Tản mạn về Thiên Cấm Sơn
rongxanhag 22.07.2007 20:07:02 (permalink)

 
Tản mạn về Thiên Cấm Sơn
 
Đấy là tên chữ của núi Cấm (cao 716 mét). Có ý kiến cho rằng phải gọi là Thiên Cẩm Sơn mới đúng vì đấy là một ngọn núi hùng vĩ,đẹp đẽ nhất trong dãy Thất Sơn, nằm trong khu tam giác Tịnh Biên-Nhà Bàng-Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang. Còn người dân tộc Khơ-me gọi núi Cấm là Thalot . 
 
I Vì sao có tên núi Cấm?
 
Có nhiều giả thuyết về tên gọi :
 
Theo Nguyễn Văn Hầu, giả thuyết đáng tin cậy hơn cả là Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) đã cấm các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, giáo phái do ông gầy dựng, lên đó cất nhà cửa hoặc chùa am để ở. Vì lẽ có người ở ăn tất sẽ có sự ô uế núi non, một nơi linh tu mà ông nhận thấy cần giữ gìn cho trong sạch.
 
Cũng có giả thuyết cho rằng, Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nã có lúc phải bỏ Phú Quốc vào núi này để trốn lánh. Để cho tông tích khỏi lộ, các cận thần của chúa Nguyễn phao tin nơi rừng núi có nhiều yêu quái ác thú; nhiều dốc cao vực sâu nên nghiêm cấm dân chúng vào núi.
 
Cũng có giả thuyết khác cho rằng Đơn Hùng Tín (biệt danh của  Lê  Văn Tín, quê Cao Lãnh) có lúc dùng nơi này làm sào huyệt để xuất phát những trận ăn cướp lớn. Do đó y cấm dân gian bén mảng tới để dễ bề ngăn chặn bọn do thám, lính kín của Tây (Nguyễn Văn Hầu, nữa tháng trong miền Thất Sơn, Nxb Trẻ, 1996)
 
 
Vì vậy có thể từ lệnh “cấm” này khiến bây giờ người ta quen gọi tên chữ là Thiên Cấm Sơn  chăng ?
 
II.Thất Sơn gồm những núi nào ?
 
Thất Sơn là 7 ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi được biết đến ở  2 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang.
 
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí (1865) từ “Thất Sơn’’lần đầu tiên được ghi đó là các núi :Tượng Sơn, Tô Sơn, Cấm Sơn, Ốc Nhẫm, NamVi, Tà Biệt, Nhân Hòa.
 
Nhưng theo Hồ Biểu Chánh (Thất Sơn Huyền Bí ), Nguyễn Văn Hầu (Thất Sơn Màu Nhiệm) cho rằng đó là các núi : Tô, Cấm, Trà Sư, Két ,Dài, Tượng, Bà Đội Om.
 
Có giả thuyết khác như của Trần Thanh Phương trong sách Những Trang sử về An Giang , xb năm 1984 cho rằng đó là các núi:  Cấm (Thiên Cấm Sơn ), Dài năm giếng (Ngũ Hồ Sơn ),Tô (Phụng Hoàng Sơn ), Giài (Ngọa Long Sơn), Tượng (Liên Hoa Sơn )Két (Anh Vũ Sơn) và Nước (Thủy Đài Sơn )
 
Cũng có giả thuyết khác nữa cho rằng đó là các núi : Cấm, Dài, Tô, Phú Cường,  Nam Qui, Sam, khối núi Trà Sư (gồm núi Giai, Két, Trà sư …)
 
 
III.Năm Non tại núi Cấm: 
 
“Non’’ thường chỉ một chỏm cao trên dãy núi, còn gọi là “vồ’’.
 
 Theo Nguyễn Văn Hầu (sách Thất sơn mầu nhiệm ) năm non chỉ 5 đỉnh núi cao của núi Cấm bao gồm :
 
1.Vồ Bồ Hong :là đỉnh cao nhất và nổi tiếng nhất của Thất Sơn, cao 716m, ngày xưa ít người lui tới. Giả thuyết cho rằng nơi này có nhiều côn trùng gọi là bồ hong sinh sống.
Về đêm, vồ Bò Hong sương mù phủ trắng và lạnh nhứt vào mùa đông.Còn ban ngày, đứng tại nơi được coi là “nóc nhà” của Đồng bằng sông Cửu Long này, khách tham quan có thể phóng tầm mắt nhìn thấy toàn cảnh những cánh đồng ruộng ngút ngàn; sẽ thấy ngay cả con kinh Vĩnh Tế ( gắn liền với bao công lao của cha ông thời mở cõi) chạy dài, tiếp giáp với sông Giang Thành chảy ra tận  biến Hà Tiên.
 
2.Vồ Đầu : là  đỉnh cao đầu tiên của Núi Cấm tính từ phía Bắc, cao 584m.
3.Vồ Bà : cao 579, vồ  này có điện thờ Bà Chúa Sứ.
4.Vồ Ông Bướm : (Ông Voi ) cao 480m. Giả thuyết cho rằng xưa kia có hai người Khmer lưu lạc giang hồ về cư trú nơi chỏm đá này, đó là Ông Bướm và ông Vôi nên mới đặt tên như thế .
5.Vồ Thiên Tuế: cao 541, nơi đây trước kia là rừng cây thiên tuế.
 
Thực tế hiện nay, núi Cấm còn có nhiều “non’’ hơn nữa như Vồ Chư Thần, Vồ Cây Quế, Vồ Mồ Côi, Vồ Đá Dựng, Vồ Pháo Binh vv…
Ngoài ra dọc theo những lối mòn từ chân núi lên tới đỉnh có suối Thanh Long, điện Cây Quế, hang Ông Thẻ, suối Tiên, động Thủy Liêm, đặc biệt là điện 13 tầng, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long…& còn biết bao “cẩm tú” khác đang chờ đợi bước chân và tấm lòng của du khách tìm đến.
 
Nhưng trong số hang động kỳ bí chưa được khám phá hết này, phải nhắc đến hang Bác vật Lang.
Vì sao hang có tên ấy & Bác vật Lang là ai ?
 
IV.Bác vật Lang :

(Ngày trước danh từ Bác vật có nghĩa gần giống như từ Bác học bây giờ; nó dùng để chỉ những người thông thái, hiểu biết sâu về một hay nhiều lĩnh vực khoa học)
Kỹ sư Lưu Văn Lang sinh ngày 5/6/1880 (mất ngày 3/8/1969) tại Tân Phú Đông, Sa Đéc (Đồng Tháp). Ông sinh và lớn lên trong một gia đình làm nghề thủ công phục vụ cho nông nghiệp.Dù nhà nghèo nhưng do chăm chỉ nên ông giành được học bổng tại trường Chasseloup Laubat Sài Gòn, năm 17 tuổi đậu tú tài 2 của Pháp với số điểm xuất sắc, được học bổng sang Pháp học École Centrale de Paris - nơi đào tạo kỹ sư lớn nhất nước này.
Năm 1904, ông tốt nghiệp kỹ sư hạng ưu (đứng thứ 3 trong số 250 người) là kỹ sư đầu tiên của Nam Bộ thời bấy giờ. Về nước, ông được nhà cầm quyền cử sang Vân Nam (Trung Quốc) tham gia xây dựng tuyến đường xe lửa nối Trung Quốc với Đông Dương. Ông thường xuống Bạc Liêu theo dõi các công trình xây dựng.
Nhiều người kể, khi cầu Long Thạnh do kỹ sư Pháp xây dựng sắp xong, ông lấy gậy gõ vào thành cầu rồi khẳng định với kỹ sư Pháp rằng một tháng nữa cầu sẽ sập. Viên kỹ sư Pháp hết sức phẫn nộ nhưng rồi vô cùng bái phục bởi cây cầu sập đúng như ông nói. Từ đó cầu Long Thạnh được gọi là cầu Sập. Viên tỉnh trưởng Bạc Liêu thời đó rất khâm phục Lưu Văn Lang nên đối đãi ông rất hậu hĩ. Để đáp lại tình cảm đó, ông xây tặng viên tỉnh trưởng chiếc đồng hồ đá này.

 
Hiện đồng hồ đá nằm trong khuôn viên (phía sau dãy nhà giữa) Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bạc Liêu, số 84 đường Hai Bà Trưng, thị xã Bạc Liêu, được Bảo tàng tỉnh tôn tạo, giữ gìn và được đưa vào điểm tham quan lịch sử.
Trở lại chuyện, người ta kể rằng ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn mở màn cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2.
Lưu Văn Lang được mời tham gia Hội đồng Nam Kỳ của chính phủ “bù nhìn” Nguyễn Văn Thinh .Ông đã thẳng thắn trả lời: Je suis trop vieux pour sevir de valet !(tôi đã quá già để làm tay sai)…
 Và một lần người Pháp đã đưa Bác vật Lang lên núi Cấm và thòng dây thả ông xuống để thám sát lòng hang.Trong hang rất tối, lạnh lẽo, thiếu dưỡng khí nên mọi thứ đèn đuốc đều khó cháy sáng. Sau gần một ngày xem xét ở dưới đó, ông trở lên mặt đất và từ đó ông không nói một lời nào…Và cũng từ đó hang sâu này được  người đời gọi theo tên của ông.
Sau này tên Bảy Đởm, một tay anh chị của đất miền Tây, theo giặc được phong đến chức “thiếu tá” đã cho pháo binh ở căn cứ Chi Lăng bắn lên cho đá lấp cửa hang lại.
Dù chuyện xảy ra đã lâu, hôm nay nhiều người vẫn tìm đến chỉ để đứng trước cửa hang, thầm tưởng tượng những gì vừa thiêng liêng, kỳ bí nơi chốn thẳm cùng vừa để thắp một nén hương tưởng niệm một con người tài ba và khảng khái của đất Nam bộ.
V.Điểm qua vài danh lam :



1.Chùa Vạn Linh :

Cấm Sơn có một vài ngôi chùa và nhiều am cốc, như chùa Phật Nhỏ, chùa Phật Lớn, Trung Sơn Thiên Tự, Cao đài tự…, trong đó có một ngôi chùa được đông đảo người đến chiêm bái ,đó là chùa Vạn Linh
Là danh lam trên đỉnh núi Cấm. Chùa là một kiệt tác về kiến trúc, vừa mang sắc thái Á Đông vừa mang tính hiện đại, vừa bề thế vừa trang nghiêm và hài hòa với khung cảnh xanh tươi, hùng vĩ, nhiều huyền thoại của núi rừng…


Chùa Vạn Linh trước đây có tên là chùa Lá. Người bạt núi dựng chùa đầu tiên là Nguyễn Văn Xứng, sinh năm 1895 tại Bến Tre, đệ tử của tổ Phi Lai thuộc dòng Lâm Tế. Ngài đã xuất gia lên núi tìm thầy học đạo từ năm 1918, pháp danh là Thượng Thiện Hạ Quang.
 Hòa Thượng Thích Hoằng Xưng, thường trực tại bổn chùa hiện nay cho biết: Vào năm 1929, Hòa Thượng Thích Thiện Hạ Quang đã chọn đất lập am thờ Phật, lúc đầu làm bằng tranh lá đơn sơ để ẩn tu, dần dần số đệ tử quy tụ về đông hơn, mới cùng nhau ra công góp sức tu bổ. Đến năm 1940, cái am nhỏ bắt đầu đổi thành chùa, lấy tên là chùa Vạn Linh.

Năm 1943 chùa được xây dựng lại đàng hoàng hơn, to đẹp và kín đáo hơn. Đến năm 1946, chùa bị quân Pháp phá hủy hoàn toàn. Mãi tới sau ngày Pháp rút đi, chùa mới được xây dựng lại kiên cố hơn. Rồi chiến tranh lại xảy ra, năm 1970, máy bay Mỹ đã ném bom biến cả khu vực chùa Vạn Linh thành bình địa. Giữa cảnh hoang tàn đổ nát, ông Lâm Cáo Kía, một cư sĩ mộ đạo Phật, đứng ra dựng lại một cái chòi lá ngay trên nền chùa cũ và lập bàn thờ Phật để ngày đêm hương khói.(nay chòi lá được kiến tạo lại bằng xi măng trông giống hệt như tre lá thật )

 Cho đến năm 1983, ngôi Chùa Lá mới phục hồi. Năm 1995, được chính quyền địa phương ủng hộ, các sư tăng cùng người tín ngưỡng bắt tay vào việc thiết kế và xây dựng chùa mới gần bên nền chùa cũ.Chỉ tính việc vận chuyển sắt thép, xi măng, gạch ngói…từ chân núi lên đến tận đỉnh, trong khi đường đá hãy còn khúc khuỷu, lởm chởm, dốc đứng kề bên vực sâu…ai nấy đến thăm viếng đều trầm trồ thán phục trước tâm và lực của những con người miệt mài xây dựng nên danh lam này.

Hiện nay chùa bao gồm tiền đường và hậu đường. Phần chính điện là nơi an vị các tượng Phật sơn son thếp vàng lộng lẫy giữa một khung cảnh trang nghiêm, trầm mặc và thoát trần, tạo ra một ấn tượng thẩm mỹ giữa phong cảnh u tịch của núi rừng.Trước tiền đường nhìn ra là Quan Âm các cao 35 mét, là tháp chuông với quả đại hồng chung nặng 1,2 tấn; là tháp chín tầng  mỗi tầng an vị một vị Phật bằng đá cẩm thạch lớn cở người thật, tạc rất mỹ thuật.Và bên phải là tháp Tổ có khắc thơ hoặc kệ giáo huấn…

Chung quanh chùa là những vườn hoa, vườn kiểng, vườn cây ăn trái và cây rừng tươi tốt bốn mùa, tạo nên một phong cảnh vừa nên thơ vừa rất thiền… Toàn cảnh tạo nên một nét đẹp hài hòa giữa lối kiến trúc tôn giáo và cảnh sắc thiên nhiên

2.Chùa Phật Lớn & tượng Phật Di Lặc :
 

 
Nghe tên ắt chùa hẳn ai cũng tưởng đó là danh lam đồ sộ, uy nghi, nào ngờ chỉ là một ngôi chùa nhỏ bé, nằm trong không gian tĩnh mịch, chìm đắm bên những gốc bồ đề cổ thụ nhuốm màu thời gian hơn một thế kỷ. Không gian thờ phượng cũng khá chật hẹp với một tượng Phật không lớn. Tuy vậy, những người cao tuổi và người Việt gốc khơ-me rất sùng kính nơi này.
Theo lời kể, thuở xa xưa nơi đây có một ngôi chùa của người Khơ-me rất đẹp đẽ, to lớn; nhưng vì sự tàn phá của thời gian, vì chịu nhiều nhiều bom đạn nên chùa cũ đã hư hại hoàn toàn.
 
Để từng bước tôn tạo lại, vào tháng 10 năm 2003, ban quản trị chùa Phật Lớn đã cho thi công tượng đài đức Phật Di Lặc cao 33,60 mét, sừng sững giữa một vùng cây cối xanh um, mặt hướng về chùa Phật Lớn và chùa Vạn Linh. Tượng Phật Di Lặc vừa mới hoàn thành trong năm 2006, kỳ thú nhứt là khách tham quan đứng ở bất cứ nơi nào trên các vồ núi cũng đều nhìn thấy tượng Phật trắng uy nghi giữa một không gian xanh, thoáng mát …
 Đây là một công trình nghệ thuật tôn giáo đồ sộ nhứt từ trước tới nay trên vùng Bảy Núi, cũng có thể nói hiện nay, đây là tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á.
 
 3. Cao Đài Tự:
 
Năm 1941,Giáo chủ đạo Cao Đài là Phạm Công Tắc lên núi Cấm lập bản doanh. Tháng 4-1943, Nguyễn Ngọc Điền tự xưng là “Đại nguyên soái”. Ông ta cho người vào rừng tìm hạ một cây gỗ lớn để làm cột cờ .Khoảng 150 người hết sức vất vả trong nhiều ngày mới mang được cây gỗ dài gần 30 thước,đường kính gốc 8 tấc về tới sân bản doanh.Nhưng rồi cả “triều đình” không ai biết cách nào để dựng cột cờ lên được. “Đại nguyên soái” phải cho người qua chùa Lá (Vạn Linh) đón hai thầy trò Thiện Quang và Thiện Thới (tức ông Hai Sự, người rất giỏi võ và có sức khỏe thật phi thường) sang trợ giúp.
Lúc dựng cờ xong, Giáo chủ và “Đại nguyên soái” rất vui nên cho mở tiệc ăn mừng.Bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo đến, rồi một cơn cuồng phong nổi lên.Lá cờ dài hơn 3 mét, rộng 2 khổ vải, thêu 4 chữ “Hoàng đế xuất dương” bị gió lốc cuốn phăng đi. Mãi mấy tháng sau, mới có người tìm thấy “ông”( tức lá cờ) nằm tận bên vồ Thiên tuế.Còn cây cờ bị mưa ập xuống quật ngã làm hư hại nhiều “đền đài”.
Riêng“Đại nguyên soái” cùng mấy bà “phi tần” bị giông tố hất văng xuống khe sâu.Sau khi cấp cứu sơ, ông Hai Sự đồng ý nhận lãnh việc đưa mấy bà này xuống núi vào nằm nhà thương ở chợ Sà- tón ( nay là chợ Tri Tôn )…
 
Năm ngoái tôi có đến thăm và ngủ đêm tại chốn này.Trên đỉnh đồi xưa, giờ chỉ còn một ngôi chùa nhỏ đơn sơ, quạnh quẽ; tên Cao Đài Tự; môt dãy nhà  tol lá dành cho khách thập phương tạm trú…
 
 
Bùi Thụy Đào Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2007 20:09:59 bởi rongxanhag >
#1
    rongxanhag 22.07.2007 20:13:55 (permalink)
    VI. Huyền thoại đạo sĩ Cấm Sơn
     
    Qua bao đời, núi Cấm vẫn còn lưu truyền những chuyện kỳ bí, và cái thời thú dữ như hùm beo, mãng xà, rắn độc... còn ngự trị trên ngọn núi cao vời vợi này thì đây cũng là nơi các đạo sĩ, chí sĩ ẩn danh giúp đời. 
    Dựa vào bộ sưu khảo "Nửa tháng trong miền Thất Sơn" và "Thất Sơn mầu nhiệm" do cụ Nguyễn Văn Hầu biên chép, chúng ta có thể biết thêm vô vàn chuyện kỳ bí về vùng đất bán sơn địa này. Cụ Hầu có đề cập đến các đạo sĩ tài danh ẩn thân thâm sơn cùng cốc như Bảy Do, Cử Đa và Đơn Hùng Tín..
     Được biết, từ năm 1919 tại sườn núi hoang vắng này xuất hiện một thảo am với một đạo sĩ quê Bến Tre khoác áo tràng đen, đi chân đất, đầu búi tóc, ngày hai buổi ngồi thiền, đến đêm lại luyện võ dưới bóng trăng. Đạo sĩ đó là Bảy Do tức Nguyễn Văn Do - cháu của người anh hùng dân tộc Thủ Khoa Huân. Chán cảnh nước mất, giặc Pháp bạo tàn nên ông Bảy Do lên núi Cấm tu đạo cứu đời. Ông xây chùa đặt tên Nam Cực Đường và thu nhận môn đồ, chí sĩ yêu nước.
    Cụ Cử Đa chán cảnh ngoại bang ngang ngược nên bỏ chức lộc gia nhập theo nghĩa quân Thủ Khoa Huân chống Pháp. Khởi nghĩa thất bại cụ Cử Đa đã tới non cao hiểm trở này ẩn danh tu đạo lấy hiệu Ngọc Thanh.
     
    Người dân còn truyền tụng về đạo sĩ Lê Văn Tín, vốn ở rạch Cái Sao, làng Nhị Mỹ, quận Cao Lãnh cũ. Tín là tá điền thấy địa chủ và thực dân bóc lột đàn áp dân nghèo nên căm phẫn lên non cao tầm danh sư. Sau đó, Tín xuống núi đi cướp của bọn giàu có bất nhân chia cho người nghèo. Tín rất thích biệt danh Đơn Hùng Tín - tên một vị tướng trung dũng Trung Quốc, riêng dân bạn Biển Hồ (Campuchia) tâm phục nên thành kính gọi Tín là Luôn Tín. Với tài nghệ xuất quỷ nhập thần, Tín đã gây kinh hoàng cho bọn ác bá và nhà cầm quyền Pháp. Nhà văn quá cố Nguyên Hùng khi đề cập đến các nhân vật "giang hồ lục tỉnh" đã thương cảm rằng Tín sanh bất phùng thời.
    Sau thời của ông Bảy Do, Cử Đa, Đơn Hùng Tín, chúng tôi còn nghe có các đạo sĩ mai danh trên núi Cấm như ông Trương Minh Thành, Mười Hột, Sáu Phu. Ông Thành hiền lương, sống xa thế tục, chọn chốn non cao ngồi thiền, luyện võ thuật. Giỏi võ nhưng ông dùng sức mạnh đó để diệt trừ các loài mãng xà, ác thú hại người. Có truyền thuyết rằng có con mãng xà vương tên là Phi lân xà hại dân lành. Hay tin, ông Thành đã hạ sơn trừ hại rắn dữ…
    Nhưng người khai hoang đầu tiên trên Núi Cấm không phải là đạo sĩ vừa kể mà là vào những năm 1850,ông Đoàn Minh Huyên, người đời sau còn gọi là Phật thầy Tây An đã cùng với rất nhiều môn đệ đặt những bước chân đầu tiên lên đỉnh Núi Cấm. Phật thầy đã thực hiện giáo lý tự tu tự độ, hướng dẫn môn đệ khai hoang nhiều nơi ở miệt An Giang, Núi Cấm là một vùng trong số đó.
     
    Ban ngày các tín đồ đi khai hoang, đêm về thì lễ bái, niệm Phật, tham thiền. Theo tinh thần vô vi, nhập thế, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương dù xuất gia cũng vẫn phục sức như người thường và tự làm lấy để sống mà tu. Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương nhiều người đã tuân theo thuyết nhập thế ấy, hòa với chúng sinh để giúp đời.
    Phật thầy Tây An có 2 đại đệ tử là cụ Đình Tây và cụ Tăng Chủ, 2 cụ có đức lớn, đạo pháp uyên thâm, võ dũng phi thường. Có một truyền thuyết về cụ Tăng Chủ thế này: cụ Tăng võ nghệ rất giỏi, hình vóc cao lớn, miệng rộng, tai dài, tiếng nói sang sảng. Ông có tài áp phục thú dữ, có lần ông Tăng Chủ một mình cầm mác rượt... cọp, khi đánh con cọp bất tỉnh, ông không giết mà lại thả cọp về rừng, từ đó, con cọp cũng “tu” và không dám bén mảng tới khu dân ở…
    VII.Và đạo sĩ cuối cùng trên đỉnh Cấm Sơn
    Háo hức với huyền thoại về các đạo sĩ một thời tạo nên truyền kỳ Thất Sơn, chúng tôi quyết định vượt dốc ngàn lên núi Cấm với hy vọng có chút cơ duyên gặp lại các truyền nhân mai danh ẩn tích. Anh xe ôm tên Lành quả quyết rằng trên núi này còn nhiều đạo sĩ lắm, đạo sĩ Tư Cao, đạo sĩ Năm, Ba Lưới. Vị đạo sĩ thâm niên nhất là Ba Lưới, có mặt trên núi Cấm thời trai trẻ và từng đánh chết mãng xà. Ba Lưới được dân núi kính trọng bởi ông sống một đời hiền lương. Ông cũng là người thông thạo các loại thuốc quý hiếm trên đỉnh Thất Sơn và hết lòng bốc thuốc cứu người.
     
    Trước mắt chúng tôi là một đạo sĩ đạo mạo với gương mặt đẹp lão. Năm nay đã 88 tuổi nhưng ông Ba Lưới vẫn còn minh mẫn, tinh anh. Theo ông Lưới thì sau thời ông Trương Minh Thành, ở Vồ chư thần có hai anh em là Sáu Hột, Mười Phu tu luyện cùng thiên nhiên, mây ngàn. Hai ông rất giỏi võ và dùng võ học đánh thú dữ, trừng phạt kẻ bạo ngược. Những vị này đã tạ thế nhưng đạo hạnh và tấm lòng vì dân vẫn được truyền tụng.
     

     
    Ba Lưới kể, ông tên thật là Nguyễn Văn Y, quê gốc ở Chợ Mới, An Giang. Năm 20 tuổi, mến cảnh rừng thiêng nên một mình can đảm vượt non xanh tầm sư. Lúc đó, núi Cấm đường dốc trơn tuột chưa có lối mòn sẵn như bây giờ, cây to che phủ tứ bề, sơn lam chướng khí trùng trùng, 3 - 4 giờ chiều là nắng hết rọi tới. Mỗi khi trèo non vượt núi phải gánh gạo, mắm thóc theo nên đi đứng khó khăn lắm. Giữa chốn u tịch hoang vắng rợn người này ai chân yếu, tâm linh xằng bậy, một tiếng hổ gầm, rắn độc ngáng lối cũng có thể khiến bủn rủn té nhào. Những năm 1945 - 1947, cọp beo, rắn rít, heo rừng tràn đầy, có lúc gặp cả thú hiếm như bạch hổ và hắc hổ. Còn rắn mãng xà to cỡ như rắn hổ mây thì lềnh khênh!
     
    Ông Ba Lưới còn nhớ, nếu không có võ công và đảm lược mình đã làm mồi cho hổ mây đen. Trưa đó đang lên dốc núi, đột ngột thấy một khúc đen thui nằm vắt ngang cây, ông lạnh mình khi thấy đó là con rắn hổ mây trên 140 kg. Nghe động, nó ngóc đầu dậy nhìn ông bằng cặp mắt đỏ ngầu. Biết không tránh khỏi cuộc ác đấu nên ông lùi lại cầm cây đòn gánh xuống tấn thủ bộ. Từ trên cây, rắn rít lên và vung đuôi lao tới như gió lốc. Ông Ba Lưới bình tĩnh nhìn rõ cái chóp đuôi di chuyển rồi lấy sức quét cây đòn gánh vào cổ rắn. Chỉ nghe một tiếng rốp khô khan con rắn bất tỉnh và cây đòn gánh gãy làm đôi.
    Lần thứ hai, ông Ba Lưới lại đụng đầu con rắn hổ mây đen khoảng 60 kg và cũng đánh chết nó. Ông Ba Lưới nói, 15 năm trước ông cũng mở cửa nhận môn đồ dạy võ công nhưng phần đông học để khoe mã, cậy thế làm xằng nên chán nản ông đóng cửa bế môn.
    Nhưng núi Cấm đâu chỉ có hùm beo, mãng xà, nó còn là kho thuốc với các loại dược liệu quý hiếm. Trầm hương, một loại cây quý cũng từng mọc ở nơi này. Mỗi vị thuốc công năng công dụng khác nhau được ông Ba Lưới hết lòng vun dưỡng, nuôi trồng phòng ngừa giúp người gặp nạn. Người dân đánh nhau u đầu bể trán hoặc bệnh thổ tả, sốt rét hay đau khớp, gai sống, viêm thần kinh, động phong, đau đầu, đều tìm đạo sĩ Ba Lưới cầu cứu. Trên đỉnh núi xa lắc xa lơ này nếu không có những bài thuốc quý và tấm lòng như Ba Lưới dân núi khi lâm bệnh hiểm nghèo khó mà xoay xở được.
     
    Ông Ba Lưới chỉ buồn một nỗi: "Các cây thuốc hiếm hồi xưa mọc nhiều nay mười phần tiêu hết tám. Mấy thứ dược liệu như dây điển điển núi, sâm đất, ngải móng trâu, đỗ trọng, hồng khấu, sa nhơn, kỳ nam, ngải tượng, cam thảo... khó tìm lắm, có khi phải mò khắp mấy triền núi vắng mới mong có mà bốc thuốc cho bệnh nhân. Ngày xưa, tao tầm được thuốc quý phải khấn vái chư thần, coi cây nào nhổ được cây nào dưỡng, không phải nhổ ráo trọi, bứng gốc bẻ cành láng lềnh như mấy "ông thầy bà" bây giờ đâu!".
     
    Huyền thoại và sự thật về các đạo sĩ Cấm Sơn chân tu xưa nay là vậy. Song lần hồi, cuộc sống xô bồ xô bộn, nhiều "đạo sĩ dỏm" đã dựa vào chốn linh thiêng, lừa gạt nhân gian làm điều bất chính. Chẳng hạn như "đạo sĩ" H.K ở núi Bạch Hổ mượn các trò đồng cốt, hay như "đạo sĩ" H. mở am truyền đạo thu hút nhiều nữ đệ tử bày trò mờ ám. Hoặc là chuyện "đạo cô" Tư hay ngồi dưới gốc cây bồ đề gần chùa Phật Lớn để xủ quẻ bói xằng bậy cho khách…
    VIII.Tạm kết bài viết :

    Không có cái dáng dấp hùng vĩ và trùng điệp như những dãy núi ở Tây Nguyên, nhưng nơi núi non này nổi tiếng là vùng bốn mùa cây lá xanh tươi, khí hậu mát mẻ, trong lành; nên được mệnh danh là "Đà Lạt 2".Một ý nghĩa khác nữa, núi Cấm ở An Giang còn là một phên dậu mà thiên nhiên đã ban tặng để bảo vệ vùng đất phía tây của đất nước.
    Điều đáng nói nữa là 70% cư dân trên núi Cấm sống nhờ vào nương rẫy như trồng su, tiêu, cải xà lách xon… nên cũng khá bấp bênh.Chỉ một số ít sống được nhờ vào “du lịch”.Kề cận chùa Phật Lớn giờ đây đã có nhiều nhà trọ giá rẻ; một khu chợ, hàng hóa cũng khá đủ đầy.Dọc đường đi, du khách có thể thưởng thức món trái su non đem luộc chín nguyên trái, tôi bảo đảm món bầu bí luộc phải nhường cho nó đứng đầu. Nhưng khoái khẩu nhất là món bánh xèo, bánh chay hay mặn đều có, ăn kèm với đủ loại rau rừng lắm hương vị mà ở đồng bằng không sao tìm được; với giá cả khá dễ chịu…
    Hiện nay, tỉnh An Giang cho tráng nhựa tuyến đường mòn từ chân núi đến chùa Phật Lớn. Đây là tuyến đường chính giúp khách hành hương vừa rút ngắn cuộc hành trình vừa đỡ vất vả. Trong tương lai, sẽ có thêm các loại hình giao thông từng đoạn như cáp treo, xe ngựa...
     
    Khu du lịch cũng sẽ ra sức bảo tồn rừng nhiệt - ôn đới, gồm cây, thú, rừng đặc chủng, rừng hỗn giao, rừng trồng để xanh hóa môi trường và làm phong phú cảnh quan, đồng thời mở thêm các cụm dịch vụ du lịch với các khu nghỉ dưỡng, khu di tích và làng văn hóa, khu du lịch hành hương với diện tích cả ngàn hec-ta, đặc biệt là khu chùa Vạn Linh nằm cạnh khu rừng bốn mẫu trồng toàn tràm bông vàng và keo tai tượng, quanh năm xanh mát.
    Khi chùa Phật Lớn được trùng tu, nâng cấp, hồ chứa nước 60.000m3 đưa vào sử dụng, núi Cấm sẽ hình thành nét hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với cảnh quan nhân văn, giữa công trình kiến trúc và công trình thiên tạo…
    Tất cả sẽ giúp nhiều người dân nơi đây có cuộc sống đủ đầy hơn và núi Cấm khi ấy thật sự trở thành khu du lịch sinh thái, văn hóa, giáo dục, lịch sử; thật sự mang một sắc thái riêng của Đồng bằng sông Cửu Long.
     
    Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn
     
     Tài liệu tham khảo:
     
    -Nguyễn Văn Hầu, sách “Nửa tháng trong miền Thất Sơn”.
    -Theo Bảo Tuấn, báo Nhân Dân…
    -theo web của sở du lịch An Giang
    -Thanh Dũng, báo Thanh Niên ra ngày 01 tháng 01 năm 2002
    -Trần Quang Mùi, báo Thất Sơn số 40, tháng 6 năm 1998
     
     
    Đã mang vào thư viện
    Cảm ơn Rongxanhag nhiều nhé
    Chúc vui 
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.07.2007 19:36:00 bởi Ct.Ly >
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9