Ung Thư Vú
HongYen 09.07.2007 07:36:39 (permalink)
 
Các loại ung thư vú

Chẩn đoán ung thư vú là một trường hợp riêng cho mỗi người. Có những phân loại tổng quát và điều quan trọng là nói cho nhóm chăm sóc sức khỏe của quý vị biết để xác định trường hợp đặc biệt của mình.

Tổng quát về ung thư vú tại chỗ


Để chẩn đoán ung thư vú tại chỗ (không lan tràn), nhà nghiên cứu bệnh học xem xét mẫu sinh thiết dưới kính hiển vi. Họ chẩn đoán bị ung thư vú tại chỗ khi sinh thiết cho thấy tình trạng không thâm nhiễm hay tiền ác tính không phải là ung thư lan tràn. Ung thư vú tại chỗ được phân loại như là caxinom ống tuyến tại chỗ (Ductal carcinoma in situ, hay DCIS), phát sinh từ biểu mô ống tuyến, hay ung thư tiểu thùy tại chỗ (Lobular cancer in situ, hay LCIS), phát sinh từ biểu mô của tiểu thùy.
Với việc rọi kiếng vú dò tìm thường xuyên, ung thư không lan tràn (DCIS and LCIS) thường được chẩn đoán hơn và hiện tại chiếm từ 15 đến 20 phần trăm trên tất cả các loại ung thư vú.

Các loại ung thư vú khác

Caxinom ống tuyến thâm nhiễm: ung thư lan ra bên ngoài ống tuyến sữa

Caxinom tiểu thùy thâm nhiễm: ung thư lan ra bên ngoài thùy. Tám mươi sáu phần trăm ung thư vú bắt đầu ở ống tuyến,còn 12 phần trăm thì bắt đầu ở các thùy.


    Bệnh Paget: có đặc điểm là ngứa và đóng vảy

    Viêm nhiễm: thường nhầm với nhiễm trùng

    Hình ống: tế bào ung thư trông giống như những ống nhỏ

    Tủy: ung thư có màu của mô não

    Nhầy: ung thư ống tuyến thâm nhiễm tạo ra dịch nhầy

    Nhú: các tế bào ló ra thành các nốt nhú nhỏ, hay lồi ra như ngón tay

    Caxinom ống tuyến tại chỗ


    Caxinom ống tuyết tại chỗ (Ductal carcinoma in situ, hay DCIS) là chẩn đoán ung thư vú bệnh xá sớm nhất và thường được chẩn đoán bằng cách rọi kiếng vú dò tìm phát hiện ra những chỗ vôi hóa nhỏ trong vú. Bệnh nhân hiếm khi nghi ngờ rằng mình bị ung thư vú. Nếu không chữa trị DCIS, khoảng 30 phần trăm bệnh nhân sẽ bị ung thư vú lan tràn trung bình vào khoảng 10 năm kể từ ngày chẩn đoán đầu tiên. Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định chữa trị ung thư của bệnh nhân. Mục đích của chữa trị ung thư là cải tiến các triệu chứng bằng cách kiểm soát ung thư cục bộ hay kéo dài sự sống của bệnh nhân. Các lợi ích của việc chữa trị ung thư phải được cân bằng cẩn thận với nguy cơ có thể xảy ra của việc chữa trị. Phần lớn các chữa trị được khai triển trong thử nghiệm bệnh xá.
    DCIS được cho là tiền ung thư hay phát triển tế bào bất thường ở giai đoạn đầu trong ống tuyến vú. Trước đây, DCIS rất hiếm khi được tìm thấy ở phụ nữ và người ta ít chú ý đến việc xác định cách chữa trị tối ưu. Đó là vì  DCIS có thể được chữa trị gần như 100 phần trăm cùng với phẫu thuật cắt bỏ vú. Các lựa chọn chữa trị khác giờ đây bao gồm phẫu thuật cắt bỏ ung bướu và bức xạ. Với chu kỳ rọi kiếng vú dò tìm thường xuyên, phụ nữ có thể được chẩn đoán ung thư ở giai đoạn sớm hơn, và do đó số phụ nữ bị chẩn đoán mắc DCIS đang trên đà gia tăng.

    Caxinom ống tuyến thâm nhiễm


    Caxinom ống tuyến thâm nhiễm là dạng ung thư vú lan tràn phổ biến nhất, chiếm 70 phần trăm trên tất cả các trường hợp. Đây là khối u rất cứng với rìa bất thường và có vẻ như bám chặt vào các mô xung quanh, là đặc điểm của caxinom ống tuyến thâm nhiễm. Da trên vùng đó hay ở núm vú có thể lõm vào (thụt vào).

    Khi rọi kiếng vú, thường thấy có vôi hóa nhỏ ở chỗ khối u, do khối u này có các tế bào đã chết bên trong (hoại tử). Khối u thay đổi kích thước và thời gian phân chia tế bào, với một số tế bào phát triển nhanh hơn những tế bào khác.

    Caxinom tiểu thùy thâm nhiễm


    Caxinom tiểu thùy thâm nhiễm chiếm khoảng 5 phần trăm trên tất cả các loại ung thư lan tràn, ác tính. Bệnh xảy ra thường nhất là ở những phụ nữ tuổi từ 45 đến 56. Khối u phát triển trong đoạn cuối (phần cuối) của tiểu thùy nơi tiết ra sữa. Thông thường bệnh không hiện rõ trên hình rọi kiếng vú và chỉ cảm thấy dày tại một phần tư ở bên ngoài, phía trên vú (từ núm vú tới dưới cánh tay) vì nó thâm nhiễm vách tiểu thùy.

    Ung thư này thường xuất hiện ở vú còn lại vào khoảng 30 phần trăm trường hợp. Thường xảy ra ở những phần khác của cùng một vú (nhiều tâm). Dấu hiệu trễ của vùng khối u lớn có thể là da trên vùng đó bị lõm vào hay bị nhăn. Phần lớn khối u cần thụ thể estrogen và progesterone và do đó đáp ứng tốt với trị liệu hócmôn. Caxinom tiểu thùy thâm nhiễm đôi khi có tỉ lệ di căn cao sang buồng trứng và vòi trứng.

    Caxinom tiểu thùy tại chỗ


    Việc chữa trị caxinom tiểu thùy tại chỗ (Lobular carcinoma in situ, hay LCIS) vẫn còn đang trong vòng tranh cãi. LCIS được cho là dấu hiệu chỉ thị  nguy cơ mắc bệnh ung thư vú lan tràn, nhưng không hẳn là tiền đề trực tiếp đối với bệnh ung thư vú lan tràn. Bất thường này thường được phân bố rộng khắp vú và xảy ra đồng thời ở cả hai vú. 

    Có các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định chữa trị ung thư của bệnh nhân. Mục đích của chữa trị ung thư là cải tiến các triệu chứng thông qua việc kiểm soát ung thư cục bộ, làm tăng hy vọng chữa trị cho bệnh nhân, hay kéo dài sự sống của bệnh nhân. Các lợi ích của việc chữa trị ung thư phải được cân bằng cẩn thận với nguy cơ có thể xảy ra của việc chữa trị.

    Sau đây là tổng quát về cách chữa trị LCIS. Các trường hợp liên quan tới quý vị và các yếu tố tiên lượng về bệnh ung thư của quý vị ảnh hưởng đến cách phải áp dụng nguyên tắc tổng quát để chữa trị ung thư. Thông tin trên mạng lưới này sẽ chỉ dẫn quý vị tìm các lựa chọn chữa trị và tạo điều kiện cho tiến trình lấy quyết định hỗ tương hay chia sẻ với bác sĩ trị ung thư của quý vị.

    Từ những cuộc nghiên cứu thâu thập dài hạn, ước tính có khoảng 25 phần trăm bệnh nhân mắc LCIS sẽ mắc bệnh ung thư vú lan tràn trong vòng 25 năm kể từ khi chẩn đoán. Do vậy, việc chẩn đoán này được dùng để tìm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú lan tràn cao. Các phương pháp chữa trị LCIS hiện tại bao gồm giải phẫu lấy LCIS đi hay chữa trị bằng kháng estrogen để giảm nguy cơ mắc ung thư lan tràn.

    Chỉ quan sát sau khi sinh thiết 

    Quan sát là hình thức chấp nhận được để điều quản bệnh nhân mắc LCIS. Nhiều bệnh nhân không được chữa trị thêm sau khi đã phẫu thuật lấy LCIS để chẩn đoán. Trong một cuộc nghiên cứu, các nhà nghiên cứu từ  Dự Án Quốc Gia về Phẫu Thuật Phụ Trợ cho Vú và Ruột (National Surgical Adjuvant Breast and Bowel Project, hay NSABP) đã đánh giá 182 bệnh nhân mắc LCIS. Với chu trình 5 năm theo dõi, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú lan tràn sau khi chỉ làm sinh thiết cắt bỏ là 3.3 phần trăm, trong đó 2.2 phần trăm ở cùng một bên vú khi làm sinh thiết và 1.1 phần trăm là ở vú còn lại. Bệnh nhân nào chỉ muốn quan sát đòi hỏi phải khám hàng năm và làm sinh thiết tiếp theo như chỉ định. Dù rằng rọi kiếng vú không phát hiện được ung thư vú tiểu thùy lan tràn nhưng cũng nên tiến hành rọi thường niên. Phụ nữ mắc LCIS cũng có thể nên khám định kỳ bằng quét CT hay MRI ngoài việc rọi kiếng vú. 

    Ung thư vú viêm nhiễm

    Ung thư vú viêm nhiễm (Inflammatory breast cancer, hay IBC) liên quan đến vùng da của vú. IBC chiếm chưa tới 4 phần trăm trên tất cả các loại ung thư vú chẩn đoán hàng năm tại Hoa Kỳ. Các triệu chứng của ung thư vú viêm nhiễm là đỏ da vú và và sưng vú tổng quát. Trong một số trường hợp, có thể có cả khối u. 
    Các dấu hiện cần chú ý của IBC

    Thay đổi cấu trúc vú – da bị đỏ hay có vẻ trũng như quả cam

    Kích cỡ vú tăng lên trong một thời gian ngắn

    Thay đổi ở núm vú -- trở nên phẳng bẹt hay võng xuống, có thể tiết dịch

    Vùng vú trở nên ngứa trong một thời gian dài. Dùng pô-mát hay kem trị ngứa không có tác dụng

    Bất ngờ xuất hiện khối u lớn ở vú

    Đau vú 

    Các hạch sưng to dưới cánh tay hay trên xương đòn

    Tất cả các triệu chứng cũng có thể xuất hiện với bệnh vú lành tính. Tuy nhiên, nếu quý vị bị bất cứ triệu chứng nào trong số này, hãy đến khám nhóm chăm sóc sức khỏe. 

    Phản ứng đầu tiên của bác sĩ là nghi ngờ bị nhiễm trùng và kê toa thuốc kháng sinh. Đây có thể là chữa trị thích hợp cho bệnh nhiễm trùng, nhưng chúng tôi đề nghị bệnh nhân nên làm sinh thiết da để loại trừ hay xác nhận bị ung thư vú viêm nhiễm.

    KHÔNG DÙNG KHÁNG SINH HAI HAY BA LẦN MÀ KHÔNG LÀM SINH THIẾT DA.

    Làm sinh thiết da gồm có lấy một mẫu nhỏ của da vú. Mẫu da này sẽ được gởi tới chuyên gia bệnh học để xem có tế bào ung thư vú trong các mạch bạch huyết không. Nhóm chăm sóc sức khỏe của quý vị sẽ bàn thảo kết quả với quý vị. 

    Các cuộc nghiên cứu ung thư vú viêm nhiễm cho thấy rằng loại ung thư này có khuynh hướng mạnh hơn những loại ung thư vú khác. Do ung thư vú viêm nhiễm (Inflammatory breast cancer, hay IBC) cũng xuất hiện ở da vú lúc chẩn đoán nên phải bắt đầu chữa trị bằng trị liệu hóa chất trước khi phẫu thuật để cắt bỏ khối u hay vú. Trị liệu hóa chất trước khi phẫu thuật nhằm diệt tế bào ung thư trong da và vú, và làm giảm khả năng ung thư sẽ lan sang thành ngực sau khi phẫu thuật.

    Chữa trị


    Các thử nghiệm bệnh xá

    Có nhiều thử nghiệm bệnh xá cho phụ nữ bị chẩn đoán mắc IBC, và phụ nữ được khuyến khích tham gia thử nghiệm để được chữa trị theo cách hiện đại nhất. Các thử nghiệm bệnh xá không phải là cách duy nhất để được chữa trị theo cách mới nhất--những loại chữa trị được FDA chấp thuận cho bất cứ chuyên gia ung bướu nào. Tuy nhiên, tham gia vào cuộc thử nghiệm thì có thể sử dụng được các loại thuốc không có sẵn và đang được nghiên cứu để biết mức hiệu quả đối với IBC.

    Điều quan trọng đối với phụ nữ mắc IBC là nên tìm thêm ý kiến về cách chữa trị, và nên đi chữa trị (hay lấy ý kiến) tại một trung tâm y tế. Bác sĩ tại trung tâm y tế có nhiều kinh nghiệm hơn để chữa trị IBC, hay sử dung ngay các thông tin về các chữa trị mới nhất được cho là có hiệu quả. Do đây là loại ung thư hiếm gặp, nhiều bác sĩ cộng đồng sẽ không gặp loại chẩn đoán này trong lúc hành nghề. Đó là phương hướng hành động hợp lý để hỏi ý kiến tại trung tâm y tế, lấy quyết định về chữa trị, và yêu cầu bác sĩ ung bướu hợp tác với bác sĩ địa phương của quý vị (cũng là bác sĩ ung bướu) để chữa trị tại địa phương. 

    Trị liệu hóa chất và phẫu thuật cắt bỏ vú 

    Sau khi chữa trị bằng trị liệu hóa chất (tiêu biểu là từ sáu đến tám tháng) thì thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú, cùng với phẫu tích hạch nách. Phẫu thuật cắt bỏ vú là thể thức cần thiết để giảm nguy cơ tái phát và luôn "kiểm soát cục bộ" căn bệnh. Đó là thuật ngữ phẫu thuật khác lạ có nghĩa là tốt hơn hết nên cắt bỏ vú để làm tăng xác suất tiêu diệt ung thư. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú, phụ nữ mắc IBC sẽ được trị liệu hóa chất và bức xạ thành ngực thêm.

    Ung thư vú viêm nhiễm là một trong những loại ung thư khó chữa trị nhất nhưng vẫn có nhiều người sống sót để nói chuyện với quý vị. Gọi cho Đường Dây Nóng 24 giờ của Ung Thư Vú Quốc Gia Y-ME theo số 1-800-221-2141 (tiếng Anh) và 1-800-986-9505 (tiếng Tây Ban Nha) và yêu cầu được nói chuyện với người mắc IBC còn sống. Chúng tôi biết đây là thời điểm đáng lo sợ cho quý vị và chúng tôi rất hân hạnh được cung cấp thông tin và giúp đỡ quý vị. Cũng có những phụ nữ khác đã trải qua quá trình này. 

    Những điều sai và đúng về IBC

    Sai: Nếu không có khối u là tôi không bị ung thư vú.
    Đúng: Hiếm khi khối u đi đôi đến IBC. IBC phát triển dọc theo thành ngực và thường được chẩn đoán chỉ sau khi nó đã thâm nhiễm vào vú và có thể vào những bộ phận khác.

    Sai: (Các) vú của tôi trông giống như da của quả cam. Tôi vừa rọi kiếng vú xong và họ không thấy có bị vấn đề gì. Không có gì quan trọng cả.
    Đúng: Rọi kiếng vú, siêu âm và ngay cả sinh thiết không phải lúc nào cũng phát hiện được IBC cho đến khi nó đã thâm nhiễm vào mô và các bộ phận. Nếu có thay đổi ở bên ngoài hay nơi cấu trúc (các) vú, nếu nó nóng, hoặc nếu (các) núm vú thay đổi, nên lấy hẹn ngay với nhóm chăm sóc sức khỏe để cứu lấy tánh mạng của mình.

    Sai: Vú của tôi bị sưng và nóng. Bác sĩ nói nó chỉ bị nhiễm trùng và chúng ta nên thử các loại kháng sinh khác nhau.
    Đúng: Thời gian quý báu sẽ bị lãng phí trong lúc quý vị thử các loại kháng sinh khác. Nên đi rọi kiếng vú, rà siêu âm và/hoặc làm sinh thiết. Lần xét nghiệm đầu tiên có thể chẳng phát hiện được gì. Tuy nhiên, nếu thuốc kháng sinh vẫn không có tác dụng sau tuần thứ hai, hãy làm lại các xét nghiệm.

    Sai: Tôi là đàn ông nên không phải lo lắng về ung thư vú.
    Đúng: Đàn ông có thể bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Đàn ông, cũng như phụ nữ, cần hiểu rõ về vú của mình và tìm người khuyến cáo y tế ngay, khi thấy có gì thay đổi.

    Sai: Tôi đang mang thai và vú tôi bị sưng và nóng trong vài ngày qua. Trước đó, nó rất ngứa trong nhiều tuần. Đó có thể là vì tôi đang mang thai.
    Đúng: Ung thư vú có thể bộc phát bất cứ lúc nào. IBC xuất hiện rất nhanh và khó trị. Nên xem xét nhanh chóng bất cứ thay đổi nào ở (các) vú của quý vị vào bất cứ lúc nào. Đợi cho đến sau khi mang thai có thể là sự khác biệt trong việc điều quản ung thư hay thua cuộc trước khi bắt đầu chống trả.

    http://www.y-me.org/vietnamese/information/types_of_breast_cancer.php

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2007 07:40:08 bởi HongYen >
    #1
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9