ấy hỏi cậu bé cháu chơi với bạn vui như thế mà có khi nào nó há mồm cho cháu thò tay vào được không ?
Cậu bé trã lời với ông,  tưởng gì chớ cái đó thì dễ ợt, cháu còn đút cho nó ăn quà bánh của bác cho và ăn cơm của cháu Nữa cơ. Ông vừa nghe cậu bé nói dứt câu,  trong bụng ông ta vô cùng phân khởi, ông ấy nói với cậu bé, bác có một gói quà để tặng cho bạn cháu, không hiểu bạn cậu có chịu nhận của bác không ? Cậu bé nói lại:
-Nếu bạn ấy không nhận cháu sẽ tìm cách thuyết phục chắc bạn ấy sẽ nhận ngay. Ông ấy nói:
-Nhưng khốn nỗi nhận của bác bạn ấy phãi tiêu dùng, bằng cách ngoạm vào miệng càng tốt, nếu nuốt vào bụng cũng được, chứ nhận rồi bỏ đi thì không nên. Cậu bé nói:
-Đương nhiên nhận thì phãi  dùng chứ. Nếu được như lời cháu nói thì bác trọng thưởng cháu rất hậu. Cậu bé hỏi lại:
-Nếu cháu làm được như ý định của bác, bác tặng cháu món gì nào ? nói thật ra đi cho cháu biết mới đuợc. Ông ấy trã lời:
-Bác sẽ tặng cháu một ngàn lạng vàng được chưa ?  Cậu bé nói:
-Nếu đúng như lời hứa cháu sẽ giúp bác, bác thật là người giàu có và tốt bụng.
Cậu bé suy nghĩ bâng quơ một lát, rồi thưa lại với ông rằng:
-Bác cháu mình nói chuyện với nhau như vậy, nhưng bác thư thã cho cháu một vài hôm để cháu còn thuyết phục bạn cháu đã, bạn cháu có chịu hay không sẽ trã lời với bác một ngày gần đây. Ông ấy dặn dò với cậu bé một lần nữa:
-Cháu ráng cố gắng giúp bác, bác thương cháu lắm. Rồi hai bác cháu chia tay, ông ấy ra về rất phấn khởi,  ông tự cho mình là thông minh, nghĩ ra được một kế thật hay, trong lòng ông rất tràn đầy hy vọng, ý nghĩ của ông tiền nhiều thì làm cái gì mà không được.
Hai hôm sau ông  ấy trở lại tìm cậu bé hỏi:
-Việc bác nhờ cháu giúp đã đi đến đâu rồi ? Cậu bé trã lời:
-Cháu đã thuyết phục bạn cháu rât vui vẻ và chấp nhận . “Chuyện giữa con rồng và cậu bé Đinh-Bộ-Lĩnh chỉ có trời mới biết”.
Cậu bé mục đồng bão ông ấy bác cứ về mang gói quà của bác đến đây cháu sẽ giao cho bạn cháu tiêu dùng được chưa?  Nhưng đầu óc ông ấy vẫn còn đa nghi chưa tin lắm, nếu nhận rồi bỏ đi thì mất tong. Cậu bé thông minh hiểu ý, nói với ông ấy rằng: bác mang gói quà đến bác cháu mình cùng lặn xuống sông chứng kiến cháu trao cho bạn cháu ngoạm rồi bác cháu  mình mới bơi lên nhé.
Nghe cậu mục đồng nói như vậy là chắc ăn rồi, trở về đào mã cha cho hốt hài cốt gói gắm kỹ lưỡng mang đến, bác cháu lặn xuống đưa cho con rồng ngoạm vào miệng rồi trở lên bờ sông trao đủ một ngàn lạng vàng cho cậu bé còn cám ơn rối rít, ông ấy ra về trong lòng phơi phới tràn đầy hy vong sự nghiệp cũa ông và con cháu sau này sẽ phát đạt rạng ngời. Sau này ai đươc con rồng ngoạm hài cốt phát làm vua mới biết, cứ xem tiếp sẽ rõ.
Sau khi Đinh-Bộ-Lĩnh nhận số vàng lặng lẻ mang về chôn cất kín đáo, ngày sau cũng cho trâu ra bờ sông chăn thã như mọi bữa, đến trưa nắng, trâu xuống sông đằm, ông cũng lặn xuống chơi với bạn, chú bé chỉ gói quà cho ông mở ra xem thấy toàn là sọ xương người, ông đâm ra suy nghỉ việc nầy quan trọng lắm nên ông Tàu này mới thưởng cho mình số vàng nhiều như vậy.
Con rồng ra giấu cho Đinh-Bộ-Lĩnh hiểu ý về bốc hài cốt của thân nhân mang đến  rồng sẽ ngoạm ngay. Rồi từ đó bắt đầu phát đạt,  khi còn đi chăn trâu bẻ bông lau làm cờ tập trận với các bạn mục đồng, khi ông khôn lớn đem số vàng của ông Tàu thưởng ra chiêu binh mãi mã đi đánh trận tiêu diệt được mươi hai sứ quân, thống nhất đất Nước. Tự xưng danh hiệu lên ngôi Đinh-Tiên-Hoàng Đế.
Sau khi đất Nước được thống nhát, Đinh-Tiên-Hoàng thường hay mở tiệc chiêu đãi quan quân, vì nhậu quá say kể lại cặn kẻ đời tư của ông cho một vị quan cận thần nghe hết.
Người đời xưa dạy rằng:
-“Thiên cơ bất khã lậu”.
Tam dịch: Việc trời không nên thổ lộ cho ai biết. Bởi vậy ông không làm vua lâu dài được.
Chuyện xưa đến đây là chấm dứt.
xxx
 
Phần II.
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY NAY
 
Dãy núi Trường-Sơn nằm dọc theo đất Nước Việt-Nam từ Nam ra Băc.
Có một đoạn nằm chính giửa dãy núi ở miền Trung trên những các địa danh sau đây là địa đầu ranh giới của Thừa-Thiên Huế,  Quãng-Nam Đà-Nẵng.
Tính từ phía Nam đi ra Bắc: đèo Hãi-Vân, Lăng-Cô, Lập-An, Phú-Gia, Thổ-Sơn, Trung kiền, Thuỷ-Tụ, Nước-Ngọt, Phước-Tượng, Cầu-hai, Đá-Bạc.
Đoạn núi nầy là một phong cãnh hửu tình, thượng sơn, hạ thuỷ, chạy dài trên đỉnh đèo Hãi-Vân ra đến chóp núi Bạch-Mã chỗ thì nhô lên, nơi thì lõm xuống như hình một con rồng lượn thành chín khúc, là cửu đĩnh nằm trên vùng này do tạo hoá xây dựng lên một địa thế kỳ-quan từ ngàn xưa cho đến bấy giờ, không thế hiểu được bao nhiêu thế kỷ mà nói.
Đoạn núi này đi dọc theo đường quốc lộ 1A nhìn lên cho kỷ, thì bất cứ con mắt thường ai ai cũng  nhìn thấy và công nhận như vậây.
Vì đất Nước chúng ta từ xưa cho đến nay ít khi có hoà bình độc lập lâu dài.
Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, ba mươi năm giặc Pháp, Mỹ và nội chiến, đến khi đất Nước được hoàn toàn giãi phóng độc lập thống nhất, nhưng còn một thời gian mười năm bao cấp.
Một con rồng khổng lồ vẩn nằm sâu dưới lòng đất của dãi Trường-Sơn im lìm bất động. Đến năm 1996 ông Bí-Thư Nguyễn văn-Linh của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam ra chính sách đổi mới mở cửa giao lưu và buôn bán với thế giới, con rồng này mới bắt đầu chuyễn mình cựa quậy.
Các ông thày địa lý Tàu, Ta thời văn minh hiện đại dò tìm bằng vệ-tinh, ra-đa, máy rà điện tử, vi-tinh, các ông đã thừa hiểu. Nhưng không nắm bắt được thời cơ thuận lợi các ông ấy chẵng làm ăn gì được. Năm 2000 nhà Nước ta mới cho Nhật-Bãn nhận thầu, khoan thủng núi Hãi-Vân để xe cộ lưu thông khỏi leo đèo nguy hiểm. Năm 2006 đường hầm xe cộ đã lưu thông qua lại an toàn tốt đẹp . Tôi từ Đồng-Nai về thăm quê nhà làng Phú-Gia, đi vào Lăng-Cô thăm bà Dung là bác đâu của tôi, năm nay bà đã gần một trăm tuổi vẩn còn khoẻ mạnh và các anh chị con của bác tôi những người còn sinh sống tại đây. Vì tình nghĩa của người xưa, khi bác và ba tôi còn sống kết bạn rất thân với ông cụ tên Trân-văn-Thọ ở đây, nên ông xem tôi cũng như con cháu trong nhà ông vậy. Năm nào tôi có về thăm  bác cũng phãi ghé nhà ông ấy để thăm. Ông cụ nầy năm nay đã chín mươi tuổi, có con cháu Việt kiều Mỹ, Nhật, sức khoẻ cụ vẩn còn tốt, da dẻ hồng hào, tinh thần minh mẫn, thấy tôi đến thăm ông rất vui vẽ niềm nở tiếp đón. Tôi lể phép hỏi thăm sức khoẻ ông và các con cháu ông, ông cũng vui vẽ cho biết. Ong hỏi lại sức khoẻ toàn gia đinh tôi, tôi cũng cám  ơn ông và trã lời gia đình con cái của cháu vẩn mạnh khoẻ bình thường.
Ông quay qua nói  chuyện đất Nước phát triển. Ông hỏi tôi mi đi lâu rồi nay trở về thấy Lăng-Cô thế nao? Tôi trã lời thật hiện đại ông ạ, đường xá thì rộng rãi, nhà cửa thì thật đẹp. Ông cụ nói tiếp địa danh bây giờ cũng đổi mới là Thị Trấn Lộc-Hãi chứ không phãi xã Lôc-Hãi Nữa đâu. Tôi cứ dạ dạ ngồi im để nghe, ông nói tiếp nhờ chính sách đổi mới của ông Nguyễn-Văn-Linh mới có ngày hôm nay mi hiểu chưa ? Tôi cũng dạ dạ thưa ông cháu hiểu. Ông nói à bác quên, khách đến nhà không trà cũng rượu chứ, ông đứng dạy mỡ tủ lấy ra một chai rượu ngoại  mỡ nắp rót vào hai ly thuỷ tinh ông bão cháu uống đi, rượu này ngoại chính hiệu, con tao nó gởi từ bên Mỹ về đó, tao nghe nó nói một chai tới mấy trăm dô-la lận. Tôi cũng dạ dạ rồi nói  cháu cũng biết uống rượu nhưng chỉ có uống rượu đé mà thôi ông ạ. Ông bão mi cầm ly lên bác cháu mình uống một cái để cháu thưởng thức mùi vị nghe chưa. Tôi cũng thủ lễ dạ dạ chấp với ông một hớp, để ly xuống ông nói tiếp:
-Mi ở trong nớ có nghe việc kỹ sư nhà thầu khoán hầm Hãi-Vân có một chuyện bí ẩn mi có biết không ?  Tôi trã lời:
-Dạ thưa ông cháu hàng ngày lo đi làm ăn ít có thời giờ xem đài báo nên chẳng rỏ chuyện chi, chỉ có biết việc khoan hầm mà thôi. Ông nói chuyện này bí mật có ai dám đưa lên đài báo đâu mà biết. Tôi nói:
-Ông có biết được chuyện gì hay ông kể cho cháu nghe với! Ông cụ có rượu ngà ngà rồi ông cao hứng kể cho tôi nghe hết đầu duôi câu chuyện không còn dấu diếm điều gì.
Ông lại kể tiếp:
-Tao có thằng cháu tên nó là Thông con của bác Thái anh tao, nó đi ra Nước ngoài  trước ngày giãi phóng miền Nam, hắn sang du học bên Nhật-Bãn khi giãi phóng hắn ở bên nớ luôn, hắn học giỏi lắm, tao nghe nó nói nó có bằng kỹ-sư hay tiến-Sĩ gì đó ở bên Nhật-Bãn lận. Hắn về Lăng-Cô thuê khách sạn ở để đi làm hầm Hãi-Vân với nhà thầu. Khi hầm gần hoàn chỉnh, hắn đến nhà thăm tao lần chót để cáo từ về Nước.  Vì  tao là chú ruột của nó, nó coi tao cũng như cha nó, nên nó mới kể cho tao nghe chuyện bí mật này. Hắn dặn tao không được kể lại cho ai nghe cã, tao biết mi thật thà tao coi mi như con cháu trong nhà mới kể cho mi nghe chơi, mi đừng kẻ lại cho ai biết nghe chưa. Tôi dạ dạ cháu không dám đâu. Ông kể tiếp:
-Có một ông thày địa-lý người Việt-Nam họ Nguyễn, nhưng cháu tao chẳng nói tên cho tao biết. Ông ta tìm đến chỗ khách sạn  cháu tao ở để thương lượng nói thật với cháu tao,  ở giửa đường khoan hầm có long mạch, khi máy khoan đến đụng nhằm râu rồng sẽ nổi giận phun Nước, khi nào thấy Nước rồng phun ra thì cho ông ta để hài cốt thân nhân vào đó , rồng sẽ ngậm miệng Nước hết chãy. Nếu được như nguyện vọng của ông ta, ông ấy sẽ tặng số tiền rât lớn, đôi bên đều có lợi.
Thăng cháu tao nó dè dặc không dám nhận lời. Sợ ông ta đưa chất nổ chậm đến để vào thì nguy hiểm ở tù như chơi. Ông thầy địa lý tìm cách năn nỉ và thuyết phục đủ điều, cháu tao mới nhận lời. Nhưng ra điều kiện phãi cho mở ra khám xét, dem máy rà soát đúng sự thật chẳng có gì nguy hiểm mới chấp nhận . Ông thầy địa lý bằng lòng. Sau khi thực hiện công việc của ông thầy địa lý suông sẽ, ông ấy phãi chi trã cho kỹ sư một tài khoãn rất lớn. Việc này bí mật hợp đồng với nhau không thổ lộ cho một ai biết cã.
Ông ấy về hốt hài cốt của thân nhân đến làm thủ tục kám xét xong gói lại kỹ lưỡng bỏ vào cái tráp bằng kim khí sơn màu đen rất đẹp khóa lại  rồi giao chìa khoá cho kỷ sư giử làm tin, còn ông ấy giử cái tráp.
Đến ngày khoan đến long mạch chổ con rồng nằm đụng vào râu nó, y như lời thày địa lý dự báo nó phun Nước xối xã rất khó thực hiện việc khoan hầm. Kỷ sư điện thoại bão thầy địa lý cãi trang thành ông công nhân xách tráp đi theo kỷ sư vào đến chỗ rồng nằm.
Ông thầy địa lý chỉ điễm cho máy móc đât lên để tráp xuống ngay hàm rồng tự nhiên Nước tắt ngay, rồi lấp lại là xong việc. Hẹn tối về lại khách sạn đôi bên thanh toán sòng phẳng với nhau rất tốt đẹp và bao nhậu một chầu vui vẻ.
Nên hầm nầy rất dể làm, bàn giao, nhiệm thu đúng thời gian hợp đồng, với nha Nước. Chất lượng rất đạt yêu cầu ngang tâm cỡ Quốc-Tế.
Ông chủ thầu nầy lời to. Tao được biết chắc chắn, ông ta gọi lại những công nhân hợp đông có thời hạn làm hầm với ông chi trã thêm mổi người năm  triệu “5.000.000$” VNĐ . Ông cụ cứ thao thao kể cho tôi nghe mê mệt hơn một giờ đồng hồ mới dứt lời. Tôi nói với ông:
-Cháu xin cám ơn bác kể cho cháu nghe được câu chuyện quá hấp dẩn , đến đây tôi xin cáo từ ông cụ ra về, trong lòng phơi phới. Mừng thầm mình được ông cụ tặng món quà tinh thần khá hay.
Sau khi về đến Đông-Nai tôi vẫn e dè suy nghĩ mãi không dám thổ lộ với ai. Sau một thời gian dài, tôi nghe tin ông cụ đã quy Phật.  Nhận thấy câu chuyện hấp dẩn như thế này mà không viết thì quá uổng phí. Tôi suy nghỉ mãi, việc nầy không phãi  ai ai có tiền nhiều mà làm được đâu. Chắc là cũng có Trời giúp cho ông thày Địa-lý nầy  mới làm được .
Nên tôi  quyết định viết truyện này. Thời xưa ông bà ta đã rút kinh nghiệm làm việc gì đại sự phãi nắm bắt thời cơ, có thiên thời, địa lợi, nhân hòa, việc mới thành công tốt đẹp cho cã đôi bên như vậy.
Xxx
 
Phần III.-
 
CON RNG VIỆT-NAM ĐANG HỒI LỰC VÀ KHỞI SỰ
Nói lại chuyện con rồng nó nằm dọc theo dãy núi Trường-Sơn, cái đầu tại đèo Hãi-Vân, đuôi ra tới núi Bạch-Mã, không biết bao nhiêu thế kỷ vẫn nằm im lặng như tờ.
Dân cư sống trong địa bàn rồng nằm thật nghèo nàn vât vã, đến cuối thế kỷ 20 lại chịu đựng hai cuộc chiến tranh Pháp, Mỹ điêu tàn tán gia bại sãn, dến hôm nay cũng chưa được hồi phục phát triển bằng các nơi khác.
Nhưng tôi tin rằng:
-Con rồng hôm nay đã ngoạm được thang thuốc bổ vào hàm, nó sẽ sung sức chổi dạy biến hoá cất cánh bay lên. Trong tương lai  hãi cãng Nước sâu Chân-Mây của địa phận Huyện Phú-Lộc, tàu thuỷ hạng nặng của thế giới cập bến tấp nập, cơ sở bến bãi và các xí-nghiẹp Nước ngoài đầu tư xây dựng lên theo bãn đồ quy hoạch của tỉnh Thừa-Thiên, thì dân chúng sống trên địa bàn nầy dược đổi đời.
Công nghiệp hoá hiện dại hoá. Có công ăn việc làm thu nhập cao. Con em lớp tuổi trẻ hiện nay đang bỏ xứ đi nơi khác kiếm việc sinh sống sẽ quay trở về lại quê hương sống đoàn tụ với gia-đình làm ăn giàu có, phát triển tốt đẹp xóm làng văn minh, mới xứng đáng với cái địa danh do tổ tiên đặt  cho từ bao thế hệ nay, là Làng Phú-Gia, Xã Lộc-Tiến, Huyện Phú-Lộc, Tỉnh Thừa-Thiên.
Đây là nói riêng cho tỉnh Thừa-Thiên quê hương  tôi.
Nói chung tương lai Nước Cộng-Hoà Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam nay đã được hội nhập thương mại thế giới, sẽ văn minh hơn, giàu mạnh hơn, tốt đẹp hơn. Sánh vai ngang hàng với các cường quốc năm châu, bốn bể.
-Chúng ta cứ đặt niềm tin nền kinh-tế sẽ là chắc chắn như vậy.
Còn các vị lèo lái con Rồng của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam tương lai cũng sẽ là những người thông minh sáng suốt, học rộng tài cao, văn võ song toàn, đạo đức chân chính, là ai chưa rõ được, mong rằng quý vị độc giã hãy đợi đấy…
HÊT
-Viết về quê hương.
“Viết xong bãn thão ngày 14-02-2007”
 
 
TÌNH-YÊU HÔN-NHÂN THỜI CHIẾN-TRANH HOÀ-BÌNH
Của Phan-Vinh
xxx
Chương 1.- Sự sinh tồn của con người do Tạo-Hoá xếp đặt
Chiến tranh gây chết chóc làm thiếu hụt Nam giới.
Sự sinh tồn của loài người bất cứ trong thời điểm nào cũng do luật Tạo-Hoá sắp đặt, nam Nữ đều sít soát số lượng ngang nhau. Theo tài liệu thống kê dân số trên toàn Thế-Giới nói chung và các Nước Đông-Nam Châu-Á nói riêng. Tôi tìm hiểu qua sách báo, phái Nam và phái Nữ cũng có chênh-lệch một số ít nhưng không đáng kể. Nếu Nước nào được hoà bình lâu dài, tình hình kinh tế phát triển mạnh phồn thịnh giàu có, thì Nước ấy nam nhiều hơn Nữ.
Cuối thế kỷ 20 thật tàn khốc bi thãm vì chiến tranh, gây tổn thất nam giới quá lớn, tràn đầy Nước mắt và khăn sô cho những thiếu phụ ngây-thơ, trẻ tuổi  và trung niên đã có gia-đình con cái.
Thiếu phụ ngây thơ là những em gái và học sinh tuổi vừa đôi tám, là lớp tuổi mộng mơ mới biết yêu đương, còn e thẹn chưa dám hôn nhau, chỉ một vài lời hứa hẹn đầu môi chót lưỡi, viết lên trang giấy trắng quyển nhật ký vài câu làm kỷ niệm mà thôi.
Năm ấy Dũng thi vào Đại-Học không đậu, phãi nhận lệnh gọi lên đường tòng quân nhập ngũ, chàng và nàng tạm biệt nhau những lời ước nguyện thề non hẹn biển gắn bó sắt son, chàng lên đường thi hành nghĩa vụ quân-sự, nàng trở về khép kín khuê phòng, lo học hành, một lòng chờ đợi.
Một chiềâu nọ Lệ-Thu đi học mới về, được tin như sét đánh bên tai . Dũng đã tử trận tại chiến trường Campuchia, quan tài anh ấy mới  đưa về đến nhà.
Đột ngột quá, ai ngờ ngày tạm biệt đã trở thành vĩnh biệt. Nghẹn ngào ứa lệ, biết ăn làm sao, nói làm sao, thật là khóc hổ ngươi, cười ra Nước mắt.
Vì lòng cãm xúc vô hạn của mối tình đầu tan vỡ do chiến tranh. Cô ấy làm bạo đến thăm Dũng nhìn thấy trên Quan-Tài  có gắn quyết định truy thăng cấp bậc Thiếu-Uý và truy tặng huy-chương Anh-Dũng Bội-Tinh với Nhành Dương Liễu, đặt biệt trên quan tài có trãi lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Trong gia đình nhìn thấy Thu đến thăm cũng ân cần tiếp xúc, mời vào nhà ngồi uống Nước nói chuyện. Thu thú thật với bố mẹ Dũng, là nàng đang yêu Dũng và Dũng cũng yêu nàng, hẹn ước với nhau ngày Dũng được về nghỉ phép, trình với bố mẹ hai bên cưới nhau nên vợ thành chồng. Bấy giờ tình đã mất thì còn cái nghĩa, cô ấy xin để tang cho Dũng, trong lúc này chẳng có ông bố bà mẹ nào mà không chấp thuận cã, đây là một sự an ủi cho người vĩnh biệt cõi trần gian.
Phát tang cho cô ấy bịt lên đầu, bất chấp  phong tục nghi lể ngày xưa, Lệ-Thu đốt nhan bái lạy Quang-Dũng sau đó tiễn đưa anh đến nơi  an nghỉ cuối cùng.
Trên đường về Lệ-Thu mang một mối tình thầm lặng cô-đơn với nổi buồn da diết và tuyệt vọng. Bên ngoài là đám tang, bên trong tâm hồn của Thu tưởng tượng như là dám cưới anh ấy với mình, vì đã được bố mẹ anh ấy chấp thuận là con dâu, một đám cưới trần-gian âm-phủ thật là chưa thấy sách vở nào đề cập đến. Những tình huống trên đây Lệ-Thu được sắp xếp vào hàng Thiếu-Phụ Ngây-Thơ. Còn những Thiéu-Phụ đã cưới nhau trước ngày tòng quân  nhập ngũ hoặc đã có mái  ấm gia­đình con cái, thì còn gì là Ngây-Thơ nữa, và được hợp lệ lãnh tiền tử tiêu xài nuôi con.
Số nầy thời chiến tranh đem tàu mà chở cũng không hết. Công bằng mà nói, cuộc chiến ác liệt cuối thế kỷ 20 phái Nam hy-sinh ngoài mặt trận quá nhiều. Vì phái nam là bị bắt buộc, lệnh tổng động viên, không được trốn tránh, nếu anh  nào trốn tránh,  bị ghép tội hèn nhát, chống lại pháp luật, bắt đi tù tội, hoặc cắt hộ khẩu, không cung cấp lương thực, thì thử hỏi làm sao mà sống được, rốt cuộc cũng đưa vào hàng ngũ Quân-Đội nói chung cã hai miền.
Thời chiến tranh nam thiếu Nữ thừa. Lý do:
-Tại con người gây ra cho con người, nên bị mất cân bằng giữa phái nam và Nữ. Nhưng cũng có một số Anh hùng gan dạ yêu Nước hoặc nâng cái tôi của mình lên trên mọi người, có cơ hội thi thố tài năng, may rủi có hai đường : Một xanh cỏ,”1” hai đỏ  ngực.”2” Có một ít tốt số, may mắn, sống lâu đuợc lên lão làng, cũng được phân-công đề-cử làm ông nọ, bà kia, vì thiếu cán bộ, một số thiếu học chỉ biết ký mà thôi . Thành phần nầy làm cán-bộ chỉ-huy quân-đội thì nguy hiểm cho sinh mạng binh-sỹ, cán-bộ hành-chánh sự nghiệp  thì thiệt hại tài sãn nhà Nước, gây phiền hà cho nhân-dân. Bi cấp dưới lừa gạt sập bẩy mất chức, có khi bị tù tội rồi  cũng phãi bồi thường thiệt hại tài-sãn cho nhà Nước.
 Nói về chiến trận thì vô kể, lớp nầy ngã xuống có lớp khác xông lên, tuân lệnh thượng cấp, được thua là do người lãnh đạo chỉ huy và có chính-nghĩa hay phi chính-nghĩa. Những người  đã hy-sinh đồng bào thương tiếc Tổ-Quốc ghi  công là Quân Đội Nhân-Dân. Còn mấy ông lính chế độ cũ cũng hy sinh quá thể, chết rồi còn bị xỉ nhục.
 Chết được lên thiên đàng hay xuống địa Ngục, về cỏi Vĩnh hằng, Tây Phương Phật, hoặêc về theo Ông bà, chẳng có ai hiểu được. Cái chết là sự sung sướng nhẹ nhàng, chẳng có thiết gì trên trầân gian nầy Nữa. Những người chết non, chết trẻ thường gây hậu quã cho những người  còn sống trên trần gian mới là nạn nhân đau khổ như :
 Ông bà mất cháu buồn rầu sinh bệnh mau chết, cha mẹ mất con trai trẻ, không ai phụng dưỡng tuổi gìa, tre khóc măng, vợ trẻ mất chồng thương tiếc người yêu chung thuỷ, con mất cha thiếu người nuôi dạy, em gái mất mối tình đầu yêu dấu thương dau -Thượng-Đế cũng u-sầu thương xót nên bàu trời Việt-Nam thường kéo mây đen xám xịt, nhưng ít khi nổi cơn thịnh-nộ phong ba . 
 
Chương II.- Nam, Nữ thời chiến. Nhiệm-vụ, việc làm, ưu thế.
 
Thời chiến tranh đàn ông con trai rất có giá trị, kiếm vợ cũng dễ, kiếm thêm vợ hai cũng chẳng khó gìù, đó là luật sinh tồn và nhu cầu tình yêu nam Nữ  của con người, những chuyện này tôi được chứng kiến rất nhiều, thành thật mà nói:
-Thời trai trẻ tôi có thi hành nghĩa vụ quân-sự tham gia lính chế độ cũ theo đơn vị hành quân vào vùng sâu, vùng xa nơi lãnh địa của quân Giãi-Phóng kiểm soát năm 1963-1964. Nơi nào dân cư ở thưa thớt chỉ đi ngang qua, nơi nào dân cư đông đúc, được lệnh thượng cấp cho dừng quân hạ trại, thời ấy gọi là chiến-dịch Bình-Định Nông-Thôn để dành dân lấn đất. Có nơi  ở lại vài tuần, có nơi một tháng, có chỗ đôi ba tháng. Sự thật mà nói  dân chúng họ sợ súng đạn không dám chống đối, xui xẻo có thằng khỉ gió nào đó nổi nóng bóp cò, thì  tôm chết thiệt mẹ bán tôm, hắn dán cho cái made in VC”3” thì thử hỏi thưa ai kiện ai bấy giờ. Nên dân chúng họ tử tế bên ngoài, chứ chẳng thích gì ba ông lính Ngụy,”4” có đôi khi thấy họ vui vẻ tôi gợi ý hỏi thử:
-Thưa bác. Ở đây sao cháu chẳng thấy có người đàn ông con trai nào cả vậy bác? Biết họ trả lời  làm sao không ? Tôi xin nói lại câu trả lời để quý vị độc giã rõ: Họ trả lời với tôi rằng:
-Con họ, chồng họ, ra ngoài thành đi lính Sư-Đoàn 7 hoặc Sư-Đoàn 5 Bộ-Binh hoặc các dơn-vị khác mà họ biết vv… Của chế độ miền Nam.
Nhưng sự thật là họ thoát ly vào mật khu để làm quân Giãi-Phóng, đó là nhiệm vụ của nam giới trong vùng Giãi-Phóng. Còn phái Nữ thì lại là khác, ai thích thì xung-phong làm quân Giãi-Phóng, ai không muốn, thì  ở nhà làm ăn, để đóng góp hậu phương với tuyền tuyến.
Các ông lính Biệt-Động-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà thời ấy thật hào hoa có biệt tài quyến rũ các cô gái trẻ đẹp hương đồng cỏ nội  ở vùng Giải-Phóng theo họ, tôi chẳng hiểu mấy cô gái nhẹ dạ nầy bỏ nhà bỏ quê hương ra thành thị theo chính phủ Quốc-gia hay là đi  theo tiếng gọi của tình yêu con tim Nam Nữ, thử hỏi ai mà biết được?
-Đơn-vị cấp Tiểu Đoàn Biệt-Động-Quân của chế độ Sài-Gòn  dừng quân trong vùng Giãi-Phóng ngắn hạn thì hai ba cô, nếu dài hạn đôi ba tháng thì số lượng tăng lên năm bãy cô gái trẻ, bỏ nhà, bỏ cha mẹ, quê hương, vùng Giãi-phóng, xách gói ra thị thành tìm địa chỉ theo các anh lính hào hoa tốt mã đẹp trai của chế độ cũ, khi mà đơn-vị rút quân di-chuyễn đi nơi khác. Có một số tình yêu chân-chính làm đám cưới nhà binh đơn giãn, rồi đưa nhau đến cơ quan chính-quyền địa phương xin đăng ký kết hôn để chung sốâng với nhau hợp lệ hợp pháp, có một số chấp nhận làm vợ bé của các ông Trung-Sĩ trẻ, Thượng-sĩ già, có một vài cô hồng nhan phận bạc bị mấy anh lính tốt mã đẹp trai, đóng vai sở khanh vùi hoa dập liễu tan nát cuộc đời rồi đuổi đi hay đem bán vào các động tiên Nữ trần gian ở thị thành. Các cô gái xấu số này mang mối hận tình nhức nhối như một mũi tên đâm nát con tim. Thời chiến người phụ Nữ gánh chịu nhiều thương đau bi thãm của số phận hy-sinh thua thiệt cuộc đời lam-lũ bất hạnh.
 
Chương III.- Nữ, Nam thời bình. Ưu thế, giá-trị.
 Thời hoà-bình độc lập thống nhất hơn ba mươi năm, số lượng nam Nữ đã cân  bằng, tính ra cho kỷ hiện nay có khi nam đã nhiều hơn Nữ.  Những cặp vợ chồng trẻ nhà Nước khuyến khích sinh đẻ có kế hoạch, để hạn chế bùng nổ dân số Thế-giới. Dân số hiện nay của Nước ta tám mươi triệu dân cã Nam lẫn Nữ. Theo luật bù trừ của Tạo-Hóa, phái Nam thời chiến chết quá nhiều, bị thiếu hụt làm thiệt thòi cho phái Nữ, để bù lấp khoãng trống, thời hoà bình thì con trai  được sinh ra nhiều hơn.
Các Nước hoà bình lâu dài văn minh nhất thế giới  cũng rất thiếu đàn bà như:
-Mỹ, Đại-Hàn, Dài-Loan. Trung-Quốc vv… Viẹât-Nam đã được hoà bình độc lập thống nhất hơn ba mươi năm nay thì dân số phái Nam đã vượt trội hơn phái Nữ. Hiện nay đã được gia nhập thương mại thế giới, được tự do thoãi mái kể cã tình yêu và hôn-nhân, đừng có vi phạm pháp luật, tiền nhiều là xong ngay thủ tục hành-chánh lấy chồng Nước ngoài, Việt-Kiều để xuất cảnh. Bấy giờ có một số cô gái  được voi đòi tiên, rất thích chồng ngoại Quốc, nếu lấy được chồng Mỹ càng tốt. Trước đây thì ghét, nay lại thương. Còn muốn chồng Việt thì  ăn bận sang trọng, trang điểm nhan sắc một chút,  các anh chàng thanh-niên nhà ta tranh nhau theo đuổi, các cô tha hồ mà tuyển lựa người yêu lý tưởng. Thời bình được Thượng-Đế bù trừ, ưu đãi cho phái Nữ kể cã xin việc làm vào các xí nghiệp cũng dể dàng hơn Nam giới, khỏi cần bằng cấp văn hoá chuyên-môn. Cho nên có câu tục ngữ nói cũng phãi lắm : Trai thời loạn. Gái thời bình. Gái thời bình rất quý, thời bình là thời hưng thịnh của các bà, các cô, và các em gái trẻ. Nhà Nước đang khuyến khích các đôi vợ chồng trẻ sinh đẻ có kế hoạch từ một đến hai đứa con mà thôi, đôi vợ chồøng anh chị nào đó  may mắn, sinh được hai cháu gái càng tốt. Thời nay xin miển bàn chuyện sinh con trai nối dòng nối dỏi là xưa rồi. Có một số gia-đình nhiều con trai thiếu dạy dỗ, đi đua xe, cướp  giựt, quậy phá, nhậu nhẹt, đánh lộn, bị thương tật, thêm rắc rối cuộc đời.
Thời hoà bình là thời hưng thịnh của phái Nữ.
Chương IV.- Kinh nghiệm cuộc đời con người, có văn-hoá hay thiếu văn- hoá đạo-đức.
 Xin tóm tắc vài dòng để độc giả tuổi trẻ rút kinh nghiệm, tương lai đời sống các bạn được tốt đẹp hơn. Đừng nên si bì và nói liều những câu tục ngữ của người xưa như : “Trời sinh người sinh lộc”. “Trời sinh voi sinh cỏ”. Xưa là khác mà nay lại là khác, môi sinh môi trường biến đổi theo thời gian, bây giờ thời mở cửa hội nhập giao thương và công nghiệp hoá hiện đại hoá, tấc đất giá thị trường tôi dự đoán tương lai có thể lên đến hai tấc vàng, thời đất hẹp người đông,  đất quý như vậy thì còn đâu để mọc cỏ cho voi ăn, lộc đâu  còn cho người hái màø sống. Thật là người đông của hiếm, đàn ông con trai bây giờ dốt nát quậy phá, xin vào làm lính cũng khó, không có tiền bạc, không có nghề nghiệp, rất khó xin việc làm, đừng nói gì kiếm vợ. Thời bình là thời hưng thịnh của phái Nữ.
Cuộc chiến thãm khốc ác liệt gây ra cãnh chết chóc dau thương một số lớn. Khi nhìn lên màn ãnh hoặc hồi ức lại , vẫn còn ám ãnh rùng rợn sự tàn sát bom đạn bắn giết giữa con người và con người quá tàn nhẫn, không thể tưởng tượng nổi. Bây giờ chúng ta nên cùng nhau đoàn kết, bão vêï cho đất Nước  được hòa bình trừơng cữu.  Những chiến  cuộc vừa qua không phãi để huỷ diệt, mà để cho đất Nước được hoà-bình độc lập, thống nhất. Chúng ta cùng nhau xây dựng lại cuộc sống mới tốt đẹp, văn minh hơn, hiện đại hơn. Những chuyện hơn, thua, được, mất, đúng sai  đó là do thời thế. Bấy giờ nên xoá bỏ hận thù những chuyện dĩ vãng, cho nó dồn về quá khứ.
Các bạn tuổi trẻ thuộc thế hệ con cháu, nên đứng thẳng để nhìn về phía trước và nhìn xa thấy rộng hơn. Nước ta đang trên đà phát triển mạnh đủ mọi mặt Sĩ, Nông,Công, Thương vv…  thời công-nghệ hiện-đại.
Muốn theo kịp các Nước cường quốc giàu mạnh trên Thế-Giới. Lớp tuổi trẻ phãi cố gắng lao động học tập trau dồi đạo đức. Thành đạt văn hoá nghề nghiệp chuyên môn cao cấp, đó là những bạn có điều kiện kinh tế. Còn nhửng bạn khó khăn, phãi theo pháp luật hiện hành, nên cố gắng học hết chương trình Trung-Học Phổ-Thông Cơ-Sở có bằng nầy, mới xin học ngành nghề vào làm xí nghiệp được. Các bạn có bằng cấp, có nghề nghiệp chuyên môn, bằng nào cũng có người mê, bằng nào chẳng có người thuê đi làm, thì kiếm việc làm ở đâu mà chẳng được. Trước nhất là cuộc sống của  các bạn, sau là giúp ích cho xã hội và đất Nước. Khi đã ổn định công ăn việc làm có thu nhập, lúc nầy muốn tìm người yêu rất dễ dàng, tìm đâu mà không có, rất là thoãi mái  vậy.
1-Tử trận.
2-Nhiều huy-chương.
3-Việt-Cộng.
4-Lính Sài-Gòn chế độ cũ.

 
Viết xong bản thảo ngày 11-4-2007.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.06.2007 10:08:49 bởi thaisan >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9