Bệnh viêm khớp xương
Barbiegirl 03.09.2004 14:43:11 (permalink)
Bệnh Viêm Khớp Xương (Osteoarthritis)

BS Nguyễn Ý Đức

"Nắng mưa là chuyện của trời.
Đau xương, nhức khớp, chuyện người tuổi cao"


Ở người cao tuổi, viêm xương khớp (osteoarthritis) là loại bệnh rất thường xẩy ra. Có lẽ đây là chứng bệnh mà đa số các cụ hay than phiền với bác sĩ, nhất là khi thời tiết đổi thay.
Các cụ thường thấy đau ở những khớp gần đầu ngón tay, xương sống, đầu gối, hông và cổ tay, và thường là do sự thoái hóa của xương và sụn gây ra. Nam nữ lão nhân đều có thể mắc bệnh như nhau. Đôi khi, có nhiều vị cao tuổi bị viêm khớp mà không biết cho tới khi bác sĩ tình cờ chụp phim quang tuyến thì thấy đã có bệnh từ mấy thập niên.
Chúng ta cần phân biệt bệnh "viêm xương khớp", còn gọi là "bệnh khớp thoái biến" ( Degenerative Joint Disease), với bệnh "khớp viêm phong thấp" (Rheumatoid Arthritis). Bệnh sau này có ở bất cứ tuổi nào, thường gây tổn thương cho nhiều khớp, nhất là ở đốt cuối ngón tay, ngón chân, cổ tay, đầu gối. Đôi khi bệnh lan tới các cơ quan nội tạng như tim, thận, phổi, dây thần kinh và gây ra những triệu chứng tổng quát như nóng sốt, mệt mỏi, biếng ăn, thiếu hồng huyết cầu, sụt cân cơ thê.

Cấu tạo khớp

Bệnh viêm xương khớp thường xẩy ra ở các khớp di động như đầu gối, khớp háng, khớp cột sống.
Mỗi khớp có nhiều thành phần khác nhau như bắp thịt, dây chằng, sụn, xương, gân, tất cả hoạt động nhịp nhàng với nhau để giúp thực hiện một chức năng rất quan trọng, đó là sự di chuyển của con người trong không gian. Dây chằng có nhiệm vụ neo xương với xương, giữ cho khớp được vững; gân nối xương với thịt và chuyển sức co của bắp thịt vào xương; còn sụn là lớp tế bào nom trong như thạch, rất bền và dai, không có mạch máu và dây thần kinh, có công dụng che chở đầu xương tránh sự cọ xát khi khớp cử động. Quan trọng như vậy mà sụn lại gồm những tế bào rất mỏng manh, khó nuôi cấy, dễ thoái hóa và sự tái tạo sau khi bị chấn thương cũng rất khó khăn. Sụn chứa 75% nước. Khi khớp cử động, nước đó ra vào, thấm qua màng hoạt dịch để lấy chất bổ dưỡng nuôi sụn. Cho nên sụn sẽ bị suy yếu khi khớp bất động, không được dùng tới. Sụn không có dây thần kinh nên nó không có trách nhiệm gây đau trong bệnh viêm xương khớp.
Khớp nằm trong một cái túi mà tế bào mặt trong túi tiết ra một hoạt dịch lỏng nhờn như dầu để làm khớp trơn tru trườn lên nhau khi co duỗi, cử động. Hoạt dịch cũng là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng cho sụn vì sụn không có mạch máu.

Sự thoái hóa của khớp
Với tuổi đời chồng chất, chức năng cũng như cấu tạo của khớp đều có nhiều thay đổi, trở nên kém linh động: tế bào khớp thoái hóa, gân và dây chằng phân đoạn, đóng vôi, khô cằn, trở nên kém bền bỉ, kém co dãn, không chịu đựng được với căng lực và dễ bị tổn thương; sụn trở nên đục mầu, hóa xơ, khô nước, rạn nứt với nhiều tinh thể calcium làm khớp đau. Khớp co duỗi khó khăn vì màng hoạt dịch mỏng khô dần.
Khi bị viêm, xương khớp có nhiều thay đổi như sự hóa xơ và gồ ghề của sụn, khả năng chất đệm kém đi, đầu xương mọc gai, xương giảm khối lượng. Mặc dù ta không biết rõ cơ chế gây ra viêm, nhưng sự hao mòn tả tơi hay thoái hóa do sử dụng khớp lâu năm được coi như là nguyên nhân chính. Vì thế những khớp chịu sức nặng của cơ thể như xương sống vùng thắt lưng, hông, đầu gối thường hay bị bệnh. Sự thoái hóa này diễn ra từ từ trong khoảng thời gian khá lâu và trở nên rõ ràng khi về già.
Tuy thường xẩy ra ở người cao tuổi nhưng không phải người cao tuổi nào cũng mắc phải bệnh này. Thanh thiếu niên được miễn; tuổi trung niên có nhưng rất hiếm; từ tuổi 50 trở lên thì bệnh tăng theo tuổi: 27% ở tuổi 60-70; 45% vào tuổi 80.
Nguy cơ dễ bị bệnh gồm có béo mập (vì thế giảm cân là phương thức trị liệu tốt), chấn thương khớp, tật bẩm sinh, bệnh về chuyển hóa, di truyền, xáo trộn của kích thích tộ Lúc trẻ tuổi, một lực sĩ liên tục bị chấn thương ở khớp, dù nhẹ, người làm việc chân tay suốt ngày khuân vác nặng nhọc, đều dễ bị viêm xương khớp khi tuổi cao.
Cũng xin nhắc qua về hiện tượng VIÊM ( Inflammation). Viêm là một đáp ứng bảo vệ của cơ thể với tổn thương gây ra do tác nhân sinh nhiễm, hóa chất hoặc tác nhân vật lỵ Các mạch máu ở gần nơi tổn thương dãn nở, đưa nhiều máu tới vùng này. Bạch cầu vào mô, tiết ra các chất Prostaglandins, Leukotrienes và tiêu diệt các tác nhân gây tổn thương. Trong diễn biến này, vùng mô bị tổn thương sưng to, nóng, đỏ và đau. Nếu viêm không lành thì sẽ trở nên viêm kinh niên.

Triệu chứng

Khớp đau, sưng, giảm cử động, co cứng là những dấu hiệu thường thấy.
Khớp co cứng mỗi sáng khi thức dậy hoặc sau một thời gian bất động, kéo dài cả nửa giờ đồng hồ. Nhưng khi ta ngâm tay trong nước ấm hay tập co tới co lui một lúc thì nó bớt cứng đi. Những thay đổi khác ở khớp như viêm màng dịch, viêm dây chằng, sự tiêu hao của sụn, co thắt của bắp thịt đều có thể gây đau.
Người cao tuổi mắc bệnh viêm xương khớp có thể bị những cơn đau bất thình lình hoặc khi thời tiết đổi thay, khí hậu lạnh, ẩm, đặc biệt là ở khớp đầu gối. Khớp đau âm ỉ, vừa phải thôi, nhưng gia tăng khi khớp cử động, giảm bớt khi không dùng. Ban đêm ngủ mà bị những cơn đau khớp hành hạ thì bệnh càng gia tăng mà lại dễ gây ra tâm trạng u buồn.
Sau một thời gian, các triệu chứng trên đưa tới mất chức năng của khớp, khiến người bệnh không thực hiện được những sinh hoạt thông thường như cài cúc áo, cột dây giầy, cầm lược chải đầu, cầm bút viết. Đứng lên ngồi xuống, bước ra khỏi xe, lên xuống cầu thang đều khó khăn, giới hạn.
Nhiều nghiên cứu cho hay có tới 12% người bệnh không hoàn tất được sinh hoạt hàng ngày và quá bán số người này nằm liệt giường hay suốt ngày ngồi trên xe lăn.
Quan sát cho thấy đàn ông thường bị giới hạn sử dụng thượng chi còn đàn bà hay bị ở hạ chi, nhưng khi tới tuổi trên 80 thì tứ chi đều bị ảnh hưởng như nhau. Sự định bệnh căn cứ vào triệu chứng, khám xét cơ thể và chụp quang tuyến X. Viêm khớp khó mà lành hẳn nhưng sau một năm, chứng đau nhức thường giảm bớt. Sự thoái hóa làm mòn hết sụn, hai đầu xương tiếp tục cọ xát vào nhau trở nên nhẵn bóng như nga.

Điều trị

Cho tới nay, chưa có dược phẩm hay cách nào có thể phục hồi tế bào sụn và từ đó chữa dứt bệnh viêm xương khớp, mà chỉ chữa theo triệu chứng: đau đâu chữa đó, đau lúc nào uống thuốc lúc ấy. Tuy nhiên, với những phương tiện hiện có, người bệnh có thể duy trì, cải thiện một số chức năng của khớp bị bệnh, làm bớt đau và làm đời sống linh động tốt hơn.
Người bệnh cần được hướng dẫn, tìm hiểu về bệnh, biết rõ căn nguyên, nguy cơ gây bệnh để tránh, biết phải làm gì để bớt đau và thích nghi với khó khăn, khiếm dụng do bệnh gây ra.

1- Vật lý trị liệu:

Đây là phương tiện được dùng rất nhiều hiện nay vì có nhiều công hiệu. Nó giúp bệnh nhân phục hồi một số chức năng của bắp thịt và khớp như khả năng co duỗi, sự di động, mềm mại; hướng đẫn cách lựa và sử dụng gậy chống, nạng, tựa người (walker).

2- Vận động:

Sự vận động cơ thể làm tăng sự mềm mại của cơ thịt, co vào duỗi ra dễ dàng, khớp cử động nhẹ nhàng, tăng máu lưu thông tới nuôi dưỡng khớp, làm bớt đau, làm tầm cử động rộng hơn. Cần lưu ý là chỉ vận động vừa sức mình, không vận động khi khớp đang sưng, nóng, đau. Trước khi tập, có thể đắp nóng để làm thư dãn cơ thịt, làm máu lưu thông tốt, hoặc đắp lạnh trên khớp để làm bớt đau, sưng và viêm đọ Đôi khi ta có thể luân phiên với sức lạnh và sức nóng, mỗi thứ chừng 30 phút.

3- Giảm mập béo:
Mập béo vẫn được coi như là nguy cơ gây viêm xương khớp, nên giảm ký là một cách tốt để làm cơ thể nhẹ nhàng, bớt sức nặng dồn trên khớp nhất là khi ta di chuyển.

4- Dược phẩm:

Dược phẩm được dùng với mục đích chính là để làm giảm đau, chống viêm sưng. Thuốc Acetaminophen (Tylenol) được coi như là thuốc căn bản, uống với phân lượng cao tới 4 grams một ngày. Thuốc này dùng nhiều có thể ảnh hưởng tới gan nhất là khi người bệnh uống rượu, hoặc đưa đến thận suy.
Thuốc có chất á phiện chỉ nên dùng ngắn hạn khi cơn đau dữ dội không chịu nổi hoặc làm mất ngủ.
Có nhiều loại thuốc bôi làm dịu đau như kem bôi Capsaicin, mỗi ngày thoa đều trên khớp đau ba bốn lần.
Thuốc chống viêm không có steroid như Ibuprofen, Naproxen, Celebrex, Daypro, ... có nhiều công hiệu. Các thuốc chống đau đều có nhiều tác dụng phụ, không tốt, nên trước khi dùng, cần tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình.
Ngoài ra, dùng những máy phát ra sóng từ trường, hoặc chích thuốc (Corticosteroids, Hyaluroran) vào khớp cũng giúp giảm cơn đau nhức một phần nào. Trường hợp nặng có thể giải phẫu thay khớp.

5- Dinh dưỡng:

Trong những năm gần đây, nhiều chuyên gia đã nghĩ ra và đề nghị áp dụng dinh dưỡng trong việc chữa bệnh viêm xương khớp. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xác định là một chế độ ăn uống hoặc một món thực phẩm nào đó có thể trị được bệnh viêm khớp này. Có một số ý kiến cho rằng nếu ta ăn vài trăm gram cá mỗi ngày thì có thể giảm cứng khớp mỗi sáng khi thức dậy.
Bác sĩ Joel M.Kremer của Đại Học Y Khoa Nữu Ước cho hay, uống dầu cá viên trong hai tuần lễ có thể làm giảm sưng và đau của viêm khớp. Ta nhớ là cá có loại chất béo Omega-3 fatty acid.
Có người cũng đã thử nghiệm và thấy cà chua, broccoli cũng làm bớt đau viêm khớp. Trên thị trường, có vài môn thuốc được giới thiệu là làm thuyên giảm triệu chứng của viêm khớp. Đó là:

+ Chất Glucosamine. Glucosamine sulfate là chất lấy ra từ vỏ sò, vỏ cua và bán dưới dạng thuốc viên. Theo nhà sản xuất, mỗi ngày uống 1500 mg chia ra làm ba lần. Thuốc chỉ gây ra một chút khó chịu cho bao tự Nhiều nghiên cứu cho hay, phải uống cả tháng mới thấy có công hiệu. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho hay, Glucosamine có tính chất chống viêm và kích thích sản xuất sụn.

+ Chất Chondroitin. Đây là chất được lấy ra từ sụn cá mập, bò và có dưới dạng viên hoặc con nhộng. Cũng như Glucosamine, món thuốc này được giới thiệu có khả năng chống viêm và tạo sụn. Một số nghiên cứu khoa học cho hay, Chondroitin có tác dụng tốt hơn thuốc vờ (placebo) và ít gây ra tác dụng phu Mỗi ngày phải uống khoảng 1200 mg, chia ra làm ba lần và phải uống khoảng bốn tuần lễ mới thấy công hiệu.

+ SAMe. Đây là viết tắt của S-Adenosylmethionine, là một hợp chất thiên nhiên trong mọi tế bào còn sống và được sản xuất bằng cách nuôi tế bào các loại men, nấm. SAMe đã được bán theo toa bác sĩ ở Âu châu từ năm 1975 để chữa viêm khớp và trầm cảm. Món thuốc này khá đắt và phải dùng từ 400 mg tới 1200 mg mỗi ngày. Tác dụng phụ là khó chịu tiêu hóa, như là tiêu chẩy.

Ngoài ra, theo kinh nghiệm nhiều người thì Gừng, khoáng Borom, chất DMSO Dimethyl Sulfoxide từ quả gỗ cơm (pulp) cũng có công dụng chống viêm của xương khớp.

Kết luận

Viêm xương khớp kinh niên đưa tới nhiều trở ngại, khó khăn cho người bệnh. Ngoài thuốc men và các phương thức trị liệu khác, bệnh nhân cũng nên khéo léo tổ chức trong sinh hoạt hàng ngày để tránh khớp đau nhiều hơn:
- Khi làm việc, khi ăn, nên ngồi nhiều hơn là đứng. Ghế ngồi có chỗ dựa lưng để giảm căng thẳng cho bắp thịt ở lưng. Ghế có dựa tay để giúp đứng lên ngồi xuống dễ dàng.
- Mở hộp thức ăn với dụng cụ thay vì dùng sức mạnh của bàn tay. Đừng cầm vật gì nặng quá lâu.
- Nên thường xuyên co duỗi các khớp xương, vươn vai để cột
sống khỏi cứng nhắc.
- Cần nâng một vật nặng, nên sử dụng cả hai tay thay vì một tay và chịu sức nặng vào hai chân chứ không vào xương sống lưng.
Làm được như vậy là ta đã phần nào tránh được sự mất khả năng vận động, một trong những nguyên nhân đưa tới việc lệ thuộc vào người khác của tuổi già.
#1
    Barbiegirl 03.09.2004 14:46:41 (permalink)
    Khớp Và Bệnh Viêm Xương Khớp


    Bác Sĩ Phạm Văn Ngà



    Mùa thu thường đưa đến nguồn cảm hứng lớn lao cho nhiều văn nghệ sĩ để sáng tác ra muôn ngàn tác phẩm ca ngợi mùa thu với nhiều vẻ đẹp của nó. Nhưng đối với một số người khác, họ không thể ca ngợi mùa thu nổi vì mỗi độ thu về, họ lại gánh chịu bao nhiêu niềm thống khổ do những cơn đau khớp nổi dậy. Chúng tôi muốn nói đến những người bị bệnh thấp khớp. Mỗi khi chuyển đổi thời tiết, những cơn đau khớp đến thường xuyên và trầm trọng hơn. Mùa thu năm nay lại đến, vốn vẫn dốt thơ nhạc, có cố tìm cảm hứng để tạo nên một vần thơ cũng không nổi, thôi thì đành để thì giờ bàn về bệnh thấp khớp vậy. Theo sự phân loại của các nhà chuyên môn về bệnh phong thấp, bệnh thấp khớp bao gồm hàng mấy chục loại khác nhau về nguyên nhân sinh bệnh, triệu chứng bệnh, mà còn khác nhau về trị liệu. Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ giới hạn trong một loại bệnh thấp khớp chính: bệnh viêm xương khớp (osteoarthritis) hay bệnh thoái hoá khớp (degenerative joint disease).

    Trước khi chúng ta tìm hiểu về bệnh này, có lẽ cũng nên ôn qua về cấu tạo cơ thể học của khớp. Khớp là phần nối giữa các đầu xương làm cho cơ thể có thể cử động được, trừ khớp tiếp nối giữa các xương sọ không cử động được. Các khớp khác có thể là khớp toàn động của tay chân hay là khớp bán động của xương sống. Cơ cấu của các khớp toàn động bao gồm hai đầu xương có lớp sụn bao phủ trên mặt. Chung quanh khớp có màng mô sợi rất dày và chắc tạo thành bao khớp. Giữa hai đầu sụn khớp và nằm trong màng bao khớp có dịch khớp làm cho khớp cử động trơn tru. Trái lại, khớp bán động như khớp giữa đốt xương sống có cử độïng rất hạn chế. Mỗi đốt sống gồm thân xương sống và lỗ xương sống chứa thần kinh tuỷ sống. Xương sống nối nhau bằng khớp liên sống có lớp sụn mỏng phủ trên mặt. Giữa khớp có đĩa sụn liên khớp, bao bọc chung quanh có những dây chằng rất chắc chắn giữ cho đĩa liên sống không bị đẩy ra ngoài khi cột sống cử động. Song song với cột sống có những giải cơ vân giúp cho sự vận động của cột sống. Mỗi khi cúi xuống nhấc một vật nặng dùng xương sống thắt lưng, các cơ dọc xương sống vùng thắt lưng phải chịu một sức kéo gấp 10 lần trọng lượng mình đang nhấc lên.

    Thường về bệnh của khớp, người ta nghĩ ngay đến bệnh thấp khớp, đó là danh từ chung cho những bệnh thấp khớp làm đau, cứng và sưng không những ở khớp mà còn ở mô liên kết như cơ, gân và một số cơ quan khác. Người ta chia bệnh khớp ra thành hàng chục loại khác nhau, trong đó có những bệnh chính như bệnh viêm xương khớp (osteoarthritis), bệnh viêm khớp dạng thấp (rhumatoid arthritis), bệnh viêm cột sống dính khớp (ankylosing spondylitis), v.v... Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến bệnh viêm xương khớp.

    Bệnh viêm xương khớp làm một tên gọi không hoàn toàn đúng lắm, đó là một loại hình thoái hoá của khớp bao gồm xương đầu khớp và sụn khớp, cho nên chính xác hơn phải gọi là bệnh thoái hoá khớp mới được. Bệnh này hay xảy ra ở phái nữ nhiều hơn phái nam hai ba lần, thường trong hạn tuổi 30 đến 60 tuổi. Ðấy là bệnh viêm khớp xương thường xảy ra nhiều nhất và tỷ lệ mắc bệnh gia tăng theo tuổi tác, từ dưới 0,1% ở tuổi 25 đến 34, tăng lên 30% giữa 65 đến 74 tuổi.
    Về sinh học, trong bệnh viêm xương khớp, mặt khớp dần dần bị thoái hoá, hay xaœy ra ở các khớp lớn, chịu sức nặng của thân thể như khớp gối háng hay xương sống thắt lưng, đôi khi xảy ra ở khớp ngón tay. Bệnh có thể nguyên phát, tự nhiên xảy ra không có bệnh khớp từ trước, hay thứ phát do hậu quả của bệnh mập phì, bị thương ở khớp từ trước, bệnh nhiễm trùng khớp v.v... Khi khớp bị thoái hóa, mặt khớp dần dần lồi lõm, sự thoái hoá ăn dần xuống lớp xương. Khi xương bị tổn thương nó sẽ phản ứng lại bằng sự tạo xương mới, cứ thế làm cho xương và sụn khớp càng ngày càng không đều và khớp dần dần hẹp lại, gây nên đau đớn khi cử động. Ở bờ của khớp, phản ứng tạo xương có thể thái quá làm thành những gai xương tăng thêm lên phần đau đớn khi cử động nhất là khi ở khớp liên sống có thể chèn ép dây thần kinh từ tuỷ sống. Tuy nhiên, nếu bệnh mới thành hình, nhiều khi không đau gì cả. Khi sụn bị huỷ hoại, có thể vỡ thành mảnh vụn trong khớp gây phản ứng viêm khi cử động khớp. Nếu bệnh xảy ra ở cột sống thường hay bị ở khớp thắt lưng, ngoài những thay đổi trên, lỗ sống còn có thể bị hẹp lại thành bệnh hẹp lỗ sống (spinal stenosis) hay có thể đưa đến bệnh trượt đốt sống (spondylolithesis) làm cho bệnh nhân đau khi đi đứng, nhất là khi đi xuống dốc hay cầu thang.

    Triệu chứng của bệnh viêm xương khớp gồm đau - không cử động được - và mất chức năng. Thường bệnh nhân thấy đau nhiều ở các khớp viêm ở chân. Ðau có thể ra mô mềm chung quanh nên nhiều khi bệnh nhân không mô tả chính xác chỗ đau được. Ở bàn tay, có thể đau ở khớp đầu ngón tay. Bệnh nhân có thể thấy cứng khớp mỗi buổi sáng vào khoảng 15 đến 30 phút nếu kéo dài hơn là loại viêm khớp khác. Do mặt khớp không đều và không có những mảnh sụn vụn trong khớp, khớp bị kích thích khi cử động, nhất là khi đi nhiều hay tập thể dục lâu, có thể đau sau khi vận động. Càng về sau, những cử động của khớp càng bị giới hạn do đầu và khớp bị biến dạng. Bệnh nhân càng lúc càng tránh cử động khớp đầu và không muốn đi lại, càng làm tình trạng xấu đi vì bị cứng khớp.

    Ðể chẩn đoán bệnh, ngoài triệu chứng do bệnh nhân kể, người ta có thể chụp hình khớp. Thay đổi mắt khớp có thể thấy được rõ ràng khi đi chụp phim quang tuyến, và đây là yếu tố chẩn đoán khá đơn giản và hiệu quả. Ðôi khi MRI hay CT scan có thể giúp thêm trong vấn đề xác định viêm xương khớp, nhất là ở cột sống. Thử máu không giúp ích lắm trong việc định bệnh. Ở những khớp sưng lớn, người ta có thể chọc dò dịch khớp và sẽ chỉ thấy thay đổi viêm nhẹ thôi.

    Về trị liệu, cho đến nay chưa chữa được bệnh viêm xương khớp, và cũng chưa có thuốc gì để phục hồi sụn thoái hoá vì mổ sụn đấu khớp là một loại mổ khó tái tạo được. Khi bệnh viêm xương khớp đã được chẩn đoán, điều cần thiết đầu tiên là bác sĩ phải giải thích cho bệnh nhân về tính chất của bệnh và trấn an bệnh nhân vì bệnh có thể chỉ xaœy ra ở một vài khớp, và sự thay đổi cách sinh hoạt để làm giảm sức đè nén lên khớp có thể giúp ích cho bệnh giảm mức trầm trọng nhiều, chẳng hạn làm giảm sức nặng của cơ thể ở những người bị bệnh mập hay thay đổi cách đi đứng và dùng nạng thường xuyên để giúp khớp có cơ hội nghỉ ngơi. Nên nhớ chống nạng hay gậy ở phía bên lành để bệnh nhân đi nghiêng về bên đó nhiều hơn. Khi khớp gối bị bệnh có thể làm chân ngắn đi thì phải nâng cao đế giày hơn. Bệnh nhân có thể dùng bàn cầu cao khi bị cứng khớp háng và đầu gối. Bệnh nhân có thể tham khảo ý kiến của bác sĩ gia đình hay bác sĩ chuyên khoa vật lý trị liệu.
    Vật lý trị liệu cũng là một phương pháp trị liệu giúp ích cho bệnh nhân rất nhiều. Chườm đá, dùng đèn hồng ngoại tuyến, hay dùng siêu âm, có thể làm giảm đau hàng tháng. Tập các khớp duy trì hoạt động càng nhiều càng tốt, tuy không làm tăng cường sức chung quanh khớp, nhưng có thể làm khớp không bị cứng. Nên nhớ một điều là bệnh nhân bị bệnh viêm xương khớp phần lớn có tuổi và có thể kèm theo nhiều bệnh khác như bệnh tim mạch, phổi, tiểu đường, cho nên trước khi bắt đầu chương trình tập thể dục cũng nên bàn với bác sĩ của mình để xem cách thể dục nào hợp với mình. Bệnh nhân nên để ý đến những triệu chứng này khi tập thể dục để tránh nguy hiểm: mệt kéo dài, ngày càng yếu, cử động ngày càng thu hẹp lại, khớp sưng lớn hơn và đau hơn một giờ đồng hồ sau khi nghỉ tập. Tài chi cũng giúp ích cho bệnh nhân nhiều để làm giảm đau và giảm cứng khớp. Ðiều quan trọng phải có thầy hướng dẫn, không nên học qua sách chỉ dạy vì có khi không hợp với tình trạng từng bệnh nhân.

    Những phương pháp trị liệu khác cần phải kể là châm cứu. Châm cứu càng ngày càng phổ biến ở Tây Phương, và thực tế nó cũng có kết quả giảm đau phần nào. Trước khi dùng châm cứu, phải nhờ bác sĩ định bệnh rõ ràng, và xác định bệnh nhân không có những bệnh hay thuốc cản trở việc châm cứu chẳng hạn bệnh nhân đang dùng thuốc loãng máu có thể làm chảy máu cho châm kim. Cũng nên nhớ là dù có châm cứu, cũng không nên bỏ thuốc đang dùng cho bệnh nhân. Thuốc men và những phương pháp kể trên đều hỗ tương giúp ích cho bệnh nhân nhiều hơn là dùng từng phương pháp riêng rẽ.
    Nói về trị liệu bằng thuốc, người ta thường sử dụng thuốc chống đau và chống viêm. Ðầu tiên phải nói đến Acetaminophen như Tylenol là thuốc giảm đau lành nhất. Người ta bảo thuốc Tylenol hại gan nhưng điều này không đúng nếu dùng dưới 8 viên mỗi ngày. Các thuốc chống đau khác như Aspirin, Ibuprofen (Motrin, Advil), Naproxen... đều có tác dụng giảm đau và viêm rất tốt, nhưng những thuốc này có thể làm viêm loét bao tử hay xuất huyết bao tử. Sau này người ta chế ra những thuốc có cùng một công hiệu như các thuốc trên nhưng không có ảnh hưởng đến bao tử như Celebrex hay Vioxx, dùng mỗi ngày một viên rất tiện. Nên nhớ các thuốc giảm đau kể trên, một vài trường hợp có thể gây phản ứng viêm thận đưa đến suy thận cấp nguy hiểm. Vì thế, bất cứ dùng thuốc gì cũng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ và nhờ bác sĩ theo dõi khi dùng thuốc chống đau, chống viêm lâu dài. Dùng thuốc có an toàn hay không là do biết cách dùng thuốc có hướng dẫn của bác sĩ. Không nên tự ý dùng thuốc và nhất là theo lời khuyên bảo của người khác có khi nguy hiểm, lúc ấy bản thân mình chịu thiệt thòi.

    Hiện nay người ta thường nói đến một loại thuốc bán tự do được cho là có công hiệu chữa bệnh viêm xương khớp, đó là hợp chất Glucosamine và Chondroitin. Glucosamine là hợp chất đường và đạm amine thấy trong cơ thể. Chondroitin là một thành phần của proteoglycan của mô sụn. Tác dụng trị bệnh như thế nào không rõ, nhưng người ta nghi là Glucosamine giúp cho tái tạo sụn (?) và Chondroitin làm tăng tính dẻo dai của sụn. Nhiều nghiên cứu được hãng thuốc sản xuất thuốc này bảo trợ kết luận là Glucosamine và Chondroitin làm thuyên giảm bệnh viêm xương khớp. Nhưng tài liệu này được giới thiệu trong các tập san của hội Y Sĩ Nội Khoa Mỹ. Ngược lại, một số nghiên cứu khác đăng trong West J. Med và Rheumatology (Oxford) lại kết luận là hai chất này có tác dụng không hơn thuốc giả Placebo. Ðôi khi thuốc này cũng có những tác dụng phụ như tiêu chảy, ói mửa, ợ nóng (heartburn), đau đầu, chóng mặt và nổi mẩn ngứa. Vì chưa xác định được hiệu quả của thuốc, nên Glucosamine và Chondroitin chưa chính thức được xếp vào loại thuốc chữa bệnh.

    Ðôi khi đau quá, dùng các thuốc trên không có hiệu quả, người ta dùng những thuốc biến chế từ thuốc phiện như Codeine trong Tylenol số 3, hay Vicodin ... rất công hiệu. Tuy nhiên các thuốc này không dùng lâu được vì có thể bị nghiện giống như nghiện ma tuý vậy. Ngoài ra khi mô quanh khớp bị sưng nhiều và lâu dài, người ta có thể chích thuốc Steroid như Kenalog quanh khớp, rất có công hiệu được một thời gian, nhưng không thay đổi bản chất tổn thương của khớp được. Thuốc Steroid lâu lâu mới chích một lần vì lạm dụng có thể sinh ra nhiều tác dụng phụ như nhiễm trùng, mập phệ, loãng xương ...

    Một số trường hợp, sau khi dùng phương pháp trị liệu như đã đề cập ở trên mà bệnh vẫn không khỏi, người ta dùng đến ngoại khoa. Ðó là những trường hợp khớp bị biến dạng, khớp lỏng lẻo không vững, nhất là ở khớp lớn như khớp háng, khớp đầu gối. Người ta có thể cắt gọt xương (osteotomy) hay soi khớp (arthroscopy) để lấy các mảnh vụn trong khớp hay để rửa khớp, cắt bỏ mô hư hoại làm trơn mặt khớp. Một số trường hợp khác, người ta có thể làm dính khớp (arthrodesis) để biến đổi khớp cứng và đau thành khớp bất động không đau, thường có kết quả ở khớp nhỏ như ở bàn tay hơn là ở những khớp lớn. Nếu khớp vẫn còn đau và không thể đi lại được, người ta có thể thay khớp (arthroplasty). Trở ngại chính khi thay khớp giả là bị nhiễm trùng hay viên tắc tĩnh mạch.

    Tóm lại viêm xương khớp là một bệnh thường hay xảy ra nhất trong số bệnh viêm khớp và hay xảy ở người có tuổi và dần dần làm cho nhiều người bệnh bị tàn phế vì vừa đau vừa vì khớp không hoạt động được. Trị liệu bệnh viêm xương khớp thường không đạt được kết quả mong muốn, ngay cả sau khi thay khớp một vài trường hợp người bệnh vẫn còn tiếp tục bị đau. Ðiều quan trọng nhất là đề phòng đừng để bệnh xảy ra, điều này khó nhưng khi mình cố gắng thì cũng có thể ngăn chận được bệnh. Chẳng hạn thường xuyên vận động các khớp vì bất động cũng là yếu tố gây suy thoái giống như hoạt động quá mức, giảm cân ở những người bị bệnh mập, tránh những tổn thương đến khớp trong những môn thể thao quá mạnh, giữ gìn cách đi đứng, ngồi, nằm cho đúng mức. Có thế mới hy vọng bệnh viêm xương khớp ít xảy ra hơn.
    #2
      Barbiegirl 03.09.2004 14:51:49 (permalink)
      Phương pháp mới giúp phát hiện bệnh viêm khớp




      Viện Nghiên cứu bệnh viêm khớp và các chứng bênh thuộc về cơ và da Hoa Kỳ cho biết một nhóm các bác sĩ của Pháp , Ðan Mạch và Mỹ đã tìm ra một phương pháp mới giúp phát hiện bệnh viêm khớp một các nhanh chóng hơn vào hôm 7-10 vừa qua .



      Chứng viêm khớp là do lớp sụn bị mòn đi khiến xương bị cọ xát gây, sưng, cứng và mất cảm giác ở giữa những đốt xương . Từ trước đến nay , cách duy nhất để chẩn đoán căn bệnh này là chụp X quang, chụp CT hặc MRIs . Và dĩ nhiên bệnh chỉ được phát hiện sau khi lớp sụn đã bị hư hại.Ngày nay bằng những cách thử máu và nước tiểu , các bác sĩ có thể sớm phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ bị căn bệnh này.Thông qua mẫu việc thử máu và nước tiểu , người ta sẽ thấy được lượng chất giúp cho việc tái tạo sụn và lượng chất gây ra sự thoái hóa sụn của một người . Nếu lượng chất gây ra sự thoái hóa sụn cao hơn lượng chất giúp cho việc tái tạo sụn thì người đó sẽ mắc chứng bệnh viêm khớp.Tuy nhiên , nghiên cứu này chỉ mới được thực hiện đối với chứng viêm khớp đầu gối.Và các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra biện pháp nào để chữa trị cũng như ngăn chặn căn bệnh này .



      Sưu tầm
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9