Tiếng Việt

Tác giả Bài
HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
Tiếng Việt - 11.07.2007 21:11:39
Xin hẹn.
 
Mong Quý bạn tiếp tay.
 
Cám ơn
 
 
 
HY
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.07.2007 21:16:23 bởi HongYen >

Ngọc Trân
  • Số bài : 114
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 23.12.2004
TÔI HỌC TIẾNG VIỆT - 12.07.2007 15:35:37




Nguyễn Hưng Quốc


Năm 1977, ở Mỹ mới được hai năm, nhà thơ Cao Tần, trong bài “Chốn tạm dung”, đã lo: “Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo”. Tôi xa Việt Nam đã gần 20 năm, gấp mười thời gian của ông lúc ấy, có lo kể cũng phải. Bởi vậy, để ngăn chận sự “tàn héo” và rơi rụng của tiếng Việt, lâu lâu tôi lại lẩm nhẩm, một mình, ôn lại số lượng từ vựng đã biết. Mỗi lần tập trung vào một đề tài khác nhau. Mới đây nhất, đề tài tôi chọn, một cách khá tình cờ, là bảng từ vựng liên quan đến các bộ phận trên cơ thể. Đầu... tóc... ót... gáy... trán... màng tang... lông mày... mắt... Đến đó, bỗng dưng tôi khựng lại. Tôi đâm hoang mang không biết khoảng giữa hai con mắt, ngay phía trên sống mũi, có tên gọi là gì? Hai chữ "nhân trung" thoáng qua đầu nhưng ngay tức khắc tôi biết là không phải: "nhân trung" nằm dưới mũi, ngay chính giữa môi trên. Loay hoay mãi vẫn không nhớ ra. Bí. Từ vị trí ấy, tôi nhìn nhích ra hai bên, ngờ ngợ thấy cách gọi lông mày và lông mi quen thuộc hình như có vấn đề gì đó không ổn. Ai cũng biết lông mày nằm trên, còn lông mi thì nằm dưới, ngay ở mí mắt trên. Chúng khác nhau. Nhưng nguyên thuỷ, "mi" trong trong chữ Hán chỉ có nghĩa là "mày" trong tiếng Việt: "tu mi" có nghĩa là râu mày. Về phương diện ngữ nghĩa, "mi" và "mày" chỉ là một, tuy nhiên, trên thực tế, lông mi lại đồng nghĩa với lông nheo chứ không phải với lông mày. Lạ.

Nằm giữa con mắt, ngay chính giữa lòng đen là con ngươi. "Ngươi" là gì? Là người. Con ngươi thật ra là con người. Ý nghĩa ấy bây giờ vẫn còn thấy rõ trong các từ: dể ngươi, hổ ngươi... và trong các cách nói: các ngươi hay nhà ngươi. Chợt nhớ trong chữ Hán, người ta gọi con ngươi là đồng tử, mà đồng tử lại còn có nghĩa là đứa bé.[1] Lại nhớ trong tiếng Anh, con ngươi là pupil mà pupil lại có nghĩa là học trò. Rồi trong tiếng Pháp: con ngươi là pupille mà pupille lại có nghĩa là đứa trẻ mồ côi hay là con nuôi. Nghe nói ở vô số ngôn ngữ khác trên thế giới cũng có hiện tượng tương tự. Danh từ chỉ con ngươi cũng đồng thời mang ý nghĩa khác là học trò, là đứa bé hay là con người nói chung. Tại sao có sự trùng hợp lạ lùng như thế?[2]
Sự trùng hợp không dừng lại ở đó. Nó đi xa hơn, trong quan niệm về thân thể. Trong rất nhiều ngôn ngữ, người ta xem thân thể như một cái bình chứa đựng những cảm xúc và tư tưởng. Tả một người phụ nữ đang yêu hay đang giận, trong tiếng Anh người ta thường nói: She is filled with love / anger. Đối với người Trung Hoa, thân thể con người được xem như một cái bình chứa khí. Giận thì là nộ khí; vui là hỉ khí. Bình thường khí nằm phục trong người. Ai làm chủ được khí thì nét mặt và dáng người lúc nào cũng tươi tỉnh, thanh nhàn, bình yên. Người không nén được khí để cơn giận bốc lên thì mặt đỏ gấc, tóc dựng đứng cả lên, còn mắt thì long lên sòng sọc; cả thân thể trông giống như một bình ga sắp nổ bùng.

Trong tiếng Việt, chúng ta cũng có thể nhận ra những quan niệm tương tự. Yêu, thương, hay hờn, giận, chúng ta đều để bụng, tức là, nói cách khác, xem cái bụng như một kho chứa. Khi sự giận dữ lên đến cực điểm, nó có thể làm cho cái kho chứa ấy căng lên, nứt ra, do đó, chúng ta hay có những cách nói như: “giận tràn hông”, “giận cành hông”, “giận ứ gan”, “giận tím mật”, “giận bể bụng”. Có khi cảm giác giận dữ trào lên trên, tạo ra những cách nói như: “tức lòi họng”, “tức hộc gạch”, “tức hộc máu”, “tức ói máu”, “tức trào máu” hay “tức trào máu họng”.

Nhưng hay nhất là chữ "tức mình". Các cuốn từ điển tiếng Việt đều giải thích chữ "tức" là ở trạng thái có vật chứa đựng bên trong bị dồn nén quá chặt đến mức gần như không thể chịu đựng nổi. Chẳng hạn, chúng ta hay nói: tức nước vỡ bờ; ăn no quá bụng tức anh ách; tức lòng súng, súng nổ / đau lòng gỗ, gỗ kêu vang... Chữ "tức mình" cũng tương tự. Mình là thân thể. Tức mình là cảm giác giận dữ, giống như một luồng khí bị nén chặt, làm cho cả cơ thể như căng ra, tưởng như có thể nổ bùng, tạo cảm giác rất khó chịu. Cảm giác khó chịu ấy cụ thể đến độ người ta có thể ví von, "tức như bị bò đá" hay "tức muốn lòi con ngươi".

Bên cạnh những điểm trùng hợp như thế, ngôn ngữ nào cũng có vô số những đặc thù riêng. Chỉ lẩm nhẩm những từ chỉ các bộ phận trên khuôn mặt, tôi đã nhận ra ngay một số điều thú vị:
Thứ nhất, như một số người đã đề cập,[3] số lượng từ bắt đầu bằng phụ âm M khá nhiều: mặt, mắt, mày, mi, mí, mũi, miệng, mồm, môi, mép, má, màng (tang)... Hình như trên khuôn mặt, trong các bộ phận chính và nổi bên ngoài, chỉ có chữ trán, cằm và râu là không bắt đầu bằng phụ âm M. Tại sao có hiện tượng lạ lùng như thế? Nó có quan hệ gì đến hiện tượng hầu hết các từ chỉ mẹ đều bắt đầu bằng phụ âm M: mẹ, má, me, mợ, mẫu, mère, maman, mother, mom, momma, mommy, mum, mummy, v.v...? Có lẽ có. Lý do được nhiều người nêu ra: Trong các phụ âm, phụ âm M là dễ nói nhất. Chỉ cần mở miệng khi luồng hơi từ trong cổ bật ra là chúng ta có ngay phụ âm M. Nó khác với việc phát âm các phụ âm khác, như B, C (K), D, Đ, G, K, KH, L, N, NG..., những phụ âm đòi hỏi chúng ta phải dùng môi hoặc răng hoặc lưỡi để chận luồng hơi lại, đâu đó. Chính vì dễ phát âm như thế cho nên loài người đã có khuynh hướng gọi ngay cái người sinh đẻ ra mình, chăm sóc và âu yếm mình bằng một chữ bắt đầu bằng M. Và, tôi đoán, chính người mẹ ấy, khi dạy chúng ta nói năng, cũng đã dạy ta cách gọi tên những từ ngữ dễ nhất và những sự vật gần gũi và quen thuộc nhất. Chúng ta hãy nhớ lại xem, thuở còn nhỏ, những bài học đầu tiên về ngôn ngữ của chúng ta là gì? Hầu như ở mọi người, những bài học ấy khá giống nhau. Đầu tiên là mẹ hay là ba. Sau đó là các bộ phận trên khuôn mặt. Mẹ sẽ chỉ cho ta con mắt và dạy: mắt; chỉ lỗ mũi và dạy: mũi. Cứ thế, chúng ta mở rộng dần kho từ vựng của mình bắt đầu từ những từ chỉ các bộ phận trên khuôn mặt. Có lẽ các bà mẹ Việt Nam, bằng trực giác nhạy bén của mình, đã khám phá ra sự dễ dàng trong việc phát âm của phụ âm M, do đó, ngay từ thuở xa xưa, đã bắt đầu các tên gọi chỉ các bộ phận trên khuôn mặt bằng cái phụ âm dễ nhất đó. Nhờ thế, ngày nay chúng ta có những mặt, những mắt, mày, mi, mí, mũi, miệng, mồm, mép, môi, má và màng tang. Tất cả đều bắt đầu bằng phụ âm M. Có lẽ thế. Có lẽ: đây chỉ là một giả thuyết mà thôi.

Thứ hai, chúng ta cũng cần lưu ý là số lượng động từ liên quan đến con mắt khá nhiều: nhìn, ngó, ngắm, nhắm, trông, thấy, rình, xem, coi. Chưa hết. Còn nom, dòm, nhòm. Rồi lườm, gườm. Cũng chưa hết. Với con mắt, chúng ta còn trợn, còn trừng, còn háy, còn nháy, còn nheo, còn nguýt, còn quắc, còn liếc xéo, liếc dọc, liếc ngang, rồi đưa mắt, ghé mắt, híp mắt, quáng mắt, hoa mắt, v.v... Chúng ta thử so sánh với những động từ liên quan đến lỗ tai, lỗ mũi hay ngay cả cái miệng, chúng ta có thể thấy ngay sự giàu có lạ lùng trong các động tác liên quan đến con mắt. Ngẫu nhiên chăng? Chắc không phải. Không chừng nó lại liên quan đến nền văn hoá "liếc mắt" của chúng ta. Năm 1979, sau gần bốn năm định cư tại Mỹ, quan sát cách thức giao thiệp giữa phái nam và phái nữ của Mỹ, nhà văn Võ Phiến chợt nhận ra tầm quan trọng đặc biệt của đôi mắt trong đời sống tình cảm của người Việt: phương thức bộc lộ tình cảm chủ yếu của chúng ta là qua đôi mắt. Trong thơ văn, hình ảnh đôi mắt xuất hiện khá nhiều. Gã thanh niên mới lớn trong thơ Huy Cận ngày xưa bắt đầu bước vào thế giới tình yêu bằng... đôi mắt: "Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư". Mấy chục năm sau, đứa học trò trong thơ Nguyên Sa cũng không khác mấy: "Chân díu bước và mắt nhìn vương vướng / Nàng đến gần, tôi chỉ dám quay đi". Thuộc thế hệ cố, tổ của gã thanh niên và đứa học trò ấy, Thuý Kiều và Kim Trọng cũng từng "đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu"; Thuý Kiều và Từ Hải cũng từng "hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa"; hai người tình già trong thơ Phan Khôi cũng từng "liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi." Những cái liếc mắt như thế rõ ràng đã có một lịch sử lâu đời trong nền văn học và văn hoá của chúng ta. Võ Phiến đẩy nhận xét của ông đi sâu hơn, cho liếc là "vuốt và hôn bằng thị giác." Nó không phải là biểu thị của tình yêu mà là chính tình yêu.[4]

Vượt ra ngoài quan hệ nam nữ, chúng ta cũng có thể xem đôi mắt và cả nụ cười nữa, cái nụ cười từng bị Nguyễn Văn Vĩnh lên án gắt gao trong mấy thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, là những thứ ngôn ngữ quen thuộc của người Việt Nam. Có thể nói trong văn hoá Việt Nam, nghệ thuật ngôn ngữ đóng một vai trò chính yếu; nhưng trong nghệ thuật ngôn ngữ của người Việt Nam, phần quan trọng nhất lại nằm ở ngoài... lời, trong đó, một phần đáng kể thuộc về thứ chúng ta gọi là ngôn ngữ thân thể (body language). Chúng ta thường dùng nụ cười hay cái liếc mắt để thay cho một lời chào, một tiếng cám ơn hay một câu xin lỗi. Từ cách nhìn của người Tây phương, chúng ta có thể xem cách ứng xử như thế là bất lịch sự. Tuy nhiên, dù sao, đó cũng là một nét văn hoá. Gốc rễ sâu xa không chừng là từ kinh nghiệm bị lệ thuộc cả hàng ngàn năm của người Việt: để giảm thiểu nguy cơ bị tai hoạ, người ta phải giảm thiểu tối đa việc sử dụng ngôn ngữ: "lời nói đọi máu".

Thứ ba, liên quan đến các từ chỉ các bộ phận trên cơ thể, từ lâu, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận ra đặc điểm này: nhìn chung, các bộ phận bên ngoài phần lớn đều là từ thuần Việt:[5] tóc, tai, trán, miệng, cằm, vai, ngực, ức, bụng, v.v...; trong khi đó, các bộ phận bên trong lại thường là các từ Hán Việt: tuỷ, não, tâm, can, mật, tiểu trường, đại trường, v.v...
Nói chung là thế. Tuy nhiên, ở từng vùng cụ thể, sự phân bố cũng như tỉ lệ và chức năng giữa hai lớp từ vựng ấy khác hẳn nhau.

Ví dụ ở vùng mặt, không khó để nhận ra, thứ nhất, số lượng từ Hán Việt tương đối ít; thứ hai, phần lớn gắn liền với khoa tướng số: thái dương, lưỡng quyền và nhân trung. Tả khuôn mặt một cô gái đang yêu, chúng ta dùng chữ gò má: "gò má đỏ au..."; nhưng khi muốn nhấn mạnh đến tính khí hay số mệnh của cô gái ấy, chúng ta lại dùng chữ "lưỡng quyền", chủ yếu tập trung vào một đặc điểm chính: cao hay thấp.
Ở tứ chi cũng thế. Từ Hán Việt chỉ xuất hiện với khoa tướng số: gò Mộc Tinh, gò Thổ Tinh, gò Thái Dương… rồi Tâm đạo, Sinh đạo, Trí đạo, v.v… Còn lại, toàn bộ đều là các từ thuần Việt. Này nhé: cánh tay, bắp tay, khuỷu tay, cùi chỏ, cổ tay, cườm tay, nắm tay, bàn tay, mu bàn tay, lòng bàn tay, chỉ tay, ngón tay, đốt ngón tay, lóng tay, móng tay, phao tay, dấu tay, v.v… Dưới chân thì: cẳng, giò, đùi, vế, đầu gối, ống quyển, bụng chân, cổ chân, bàn chân, gót chân, lòng bàn chân, gan bàn chân, ngón chân, v.v… Không có từ Hán Việt nào cả.

Ở phần ngực, ngược lại, hầu hết các từ bên trong lại là từ Hán Việt: tim (tâm), phổi (phế), mạch, động mạch, tĩnh mạch, tâm thất, tâm bì, v.v... Tất cả các thuật ngữ gốc Hán Việt này đều gắn liền với khoa giải phẫu học. Điều này chứng tỏ có lẽ khi tiếp xúc với người Trung Hoa, ngành giải phẫu học và cùng với nó, trình độ khoa học của người Việt Nam tương đối thấp. Vì thấp hơn nên chúng ta chưa có tên gọi các bộ phận bên trong lồng ngực của con người. Và vì chưa có cho nên chúng ta mới phải vay mượn từ chữ Hán. Điều này không những đúng đối với phần ngực mà còn đúng cả với hầu hết các bộ phận khác trong cơ thể. Sọ là từ thuần Việt nhưng cái phía bên trong sọ là tuỷ thì lại là từ Hán Việt. Da là từ thuần Việt nhưng gân, do chữ cân mà ra, lại là từ Hán Việt. Thịt là từ thuần Việt nhưng bộ phận nhỏ của thịt là cơ, cơ bắp thì lại là từ Hán Việt.

Ở vùng hạ bộ hay âm bộ, tức bộ phận sinh dục, ngược lại, vừa có tên gọi bằng chữ thuần Việt vừa có tên gọi bằng chữ Hán Việt.[6] Trong phần lớn các trường hợp, đặc biệt hai từ chính chỉ bộ phận sinh dục của nam và nữ, người ta có khuynh hướng dùng từ Hán Việt: những chữ như dương vật, ngọc hành, và âm hộ đều có âm hưởng thanh tao hơn chữ cu, cặc, buồi, lồn,[7] đồ[8] và đách.[9] Nguyên tắc lựa chọn ở đây chủ yếu là nguyên tắc “đạo đức” hoặc ít nhất, lịch sự: tránh cảm giác sỗ sàng, thô tục, thậm chí, thô bỉ. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ giới hạn trong vài từ chính mà thôi. Trên thực tế, chữ “cửa mình” hay “dạ con” không hề gợi cảm giác tục tĩu hơn chữ “âm đạo”[10] hay “tử cung”. Trong cả văn viết lẫn văn nói, trừ một số trường hợp thật tế nhị, người ta thường dùng “hòn dái” thay cho “tinh hoàn” hay “âm hành”, “đì” hay “bìu dái” thay cho “âm nang” hay “hạ nang”, “hột le”, “mồng đóc” hay “ghe”[11] thay cho “âm hạch” hay “âm vật”, v.v... Hơn nữa, hình như người Việt Nam thường ở trong trạng thái phân vân: họ vừa muốn tránh cảm giác thô tục trong từ thuần Việt lại vừa muốn tránh cảm giác quá nghiêm túc trong từ Hán Việt bằng cách sử dụng các tiếng lóng: bòi, chim, bướm, hĩm, húm, lá đa, cái “tỉnh tình tinh”,[12] của quý, đồ nghề, v.v... Có điều, những sự phân vân như thế thường chỉ xuất hiện trong giới có học. Riêng giới lao động thì thường sử dụng các từ thuần Việt một cách thoải mái hơn, do đó, chúng ta có các từ ghép để chỉ một số vật thể hoặc vật dụng quen thuộc như: cặc bần (rễ cây bần, thường đâm ngược lên khỏi mặt đất), cặc khỉ (cốm thèo lèo làm bằng bột chiên trong dầu), cặc vịt (vật dùng khui rượu, “corkscrew”), cặc bò (thứ roi làm bằng dương vật bò phơi khô), lồn mèo (cái đầu hồi, nơi hai mái nhà giáp nhau), lồn trâu (cổ áo bà ba rộng mà thon), lồn xa (miếng gỗ xẻ một đầu dùng làm nơi gác con quay kéo vải), lồn lá tre (thứ lồn xa hẹp bề ngang), lồn lá vông (thứ lồn xa hình bầu), v.v...[13]

Nếu ở vùng ngực, hầu hết các bộ phận bên trong đều là từ Hán Việt và nếu ở vùng hạ bộ và âm bộ, hầu hết các bộ phận đều có tên gọi vừa bằng chữ thuần Việt vừa bằng chữ Hán Việt thì trong vùng bụng, số lượng các bộ phận có tên gọi thuần Việt và các bộ phận có tên gọi Hán Việt xem như ngang bằng nhau. Thuần Việt thì có ruột, cật, bầu dục, ruột già, ruột non, lá lách, lá mía, bong bóng, dạ con, bọng đái, v.v... Hán Việt thì có thận, mật, gan, trường (hay tràng), tì, tuỵ, bàng quang, v.v... Giữa hai lớp từ thuần Việt và từ Hán Việt trong vùng bụng, lớp từ thuần Việt rõ ràng là có mức độ phổ biến cao hơn hẳn. Trừ các từ mật và gan không có từ tiếng Việt tương đương để thay thế, hầu hết các từ khác đều có từ tiếng Việt tương đương và trong những trường hợp ấy, từ thuần Việt bao giờ cũng thông dụng hơn.[14] Chẳng hạn giữa chữ ruột và chữ trường. Trong ngôn ngữ hằng ngày, người Việt vẫn thường dùng và thích dùng chữ ruột hơn là chữ trường. Ngay chữ đoạn trường, vốn gắn liền với Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, gần đây cũng có khuynh hướng bị chữ đứt ruột thay thế. Khi nói một nỗi đau đứt ruột hay một tiếng kêu đứt ruột, chúng ta có cảm giác là đỡ sáo cũ hơn là nói một nỗi đau đoạn trường hoặc một tiếng kêu đoạn trường. Chữ trường, khi đứng một mình, chỉ xuất hiện trong các món ăn, chủ yếu là món nhậu, như dồi trường, chẳng hạn. Riêng chữ “thận”, gốc chữ Hán, chỉ phổ biến khi nói về thân thể con người từ khía cạnh y học; vượt ra ngoài khía cạnh y học, người ta hay dùng chữ “quả cật” thuần Việt: “no cơm ấm cật” hay “chung lưng đấu cật”. Khi nói về loài vật, chữ “thận” ấy hầu như hoàn toàn bị lép vế trước chữ “quả cật” và một chữ thuần Việt khác: “quả bầu dục”. Nếu ưu thế áp đảo của lớp từ Hán Việt ở vùng ngực tiết lộ về trình độ giải phẫu học và khoa học của người Việt và nếu việc thịnh hành của lớp từ Hán Việt ở vùng hạ bộ cho thấy ý thức luân lý của người Việt thì mức độ phổ biến của lớp từ thuần Việt ở vùng bụng lại mang nhiều ý nghĩa về văn hoá. Nói một cách tóm tắt, trong văn hoá Việt Nam, vùng bụng có một tầm quan trọng rất đặc biệt.

Tầm quan trọng ấy có thể được nhìn thấy rõ nhất ở cách dùng các ẩn dụ. Nếu trong tiếng Anh hay trong chữ Hán, chữ trái tim, chữ heart hay chữ tâm được mở rộng thành một cái gì chính, nằm giữa, như chữ heartland là khu vực chính, nằm giữa và quan trọng nhất trong một vùng nào đó, được dịch ra chữ Hán là khu trung tâm, thì trong tiếng Việt, để biểu thị một ý niệm tương tự, người ta lại dùng chữ lỗ rốn, một bộ phận của bụng. Bởi vậy, chúng ta hay có những cách nói như cái rốn của thành phố, cái rốn của một nước, và rộng hơn nữa, cái rốn của vũ trụ.

Cũng liên quan đến khía cạnh ẩn dụ, chúng ta biết trong phần lớn các ngôn ngữ khác, từ tiếng Hoa đến tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, v.v..., người ta đều dùng hình ảnh trái tim để làm biểu tượng cho tâm hồn, cho tư tưởng và cho tình cảm. Tình yêu ở trong trái tim; niềm vui và nỗi buồn cũng ở cả trong trái tim. Sự chung thuỷ người ta để trong tim, tất cả những bí mật cũng đều được chôn kín trong trái tim. Trong tiếng Việt thì ngược lại. Với chúng ta, trung tâm của tư tưởng và tình cảm là phần bụng, bao gồm bụng và bộ phận chính trong bụng là lòng. Lòng, nguyên là từ gốc Mường, có nghĩa là ruột. Dạ cũng là ruột. Do đó, bốn chữ bụng, lòng, dạ và ruột xem như đồng nghĩa với nhau. Người khác nghĩ thầm trong đầu, chúng ta thì nghĩ thầm trong bụng. Trong các ngôn ngữ khác, một người thông minh là một kẻ có đầu óc nhạy bén, còn trong tiếng Việt, đó là một kẻ sáng dạ. Tình yêu cũng như vui buồn hờn giận người khác giấu trong trái tim, còn chúng ta thì để bụng. Yêu nhau, chúng ta nói là "phải lòng nhau". Giận nhau, chúng ta nói là "mất lòng nhau". Một người tốt, trong tiếng Anh là kẻ có trái tim tốt, a kindhearted person, trong tiếng Việt, là kẻ tốt bụng. Nhớ cái gì, đối với người nói tiếng Anh, là ấn sâu cái đó vào trong tim, là learn by heart, đối với người Trung Hoa, là làm cho nhập tâm, nhập vào trái tim, còn đối với người Việt Nam, là nhồi vào trong bụng, là nhớ thuộc lòng. Chính vì thế, khi đi thi, để kiểm tra lại kiến thức của mình, Tú Xương đã không sờ vào trong đầu hay sờ vào trái tim mà là sờ vào bụng: “Tiễn chân cô mất ba đồng lẻ / Sờ bụng thầy không một chữ gì.” Cuối cùng, thi hỏng; thay vì than như người nói tiếng Anh là “tan nát cả trái tim”, là heart-broken, Tú Xương lại thấy đau trong bụng: “Bụng buồn còn biết nói năng chi / Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.”

Ưu thế của chữ bụng và chữ lòng so với chữ tâm hay trái tim thể hiện rõ nhất có lẽ trong cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du. Một chủ đề quan trọng của cuốn truyện thơ lỗi lạc ấy là nhằm đề cao cái tâm, đề cao tấm lòng của con người. Thế nhưng trong 3254 câu thơ của Truyện Kiều, chữ tâm lại xuất hiện một cách hoạ hoằn. Chỉ có hai lần, trong hai câu thơ khác nhau. Một lần là "chữ tâm càng dập càng nồng" và một lần khác là "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Là hết. Trong khi đó thì Nguyễn Du dùng chữ "dạ" đến 6 lần, từ "Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ" đến "Mấy lời ký chú đinh ninh / Ghi lòng để dạ, cất mình ra đi." Ngay câu nói phân bua về việc ghen tuông của Hoạn Thư, "Rằng tôi chút phận đàn bà" cũng có một số bản ghi là "Rằng tôi chút dạ đàn bà". Ngoài chữ "dạ", trong Truyện Kiều còn có 12 chữ "ruột" được dùng để chỉ tính tình và cảm xúc, chẳng hạn, "Tai nghe ruột rối bời bời" hay "Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan". Nhưng trong Truyện Kiều, xuất hiện nhiều nhất là chữ "lòng". Nó xuất hiện đến 165 lần khác nhau. Nào là "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng", nào là "lòng đâu sẵn mối thương tâm", nào là "Đã lòng hiển hiện cho xem / Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời", v.v...[15]

Số lượng các từ chỉ các bộ phận trên cơ thể đã nhiều, người Việt Nam lại ghép các từ ấy lại để thành các từ mới: đã có bụng, ruột, lòng, dạ và gan, chúng ta lại có các từ ghép: bụng dạ, lòng dạ, ruột gan; đã có mặt, mũi và mày, chúng ta lại có các từ ghép: mặt mày và mặt mũi; đã có tay và chân, chúng ta lại có chân tay và tay chân, v.v... Lượng từ vựng chỉ các bộ phận trên cơ thể, do đó, tăng vọt. Và cấu trúc ý nghĩa của chúng cũng khá đa dạng. Có khi từ ghép được hình thành chỉ cốt cho thuận miệng. Nói “tóc tai”, nhưng thật ra, chỉ có “tóc” là quan trọng; còn “tai” chỉ là từ đệm. Có khi chúng hình thành như một sự tổng hợp: râu ria là râu và ria nói chung. Nhưng trong phần lớn các trường hợp, ý nghĩa của các từ ghép đều vượt ra ngoài và vượt lên trên ý nghĩa của hai từ tố gốc. “Chân tay” là chân và tay nói chung, nhưng “chân tay” và “tay chân” thì không phải chỉ có tay và chân mà còn có... người: những kẻ thuộc hạ để sai khiến. Cũng vậy, “tai mắt” là thuộc hạ, nhưng chỉ giới hạn trong công tác rình rập, theo dõi, góp nhặt tin tức. “Vai vế” thành ra địa vị; “máu mặt” thành ra thế lực: Có thể có những người tuy không có “vai vế” gì trong chính quyền nhưng lại là người có “máu mặt” trong địa phương. Ngoài mối quan hệ gần xa với nghĩa gốc (bụng/ruột/gan), cả ba chữ bụng dạ, lòng dạ và ruột gan đều có những hướng phát triển riêng: trong khi chữ lòng dạ thiên về tính tình, thường mang chút màu sắc tiêu cực (“lòng dạ con người” hay “lòng dạ đàn bà”); chữ bụng dạ thiên về nhận thức (“Bận làm việc túi bụi, còn bụng dạ nào mà nói chuyện thơ văn!”); còn ruột gan thì lại thiên hẳn về khía cạnh tình cảm. Tâm tình tương đắc với nhau, người ta không phơi bày lòng dạ hay bụng dạ mà là phơi bày ruột gan cho nhau xem. Nói đến “ruột gan” là nói đến những gì sâu kín nhất, tha thiết nhất, chân thành nhất.

Mặt mày và mặt mũi đều có nghĩa là diện mạo; nhưng khác với “mặt mày”, chữ “mặt mũi” còn có nghĩa là thể diện, đặc biệt thường được dùng khi thể diện đã bị sứt mẻ khá nhiều và người ta không muốn nó bị tiêu huỷ hoàn toàn: “Sau khi bị án tù bị tội ăn trộm gà, ông ấy không còn mặt mũi nào mà về làng nữa.”
Cũng có yếu tố “máu” nhưng máu thịt lại khác với máu mủ hay ruột thịt. “Máu thịt” có ý nghĩa vừa hẹp hơn lại vừa rộng hơn các chữ kia. Hẹp hơn bởi vì nếu chỉ quan hệ thân tộc thì “máu mủ” và “ruột thịt” có thể chỉ cả quan hệ hàng ngang, giữa anh em, và rộng hơn, giữa họ hàng với nhau. Còn “máu thịt” thì chỉ giới hạn trong phạm vi hàng dọc, chỉ quan hệ giữa cha mẹ và con cái, với ý nghĩa xem con cái như là chính máu thịt của cha mẹ. Chữ “máu thịt” không mở rộng tới quan hệ họ hàng. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, chữ “máu thịt” lại có ý nghĩa rất rộng, không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa người với người. Quan hệ máu thịt là thứ quan hệ gắn bó đến mức cực kỳ sâu sắc, không dễ gì phai nhạt được. Chúng ta có thể nói đến quan hệ máu thịt giữa mình với quê hương, với tiếng mẹ đẻ, hay với các tác phẩm do mình nắn nót viết ra. Cả ba chữ miệng lưỡi, mồm miệng và mồm mép đều chỉ khả năng ăn nói, nhưng có lẽ chỉ có chữ miệng lưỡi là có ý nghĩa hoàn toàn tích cực: người miệng lưỡi là người vừa có tài diễn đạt vừa có khiếu biện luận. Ðó là kẻ không dễ gì bị lấn áp. Trong khi đó, hai chữ mồm miệng hay mồm mép hầu như chỉ tập trung vào khả năng ăn nói chứ không liên hệ gì đến khả năng biện luận. Người mồm miệng hay mồm mép có thể chỉ là người đa ngôn, người lém lỉnh chứ chưa chắc đã là người lý sự, thông minh hay uyên bác. Bởi vậy, chúng thường gắn liền với ý chê bai.

Gốc rễ của phần lớn các khác biệt giữa các chữ ngỡ như đồng nghĩa vừa nêu chủ yếu nằm ngay trong sắc thái ngữ nghĩa của các từ tố gốc. Ðã đành mồm cũng là miệng, nhưng người Việt Nam nào lại chả biết sắc thái biểu cảm của chữ mồm thường nghiêng về khía cạnh tiêu cực. Khen người yêu, người ta chỉ có thể nói: “Miệng em đẹp” chứ không ai lại nói: “Mồm em đẹp”. Không chừng vì “mồm” gần với “mõm” nên âm hao có phần kém thanh tao. Chửi nhau, để cho nặng lời, người ta không dùng chữ miệng mà dùng chữ mồm: cách nói “Vả vào mồm” bao giờ cũng dữ dằn hơn cách nói “Vả vào miệng”. Muốn cho dữ dằn hơn nữa, người ta thế chữ “mồm” bằng chữ “mõm” hay chữ “mỏ”: “Ðánh cho dập mõm”, “đánh cho phù mỏ” hay ‘đánh cho bể mồm...” là những cách nói rất thường nghe trong các cuộc đấu khẩu ở Việt Nam.
Như vậy, trước và trong quá trình chuyển nghĩa của các từ ghép, từng từ tố chỉ các bộ phận trên cơ thể cũng được chuyển nghĩa. Nhờ sự chuyển nghĩa này, các từ chỉ các bộ phận trên cơ thể trở thành những từ có sức “sinh sản” rất cao: từ thân thể con người, chúng được dùng để chỉ nhiều sự vật, hiện tượng hay đặc điểm khác nhau trong xã hội. Trong sự chuyển nghĩa ấy, thân thể con người tự nhiên trở thành trung tâm, thành trục quy chiếu để từ đó người ta định danh những sự vật khác hay những mối quan hệ giữa người và người, giữa người và vật. Mũi con người có hình thù khá nhọn và là phần nhô ra phía trước ư? Vậy thì, những gì có đầu nhọn và nhô ra sẽ được gọi là “mũi”, từ đó, chúng ta không những có mũi dao, mũi kéo... mà còn có mũi thuyền, thậm chí, mũi Cà Mau và mũi tiến quân, v.v... Ðầu con người có hình khối cầu, ở trên cùng, có chức năng suy nghĩ và điều khiển toàn thân thể ư? Vậy thì, chúng ta có, từ sự tương đồng về hình dạng: đầu gối, đầu đạn, đầu đập..; từ sự tương đồng về vị trí: đầu núi, đầu hồi, đầu xứ, đầu danh sách...; từ sự tương đồng về chức năng: đầu mục, đầu nậu, đầu sỏ, đầu têu, đầu trò, rồi đứng đầu, cầm đầu, dẫn đầu, đương đầu, đối đầu, v.v... Cổ cũng thế. Nó thon, nhỏ, nối liền đầu và thân ư? Vậy thì, chúng ta có: cổ chai, cổ lọ, cổ chày.... Nó có chức năng giữ cái đầu mà cái đầu được xem là biểu tượng của trí tuệ ư? Vậy thì nó sẽ trở thành biểu tượng của ý chí và quyền lực, từ đó, chúng ta có: cứng cổ, cưỡi cổ, lôi cổ, siết cổ hay một cổ hai tròng, v.v.. Tay người có chức năng nắm giữ ư? Vậy thì tay trở thành từ chỉ sở hữu: tay trắng và tay không. Tay có chức năng hành động ư? Vậy thì nó trở thành từ chỉ sự thực hiện: ra tay, xuống tay, khéo tay, hoa tay, mát tay, non tay, nặng tay, nhẹ tay, nhúng tay, tay nghề, tay ngang... Tay là bộ phận phục thuộc ư? Vậy thì chúng ta có: tay chân, tay sai, tay trong hay tay ngoài, v.v...

Ở chữ “mặt”, chúng ta cũng có thể nhận thấy quá trình chuyển nghĩa ở đó con người là một cái trục như thế. Trên thân thể con người, mặt là bộ phận phía trước và bên ngoài, từ đó, nảy sinh ra các chữ: mặt bàn, mặt nước, mặt đất, rồi xa hơn nữa, mặt trăng, mặt trời. Khái niệm “phía trước” và “bên ngoài” gắn liền với không gian, từ đó, dẫn đến khái niệm mặt trước, mặt sau, cuối cùng, được trừu tượng hoá thành một khía cạnh hay một phương diện của vấn đề: mặt tích cực và mặt tiêu cực; mặt tình cảm và mặt pháp lý, v.v... Nhưng “mặt” còn một hướng chuyển nghĩa khác, quan trọng hơn, chỉ tình cảm, tư tưởng, thái độ cũng như danh dự của con người, từ đó, chúng ta có: đẹp mặt và xấu mặt, ê mặt và nể mặt, trở mặt và chừa mặt, nóng mặt và mát mặt, v.v...

Rất gần với chữ mặt là chữ mắt. Chữ mặt và chữ mắt có nhiều kết hợp giống nhau nhưng ý nghĩa thì khác hẳn nhau. “Ra mắt” khác với “ra mặt”: cả hai đều hàm ý một sự xuất hiện hay bộc lộ công khai, nhưng trong “ra mặt” có cái gì liên quan đến thái độ: khinh ra mặt, ghét ra mặt, chống đối ra mặt, v.v... “Ðẹp mắt” khác với “đẹp mặt”: trong khi “đẹp mắt” giới hạn trong phạm trù thẩm mỹ; “đẹp mặt” gắn liền với phạm trù danh dự. “Nóng mặt” là cảm giác bất bình khi cá nhân bị xúc phạm, trong khi “nóng mắt” là cảm giác bất bình khi chứng kiến một điều gì không vừa ý, dù điều đó không dính líu gì đến quyền lợi cá nhân mình cả.

Ở trên, chúng ta bắt gặp một số từ ghép có cấu trúc ngược, theo kiểu chữ Hán, ở đó từ tố mang ý nghĩa chính đứng sau: “đẹp mắt” thay vì “mắt đẹp”; “nóng mặt” thay vì “mặt nóng”, v.v... Có điều, như nhiều nhà ngôn ngữ học đã nhắc: trong cấu trúc thuận, danh từ có ý nghĩa cụ thể; trong cấu trúc ngược, danh từ trở thành trừu tượng, chỉ một phẩm chất hay một đặc điểm thay vì một vật nào đó. “Mát tay” khác với “tay mát”. “Tay mát” bao giờ cũng có nghĩa cụ thể, chỉ một bàn tay nào đó mát dịu; còn “mát tay” lại chỉ những thầy thuốc giỏi, chữa bệnh mau lành. Tương tự như vậy, chúng ta có các cặp: mặt đẹp / đẹp mặt; bụng xấu / xấu bụng; bụng tốt / tốt bụng; miệng thối / thối miệng; đầu to / to đầu; gan to / to gan; v.v...
Và v.v...

Nhưng... mà thôi. Chuyện ngôn ngữ học biết bao giờ cho xong. Cứ thong thả, mai mốt lại tiếp.



Ghi Chú:
 
 
[1]Hai chữ “đồng tử” này có thể được viết giống nhau; tuy nhiên khi dùng theo nghĩa con ngươi, chữ “đồng” thường được thêm bộ “mục” phía trước.
[2]Các nhà ngôn ngữ học thường giải thích sở dĩ người ta gọi “con ngươi” như thế là căn cứ vào cái hình ảnh được phản ánh trong mắt. Tuy nhiên, dù vậy, cũng không ai giải thích được là: tại sao ở rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, người ta đều đồng loạt dùng cái hình ảnh được phản ánh trong mắt để đặt tên cho “con ngươi”?
[3]Ví dụ, trong cuốn Tiếng Việt tuyệt vời: âm M trong tiếng Việt của Nguyễn Cung Thông do tác giả tự xuất bản tại Melbourne vào năm 1998.
[4]Võ Phiến (1979), Lại Thư Gửi Bạn, California: Người Việt, tr. 37-44.
[5]Không có ý định đi sâu vào khía cạnh từ nguyên học, trong bài viết này, tôi tạm xem là từ thuần Việt cả những từ gốc Nam Á.
[6]Hình như các từ “tinh dịch” hay “tinh trùng”... đều không có từ thuần Việt tương đương.
[7]Bài viết này bàn chuyện ngôn ngữ, do đó, tôi tự phép mình, như những người làm từ điển, viết thẳng một số chữ bị xem là tục, thay vì chỉ viết tắt chữ đầu, ví dụ: c., b. hay l. (Tôi đoán, không ít người, nhất là những người miền Nam, chưa chắc đã biết chữ “b.” là dạng viết tắt của chữ gì; chưa chắc đã nhớ câu ca dao: “Chồng người đi ngược về xuôi / Chồng em ngồi bếp để buồi ăn tro”.)
[8]“Ðồ” nghĩa là âm hộ, sau này ít dùng. Câu đối: “Miệng nhà quan có gan có thép / Ðồ kẻ khó vừa nhọ vừa thâm”. Tục ngữ: “Mẹ để đồ thì mát / Con để đồ vừa phát vừa đánh”.
[9]“Ðách” hay còn gọi là “đếch” vốn là từ chỉ âm hộ của phụ nữ, sau, biến nghĩa thành từ phủ định: “Ðếch sợ” hay “sợ cái đách".
[10]Thật ra, tương đương với chữ “cửa mình” là “âm hộ”; còn từ thuần Việt tương đương với từ “âm đạo” là gì, thú thực, tôi cũng không biết.
[11]Trong Từ Ðiển Từ và Ngữ Việt Nam (nxb Thành phố HCM, 2000), Nguyễn Lân giải thích: “Ghe có tên chữ là âm hạch”. Tôi hỏi một số bạn bè gốc miền Nam và miền Trung, không ai biết từ “ghe” này; ngược lại, từ “mồng đóc” lại không thấy xuất hiện trong các cuốn từ điển miền Bắc.
[12]Như trong câu ca dao “Người xinh cái bóng cũng xinh / Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn”.
[13]Các chữ này đều có trong Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ, nhưng phần lớn lại không có trong Từ Ðiển Tiếng Việt xuất bản ở Hà Nội trước cũng như sau năm 1975, như của Văn Tân, Hoàng Phê hay Nguyễn Lân.
[14]Dù chưa chắc đã chính xác hơn. Ví dụ, liên quan đến ruột, trong tiếng Việt chỉ có hai chữ chính: ruột non và ruột già (có thể kể thêm chữ ruột thừa, nếu muốn), trong khi trong từ Hán Việt, sự phân chia chi li hơn: tiểu trường, đại trường, trực tràng và tá tràng.
[15]Các con số thống kê này ấy từ cuốn Từ điển Truyện Kiều do Ðào Duy Anh biên soạn, Phan Ngọc hiệu đính (1987), Hà Nội: nhà xuất bản Khoa học Xã hội.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2007 16:48:17 bởi Ngọc Trân >

Ngọc Trân
  • Số bài : 114
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 23.12.2004
Vui buồn với tiếng Việt. - 22.07.2007 16:50:34
Vui buồn với tiếng Việt.





Phạm Văn Thuận




Kính thưa các quý vị,chúng ta vẫn thường nghe nói: "tiếng Việt còn, nước Việt còn". Cũng bởi vì tiếng Việt rất quan trọng cho những bạn trẻ được sinh ra và lớn lên ở hải ngọai, nên chúng tôi đã cương quyết dành nhiều thời gian để mở những lớp học tiếng Việt cho các con em của các quý vị. Sau những ngày tháng học tập, hôm nay chúng tôi hân hạnh làm lễ mãn khóa cho tất cả những em đã theo học lớp tiếng Việt ở đây. Nhân dịp này, tôi xin hân hạnh giới thiệu đến các quý vị một em thật xuất sắc đã đạt thành tích thật cao trong cách hành văn và phát âm tiếng Việt. Em sẽ cho chúng ta biết những cái vui, nỗi buồn trong việc tiếp nhận một ngôn ngữ được xem là tiếng mẹ đẻ của em.

Thế là hơn hai trăm con người với tiếng vỗ tay thật lớn và cùng đứng lên đón chào người vừa được giới thiệu là xuất sắc.

Bước lên sân khấu là một chàng trai trẻ, cao lớn ăn mặc rất đúng mốt. Bước đến giữa sân khấu chàng trai cúi mình xuống chào mọi người và nói:

-Thanh Hùng xin kính chào tất cả các quý vị.

Lại một tràng vỗ tay thật to nữa vang lên.
Thanh Hùng bước đến đứng cạnh người điều khiển chương trình và người này nói:

- Kính thưa các quý vị, em Thanh Hùng, ngoài khiếu vẽ ra em còn có khiếu về ngôn ngữ. Em Thanh Hùng tuy là người Việt Nam nhưng từ nhỏ em sống với gia đình người Hoà Lan nên em không biết một chữ nào tiếng Việt. Gần đây khi biết mình là người Việt Nam, em đã theo học lớp tiếng Việt tại đây. Em chỉ học có hai tháng tiếng Việt mà khi tiếp xúc với em, chúng ta khó nhận ra đó là một người chỉ có hai tháng học tập mà nói được lưu loát như vậy. Xin em hãy kể cho mọi người cùng nghe là nguyên nhân nào đã làm em quyết định đi tới học tiếng Việt tại đây.

-Kính thưa các quý vị, thưa anh, vài năm trước đây, trong giờ ra chơi nghỉ giải lao, một người bạn cùng trường đã chạy đến bên em và lấy hai ngón tay trỏ để vào đuôi mắt rồi kéo ra thật dài để con mắt hí lại rồi nhìn em cười. Đây là một hành động biểu thị em là người Tàu. Tuy như các quý vị và anh đây thấy thì mắt em rất to chứ không hí như người bạn đó diễn tả. Em buồn lắm! không phải em buồn vì bị kỳ thị mà buồn vì chợt phát giác ra là ba má em đâu phải là người nuôi em bây giờ. Trong một lần cùng ba mẹ ngồi xem phim, trong phim có chiếu một cảnh người mẹ Việt Nam ẵm một đứa con khoảng đôi ba tuổi và vừa hôn nó vừa đùa giỡn với nó rất là vui. Nhìn cảnh đó thì em buồn và bỏ đi vào phòng riêng của em. Em chợt thấy ba mẹ em nhìn theo em mà không nói gì. Hai ngày sau, sau khi ăn cơm xong thì ba em nói: - Hôm nay chúng ta uống cafe ở phòng khách, ba mẹ có chuyện muốn nói với con. Tại phòng khách, ba em mở lời trước. Người nói: - Hai ngày nay con có thái độ không được vui, ba mẹ hiểu điều đó lắm. Ba mẹ nghĩ rằng thái độ đó của con phải xảy ra sớm hơn chứ không phải đợi đến ngày hôm nay. Bây giờ cũng là lúc con phải biết mọi sự thật thôi. Ngừng một lúc để nhắp một hớp cafe rồi ba em nói tiếp: - Như con đã biết nghề của ba là thuyền trưởng tàu vận chuyển hàng hóa đi đến khắp nơi trên thế giới. Chỉ khoảng hai năm nay ba mới xin đổi làm việc ở văn phòng để được gần con và mẹ con. Mười sáu năm trước đây, trong một chuyến chở hàng đến Singapore, vào một đêm kia khi ba đang ngủ thì người thuyền viên đánh thức ba dậy và cho biết là trên màn hình hải hành có xuất hiện một chiếc tàu nhỏ. Chiếc tàu này cứ chạy lòng vòng quanh vùng đầy cá mập, nếu ba không cứu kịp thì không bao lâu chiếc tàu nhỏ đó sẽ bị chìm và những người trên tàu đó sẽ làm mồi cho cá mập. Ba thức dậy và đến nhìn vào màn hình hải hành thì thấy chiếc tàu nhỏ đó cách xa chiếc tàu của ba chỉ mười hải lý và nằm về hướng Tây Bắc. Lập tức ba ra lệnh cho tàu chạy hết tốc lực đến cứu con tàu nhỏ kia. Khi đến gần, ba đã cho chiếu đèn làm hiệu để cứu nhưng chiếc tàu nhỏ đó đã bỏ chạy. Chỉ một vòng lượn kỹ thuật là chiếc tàu của ba đã cập sát với chiếc tàu nhỏ đó. Không, phải gọi nó là chiếc ghe thì đúng hơn. Chiếc ghe bằng cây chỉ dài độ mười thước. Với cơn bão sắp tới thì chiếc ghe này chắc chắn phải chìm. Trên ghe có hai người thanh niên rất ốm yếu. Hai người này cố lấy sức để trèo lên tàu của ba với sự giúp đỡ của các thuyền viên của ba. Hai người thanh niên này nói tiếng Anh rất khá và họ tự giới thiệu một người là lái ghe và một người là thợ máy. Hai người này cho biết ở trong lòng ghe có chứa khoảng chín mươi người, và vì hai mươi hai ngày qua không có thức ăn và nước uống nên có rất nhiều người chết và kiệt sức. Ba hỏi hai người đó là tại sao thấy tàu của ba đến cứu mà lại bỏ chạy. Người lái ghe trả lời là vì tưởng tàu cướp.

Lập tức ba cho các thuyền viên qua ghe để đem mọi người lên. Một lúc sau, một thuyền viên đến cho ba biết là dưới ghe quá hôi hám và hình như tất cả đều đã chết hết. Nghe vậy nên ba đã qua chiếc ghe đó để được nhìn rõ ràng hơn. Quả thật đây là lần đầu tiên trong cuộc đời ba đã được chứng kiến một cảnh tượng quá hãi hùng. Tất cả mọi người không một ai nhúc nhích khi các thuyền viên đến lay gọi. Trong lòng ghe mùi xú uế nồng nặc. Ba cố bước đi trong lòng ghe để hy vọng còn một ai đó chỉ bị kiệt sức chứ chưa chết. Đến gần mũi ghe, ba chứng kiến một cảnh tượng thật thương tâm. Người đàn ông đã chết và có lẽ là người chồng, trong tư thế giang cánh tay ra cho người đàn bà nằm lên. Bà này cũng đã chết. Bà ta cũng trong tư thế giang cánh tay ra cho một đứa bé khoảng mười tháng tuổi gối đầu lên. Đứa bé này đang ngậm vào nấm vú của người mẹ chỉ còn là một miếng da, nhưng đứa bé này còn sống. Ba ẵm đứa bé này và giao cho các thuyền viên chăm lo cứu chữa. Kết cuộc chỉ có bốn người lớn là còn thoi thóp và đã được cấp cứu.

Qua cơn bão thì trời cũng vừa sáng. Sau khi kiểm lại và biết chắc chắn là những người trên ghe đã thật sự chết, ba đã cho thủy táng chiếc ghe và số người trong đó.
Hai ngày sau tàu của ba ghé cảng Singapore. Sau khi giao hàng hoá và sáu người, ba trở về lại Hòa Lan và có đem theo đứa bé. Ba đã làm thủ tục để nhận nuôi đứa bé đó vì ba và mẹ không có con. Đứa bé đó chắc con cũng biết nó là ai rồi. Trong đời ba có lẽ một lỗi lầm lớn nhất mà ba ân hận mãi cho đến bây giờ, đó là ba đã không lục soát trong người ba mẹ của đứa bé để tìm hình ảnh và để biết tên tuổi."
Kính thưa các quý vị, ba em còn nói nhiều lắm nhưng nào em có còn nghe được gì nữa đâu. Lúc đó em chỉ biết gục đầu vào lòng người cha thân yêu của em mà khóc.

Khi biết rõ lai lịch của mình rồi, em đã quyết tâm phải làm một cái gì đó. Trong sự buồn bực vì bị chế giễu em đã nghĩ quẫn là nếu em trở thành một tên cướp, em sẽ đi cướp một nhà băng nào đó kiên cố nhất thế giới mà từ xưa đến nay chưa có một ai dám cướp. Nếu em trở thành một tên sát nhân thì em sẽ giết một nhân vật nào nổi danh nhất thế giới nhưng cuối cùng thì em nghĩ là chỉ có con đường học vấn thành công thì em mới làm vui lòng ba mẹ em và có thể giúp cho quê hương mình sau này.

Người điều khiển chương trình nói:

- "Trong rất nhiều câu chuyện về những thảm cảnh mà chúng ta đã phải bỏ nước ra đi, có thể nói câu chuyện của em là đáng thương tâm và cảm động hơn tất cả, cứ như là trong truyện tiểu thuyết vậy. Em có thể kể thêm cho mọi người cùng nghe những vui buồn của việc học tiếng Việt được không?"

- "Kính thưa các quý vị và thưa anh, việc học tiếng Việt Nam của em phải nói là cười ra nước mắt và dở khóc dở cười. Cười ra nước mắt là, cũng vì tiếng Việt mà em bị mất cơ hội cưới một người con gái đẹp. Còn dở khóc dở cười là em phải khốn đốn mỗi khi gọi đến tên nó.

Trong một lần qua Paris thực tập, nhóm của em có năm người, mỗi người mang một quốc tịch khác nhau, trong đó có một anh mang quốc tịch Việt Nam tên là Thanh Tâm. Trong một lần em đến một vũ trường, em thấy có một cô gái Việt Nam làm trong quầy rượu. Phải nói là cô này đẹp tuyệt trần. Đẹp không thể nào có chỗ để mà chê được. Em muốn làm quen mà không biết phải nói năng ra làm sao. Một hôm em hỏi anh Thanh Tâm - dĩ nhiên là nói bằng tiếng Anh -Anh chỉ cho em lời nói và cách mời một người đàn bà Việt Nam nhảy đầm. Anh Thanh Tâm đứng lên, anh bỏ tay trái ra sau lưng khoảng ngang lưng quần. Tay phải anh để vào trước ngực bên chỗ trái tim, người anh hơi cúi về phía trước một chút và vừa nở nụ cười vừa nói: Thưa bà, tôi rất hân hạnh được mời bà nhảy bản này. Cùng lúc đó bàn tay phải anh đưa ra phía trước như là mời chào.

Em đã tập động tác đó và tập nói câu tiếng Việt đó rất nhiều lần. Anh Thanh Tâm xác nhận là đã đạt đến 100%.

Một hôm, em mời cả nhóm năm người đi vũ trường nơi có cô gái đẹp người Việt Nam làm việc. Ngồi một lúc, em lấy hết can đảm đến trước mặt cô gái đó và làm động tác mà em đã thuộc lòng. Sau khi nói dứt câu: Thưa bà, tôi rất hân hạnh mời bà nhảy với tôi bản này và em chưa kịp đưa tay ra phía trước như mời, thì cô gái đó nhíu mày lại và nhìn em một cách rất ngạc nhiên và hỏi: Anh nói cái gì? Lúc đó em không hiểu cô ta nói gì, nhưng nhìn nét mặt của cô ta thì em nghĩ là em đã nói sai, vì vậy em lập lại một lần nữa câu nói đó. Vừa nói dứt câu thì cô ta trừng mắt nhìn em và nói: Đồ dzô dziên! rồi bỏ đi nơi khác.

Vừa ngượng vừa tức vì nghĩ anh Thanh Tâm đã chỉ em một câu nói không hay. Trở về bàn, em cố gắng viết cái câu nói cuối cùng của cô gái Việt Nam vào cuốn sổ tay để sau này có dịp sẽ tìm hiểu xem câu đó có nghĩa gì.

Nhìn anh Thanh Tâm cười nói rất hồn nhiên với các bạn cùng nhóm mà em thấy giận anh Thanh Tâm rất nhiều. Một khoảng thời gian thật ngắn sau đó, bất chợt anh Thanh Tâm nhìn thấy cô gái Việt Nam từ xa và anh đứng dậy để đến bên cô gái đó. Nhân lúc anh Thanh Tâm đứng lên, em đã gọi tính tiền và bỏ đi về trước sự ngạc nhiên của các bạn cùng nhóm.

Hai năm sau, tức là khoảng vài tháng trước đây. Bây giờ thì em đã rành tiếng Việt rồi, em nhận được một thiệp hồng mời dự đám cưới của anh Thanh Tâm và cô dâu Tố Quyên. Lúc đầu em dự định không đi, nhưng suy nghĩ lại thì thấy chuyện cũng đã cũ và có thể nhân dịp này để trả thù anh Thanh Tâm.

Đến ngày dự cưới. Khi đến phiên em bước tới chúc mừng thì ô kìa! sao cô dâu này em thấy quen quá mà không nhớ đã gặp ở đâu. Cô dâu Tố Quyên thì nhìn em cười rất là thân thiện như là bạn cố tri của em. Anh Thanh Tâm thì chỉ nhìn em cười một cách bí ẩn mà không nói gì.

Còn đang vận động trí nhớ thì Tố Quyên đã bỏ bó hoa cầm trên tay xuống bàn. Tay trái của Tố Quyên để ra sau lưng, tay mặt để trước ngực và hơi cúi mình về phía trước và nói với em: "Thưa ông, tôi rất hân hạnh mời ông cùng vợ chồng chúng tôi nhảy đầm."

A, bây giờ thì em nhớ ra rồi, Tố Quyên chính là cô gái phụ giúp trong vũ trường năm xưa. Tố Quyên nắm tay em và nói: Em xin lỗi anh về vụ của năm xưa nghe. Hồi đó em đâu có biết là anh không biết tiếng Việt Nam. Thấy anh nói đúng giọng quá mà lại gọi em là bà trong khi em mới mười bảy tuổi nên nghĩ là anh cố tình chọc em nên em giận và nói nặng lời với anh.

Anh Thanh Tâm thêm vào: Khi anh đến mời Tố Quyên nhảy, và khi hai đứa trở về bàn thì mấy người bạn nói em đã bỏ về trước. Khi tụi này quyết định làm lễ cưới mới đem hình bạn bè ra để ghi thiệp mời thì lúc đó Tố Quyên mới chỉ vào hình em rồi hỏi đó là bạn anh đó hả. Sau đó Tố Quyên mới kể cho anh nghe chuyện em mời Tố Quyên nhảy và anh cũng kể cho Tố Quyên nghe em học cách mời người đàn bà nhảy đầm. Tại em nói là đàn bà nên anh tưởng phải là người lớn chứ có dè đâu. Thôi bây giờ đã hiểu nhau rồi thì ba đứa mình coi như anh em, anh đặt tên em là Thanh Hùng với đầy đủ ý nghĩa của tên. Thế rồi ba đứa em ôm nhau cười hô hố trước sự ngạc nhiên của nhiều người đang đứng chờ tới phiên đến chúc mừng.

Sau khi rời khỏi nhóm bạn ở Paris năm đó, em đến thực tập ở Tiệp Khắc. Trong một dịp cuối tuần em đang lang thang một mình trong vườn thú thì có tiếng hỏi: Anh có phải là người Việt Nam không? Lúc đó em chưa hiểu câu hỏi đó, nhưng nghe hai chữ Việt Nam thì em loáng thoáng hiểu và vì vậy nên gật đầu và trả lời bằng tiếng Anh: Tôi là người Việt Nam nhưng tôi không biết nói tiếng Việt Nam.

Vợ chồng trẻ người Việt vừa hỏi em câu đó lấy làm ngạc nhiên lắm nên làm quen với em. Sau khi hiểu rõ về em thì vợ chồng trẻ đó mời em về nhà ăn cơm. Trong bữa ăn có một món mà em thấy ngon lạ lùng nên em hỏi tên món đó. Người vợ trẻ trả lời em đó là món LEM. Kính thưa các quý vị, em xin lập lại là người vợ trẻ đó phát âm là LEM với chữ L rõ ràng. Em đã kín đáo lấy viết ghi vào sổ chữ đó để có dịp thì sử dụng đến. Một tháng sau, em có dịp đến miền Nam của nước Tiệp Khắc. Trên đường đi em gặp một restaurant Việt Nam. Vào nhà hàng, em được một cô gái khá đẹp ra tiếp. Cô ấy hỏi em ăn gì thì em nói là em muốn ăn bún với LEM. Dĩ nhiên em chỉ phát âm mỗi chữ bún Lem bằng tiếng Việt thôi. Nghe em nói chữ đó thì cô ta ôm bụng cười rồi nói: Tiếng Việt Nam phải nói là NEM với chữ N chứ trong món ăn thì tiếng Việt không có món LEM.

Thôi cũng được! và cho tôi một chai bia luôn.

Một lúc sau, cô ta bưng ra cho em một tô bún. Nhìn tô bún thì bây giờ đến phiên em ôm bụng cười. -Tôi đã nói với cô là tôi đã có ăn món bún LEM rồi mà. Không phải thứ này đâu. Thôi được, cô cứ để đó tôi thử xem sao. Khi gắp miếng thịt ăn, em đã tưởng nhà hàng cho em ăn thịt sống để hư và bây giờ đã lên men và bị chua. Em len lén lấy một tờ giấy gói lại mớ thịt đó và cất vào trong cặp chờ lát nữa sẽ ra bỏ ngoài đường. Ăn hết tô bún không, đang buồn vì ăn không đúng như ý thì cô gái đó bưng một mâm món LEM đến bàn gần đó. Mừng quá nên em nói lớn với cô ta: Đó! đó là món LEM đó! Cô ta quay nhìn em rồi nói sẽ đến bàn em ngay.

Khi cô ta đến, em cho biết đó là món LEM mà em muốn. Cô ta nói: Trời ơi là trời! Đó là CHẢ GIÒ đó anh ơi chứ không phải là LEM đâu. Còn món vừa rồi anh ăn thấy có ngon không?- Cô ơi! tôi nghĩ là nhà hàng làm lộn rồi. Thịt còn sống đã bị hư và bị chua rồi, tôi không dám ăn và gói vào đây để dành lát nữa đem bỏ. Đâu đưa tôi coi! Khi em đem ra thì cô ta lấy một miếng bỏ vào miệng vừa nhai vừa nói: Anh ăn đi có bị chết thì tôi chịu trách nhiệm cho. Đây là món ăn nổi tiếng của Việt Nam đó. Nghe nói vậy và cũng thấy cô ta ăn một cách rất ngon lành nên em cũng ăn. Phải công nhận là ăn món đó và uống với bia thì tuyệt cú mèo!

Sau khi thưởng thức xong món chả giò, em lấy viết và ghi tên món đó vào sổ.

Một tháng sau em trở về miền Nam nước Đức. Vào một Vietnammese Restaurant, vì là buổi trưa nên ra tiếp em là một em bé khoảng tám hay chín tuổi gì đó. Em nói em muốn ăn món LEM hay CHẢ GIÒ. Có lẽ cô bé cũng không rành tiếng Việt Nam nên cô bé trả lời là không có hai món đó. Em cố gắng tả hình dáng món đó cho cô bé hiểu vì em biết nhà hàng Việt Nam nào cũng có bán món đó. Sau một lúc thì cô bé hiểu và nói tên món đó người ta gọi là CHẢ RÁN. Khi cô bé bưng ra cho em món chả rán, em thắc mắc là nên gọi tên nào thì đúng. Vì chỉ có một món ăn rất ngon mà em phải phát điên lên mỗi khi muốn order. Nghe thấy thắc mắc của em thì từ trong quầy, một người đàn ông đang nghỉ trưa và khá lớn tuổi bước ra. Ông ta khuyên em là nên học tiếng Việt cho rành vì dù sao em cũng là người Việt Nam. Ông tặng em một cuốn tự điển Việt Anh và một cuốn tự điển Anh Việt.

Bây giờ thì em đã hiểu là ở miền Bắc nước Việt Nam thì tên nó là NEM hoặc là CHẢ RÁN chứ không phải là LEM. Đây là một phát âm không đúng của một số người Bắc ở miền quê. Ở miền Nam nước Việt thì nó là CHẢ GIÒ. Còn món nhậu lai rai rất nổi tiếng của miền Nam nước Việt là món NEM CHUA./."





Phạm Văn Thuận



May 07, 2005
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2007 16:52:57 bởi Ngọc Trân >

Ngọc Trân
  • Số bài : 114
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 23.12.2004
Hỏi hay Ngã - 22.07.2007 19:14:19
Hỏi hay Ngã
 
 

Bích Vân

 
 
 
 

Những ai trong chúng ta hiện đang đi trên đại lộ me mé bên cạnh hoàng hôn của cuộc đời, tức là gần cuối con đường số 5, nghĩa là đã sống hơn ½ cái kiếp người, chắc thế nào cũng còn nhớ kỷ niệm lần đầu tiên khăn gói lều chõng lên đường ứng thí kỳ thi mở màn cho sự nghiệp đèn sách của mình. Tôi muốn nhắc đến kỳ thi Tiểu Học, kỳ thi mà chúng ta thường gọi là “Ri-Me” (để tỏ ra là chúng ta cũng biết nói tiếng Tây, tuy chỉ là thứ tiếng Tây thuộc loại :

Tiếng Tây tôi để trong  mo,
đến khi Tây hỏi, tôi mò không ra


Trong kỳ thi này có một bài Chính tả mà có người còn gọi là Ám tả, có lẽ vì bài viết này quá u ám đối với các sĩ tử tí hon như chúng ta thời đó chăng? Bài chính tả được chấm 10 điểm, nếu chúng ta không viết sai lỗi nào. Và cứ mỗi lỗi là bị trừ mất một điểm. Các lỗi HỎI và NGÃ vì không quan trọng nên chỉ bị trừ ½ điểm.

Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.

Tôi thường nghĩ thầm là : HỎI hay NGÃ thì cũng “mắm sốt”. Đọc lên dù phát âm đúng hay sai, người dân Việt Nam vẫn hiểu được như thường, vậy thì hơi đâu mà phải bận tâm ...

Ví dụ như:

Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi


Dù ta có viết chữ “hỡi” với dấu HỎI thì ai mà lại chẳng biết chữ “hởi” có nghĩa là “ơi” là “ới” là “này”. Thế thì chữ “hỡi” viết đúng hay sai cũng không có gì là quan trọng. Chẳng lẽ viết đúng thì có tính cách thân mật hơn, lịch sự hơn, âu yếm hơn, dễ thương hơn là viết sai hay sao? Cũng như chữ “đổ”, nếu có viết sai với dấu NGÃ thì cũng không ai lại nghĩ lầm là hạt «đậu» được.

Luận điệu này của tôi đã bị người yêu của tôi chê sát ván và bảo tôi là gàn bướng quá thể (?). Nàng răn đe, phụng phiụ :

- «Cái kho tàng chữ nghĩa tuyệt vời của tiếng Việt sẽ bị những người ngoan cố như anh làm thui chột mất thôi. Viết mà đúng thì thứ nhất, chẳng ai bắt bẻ gì được mình. Nêú không á hả, có khi lại còn bị người ta cười là mình dốt nữa đâý. Thứ nhì, mỗi chữ có cái nghĩa riêng của nó, xập xí xập ngâù thế nào được. Này nhé, em BỎ công ra (dâú HỎI đây nhé) lý luận, dẫn giải lung tung như thế này, mệt lử cò bợ chứ có phải đùa đâu, thế mà anh chẳng chịu hiểu cho, vẫn cứ khăng khăng cho là mình có lý. Thật là chả BÕ cái công (dâú NGÃ đây nhé) em nói ra rả bâý lâu. Vậy thì ... em BỎ anh (hứ!!). Anh í à, chẳng BÕ để .. em .. để em .. gì nhỉ ..? Đâý, anh thâý chưa, anh đã thâý tiếng Việt của mình phong phú, biến hóa tài tình như thế nào chưa? Thế mà anh nỡ lòng nào nói cùng một giọng, viết cùng một kiểu, thế thì hỏng bét !!! Giời ơi là giời !! Anh gàn lắm !! Anh cãi châỳ cãi cối !! Anh...bướng !! ...v..v... «.

Các bạn có biết những cái v(ân) v(ân) chấm chấm đó, hồi mới quen Nàng, tôi đã nhặt không kịp, tôi đã hẩy đi không kịp sau những lá thư tỏ tình với Nàng không?

Người tôi yêu là dân Bắc Kỳ rau muống, các bạn ạ, chính hiệu con nai vàng. Nàng rất chi ly khi viết tiếng Việt Nam, cũng chi ly như lúc ăn bún riêu nấu với cua đồng, mà dân Huế chúng tôi gọi là con «rạm». Cọng rau muống dù nhỏ bé đến đâu cũng bị Nàng chẻ ra làm tư. Vì thế mỗi lần viết thư cho Nàng, tôi phải dùng từ điển Việt-Pháp của cụ Đào đăng Vỹ để tra cứu các dấu HỎI-NGÃ, mà nếu có ai nhìn thấy tôi dùng từ điển Việt Pháp để viết thư chắc lại nghĩ là tôi đang viết thư cho một cô đầm nào đó, và chắc là phải phục tài ngoại ngữ của tôi ghê lắm. Kể ra thì đó cũng là một cái lợi khi bị hiểu lầm như thế. Nhưng lại là một nỗi khổ cho riêng tôi. Đã qua được kỳ thi “Ri-Me” đầu đời rồi mà vẫn phải học lại cách viết chính tả với dấu HỎI-NGÃ nhiêu khê phiền toái. Muốn tránh nỗi khổ này, tôi thường tránh né dùng những chữ có dấu HỎI-NGÃ và tìm những chữ đồng nghĩa thay thế vào.

Ví dụ, thay vì viết : «Anh nhớ Em kinh khủng» thì tôi viết «Anh nhớ Em ghê gớm».

Nàng có chê là tôi viết không văn chương chữ nghĩa thì tôi cũng đành chịu và Nàng cũng ráng chịu, cho bõ ghét cái thói chi ly ưa vạch lá tìm sâu, sửa chữa những lỗi lầm HỎI-NGÃ.

Thật ra thì tôi cũng phải cảm ơn Nàng, vì nhờ Nàng mà tôi biết viết đúng rất nhiều chữ có dấu HỎI-NGÃ (tuy là vẫn còn sai khá nhiều)... Nhưng nếu bây giờ mà cho tôi đi thi lại Ri-Me thì bài chính tả của tôi chắc chắn là xuýt nữa thì được 10 điểm, nhờ có người yêu là dân Bắc Kỳ đâý (biết rôi, khổ lắm, khoe mãi!). Lại nữa, nhờ chịu khó tìm kiếm những chữ đồng nghĩa không có dấu HỎI-NGÃ mà tôi đâm ra hoạt bát hẳn lên và rất giâù ngữ vựng.

Chẳng hạn như câu ca dao dẫn chứng trên kia tôi có thể viết như thế này:

Cô kia tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng quăng đi.


Hay là:

Này cô tát nước bên đàng

Răng cô múc ánh trăng vàng dzụt đi


Các bạn có thấy tôi biết dùng cả chữ Huế và chữ miền Nam không? Như thế này thì người yêu của tôi làm sao mà có thể chỉ trích tôi viết sai HỎI-NGÃ được nữa chứ, hử ?

Bây giờ nhé, các bạn thử xem tài biến chế của tôi để tránh dấu HỎI-NGÃ, khỏi phải sợ người yêu bắt bẻ. Thì đây, thay vì viết :

« Ngủ dậy nửa đêm, lặng lẽ, mò mẫm, mở tủ lạnh, kiếm hũ sữa bò, tìm một cái ly mủ, đổ vào lưng lửng ly, hỉ hả ngủm từng giọt nhỏ, không có gì khỏe bằng... «

Các bạn có thấy cái câu này gồm không biết bao nhiêu là dấu HỎI-NGÃ làm điên đầu những người dân miền Trung và miền Nam không? Nếu không tin tôi, các bạn (tôi không thách đố dân Bắc kỳ như người yêu của tôi) thử viết mà không được dùng từ điển như tôi, xem thử các bạn viết đúng được bao nhiêu chữ. Nhưng đừng lo, dễ lắm! Hãy bắt chước tôi tránh né:

« Thức giấc lúc 12 giờ khuya, nhẹ nhàng, rờ mò cạy frigidaire, kiếm lon nước vắt từ vú con bò cái, tìm cái ly nhựa rót vào lưng chừng ly, cười một mình, uống từng ngụm in ít một, không có gì khoái chí bằng... «

Sao, các bạn có thâý tôi tránh né thần tình chưa? Đọc lên, nghe cũng xuôi tai lắm chứ bộ? Nhưng cũng chả xong với cái tính chi ly ưa bắt bẻ của người tôi yêu, các bạn ạ .

Mỗi chữ mà tôi viết sai, Nàng thâý liền tức khắc. «Nom ngứa mắt lắm!», Nàng nói rứa.

Thế là có ngay một màn giảng nghĩa a, dẫn chứng a, lôi các câu của những danh nhân kim cổ ra mà kể lể a, tranh luận a.... thôi thì đủ điêù, đủ kiểu. Nàng có cái esprit critique mà ly., tôi đã bảo. Mà không những thế, lại kiêm luôn cái esprit analytique nữa, giời ạ, thế thì có khổ cho cái thân tôi không cơ chứ !

Nàng thường thỏ thẻ (nguyên văn) :

- «Anh cứ thử tưởng tượng như thế này này, trước khi viết. Cứ thử tưởng tượng xem em sẽ nói cái chữ đó với cái giọng như thế nào, lên giọng hay xuống giọng, là anh biết sẽ phải viết với HỎI hay NGÃ ngay thôi. Ví dụ cụ thể đây nhé, cho mà thích mê tơi nhé, cho mà nhớ đời nhé, nghe đây này : anh cởi ..., xuống giọng (vì nằm xuống?) dâú HỎI, đã nhớ chưa? Và rồi thì ... em cỡi ..., lên giọng (vì leo lên?) dâú NGÃ, nhớ chưa nào? «

Gì chứ, ma bùn như tôi, cái ví dụ này là tôi khoái nhất, nhớ nhất, nhớ chết đi được, nhớ đời ! Giọng nói của Nàng, ôi sao mà nó ỏn thót đến thế không biết, du dương mê ly lắm cơ, nghe mà cứ chết lịm cả người đi mất thôi, đứ đừ đừ (Dạ Lan của đài Tiếng Nói Quân Đội ngày xưa mà lỡ có dại dột đòi so tài «rù rì, dú dí» với Nàng là thua bét tỹ ngay), thế thì bảo sao mà tôi không tăm tắp tuân theo lời dạy bảo của Nàng cho được ?

Và kỳ lạ chưa, sao dạo này tôi không thâý Nàng đả động gì tới hai cái dâú quái ác HỎI và NGÃ nữa thế nhỉ ??? Đã lâu lắm rồi nên tôi cũng quên mất cái cảm giác «ngẩn tò te» mỗi lần gửi thư cho Nàng xong, mong mong ngóng ngóng sốt cả ruột cú phone của Nàng, để chắc mẩm sẽ được nghe những lời lẽ cứ gọi là mềm nhũn ra vì vừa thấm đẫm những tình tự tôi trao. Nhưng không các bạn ạ, giời ạ, thay vào đó, tôi chỉ nghe những nào là :

- «Chết chửa, cái chữ «xxxx» này mỗi ngày nghe cả chục lần, nói cả trăm lần, đọc cả nghìn lần, thông thường như vậy mà anh cũng viết sai cho được thì ... phục anh thật cơ ! Lại còn chữ «yyyy» nữa, anh viết như thế này thì em hiểu thế nào bây giờ đây, hở giời ? Viết cái gì mà chữ nghĩa ý tứ lộn cứ tùng phèo hết cả, em chả hiểu gì sất !!! ...»

Tôi ngẩn tò te là phải. Đực người ra là phải.

Nhưng may quá, đó là cái lúc ban đâù thôi, cái thuở ban đâù lưu luyến âý mà. Qua lâu rồi. Cái thuở mà tôi, vì ngẩn tò te nhiêù quá nên đâm ra tức khí, bèn lôi một lô mâý bộ từ điển (vẫn nằm mốc meo ở ngăn tít cao trên cùng của kệ sách) để tra tra cứu cứu mỗi khi gặp phải một chữ oái oăm nào đó. Nêú có tả oán cái nỗi khổ cực của tôi vì phải đánh vật với mâý quyển từ điển những lúc viết thư tình cho Nàng, chỉ nghe Nàng phì cười, khuyến khích :

- «Càng giỏi chứ sao. Người Việt mà không viết rành tiếng Việt, xâú hổ lắm, nhé «.

Có rất nhiêù lần, sau khi xem xong thư của tôi, Nàng gọi, chỉ để bảo:

-»Anh viết chữ «zzzz» này sai rồi nhé. Dâú HỎI (hay NGÃ) đâý, chứ không phải dâú NGÃ (hay HỎI) đâu. Nhé, anh nhé.»

Tôi cãi, hùng hồn cãi, vì chữ này thông thường quá mà, dễ ợt, nên tôi nhất định cho rằng tôi viết như thế là đúng rồi, đúng quá xá đúng rồi, phải là dâú NGÃ (hay HỎI) chứ, chắc chắn một triệu phần trăm. Nàng cười xòa, tự tin, rồi thách tôi tra hai cuốn từ điển khác nhau để kiểm chứng lại. Chục lần như một, chỉ vài phút sau, tiếng tôi dzọ dzẹ hẳn, âu yếm:

- Em là quyển từ điển vivant của anh. Anh viết nhầm thật. Phục thâỳ, «chịu» thâỳ..quá..a..á!

Tôi «thâý», bên kia đâù dây, Nàng cười tủm tỉm, mắt long lanh, sung sướng .... và hình như mát (lắm) cái ruột nữa thì phải ....

.... Gần đèn thì sáng, các bạn ạ. Nhờ quen với Nàng, nhờ sự chăn dắt của Nàng, tôi sắp có thể trở thành văn sĩ đến nơi. Một điêù tất nhiên thôi. Viết nhiêù, viết lắm như thế này, để ca tụng Nàng í mà, thì rồi một ngày đẹp trời nào đó cũng sẽ ... bất đắc dĩ trở thành văn sĩ nổi tiếng chứ chả chơi đâu, nhỉ ?

Thế đâý, cái mối tình văn chương chữ nghĩa của tôi với Nàng, kết chằng kết chịt bằng những dâú HỎI + NGÃ . Và rồi khó gỡ.

Nàng đã nhập hẳn vào tim, vào óc, vào ... người tôi. Nàng ám ảnh tôi cả ngày lẫn đêm.

Tôi đang dần dần biến thành Bắc kỳ giống Nàng. Chắc có lẽ giống y hệt rồi, giời ơi là giời, thế này thì có «sướng» cho cái thân tôi không cưa chứ !!!

Bà Già Trâù bắc kỳ nho nhỏ của tui ơi,
Rứa chừ em ở chỗ mô ?
Răng anh không thâý em mò vô meo ?
Nhớ em, héo úa eo xèo
Lỡ thương nên quyết đèo queo trọn đời
Tụi mình xa cách biển trời
Ngày mô cũng viết ít lời thăm nhau
Khi mô Trời khiến đụng đâù
Mời em xơi một miếng trâù cho vui
Bữa tê trời nắng ui ui
Nhớ em chi lạ, anh ngồi buồn xo
Thương nhau em cứ đắn đo
Bực mình em thiệt, em lo lo hoài
Nhiêù khi anh cũng muốn đoài
Hun em một miếng bên ngoài mà thôi
Giỡn chơi một tí đừng cười
Mà anh ốt dzột suốt đời em ơi !!!
Thương em, anh cứ câù Trời
Xin cho anh gặp được Người anh mê
Ngày dài tháng lụn lê thê
Biết chừng mô đó mình kề bên nhau
Mình ngồi hai đứa chụm đâù
Cầm lòng không đậu, hun đâù em thương ...

 
 

BÍCH VÂN
 
(để tặng những người khổ sở vì HỎI, NGÃ )
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2007 19:15:36 bởi Ngọc Trân >