Truyện dài HAI CHI EM của CUNG THI LAN
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 53 bài trong đề mục
Cung Thi Lan 23.07.2007 08:23:21 (permalink)
Hai Chị Em
Truyện dài tình cảm xã hội
của
Cung Thị Lan
 
Họa sĩ vẽ tranh bìa: Nguyễn Thế Huỳnh (hls)
 
Xuất bản ngày 04 tháng 10 năm 2005
 
Tác giả giữ bản quyền.
Đăng ký tại U.S.Library of Congress
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.08.2007 19:04:35 bởi Ct.Ly >
#1
    Cung Thi Lan 23.07.2007 11:46:56 (permalink)
        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/2452/6BAA1F7042DE4C93974BC5EB13FD4A0F.jpg[/image]
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.08.2007 22:19:50 bởi Ct.Ly >
    #2
      Cung Thi Lan 23.07.2007 11:52:40 (permalink)
       
      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/2452/8851548C40DC4D1188B4DB75C6036D62.jpg[/image]

      HAI CHỊ EM


      Truyện dài tình cảm xã hội của Cung Thị Lan
      Xuất bản ngày 04 tháng 10 năm 2005

      Tác giả giữ bản quyền.
      Đăng ký tại U.S.Library of Congress
       
       

      Chương Một

      Những ngày trước lễ Giáng Sinh thường là những ngày bận rộn của các tín đồ công giáo, những ngày mong đợi của những đứa trẻ nhà giàu, và cũng là ngày vui của hai chị em con nhỏ. Chúng không phải là con của gia đình công giáo, cũng không phải là những đứa trẻ của gia đình giàu, nhưng chúng luôn luôn mong chờ ngày quan trọng này bởi vì mỗi năm chỉ có một lần, một lần mà thôi. Trong một lần ấy, chúng được nhìn thấy cây Nô-en rực rỡ với những dây kim tuyến lấp lánh và những trái sáng bóng loáng như những khối cầu thuỷ tinh màu trắng hay đỏ nổi bật trên nền xanh của lá trong ngôi nhà lớn của bác Cả; chúng còn được chứng kiến cảnh bốc quà thú vị; hoặc được nhận một vài món quà nho nhỏ hoặc được ăn một vài món là lạ mà chúng không bao giờ nếm được chút nào trong năm như gà nấu ra gu, hay bánh ga tô.
      Năm ấy, những ngày trước lễ Giáng Sinh không còn là những ngày vui của hai chị em con nhỏ. Chúng đã bị mất đi những ngày vui trong năm chỉ vì chuyện xích mích xảy ra giữa cô Út và mẹ của chúng.
       
      Sáng sớm, khi sương đêm vẫn còn ướt đẫm trên cây lá trong vườn, mẹ của hai đứa nhỏ đã phải ra vườn để quét dọn. Nhìn thấy cái chổi mới cạnh cái chổi cũ ở một góc nhà kho gần cây ô ma, bà đinh ninh có thể dùng nó để quét sân nên tự ý đem ra dùng. Ngờ đâu việc làm không xin phép của bà đã gây cho sự xung khắc giữa bà và cô em chồng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Tiếng chổi quét lá vừa vang lên từ khu vườn vắng, cô Út vội vàng bước ra khỏi ngôi nhà lớn bằng cửa sau để đi kiểm tra. Tức giận tột cùng với hành động ngang nhiên dùng cái chổi mới của người chị dâu, cô đã giựt cái chổi lại, rồi mắng lấy, mắng để về cái tính tự ý, tự thị. Quá đáng hơn, cô đã dùng cái chổi mới xỉ vào mặt của bà mẹ và tuôn ra những lời mất tự chủ. Xui xẻo cho cô, người đàn ông hiền lành đẹp trai, người ngoan đạo công giáo, người chồng đã đính hôn với cô, xuất hiện trên lối sỏi từ cổng nhà lớn hướng về cái sân gạch đàng sau, nơi mà ông chứng kiến rõ ràng người vợ sắp cưới của ông đang xỉa xói người đàn bà mất chồng đáng thương.
       
      Không ai hiểu vì sao ông ta lại xuất hiện trong khuôn viên của đại gia đình họ Hoàng sớm như thế. Cả mẹ của hai con nhỏ và cô Út đều sững sờ và kinh ngạc khi giáp mặt với ông. Cả hai im lặng, bối rối và mắc cỡ vì chuyện riêng tư trong gia đình hai người đã bị phát hiện. Người đàn ông này cũng im lặng như cô Út và mẹ hai đứa nhỏ. Ông đã không nói nguyên nhân nào khiến cho ông phải đến thăm nhà khi mặt trời chưa ló dạng, cũng không hề bình phẩm một lời nào về những gì ông đã chứng kiến mà ông chỉ lặng lẽ quay ra chiếc cổng gỗ trước ngôi nhà lớn. Khi chiếc cổng khép lại, và cái dáng cao gầy của ông ta khuất sau bức tường thành, sự im lặng của ông vẫn còn lưu lại trong khu vườn. Thái độ lạ lùng của ông đã làm cho cô Út ngưng bặt những lời chửi rủa dữ tợn. Cô cầm cái chổi mới đem lại nhà kho, đặt nó ở đó rồi quay vào ngôi nhà lớn. Sự xuất hiện và bỏ đi không báo trước của người chồng sắp cưới của cô Út, cộng thêm cái nín lặng đột ngột của cô ấy làm cho bà mẹ bàng hoàng và sợ sệt như người vừa phạm trọng tội. Ngẩn ngơ trên sân đầy lá úa vàng một lúc, bà lặng lẽ trở lại góc nhà kho, lấy cái chổi cùn và cũ, rồi tiếp tục quét sạch toàn khắp khu vườn.
       
      Từ ấy đến chiều tối, người chồng sắp cưới của cô Út không trở lại. Cô chờ mãi, chờ mãi đến ngày hai mươi bốn tháng mười hai dương lịch, ông vẫn biệt tin. Không ai biết là cô Út có đến nhà vị hôn phu của cô để phân giải hay biện bạch những gì đã xảy ra không; chỉ biết là sau ngày ấy, ông ta không còn trở lại khuôn viên của đại gia đình họ Hoàng thêm một lần nào nữa. Sự biệt tăm, biệt dạng của vị hôn phu của cô Út như báo hiệu là ông đã rời thành phố biển và chối bỏ những ước thề trong buổi đính ước với cô ngày nào.
      Tội nghiệp cho cô Út đã phải im lặng chờ đợi mãi đến ngày Giáng Sinh và cuối cùng đi lễ một mình. Cô thường đi lễ nhà thờ bởi vì cô đã rửa tội thành người công giáo, vì ý muốn của người chồng sắp cưới của cô và vì hạnh phúc lứa đôi của cô sau này. Năm ấy, cô Út đi lễ nhà thờ trong ngày Giáng Sinh không phải vì lề thói, phục tùng hay ước nguyện mà vì cô hy vọng gặp lại người chồng sắp cưới của cô.
      Hai chị em con nhỏ cũng tội nghiệp như cô Út. Chúng chờ đợi, đếm từng ngày, và bàn luận về những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Giáng Sinh năm trước thế mà cái ngày mong đợi ấy đến từ lúc nào chúng không hề hay biết. Cũng năm ấy không biết tình cờ hay chủ ý mà sau khi người chồng sắp cưới của cô Út biệt tăm, hai ông bà bác Cả không trưng bày cây Nô-en trong phòng khách và cũng không đề cập gì đến tiệc Giáng Sinh. Trong đại gia đình họ Hoàng, mọi người theo hai tôn giáo khác nhau: Công giáo và Phật giáo. Ông bác Cả, bà bác Cả và cô Út là những người theo đạo Công giáo và là những người mà hai đứa nhỏ khó gần họ để tâm sự hay hỏi han. Còn những người khác như bà nội, cô Sáu và mẹ của chúng là những người theo đạo Phật giáo nên chẳng ai quan tâm đến những ngày lễ của đạo Công giáo. Mãi cho đến ngày bà bác Cả báo cho mẹ chúng biết là hai vợ chồng ông bà sẽ ăn lễ Giáng Sinh tại nhà con cháu của ông bà và bà mẹ không phải bày dọn thức ăn chiều cho ông bà tại phòng ăn như mọi hôm thì hai con nhỏ hiểu là chúng sẽ không được chứng kiến cảnh ăn lễ Giáng Sinh trong ngôi nhà lớn và cũng không được nếm những món đặc biệt do bà bác Cả chỉ đạo như mọi năm.

      Chiều vừa đến, bà mẹ gọi hai chị em con nhỏ về nhà và cho chúng ăn cơm. Thức ăn nguyên vẹn chứ không phải là những phần thừa thải như những lần trước; thế mà hai con nhỏ không muốn đưa đũa lên để gắp món nào. Qua loa lấy lệ vài miếng, hai đứa chạy ra khỏi nhà của chúng ngay. Hối hả leo lên hiên gạch bông của ngôi nhà lớn, chúng vẫn còn nuôi hy vọng là sẽ được thấy cây Nô-en với những món quà trong phòng khách của bác Cả và sẽ có một vài món quà trong ấy. Đáng tiếc thay, những bước chân hăm hở của chúng khựng lại một cách ngỡ ngàng và những đôi mắt háo hức của chúng trở nên thất vọng ghê gớm khi chúng thấy hai cánh cửa ra vào của nhà bác Cả đóng kín mít. Tựa người vào những song sắt của khung cửa sổ đang mở rộng, cả hai nghiêng đầu nhìn vào trong. Không có cây Nô-en, không có quà. Mọi vật quen thuộc cũ đang im lìm trong căn phòng khách vắng người. Nhìn nhau buồn bã, hai đứa ngồi bệt trên cái hiên hành lang rồi cùng nhìn mông lung về phía căn nhà nhỏ nơi mà ba mẹ con chúng cư ngụ. Từ căn nhà nhỏ của mẹ con chúng đến ngôi nhà lớn của hai bác Cả là khu vườn với vô số cây ăn trái. Hàng dừa nghiêng ngọn về phía mái ngói của căn nhà nhỏ như muốn đe doạ là chúng có thể ngã xuống bất cứ lúc nào. Cây vú sữa to sừng sững giữa khu vườn gần giếng với nhiều cành lá um tùm. Tàn cây của nó gần như che kín khoảng không gian rộng thật rộng giữa khu vườn. Hàng cây mãng cầu, cây mận xanh cạnh bức tường thành vươn nhiều cành cân đối đẹp mắt. Cây khế, cây sa bô chê và cây ô ma mọc xen kẽ từ giếng đến tận nhà bếp của bà nội và bác Cả. Những loại cây ăn trái trong vườn chỉ khêu gợi hai đứa nhỏ khi chúng đói và thèm ăn; còn lúc này chúng không có giá trị gì bởi chỉ vì chúng không phải là cây Nô-en. Chúng chỉ có lá và trái chứ không có quà. Chúng không có đèn, cũng không có những dây kim tuyến lấp lánh. Chúng chỉ biết vui đùa với nắng, với gió và muôn đời khoác một màu xanh mà thiên nhiên dành cho chứ không bao giờ được trang điểm bằng những sắc màu khác của những vật trang trí, hoặc những món quà để có thể làm vui và gây hy vọng cho hai đứa nhỏ này được. Bên hông hiên nhà lớn, dọc theo lối từ trước nhà đến sân gạch đàng sau là bụi hoa bông bụt Tây, rồi đến một dãy hoa dâm bụt ta với những cánh hoa đỏ thắm. Trời xế chiều mà màu thắm của cánh hoa vẫn còn nổi trên cành lá rời rạc như những cái chuông đỏ nhỏ với cái nhuỵ dài. Những cái nhuỵ như muốn làm duyên dáng thêm cho những cánh hoa; tuy nhiên, chúng cũng không đủ sức cám dỗ sự yêu thích của hai đứa nhỏ.

      Không một cây ăn trái, cũng không có một cây hoa nào trong vườn có thể thay thế cho cây Nô-en mà hai đứa đang mơ ước. Buồn bã, chúng tựa sát vào nhau, yên lặng nhìn cảnh vật im lìm dưới bóng tà dương. Đột nhiên, con nhỏ chị nhảy bật khỏi hiên gạch bông đang ngồi và chạy đến khóm hoa bông bụt Tây cạnh đấy, la to:

      - Mình có cây Nô-en rồi!
      Con em ngơ ngác nhưng cũng lồm cồm tuột xuống khỏi cái hiên, đến chỗ con chị:

      - Đâu? Đâu?
      Con chị chỉ vào khóm hoa:
      - Đây nè, em thấy chưa! Khóm hoa này đầy lá xanh lá cây đậm như màu lá của cây Nô-en đó! Và những búp hoa đỏ nho nhỏ của nó là những chiếc đèn búp nhỏ màu đỏ.
      Hướng theo ngón tay của chị, con em reo lên:
      - Mình đã có cây Nô-en! Cây Nô-en với nhiều chiếc đèn đỏ! Nhiều đèn đỏ quá đi! Cây Nô en của chị em mình đẹp nhất trên thế gian này!…Nhưng còn quà nữa, quà đâu chị Hạ?

      Con chị đi vòng quanh khóm hoa, vừa chỉ vừa nói:
      - Đây nè! Nhiều gói quà ở dưới gốc cây Nô-en đây nè. Bây giờ mình chơi mở quà Nô-en nghe Vy!
      Con em gật đầu ngay sau khi nghe lời đề nghị của chị. Nó hoàn toàn hoà vào sự tưởng tượng của con này:
      - Chơi, em chơi mở quà! Nhưng chị phải cho em mở quà trước!
      - Được rồi, chị cho em mở quà trước! Em thích quà gì?
      - Em thích một con búp bê!
      - Một con búp bê hả? Quà có con búp bê mà! Để chị lấy cho em nhen!

      Con nhỏ chị đưa tay nghiêng người cúi xuống đất giả bộ lấy món quà tưởng tượng đưa cho con em:

      - Đây nè, em mở đi!
      Con em cũng giả bộ như chị. Nó làm ra vẻ như đang mở quà; hai tay ôm vòng trước mặt đong đưa, điệu bộ như đang ru em bé. Con chị chăm chú nhìn từng cử động của con em, hỏi dồn:

      - Em thích nó không? Nó đẹp không?

      - Đẹp chứ! Búp bê thì đẹp rồi!
      Con chị gật đầu nhưng không hỏi thêm về con búp bê. Nó hỏi sang chuyện khác để không phải nghe con em tả con búp bê khác với sự tưởng tượng của nó:
      - Em muốn mở quà nữa không?
      - Không. Bây giờ đến phiên chị. Chị mở quà đi.

      Con chị tần ngần:
      - Chị không muốn quà nữa.
      - Chớ chị muốn cái gì?
      - Chị cũng thích một con búp bê. Nhưng mà không còn nữa.
      - Sao hồi nãy chị nói là nhiều quà xung quanh "cây Nô-en"?
      - Thì nhiều quà nhưng quà khác kìa!
      - Thì chị lấy quà khác đi!

      - Chị không biết cái gì để lấy. Mà chị không thích cái gì trong "đống” quà này nữa!
      - Vậy chứ chị thích cái gì?
      - Chị thích một trái sáng.
      - Vậy thì chị lấy đi.

      - Đâu có đâu mà lấy?
      - Em lấy búp bê được, chị lấy trái sáng được chứ!

      - Nhưng cây Nô-en này chỉ có đèn thôi không có dây kim tuyến hay trái sáng gì cả.
      Trong khi hai con nhỏ đang tranh cãi, cô Út đi từ cổng vào. Cô mặc áo dài trắng, búi tóc cao để lộ xâu chuỗi hạt trai sáng trắng lóng lánh chẳng khác nào những trái sáng con con. Con nhỏ chị đứng nép vào bụi hoa chờ cô dừng lại như những lần trước để nhìn kỹ hơn những viên ngọc trai ấy. Nó còn ao ước có được những hạt trai của cô Út trong bàn tay để nó có thể vân vê và lăn chúng qua lại, rồi soi mặt vào trong ấy như những lần nó đã lén những người lớn soi mặt trên những trái sáng được treo trên cây Nô-en trong phòng khách nhà bác Cả khi mẹ nó sai vào đó mời ông bà bác Cả dùng cơm trưa. Nó định chào cô để được nhìn những hạt trai lâu hơn, nhưng chưa kịp mở miệng, cô đã đi lướt qua mặt thật nhanh. Cô lạnh lùng như không thấy chị em chúng, cũng như không thấy con Ki ki và con Vàng đang vẫy đuôi mừng rỡ vây quanh cô. Lần đầu tiên cả hai con nhỏ không thấy cô Út ngừng lại để vuốt ve hai hai con vật mà cô yêu thích nhất trong khuôn viên nhà, như đã từng.
      Thường thường, mỗi chiều chủ nhật hay những ngày lễ công giáo, cô Út diện những chiếc áo dài đẹp và các loại trang sức đắt tiền để đi nhà thờ cùng với vị hôn phu sắp cưới của cô. Mỗi lần như thế, cô thường cười vui sánh bước vào nhà với người bạn đời tương lai và hai người thường ngừng lại hỏi thăm hai đứa nhỏ khi thấy chúng lân la trước cổng. Có lúc cô đưa tay vỗ trên đầu hai đứa để cho chúng có dịp hít mùi thơm nước hoa của cô hoặc nhờ chúng giữ hai con chó để chúng không làm bẩn chiếc áo dài đẹp của cô.

      Khuôn mặt của cô Út hôm ấy biểu lộ lạnh lùng và khác lạ khiến hai con nhỏ hồi hộp và lo sợ. Chúng ngờ có chuyện chẳng lành sắp xảy ra cho mẹ của chúng nên cả hai chạy toáng về nhà. Căn nhà với cánh cửa gỗ mở hé và trong ấy chiếc đèn dầu leo lét đã chuẩn bị sẵn trên bàn; thế nhưng chẳng có bà mẹ nơi đâu. Hồi hộp và lo lắng, hai đứa lấp ló trước cửa ra vào nhìn về phía ngôi nhà lớn. Chúng biết mẹ chúng đang còn phải làm việc nhà cho ông bà bác Cả cho nên chưa có thể về nhà. Cả hai đứa toan gọi thật lớn để giục mẹ về sớm và trước khi những tai biến có thể sắp xảy ra. Thế nhưng chưa kịp cất tiếng kêu, chúng đã nghe tiếng chửi vang lên dữ dội:
      - Hại tau cho hả dạ đi, thứ chó! Sư cha bà tổ quân ác độc!

      Không có tiếng trả lời của bà mẹ và hai đứa nhỏ lại nghe thêm giọng la the thé của cô Út:
      - Trời tru đất diệt thứ chó chết! Mày hại tao! Mày hại tao! Hại tao hỉ? Trời chừa mày răng? Ma quỷ thánh thần bầm thây mày ra! Tưởng trời chưa hại mày hử? Trời hại mày rồi đó thê! Thứ đàn bà sát phu! Bị trời hại đáng kiếp! Mày bị trời hại nên chừ mày cố mà hại tao mờ!
      Những lời chửi bới hung dữ và cay độc được lập đi lập lại nhiều lần đến nỗi hai đứa nhỏ tưởng chừng như cô muốn mọi người thuộc lòng. Loáng thoáng với những tiếng nghe tiếng mất, hai con nhỏ lờ mờ hiểu rằng cô Út căm ph?n mẹ chúng ghê gớm lắm. Và điều này làm chúng sợ không dám rời căn nhà của chúng một bước nào. Bấy giờ, tiếng nói nho nhỏ và đứt quãng của bà mẹ vang lên từ phía sân gạch sau ngôi nhà lớn của bác Cả. Hình như bà đang phân trần một vài điều gì đó mà tiếp theo những lời phân trần này không có một sự cảm thông nào ngoài giọng nói nhão nhoẹt bắt chước của cô Út ngân xa. Cô đã kéo giọng nói dài thật dài để nhại giọng nói quê mùa của bà mẹ. Cô đã lập đi lập lại không ngừng những gì bà vừa thốt ra.
      Cuối cùng cô tuôn một tràng thách thức và gây sự:
      - Đồ cái thứ nẫu! Đồ cái thứ quê mùa! Anh tao đui mù mới lấy cái thứ quê mùa như mày! Thứ như mày không đáng sống trong nhà tao, trong gia đình tao!
      Cô càng nói bao nhiêu, hai đứa nhỏ càng hồi hộp và lo lắng bấy nhiêu bởi vì những từ cô dùng lạ lùng đến nỗi chúng không thể nào hiểu hết được nguyên nhân vì sao có sự xung đột xảy ra giữa cô và mẹ của chúng. Chúng chỉ biết tự trấn an bằng cách ngồi sát vào nhau và cùng giương những con mắt lo lắng bồn chồn chờ mẹ về. Bà mẹ dường như chưa có cách nào để thoát khỏi sự xung đột; bà tiếp tục khóc và nói như để tự minh oan. Tiếng khóc nức nở của bà văng vẳng trong đêm thanh vắng đã khiến con chị nóng ruột. Nó kéo tay con em đứng lên, dợm bước toan chạy thật nhanh. Thế nhưng, bước chân của chúng chưa đến bậc cuối cùng của tam cấp, ý định chạy vào cái sân gạch, tiêu tan theo tiếng la hét dữ dội và khủng khiếp của cô Út. Và rồi cả hai chị em đứng ngay đơ trước cửa nhà như thể đôi chân chúng bị chôn cứng.

      Con em thút thít khóc:
      - Sao má không chịu về vậy hả chị Hạ?
      Con chị cố làm ra vẻ bình tĩnh, trấn an em:
      - Chắc má còn phải làm gì cho bác Cả gái nên chưa về được. Nhưng mà không sao đâu Vy! Ngày nào má cũng bị chửi cả! Cô Út "quen" chửi rồi!
      Con em không ngưng khóc. Nó mếu máo:
      - Em sợ má bị sao đó!

      Con chị cũng lo lắng như con em. Nó biết bà nội và Cô Sáu bênh cô Út chứ không bao giờ bênh mẹ của nó cho nên mỗi khi có sự xung đột thường có nhiều điều bất ổn xảy ra cho bà mẹ. Hai chị em nó đã mất cha, niềm an ủi duy nhất của chúng là mẹ. Qua những thái độ khinh miệt, những cái bĩu môi hay những lời nói xa gần, chúng biết mọi người trong nhà nội không thích mẹ chúng vì sự quê mùa, và kém cỏi của bà. Nhưng mà, cho dù những lời nói móc méo hay cử chỉ khó coi kia có tệ hại đến đâu, cũng không làm giảm giá trị sự hiện diện của bà trong trái tim hai chị em nó. Chúng thương yêu mẹ chúng như yêu một niềm an ủi và nương tựa duy nhất trên cuộc đời. Giờ đây bà mẹ đang đối diện với tai biến khủng khiếp mà với cái tuổi lên tám và lên sáu chúng không thể nào làm được gì cho bà. Tưởng tượng cảnh cô Út hành hạ bà mẹ như những lần chúng từng chứng kiến, nỗi lo sợ của hai đứa nhỏ càng lúc càng lớn. Trong vô thức, hai đứa cùng kéo nhau ngồi xuống tại ngưỡng cửa và thao láo mắt nhìn vào phía sân sau ngôi nhà lớn. Đến lúc ấy, chúng thực sự quên hẳn những món quà và các món ăn của ngày Nô-en. Trong đầu chúng chỉ còn một câu hỏi: "Vì sao mẹ chúng phải cam tâm ở trong nhà nội để nghe những lời chửi bới lâu như thế? ” Buồn bã trong im lặng, hai đứa lắng tai nghe ngóng sự tình.
      Lần này, không phải là tiếng nói của mẹ nó hay tiếng la của cô Út mà là tiếng nói của bà nội, rồi tiếng nói của cô Sáu. Những tiếng nói đều đều cho biết là bà nội và cô Sáu đang phân bày hay giảng hoà. Tuy nhiên, sau tiếng nói của bà nội và cô Sáu, tiếng chửi rủa và la hét của cô Út trở nên dữ dội và inh ỏi hơn. Dù cố lắng nghe những tiếng chửi rủa inh tai nhức óc ấy, hai chị em con nhỏ vẫn không hiểu những lời ấy có ý nghiã gì và nguyên nhân vì sao cô Út xung đột với mẹ của chúng. Chúng chỉ biết là trong những lời tru tréo, mấy cái chữ "mày, mày, tao, tao" mà cô Út sử dụng là những chữ nặng nề mà mẹ chúng thường bắt buộc chị em chúng không bao giờ được xưng với nhau. Chúng còn hiểu rõ rằng cô Út đã dùng hai từ "mày, tao" khi cãi vã với mẹ chúng chứ không phải nói những từ "mi, ta hay tau" của tiếng Huế mà cô thường nói với những người khác.
      Cuộc tranh cãi không cân sức giữa tiếng nói nho nhỏ và tiếng khóc rưng rức của bà mẹ với những tiếng hét la và chửi rủa của cô Út kéo dài mãi đến tận đêm mà vẫn không dứt. Con chị sốt ruột và bực mình vì không thấy mẹ về. Quên cả những con muỗi đang thi nhau chích đốt xung quanh mình, nó ngồi lì với con em ở trước cửa nhà và nhất định chờ mẹ về mới thôi.

      Trời càng về khuya cây cối và cảnh vật trong vườn càng trở nên ảm đạm, và hoang dại thế mà cô Út vẫn chưa thôi cơn tức giận. Không gian tĩnh mịch, trong khoảnh khắc, lại vang lên những tiếng la hét của cô mà tiếp theo sau là những tiếng phân trần của bà mẹ, tiếng rầm rì nho nhỏ của bà nội, tiếng khuyên lơn của cô Sáu, và tiếng soàn soạt của những con chim ăn đêm tạo nên khúc nhạc đệm trầm buồn rời rạc hoà theo. Đột nhiên, tiếng rú kinh đảm của cô Út xé toạc hẳn cái không gian yên tĩnh của trời khuya:
      - Tao đánh cho mày chết! Chết nè!
      Tiếng la thất thanh của bà mẹ vang lên xen lẫn với tiếng tru tréo giằng co của bà nội và cô Sáu. Tất cả các thứ tiếng la hét, chửi rủa, rên rỉ, khóc lóc đã tạo thành âm thanh hỗn độn trong khu vườn.

      Con nhỏ chị vụt đứng dậy, kéo con em lên, nói to:
      - Dậy đi Vy! Theo chị vào trong đó coi má mình có bị đánh không!

      Con em giật mình mở mắt, nắm tay chị, rồi cùng chạy về phía cổng trước ngôi nhà lớn, lần theo bên hông nhà để mon men tiến về sân gạch đàng sau. Đúng lúc hai con nhỏ đặt những bước chân dè dặt đến dãy hoa dâm bụt ta gần chiếc sân gạch, tiếng khoen cài cổng vang lên. Hai con chó Kiki và con Vàng nhảy chồm ra trước nhà sủa ong ỏng, sau đó rít lên mừng rỡ. Chúng quay quanh hai người đang bước vào nhà. Hai bác Cả đi ăn lễ Nô-en về. Cả hai không vào ngôi nhà lớn bằng cửa trước mà đi trên lối sỏi dọc theo bụi bông bụt tây rồi đến dãy bông bụt ta. Hai con nhỏ nép sang một bên nhường lối đi, lí nhí chào:
      - Dạ thưa hai bác mới về.
      Bác gái Cả không trả lời chỉ lo đánh chó; ngăn không cho chúng nhảy lên chiếc áo dài đẹp. Ông bác Cả nhíu mày:
      - Giờ này còn làm gì mà hai đứa chưa đi ngủ?

      Không trả lời, hai đứa nhỏ nhường đường cho ông bà đi trước, rồi rón rén theo sau đến bụi bông bụt ta. Nép vào bụi bông, chúng đưa những đôi mắt tò mò và lo âu nhìn về hướng phía sau ngôi nhà lớn, nơi diễn ra một cảnh tượng hết sức trái ngang.
      Cô Út, bà nội và cô Sáu đang đứng vây quanh một cái bóng người tiều tuỵ đang ngồi bệt, đầu cúi như gần sát xuống sân gạch tối đen. Cô Út vừa chửi, vừa chỉ trỏ hung tợn vào mặt người đang ngồi bệt trên cái sân gạch đầy bóng tối ấy và người ấy lúc nghiêng phía nọ, lúc nghiêng phía khác, lưng rạp xuống sát sân gạch để tránh những cái xỉ mặt tới tấp. Bà nội và cô Sáu đứng hai bên cô Út, can ngăn và kéo ngược cô lại khi cô định giang tay nhào xuống phía dưới. Bất chấp sự có mặt của hai bác Cả, cô không ngừng xỉa xói, la hét và tuôn ra những lời chửi vần điệu.

      Mắt con chị long lên. Nó muốn buông tay con nhỏ em đang đứng cạnh để chạy thật nhanh đến chen vào giữa mẹ nó và cô Út. Nó muốn đẩy hai bàn tay tấn công của cô Út ra khỏi mặt của mẹ nó rồi đỡ thân thể gầy gò của bà mẹ lên để dìu về nhà. Và nó còn muốn hét lên "Đừng ăn hiếp má của ‘tui’ nữa! ”, hay “Tất cả đã đủ cho má tôi lắm rồi! ” Thế nhưng, nó chỉ đứng chôn chân cạnh con em như những lần trước.

      Đúng lúc ấy, ông bác Cả bước nhanh tới giữa hai người. Ông giang tay cao, tát mạnh vào mặt cô Út mấy tát tai liên tiếp và la lớn:
      - Đừng có hỗn quá quắt như ri nghe chưa!
      Tất cả mọi người hiện diện đều sững sờ trước sự bất ngờ; ai nấy đều há hốc miệng và trố mắt kinh ngạc. Còn cô Út như lửa đang bị chế thêm dầu; cô chồm qua người ông bác Cả, cố gắng nhào xuống phía dưới để đánh trả thù bà mẹ cho bằng được. Chưa kịp thực hiện ý định của mình, cô lại bị ông bác Cả trai đá vào ngực cô thêm hai cái nữa.
      Lần này, bà nội hét lên:
      - Đánh nữa đi! Đánh nữa cho hắn chết đi! Tau nói hắn im đi mờ hắn có nghe chi mô nờ!
      Những câu mệnh lệnh của nội dường như chỉ là những lời thách đố cho nên ông bác Cả đã không tuân theo. Ông hừ lên một tiếng rồi bỏ đi. Bà nội, sau khi hét lớn, vừa thở hổn hển vừa mỉa mai xa gần:
      - Anh em chi! Đánh cho hắn chết mới ngạ lòng anh, lòng chị tụi mi!
      Cô Sáu kéo cô Út ra, càu nhàu:
      - Tau can chừng mô mi làm tới chừng nớ mờ! Có nghe tau mô!
      Bà bác Cả thong thả đến trước mặt bà mẹ, nói một cách dõng dạc:
      - Thím đi về ngủ đi rồi mai vào làm cho tôi, hơi đâu mà chầu chực nghe chửi!
      Dứt lời, bà xì một tiếng dài:
      - Không biết dị! Ban đêm mà cãi vã, nói lớn tiếng, không sợ hàng xóm cười! Không ra thể thống chi cả!
      Mặc cho những người đàn bà lao xao nói to, nói nhỏ, khuyên lơn hay mỉa móc, ông bác Cả yên lặng đi thẳng tới cửa sau để đi vào ngôi nhà lớn. Bác cả gái bước theo chồng nhưng không quên quay lại nhìn mọi người bằng đôi mắt khinh thị.

      Có lẽ vì bị đánh đau và vì nghe những lời châm biếm của bà bác Cả mà cô Út không hó hé lời nào nữa. Bà nội và cô Sáu dìu cô ta vào nhà cô Sáu để chăm sóc và khuyên lơn an ủi. Bà mẹ còn lại trên chiếc sân gạch, nơi được bao quanh bởi bức tường sau của ngôi nhà lớn, nhà cô Sáu, dãy nhà bếp của bác Cả với của bà nội và lối ra vườn, ngồi khóc rưng rức.
      Từ trong bóng tối của bụi dâm bụt ta, con nhỏ em vụt ra khỏi tay chị chạy đến ôm bà. Nó khóc nức nở:
      - Má ơi! Má về ngủ với con!
      Bà mẹ ôm chặt con em, gục đầu trên vai nó khóc nấc lên trút hết cơn uất ức mà bà đã chịu đựng. Con chị lặng lẽ đứng yên một chỗ cố định nhìn mẹ và em. Nó đang chờ mẹ nó đứng dậy. Nó chờ mẹ nó đứng lên dắt em nó về để nó có thể bước theo hai người. Mẹ nó không đứng dậy như sự mong chờ của nó. Bà dính chặt trên chiếc sân gạch, nức nở khóc trên lưng con nhỏ em. Bà trông đã mất hết sinh lực sau trận xung đột mà trong đó cái nền gạch trên sân như là vật bám víu độc nhất để bà né tránh cơn thịnh nộ của cô Út.
      Nước mắt tuôn rơi không ngừng, con chị chạy ù về phía mẹ và em, nức nở:
      - Về nhà mình đi má! Đừng thèm "ở đây” nữa!

      Rồi như tủi thân với hai chữ "ở đây” nó nói lớn để trút hết cơn tức giận:

      - "Ở đây” làm gì? Bị chửi chứ được cái gì!
      Nó định nói thêm điều gì nữa để cho nội và mấy cô của nó hiểu rõ sự căm phẫn mà nó chịu đựng từ lúc nghe những tiếng la ó.

      Tuy nhiên với cái tuổi vừa lên tám, nó chỉ nói những lời thách đố lung tung:

      - Chửi hoài cho đã đi! Ở đây toàn người ăn hiếp! Có giỏi thì ăn hiếp khi ba “tui” còn sống đi!

      Con nhỏ em nghe chị nói to thì ngạc nhiên lắm. Nó nín khóc và im lặng trong lòng bà mẹ; còn mẹ chúng thì hốt hoảng, gượng người lên, kéo tay con chị để bịt miệng nó lại.

      - Nín đi! Không được hỗn! Má đi về với tụi con! Má đi về ngay đây!

      Dứt lời bà vụt đứng lên, kéo hai đứa hai bên, đi nhanh về phía căn nhà nhỏ. Đến cái lu cạnh giếng, bà múc nước lau mặt và rửa chân cho con em rồi giục con chị rửa chân rửa mặt để vào nhà ngủ.
      Vừa đặt lưng xuống giường, con em cất tiếng ngáy ngay. Con chị nằm im. Nó không nói hay hỏi mẹ điều gì mà chỉ lắng nghe tiếng ngáy mệt nhọc của em và tiếng thở dài của mẹ. Mở to mắt trong bóng tối, suy nghĩ vẫn vơ trong đầu, nó tiếp tục im lặng chờ mẹ lên tiếng. Không nghe mẹ nói gì ngoài những tiếng khóc sụt sịt, nó mất hết kiên nhẫn đành cất tiếng hỏi:
      - Má có bị đánh không?

      Mẹ nó không ngạc nhiên khi biết nó còn thức, cũng không quan tâm với câu hỏi của nó; bà nói xa xôi như tâm sự những điều thầm kín:

      - Ngay từ lúc đầu, má biết thân phận mình nên đã không muốn ưng ba con.
      Con chị ngạc nhiên:
      - Vì sao má không muốn ưng ba?
      - Bởi vì ba con là thầy giáo của má. Ba dạy bình dân học vụ cho làng ngoại con. Ba học cao, biết rộng, kiến thức và trình độ của ba hơn má hàng ngàn lần nên má sợ không dám ưng.
      Không nghe con chị phản kháng, bà mẹ tiếp tục tâm sự:
      - Hơn nữa ba là người Huế. Má sợ người Huế lắm, nhất là gia đình có kiến thức cao rộng. Biết ba là con của gia đình người Huế gia giáo, má đoán gia đình nội khó khăn, bề thế nên từ chối ba con nhiều lần; vậy mà cuối cùng vẫn không khỏi.
      Con chị thắc mắc, hỏi:
      - Vậy rồi sao má ưng ba?
      - Bị má từ chối nên ba tự tử nhiều lần. Cuối cùng ông ngoại bắt má phải ưng ba.
      Con chị hốt hoảng:
      - Ba tự giết ba hả?
      - Ừ, ba tự tử.
      - Vì sao ba phải giết ba? Vì sao ba phải tự tử?
      - Tại má không ưng ba.
      Nghĩ đến ba, niềm thương yêu tràn ngập trong lòng, con nhỏ chị ấm ức vì câu chuyện không ổn, nó hỏi vặn:
      - Má nói là không chịu ưng ba, sao má lại ưng ba?
      - Ba tự tử đến lần thứ ba, ông ngoại phải đưa dì Bốn vào bệnh viện giả làm má nhận lời kết hôn của ba để ba không tuyệt vọng nữa. Sau khi ba xuất viện, ông ngoại bắt má làm đám cưới với ba.

      Con chị không hiểu kết hôn nghĩa là gì. Nó lờ mờ áng chừng kết hôn giống như chữ ưng và đám cưới mà mẹ nó lập đi lập lại trong câu chuyện kể. Với cái chữ ưng này, hình như mẹ chúng muốn bày tỏ cho nó hiểu rằng cũng vì sự quyết định ấy mà bà đã phải chịu những hoàn cảnh khó khăn trước mắt. Thấy mẹ yên lặng sau khi trả lời, nó định hỏi thêm nhiều câu với hai chữ vì sao, nhưng cơn buồn ngủ kéo mắt nó nhíu lại. Nó ngáp dài và từ từ chìm vào trong giấc ngủ.
      Mặc cho hai đứa nhỏ đã ngủ say, mẹ hai đứa vẫn miên man suy nghĩ về hoàn cảnh mà bà đã sợ bị mắc nhưng cuối cùng không tránh khỏi. Tệ hại cho bà là khi nghĩ đến những bi kịch vì lấy chồng danh giá, bà chỉ tưởng tượng đến sự mâu thuẫn với gia đình chồng bên cạnh sự nương tựa của chồng chứ chưa bao giờ hình dung mình phải đơn thân đương đầu với tất cả mọi khó khăn như hiện tại. Nhớ lại chuyện ẩu đả trong ngày bà cảm thấy khiếp sợ. Nếu chỉ bị nghe chửi rủa như những ngày trước đó, bà còn có thể tiếp tục vào ngôi nhà lớn để phục dịch cho anh chị chồng, đàng này chuyện lớn đến độ anh chồng đánh cô Út, rõ ràng là chuyện khủng khiếp mà lần đầu tiên bà chứng kiến trong khuôn viên nhà chồng. Bà cảm thấy mình có tội và phân vân không biết phải xử sự như thế nào khi giáp mặt với mẹ chồng, và em chồng vào sáng ngày mai. Bà cảm thấy sợ hãi khi nghĩ chuyện vào ngôi nhà lớn. Bà sợ phải đi ngang cái sân gạch. Bà sợ tiếp xúc và gặp lại người và vật liên quan đến chuyện ẩu đả vừa qua. Bà nghĩ đến chuyện thôi làm việc cho anh chị chồng nhưng không nghĩ ra cách kiếm cơm để nuôi con. Nhớ lại ngày chồng chết, bà chỉ còn hai bàn tay trắng. Toàn bộ những đồng tiền tằn tiện được từ khoản tiền lương công chức khiêm tốn lúc chồng bà làm việc ở sở Hoả Xa đã được chi tiêu khi ông nằm trong bệnh viện. Toàn bộ số tiền do những người quen biết và bà con thân thuộc bên chồng phúng điếu đều đổ vào mai táng. Cho nên, an táng chồng xong, bà hoàn toàn bế tắc trước việc đơn thân nuôi hai đứa con vừa lên ba và vừa chập chững biết đi. Lúc ấy, người chị dâu Cả thẳng thừng nói rằng “Nếu thím không đủ sức nuôi hai đứa con của thím được thì hãy giao chúng cho tôi! Thím có thể ra khỏi nhà và bước thêm bước nữa, nhưng phải để mấy đứa nhỏ này ở lại trong khuôn viên nhà này, trong đại gia đình này. " Không tiền bạc, không vốn liếng, vô kiến thức, vô nghề nghiệp là tất cả nguyên nhân khiến cho bà chấp nhận lời đề nghị của người chị dâu Cả: Làm tất cả công việc nội trợ trong gia đình bà ta như người làm công để kiếm miếng cơm nuôi con. Hơn thế nữa, bà không thể nào giao núm ruột do bà đẻ ra cho người khác cho nên làm công cho gia đình anh chị chồng là cơ hội để bà có thể tiếp tục nuôi con và ở với con cho đến ngày chúng khôn lớn. Bao nhiêu năm sống trong cảnh mẹ goá con côi, làm lụng cực khổ bà chỉ kiếm được miếng cơm để nuôi con chứ chẳng dành dụm được một đồng nào cho nên bây giờ muốn từ bỏ công việc quen thuộc bấy lâu, bà không thể nào nghĩ ra cách kiếm sống. Bà tự hỏi phải chăng cuối cùng là bà phải tiếp tục quay lại cái cảnh làm thuê làm mướn như những năm trước đây? Phải chăng bà tiếp tục nghe chửi và bị hà hiếp mỗi ngày? Phải chăng cuộc đời của bà và hai đứa con của bà hoàn toàn đi vào lối cụt?
      Không một phương kế, không một giải pháp, bà cảm thấy tương lai của mình và hai đứa nhỏ như bóng đen dày đặc đang phủ kín trong căn nhà.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.08.2007 22:21:29 bởi Ct.Ly >
      #3
        Cung Thi Lan 28.07.2007 18:16:12 (permalink)

        Chương Hai
         

        Tiếng nắp xoong rơi va xuống nền xi măng vang lên loảng xoảng làm con chị thức giấc. Nó ngẩng lên, quay đầu về phía cửa ra vào. Mặt trời đã lên cao từ bao giờ. Những tia nắng xuyên qua các tàu lá dừa in một mảng sáng hình khung cửa ra vào trên "chỗ ăn cơm” của nền nhà nơi mà con em đang lúi húi nhặt chiếc nắp xoong lên. Con chị nhíu mày, vừa ngạc nhiên vừa suy nghĩ. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, hai chị em nó thường nằm nán trong bóng tối lờ mờ trên giường của chúng, nơi bị khuất bởi cái tủ đựng quần áo một lúc rồi mới bước xuống giường. Bóng tối dịu dàng trong "buồng ngủ" tạo cho chúng cảm giác bình yên khi thức dậy để chuẩn bị cho một ngày mới. Mẹ chúng có thói quen mở hai cánh cửa sổ cạnh bàn thờ, thắp hương cho chồng, rồi khép cánh cửa ra vào ở "phòng ngủ" trước khi rời căn nhà; cho nên, dù dậy sớm hay muộn, hai đứa thường ngửi mùi thơm của hương nhang và nhìn ánh sáng nhạt nhoà từ phía bàn thờ xuyên qua cái màn giăng khi chúng năm yên trên giường. Sáng nay, con em đã dậy sớm hơn nó từ lúc nào. Nhìn ánh nắng trên nền nhà "chỗ ăn cơm”, con chị đoán là nó đã ngủ quên. Hốt hoảng vì sợ trễ học, nó ngồi bật dậy, chun ra khỏi mùng. Khi tém thân mùng để quấn gọn và quăng lên nóc, khuôn mặt của con chị chợt sáng hẳn lên. Nó thở phào nhẹ nhõm vì nhớ ra hôm ấy là ngày không phải đến trường. Nghĩ đến ngày lễ, đến chuyện tối hôm trước và đến mẹ, nó vội vã hỏi em:
        - Má đâu rồi Vy?

        Con em vừa đậy cái nắp xoong vào hũ gạo vừa nói:
        - Má ở nhà đó chị!

        - Má ở nhà, mà ở đâu?

        - Ở trước "phòng thờ" đó.

        Con chị chạy ra "phòng thờ". Gọi là "phòng" cho sang nhưng nó chỉ là phần trước của căn nhà một gian chiều dài khoảng sáu mét và rộng bốn mét. Mẹ chúng đã dùng chiếc màn lớn giăng dọc theo cây đòn dông giữa nhà để chia hai khu vực riêng biệt: phía trước là nơi thờ Phật và thờ bố chúng gọi là "phòng" thờ, phía sau gọi là "phòng" ngủ. "Phòng thờ" có hai cửa sổ luôn luôn được mở rộng: một, sát bên cạnh bàn thờ ông bố hướng về phía cuối bức tường thành của khuôn viên nhà họ Hoàng và một, nơi mà bộ bàn ghế gỗ được kê sát đối diện hai bàn thờ, hướng về phía cổng ra vào trước nhà ông bà bác Cả. Cửa ra vào, được người thiết kế kế hoạch là nơi thông thương chính, bị bức tường thành phía trước chắn ngang nên muôn đời bị khép kín và khoá chặt. Bức tường thành trắng, cao và dài đã đóng khung căn nhà nhỏ vào khuôn khổ tường cao cổng kín chung với những căn nhà trong khuôn viên gia đình họ Hoàng khi mà cái cổng ra vào trước nhà ông bà bác Cả là nơi thông thương duy nhất của toàn đại gia đình với bên ngoài. "Phòng ngủ" được ngăn ra làm hai bởi cái tủ áo. Phần trong nơi giường lớn của hai chị em song song cạnh giường nhỏ của bà mẹ gọi là "buồng ngủ"; phần ngoài là khoảng nền nhà hẹp, nơi ba mẹ con thường ngồi ăn cơm và được gọi là "chỗ ăn cơm”. Chỗ này thường nhận ánh sáng ban mai chiếu vào khi cánh cửa ra vào, phụ trở nên chính, được mở ra. “Buồng ngủ” thường xuyên tối tăm vì không có một cửa sổ nào, thỉnh thoảng mới nhận vài tia nắng ban ơn trải dài từ "chỗ ăn cơm”.

        Sáng nay, trái với"phòng ngủ", "phòng thờ" không có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Trong bóng tối lờ mờ, bà mẹ ngồi yên lặng trước bàn thờ nhìn những làn khói hương đang bay phảng phất trước mặt. Tiếng động phía sau không làm bà quay lại. Con chị đứng tựa chiếc ghế gỗ cạnh bàn học chăm chú nhìn mẹ thật lâu mà không thấy mẹ hỏi han gì, nên nó bước sang "phòng ngủ", hỏi con em:
        - Em "đánh răng” chưa? Rửa mặt chưa?
        - Chưa.
        - Chớ em làm gì vậy?
        - Em kiếm đồ ăn.

        - Chưa "đánh răng” sao ăn được?

        - Tại em đói quá!

        Con chị chợt nhận ra là nó cũng đang đói bụng. Hôm qua, mãi nghĩ đến những món quà Nô-en, cả nó và con em đã không ăn được bao nhiêu. Nó hỏi em:
        - Em kiếm cái gì trong hũ gạo vậy?
        - Em coi có cái gì ăn không?

        Con chị nhìn em thương hại. Lần nào cũng vậy, mỗi khi cô Út đi khỏi, nó thường lùng hái cây trái trong vườn và cất giấu vài trái mãng cầu nứt gai, hay sa bô chê vào hũ gạo nho nhỏ của mẹ nó; nhờ vậy chúng thường có thức ăn cho những lần đói bụng. Những ngày trước Nô-en, trái cây gần như không quan trọng đối với nó nên nó đã bỏ thói quen này.
        - Không có gì ăn đâu em! Chị sẽ cho em cái khác. Bây giờ đánh răng trước đã.
        Con chị bước khỏi nhà đi xuống bếp, con em lẽo đẽo theo sau. Đến bên chỗ ba viên gạch, nơi được coi là bếp lò, con chị đút tay vào cái hũ sành bốc một nắm muối hột, rồi chìa trước mặt em:
        - Em lấy muối này bỏ lên bàn chải đánh răng đi.

        Con em nghe lời chị, với lấy cái bàn chải nho nhỏ đầu tua tủa trong cái lon móc cạnh góc bếp, và đặt muối lên đó. Hai đứa đến cái lu gần giếng, lấy nước ngồi chải răng. Chải răng và rửa mặt xong, hai đứa ngồi trên bậc tam cấp ngó ra sân. Con em ngồi bí xị bên cạnh chị. Nó chờ đợi mãi mà con chị chẳng cho gì như đã hứa.
        Ngoài vườn, cây cối im lặng và yên bình. Sáng nay không thấy bóng dáng của cô Út, hay bất cứ một người lớn nào trong khuôn viên nhà họ Hoàng. Không nghe tiếng cô Út chửi, khu vườn trở nên hoang vắng vô chủ và con chị tí tửng đứng lên, giục em rối rít:
        - Em đi ra vườn với chị mau lên! Mau lên đi Vy!
        Con em bước vội theo chị. Nó đinh ninh là chị sẽ cho cái gì ăn. Thỉnh thoảng khi cô Út vắng nhà, con chị vẫn thường kiếm trái cây vườn cho nó và mỗi lần như thế chị nó thường nhường cho nó tất cả các trái cây hái được để nó ăn tha hồ.

        Trái với ước đoán của con em, con chị không đi len lỏi giữa những vòm cây ăn trái trong vườn để tìm trái, nó đến gốc vú sữa, và ngồi bệt tại gốc cây. Tháo hai chiếc dép nhựa ở đôi bàn chân ra, nó dùng chúng để vét đất cát vào thành một cái ụ. Con em ngạc nhiên. Nó chăm chú nhìn từng động tác của chị mà không đoán ra được chị nó sẽ cho ăn món gì. Con chị thấy em giương mắt chờ đợi thì thú vị lắm. Nó ra lệnh cho con nhỏ em ngồi chờ trên gốc rễ lồi của cây vú sữa, rồi hí hửng bỏ chạy vào nhà bếp. Vào bếp một lúc, nó lại chạy ra lu nước, chạy đến cây khế ngọt, rồi chạy xa tận đến khóm bông bụt tây. Một lát sau, nó trở lại chỗ con em đang ngồi, khệ nệ bày bao nhiêu thứ đặt gần nơi ụ đất. Tay thoăn thoắt, miệng huyên thuyên, nó không ngừng giải thích:
        - Nụ hoa bụt tây này là ớt, nước trong cái chén này là nước mắm. Chị cắt hoa bụt này vào nước để mình có nước mắm ớt. Lá khế này cắt nhỏ để làm hành chiên mỡ. Còn ca nước này là bột gạo.
        Con em nghe chị giải thích mà nó không thể nào hình dung được món ăn nào cho cơn đói bụng của nó. Còn con chị thấy em im lặng, tưởng được đồng lòng nên tiếp tục líu lo:
        - Bây giờ chị đổ bánh căn!

        Dùng cái muỗng con con để múc nước, nó cẩn thận dốc đứng từng giọt xuống mặt phẳng của ụ đất. Nó cố tình tạo ra những khoanh tròn nhỏ gọn cách xa nhau giống như những khuôn tròn trên lò bánh căn. Các giọt nước thấm vào đất cát tạo thành những khối tròn ướt, màu nâu đậm, khác biệt hẳn những chỗ đất khô và nhạt màu khiến ụ đất trông giống như cái lò bánh căn với các khuôn nhỏ bên trên.
        Mặt con em không biểu lộ một chút thú vị nào nhưng nó tiếp tục im lặng chăm chú nhìn trò chơi lạ mắt. Con chị cười cười, nói nói với vẻ tự tin. Nó hoàn toàn tin tưởng là con em sẽ thích cái trò chơi tự chế của nó.
        - Bánh căn chín rồi! Để chị múc ra cho em nghe!

        Bứt hai chiếc lá vú sữa ở cành non mọc sát gốc cây, nó dùng chiếc lá nhỏ như vật xúc để múc mấy cái bánh căn cát ra khỏi lò rồi đặt chúng trong chiếc lá vú sữa lớn hơn. Được năm “cái bánh căn đất cát” trên "cái dĩa", con chị nhặt hai nhánh cây vú sữa khô thanh mảnh làm đũa gắp mấy lá khế được xắt vụn lên làm hành chiên, rồi múc "nước mắm ớt" trong cái chén nắp keng đưa cho con em.

        - "Ăn” bánh căn đi Vy!

        Con nhỏ em đưa hai tay đón lấy “dĩa bánh căn” và "chén nước mắm" một cách miễn cưỡng. Nhìn chằm chằm "thức ăn sáng” quái lạ mà chị trao cho, khuôn mặt của nó xị dài ra. Nó trở nên bất động như bị hoá thạch. Con chị im lặng nhìn em. Đôi mắt nó di chuyển lên xuống không ngừng, lúc ở trên khuôn mặt con em, lúc ở đĩa bánh căn, và kiên nhẫn chờ lời em nói. Một lúc sau, đôi mắt con chị sáng lên, nó nhanh nhảu đặt hai “chiếc đũa” bằng nhánh cây vú sữa khô và thanh mảnh trên "dĩa bánh căn”, nói vui vẻ:

        - Chị quên! Phải có đũa mới ăn được chứ!

        Mặt con em càng lúc càng dài ra với đôi mắt sụp buồn và đôi mi chơm chớp. Phụng phịu một lúc, nó đưa đôi bàn tay nhận hai thứ mà chị nó cho là "thức ăn sáng”, rồi hạ thấp dưới bụng, cạnh hông, hỏi giọng trách móc:

        - Làm sao em ăn được mấy cái bánh đất cát này?
        Dứt lời con nhỏ hất cả "bánh căn” lẫn “nước mắm” xuống đất, nức nở:

        - Mấy cái này đâu phải đồ ăn sáng đâu!

        Con nhỏ chị sững sờ trước việc bất ngờ. Nó trợn mắt:
        - Ai cho phép em đổ đồ của chị? Không chơi ăn đồ ăn sáng thì trả lại chị chứ ai cho phép bỏ như vậy?
        Mặc dù con em không trả lời, chỉ rơm rướm nước mắt khóc, con chị vẫn chưa hết giận. Nó nhướng mày, định giảng đạo cho em thêm về thói tự ý tự thị; thế nhưng, chưa mở miệng đã nghe những tiếng cười khúc khích sau lưng:
        - Kỳ ghê! Làm sao mà ăn “bánh căn cát”được chứ!

        Quay đầu lại, nó nhận ra ba đứa cháu ngoại gái của ông bà bác Cả. Ba đứa con gái này là ba đứa con gái trong sáu đứa con vừa trai vừa gái của chị Trịnh, người con gái độc nhất của ông bà bác Cả. Chúng trong ba chiếc đầm hồng vải ren sạch sẽ mới tinh với những đôi mắt nhìn chắm chú. Hình như chúng đã quan sát trò chơi từ lâu lắm nhưng vì con chị mải mê với "công việc" của nó nên không hề hay biết. Những sợi dây ru băng cùng màu buộc gọn sau những đuôi tóc chải thẳng tắp và những đôi giầy hồng với vớ trắng làm rõ hơn sự trái ngược của vẻ đài các với nền đất lẫn cát mà ba đứa con gái này đang đứng yên trên. Chúng ôm búp bê nhắm mắt, mở mắt và sách hình màu. Con chị long mắt. Nó đang tức con em, lại bị nghe những lời nói ngạo, định trả đũa mấy câu gì cho đỡ bực, nhưng nghĩ mãi không ra câu nào cho hợp lý, đành phải lặng thinh.
        Cô "tiểu thơ bé nhất", khoảng ba tuổi, đang mút ngón tay cái chợt ngừng lại, lân la đến bên con nhỏ chị. Nó ngồi xuống cạnh "lò bánh căn”, ôm con búp bê trong bụng, giương đôi mắt đen lay láy, ngây thơ hỏi:

        - Cho "em" chơi không?
        Ánh mắt con chị dịu đi. Nó gật đầu:

        - Thuý Phi muốn "ăn bánh căn” hay muốn “làm bánh căn”.

        - Em muốn "làm bánh căn”.

        Con nhỏ chị nói một cách vui vẻ:
        - Được rồi, dì cho "em" "làm bánh căn”!

        Nó đưa cái muỗng cho bé Thuý Phi và bày con nhỏ cách đổ “bột” vào lò cát. Nhìn những hạt nước thấm dần trong cát, con bé thích chí cười khanh khách.
        Hai đứa chị của bé Thuý Phi, Thuý Phong và Thuý Phương, thu hút bởi trò chơi ngồ ngộ, ngồi thụp xuống bên cạnh em của chúng. Ba cái áo đầm xòe ra che trên cát, và hoàn toàn quây tròn cái "lò bánh căn” của con nhỏ chị. Con nhỏ em có thêm bạn, quên cả đói, chen vào ngồi giữa chị ruột của nó và con Thuý Phi để tham gia chung trò chơi mà nó chẳng thấy thú vị lúc bắt đầu.

        - Đến phiên em! Cho em đổ bánh căn với!
        Con chị nói với vẻ trang trọng:
        - Được rồi, ai cũng được đổ bánh căn hết! Nhưng mà, cái lò bánh căn này không phải như mấy cái lò bánh căn người ta bán ngoài chợ đâu! Hễ cát sụp xuống là phải làm cái lò khác. Chờ chị xây lại cái lò khác mới đổ bột được.
        Nói xong, con chị cầm hai chiếc dép nhựa mòn đế của nó san bằng cái lò cũ cho sập hẳn đi rồi tém đất cát vun lại một cái mới. Cái lò mới được vun lên như một cái đồi nhỏ nhưng cái đỉnh của nó không phải là "lò bánh căn” cho nên nó lấy một chiếc dép xoa cho cái đỉnh bằng phẳng như “lò bánh căn” mới thôi.

        Cái lò mới vừa được “xây” xong, cả bọn nhao nhao:

        - Em làm trước!
        - Em trước!
        - Nó làm rồi, em trước!
        Phân vân chưa quyết định đưa cái muỗng cho ai, con chị chợt giật thót lên vì tiếng hét lớn của bà bác Cả gái vang lên sau lưng nó:
        - Đi vô nhà mau! Tụi bây ra đó làm chi?
        Ba đứa con gái nghe tiếng bà ngoại chúng la lớn, hoảng hốt vụt đứng lên, chạy ù về phía bà. Con nhỏ em sợ sệt nhích người ngồi ép sát sát vào người con chị, mặt lấm la, lấm lét. Con chị, không hiểu vì quá sợ hay bị em ép sát, ngồi bất động, hết nhìn bà bác Cả lại nhìn đống cát của cái lò và các thứ lổn ngổn trước mặt. May mắn cho nó là bà bác gái không hỏi ai đã bày đầu trò chơi. Bà ta kéo mấy đứa cháu ngoại đi về phía hiên nhà lớn. Và hai chị em con nhỏ còn lại giữa sân vườn, ngơ ngẩn hướng mắt về lối trồng hoa trước nhà ông bà bác Cả cho đến khi những cái nơ tung tăng mất dần sau khóm hoa hoàng anh. Tiếng bà bác Cả gái còn văng vẳng:

        - Ai cho tụi bây ra chơi với tụi dơ dáy nớ hử? Coi nì! Có thấy áo lấm đất đầy như ri không? Cái lũ con ông Đạm lúc nào cũng chơi đất cát kiểu man ri mọi rợ vậy mà tụi mi chơi với lũ nớ làm chi để áo lấm đất như ri hử?

        Tiếng la của bà bác Cả gái lớn đến độ đánh thức pho tượng đá bà mẹ tỉnh giấc và giục bà chạy ra ngoài vườn. Bà vội giúp hai đứa nhỏ dọn dẹp các thứ trên sân đất cát rồi hối chúng vào nhà. Nghiêm cấm chúng không được rời khỏi bàn học, bà bắt cả hai chị em đọc sách và làm bài.
        Mở rộng hai cánh cửa sổ, vâng lời mẹ ngồi vào bàn học nhưng hai con nhỏ không đọc sách hay làm một bài tập nào. Đôi mắt của chúng đồng luyến tiếc xuyên qua các song sắt và nhìn về phía ngôi nhà lớn. Trong trí tưởng tượng, chúng đang tiếp tục chơi đổ bánh căn với những đứa nhỏ bà con Thuý Phong, Thuý Phương và Thuý Phi, rồi được ôm ấp và vuốt ve các con búp bê xinh đẹp do mấy đứa bé này trao cho. Rất lâu, những đôi mắt xa xôi mơ màng với nỗi tiếc ngẩn ngơ vẫn còn bên song cửa sổ.
        Đến gần chiều, còn bao nhiêu gạo trong hũ, bà mẹ trút hết ra để nấu cháo. Cháo không là món ăn hợp khẩu vị của con chị. Bởi vì nó ghét món cháo cho nên mỗi lần bệnh là mỗi lần cực hình; có cự tuyệt thể nào, bà mẹ ép nó phải ăn cho bằng hết một chén cháo trước khi uống thuốc mới thôi. Hôm ấy không bị bệnh hoạn hay đau ốm gì mà mẹ nó bắt hai đứa ăn cháo nên con chị ấm a, ấm ức với món ăn không thích hợp. Nó cằn nhằn:

        - Tụi con không bị bịnh sao má bắt tụi con ăn cháo?

        Bà mẹ chậm rãi trả lời:
        - Má không có đủ gạo để nấu cơm. May là nhà còn chút gạo thừa nên má đem ra nấu cháo.

        Im lặng một lúc bà nói tiếp:
        - Có cháo ăn là may rồi đó con! Ngày mai không biết có gì để nấu ăn không. Có gì ăn nấy, đừng đèo bồng thứ nọ thứ kia. Không ăn, để đói lã người ra là bịnh không có tiền mua thuốc chữa đâu!

        Con chị ngạc nhiên muốn hỏi mẹ vài câu với hai chữ "tại sao" nhưng nó ngại không dám lên tiếng vì nó nhận ra nỗi đăm chiêu căng thẳng hằn trên khuôn mặt của mẹ và những bước chân lặng lẽ bỏ ra sân của bà. Con em không nói năng gì. Nó hạnh phúc với chén cháo trước mặt. Cháo trắng với vài hạt muối hột đối với nó vẫn tốt hơn là không có gì ăn. Từ sáng sớm đến lúc trời gần xế chiều mà nó chưa được một thức ăn gì trong bụng. Mãi mê với trò chơi mới của chị vừa bày ra từ buổi sáng và mong muốn được chơi ké búp bê với những đứa cháu bà con, nó đã quên cơn đói cồn ruột. Bấy giờ, không màng để ý đến ai ăn, ai không, nó bê chén, húp cháo xì xà xì xụp như đang ăn cao lương mỹ vị. Thấy em ăn ngon lành, con chị đưa muỗng lên thử. Nếm được hai muỗng, nó buông cả chén lẫn muỗng xuống nền nhà.
        Con em đang húp chùn chụt, ngưng lại, trố mắt ngạc nhiên:
        - Chị không ăn hả?

        Con chị lắc đầu:

        - Không
        - Chị chỉ muốn ăn "bánh căn cát” chứ không muốn ăn “cháo thật” hả?

        - Ăn "bánh căn cát” chỉ là ăn giả bộ thôi chứ ai ăn thật!

        - Vậy chị ăn “cháo thật” đi!
        - Chị không thích ăn cháo!

        Con em quẹt tay ngang miệng hỏi:
        - Chị thích ăn bánh căn thôi hả?

        - Đâu có thích đâu!
        - Vậy sao chị làm?
        - Tại không có gì ăn lại không có gì chơi nên chị làm cho đỡ buồn thôi!

        - Vậy mà sáng nay em thấy chị ra ngoài vườn, em tưởng chị ra vườn tìm trái gì hái cho em.
        - Làm sao chị hái được? Cô Út không đi ra vườn nhưng còn "trong đó” làm sao chị dám hái? Không nghe cổ la, ra vườn chơi là may lắm rồi!
        Con em vét cháo chầm chậm đến sạch láng. Xong, đặt chén xuống nền nhà, nó quay sang nói với chị:
        - Bây giờ em có cháo rồi em không thèm trái cây gì nữa đâu! Cháo ngon lắm! Chị ăn cháo đi chị! Ăn cháo đi!

        Con chị hờ hững, lắc đầu :

        - Chị không ăn đâu! Chị không thích ăn cháo!

        ñôi mắt con em không rời chén cháo c?a con chị. Nó hỏi ngập ngừng:
        - Vậy… chị cho em ăn chén cháo của chị được không?

        Con chị gật đầu. Nó bước ra sân tìm mẹ.
        Bên cạnh gốc dừa, bà mẹ đang đứng phân trần với bà bác Cả:
        - Em không thể nào làm cho chị được nữa chị à! Vào nhà trong đó gặp cổ, em thấy “dị dị” làm sao. Em không thể nào vào trong đó được nữa!.

        - Hỗn thì bị đánh để cho biết mà chừa tật, mắc mớ chi mà thím sợ không làm cho tôi nữa?Ngày hôm nay bao nhiêu con cháu đến nhà, tôi không có ai phụ việc, thím coi như vậy có được không?

        - Chị thương em mà thông cảm cho. Em không thể làm cho chị được nữa. Bây giờ em chỉ cần tiền để buôn bán làm ăn.

        Bác Cả gái la to:
        - Buôn bán? Thím tưởng là buôn bán dễ lắm sao? Người ta lanh hơn thím bao nhiêu mà buôn bán không ra gì kia kìa.
        Bà mẹ cúi đầu không trả lời. Bà bác Cả gái đang nói lớn tiếng chợt im bặt theo, nhìn chằm chằm vào mặt người em bạn dâu chờ đợi. Thời gian trôi qua rất lâu mà bà mẹ vẫn không nói gì về quyết định của bà khiến cho bà bác Cả gái giận dữ:
        - Tôi nói hết lời mà thím không nghe thì nghỉ đi!

        Nhưng mà đừng hỏi tôi tiền gì nữa hết. Thím phụ tôi được bao lăm mà đòi tiền? Tiền gì mà tiền hả? Tiền ơn, tiền nghĩa, tiền này kia khác nọ còn gì nữa mà đòi? Bây giờ tôi phải tìm người ở, phải trả tiền cho người ở, chứ không có đồng nào đưa cho thím đâu!

        Bà mẹ cúi đầu chớp mắt:

        - Dạ.
        Bà bác Cả long đôi mắt to, điên tiết trước quyết định khăng khăng của bà mẹ qua sự im lặng dai dẳng của bà. Biết không thể thuyết phục được người em bạn dâu thay đổi ý định, bà ta nguây nguẩy đi về nơi bà cư ngụ.
        Con nhỏ chị nghe và chứng kiến hết mọi chuyện mà không hiểu ai đúng ai sai, nhưng nhìn thấy dáng đứng xiêu vẹo của bà mẹ, nó cảm thấy mẹ nó đáng thương lắm. Nó lân la đến gần, ấp úng hỏi:

        - Má cho con hỏi chút được không?

        Bà mẹ gật đầu.

        - Má không làm cho hai bác nữa hả má?
        - Ừ! Bà mẹ bước về phía nhà trong khi trả lời.
        Con chị đi theo hỏi tiếp:

        - Vậy má muốn làm gì?
        - Má sẽ buôn bán.
        Mắt con chị sáng lên vì câu trả lời của mẹ. Nó hỏi dồn:
        - Buôn bán? Ôi chao! Con thích má buôn bán lắm! Khi má bán? Má bán gì?
        - Má chưa biết! Má chưa có vốn con à!
        Con chị ngơ ngác
        - Vốn? Vốn là gì hả má?
        - Vốn là tiền mình bỏ ra để mua đồ để bán kiếm lời đó con.

        Mặt con chị trở nên thất vọng
        - Không có vốn vậy mà sao má nghĩ đến chuyện buôn bán?

        - Má nghĩ là có một ít tiền làm thuê cho bác Cả mấy năm nay có thể lấy làm vốn đi buôn không ngờ má không có đồng nào.
        - Vì sao không có?
        - Tiền đó tính vào cơm má con mình ăn hết rồi con à.
        - Vậy má có còn tính đi buôn không?

        - Má không biết!
        Nhìn thấy nét mặt mỏi mệt của mẹ khi bà đứng khựng lại, con chị im lặng. Ngẫm nghĩ một lúc nó lại tiếp tục:

        - Má không còn gì để có tiền hả má?

        - Má chỉ có nắm tóc nhưng má đã bán rồi. Nắm tóc còn lại nhỏ quá không ai muốn mua đâu.

        Con nhỏ chị kinh ngạc:
        - Má đã bán nắm tóc của má rồi hả?
        Buồn bã, bà mẹ gật đầu:

        - Ừ, năm ngoái khi con bị suyễn nặng, không có tiền mua thuốc nên má đã bán rồi. Lúc đó má bán được sáu chục đồng. Má mua thuốc bốn chục, còn lại bao nhiêu má mua đồ ăn cho hai chị em con để tẩm bổ cho con thêm.
        Nghe những lời này, mặt con chị xị xuống. Nó buồn bã nhớ đến lọn tóc đen mượt mà mẹ nó chắt chiu dành dụm từng ngày từ những sợi tóc rụng của bà. Mỗi lúc chải đầu, bà thường gom lại những sợi tóc đen mềm bóng mướt rồi dùng dây cao su cột túm chúng lại. Mỗi lần như thế, mẹ chúng thường mân mê cái gia tài nhỏ bé mà trời cho. Bà biết lọn tóc là vốn liếng bởi vì mấy bà hàng xóm thường gạ gẫm hỏi mua và rất hãnh diện vì có được một lọn tóc đẹp từ chính mái tóc của mình. Bà đã yêu quý và thường xuyên ngắm nghía lọn tóc mỗi ngày vậy mà bà đã bán đi từ lúc nào chẳng hề ai hay biết. Con chị kích động trước tin bất ngờ từ miệng mẹ nó kể ra. Nó không hề nghĩ đến chuyện bà mẹ vì nó mà bán gia tài duy nhất của bà. Tình yêu thương đối với mẹ nó dâng cao hơn bao giờ và nó thành thật muốn nói vài lời để bày tỏ niềm thương yêu vô tận đối với mẹ.

        Nhưng, vẫn theo cố tật, nó chỉ suy nghĩ trong im lặng. Càng suy tư, con chị càng thở dài sườn sượt. Nghĩ đến nắm tóc của mẹ và số tiền đổ dồn cho tiền thuốc chữa bệnh cho nó, nó cúi đầu hối hận vì đã cho con em chén cháo. Khi ngước mặt lên, và nhận ra một khuôn mặt đầy tuyệt vọng của bà mẹ, nó lo lắng cầu nguyện ông bố phù hộ cho nó không còn mắc phải căn bệnh nào. Nó còn cầu nguyện ông xui khiến cho những người trong gia đình nội trở nên nhân từ và giúp cho mẹ nó mượn một số tiền để bà có thể dùng làm vốn buôn bán. Hoà với sự im lặng của bà mẹ, nó hình thành bao nhiêu niềm vui sướng trong cảnh mẹ nó mua bán hàng trăm thứ hàng tạp hoá trên gian hàng nhỏ nhắn, cảnh hàng vạn người khách lui tới tranh nhau mua hàng tấp nập, cảnh chiều tối khi mẹ nó về nhà với chiếc giỏ đựng tiền đầy ắp và cảnh tiền nhiều như núi làm cho"vốn" của mẹ nó ngập đến tận mái nhà. Tiền vốn của mẹ nó nhiều và cao đến độ bà thừa sức mua bao nhiêu thứ trang sức cho tai, cổ, cườm tay và những ngón tay chẳng khác gì những người đàn bà giàu có trong gia đình nội. Đầu nó chợt lóe sáng lên khi lời nói của mẹ vào những ngày Tết nguyên đán văng vẳng bên tai "Những sợi dây chuyền và lắc vàng này là vốn hồi môn khi các con đi lấy chồng. Má phải cất kỹ cho các con nên các con chỉ được đeo vào ngày Tết Nguyên Đán thôi, không được đeo đi học!”. Nó hỏi vội vàng:
        - Má cho con hỏi chút nữa được không?

        Bà mẹ giật mình gật đầu:

        - Ừ! Con hỏi đi!

        - Má nói cái dây chuyền và cái lắc vàng của chị em con là "vốn" của tụi con khi tụi con đi lấy chồng phải không?

        - Ơ! Nhưng đó là của nội và các cô cho tụi con làm vốn. Má chỉ giữ cho tụi con chứ không thể bán được.

        Ngẫm nghĩ một lúc, bà mẹ nói tiếp:
        - Má chỉ còn sợi dây chuyền của ba mua tặng má nhưng đó là vật kỷ niệm của ba con để lại, má không thể nào bán được!

        Con chị xị mặt, lảm nhảm:
        - Ba sẽ nói mình bán nó khi thấy mình không có gì ăn.

        Bà mẹ mất hết thần sắc, lẩm bẩm một mình như nói chỉ cho mình bà nghe:
        - Không thể bán được! Cái mặt có hai chữ cái đê (Đ) và hát (H) là tên tắt của anh ta và mình.
        Đột nhiên, khuôn mặt của bà mẹ sáng hẳn lên, mặc dù vẫn tiếp tục độc thoại:
        - Giữ cái mặt, bán sợi dây lấy tiền để mua bán, sau này có lời mua sợi dây khác!
        Con chị nghe mẹ nhắc chuyện đi bán, sung sướng đến nỗi không dám cắt ngang những dự định trong suy tính của mẹ. Còn bà mẹ thì huyên thuyên những dự định sắp tới của bà với nó.
        - Ngày mai má sẽ bán sợi dây chuyền! Má sẽ ra bến xe ngựa thăm dò người ta buôn bán rau quả như thế nào rồi mới tính buôn bán món gì. Nếu má đi bán, má phải đi ra chợ sớm lắm, con ở nhà, kêu em dậy, nhắc em vệ sinh sáng và dắt nó đi học được không?

        Con chị nhanh nhảu
        - Được chứ. Con làm được. Miễn là…
        Nó toan dứt câu với những chữ "má không làm 'người ở' cho hai bác Cả nữa!" nhưng nó kịp ngưng lại khi nghĩ hai chữ "người ở" xúc phạm và làm đau lòng mẹ. Niềm vui sướng và hy vọng ngập tràn trong lòng của nó. Hân hoan với hình ảnh bà mẹ kiếm tiền một cách độc lập và thành công, nó suy tính không ngơi những việc làm mà nó sẽ giúp mẹ trong lúc bà bận rộn mua bán. Trước khi bước vào nhà, nó còn quay lại nhìn về phía ngôi nhà lớn mỉm cười. Nó đang hy vọng một ngày nào đó mẹ của nó sẽ được giao thiệp một cách bình đẳng với những người lớn khác trong gia đình họ Hoàng.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:23:22 bởi Ct.Ly >
        #4
          Cung Thi Lan 03.08.2007 16:58:07 (permalink)


          Chương Ba

          Từ lúc bị ông bác Cả đánh và bà mẹ thường xuyên vắng mặt trong khuôn viên nhà, cô Út đã bỏ thói quen chửi bóng gió mỗi ngày. Hai chị em con nhỏ cảm thấy an tâm hơn trước bởi vì dù mẹ của chúng có ở nhà hay đi bán, chúng không còn phải nghe những lời chửi rủa xỏ xiên.

          Buổi trưa, trời nắng chang chang, vừa đi học về, chưa kịp nghĩ ngơi con em đã réo chị lấy cơm ăn. Nó ngồi trước ngưỡng cửa nhà, một tay cầm cái chén không, một tay cầm muỗng, tỏ vẻ hờn dỗi nhìn con chị đang rề rà ngoài giếng. Con nhỏ chị buông dây gàu xuống giếng rất lâu mà không chịu kéo dây lên. Nó đang đang lặng yên nhìn cô Út ngồi chồm hổm giữa mớ xoong, nồi, chén, bát và thau nước trên sân giếng. Cô không rửa chén vì hai tay cô đang ôm ngực để ngăn những cơn ho dữ dội. Khi ngớt được một lúc, cô khạc đờm xuống nền sân giếng rồi tiếp tục ho. Những bãi đờm lẫn máu trên sân giếng làm con chị hốt hoảng. Nó chưa kịp hỏi thăm sức khỏe của cô thì cô lại ho và khạc liên tiếp không thôi. Những tiếng ho dữ dội và những bãi đờm màu đỏ làm cho nó sợ hãi và quên đi bao nhiêu oán giận hôm chứng kiến cảnh mẹ nó bị hiếp đáp. Thêm vào đó, hình ảnh cô khom lưng, cúi đầu vật vã với cơn ho khác hẳn với hình ảnh vung tay múa chân la lối thường ngày của cô làm cho nó thấy thương hại cô hơn. Nó kinh hoàng khi thấy nhiều đám đờm máu trên sân giếng và hồ nghi không hiểu có phải cô ho ra máu vì bị ông bác Cả đánh không. Bao nhiêu oán giận cô Út nung đúc trong đầu nó từ hôm mẹ nó bị ăn hiếp hoàn toàn biến mất; thay vào đó, nó nghĩ đến ba nó, đến mối quan hệ giữa ba nó và cô Út. Cô Út là em ruột của ba, giống như con em là em ruột của nó. Nó sẽ không muốn thấy con em bị đánh, bị đau thì chắc chắn ba nó không thích thấy cô Út bị đánh, bị đau. Nó phân vân hỏi chính bản thân là không hiểu ba nó có bao giờ đánh cô Út chưa rồi nó tự an ủi bằng trả lời trong đầu là ba nó chỉ la rầy và răn dạy cô Út khi cô làm điều quấy. Hình ảnh hiền lành của người cha thân yêu trong trí tưởng tượng của nó đã ươm cho nó tin tưởng tuyệt đối là ba nó đã không bao giờ đánh đập một ai. Thế nhưng, hình ảnh hung tợn của cô Út hiện ra trong đầu làm nó hồ nghi là ông có thể hành động tương tự như ông bác Cả nếu như ông chứng kiến cô Út hỗn hào quá đáng. Miên man suy nghĩ, con chị vẫn thõng tay chưa chịu kéo dây gàu lên. Nó ngập ngừng hỏi cô Út:
          - Để… con dội mấy chỗ đàm này nghe cô?
          Cô Út vừa gật đầu, con chị kéo vội cái gàu nước lên rồi xối trôi những bãi đàm máu xuống rãnh thoát nước. Hớn hở vì đã lập được một công trạng to lớn, nó tự tin hỏi tiếp :

          - Cô có sao không? Cô bị đau ngực hả?

          Cô Út cúi thấp người hơn, lắc đầu và tiếp tục ho. Con chị lúng túng, không biết hỏi hay nói thêm gì nữa nên thả chiếc gàu xuống giếng và rồi kéo dây gàu lên lấy nước rửa chân.
          Rửa chân xong, định bước vào nhà, con nhỏ chị nghe cô Út hỏi sau lưng:
          - Con đã ăn trưa chưa?

          - Dạ chưa. Con mới đi học về mà! Bây giờ con vô nhà ăn cơm.

          Dứt lời, nó quay vội vào nhà. Nó sợ giọt nước mắt sẽ tràn ra khỏi mi; nó sợ cô Út biết nó khóc. Từ lúc má nó buôn bán sớm đi tối về, hai chị em ăn uống khá thất thường. Mặc dù hứa giúp mẹ khi bà bận rộn mua bán, mỗi buổi sáng, nó chỉ có thể dậy sớm, giục em thức dậy rửa mặt chải đầu và dắt em đi học chứ không thể lấp kín cái bụng trống rỗng bởi cố tật kén ăn và thời gian ít ỏi. Và vì nó nhịn đói đến trường, con em đành phải nhịn đói theo, để mặc nồi cơm nấu sẵn của mẹ từ sáng nằm yên trên bếp đến trưa. Mỗi buổi trưa đi bộ từ trường về nhà dưới nắng gắt nó mệt lắm. Cho nên đến nhà, nó chỉ muốn uống một ly nước cho đỡ bớt mệt và đỡ bớt nóng rồi leo lên giường ngủ. Thế nhưng hôm nào cũng vậy, vừa đặt tập sách trên bàn là con em đòi ăn ngay. Nó không muốn ăn thức ăn nguội mà má đã nấu sẵn từ tờ mờ sáng. Nó có cảm giác ớn nhợn nồi cơm nhão đặc phẳng lì như bánh đúc và những con cá kho lỏng bỏng trong nước mắm muối nguội tanh nguội lạnh cho nên nó thích nhịn đói tiếp cho đến chiều và nằm ngủ còn hơn phải ăn những thức ăn mà nó chẳng thích thú gì.
          Con em nôn nao đợi chị dọn cơm, lấy muỗng gõ leng keng trên miệng chén chơi mông lung, lên tiếng ngay khi thấy con chị tiến về phía căn nhà nhỏ:
          - Chị Hạ cho em ăn cơm nghe!

          Nó miễn cưỡng trả lời:
          - Ừ! Chờ chị một chút!
          Con chị vừa chui vào bếp, con em lò tò theo sau. Ngồi cạnh bếp lò, con chị thở dài ngao ngán. Nó đoán được cái mặt bánh đúc lạnh tanh của nồi cơm không được xới vì mẹ nó phải nấu vội, và bỏ đi ngay sau khi cơm vừa cạn nước. Mở nắp nồi, nó thất vọng nhiều hơn tưởng tượng. Trong nồi, cơm không những giống như bánh đúc mà trên mặt bị đám kiến lửa tụ đầy. Con em đang sau lưng, giục chị:

          - Cho em ăn cơm được không chị Hạ?

          - Không được đâu em! Cơm toàn kiến không hà!
          Con em hấp tấp bước gần lò hơn. Nó cúi xuống nhìn chằm chằm vào nồi cơm. Trong nồi, trên mặt cơm bánh đúc, vô số kiến đỏ đi lại từ nơi này sang nơi khác do bị động. Một số đông kiến họp thành đám, bám chặt mặt trắng của cơm tại một góc nồi, nơi họp mặt của chúng sau khi bò theo hàng một từ đống tro nguội ở ba viên gạch, được coi là bếp lò, lên đến cái thành đen xì của nồi cơm, rồi tiếp tục bò hàng một xuống nơi tụ điểm để cùng nhau đánh chén.

          Con chị ngước mặt lên nhìn em chờ đợi sự từ chối. Không nghe em nói gì, nó nhìn xoáy vào mặt em như muốn yêu cầu sự biểu đồng tình. Con em vẫn không trả lời, cũng không hỏi gì; nó nhìn chăm chăm vào nồi cơm rất lâu.
          Không hiểu được là con em đang nhìn lũ kiến hay nhìn cơm, con chị lắc đầu, gợi ý:

          - Đừng đòi ăn cơm nữa nghe Vy! Kiến sẽ cắn miệng đó!
          - Em đói.

          Câu trả lời của con em quả là một bất ngờ quá đáng đối với con chị. Nó bực mình vì con em không cùng ý nghĩ như nó. Ra oai, nó hỏi lớn:
          - Ăn sao được? Kiến như vậy làm sao ăn được đây? Muốn ăn kiến luôn hả?
          Con em phụng phịu, mắt rướm rướm:
          - Em muốn ăn.

          Con chị la to:
          - Ăn cơm này bị kiến cắn cho coi! Bị kiến cắn, miệng phù ra, mai đi học tụi bạn nó cười cho, nó nói mình tham ăn bị kiến cắn.
          Con em thút thít cãi lại:
          - Sao tụi nó biết em bị kiến cắn? Sao tụi nó biết em tham ăn? Phù miệng đâu phải tại tham ăn!

          Con chị tiếp tục chanh chua:
          - Ơ mà! Ơ mà! Tụi nó không nói em tham ăn đâu. Tụi nó nói em hư! Tụi nó sẽ nghĩ là em hư, em hỗn nên bị má đánh sưng mỏ!

          Nước mắt của con em ứa ra đầm đìa. Nó vừa khóc, vừa nói:
          - Em chỉ muốn ăn cơm. Em đói!

          Con chị như lửa bị đổ thêm dầu, vung tay chỉ trỏ trong nồi, dưới lò, dưới đất, luôn miệng giảng vệ sinh:
          - Em không nghe chị là em hư! Em có thấy mấy con kiến bò từ dưới đất, dưới đám tro dơ này không? Ăn cơm này vô bụng là bệnh chết đó!

          Con em khóc oà:
          - Em đuổi kiến, em ăn cơm.

          Con chị khựng lại, nó cất giọng cầu hoà:
          - Thôi em đi ra khỏi bếp đi để chị bưng cái nồi này ra sân đuổi kiến rồi lấy cơm cho em ăn.

          Con chị vừa dứt câu, con em vội vã vâng lời ngay. Nó chạy ra sân trong tích tắc. Trên tay nó vẫn còn cầm khư khư cái chén và cái muỗng. Con chị rụt rè đưa đôi bàn tay nắm hai quai nồi, chạy vụt ra khỏi bếp, rồi quẳng mạnh cái nồi cơm xuống đất. Khi đáy nồi rơi bịch xuống, vài làn khói bụi bốc lên từ cái sân gồ ghề được sắp bằng gạch có hình thái không đều nằm lẫn trong đất cát. Con chị phủi tay không ngừng vì sợ kiến bám nhưng vẫn dán chặt mắt vào nồi cơm. Trong nồi, lũ kiến bò túa ra khắp nơi trên mặt cơm. Ngoài cái vách nồi đen thùi lui, những hàng kiến rơi lả chả. Hiểu ra tác dụng của cách làm này, con chị tiếp tục nắm hai quai nồi, đưa lên khỏi mặt sân khoảng hai gang tay rồi dằn mạnh xuống đất. Đám kiến đỏ nghe động, bò tứ tán trên mặt cơm. Vài con tìm cách bò lên thành để ra khỏi nồi. Nôn nóng, con chị không ngừng dằn cái nồi xuống đất nhiều lần. Lũ kiến rời mặt cơm, vừa leo lên thành, cái nồi bị dằn mạnh xuống sân, phải lăn tòm xuống lại, lăng quăng đủ chỗ không biết bò hướng nào. Mặt cơm lần này như có nhiều kiến hơn. Càng nôn nóng, con chị càng làm cho nồi cơm trông nhiều kiến hơn.
          Mặt trời cao trên đỉnh đầu chiếu thẳng những tia nắng gắt xuyên qua những tàu dừa rọi trên lưng con chị. Không đuổi được kiến ra khỏi nồi lại bị nắng chiếu nóng bỏng trên lưng, con chị vừa gạt mồ hôi vừa nhăn nhó. Nó chợt nghĩ ra cách trả thù lũ kiến bằng cách để chúng bị nắng chơi. Nắm hai quai nồi dằn thật mạnh nó đặt xuống ngay chỗ nắng chiếu sáng nhất và nắng nhất rồi bảo con em chạy vào bậc tam cấp ngồi chờ. Vài phút sau, hai con nhỏ bước đến cái nồi, thăm dò tình hình. Mấy con kiến bị quấy rối nhiều lần và có lẽ sợ nắng chiếu nên thi nhau tìm cách bò ra khỏi nồi. Con em thích thú với thành quả, chìa cái muỗng cho chị:
          - Chị Hạ lấy cái muỗng này đuổi kiến nữa đi.

          Con chị nghe lời em, cầm cái muỗng, gõ vào thành nồi nơi ít kiến nhất. Những con kiến còn lại sợ động bò dồn đến hướng khác, để lộ một khoảng trắng của cơm. Con chị hớn hở bảo em:

          - Vy đưa chén đây, mau lên!
          Cái chén vừa đưa trước mặt, con chị vội ấn sâu cái muỗng xuống mặt cơm xúc lấy, xúc để vào đó. Thở phào, nó đứng lên:
          - Chị lấy cá cho em nữa là xong.
          Dứt lời con chị đi vào nhà bếp. Con em đi theo sau. Đến chỗ bếp lò, hai đứa cùng ngồi xuống chăm bẳm nhìn cái xoong nhỏ trên ba viên gạch nhỏ. Con chị mở nắp vung vội vàng, toan múc cá cho vào chén cơm, đột nhiên mở lớn mắt kinh hoàng. Con em không khác hơn chị; miệng méo xệch, méo xạc, mắt rưng rưng, nói như khóc:
          - Thôi em không ăn cơm nữa đâu!

          Nói xong, con em đứng lên, lầm lũi bước ra khỏi bếp. Con chị ngồi chết lặng, đăm đăm mắt vào trong cái xoong nhỏ. Ba lát cá trong nước mắm muối kho với muôn ngàn xác chết của kiến như cá kho bị cả hộp hạt tiêu vô ý đổ đầy vào. Vài con kiến còn sống sót, bò dập dềnh trong nước kho gần các lát cá như những kẻ thoát chết, cố bám víu trên trên các gờ đá của hoang đảo để tìm nơi ẩn náu.
          Một lúc sau, con chị đậy nắp xoong lại một cách chán nản, và cầm chén cơm bước ra sân. Nó định hỏi ý con em muốn ăn cơm với muối hay mắm thay vì với cá kho nhưng cổ nó bị nghẹn lại vì nhìn thấy con em đang cạp một trái bàng do dơi ăn dở.

          Nghe tiếng động sau lưng, con em hết hồn quay lại, lúng túng phân trần:

          - Em chỉ cạp chỗ sạch này thôi! Em không ăn chỗ dơi ăn đâu. Chỗ dơi ăn dơ lắm phải không chị Hạ?

          Con chị nhìn em thương hại:
          - Đừng ăn trái bàng sống đó nữa em. Chị có mấy trái bàng khô trong cặp. Vào lấy cặp chị ra đây, chị lấy hột bàng khô đập cho em ăn.
          Con em nghe lời chị, quẳng trái bàng ăn dở xuống đất, chạy vào nhà. Con chị khệ nệ đem chén, nồi bỏ vào trong bếp rồi ngồi trên bậc tam cấp chờ em. Một lát sau, con em trở ra với chiếc cặp đen cũ bạc đáy. Con chị đón lấy cái cặp, lục lọi một lúc, lôi ra vài trái bàng màu xám nhạt. Nó sai con em:
          - Vy lấy cho chị cục gạch.
          Con em vâng lời đến góc sân, cạy một viên gạch đưa cho chị. Con chị, tay trái giữ cho cạnh sống của trái bàng hướng lên trên, tay phải nắm nghiêng viên gạch, đập liên tiếp lên trái bàng. Khi lớp vỏ cứng bên trong lòi ra, nó xé sạch phần xơ tơi bên ngoài, rồi đập mạnh trên cạnh sống của lớp vỏ cứng bên trong cho đến khi cái hột bàng hình thoi, dài nhọn hai đầu với lớp vỏ bọc vàng ươm lộ ra ngoài. Con em nuốt nước miếng, nịnh chị:
          - Chị Hạ đập hột bàng giỏi "nhất trên thế gian"! Không bị bể chút nào!
          Con chị vừa thương em, vừa khoái nghe nịnh, chìa cái hột bàng:
          - Chị cho em đó, ăn đi!

          Con em hí hửng bỏ vào miệng, định nhai, nghĩ sao nó lại phèo ra, cắn chỉ một nửa, chìa nửa miếng còn lại đưa tận miệng chị:

          - Hột bàng này dòn ghê! Chị ăn thử coi!

          Con chị chùi tay vào quần, đón lấy. Không bỏ vào miệng, nó xoay nửa hột bàng giữa hai ngón tay cái và tay trỏ như vặn ốc vít. Nửa hột bàng như nửa con thoi trắng tí hon được bọc bởi lớp vỏ nâu bên ngoài. Cấu tạo của nó giống như nửa hạt đậu phọng rang dòn. Khi liên tưởng hột bàng có thể thay thế thức ăn, con chị mỉm cười một mình.
          Con em giục:
          - Chị Hạ ăn đi! Ngon lắm!

          Con chị nhìn con em một lúc, nghĩ sao nó dúi nửa hạt bàng vào lòng bàn tay của con em.
          - Em ăn đi! Chị ăn cái khác.

          Con em vừa nhai vừa hỏi:
          - Chị Hạ lượm trái bàng ở đâu mà khô vậy?
          - Chị lượm ở trường đó! Mấy trái bàng tươi trong sân nhà mình là do dơi ăn làm rớt xuống đó. Còn ở trường đó hả, bàng rớt xuống, không có ai lượm, nên nó khô ran. Nắng làm cho trái bàng khô mau lắm đó Vy!

          - Vậy ngày mai chị Hạ lượm nhiều trái bàng khô cho em nữa nghen.
          - Muốn lượm nhiều trái bàng khô phải đi sớm đó Vy. Chứ lượm lúc có mấy đứa học trò trong trường tụi nó cười mình. Vy muốn đi lượm hột bàng mà Vy có thức dậy sớm được không?

          Không nghe con em trả lời, con chị ngừng tay, quay đầu nhìn ra sau. Bên cạnh con em là cô Út đang bưng chiếc mâm tròn và hai con chó Kiki và con Vàng đang vẫy đuôi, nhảy cỡn xung quanh cô đòi ăn.

          Cô Út vừa nạt chó, vừa hỏi:
          - Hai đứa có muốn ăn cơm không?

          Con chị quẳng viên gạch xuống đất, đứng dậy. Trong vô thức, nó đưa tay đón lấy mâm cơm và nói nhanh:
          - Dạ có. Cảm ơn cô.
          Cô Út trao cho con chị mâm cơm xong, không nói gì, lặng lẽ xua chó đi về phía đàng sau ngôi nhà lớn. Nhìn bóng cô khuất sau sân gạch, con chị bất chợt nhớ đến chuyện phải đi qua cái sân gạch để vào nhà bếp của bà nội trả lại chén đĩa sau khi ăn xong. Cái sân gạch sau ngôi nhà lóe lên trong đầu làm nó nhớ cảnh mẹ nó bị hành hạ, những lời chửi rủa hung dữ của cô Út, và lời tự hứa không quan hệ gì với "trong ấy" khi nó dùng chữ "ở đây”. Những hình ảnh của tối hôm trước ào ạt hiện ra trong đầu nó. Chúng đã thôi thúc nó chạy theo cô Út thật mau để trả lại mâm cơm. Con em thấy chị ôm gọn mâm cơm trước ngực, mà chưa muốn vào nhà nên giục rối rít:
          - Mình vô nhà ăn cơm nhen chị Hạ!

          Con em giục bao nhiêu lần mà con chị vẫn đứng ngây người như một pho tượng vô tri vô giác. Với đôi mắt bị thôi miên, nó nhìn chằm chằm các món ăn thừa trong mấy cái chén, cái dĩa, và cái tô. Nó đang bị day dứt và dằn vặt vì đã không suy nghĩ kỹ trước khi nhận mâm cơm. Nó tự trách là đã không giữ thái độ cứng rắn để cho những người lớn trong gia đình nội biết là nó sẽ luôn luôn về phía mẹ, luôn luôn vì mẹ chứ không cần một sự bố thí hay thương hại nào. Bấy giờ lỡ nhận mâm cơm, nó cảm thấy áy náy vì tự đưa mình vào tình trạng khó xử. Nó phải nói như thế nào, nói cái gì và dùng những cớ nào để trả mâm cơm cho bà nội và cô Út đây? Còn nếu nó chấp nhận mâm cơm có nghĩa là nó phải chịu ơn, và là nó đồng lòng với thái độ cô Út đối với mẹ. Và như thế, nó không còn có cơ hội chứng tỏ cho những người lớn trong đại gia đình họ Hoàng thấy là nó không thích những lời nói và hành động khinh rẻ mà họ đã đối xử duy nhất và tệ hại nhất chỉ với mẹ của nó mà thôi.
          Con em kéo tay chị:
          - Chị Hạ cho em ăn cơm đi! Em đói quá rồi!

          Tiếng nói khá lớn của con em khiến con chị giật mình, đưa mắt ngơ ngác nhìn quanh. Khi ánh nhìn của nó ngừng trên khuôn mặt lem luốt và đầy vẻ van nài của con em thì những suy tính trong đầu nó tiêu tan theo cái không gian yên lặng. Nó gật đầu:

          - Ừ, mình vô nhà ăn cơm.

          Con em như chim non chuyền trên những cành lá tươi xanh, nó tíu tít:
          - Cá chiên trong mắm chua ngọt ngon lắm. Chị Hạ cho em nhiều cơm với nghen.
          Con chị lấy chén chia cơm ra làm hai phần, rồi xẻ cá cho em. Cá chiên của cô Sáu và cô Út lúc nào cũng ngon chứ chẳng phải con em khen vì dễ ăn. Hôm nay phần cá thừa ngon chẳng khác nào như những lần trước. Con chị thích món cá chiên dòn dầm trong nước măm chanh ớt tỏi. Không cần phải ăn cơm với cá, chỉ chan nước mắm này với cơm thôi, cơm cũng đủ làm vừa miệng lắm rồi. Trong khuôn viên nhà nội, thức ăn do các cô của chúng nấu lúc nào cũng có vị đặc biệt và ngon miệng bởi vì các cô là người Huế. Chính mẹ của chúng cũng nhiều lần tấm tắc khen các cô nấu nhiều món ăn ngon và cầu kỳ mà bà không thể nào nấu được như vậy. Nước mắm thì có tỏi, ớt, đường, chanh, cá kho thì có nước màu, tóp mỡ, đồ xào thì có hành lá và ngò thơm. Mỗi lần được những thức ăn do mẹ hay các cô chúng nấu, con chị và con em luôn luôn bàn tán thức ăn ngon dở và cuối cùng đồng công nhận là thức ăn của mẹ chúng nấu không bằng những món của các cô. Tuy nhiên, bàn tán chỉ là cái lệ khi hai con nhỏ ăn cơm với nhau, bởi vì đối với con em, thức ăn ngon dở không quan trọng bằng chuyện có thức ăn hay không mỗi khi nó đói bụng. Còn con chị, do cái vị giác quá nhạy nên nó rất kén ăn; khi nếm những thức ăn không vừa miệng. Nó thà nhịn miệng còn hơn ăn bừa. Vì kén ăn, lại quen nhịn ăn nên thân hình con chị gầy đét và cao ngòng chẳng khác gì cây tre tong teo. Thỉnh thoảng vì thương hại mà bà nội và các cô Sáu cô Út thường dấm dúi riêng cho nó những thức ăn thừa. Mỗi lần như thế, con chị có rất nhiều suy nghĩ trái ngược xung đột trong đầu. Nó vừa muốn cho bà nội và các cô thấy rõ tự ái của nó bằng cách không nhận và không ăn những thức ăn thừa nhưng nó lại lý luận rằng thà ăn thức ăn thừa mà ngon hơn là ăn thức ăn nguyên mà dở.
          Con em được chén cơm trong tay, mừng rỡ, đưa muỗng xúc lấy xúc để vào miệng, và nhai ngấu nghiến. Nó vừa ăn, vừa nói huyên thuyên về những trái bàng khô mà nó sẽ đi học sớm để lượm với chị vào sáng sớm ngày hôm sau. Con chị ậm ừ hứa cho qua chuyện và lặng lẽ ăn cơm. Nhai được vài miếng, mũi nó nồng lên và đôi mắt trở nên ươn ướt đỏ. Nó cảm thấy tủi thân bởi vì cảnh một gia đình ăn cơm thân mật với nhau tại bàn ăn đang hiện ra trong trí tưởng tượng của nó. Trong cảnh ấy có người cha, người mẹ và những đứa con. Họ cùng ăn, và cùng cười nói với nhau. Trước mặt họ là đầy dẫy thức ăn nóng nghi ngút. Thực tại, bữa cơm của nó không có cha cũng không có mẹ, không có bàn cũng không có ghế. Đối diện nó là con em đang ngồi xếp bằng và cái mâm nhôm ở chính giữa hai đứa chỉ có lèo tèo dĩa cá chiên nữa khúc dằm trong nước mắm, chén đồ xào vùn vụn và lưng tô canh rau cải lạnh tanh. Con em càng lúc càng khom lưng, chúi đầu và lầm lũi nhai cơm không ngừng như chưa từng biết cơm là gì khiến con chị rưng rưng với chén cơm của nó trên tay. Khi ý thức được hầu như những bữa cơm chỉ có hai chị em, con chị thảng thốt. Mắt nó dại đi vì những hình ảnh bất hạnh lần lượt hiện ra trong suy tưởng: Cảnh mẹ nó chết bất ngờ vì bị bệnh ngặt nghèo nào đó, cảnh hai chị em nó bơ vơ côi cút giữa những người sang trọng trong khuôn viên nhà họ Hoàng, cảnh hai chị em lặng lẽ ăn cơm bên nhau, cảnh hai chị em âm thầm nằm ngủ với nhau, và cảnh hai chị em lủi thủi với nhau trên con đường đến trường cũng như về nhà. Khi ý nghĩ bà mẹ cũng có thể chết như ông bố ám ảnh trong trí, đầu của nó càng lúc càng trở nên cứng đờ. Nó bồn chồn lo lắng với bao nhiêu câu tự hỏi: Chị em nó sẽ sống ra sao khi mẹ nó, người thân cuối cùng trên đời, không còn? Nó phải làm gì để có tiền mua gạo nuôi em? Phải chăng nó sẽ xin làm công cho gia đình bác Cả hay gia đình nào trong nội để có cơm ăn mà đi học? Nghĩ đến chữ làm công, nó chảy nước mắt. Cay đắng tự hỏi phải chăng số phận của chị em nó chẳng khác nào số phận của mẹ nó trước đây, nó lẩm bẩm một mình "Phải đi ở trong nhà bác Cả và nội mới kiếm được cơm ăn chứ chẳng ai nuôi mình đâu bởi vì má thường nói là 'giàu cô chú bác có làm có ăn' mà! " Mũi nó nồng lên buồn tủi khi hình ảnh tương phản giữa những người bà con sang trọng và thân phận tôi đòi của hai chị em nó lần lượt hiện ra. Không chấp nhận những hình ảnh ấy, nó xoá sạch cảnh làm công cho nhà bác Cả bằng cảnh làm công cho những người không có quan hệ huyết thống.
          Lục trong trí nhớ bao nhiêu người bạn quen của mẹ, nó lắc đầu chán nản. Mẹ nó hầu như chẳng có người bạn thân quen nào. Một người duy nhất mà bà thường hay nói chuyện là người đàn bà hay lấy nước mã, nước cơm thừa cá cặn, ở cái mẻ bên giếng của đại gia đình họ Hoàng. Người đàn bà lấy nước cơm dư này thường xuyên mặc áo quần với nhiều mảnh vá chắc hẳn cũng nghèo khổ như mẹ của nó và chắc chắn là bà ta chẳng thể nào có khả năng mướn nó làm công cho. Ngao ngán thở dài, nó đưa mắt nhìn từng vật dụng trong nhà. Cái tủ đựng thức ăn rách lưới được dán kín băng một miếng báo cũ, hai cái giường gỗ cũ thô sơ, một tủ áo quần xuệch xoạc và bộ bàn ghế gỗ xiêu vẹo tróc nước sơn là những thứ không ai muốn mua cho. Nghĩ đến chuyện mất hết những vật dụng quen thuộc đã từng có trong nhà, con chị đau lòng khôn xiết. Bao vật dụng trong căn nhà là bấy nhiêu kỷ niệm mà ba mẹ con nó gắn bó với chúng như những tế bào trong thân thể con người, chúng không thể bị mất đi khi chị em nó vẫn còn hiện diện trong căn nhà. Hơn nữa những vật dụng trong nhà đều do ba nó sắm sửa trước khi ông mất là những vật dụng chứa đựng bao nhiêu yêu thương nồng nàn của ông dành cho gia đình và là những vật kỷ niệm mà ba mẹ con nó đã gắn bó sử dụng sau khi ông qua đời. Ý nghĩ về người cha thân yêu đã làm dịu bớt những lo âu tính toán mà con nhỏ chị đang có. Nó tự hứa thầm là sẽ ở mãi mãi trong căn nhà và giữ lại tất cả những vật dụng do ba nó tạo nên cho dù bất cứ tình huống nào xảy ra. Tuy nhiên suy tính mãi không nghĩ ra cách kiếm sống để nuôi em và giữ tất cả những vật kỷ niệm do ông bố để lại, nó lại nghĩ sang đến chuyện dắt em đi ăn xin. Chìm mình trong cảnh cùng em đi ăn xin với cái túi vải, với cái mũ lụp xụp, với cái đầu cúi xuống, với cánh tay chìa ra phía trước, và với câu nói thường nghe từ miệng các người ăn xin trên đường “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại cho tui xin một đồng. Thân tui nghèo khổ, không tiền không gạo, các ông, các bà làm ơn làm phước dùm!", nước mắt nó tuôn rơi không ngừng.
          Nhớ đến câu ca dao mà mẹ nó thường lập đi, lập lại “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu đường” và cay đắng với cảnh tượng hai chị em côi cút bơ vơ vừa không cha lại không mẹ, nó gạt nước mắt không thôi.

          Con em ngừng nhai, ngạc nhiên nhìn chị:
          - Sao chị khóc? Sao chị không ăn cơm đi?

          Con chị tiếp tục lau nước mắt, lắc đầu. Con em bỏ chén cơm xuống đất, nhìn chị ái ngại:
          - Chị Hạ đừng khóc nữa! Em không ăn cá nữa đâu, nhường cho chị hết đó!

          Nước mắt của con chị lại tuôn ra ào ạt. Nó vừa dùng tay áo lau nước mắt, vừa lắc đầu nguầy nguậy; nghẹn ngào không nói năng được gì. Con em không nghe chị nói, không nghe chị trả lời, chỉ thấy nước mắt nên lo sợ đến độ không dám gắp thêm thức ăn nữa. Nó gác đũa im lặng nhìn chị khóc.
          Hai chị em con nhỏ ngồi im lặng lâu lắm, lâu cho đến lúc đến lúc bà nội gọi ngoài giếng.
          - Hạ ơi! Ra lấy chén chè đậu nì!
          Cả hai đứa giật mình nhìn ra ngoài. Con em nhắc chị:
          - Bà nội gọi chị kìa!
          Con chị đứng bật dậy, chạy ra cửa:

          - Dạ, con ra ngay đây.

          Đúng lúc nó vừa xỏ đôi chân vào đôi dép nhựa, bà mẹ hai đứa vừa buông chiếc đòn gánh xuống dưới gốc dừa. Hôm nay bà về nhà sớm hơn thường lệ. Bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của bà mẹ, con chị bối rối nhìn lại cái mâm nhôm hoa của cô Út trên nền xi măng trước mặt con nhỏ em trước khi chào bà. Nó ấp úng:
          - Má bán hết hàng rồi hả?
          Không chờ bà mẹ trả lời, nó chạy vụt ra giếng. Bà nội trao cái chén kiểu có hình hai con rồng xanh vừa căn dặn:

          - Tau cho một mình mi chén chè đậu ngự nội thôi! Lo mờ ăn đi. Càng ngày càng ốm như cây tăm!

          Con chị "dạ" một tiếng gọn lỏn rồi hối hả chạy trở vào nhà.
          Bà mẹ hỏi con em:
          - Sao con không ăn cơm má nấu?

          Con em không trả lời. Không hiểu vì nó bận nhai cơm hay vì không biết trả lời như thế nào để làm vui lòng mẹ. Con chị đỡ lời cho em:

          - … dạ… cơm và cá đều bị kiến cả má à… cho nên cô Út cho cơm là con lấy cho Vy ăn.

          Bà mẹ không nói gì, đi xuống bếp kiểm tra hai nồi cơm, cá. Con em ăn hết chén cơm, nhìn chăm bẳm vào chén chè:
          - Chè gì vậy chị Hạ?
          - Chè đậu ngự đó Vy.

          - Chè đậu ngự ngon không?

          - Chắc ngon! Đậu này ngày xưa chỉ cho vua ăn thôi, cho nên nó phải ngon rồi!
          - Sao chị biết vua ăn?

          - Mấy bữa trước chị nghe cô Sáu và bà nội nói là vua ăn nên nó có tên "ngự".
          - Đậu này chỉ cho mấy "nhà giàu" ăn thôi hả?

          - Chắc là vậy!
          - Chị có chè này là bà nội muốn chị giàu rồi! Là "vua" rồi!
          Con chị nhíu mày, lắc đầu:

          - Đâu có đâu! Chắc tại bà nội thấy chị ốm nên muốn cho chị ăn cho mập hơn.
          Con em nuốt nước miếng, nói nhỏ nhẹ:
          - Cho em ăn "đậu vua" này với nghe!
          Con chị gật đầu:

          - Ư, mà đậu ngự chứ không phải "đậu vua"!
          Con em đổi lại chữ dùng, nói ngay:
          - Vậy thì cho em ăn chè đậu ngự này với nghe!
          Bà mẹ bước lên bậc thềm nhà, khuôn mặt lạnh lùng:
          - Vy không được ăn chén chè đó! Chén chè đó là của chị Hạ! Bà nội cho chị Hạ chứ không phải cho con đâu mà ăn.

          Con em phụng phịu. Con chị không nói năng gì. Bà mẹ nói thêm:
          - Vy không nên ăn cái gì "người ta" không muốn cho mình. Đối với bà nội và mấy cô, chỉ có chị Hạ là cháu mà thôi.
          Nước mắt con chị rớt ra ngoài. Nó cúi mặt xuống. Từ lâu nó thường nghe bà nội và các cô nhắc đến khuôn mặt giống ông bố như tạc của nó và thường xuyên nhận thấy được sự đối xử chênh lệch của gia đình nội đối với hai chị em nó. Một sự thiên vị rất lớn, rất khác biệt khiến nó phải chú tâm và suy nghĩ rất nhiều; tuy nhiên, nó không bao giờ nghĩ đến ngày mẹ nó nêu rõ sự thiên vị này ra để tách biệt hai chị em nó như hôm ấy. Nó trách bà nội của nó chỉ cho một chén chè.Nó trách bà nội căn dặn là chén chè chỉ dành cho mỗi mình nó. Nó trách mẹ của nó đã nói những lời phân chia tình cảm của chị em nó. Nó trách mẹ của nó đã làm nó đau lòng với hai chữ "người ta". Cảm nhận như một người có tội với những gì xảy ra, nó buồn bã ngước lên nhìn em một thoáng rồi bần thần thu dọn chén bát.
          Con em, bất kể những lời lẫy hờn của mẹ, lẽo đẽo đi theo chị ra sân. Nhìn quanh không thấy bóng mẹ, nó thì thầm với chị:
          - Cho em ăn chè đậu ngự với nghe chị Hạ!

          Con chị đặt mâm cơm trên sân giếng, gật đầu. Hai đứa ngồi bệt dưới gốc dừa, bên cạnh lu nước. Con chị trao cho em chén chè. Con em múc một muỗng đầy đút vào miệng, mắt nhắm tít, mặt khoan khoái. Con chị đón chén chè, thưởng thức những hạt đậu ngọt mềm bùi bùi đang từ từ tan trong lưỡi, trong răng. Hai chị em trao qua trao lại chén chè cho đến khi vét sạch chút nước sót lại cùng với những hạt bột mịn còn lắng trong đáy chén. Ăn chè xong, hai chị em líu lo về chuyện học, chuyện bạn, chuyện lớp, và chuyện trường.
          Nắng xuyên qua những chiếc lá dừa. Nắng đậu trên tóc, trên vai của hai chị em. Những con chim rộn ràng ríu rít trên các cành cây như bắt chước hai con nhỏ trao đổi chuyện tâm tình. Trên sân giếng, chiếc mâm cơm với chén bát ngổn ngang đang từ từ được tắm đầy bởi nắng.

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:24:07 bởi Ct.Ly >
          #5
            Cung Thi Lan 04.08.2007 17:43:22 (permalink)

            Chương Bốn
             

            - Vy! Vy! Dậy đi Vy! Dậy đi Vy!

            Tiếng kêu lớn và liên tiếp của con chị đánh thức con em tỉnh giấc. Nó mở mắt ra ngơ ngác trong bóng tối một lúc rồi nhắm mắt lại ngay sau đó.

            Không nghe em trả lời, con chị gọi to hơn:
            - Vy dậy đi nghe Vy!

            Con em bị quấy, rên vài tiếng ư ứ trong miệng rồi trở người vào trong.
            Con chị nói lẩm bẩm:
            - Nói là muốn đi lượm hột bàng khô mà không chịu dậy sớm! Dậy trễ thì đừng có nói là đi lượm hột bàng khô nữa!
            Con em không trả lời, tiếp tục im lặng ngủ. Thua cuộc, con chị đành phải leo lên giường, kéo vai em:
            - Vy! Dậy! Dậy đi! Có muốn đi lượm trái bàng khô không vậy? Có muốn không Vy?
            Con em mở mắt, bớ xớ:
            - Đi lượm bàng hả chị? Em đi chớ!
            - Muốn đi thì phải dậy ngay bây giờ đi!

            Con em lồm cồm nhỏm người dậy, nhìn dáo dác:
            - Mình đi bây giờ hả chị? Má đi bán chưa vậy?

            - Má đi rồi! Má kêu chị dậy đóng cửa cho má là chị gọi Vy dậy liền nè! Đi đánh răng rửa mặt mau lên.
            Luyến tiếc với giấc ngủ ngon, con em ngáp dài:
            - Trời còn tối mà. Cho em ngủ thêm một chút nữa đi.

            - Không được đâu! Tại chị chưa mở cửa ra cho nên trong "buồng ngủ" tối như vầy chớ ở ngoài trời sáng rồi. Lẹ lên mà đi lượm trái bàng chứ đi trễ tụi trong trường thấy, tụi nó cười chị em mình đó.

            Con em lồm cồm leo xuống giường:
            - Vậy để em đi “đánh” răng rửa mặt đã!
             
            Chờ con em làm vệ sinh sáng xong, con chị chải đầu thắt bím cho nó rồi cả hai hối hả đi về phía cái cổng gỗ trước nhà bác Cả.
             
            Buổi sáng, trời vẫn còn mờ mờ trong màn sương sớm. Khu vườn im lặng. Ngôi nhà lớn im lặng. Hai chiếc cổng gỗ khép kín và sân trước không có một người. Không gian và cảnh vật xung quanh hoàn toàn đồng loã với sự đi lại âm thầm và lén lút của hai chị em con nhỏ.
             
            Sau khi gài hai chiếc cổng gỗ lại với nhau, hai con nhỏ ôm cặp bước nhanh trên đường như bị ma đuổi. Không nói nhau một lời nào, cả hai đồng hành qua hai ngã tư, và hai con đường vắng để tiến đến con đường Phan Chu Trinh rộng lớn và quang đãng với vài chiếc xe qua lại. Xa xa, cuối con đường ấy là vùng trời sáng rực mà bên trên nhiều cụm mây đen xanh lẫn tím thẫm đang lơ lửng lấp chồng lên nhau .
             
            Con em chỉ tay về phía vùng trời sáng, nói như reo:
            - Mặt trời đang mọc lên ở chỗ đó kìa chị Hạ!
            Con chị ngửng đầu lên, đáp gọn:

            - Chỗ đó là biển đó Vy!

            Con em trố mắt:
            - Sao chị biết chỗ đó là biển? Bộ chị được đi tới đó rồi hả?

            - Chưa, chị chưa đi nhưng chị nghe bạn chị nói!

            Con em nhìn chằm chằm về phía mặt trời mọc, thỏ thẻ:
            - Vậy thì hôm nào tụi mình đi biển chơi nghe chị Hạ!

            Con chị bước chậm gần như đứng lại. Nó lắc đầu và nói với giọng đầy nghiêm trang:
            - Không được đâu Vy. Không có người lớn, mình không được đi đâu hết. Đi chỗ lạ phải có người lớn dẫn đi mới được.

            - Chị là người lớn của em. Chị dắt em đi được mà!
            - Chị không dắt được đâu!

            - Chị dắt được!

            - Không được!

            - Được!
            - Sao dám cãi chị? Muốn hỗn hả?
            - Không phải hỗn, mà vì được mà chị nói là không được!

            - Làm sao được được? Chị có phải là người lớn đâu mà dắt Vy đi biển?

            - Vậy sao chị dắt em đi học được?

            - Đi học là khác! Vì má biểu chị dắt Vy đi học nên chị dắt Vy đi được. Không ai chỉ chỗ biển ở đâu, cũng không ai biểu chị dắt Vy đi biển, làm sao chị dắt Vy đi được?
             
            Con chị nói chậm và rõ từng chữ rồi dứt câu với hai chữ "làm sao" để khẳng định sự phủ nhận hoàn toàn việc làm do con em yêu cầu khi hai đứa đứng lại chờ hết xe trên đường cái.
             

            Buổi sáng quá sớm, chưa có một đứa học trò nào đi học và cũng không có nhiều xe trên đường. Một chiếc xe hơi chạy nhanh về hướng biển, vài chiếc xe đạp qua lại trên đường, hai chiếc xe xích lô chở đầy hàng và một chiếc xe ngựa chật ních người lẫn hàng chầm chầm quẹo về phía chợ Đầm. Con chị nắm tay em cẩn thận bước qua đường khi thấy vắng xe.

            Đến lề đường đối diện, con em vẫn không từ bỏ ý định đang lôi cuốn tâm trí nó:
            - Nếu chị Hạ dắt em đi biển sớm như đi học sáng hôm nay, má đâu có biết đâu!

            Con chị lắc đầu nguây nguẩy:

            - Không được đâu!

            - Sao không được hả chị? Như bây giờ mình trốn má đi học sớm, má đâu có biết?

            - Đi học là khác, đi biển là khác!
            - Cũng là đi bộ, em đâu có thấy khác?

            - Vì đi học sớm mình kiếm hột bàng khô để ăn. Chớ đi biển làm gì?
            Con em nhìn về hướng sáng trước mặt, nói buồn bã:
            - Em muốn biết biển ra sao. Có lẽ đi biển sẽ vui lắm, chớ mình không có gì khác hơn ngoài mấy trò chơi ở nhà!
             
            Lời của con em khơi sự tò mò nao nức trong lòng con chị. Nó cũng muốn tìm hiểu biển Nha Trang như thế nào. Đến lúc ấy, tuổi lên tám, nó chưa ý niệm được biển là gì vì chưa một lần thực tế với biển. Khi ba nó còn sống có lẽ ông đã từng đưa nó dạo biển chơi nhưng lúc ấy thì nó còn quá nhỏ để nhớ được biển ra sao. Suy nghĩ trong im lặng một lúc, con chị thành thật thú nhận:
            - Chị cũng muốn trốn má dắt Vy đi biển chơi một lần nhưng chị không biết đường đi đến biển. Chị sợ lạc đường, về nhà trễ má đánh mình chết! Chị chỉ nghe bạn chị nói chỗ đó là biển thôi chứ chưa đi lần nào cả Vy à!
            Nghe chị nói vậy, con em thôi tranh luận. Nó đưa đôi mắt luyến tiếc nhìn lại những đám mây tím thẫm đang được nắng nhuộm ửng hồng lơ lửng trôi về vùng trời lam nhạt một lần nữa trước khi rẽ về phía tay phải để đi theo con chị trên con đường Hoàng Hoa Thám, con đường cuối cùng dẫn đến trường. Con đường này tối hơn con đường lớn Phan Chu Trinh vừa đi qua bởi hàng cây cao ngọn dọc hai bên vỉa hè. Hàng ngàn lá cây xanh vờn theo gió sớm, tạo nên những luồng không khí lành lạnh. Hai đứa nhỏ đi sát vào nhau hơn và đồng bước nhanh hơn như đi diễn hành.
             
            Đến trường, hai đứa dáo dác nhìn vào trong sân và các lớp học xuyên qua cái cổng phụ làm bằng sắt sơn nâu. Con chị với tay vào trong loay hoay tìm chốt để mở cổng. Khi các ngón tay của nó chạm phải cái ổ khoá, nó càu nhàu:
            - Cổng này bị khoá rồi Vy ơi! Ông cai khoá cổng này rồi, mình phải đi tới cái cổng chính thôi.

            Bất chợt, một cơn gió mạnh thổi đến làm lá rơi xuống ào ạt. Liên tiếp, vài ba cơn gió khác lại thổi đến. Những cơn gió như đang đuổi nhau, vù vù cuốn theo những chiếc lá trên sân, trên vỉa hè và trên đường xe chạy. Lá chơi vơi xoay tròn trong không khí như múa lượn với gió rồi xào xạc rơi xuống mặt đất. Hai con nhỏ chạy dọc theo bức thành dài của trường đến hai cánh cổng chính. Chiếc cổng lớn bằng sắt sơn nâu này cũng bị khép kín. Con em run cầm cập vì lạnh, đứng sát cột gạch dưới tấm bảng trường nữ tiểu học Nha Trang.
             

            Con chị lại thò tay qua cổng sắt, rên rỉ:
            - Cái cửa này cũng bị khoá nữa Vy à!
            Không nghe tiếng con em trả lời, thay vào đó một giọng nói xa lạ vang lên sau lưng nó:
            - Chưa đến giờ học thì trường phải đóng cổng chứ!

            Con chị quay người về phía tiếng nói. Một con bé trạc tuổi nó đang chăm chú nhìn hai chị em. Con bé này mặc đồ bộ trắng, tóc kẹp sau lưng. Trên tay nó là những chiếc lá bàng. Con chị chưa biết mở lời ra sao, con bé ấy lại nói tiếp:
            - Bộ tụi mày không biết ông cai chỉ mở cổng trường mười lăm phút trước lúc vào học sao?
            Con nhỏ em quên lạnh, chỉnh con bé lạ:
            - Đang đứng trước trường sao còn dám xưng hô mày tao?
            Con bé lạ bị sửa lưng, không giận. Nó hỏi con chị:
            - Sao…đi học sớm vậy?
            Con chị lúng túng định kiếm một cớ gì đó để nói láo nhưng đôi mắt nhìn thẳng của con bé lạ khiến nó đành phải khai thật:
            - Tui định dẫn em tui vô trường để lượm mấy trái bàng khô.
            - Đi "lượm" hạt bàng lúc này để khỏi bị bạn cười chớ gì? Nhưng mà đi sớm như vầy làm sao vào trường được? Phải đến bảy giờ ông cai mới mở cửa lận!

            Thương hại nhìn con chị đang đứng đực mặt, con bé lạ nói tiếp:

            - Nhưng mà cần gì nhặt bàng khô trong trường chứ! Ngoài đường này thiếu gì!
            - Ở đâu đâu?

            Con bé lạ chỉ tay về cái gốc bàng to mọc trên khu vực phân chia con đường cái ngay trước cổng trường.

            - Chỗ cây bàng lớn đấy.

            Con chị trợn mắt:
            - Lượm bàng ở giữa đường xe chạy vậy hở?

            - Sáng sớm đâu có xe nhiều! Chờ lúc nào không có xe thì nhặt, thấy có xe thì đứng sát vào gốc cây đó.

            - Huệ ơi! Đến đây nhặt lá mau đi. Lá rơi bao nhiêu là lá mà không lo nhặt, lắm điều lắm chuyện gì đấy?
             

            Mấy con nhỏ quay về hướng người kêu. Gió thổi vù vù như cố tình tuốt hết những chiếc lá vàng trên cây. Những chiếc lá chưa kịp rơi xuống đất đã bị những cơn gió khác kéo đến đưa vụt lên cao, xoáy tròn. Gió và lá như đang múa lượn và đùa vui với nhau trong không khí. Giữa lòng đường, dưới gốc cây bàng to, một người đàn bà đội nón, mặc quần đen áo bà ba thẫm đang chao đảo trong gió. Bà vừa cố gắng giữ người thăng bằng, vừa gọi con ơi ới.

            - Có đến ngay không Huệ?

            Con bé trả lời vọng lại:
            - Con đang nhặt lá đây mà mẹ!
            Quay sang con chị, nó hỏi vội:
            - Có muốn nhặt hạt bàng không? Tôi dẫn tới gốc cây đó cho, nhiều lắm!

            Con chị ngần ngại:
            - Nhiều? Nhiều mà sao không lượm đi, chỉ người khác làm gì?
            - Tôi chỉ cần lá bàng thôi, không cần trái bàng. Tôi đi qua lại hai bên đường lượm lá mà có sợ xe đâu. Miễn là cẩn thận để ý xe qua lại là được rồi! Muốn đi thì chóng lên chứ mẹ tôi đang gọi, tôi phải đến đấy ngay.

            Quay người nhìn về phía gốc cây bàng to và mẹ con Huệ, con chị lưỡng lự. Nó không quyết định được nên hay không nên dẫn em đi theo con bé mới gặp đến chỗ mà con này vừa chỉ.
            Con Huệ cất giọng lên lớp:
            - Đã đến đây sớm mà không chịu đi nhặt bàng! Uổng công!
            Con chị nhìn mặt con Huệ, ngạc nhiên với lời trách cứ vừa nghe. Tuy nhiên, lời nói thành thật của đứa bé mới quen này thu phục nó hoàn toàn. Nó kéo tay em:
            - Đi lượm bàng với chị, Vy!
            Ba con nhỏ xuyên qua những cơn gió, chạy ra giữa đường hướng về gốc cây bàng to. Cũng may là con đường trước cổng trường vào lúc sáng sớm thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi hay một chiếc xe gắn máy xuất hiện nên ba đứa nhỏ lăng xăng qua lại trên mặt đường cái như thể đi trên vỉa hè dành cho khách bộ hành.
            Mẹ của con bé Huệ hỏi:
            - Mấy đứa nào đấy?

            Con Huệ cố gắng nói to hơn tiếng gió thổi:
            - Học trò của trường Nữ Tiểu Học Nha Trang như con đó mẹ ạ. Chúng nó muốn nhặt hạt bàng.
            - Đến cái gốc này thì nhặt hàng khối! Đấy! Đấy! Tha hồ mà nhặt!
             
            Con chị lễ phép ngỏ lời cám ơn, rồi dắt em đi theo hướng bà mẹ con bé Huệ chỉ. Hai đứa hí hửng khi thấy rất nhiều trái bàng khô nằm kẹt giữa những gốc lồi. Đi gập ghềnh trên những rễ lồi xung quanh gốc cây, và nhặt từng trái bàng khô bỏ vào cặp, cả hai chị em dường như không để ý mẹ con bé Huệ đang lẩm bẩm một mình khi bà đi hướng về quang gánh đang đặt trước cổng trường.

            - Không hiểu bố mẹ nhà nào mà cho trẻ ra đường sớm như thế? Chắc chắn là tự ý đi mình dấy thôi!
            Con bé Huệ chạy theo gió tóm hết những chiếc lá bàng rơi. Thỉnh thoảng nó vừa nhặt lá bàng vừa nhặt những trái bàng. Xếp những chiếc lá thứ tự vào cái rổ nhỏ xong, nó trao tất cả những trái bàng cho hai chị em con nhỏ. Con chị chớp mắt:
            - Sao… không lấy trái bàng vậy?
            - "Ấy" cần thì ấy lấy đi. Tôi chỉ cần lá bàng thôi.
            - Lấy lá làm gì nhiều vậy?
            - Má tôi bán xôi bắp nên phải lượm lá bàng để gói xôi.

            - Lá bàng dưới đất dơ như vầy mà gói xôi hả?
            - Tôi phải lau lá cho sạch nữa chứ! Mẹ tôi còn lấy giấy vở học của tôi gói bên trong trước khi gói lá bàng nữa. Kỹ lắm chứ bộ! Nếu "ấy" muốn mua thức ăn sáng, nhớ mua xôi cho mẹ tôi nghe! Mẹ tôi bán ở trước cổng trường đó!

            Con chị định nói là không có tiền mua thức ăn sáng và nó thường nhịn đói khi đi học, nhưng nó không thích than thở với người lạ.

            - Tui có thấy xôi bắp hay bị dính mấy chữ mực tím của giấy vở.
            - Ủa? Nói vậy "ấy" đã ăn xôi của mẹ tôi rồi hả? Giấy vở cũ của tôi đấy! Mẹ tôi xé làm giấy gói xôi.
            - Không có mua, nhưng tui thấy tụi học cùng lớp ăn xôi bắp ăn cả mực tím…Ơ… "bà" học ở trường này hả?
            - Ừ.
            - Học lớp mấy vậy?
            - Lớp ba, ba A
            - Tui học lớp ba C.
            - Tôi làm lớp trưởng lớp ba A
            - Hèn chi tui không biết "bà"! Tui không thèm để ý mấy con làm lớp trưởng!
            - Sao vậy? Ganh hả?
            - Ganh gì đâu! Con nhỏ lớp trưởng lớp tui ỷ học giỏi khinh người và ích kỷ lắm. Không ưa tính như vậy thôi!
            - Tôi làm lớp trưởng hai năm rồi, lớp hai A năm ngoái và lớp ba A năm nay, mà tôi đâu có bao giờ khinh ai! Mỗi lần mấy đứa trong lớp không hiểu bài, hỏi tôi là tôi chỉ cho tụi nó cách làm ngay. Tôi chẳng thích tính ích kỷ thì ích kỷ làm gì chứ? Bộ ai làm lớp trưởng cũng ích kỷ sao?
            Con chị chưa kịp trả lời, con Huệ nói tiếp:
            - Chưa có ai giúp mẹ như tôi đâu nhá! Tôi phụ mẹ tôi bán xôi trước giờ học mỗi ngày mà tôi chả có sợ mấy đứa trong trường cười nữa kia! Nếu tôi thích nhặt hạt bàng trong trường, tôi nhặt ngay trong giờ ra chơi hay lúc lớp chưa vào học. Tôi chẳng sợ tụi trong trường cười ngạo đâu. Tụi nó cũng "lượm" hạt bàng hàng khối chứ đâu có phải là chỉ có mỗi mình "lượm" đâu mà mắc cỡ?
            Con chị thua lý, tảng lờ nhìn quanh cảnh trước mặt. Cảnh vật lúc này đang từ từ hiện ra rõ hơn. Những cơn gió, dường như mỏi mệt sau khi nô đùa, thổi nhè nhẹ và cùng những tia nắng sớm vờn xôn xao trên những cành lá trên cao.
            Con bé Huệ không nghe con chị nói gì, nhắc lại câu hỏi:
            - "Ấy" có còn nghĩ mấy đứa lớp trưởng có tính ích kỷ nữa không vậy? Tôi có ích kỷ không?

            Con chị đưa mắt ngơ ngác nhìn con Huệ, lắc đầu. Hành động và lời nói của con nhỏ mới quen thực sự đã khiến nó khâm phục. Chưa bao giờ nó gặp một đứa con gái cùng trang lứa có tính tình dễ thương, cởi mở, và thẳng thắn như thế. Con Huệ này đã hết lòng chỉ cho chị em nó chỗ nhặt trái bàng, nhặt giúp và còn cho hết thảy những trái bàng mà nó có được nữa.

            Con nhỏ em ngước mắt nhìn con Huệ:
            - Mình làm bạn với nhau nghe chị Huệ!
            Con Huệ ngập ngừng:
            - Không biết!
            Con chị hỏi:
            - Nhà Huệ ở đâu?

            - Ở tại rọc Rau Muống Hà Thanh. Mấy "bồ" muốn đến nhà tôi chơi không?
            Con em rối rít:
            - Đi học về mình tới nhà chị Huệ chơi nghen chị Hạ!
            Con chị lắc đầu, nhăn mặt:

            - Chị không biết chỗ, sợ đi lạc lắm!

            Con Huệ xen vào:
            - Nếu hai chị em "bồ" muốn đi, tôi sẽ dẫn đường cho! Không bị lạc đâu mà sợ!
            Con chị nhìn con Huệ, nói ngập ngừng:
            - Chắc chỗ rọc Rau Muống Hà Thanh xa lắm vì tui chưa bao giờ nghe cái tên lạ như vậy!
            Quay sang con em, con chị nói:
            - Đi theo chị Huệ đến nhà thì được rồi nhưng chị không biết đường dẫn Vy đi trở về nhà đâu! Mà "nhà" mình không cho chơi với người lạ, Vy có nhớ bà nội, mấy bác và mấy cô dặn mình điều gì không? Không chơi với người lạ kể cả mấy đứa hàng xóm.
            Con em lý sự:
            - Nhưng mà mình cũng đâu có bạn quen? Nhiều khi mấy người lớn bà con trong nhà mình không muốn cho mình chơi với con họ nữa!
            Con chị không vừa:
            - Vy chơi với bạn trong lớp của Vy được rồi!

            Con em không trả đũa, nó mè nheo:
            - Nhen! Nhen! Nhen chị Hạ! Mình chơi bạn với chị Huệ đi nhen! Tới nhà chị Huệ chơi nhen!
            Đôi mắt con chị trở nên đăm chiêu. Nó lắc đầu nhè nhẹ:
            - Không được đâu Vy. Chị không biết nhà Huệ này đâu. Chị không dám dắt Vy tới nhà người lạ và chị cũng sẽ không dám dắt em đi học sớm như vầy nữa đâu.

            Con Huệ chia tay:
            - Tụi học trò bắt đầu đến trường nhiều rồi đó.Tôi phải phụ mẹ tôi bày hàng trước khi tôi đi vào trường. Tôi đi nghen! "Bồ"nhớ dắt em "bồ" đi qua đường cẩn thận đó!

            Con Huệ rảo bước hướng về cổng lớn của trường, con nhỏ chị dắt em theo sau. Vừa khệ nệ ôm cặp đi sang đường, con nhỏ em vừa lải nhải:

            - Không có đồ chơi, không được đi biển, không có bạn, không có gì hết! Ghét chị Hạ! Ghét chị Hạ!
                
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:24:40 bởi Ct.Ly >
            #6
              Cung Thi Lan 04.08.2007 17:50:50 (permalink)
                   Chương Năm


               Tiếng trống thùng thùng báo hiệu giờ tan học đến hết hồi thứ ba mà cô giáo lớp 3C vẫn còn giữ học trò trong lớp. Sau khi phát vở viết chính tả xong, cô mới ra hiệu cho học sinh tuần tự bước ra khỏi lớp.
              Sân trường lúc này đã đầy học trò. Đứa đi, đứa chạy, đứa la hét, đứa gọi nhau, đứa nói, đứa cười như thể chúng vừa thoát khỏi cái gò bó và tù túng trong các lớp học. Huyên thuyên, và ríu rít như chim trong nắng tươi, đám học trò trường nữ tiểu học lũ lượt đi dồn về phía hai cổng trường đang mở rộng. Ngoài cổng trường, nhiều chiếc xe đạp, xe vespa, xe xích lô mướn đang chờ đợi. Cha mẹ đưa mắt hướng về phía hai cái cổng trường, dáo dác tìm con. Tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng còi xe, tiếng cười nói la hét tạo một không khí tất bậc rộn ràng khác hẳn thời gian trước lúc vào học.
              Len lỏi vượt qua những đứa học trò trong lớp, con chị nhanh chân bước về hướng cuối dãy hành lang rồi vào lớp con em. Không còn một đứa học trò nào trong lớp con em ngoài cô giáo đang thu nhặt những quyển sách và vở trên bàn.
              - Dạ thưa cô, em Vy của em đâu cô? 

              - Lớp cô xếp hàng ra khỏi lớp từ hồi trống thứ nhất. Có lẽ Vy đang đứng ở trong sân trường chờ em. 
              Con chị hối hả chạy ngược về lớp của mình. Nó hy vọng sẽ gặp con em ở đó. Thất vọng biết bao, lớp học của nó vắng tanh. Không thấy em, nó chạy xuyên qua lớp học hướng về hành lang sân sau của trường. Chạy dọc theo các lớp học trên hành lang phía sân sau của trường con chị hy vọng tìm thấy con em vì nó cho rằng con em còn muốn lượm thêm hạt bàng khô ở những cây bàng trong sân sau của trường. Không thấy con em, cũng không thấy bóng dáng một đứa học trò nào trên sân sau, con chị hớt hơ, hớ hải chạy ngược về hướng sân trước của trường.
              Sân trước của trường lúc này như thưa dần học trò hơn. Để chắc chắn hơn và cẩn thận hơn, con chị vừa đi chầm chậm dọc hành lang vừa đưa mắt cẩn thận nhìn vào trong các lớp học. Không tìm thấy con nhỏ em, thất vọng và bực bội, nó tựa người vào cái cột của hàng lang vừa thở vừa ngẫm nghĩ. Sáng hôm nay, em nó mặc áo đầm trắng, thắt một bím tóc. Nó nhớ như in là con em có một bím tóc do chính tay nó thắt cho. Chắc chắn với điều mình hồi tưởng, nó ngồi bệt xuống bậc cấp nơi dẫn xuống sân trước của trường, quan sát đám học trò đang hướng về hai bên cổng với hy vọng tìm thấy con em. Không có một bóng dáng nào như hình ảnh nó đang muốn tìm; và cũng không có con em trong đám học trò cuối cùng trên sân trường. Sợ hãi, nó đứng lên, khum tay làm loa trước miệng la to các hướng: "Vy ơi Vy!". Một vài đứa học trò chưa bước ra khỏi cổng, ngơ ngác quay lại nhìn nó với ánh mắt lạ lùng. Mắc cỡ, nó im bặt, bước xuống thềm để đi theo những đứa học trò cuối cùng ra khỏi trường.
              Xuyên qua đám học trò đi bộ trên đường, con chị cố vượt nhanh hơn từng đứa để nhìn mặt và hy vọng gặp được em. Đến đường Phan Chu Trinh, nó chợt nghe những tiếng gọi thất thanh của những đứa học trò hàng xóm:
              - Hạ ơi! Hạ ơi! Em mày bị đụng xe rồi!
              - Xe cán em mày rồi! Tao thấy rõ ràng em mày bị cán!
              - Người ta chở em mày đi rồi! 


                       
              Nó hốt hoảng la lớn:
              - Ở đâu? Bị cán ở dâu?

              Vài ba đứa nhỏ xúm xít xung quanh nó, thi nhau nói:

              - Nó bị tung xe chỗ đó đó!

              - Tại nó chạy qua đường mà không nhìn xe gì hết mà!
              - Chắc nó bị tung nặng lắm!
              Con chị kinh hoàng gạt tay đi xuyên qua đám học trò đang tranh nhau nói để chen người vào đám người đang đứng dưới lòng đường cái. Người lớn con nít và các chiếc xe kẹt giữa rừng người hiếu kỳ tạo thành một đám đông chật ních không một chỗ chen chân. Hai người lớn đẩy nó và mấy đứa nhỏ học trò tò mò ngược lên lề đường:

              - Thấy xe đụng người chưa sợ hả? Muốn chết sao còn đòi nhào xuống đường?

              Con chị hỏi mà như la thất thanh:
              - Xe đụng ở đâu? Em con bị tung xe ở đâu?

              Người đàn ông khựng lại:
              - Nói vậy, đứa nhỏ hồi nãy là em của con hả?
              Nước mắt con chị ứa ra:
              - Dạ! Em con đâu?

              Một bà mẹ đứng cạnh, đang nắm tay một đứa con gái nhỏ, chợt xiết cánh tay con bé vào bụng, hỏi lớn tiếng:
              - Em con? Trời ơi! Sao con để em đi một mình vậy? Xe cán nó xong rồi chở nó đi mất, không có ai biết nó ra sao cả.

              Con chị khóc oà, la làng:
              - Em con chết chưa? Em con chết chưa?
              Mọi người dồn lại tụ quanh nó, xôn xao:
              - Trời ơi! Nói vậy con nhỏ vừa rồi là em con này hả? Chớ mày ở đâu mà để em đi một mình vậy?
              - Bởi vậy mà! Cái cỡ này mà cha mẹ không lo đưa đón con đi học, để tụi nó đi về một mình thế nào có ngày cũng có chuyện! "Bỏ lỏng" cho cỡ chút chút này đi tự do một mình coi sao được chớ?

              - Người lái xe chở con nhỏ đó đi vô bệnh viện rồi chớ đi đâu. Chiếc xe hơi như vậy mà không thấy chạy ẩu qua đường!

              Con chị khóc nức nở:
              - Trời ơi! Em con chết chưa? Em con chết rồi phải không?
              Những người lớn không trả lời, chỉ đưa mắt thương hại nhìn, và bàn tán nho nhỏ:
              - Tội nghiệp con nhỏ đó! Xe hơi cán như vậy làm sao sống nổi?
              - Cầu cho bác sĩ trị thế nào chứ tui thấy lúc đó nó không cựa quậy gì cả.
              - Không hiểu ông tài xế có chở kịp vào bịnh viện để bác sĩ cứu không nữa chứ! Học trò tan học đường nào đường nấy đông nghẹt!

              Bàng hoàng với những câu nói vừa nghe được, con nhỏ chị vụt chạy sang đường, khóc sướt mướt:

              - Vy ơi Vy! Trời ơi, sao Vy phải chết? Đừng chết nghe Vy ơi!

              Ngổn ngang với những hình ảnh máu me tưởng tượng trong đầu, nó vừa chạy vừa nức nở thương tâm:

              - Trời ơi! Trời ơi trời! Đừng cho em con chết nghe ông trời! Vy ơi đừng chết nghe Vy!

              Đến gần nhà, hình ảnh con em giãy giụa trong máu vẫn còn ám ảnh trong đầu. Sợ hãi và tuyệt vọng khiến nó đi chậm hơn khi đến cổng nhà. Tựa người vào trụ cột phía ngoài bức tường thành, nó từ từ ngồi khuỵu xuống và khóc ấm ức:
              - Tại sao Vy đi về một mình? Tại sao Vy không chờ chị?
              Trời nắng càng lúc càng gắt mà con chị vẫn ng?i khóc một mình trước cổng. Có lẽ nó sợ bị những người lớn trong nhà chất vấn vì sao nó khóc lớn, la làng to, mà cũng có thể là vì nó không có một người nào trong đại gia đình họ Hoàng có thể chia sẻ nỗi đau đớn mà nó đang có. Đúng lúc đó, một nhóm người đang hè nhau kè một người ở giữa như đang kè một khối thịt nhũn hướng về phía cổng nhà. Người ở giữa nhóm người ấy chính là mẹ của nó. Khuôn mặt thất thần như điên dại, thân người rũ xuống như không còn một chút sinh lực trong bộ bà ba xộc xệch, bà mẹ bấn loạn rên rỉ không ngừng:
              - Để cho tôi chết! Để cho tôi chết cho xong! Sống làm gì nữa chớ? Con tôi chết tôi còn sống làm gì?
              Con chị kinh hoàng đứng lên. Bao nhiêu lo sợ, bao nhiêu tính toán tiêu tan với những điều nó vừa được chứng kiến, và nghe được. Nước mắt rơi lả chả, khuôn mặt nó biểu lộ nỗi kinh hoàng tột độ. Hình ảnh em chết, mẹ chết và mình nó bơ vơ trong khuôn viên nhà nội hiện ra trong đầu gây cho nó có cảm giác hoàn toàn bị bỏ rơi. Nó chơi vơi không hiểu đang ở thế giới nào. Thế giới của sự tưởng tượng hay thực tại? Nếu là thế giới tưởng tượng, nó luôn luôn hình dung những điều tốt đẹp để quên những đau buồn của thực tế mà nó đối diện hàng ngày chứ không bao giờ tưởng tượng thêm những nổi đau buồn. Hơn nữa, trong cái đau buồn của thân phận mồ côi cha, nó không bao giờ nghĩ đến cảnh mẹ nó đành lòng tự tử để bỏ nó bơ vơ còn lại trên đời. Vì sao mẹ đòi tự tử khi nghe em nó chết? Vì sao mẹ nó không nghĩ đến nó? Vì sao mẹ nó có thể quên được là bà còn có một đứa con nữa trên đời? Phải chăng mẹ nó xác định là nó không thuộc của bà, mà thuộc về gia đình nội của nó? Phải chăng mẹ nó nghĩ nó là người ngoại cuộc trong căn nhà nhỏ? Phải chăng bà không nghĩ đến, và không lo buồn với cảnh nó sống côi cút khi bà và con em chết đi? Phải chăng bà đã thừa nhận nó là người thuộc về ngôi nhà lớn để được sung sướng với cái gọi là về với cội nguồn? Phải chăng nó chỉ và sẽ thuộc về ba vì nó giống ba, còn con em thuộc về mẹ vì con em giống mẹ?
              Người lớn trong gia đình họ Hoàng thường chú tâm và chiều chuộng con chị nhiều hơn con em bởi vì họ cho rằng con chị có khuôn mặt giống hệt cha của nó. Họ không đành lòng la mắng con chị chỉ vì họ bị ám ảnh bởi khuôn mặt giống hệt người ruột thịt đã mất. Trái lại, con em, dù có vô tội hay non nớt thể nào, họ không thể ngăn được những lời chửi xiên xỏ và mỉa mai như "Đồ cái thứ giống con gái mẹ! ” Cho dù bao lần chứng kiến sự phân biệt cư xử của những người lớn trong khuôn viên nhà nội, con chị không bao giờ có ý nghĩ là mẹ nó đồng lòng công nhận sự phân biệt này, vậy mà, sự thật vừa chứng kiến tạo cho nó cảm giác chơi vơi và mất hướng. Vừa lo cho em, vừa tủi phận mình, vừa giận mẹ, nó sụt sùi bước theo đám người đàn bà đi vào nhà.
              Từ trong ngôi nhà lớn, bà nội, cô Sáu đổ xô về phía căn nhà nhỏ, sụt sùi hỏi:
              - Vy mô? Vy mô? Tìm nó được chưa?

              - Người ta báo nó bị tung xe mà không nói nó ở đâu. Mấy chị biết nó đâu không?

              Những người bạn hàng của bà mẹ đỡ lời:

              - Chỉ không biết cháu nó ở đâu đâu. Chỉ vừa nghe người ta báo con chỉ bị tung xe là chỉ nhào ra đường đòi tự tử làm chị em tui phải kéo chỉ về nhà.
              Mọi người đưa mắt dồn về phía bà mẹ. Bà mẹ không nói với ai một lời nào, bà đưa đôi mắt đỏ hoe tìm con chị.
              - Sao con để em đi học về một mình vậy? Em chết rồi làm sao đây con? Con đâu còn có em?
              Ray rức và ân hận vì cảm thấy có lỗi với chuyện con em đi về một mình, con chị vừa khóc vừa lúng túng phân trần:
              - Con không để em đi học về một mình. Nó "tự động" đi về một mình. Con cố gắng tìm nó mà tìm không thấy. Đến khi con đi về, con nghe nó bị xe cán.

              Dứt những lời phân giải, nó định hỏi vì sao mẹ nó đòi tự tử, tại sao mẹ nó muốn bỏ nó còn lại một mình trên đời nhưng vì nghẹn ngào nó chỉ im lặng với những giòng nước mắt tuôn trào không ngơi. Nó tưởng tượng hình ảnh nó bị trường hợp xe cán như con em, có thể mẹ nó cũng có những hành động và cử chỉ như vậy và cũng sẽ hỏi em nó những câu như đang hỏi nó. Nó lau nước mắt và tiếp tục đưa nhiều hình ảnh dịu dàng trong đầu để vỗ về cái tủi thân đang có. Đúng lúc đó, bà bác Cả gọi ơi ới ngoài cổng nhà:
              - Thím Đạm ơi, người ta đưa con Vy về đây nì! Mau mau ra đây mà đón nó tề!

              Mọi người mừng rỡ đổ nhào ra sân. Một người đàn ông đứng tuổi đang bế con em trên tay, đi hướng về căn nhà nhỏ theo hướng chỉ của bác Cả gái. Ông ngập ngừng hỏi:
              - Dạ thưa ai là mẹ của em bé này ạ?
              Bà mẹ bước ra trước đưa đôi tay mừng rỡ đón con em:

              - Là tui đây. Trời ơi! Con cảm ơn trời cho con con còn sống!
              Con em ngơ ngác trên hai cánh tay của người đàn ông lạ, nhoài người về phía mẹ, kêu lớn:
              - Má ơi! Má ơi!
              Bà mẹ mừng rỡ, định giang tay bế nó thì người đàn ông cản lại:
              - Bà để tôi bồng cháu vào nhà luôn thể.
              Bà mẹ hối hả đi trước:

              - Xin ông cho cháu vào đây!

              Mọi người nối đuôi theo, nhao nhao hỏi:

              - Thưa ông, có phải ông đưa cháu từ bệnh viện về không?

              - Hiện thời cháu như thế nào vậy ông?
              - Con có sao không Vy?
              - Con thấy trong người ra sao?
              Đặt con em trên giường xong, người đàn ông nhìn mọi người chậm rãi nói:
              - Thật may cho gia đình và cũng may cho tôi là cháu không bị sao cả.
              Bà mẹ nhoài người về phía con em nằm, rờ nắn khắp người nó như muốn tin chác nó bằng xương bằng thịt thật sự. Một lúc, bà chăm chú nhìn người đàn ông, hỏi:
              - Chuyện xảy ra như thế nào vậy hả ông?
              Người đàn ông từ tốn giải thích.
              - Tôi đang lái xe, bất thần cháu bé này chạy sang đường. May là lúc ấy tôi lái rất chậm bởi vì tôi biết học trò đang lúc tan trường và may mắn thay cháu lăn gọn vào giữa lòng xe. Lúc đó có lẽ vì sợ quá nên cháu bất tỉnh cho nên tôi đành đưa cháu vào bệnh viện và nhờ những phụ huynh đưa con đi học về gần đó nhắn lại giùm.
              Bà mẹ lập đi, lập lại như đọc thuộc lòng:
              - Cảm ơn ông. Cảm ơn ông rất nhiều. Tui không biết bao giờ mới hết trả ơn này cho ông. Tui thực sự không biết lấy gì đền đáp. Tui tạc dạ ghi lòng cái ơn này.
              Mấy người đàn bà khác huyên thuyên:
              - Trời ơi! Bị xe cán mà còn sống vậy là may quá!
              - Bị cán, nằm giữa lòng xe mà còn sống là có bề trên độ đó mấy chị! Mạng con này cũng lớn lắm chứ!
              - Chị Năm coi mua hoa quả trái cây cúng tạ phật trời đi!

              Bà nội và cô Sáu chỉ nói đơn giản:

              - Cảm ơn cậu đã giúp cháu.
              - Không nhờ cậu đưa cháu về chúng tôi không biết tìm cháu ở đâu.

              Người đàn ông khách sáo:
              - Dạ bổn phận người lái xe dù trái hay phải cũng phải lo
              chăm sóc người bị tai nạn. Bây giờ gia đình cho tôi xin kiếu từ.
              Dượm một vài bước, ông quay lại nói với bà mẹ:
              - A còn cái cặp cháu bé trên xe của tôi để tôi đưa lại cho bà.
              Bà mẹ vội vã đứng lên:
              - Dạ để tôi đi lấy. Không dám làm phiền ông nhiều hơn nữa.
              Bà mẹ theo ông ra cổng, đám bạn hàng của bà lục đục chào ra về, bà nội và cô Sáu trở vào căn nhà lớn.
              Con chị ngồi cạnh con em, lo lắng hỏi:
              - Em có bị cán chỗ nào không?
              - Không có. Em không biết gì. Em chỉ sợ.
              - Vì sao em về một mình vậy?
              - Em thấy chị Huệ, em tưởng chị đi với chị Huệ, em theo chị Huệ!

              - Chị Huệ học khác lớp chị mà! Mà đừng kể má cho má nghe về chị Huệ. Má sẽ hỏi chị Huệ là ai rồi má la chị chuyện dắt em đi học sớm đó nghen!

              Im lặng một chút con chị nói thêm:
              - Lần sau em phải chờ chị nghe. May là xe chưa cán em chết. Em mà chết, má và chị buồn lắm.
              - Chị khóc hả?
              - Ừ. Sợ em chết phải khóc chứ!
              - Em đâu có chết đâu mà chị khóc?
              - Bây giờ mới thấy em, mới biết em không có chết chứ lúc nãy tưởng em chết ai cũng khóc cả!
              Dứt câu, con chị rơi nước mắt. Nó tủi thân vì chưa quên được cảnh mẹ nó đòi chết với con em để bỏ nó lại một mình trên đời.

              Con em khuyên chị:
              - Bây giờ em sống rồi. Chị Hạ đừng khóc nữa.

              Con chị lau nước mắt, nuốt cục nghẹn trong cổ, gật đầu:

              - Chị không khóc nữa đâu nhưng lần sau em không được đi theo ai nữa. Nhớ chờ chị dẫn đi về nghen.

              Con em gật đầu, hỏi:

              - Cái cặp em đâu?

              Mẹ chúng vừa bước vào nhà, vừa hớn hở trả lời
              - Cái cặp của con đây, không mất đâu mà sợ. Nằm yên đi con!

              - Mấy trái bàng khô của con có còn trong cặp không?
              Bà mẹ nhíu mày, ngơ ngác:
              - Bàng khô gì?
              - Mấy trái bàng khô của em mất rồi hả chị Hạ?
              Con chị bối rối, chưa biết trả lời sao, may thay, nó đứng lên chào bà nội, cô Sáu, cô Út đang xôn xao bước vào nhà. Bà nội đặt các thứ ngay đầu giường chỗ con em nằm.

              - Trái cam nội phần Vy. Hột xí muội và táo khô này cũng của Vy. Mấy lần trước Hạ có nhiều thứ rồi, lần nội để cho em!

              Cô Sáu sờ trán con em và căn dặn:

              - Nằm nghỉ cho khỏe! Không được đi xuống giường ngay nghe Vy.

              Cô Út chìa hộp kẹo:
              - O cho Vy hộp kẹo nội nì, Vy ăn cháo xong mới được ăn kẹo.

              Nghe cô Út nói như thế bà mẹ hân hoan thấy rõ. Mặc dù cô chẳng nhìn bà và cũng chẳng hỏi han lời nào, sự hiện diện của cô đã cho bà hy vọng mối bất hoà sẽ được giải toả trong nay mai. Con em mừng rỡ đón lấy cái hộp kẹo ống tròn bằng giấy cứng với những hình kẹo sô cô la tròn tròn đủ màu bên ngoài. Nó vui sướng khi được quà do cô Út cho. Lúc lắc hộp kẹo hướng về phía chị, con em nói:
              - Em có kẹo sô cô la.
              Con chị vừa cười với em vừa nhìn trộm cô Út. Lần đầu tiên nó nghe cô Út nói giọng Huế và xưng o với con em. Chưa bao giờ cô nói giọng Huế với ba mẹ con nó và chưa bao giờ cô xưng o với nó. Nó cảm thấy cái chuyện tung xe khiến cho mọi người đối xử đặc biệt với con em. Bây giờ con em đã trở thành người quan trọng và được cưng chiều. Lòng nó rộn ràng trước cái hoà thuận dịu dàng của gia đình nhưng đôi mắt của nó lại để lộ ra sự thèm thuồng trên cái hộp đựng kẹo. Nó biết chắc chắn là con em sẽ chia cho nó một viên kẹo nếu nó hỏi xin nhưng nó không thể nào có cái hộp đang ở trên tay con em. Cái hộp, mà đôi khi cô Út lấy cho nó một viên kẹo trong ấy, nó mơ ước khi nào hết kẹo, cô sẽ cho nó để nó làm đồ chơi.

              Dường như đọc được ý nghĩ trong đầu con chị, bà mẹ khuyên:
              - Em đang bịnh cho nên nội và các cô cho em quà. Đừng buồn nghe con!

              Con chị lắc đầu:

              - Con đâu có buồn. Con đâu có tính ganh em!

              Dứt câu, nó lẩn vào phòng thờ ba để chùi những giọt nước mắt. Nó sợ mẹ hiểu lầm khi thấy nó khóc. Nó khóc vì tủi thân chứ không phải vì không có hộp kẹo. Nó khóc vì nó chưa quên được những gì nó đã chứng kiến. Những việc đau thương mà nó không bao giờ lường được cũng như những việc ngọt ngào bất ngờ mà nó không bao giờ mơ đến. Nỗi buồn riêng của nó vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai; nhưng trong những giọt nước mắt, niềm vui và hy vọng như ươm cho nó một niềm tin mãnh liệt. Nó vui khi thấy bà nội và các cô lo lắng cho con em. Nó vui vì chứng kiến cảnh bà nội và các cô đến thăm căn nhà nghèo nàn của ba mẹ con nó. Trong niềm vui to lớn ấy, nhiều hy vọng được ươm đầy. Nó hy vọng cái hố xa cách giữa mẹ nó và gia đình nội sẽ bị triệt tiêu trong những ngày sắp tới. Nó hy vọng bà nội, mấy cô và mẹ nó sẽ thương yêu hoà thuận với nhau. Nó hy vọng bà nội và mấy cô thương yêu chị em nó đồng đều. Và tột cùng nhất, nó hy vọng nỗi khổ tâm thầm kín sẽ được vơi đi khi những lời chửi rủa, mỉa móc, và chia rẽ ngày nào sẽ tan biến mãi mãi sau buổi họp mặt ngày hôm ấy.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:26:28 bởi Ct.Ly >
              #7
                Cung Thi Lan 06.08.2007 18:52:14 (permalink)
                     Chương Sáu
                 
                 

                Tiếng chửi rủa lúc thì dồn dập lúc thì đứt quãng của cô Út vang vọng khắp vườn cộng thêm tiếng khóc thút tha thút thít của mẹ tạo thành những âm thanh trái ngược và khó chịu. Hai đứa nhỏ phân vân không hiểu nên phản ứng như thế nào nên chỉ đưa những đôi mắt buồn nhìn nhau. Nhìn nhau chán, chúng lại nhìn mẹ. Chúng thấy thương hại mẹ và muốn khuyên bà đừng khóc nữa nhưng chúng không biết mở lời ra sao nên đành lẳng lặng ngồi sát chặt vào nhau, cạnh bàn gần cửa sổ. Ngoài sân, cô Út không thấy bóng mẹ chúng ló dạng ra ngoài thì càng cảm thấy bực tức hơn. Cô hét la the thé với những câu dài có vần và có điệu mà hai đứa cố nghe vẫn không hiểu những lời đó có ý nghĩa ra sao. Thỉnh thoảng cô lại chỉ trỏ vào hướng nhà mẹ con chúng như vẽ bùa cho nên hai đứa nhỏ có muốn ra vườn chơi để khỏi nghe những tiếng khóc của mẹ, cũng không có đủ can đảm để bước đi.
                 

                Sau ngày con nhỏ em bị xe đụng, không những con chị mà cả con em và bà mẹ đều hy vọng bầu không khí hoà thuận và yên vui sẽ bao trùm mãi mãi trong khuôn viên nhà họ Hoàng; ngờ đâu, những hy vọng của những người trong căn nhà nhỏ chỉ là những cơn mộng bị vỡ tan tành khi bà mẹ thường xuyên có mặt ở nhà hơn là đi bán. Có lẽ sự có mặt của bà mẹ trong nhà đã làm cô Út nhớ đến cái im lặng và sự bỏ đi của người đàn ông trong buổi sáng sớm ngày nào. Và cũng có lẽ từ lúc buôn bán, bà mẹ bỏ cái lệ quét sân khi trời chưa hừng sáng và cô Út là người thay bà làm công việc quét dọn sân vườn trong lúc mà thời gian, khung cảnh, và sự vật luôn luôn khơi dậy sự mất mát trong cô. Cái ngày ấy như là một nguyên nhân chính gây ra những lời chửi rủa vô ý nghĩa và vô vọng của cô.
                 
                Không ai hiểu vì sao cô thích chửi và thường chửi bà mẹ hai đứa nhỏ. Đối với họ, những lời chửi bới không căn cớ, không nguyên nhân, không lý do là những dấu hiệu của sự bất bình thường. Dần dà, với lý giải về sự bất bình thường, cái không bình thường, và tính cá biệt của cô mà mọi người trong gia đình quen dần với những lời chửi bới. Mọi người chấp nhận nghe những lời chửi rủa của cô Út như nghe những tiếng rao hàng trên đường hay là những khúc nhạc chói tai quen thuộc được lập đi lập lại. Hơn nữa, vì phải tất bật với công việc riêng mà không một người lớn nào trong khuôn viên họ Hoàng để ý nguyên nhân vì sao cô Út la to hét lớn, cũng như họ không hề biết cô chấm dứt chửi bới lúc nào. Cũng như những người lớn trong khuôn viên nhà, hai con nhỏ, quen dần với những tiếng chửi rủa của cô Út; tuy nhiên khác với họ là chúng phải ngồi thụt thò trong cửa sổ, chờ đợi những lời chửi bới chấm dứt để chuồn ra ngoài vườn chơi. Và như thế, khi những lời chửi rủa vang lên, hai đứa nhỏ như chịu cực hình vì phải nghe từ đầu cho đến lúc kết thúc.
                 

                Suốt một mùa hè, hai chị em con nhỏ chẳng hề được ai dẫn đi chơi. Ở nhà càng nhiều, chúng nghe chửi nhiều hơn và lâu hơn. Thỉnh thoảng nghe tiếng đùa vui của những đứa hàng xóm ngoài bức tường thành, con chị muốn xúi em leo thành ra chơi với chúng nhưng không dám bởi nó còm ám ảnh lần bị ông bác Cả bắt gặp quả tang khi nó đang chễm chệ ngồi trên bức tường và toan nhảy ra ngoài. Lúc đó, ông đã nghiêm cấm cả hai chị em không được leo thành, hay tự ý chơi với những đứa trẻ lạ và lúc đó nó đã hứa là không xúi em leo thành ra ngoài nữa.Suy nghĩ mãi vẫn không tìm cách nào để được ra ngoài chơi, hai chị em buồn bã và chán nản nhìn về phía ngôi nhà lớn.
                 
                Xa xa, phía hiên trước ngôi nhà nguy nga đồ sộ như bị khuất bởi giàn hoa hoàng anh um tùm. Những cánh hoa vàng tươi dày đặc chen nhau xòe cánh buông loà xoà trên bức tường trắng hình vòng cung vô tình tạo cho ngôi nhà cái vẻ cổ kính, và man dại. Dọc bên hông ngôi nhà, lối từ trước nhà lớn đến sân gạch đàng sau là bụi hoa bông bụt tây, rồi đến một dãy hoa dâm bụt ta.
                 
                Những cành bông bụt tây không được cắt tỉa, cố vươn mình lên cao bằng những cánh hoa hoàng anh để đón nắng sáng; trong khi dãy bông bụt ta bất cần sự có mặt của mặt trời, ngoan ngoãn xếp thẳng một hàng ngang với khóm bụt tây và lặng lẽ khoe những cánh hoa thắm sắc; những cánh hoa rời rạc như những cái chuông đỏ rực với cái nhuỵ dài xinh xinh, duyên dáng lung linh dưới nắng sớm. Từ nhà bếp của nội và bác Cả đến giếng, cây khế chua, cây ô ma, cây sa bô chê, cây khế ngọt im lặng tắm nắng. Những con chim chuyền nhanh trên cành cây cất tiếng hót ríu rít. Những tiếng hót của chúng như nhỏ hẳn đi khi phải hoà thanh với tiếng la hét của cô Út. Dọc bức tường thành, cây mận, và hàng cây mãng cầu đầy trái không đủ sức cám dỗ hai đứa nhỏ rời cái bàn bên cửa sổ. Và chúng không thể nào tìm tòi và lục lọi các cây ăn trái khi sự xuất hiện bất chợt của cô Út vẫn còn ở trong vườn. Cây vú sữa to đồ sộ giữa vườn với bóng mát rộng dưới dưới gốc là nơi chúng thường chơi đùa nhưng những tiếng la hét kinh hoàng gợi cho chúng nghĩ đến sự tức giận dữ dội của cô Út. Những tàu dừa rũ lá vướng vào hai sợi dây điện được kéo dài từ ngôi nhà lớn đến căn nhà nhỏ như là chứng cớ hùng hồn để biện hộ cho sự mất điện triền miên và sự tối tăm muôn đời của căn nhà nhỏ. Tất cả cảnh vật nhắc nhở cho hai con nhỏ sự chấp nhận những cái không may mắn mà số phận đã định cho chúng: Ngày đến trường hay ngày hè, ban ngày hay ban tối, chơi đùa là sự hạn chế vĩnh cửu.
                 
                Đột nhiên tiếng khoen cửa vang lên, tiếng chó sủa và tiếng cười nói của một số người tiến về phía cửa trước của ngôi nhà lớn đánh thức sự tò mò của hai con nhỏ. Chúng dí mắt sát vào song cửa sổ, bàn tán:
                - Nhà bác Cả có khách!
                - Chắc có mấy đứa Phi, Phong, và Phương đến chơi.

                - Không phải đâu Vy! Có va li nữa kìa, ai ở xa tới đó!

                Con em leo lên trên bàn, áp mặt vào song cửa, cố nhìn cho rõ hơn. Nó gạ chị:
                - Chị Hạ muốn chạy vô nhà bác Cả coi thử không?
                Con chị ngần ngừ, quay ra sau nhìn mẹ. Bà mẹ đưa đôi mắt đỏ hoe, căn dặn:
                - Nhà trong có khách thì không được vô.
                Con em lồm cồm leo xuống bàn, rối nhặng:
                - Cho tụi con đi đi má! Coi thử chút thôi!
                Con chị đến bên mẹ, nói ngọt ngào:
                - Cô Út hết chửi rồi má à!
                Đúng lúc ấy, cô Sáu gọi ơi ới ngoài vườn:
                - Chị Năm ơi! Gia đình anh chị Tư về đây nì! Mau đưa mấy cháu vô nhà trình anh chị!
                Bà mẹ hớt hãi đứng dậy, chạy ra cửa đáp lại:
                - Tui nghe rồi cô! Để tui đưa các cháu vào chào anh chị.
                Dứt lời, bà giục hai con nhỏ:
                - Bây giờ thì các con được vào "trong đó” rồi! Mau lên con! Đi mau để mà chào hai bác Tư!
                 
                Hai đứa ngạc nhiên chưa hỏi thêm gì, bà mẹ đã kéo chúng ra khỏi nhà. Trên đường vào ngôi nhà lớn, bà còn căn dặn:

                - Phải khoanh tay, cúi đầu đứng trước mặt từng người nói là "Dạ thưa hai bác Tư mới đến” nghe chưa.

                Cho chắc chắn hơn, bà lại căn dặn:
                - Mà không, phải nói là "Dạ thưa hai bác Tư mới về nhà!"
                Hai con nhỏ dạ cho qua chuyện. Chúng không nghĩ ngợi nhiều về chuyện thưa gởi như sự lo lắng của bà mẹ; chúng phân vân không hiểu hai bác Tư là những người nào trong gia đình họ Hoàng và hớn hở muốn xem mặt họ là ai.
                 
                Đến cái sân gạch sau căn nhà lớn, bà mẹ đi chậm lại. May mắn thay, trong sân không có một bóng người. Không thấy cô Út, không nghe cô chửi, bà mẹ yên tâm hơn để dắt con bước vào căn nhà lớn. Từ cửa sau đến phòng khách là phòng tiếp khách riêng của bà nội, phòng ăn của ông bà bác Cả, phòng ngủ của bà nội, phòng ngủ của cô Út phòng ngủ của bác Cả rồi đến phòng thờ. Các phòng lớn với những cửa kính im lìm toát vẻ nghiêm trang lạnh lùng của một ngôi nhà cao sang và đài các. Đến gần cửa phòng khách, bà mẹ đứng lại, cúi thấp người, thì thầm dặn con:
                - Nhớ đứng trước mặt từng người khoanh tay cúi đầu chào đàng hoàng, thưa vừa đủ nghe, đừng nói nhỏ quá mà cũng đừng nói lớn quá!

                Hai đứa nôn nóng:
                - Con biết rồi!
                - Má đã dặn rồi mà!
                Lần này hai đứa kéo mẹ chúng bước vào ngưỡng cửa phòng khách. Căn phòng chật ních người với những tiếng nói, tiếng cười rộn rã. Sự xuất hiện của ba mẹ con con nhỏ đã làm họ ngưng bặt những lời đối thoại. Bà nội lên tiếng:
                - Đó! Hai đứa con anh Đạm đó tề!
                Mẹ chúng giục hai con nhỏ:
                - Hai đứa chào bà nội và các bác các cô đi.

                Hai đứa ngoan ngoãn khoanh tay cúi đầu chào từng người. Thoạt tiên là những người mà chúng đã biết cách xưng hô như bà nội, bác Cả trai, bác Cả gái, cô Sáu và cô Út. Mọi người giãy nảy:
                - Chào hai bác Tư và chị Ly Ly ở Sài Gòn mới về tề! Chào người trong nhà mần chi!
                Hai đứa nghe lời bước đến hai cái ghế sa lông lớn cạnh ti vi. Đứng trước người đàn ông có khuôn mặt nghiêm trang trong bộ vét xám, cả hai vừa sợ, vừa ngượng:
                - Dạ thưa hai bác Tư mới về.
                - Dạ thưa bác về nhà.
                Người đàn ông kéo hai đứa sát vào hai bên mình, vuốt đầu chúng và nói:
                - Giỏi lắm! Hai đứa học có giỏi không?
                Hai đứa nhỏ khẽ gật đầu, cúi mặt. Bà mẹ nhắc con:
                - Phải nói là "dạ có" không được gật đầu.
                Người đàn bà mặc áo dài hoa, ngồi cạnh ông bác Tư, cất lên giọng bắc ngọt dịu:
                - Thôi được rồi! Có gì đâu mà thím bắt phép bắt lẽ hai cháu tội nghiệp thế! Hai cháu đến gần bác đây, bác có chút quà dành cho hai cháu.
                Hai đứa nghe lời, đến trước mặt bà, đưa mắt chờ đợi. Đặt cái bóp đầm màu đen bóng trên đùi, bà rút một xấp tiền, xẻ đôi rồi dúi vào tay mỗi đứa:

                - Bác cho hai cháu ăn quà nhé!
                Hai đứa cầm tiền trong tay, mừng như vừa được trúng số. Đầu tiên trong đời chúng được có một số tiền lớn như thế. Dù chỉ dùng một tờ giấy tiền này thôi cũng đù có bao nhiêu là quà bánh vậy mà bác gái Tư căn dặn cả một xấp tiền chỉ là để ăn quà. Con em hí hửng chạy đến bên mẹ:
                - Má cất tiền cho con ăn quà nghe má.
                Bà mẹ nhắc hai con:
                - Cảm ơn hai bác đi con!
                Hai đứa cúi đầu như mẹ dặn:
                - Con cảm ơn bác Tư.
                - Con cảm ơn hai bác cho con tiền.
                Ông bác Tư cười hiền hậu:
                - Được rồi! Thưa gửi chi lắm! Chừ sang chào chị Ly Ly đi.
                Theo hướng tay ông, hai đứa bước đến trước mặt cô gái trạc hai mươi tuổi đang ngồi trên chiếc ghế mây tròn. Hai cái gối đệm, màu đỏ sau lưng làm nổi bật cái áo đầm trắng mà cô đang mặc. Vạt áo đầm phồng dài tận đến đôi giày màu trắng và đôi vớ ren cùng màu. Cái vẻ sang trọng của cô gái khiến hai đứa ái ngại, chúng ngập ngừng cùng chừa một khoảng cách khá xa trước mặt cô ta. Có lẽ lúc này chúng mới nhận ra sự khác biệt một trời một vực giữa chúng và những người sang trọng trong gia đình họ Hoàng khi đối diện người chị họ này. Hai bộ đồ trắng của chúng ngã sang màu cháo lòng với những vết dơ của đất. Những vết dơ được cố công chà sát bằng cục xà phòng trắng của bà mẹ m?i ngày mà cái màu xam xám ô ố của đất và của khói đèn dầu lửa vẫn không mảy may suy suyển. Đứng gần nhau như bị dính chặt vào một, hai đứa lầm lì cúi mặt.
                Cô gái Ly Ly nhìn hai đứa nhỏ chăm chú một lúc rồi cười thích thú:
                - Hai đứa nhỏ này xinh ghê đó 'măng'!

                Bác Cả gái chép miệng:
                - Xinh chi mà xinh! Suốt ngày chơi đất chơi cát dơ như mọi!
                Cô gái tiếp tục giữ lập luận của mình:
                - Tụi nó đẹp chứ “tata"! Con nhỏ em có cái môi đỏ như son đó! Còn con chị, coi con mắt của nó kìa! Lông mi của nó cong vút như gắn lông mi giả vậy đó!

                Con em ngước đầu lên, tròn mắt nhìn cô gái tên Ly Ly không chớp. Khuôn mặt nó ngây ra, miệng nó há hốc như đang chờ đợi một món ăn bất ngờ nào đó đút vào bởi đôi bàn tay trắng đẹp của người chị họ. Con chị cúi mặt, nhìn xuống những ngón chân đen xì trong đôi dép quai nhựa trên nền gạch bông. Nó vừa e thẹn, vừa tủi thân. Nó mong hoàn tất sớm cái thủ tục thưa gửi để không phải chịu đựng cái khác biệt một trời một vực giữa ba mẹ con nó với những người trong phòng khách. Nó sợ cô chị họ Ly Ly thấy những giọt nước mắt của nó. Nó sợ phải khóc oà khi nghe những lời thương hại của ông bác Tư:
                - Tội nghiệp hai đứa nhỏ! Còn nhỏ như vậy đã phải mồ côi cha.
                Nó muốn về nhà để không phải chứng kiến cái cảnh mẹ nó đứng chầu chực khúm núm khi mọi người ngang nhiên cười nói trên những chiếc ghế sô pha, và cũng để không phải nghe những lời nói bình dân và thái độ lúng túng của mẹ nó trước cái cách nói cười sang trọng, xưng hô xa lạ như “măng”, “me”, “tata”, “tonton” của những người trong ngôi nhà đồ sộ này. Đến lúc ấy nó ý thức rõ ràng sự khác biệt về địa vị, học vấn và giai cấp trong đại gia đình và còn hiểu rõ thêm sự thua thiệt hoàn toàn của mẹ con nó. Bao nhiêu hoài bão được tiếp đãi ân cần tại phòng khách rộng lớn của ngôi nhà tráng lệ trong sự tưởng tượng của nó bấy lâu vỡ tan theo sự thật phủ phàng mà nó vừa trải qua. Nó thấm thía cái hoàn cảnh nghèo khổ mà ba mẹ con nó đang chịu đựng và tự đánh mất những mơ mộng viễn vông xưa để đối diện với những thực tế mà nó đang chứng kiến.

                Bà mẹ hai con nhỏ yên phận với những gì quen thuộc mà bà đã và đang trải qua. Căn phòng khách của những ngày trước còn là nơi bà quét dọn, lo trà nước với vị trí của một người làm công, còn bây giờ nó là nơi bà đưa con chào hỏi những người thân của chồng. Mặc cho ánh nhìn của cô Út còn căm phẫn, mặc cho sự tách biệt giữa hai thế giới sang trọng và nghèo hèn diễn ra trước mắt, bà vẫn cố chịu đựng để tiếp tục liên kết tình máu mủ và thân thuộc giữa hai đứa con bà với những người thân trong gia đình chồng.
                Lúng túng với những câu hỏi do hai bác Tư đặt ra, bà tìm cách giải thích:
                - Dạ…dạ … nay em hết làm cho anh chị Cả rồi. Em đi buôn bán anh chị à!
                - Buôn bán à? Buôn bán chi rứa? - Ông bác Tư chau mày hỏi.
                - Dạ em buôn bán trái cây.
                - Thím buôn bán như thế nào?
                - Dạ em đi sớm ra bến xe ngựa mua trái cây của mấy bà trên nhà quê rồi bán lẽ ở chợ
                Bà bác Tư như thích thú đề tài này. Bà huyên thuyên:
                - Bán trái cây hả? Trời ơi! Mấy người bán trái cây ở chợ Sài Gòn giờ bán khá lắm đấy nhá! Ổi to to như thế này nè! Cam, quít đủ loại, ai thấy cũng muốn mua. Người ta mua để cúng cho đẹp bàn thờ đấy mà! Thím mà mua được hàng trái cây ở Sài Gòn bán lại thì tha hồ mà kiếm lời.
                Bà mẹ thành thật:
                - Dạ, em biết mà không có vốn để mua trái cây ở Sài Gòn.
                Bà bác Tư lại mở cái bóp đen bóng:
                - Đây này. Anh chị cho thím phụ thêm để buôn bán. Tội nghiệp! Một mình làm sao nuôi nổi hai đứa con.
                Cử chỉ hào hiệp của bà bác gái Tư làm tất cả mọi người trong phòng kinh ngạc. Trong khi mọi người im lặng, ông bác Cả lên tiếng:
                - Có buôn bán chi cũng phải dành thời giờ dạy dỗ hai đứa nhỏ.
                Bà mẹ lí rí:
                - Dạ
                Bác gái Tư nhìn bà mẹ thương hại:
                - Tội nghiệp! Khi nào thím không đủ sức nuôi hai cháu thì gửi bớt một đứa vào Sài Gòn để anh chị nuôi giùm cho. Con Vy này dễ thương lắm. Anh chị nuôi nó được. Anh chị sẽ nuôi nó cho đến lúc nó lớn, thì nó trở về ở với thím.
                Bà mẹ tiếp tục lí rí:
                - Dạ
                Lần này nước mắt con chị lần lượt tuôn ra. Nó rón rén bước ra phía hiên trước của nhà lớn. Nó muốn quên chữ "dạ" mà mẹ nó trả lời để không phải nghĩ đến ngày em nó và nó xa nhau. Con em cũng lẻn mọi người đi ra khỏi phòng khách. Nó gọi chị:
                - Chị Hạ chờ em với.
                Con chị bước chậm, con em bước nhanh đến bên chị. Hai đứa cùng đến gốc vú sữa, đến cái thế giới riêng của chúng.
                - Mình chơi lò cò nghe chị Hạ?
                Con chị lắc đầu ngồi xuống. Con em hỏi tiếp:
                - Vậy chơi đổ bánh căn nghe?
                Con chị lại lắc đầu. Con em lại hỏi:
                - Chơi cá sấu ăn thịt người hả?
                Con chị lại lắc đầu nguầy nguậy. Con em cau có, ngồi bên chị cằn nhằn:
                - Vậy chơi cái gì? Sao chị không nói gì vậy hả?
                Con chị ngửa người ra sau tựa vào thân cây vú sữa. Trên cao bao nhiêu cành nham nhám và lá hai màu xanh cây đà nhạt đan vào nhau, trải rộng thành một cái lọng lá giữa vườn. Cây vú sữa này thường bị bà nội chọc là cây vú sữa đực vì nó chỉ có lèo tèo vài trái khi mới trồng rồi sau đó chẳng hề thấy trái nào mọc ra. May mắn cho chị em chúng là chẳng có người nào trong đại gia đình họ Hoàng đề nghị đốn nó đi, cho dù nó chiếm toàn bộ không gian của khu vườn và chẳng cung cấp một trái nào như những cây ăn trái khác, cho nên gốc vú sữa mãi mãi là nơi tụ tập chơi đùa và là thế giới riêng rẽ của chị em chúng.
                - Mình chơi gì đi chớ chị! Con em nói.
                Con chị giật mình nhìn em. Nó từ từ đứng lên, nhặt một nhánh cây vú sữa khô trên đất rồi vẽ một vạch dài từ bức tường thành đến gốc cây vú sữa, rồi từ gốc cây vú sữa đến sân giếng. Con em đứng lên theo chị, tò mò hỏi:
                - Mình chơi gì vậy chị?
                Con chị viết hai chữ "Giàu Sướng" trên nền đất, phần từ mức vạch hướng về ngôi nhà lớn và hai chữ "Nghèo Khổ" trên phần đất từ mức vạch đến khu nhà nghèo nàn của mẹ con chúng.
                Con em lẽo đẽo theo sau, vừa đọc chữ, vừa hỏi dò:
                - Giàu Sướng! Nghèo khổ! Mình chơi "Giàu sướng, Nghèo khổ" hả chị?
                Con chị đáp bừa:
                - Ừ!
                - Trò này chơi làm sao?
                Con chị bối rối nhìn cái gốc vú sữa, rồi cái mức vạch, và từ cái mức gạch sang mấy cái chữ trên đất, ấp úng trả lời
                - Ơ ..ơ lúc đầu mình phải đứng trên mất gốc lồi của cây vú sữa.
                Con em nghe chị đi đến gốc vú sữa và đứng yên trên cái gốc lồi. Nó hỏi :
                - Rồi sao nữa?
                - Rồi đi ra trên cái đường chị gạch đó.

                - Đi làm sao?
                - Đi trên cái đường đó chứ sao. Đi cho thẳng hết con đường là Vy học cao như mấy bác, mấy cô. Đừng để té bên phía nghèo khổ. Nếu mà Vy té xuống chỗ nghèo khổ là Vy lớn lên Vy bị nghèo luôn đó.
                Hai con nhỏ cố gắng giữ thăng bằng nhón nhén chân đi trên con đường vạch để không bị té nhưng cả hai đều bị ngã xuống phần đất Nghèo Khổ. Con chị làu bàu:
                - Lớn lên mình nghèo rồi!
                Con em đang ngồi bệt trên phần đất Nghèo, vội nhảy qua phần đất có chữ Giàu Sướng. Nó la lên:
                - Em được Giàu Sướng rồi!
                Nói xong nó nhảy qua nhảy lại hai bên mức vạch và reo lên từng nhịp vui vẻ:
                - Nghèo khổ! Giàu Sướng! Nghèo khổ! Giàu Sướng!
                Con chị bắt chước em vừa nhảy theo, vừa đọc theo nhịp nhảy:
                - Nghèo khổ! Giàu Sướng! Nghèo khổ! Giàu Sướng!
                Bụi đất tung cao, bay đầy xung quanh các khoảng đất mà hai con nhỏ đạp chân lên. Hai bộ đồ màu "cháo lòng" của chúng dần dần ngã thành màu xám.
                 
                Xa xa trên hiên ngôi nhà lớn, vạt áo đầm trắng của cô gái Ly Ly thấp thoáng. Cô đang giương cặp mắt tò mò nhìn hai con nhỏ đùa chơi "trò không sạch sẽ" trên sân đất. Mặc cho tiếng cười vui nhộn và nắc nẻ của chúng vang vọng khắp vườn cây, cô lắc đầu, quay trở vào phòng khách.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:00:00 bởi Ct.Ly >
                #8
                  Cung Thi Lan 06.08.2007 18:59:55 (permalink)
                       Chương Bảy



                  Sau mùa hè năm ấy, cuộc sống của ba mẹ con con nhỏ tương đối ổn định. Hai đứa nhỏ đều được lên lớp. Một đứa học lớp bốn và một đứa học lớp hai. Mỗi khi tan trường, hai đứa song bước cùng nhau về nhà, cùng nhau tự kiếm cơm do mẹ nấu sẵn để ăn, tự làm bài học bài và tự tắm rửa trước khi chờ mẹ đi bán về. Bà mẹ không còn có thói quen đi sớm để mua trái cây ở bến xe ngựa. Bà đã có một số vốn vững chãi để hùn hạp với những người bạn hàng khác để mua bán và thầu những vườn cây tại các vùng phụ cận quanh thành phố biển. Những người bạn hàng buôn bán chung, kết thân với bà như thể ruột thịt. Họ thường tụ họp trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con để bàn bạc chuyện mua bán, tính toán tiền bạc và chia lời.
                  Hai đứa nhỏ vui mừng khi có nhiều người đàn bà tụ tập trong nhà. Thích thú hơn là chúng được xưng hô dì cháu với họ. Cách xưng hô tạo cho chúng cảm tưởng là có thêm một mối quan hệ gần gũi ruột thịt. Những người bán hàng chung với mẹ chúng là dì Ba, dì Ba Rỗ, dì Tư, dì Năm, và dì Chín. Dì Ba và dì Năm là những người bạn hàng cư ngụ tại ngã ba Thành, một miền quê, miền ngoại thành của thành phố biển Nha Trang. Họ thường đem hàng trái cây từ các vùng quê trên Thành đến bán cho bà mẹ hai con nhỏ, dì Ba Rỗ, dì Tư và dì Chín. Dì Ba Rỗ, dì Tư và dì Chín cư ngụ tại thành phố Nha Trang. Họ cùng hùn vốn với bà mẹ hai con nhỏ để mua trọn số trái cây của dì Ba và dì Năm đem từ các miền quê Thành xuống rồi bán lẻ tại chợ Đầm. Thỉnh thoảng tất cả những người bạn hàng này hùn vốn để thầu những khu vườn trái cây trên các vùng miền quê Thành, nơi mà dì Ba và dì Năm không thể nào đơn phương thầu hết thảy.

                  Mỗi chiều đi học về, hai đứa nhỏ líu lo, nhộn nhịp với những người dì bạn hàng của mẹ. Trong khi những người lớn họp nhau lại để đếm số trái cây thừa và chia lời thì hai con nhỏ hưởng những "mặt trái cây". Những trái cây "làm mặt" là những trái mẫu bị thẻo hoặc bị cắt mỏng cho khách hàng nếm thử còn thừa. Cắt bỏ những phần bị thâm đen bên ngoài, hai con nhỏ thú vị nếm những phần còn lại của các loại trái cây khác nhau. Có hôm vì mải mê với những "cái mặt" trái cây và những trái bị loại vì không đúng chất lượng hai đứa quên đi những trò chơi dưới gốc vú sữa. Lúc đầu, hai con nhỏ chỉ được nếm những trái cây quen thuộc của địa phương như: cam Thành, bưởi Thành, quít Thành, chùm ruột chua, chùm ruột ngọt, soài tượng, soài Thanh Ca, vú sữa. Vài tháng tiếp theo sau đó, chúng được thưởng thức các trái cây với những cái tên khác lạ lẫn lộn với những cái tên quen thuộc như: cam sành Sài Gòn, quít ngọt Sài Gòn, bưởi Biên Hoà, soài cát Sài Gòn, soài thanh ca Sài Gòn, soài Ấn Độ, vú sữa trắng Sài Gòn v.v… Những trái cây to chắc, ngọt lịm với hai chữ Sài Gòn đã khiến hai con nhỏ tưởng tượng một khung trời huy hoàng và tráng lệ của một đô thị rộng lớn gấp vạn lần nơi mà chúng đang sinh sống. Hai chữ Sài Gòn còn làm cho hai đứa nhỏ nhớ lại lời đề nghị của bà bác gái Tư và chữ "dạ" của mẹ chúng ngày nào; tuy nhiên, sự gợi nhớ ấy chỉ là một cơn gió thoảng bởi vì sự buôn bán thành công và phát đạt của bà mẹ và các bà bạn hàng là một sự cam kết chắc chắn cho việc hai chị em con nhỏ sống bên nhau cho đến lúc trưởng thành.
                  Vào một buổi chiều trước Tết âm lịch, bà mẹ hai đứa nhỏ và những người bạn hàng của bà kệ nệ khiêng hai cái thùng gỗ mỏng và dẹp vào nhà. Kích thích bởi mùi thơm ngòn ngọt và là lạ, hai đứa đua nhau hỏi không ngừng:

                  - Cái gì vậy má?
                  - Trái cây hay cái gì vậy dì?
                  Vừa mệt vừa bị hai con nhỏ quấy rầy, những người buôn bán thi nhau la toang toáng:
                  - Đi chỗ khác! Chỗ người lớn làm việc!
                  - Đừng xáp vào đây nghe mấy đứa! Mấy trái này mắc tiền lắm đó!
                  - Có nghe không? Lì vậy hở?
                  Hai con nhỏ như không nghe bị mắng, tiếp tục hỏi:
                  - Trái cây sao không để trong rổ? Sao để trong thùng vậy dì?
                  - Trái này tên gì vậy dì?
                  - Sao người ta bọc mấy trái này làm gì vậy má?
                  - Trái cây Thành hay trái cây Sài Gòn mà lạ vậy má?
                  Bà mẹ la lớn hơn mấy bà buôn bán chung:
                  - Mấy đứa bây có đi ra chỗ khác chơi không? Chuyện làm ăn của người lớn hỏi làm gì?
                  Dì Tư can thiệp:
                  - Chị nói như vậy tụi nó càng hỏi nữa cho coi. Nói đại cho tụi nó đi cho rồi.

                  Dì Chín từ tốn giải thích cho hai đứa nhỏ:

                  - Mấy trái này là trái bom, trái lê đó.

                  Dì Tư mím chặt hai cái môi vào nhau rồi mở nhanh để cải chánh:
                  - "Pom"chứ không phải là "bom" đâu chị à.
                  Dì Chín xuề xoà:
                  - Tui nghe ổng đó nói là "bom". Tui đâu biết đâu. Gọi là gì cũng được mà. Nó là trái táo chứ trái gì. Bày đặt “pom”, “pom”, mím hai cái môi mệt bắt chết!

                  Dì Ba Rỗ cãi lại:
                  - Đâu có chị! Trái táo nhỏ xíu xiu hà! Như trái táo Tàu nhỏ xíu mới gọi là trái táo. Còn trái này giống như trái táo nhưng to gấp mấy lần, lại đỏ tươi, bóng lưỡng nên người ta mới gọi là trái "bom"!
                  Dì Chín chép miệng:
                  - To thì gọi là táo Tây không được sao mà gọi là "pom", "bom". Mà mấy chị muốn gọi "bom đạn”gì cũng được. Có một cái tên không mà thấy cũng rắc rối rồi! Tại mấy chị nói quá tui phải bằng lòng mua để bán thử chứ tui sợ bán không được đó! Không biết người ta có mua cho không?

                  Dì Tư trả lời một cách lạc quan:
                  - Sao lại không? Mình nghe mùi thấy đủ thèm muốn ăn rồi, huống hồ khách hàng.
                  Dì Ba Rỗ bồi thêm:
                  - Chị Chín hay có tật sợ mua hàng lạ cho nên bao nhiêu lần tụi mình mất mối ngon đó! Không mua để người khác họ mua, họ lấy mất khách hàng của mình.
                  Dì Chín không trả lời, cũng không nói gì thêm, chằm chằm nhìn hai đứa nhỏ đang lăng quăng quanh hai cái thùng gỗ dẹp có những trái đỏ và vàng được bọc giấy quyến trắng mềm bên trong.
                  - Không được thò tay chọt mấy trái "bom" đó nghen mấy đứa! “Bom” mắc tiền lắm à!
                  Con nhỏ em vừa hít mùi thơm vừa hỏi:
                  - Có lấy trái "bom" "làm mặt" không dì Chín?
                  Dì Tư trả lời như thay cho dì Chín, vừa như căn dặn mọi người:

                  - "Bom" này mắc tiền lắm, khách nào muốn mua thì mua chớ mình không "cắt mặt", "cắt mày" gì cả!
                  Con em vẫn không tha, nó tiếp tục:
                  - "Bom" là trái màu đỏ hay vàng vậy dì Tư?
                  Dì Tư trả lời:
                  - Trái "bom" màu đỏ, trái lê thì màu vàng. Ủa?.. mà sao con thấy màu được vậy? Bộ chọt trái nào rồi hả?
                  - Dạ đâu có! Giấy bọc nó mỏng dính à! Con thấy được chứ. Đây nè, dì thấy không?
                  Con chị đến bên mẹ hỏi nhỏ:
                  - Trái này ở Thành hay ở Sài Gòn mà lạ vậy má?
                  Bà mẹ vừa đưa tay lau màng tang vừa trả lời:
                  - Mấy trái này ở Mỹ đó.

                  Con chị không hết thắc mắc:
                  - Mỹ là ở đâu vậy má?

                  Bà mẹ trả lời uể oải:
                  - Má không biết. Chắc ở xa lắm!
                  Con chị không hỏi gì thêm. Nó gọi em ra sân tiết lộ chi tiết thú vị vừa được nghe:

                  - Vy biết không, mấy trái "bom, lê" đó ở Mỹ đó!

                  - Mỹ là ở đâu?

                  - Ở xa lắm!
                  - Xa mà ở đâu?

                  - Ở xa hơn Sài gòn nữa!
                  - Nó có lớn hơn Sài Gòn không?
                  - Có chứ! Lớn nhất trên đời! Lớn “nhất trên thế giới"! lớn "nhất trên trần gian" luôn! - Con chị đưa hai tay khoa vòng lên cao rồi giang ngang rộng hai bên hông để diễn tả cái rộng lớn của “nước Mỹ” nào đó.

                  Con em hỏi tiếp.
                  - Mỹ có đẹp không?

                  Con chị trả lời liều:
                  - Đẹp chứ!
                  Con em trầm ngâm, hỏi tiếp:
                  - Đồ ăn ở đó có ngon không?

                  - Ngon chứ! - Con chị bồi thêm - Nghe mùi thơm của "bom, lê" đủ biết rồi còn hỏi gì nữa!
                  Tối hôm ấy, mấy người dì bạn hàng quyết định ngủ lại nhà của ba mẹ con con nhỏ để ngày hôm sau cùng đem hàng ra chợ sớm. Theo thói quen, bà mẹ thắp hương cho Phật bà và chồng trước khi đi ngủ. Nể khách, bà dọn chiếu và mền để ngủ với họ trên nên xi măng trong“phòng thờ". Sau khi tắt đèn và thị uy bắt hai đứa nhỏ im lặng ngủ, bà mẹ và những người bạn hàng bàn tính chuyện buôn bán, rồi tâm sự chuyện gia đình và con cái. Nằm trên giường bên nhau trong "phòng ngủ", hai đứa nhỏ im lặng nghe ngóng. Chúng nhớ những điều mẹ cấm về tội “nói leo” hay "hớt lẻo" nên chúng không dám hỏi hay xen vào những câu chuyện của họ. Hơn nữa, những câu chuyện mà những người đàn bà buôn bán đang tâm sự dường như chẳng khác gì những mẫu chuyện của những ngày trước đó cho nên chả có gì thú vị cho chúng để tâm. Mùi nhang từ hai cái bàn thờ như đang bị loãng đi bởi mùi thơm ngào ngạt của những trái lạ. Con em xoay mình trăn trở qua lại nhiều lần đến độ con chị phải nằm nhích ra xa nó hơn thường lệ. Phập phồng cánh mũi, con em hít lấy hít để, rồi nói nhỏ với chị:

                  - "Bom, lê" vẫn còn thơm ghê đó chị Hạ!

                  Con chị thì thầm trả lời:
                  - Ừ, thơm thật!
                  Con em tiếp tục nói nho nhỏ bên tai chị:
                  - Ước gì em được ăn “bom, lê".
                  Con chị ghé tai em:
                  - Chị cũng vậy.
                  Hai con nhỏ im lặng một lúc, con em lại ghé tai chị:
                  - Chắc má không cho mình ăn “bom, lê" đâu!

                  Con chị thì thầm nhiều hơn để “dạy đời” em:

                  - "Bom, lê" là vốn để má bán mua gạo cho mình ăn đi học, làm sao ăn được. Vy đừng nghĩ chuyện ăn “bom, lê" nữa!
                  Con em im lặng, thôi thì thầm. Không nghe em hỏi, con chị cho là con em đang buồn vì chuyện không được ăn thử hai loại trái lạ kỳ và hấp dẫn mà lần đầu tiên nó được thấy. Con chị cũng buồn như em. Nó ao ước được ăn thử hai loại trái đầy quyến rũ ấy. Nó còn ao ước có được nhiều tiền để mua được hai trái thứ trái này, rồi nó sẽ cắt ra làm đôi. Con em sẽ có một nửa, nó sẽ có một nửa, rồi hai chị em nó sẽ vừa nhấm nháp vừa tán dóc dưới gốc cây vú sữa.

                  Càng về khuya, tiếng nói chuyện rầm rì của những người lớn từ phía trước "phòng thờ" càng lúc càng rời rạc hẳn đi nhưng mùi thơm của trái bom lê vẫn còn kết chặt với không khí trong gian nhà. Con chị hít nhè nhẹ cái mùi thơm ngọt lạ ấy vào trong buồng phổi. Nó thầm cảm ơn mấy bức tường của căn nhà nhỏ đã giữ kín cái mùi thơm đến tận đêm. Trong giấc ngủ, nó mơ thấy hai chị em nó đi lạc vào một khu vườn đầy cây ăn trái. Một khu vườn giữa mây trời như cảnh thần tiên mà trong ấy hai cây bom, cây lê lủng lẳng đầy những trái đỏ, trái vàng. Những trái bom, trái lê ngay tầm tay với tạo điều kiện cho chị em chúng hái đầy cả hai tay.

                  Trời sáng, hai chị em con nhỏ thức dậy như thường lệ để chuẩn bị đi học. Những người đàn bà đã đi bán từ lúc nào, hai cái thùng gỗ bom lê cũng biến mất, duy chỉ có cái mùi thơm của bom lê vẫn còn vương vất đâu đó trong nhà. Mùi thơm thoang thoảng tạo cho hai đứa nhỏ cái cảm giác luyến tiếc. Chúng tiếc hùi hụi là không được nhìn thêm hai cái thùng trái "bom, lê" thêm một lần nữa.
                  Trên đường đến trường, con em vẫn còn thắc mắc về những trái lạ:
                  - Chỉ có "bom, lê" Mỹ trên "trần gian" chứ chưa bao giờ có "bom, lê" Thành hay "bom, lê" Sài Gòn phải không chị Hạ?
                  - Ừ. Mình có bao giờ thấy trái bom, trái lê đâu!

                  - Chị có biết Mỹ khác Thành với Sài Gòn chỗ nào không?
                  - Mỹ lớn hơn Thành, lớn hơn Sài Gòn nhiều lắm!
                  - Mỹ đẹp không?

                  - Đẹp! Chỗ lớn hơn thì phải đẹp hơn rồi!
                  - Chị đi chưa?

                  - Chưa!
                  - Chưa đi sao chị biết?

                  Con chị tức con em hỏi đủ điều mà còn bắt bí nó nhưng nó chẳng chịu thua. Nó ra điều hiểu rất nhiều chuyện:

                  - Sao mà không biết!
                  - Sao chị biết?
                  - Ai mà không biết!
                  - Ai biết đâu? Sao chị biết ai biết?

                  - Ai mà không biết chứ! Chỉ có Vy không biết Mỹ đó thôi!

                  - Ai biết đâu?

                  Con chị gân cổ lên cãi:
                  - Bà nội biết nè! Bà nội biết được thì ai trên đời này cũng biết rồi. "Toàn thể thế giới" biết hết rồi!
                  - Bà nội biết hồi nào?
                  - Bà nội biết từ lâu rồi chứ bộ! Nếu bà nội không biết sao bà nội đặt tên cô Bảy là cô Mỹ? Bà nội phải biết nước Mỹ lớn, nước Mỹ đẹp mới đặt cô Bảy tên Mỹ chứ!
                  Con em nghe chị giải thích có lý nên im bặt. Còn con chị thầm cảm ơn bà nội đặt cô Bảy tên Mỹ nên nó có cơ hội lý luận với con em. Nó không biết Mỹ là tên chồng của cô Bảy và cũng không biết gì về phong tục gọi vợ bằng tên của chồng. Tuy nhiên nó không còn bị vặn vẹo, hay chất vấn về chuyện nói bừa. Cái tên hoà hợp với vẻ đẹp sang trọng của cô Bảy Mỹ khiến con em tạm tin những lời giải thích của chị.

                  Hai đứa vừa đi đến trường vừa trầm tư mặc tưởng cái tên Mỹ và sự quan hệ của cái tên ấy với mấy trái lạ mà nó chưa được thấy rõ trong hai cái thùng gỗ. Trong lớp học, trong giờ chơi, lúc tan học, chữ Mỹ và những trái bom, lê vẫn còn ám ảnh trong tâm trí của chúng khi mà cả hai đều hiểu ngầm là những thắc mắc của chúng chưa giải thích một cách rõ ràng và thoả đáng.       
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:01:59 bởi Ct.Ly >
                  #9
                    Cung Thi Lan 06.08.2007 19:11:30 (permalink)
                         Chương Tám
                     
                     
                     

                    Tan học, hai chị em con nhỏ hoà lẫn trong đám học sinh trên đường về nhà. Khi đến đường Phan Chu Trinh, ngang qua khu nhà lầu cao, hai đứa chợt nghe tiếng kêu của một người lính từ một trạm gác nhỏ.
                    - Nè! Nè mấy em nhỏ! Hai ông Mỹ này muốn cho mấy đứa kẹo nè. Mấy đứa lại đây để mấy ổng phát kẹo cho.
                     

                    Đám học trò ngừng lại, ngơ ngác nhìn vào trong khu nhà lầu cao. Hai người đàn ông to lớn, da trắng, mắt xanh, trong quân phục đang tươi cười nhìn đám học sinh. Họ nói với nhau bằng những ngôn từ khó hiểu rồi đưa tay ngoắc tụi nhỏ đến gần. Mấy đứa nhỏ học trò vừa ngạc nhiên vừa sợ sệt, không một đứa nào dám tiến bước. Hai người đàn ông to lớn ấy dượm bước đến đám học trò với hai túi lớn trên tay. Họ trao tận tay hai đứa bé đứng đầu hai cái hộp nho nhỏ với hai gói kẹo xinh xinh. Hai đứa này hí hửng reo lên:
                    - Tao có kẹo sô cô la.
                    - Tao có nho khô. Coi cái hộp này đẹp không?

                    Mấy đứa khác nhận thấy hai người đàn ông to lớn không phương hại gì và ấm ức chưa được quà nên chen nhau réo nhặng nhị:
                    - Ê nè! Cho tui nè.
                     
                    Cả bọn chen lấn, xô đẩy, ép dí hai chị em con nhỏ sát vào nhau. Con em hau háu nhìn những cái hộp nâu mỏng và những viên kẹo trên tay hai đứa được quà mà không biết xin hai người đàn ông to lớn ấy bằng cách nào. Đám đứa học trò, vừa la loạn xạ, vừa vây xung quanh nó như không muốn cho nó tiến đến gần hai người đàn ông da trắng, mắt xanh, đang phát kẹo.

                    Con chị nói như hét vào tai em :
                    - Đó là ông Mỹ đó Vy! Thấy Mỹ chưa?
                    Con em bực mình, nói lớn không kém:
                    - Biết rồi! Em muốn xin kẹo thôi!
                    Đám học trò lộn xộn khiến hai người đàn ông Mỹ lúng túng cho bừa, đứa nhiều, đứa ít, đứa có đến hai lần, đứa chẳng có cái gì trên tay. Người linh canh la lớn:
                    - Làm gì giành giựt dữ vậy mấy đứa? Không sợ người Mỹ họ cười người Việt Nam mình hả?
                    Bất kể người lính la to bao nhiêu đám đông học trò tấn công hai người đàn ông nước ngoài bằng vòng vây kín mít. Người lính tức giận vừa dang tay giải tán đám học trò vừa hét to:
                    - Tụi bây đi về hết đi! Không cho lấy kẹo nữa!
                     

                    Không hiểu hai người lính Mỹ có hiểu những lời người lính Việt canh đồn nói gì không mà họ khua tay ra hiệu không cho mấy đứa nhỏ kẹo như tiếng hét của người lính kia. Họ đưa hết cả những gói kẹo và đồ hộp còn lại trong hai cái túi cho những đứa đứng gần mà không cần biết là chúng đã nhận quà hay chưa.
                     
                    Không còn được chia kẹo, lại bị la, đám học trò giải tán hết. Hai chị em con nhỏ mặt mày bí xị vì không có được một gói kẹo hay một hộp đồ hộp nào. Con chị ốm như cây tăm nên không thể nào chen trong đám học trò để đến gần hai người đàn ông Mỹ đã đành, con em tròn trịa cũng bị đám học trò đẩy ra sau, chẳng có gì. Mặc cho mấy đứa học trò đi hết, mặc cho con chị réo nó về, con em vẫn đứng ì tại chỗ, rươm rướm nước mắt. Hai người đàn ông Mỹ xí xô xí xào nói với nhau một lúc rồi đi vào khu nhà lớn. Một lúc sau, họ đi ra, trao mấy cái gói cho người lính canh. Người lính gọi hai con nhỏ đến gần.

                    - Mấy ông Mỹ này thấy hai đứa không có gì nên cho mấy cái thứ này nè. Toàn là đồ hộp, và kẹo. Còn hai cái áo đầm này là cho con bé này.
                    Dứt lời ông trao hai cái áo đầm được xếp vuông vắn trong hai túi ni lông trắng cho con nhỏ em. Con em vui vẻ, chùi nước mắt đưa tay đón lấy. Con chị nhận túi giấy đựng đồ hộp, vui không kém con em. Nó khệ nệ kẹp cái túi vào sát với cái cặp rồi hớn hở giục em:
                    - Đi về mau đi Vy! Về khoe má! Má thấy mấy cái này, má mừng lắm đó!
                    Hai con đi nhanh như chạy. Đến nhà, hai đứa thả dép nhựa ngoài tam cấp, quẳng mũ, và cặp trên nền xi măng rồi lôi tất cả các thứ trong cái túi giấy và hai cái bọc ni lông ra.
                    - Kẹo nè chị Hạ! Con em đưa lên mũi, hít nhẹ, nói tiếp.
                    - Kẹo thơm ghê!
                    Con chị lắc mấy cái hộp thiếc nhỏ nghe ngóng rồi đọc chữ trên mặt từng cái hộp:
                    - Hộp này có tên là B1, Hộp này có tên là B2.
                    Con em tò mò:
                    - Không biết cái gì trong đó. Làm sao cạy nó ra được? Làm sao đục nó ra để coi cái gì trong đó?

                    - Không biết. Chị không biết mở, Chị không biết cạy cái hộp này ra đâu!

                    - Vậy thì ăn kẹo trước đi nghe chị Hạ?

                    Con chị chỉ cái gói ni lông:
                    - Mình mở mấy cái áo đầm này ra coi thử đã rồi từ từ ăn sau.

                    Con em nghe lời chị. Hai đứa lúi húi mở hai cái túi ni lông một cách cẩn thận lấy hai cái áo đầm ra khỏi rồi chia nhau mặc thử. Hai chiếc áo đầm, một màu hồng nhạt, một màu vàng nhạt, đều có chung một kiểu và một cỡ. Cả hai đều có hai lớp, vải mỏng; lớp ren bên trong và lớp lụa mỏng bên ngoài. Khi hai đứa mặc thử chúng vào, chiếc áo màu hồng nhạt vừa khít thân hình nhỏ nhắn và tròn trịa của con nhỏ em như chủ định của hai người đàn ông Mỹ. Trái lại, chiếc áo màu vàng nhạt chật ních đến chẹt cứng hai bên nách của con chị và ngắn cũn tận trên hông của nó. Con em vui tươi hớn hở bao nhiêu, con chị buồn bã và thất vọng bấy nhiêu. Lúc con em nhận hai chiếc áo đầm xinh xắn ấy, con chị nuôi hy vọng sẽ có được một cái để cùng em mặc đến trường; thế mà khi nó mặc thử xong, hy vọng của nó tiêu tan. Im lặng, con chị xếp chiếc áo đầm vừa thử đặt yên trên nền nhà. Con em xúng xính trong áo mới, đến trước mặt nó, giang hai sợi dây lụa mỏng hai bên hông, nói vui vẻ:
                    - Chị Hạ thắt hai sợi dây nơ này giùm cho em đi.

                    Con chị gật đầu bảo nó:

                    - Vy quay lại đi. Chị thắt cho.

                    Con em huyên thuyên không ngớt:
                    - Áo đầm này đẹp lắm phải không chị Hạ? Thắt nơ nữa càng đẹp hơn phải không chị? Ước gì chị mặc vừa cái áo đầm vàng đó, chị em mặc đi học chung phải không chị? Ước gì chị em mình được mặc đẹp như nhau để đi học.
                     

                    Những chữ "ước gì" của con em khiến con chị nhớ đến những ước mơ của nó. Những ước mơ gần nhất của nó không phải là những ước mơ có bà tiên, ông tiên, hay nàng Bạch Tuyết mà là những hình ảnh chị em nó quây quần bên người cha thân yêu. Nó tiếp tục gầy dựng thêm cảnh tượng ba nó trao cho những chiếc áo đầm đẹp, những món đồ chơi tối tân và mơ màng cảnh tung tăng nhảy lò cò với những đứa học trò giàu có trong trường Nữ Tiểu Học, cảnh đứng cạnh cô giáo vui cười hỏi han một cách tự nhiên khi chiếc áo đầm mới toanh quay chờn vờn toả nhẹ mùi thơm từ thân hình sạch sẽ của nó.
                    Con em hỏi lại lần thứ hai:
                    - Chị Hạ thấy em đẹp không? Sao em hỏi hoài mà chị không trả lời em vậy?
                    Con chị giật mình, nói vội:
                    - Đẹp! Vy đẹp lắm! Da của Vy trắng hồng mặc cái gì mà không đẹp chứ.
                    - Nhưng chị có nhìn em đâu mà nói em đẹp?

                    Tình thật, con chị không nhìn em như lời phàn nàn của con nhỏ. Nó đang nhìn lên trần nhà. Những mái ngói loang lổ và những màng nhện giăng đầy trên ấy. Ngọn đèn dầu mỗi đêm trong căn nhà đã làm ám khói đầy nhà. Khói đèn bám vào chiếc màn ngăn hai “căn phòng", vào mùng, vào áo quần và tất cả mọi thứ trong căn nhà. Rồi đây hai cái áo đầm đắt tiền của con em sẽ cùng chung một số phận. Chúng sẽ bị ám khói đen và cũng trở thành màu cháo lòng hay xám đen như những áo quần khác trong nhà.
                    Buồn tủi, nước mắt con chị rơi ra. Hiện thực làm nó đắng cay và chua chát. Ước mơ được ba sống lại, được ba cho quà mỗi khi đi làm về, và được ba mua quà cho trong những ngày chủ nhật cũng chỉ là những sự bất ngờ do cô tiên ban phép cho những đứa trẻ ngoan trong những mẫu chuyện mẹ kể. Chúng chỉ là những ảo giác trong trí tưởng tượng của nó chứ chẳng bao giờ xảy ra trong đời sống thực bao giờ.

                    Tiếng chó sủa dồn dập cắt giòng tư tưởng của con nhỏ chị. Nó nhìn ra phía cổng, nhận ra mẹ đang xua hai con chó quấn quít xung quanh trong khi bước nhanh về phía căn nhà.
                    Con em vui mừng chạy ra đón mẹ, huyên thuyên:
                    - Má ơi con có áo này đẹp không? Cái áo này đẹp không hả má? Má thích không? Con có hai cái lận.

                    Bà mẹ ngạc nhiên:
                    - Ai cho con cái áo này vậy?
                    Con em luôn mồm:
                    - Ông Mỹ, hai ông Mỹ đó má?

                    Bà mẹ lấy chiếc nón lá ra khỏi đầu. Trán bà lấm tấm mồ hôi. Khuôn mặt bà đỏ rực lại như đỏ thêm khi nghe con em nói những lời này. Bà chau mày hỏi:
                    - Mỹ nào? Ở đâu vậy?

                    Con em nói nhanh như không muốn chị tranh phần:
                    - Hai ông lính Mỹ chỗ nhà lầu lớn đó má. Hai ông lận! Ông cho tụi nhỏ học trò kẹo nhiều lắm! Tại con khóc, ông cho áo đầm đẹp này. Không đứa nào có áo đầm đẹp này hết, chỉ có một mình con có mà thôi!
                    Bà mẹ tức giận:
                    - Ai cho tụi bây đi xin đồ của Mỹ vậy? Ai bày đầu chuyện đi xin đồ vậy?

                    Con em đang huyên thuyên nói, chợt nín bặt. Tiếng nói lớn và giận dữ bất thình lình của bà mẹ làm nó há hốc miệng ra kinh ngạc. Nó không biết và không dám trả lời câu hỏi nào khi cảm thấy những câu hỏi kia không có chút gì yên ổn cho nó.
                    Bà mẹ túm vội quang gánh, quăng đại vào gốc dừa, rồi bước nhanh vào nhà, nói lớn:
                    - Vào đây mau lên! Leo lên giường nằm cho tao dạy!
                    Nhận ra lối xưng hô và lời nói hung dữ khác thường của mẹ, con nhỏ em cúi mặt xuống, sợ sệt bước theo sau bà.
                    Bước ngang đống đồ lổm ngổm trên nền nhà, bà mẹ chỉ trỏ:
                    - Mấy cái thứ này cũng do tụi bây xin của Mỹ về ăn phải không? Con Hạ cũng nằm trên giường cho tao!
                    Vất cái giỏ bên cạnh cái nón lá trên nền nhà, bà tất tả bước ra sân, vừa đi vừa la lối “Dám đi xin đồ của Mỹ về ăn!”

                    Con chị chưa bao giờ thấy mẹ giận dữ như thế cho nên ngạc nhiên và sợ hãi lắm. Nghe tiếng lá tuốt ngoài sân, nó hiểu rằng mẹ nó đang bứt những cành mãng cầu để chuẩn bị đánh hai chị em nó. Ý nghĩ về chuyện bị đòn làm nó càng sợ thêm hơn; cho nên, vừa bước lên giường, nó đã vội đi ngang người con em để lẩn vào trong. Con em đang nằm úp, ngẩng đầu lên nhắc nó:
                    - Chị Hạ phải nằm ngoài. Má kêu em trước em nằm vô trong.
                    - Má đâu có nói đứa nào nằm chỗ nào đâu? Chị nằm chỗ nào cũng được chứ!

                    Dứt lời nó nằm úp cạnh con em, sát với cái màn giăng. Hai đứa chừa một khoảng rộng từ mép giường đến chỗ con em nằm và như thế hoá ra con em vẫn là người nằm phía ngoài. Hai đứa úp mặt rất lâu mà không nghe bà mẹ bước vào nhà. Tiếng la, tiếng tuốt lá ngoài sân không ngừng làm cả hai đứa hồi hộp khi nghĩ đến những chiếc roi mãng cầu. Con em không còn lòng dạ nào nghĩ về chuyện chỗ nằm trong hay ngoài, nó dí người sát vào người con chị hơn như để lấy hơi ấm và để bớt sợ. Hai đứa nằm ngay đơ như hai thanh củi so le, đầu úp, mũi miệng phì phò trên hai mặt gối như đang cầu nguyện. Im lặng không được bao lâu, cả hai giật nẩy mình khi nghe tiếng roi khua chan chát trên mặt chiếu và tiếng hắng giọng của bà mẹ:
                    - Tụi bây nằm "xít" ra đây.

                    Hai con líu ríu nhích người hướng về phía bà.
                    - Thêm chút nữa.
                    Hai đứa lại nhích ra như lời bà mẹ yêu cầu. Cũng như lần đầu, hai đứa chỉ xê dịch một tí tẹo. Và khi cùng nhích ra, thân người hai đứa vẫn dính sát nhau.

                    - Xít ra chút nữa nghe không!
                    Nghe mẹ la, con em giật mình, nhích xa con chị, đưa mắt hoảng loạn nhìn mẹ.
                    - Cúi đầu xuống nghe tao hỏi đây! Đứa nào bày đầu chuyện đi xin đồ của Mỹ?- Bà mẹ dõng dạc hỏi.
                    Hai đứa thay phiên trả lời:
                    - Dạ không ai bày đầu hết! Con chị nói.

                    - Dạ không có ai - Con em nói.
                    Bà mẹ hỏi:
                    - Vậy sao có đồ lạ trong nhà?
                    Con em run rẩy trả lời:
                    - Dạ mấy người đó cho.

                    - Người nào? Con Vy im đi để chị trả lời! Bà mẹ nói lớn.
                    Con chị thưa rành rọt:
                    - Dạ ông lính Việt với hai ông lính Mỹ.
                    - Mấy ông đó ở đâu?

                    - Mấy ổng ở cái nhà lầu trên đường Phan Chu Trinh.

                    - Vậy hai đứa có xin phép ai chưa mà lấy đồ của người ta?

                    - Dạ chưa! - Vừa dứt câu con chị xoa mông vì cái roi mãng cầu quật xuống.
                    Mẹ nó với người vào phía nó, vừa quất roi vừa nói:
                    - Chưa có ai cho phép tại sao nhận đồ của người lạ đem về?

                    Con chị mếu máo:
                    - Con không biết!
                    Bà mẹ la to:
                    - Dang cái tay ra chứ tao đánh gãy tay bây giờ!
                    Nói xong bà quất cho nó thêm một cái trên mông. Con chị bị đau vừa ấm ức, thút tha thít thít khóc trên mặt gối. Nó ấm ức vì mẹ nó chỉ căn dặn đừng bao giờ ăn cắp hay lục lọi đồ của người khác chứ chưa bao giờ mẹ nó căn dặn là đừng lấy đồ của ai cho. Con em hoảng sợ vì tiếng roi và tiếng khóc của chị nó nên không biết trả lời như thế nào cho ổn với câu hỏi của mẹ:
                    - Cái áo đầm này của ai cho?
                    - Dạ… dạ của ông kia!
                    - Ông kia là ông nào?
                    Nó nói như cà lăm

                    - Dạ… ông kia… ông kia là… là ông kia.
                    - Ông kia đó cũng là ông Mỹ phải không?
                    - Dạ!
                    Tiếng dạ vừa dứt nó lãnh trọn một roi quất trên mông. Hốt hoảng nó khóc oà lên. May cho nó là cái áo đầm ren phồng hai tầng dày nên nó không thấy đau đớn nhiều như tưởng tượng nhưng vì quá sợ nên nó khóc toáng lên một lúc rồi rên i ỉ để hoà theo tiếng khóc rưng rức của con chị.
                    Mặc kệ những tiếng rên khóc của hai đứa con, bà mẹ không ngừng giải thích cho chúng nghe những điều phải điều trái:

                    - Bất cứ ông nào bà nào cho đồ mà không được phép là không được lấy, nghe chưa! Đi học là đi thẳng đến trường, không được ngó Đông, ngó Tây chực xin đồ, nghe chưa!… Mấy ngày nay, tao nghe ngoài chợ nói cái chuyện con nít như tụi bây đi xin đồ Mỹ, đi chực đồ ăn Mỹ rất nhiều. Tại cha mẹ không biết chứ biết được không ai cho phép tụi bây làm chuyện này cả. Mình là người Việt Nam, có nghèo cũng thủ phận chứ không được xin xỏ đồ của người ngoại quốc, nghe chưa!

                    Hai con nhỏ dạ nhịp khi bà mẹ nhấn mạnh hai chữ nghe chưa chứ không hề biết mẹ nói gì và không nhớ mẹ dặn điều gì. Thỉnh thoảng chúng ngưng bặt những tiếng sụt sùi, và giật thót mình vì những tiếng roi vút chan chát trên chiếu. Con em nằm gần mẹ, sợ bà vô ý quất phải mông nó thay vì ra oai quất trên chiếu nên dạ lia lịa dù chưa nghe hết câu răn dặn. Tiếng dạ lập lại, lập lại liên hồi của con em không đủ sức làm bà mẹ nguôi giận khi thấy cái áo đầm mới. Bà phát cho nó thêm một roi trên mông.
                    - Đứng dậy hết! Còn con Vy cởi áo này ra rồi tới đây!
                    Con em vừa khóc vừa lồm cồm bò dậy. Lần này nó khóc to hơn lúc đầu, nhưng có lẽ chẳng phải vì đau mà tiếc bởi sắp bị mất cái áo đẹp. Con chị cũng lồm cồm nhỏm người bước ra khỏi giường. Khoanh tay đứng trước mặt mẹ và chờ em thay áo, nó thấy thương con em làm sao! Con em tội nghiệp chẳng khác gì con Tấm trong truyện cổ tích, mới được cái áo đẹp của cô tiên ban cho lại bị con Cám lấy trộm.
                    Như bà tiên nghiêm khắc, bà mẹ nhìn thẳng vào mặt hai đứa và hỏi một cách trang nghiêm:
                    - Bây giờ hai đứa nói làm sao? Con Hạ nói trước!
                    Con chị nhớ thuộc lòng câu mẹ dạy khi bị đòn roi nên nó nói làu làu như trả bài:
                    - Dạ thưa má, lần sau con không dám…- Nó ngưng nói để không thốt ra chữ “xin” khi nhớ chắc là những món đồ nhận do những người lính Mỹ tự ý cho chứ không phải vì nó xin họ, rồi lập lại câu nói với chữ chính xác hơn - Dạ thưa má, lần sau con không dám "chực" đồ của người Mỹ nữa.

                    Bà mẹ gật đầu, giọng dịu hẳn lại:

                    - Đúng rồi! Nhưng mà không phải là chỉ với người Mỹ thôi đâu, nghe chưa! Không được chực bất cứ cái gì của ai! Mình đã nghèo phải giữ thủ phận nghèo; không được tò mò, không được táy máy, không được ăn cắp hay xin xỏ bất cứ đồ gì của ai cả!
                    Con chị cúi đầu thấp hơn:

                    - Dạ thưa má con biết rồi. Con lỡ lần này lần sau con không dám nữa.
                    Bà quay sang con em:
                    - Bây giờ con Vy nói sao?
                    Con em nước mắt, nước mũi hãy còn giàn dụa trên khuôn mặt xanh tái vì sợ. Nó vừa sụt sùi vừa bắt chước lời chị:
                    - Dạ thưa má con không dám lấy áo đầm của người Mỹ nữa.

                    Bà mẹ gằn giọng:
                    - Không phải chỉ có áo đầm thôi đâu nghe chưa! Cái gì cũng không được lấy! Ai cho cái gì cũng không được lấy chứ không phải chỉ có người Mỹ thôi đâu!

                    Con em vừa lau nước mắt, vừa nói:
                    - Dạ con nghe.
                    Bà mẹ hỏi vặn:
                    - Còn đi chực, đi xin nữa không?

                    - Dạ con không dám.
                    Bà mẹ đe:

                    - Nhớ đó! Lần này chỉ có hai roi thôi, lần sau còn tái phạm thì mỗi đứa bị gấp đôi. Bây giờ hai đứa xếp hết mấy thứ đồ này lại đem trả cho người ta đi.

                    Nước mắt con em trào ra. Nó nhìn mẹ van lơn. Bà mẹ không xúc động một chút nào; bà khẳng định lời đã nói:
                    - Hạ giúp em xếp đồ vào bao và dắt em đi trả đồ lại cho người ta đi, rồi về ăn cơm.

                    Hai đứa líu ríu nghe lời mẹ ngồi xuống nền nhà. Chúng xếp áo đầm, đồ hộp và các gói kẹo vào trong hai cái bọc ni lông và cái túi giấy một cách chậm chạp như muốn kéo dài thời gian.
                    Xếp mấy gói đồ xong mà chờ mãi không thấy mẹ thay đổi ý định nên hai con nhỏ đành mang dép, đội mũ, ôm hai cái bọc ni lông và túi giấy đi ra khỏi nhà.
                    Trên đường đi, con em cứ khóc tức ta tức tưởi. Con chị an ủi nó:
                    - Nín đi Vy. Khi nào lớn lên chị kiếm nhiều tiền mua cho Vy áo đẹp.

                    Con em lắc đầu, chùi nước mắt:
                    - Em không muốn áo đẹp của chị! Em muốn hai áo này thôi!
                    Con chị không nói gì. Nó ngẫm nghĩ cách giấu hai cái áo để cho em được mặc đến trường. Nó muốn khoe với lũ bạn là hai ông Mỹ chỉ cho em nó áo đầm thôi và nó cũng muốn cho tụi nhỏ trong trường thấy em nó mặc đẹp chẳng khác chúng. Nó nói:

                    - Mình giấu hai cái áo này nghen Vy!
                    Con em đang khóc, chợt nín bặt. Nó nhìn con chị với đôi mắt hốt hoảng, lắc đầu:

                    - Không dám đâu! Em sợ má đánh.

                    Nghe em nhắc đến mẹ, con chị sợ hãi không kém gì con em. Nó nhớ lại trận đòn và những ngọn roi mãng cầu rồi rùng mình:
                    - Ừ, chị cũng sợ má đánh nữa, thôi mình đi trả hết mấy đồ này cho mấy ông Mỹ đó cho rồi!

                    Đến gốc cây me lớn bên góc đường cạnh một ngã tư, hai đứa đứng lại. Trong khi chờ hết xe trên đường, con chị tinh nghịch nâng cái túi giấy lên cao xốc lấy xốc để. Tiếng lịch kịch bên trong gợi nó nhớ đến gói kẹo chưa được thưởng thức. Thọc tay vào túm gói kẹo lôi ra, nó xé vội lớp ni lông, trao cho em một viên, và lấy một viên khác cho vào miệng mình. Con em được kẹo, vui hẳn lên. Nó xuýt xoa luôn miệng:
                    - Ngon quá chị ơi! Kẹo Mỹ ngon ghê! Nếu mà mình trả lại, không được ăn thì uổng lắm phải không chị?
                    - Ừ! Mùi thơm nó lạ ghê phải không Vy?
                    Con em luyến tiếc nhìn cái túi giấy trong vòng tay ôm của con chị:
                    - Còn kẹo trong bao mình trả cho họ hả?
                    Con chị ngần ngừ:
                    - Cái bao bị xé rồi, trả lại mấy ổng biết mình ăn cho coi!

                    - Chị cất lại để dành được không?

                    - Làm sao được? Chị đâu có cặp đâu mà cất?
                    Con em phụng phịu. Hai đứa đã đi đến con đường lớn Phan Chu Trinh và nó không thể nào ăn hết gói kẹo nhỏ ấy vì đã đến gần cái khu nhà lầu. Nó vừa nhai kẹo rào rạo, vừa thở phì phò tiếc rẻ. Đột nhiên, con chị reo lên.
                    - Chị biết chỗ giấu rồi! Vy ngừng lại đi!

                    Con em dừng chân như chị bảo, đưa mắt hau háu nhìn chị. Con chị lục trong túi giấy, lấy gói kẹo đủ màu ra, túm gọn, rồi vén vạt áo lên, cuộn gói kẹo vào trong lưng thun quần. Con em vui ra mặt, hối chị đi nhanh trả đồ để về nhà với số kẹo còn lại.
                    Hai đứa tới đồn canh gọi người lính gác. Người lính gác nhận mấy gói đồ, cười thông cảm:

                    - Ba má của hai đứa không cho lấy đồ chứ gì? Chú biết mà! Không có ai dạy con đi xin cả!

                    Mặt trời đã đứng bóng. Những con đường chúng đi qua ngập tràn ánh nắng chói chang. Mặc cho sức nóng của buổi trưa hun đúc ra sao hai con nhỏ rộn ràng vui sướng với kế hoạch của chúng. Sóng đôi đi bên nhau, chúng cười nói vui vẻ. Chúng không thiết nhìn những chiếc xe hơi bóng lộn đang lướt qua trên đường cái, cũng không để ý đến những người bộ hành đang ngược xuôi trên lề đường hay dăm ba đứa trẻ đang đùa chơi trên vỉa hè, và chúng cũng không biết rằng có hai bóng người nhỏ bé tung tăng theo chúng đang in hình trên mặt đất. Trong hai bóng người ấy, bóng cao ngòng của con chị với hai ống quần cái cao cái thấp chênh lệch một cách rõ rệt.

                     
                        
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:03:59 bởi Ct.Ly >
                    #10
                      Cung Thi Lan 09.08.2007 16:40:10 (permalink)
                           Chương Chín
                       

                       Những bộ quần áo đẹp, những món quà xinh xắn trong ước mơ và trong trí tưởng tượng của hai chị em con nhỏ dần dần bị lãng quên khi bà mẹ thường hay cho phép chúng đi thăm những khu vườn ăn trái mà bà đã trúng thầu và cần phải thu hoạch. Được đi với mẹ và đi bên nhau là niềm vui quá lớn của hai chị em đến nỗi chúng không còn thiết tha nghĩ đến những vật mà chúng mơ ước có được trong những ngày trước đó.
                       
                      Vào trưa chủ nhật mỗi tuần, hai đứa nhỏ thường được mẹ cho phép đi với bà và mấy người buôn bán chung đến các vườn cây. Những lần như thế, chúng bị dồn ép ngồi sát vào nhau, và bị nhồi xóc trong những chiếc xe lam hay xe ngựa đến các địa điểm như Thành, Thanh Minh, Đại Điền hay Lương Sơn. Trong những chuyến đi như thế, có lúc chúng phải ngồi xe lâu đến hai giờ đồng hồ nhưng có lúc chỉ nửa giờ đã được gọi xuống xe. Khi đến các khu vườn, có lúc chúng được lon ton bên cạnh mẹ nhặt trái, có lúc hai đứa phải chạy khắp nơi trong vườn mới tìm được mẹ, và mấy người đàn bà buôn bán chung với mẹ. Có hôm, chúng phải vào các ngôi nhà nhà lụp xụp trong vườn để chào những chủ nhân trước khi ra các vườn cây, có hôm mẹ chúng dắt chúng đi thẳng ra các vườn cây hái trái mà không cần chào những người chủ vườn.
                       
                      Một hôm, khi chiếc xe lam ngừng trước một khu vườn lớn, và mấy người đàn bà buôn bán trái cây dắt hai đứa nhỏ đi thẳng đến những cây cam, cây quít mà không chào hỏi hay thưa trình chủ vườn gì cả, thì hai đứa nhỏ áy náy lắm.

                      Con chị hỏi:
                      - Sao mình chưa hỏi chủ mà vô vườn người ta hái trái vậy má?
                      Bà mẹ đáp gọn:

                      - Vườn này nhiều trái quá sợ hái không hết để kịp về nữa đó!

                      Con chị chưa hết thắc mắc:
                      - Nhưng mà vườn của người ta, mình phải hỏi họ khi mình vô vườn họ chứ?
                      Dì Chín vừa cười, vừa nói :
                      - Ông bà chủ vườn nhắn má tụi bây với mấy dì lên đây mấy lần rồi mà bữa nay mới rảnh lên để thu hoạch đó. Ông bả nghe tiếng mình ngoài vườn là mừng rồi đó con à!
                      Dì Ba Rỗ vừa leo lên cây, vừa nói:
                      - Cam này chín lắm rồi! Ngày nay và ngày mai mà không hái là nó rụng sạch trơn cho coi. Cam quít mà không cành không cuống ai mua cúng bao giờ.
                       
                      Dì Tư xua hai đứa nhỏ tránh chỗ để bà chuẩn bị đặt mấy cái sọt dưới gốc cây. Hai đứa chỉ nhích xa vài bước nhưng vẫn còn xớ rớ đứng gần mấy cái rổ lớn và bà dì Tư la nhặng xị:
                      - Tụi bây đi kiếm trái gì ăn đi! Đi chơi đi chớ đứng đây làm gì?
                      Con nhỏ em rụt cổ, lắc đầu tỏ ý không dám. Con chị nói ngập ngừng:

                      - Tụi con chưa được chủ vườn cho hái.

                      - Dì Tư nói to:
                      Tao cho tụi bây hái đó! Tao là chủ chứ ai?
                      Con chị lập lại và nói thêm câu nói ban đầu một cách rõ hơn cốt cho bà dì Tư hiểu ý của nó:
                      - Tụi con chưa chào chủ vườn, chưa xin phép chủ vườn, chưa được má cho phép, tụi con không dám hái trái!

                      Dì Tư la làng:
                      - Trời ơi! chị Năm làm ơn cho mấy đứa nhỏ đi hái trái ăn đi. Tụi nó đứng đây chộn rộn quá hà!
                      Dì Chín chuyền cái giỏ cho dì Ba Rỗ bỏ cam vào vừa giải thích :
                      - Bây giờ mình làm chủ rồi con à. Má và mấy dì hùn vốn mua đứt toàn bộ cây trái trong vườn rồi. Mình đã giao tiền cho chủ vườn từ lúc cây vừa ra bông kia.
                      - Vậy là má và mấy dì "làm" chủ vườn rồi hở? - Con chị reo lên sung sướng - Của má là của tụi con! Vậy là tụi con được hái bất cứ trái cây nào trong vườn này phải không má?
                      Bà mẹ cười, gật đầu:

                      - Ừ, được! Các con thích trái nào cứ việc hái ăn, khỏi cần hỏi nhưng cũng phải xin phép với mấy dì bởi vì má hùn vốn với mấy dì!
                      Dì Chín biểu lộ vẻ dễ dãi:
                      - Tội quá đi chị Năm à! Bụng hai đứa nhỏ bao nhiêu mà chị cấm tụi nó ăn chứ! Mấy đứa muốn ăn cam quít gì cứ lấy mà ăn. Miễn là lấy mấy trái không cành, không cuống là được.

                      Dì Chín nói thêm:
                      - Tao có đem theo cái dao để cắt thử coi cây nào có trái ngọt, trái chua. Mấy đứa muốn trái nào nói dì cắt cho ăn thử.

                      Bà mẹ nói:
                      - Các chị cứ nói vậy cho tụi nó "lận đận". Tụi nó đi theo mình cũng là để phụ giúp sắp trái bỏ vào sọt chứ không phải đi chơi và ăn trái không đâu.

                      Dì Tư chen vào:
                      - Đừng có ngại chị Năm à! Để cho tụi nó muốn đi đâu thì đi, hái trái nào thì hái, ăn trái nào thì ăn. Đến chiều trước khi về gọi tụi nó về là được rồi! Được dịp thì cho tụi nhỏ đi chơi vườn cho thoả thích chứ tụi em không nghĩ chuyện bắt chúng làm cho mình đâu.
                      Bà mẹ gật đầu, biết ơn.

                      - Nói vậy thì tui cảm ơn mấy chị em lắm.
                      Hai đứa nghe như thế thì vui mừng vô cùng. Chúng cảm ơn mẹ và mấy người dì bán chung với mẹ rối rít trước khi bàn tính chuyện đi hướng nào trước, hướng nào sau.
                      Nghe tiếng vịt quàng quạc phía vườn trong, con chị chỉ em đi về hướng ấy:

                      - Đi tới đó chỗ đó với chị đi Vy! Chỗ đó có vịt, mình đi xem sao!
                      Bà mẹ đang dùng sào bẻ trái, nghe vậy, ngưng lại nhắc con:
                      - Trong đó có ao nước! Coi chừng đó!

                      Dì Ba Rỗ trấn an:
                      - Cái ao cá trong đó có rào, tụi nó không đến gần nước được đâu.

                      Không nghe mẹ cản, hai đứa nhỏ hướng sâu vào phía trong vườn cho đến lúc tiếng nói của những người đàn bà nhỏ dần và át hẳn sau lưng.
                      Đi chầm chầm giữa những hàng cây đầy trái của khu vườn vắng vẻ, hai con nhỏ thấy thanh thản và tự do lắm. Trên cao, cành lá lao xao theo những làn gió như hoà âm với tiếng hót rộn ràng của những con chim. Con chỉ ngước mắt nhìn xung quanh, không quyết định được sẽ hái loại trái cây nào trước, trái cây nào sau. Con em lúc đi nhanh, lúc nhảy lò cò trên nền đất thịt, nó luôn miệng liếng thoắng:

                      - Chị Hạ ơi, ổi nhiều quá! Leo lên hái cho em đi!

                      Chiều em, con chị leo lên cây, vít cành bẻ nhánh rồi đưa cho con em một cành ổi cả cành lẫn lá. Hai đứa vừa đi, vừa nhai đi nhóp nhép và tiếp tục dò dẫm để khám phá được những trái mới lạ.

                      Đi được một quãng, con em chợt reo lên:
                      - Cây ổi này có trái to hơn cây hồi nãy! Chị Hạ hái nữa cho em để dành về nhà ăn!

                      Con chị lắc đầu không chịu. Nó đi thẳng tới cây chùm ruột thưa cành nhưng chi chít trái rồi thoăn thoắt trèo lên với tay bứt một chùm thật to, đầy trái vàng ửng.
                      - Vy lấy mũ hứng cho trúng nghe! - Nó bảo.
                      Con em hai tay giữ chặt cái mũ lật ngược, ngước mặt lên chờ, nhưng vụng về, không đón được khi chị nó quẳng chùm trái xuống. Chùm chùm ruột rơi bộp xuống đất, trái văng tung tóe làm con nhỏ em phải lom khom cúi nhặt từng trái vương vãi trên mặt đất. Xong, lấy một trái cắn thử, con em nhăn mặt:

                      - Chua quá chị à!
                      Con chị nhảy khỏi cây, lấy một trái đưa lên miệng:
                      - Chua thật! Chùm ruột gì kỳ, thấy vàng ươm, mọng nước mà lại chua!
                      - Cây chùm ruột đó là chùm ruột chua mà! Muốn có chùm ruột ngọt phải đến cái ao cá kìa! - Một tiếng nói xa lạ vang lên.
                      Hai đứa nhỏ quay người ra sau. Một người đàn bà thấp gầy, đầu đội chiếc nón lá sờn vành, miệng chóp chép nhai trầu, đang nhìn chúng chăm chú. Ngượng nghịu xen lẫn sợ hãi vì bị bắt quả tang, mặt con chị xanh lè xanh lét, thân mình tưởng chừng sắp quỵ xuống. Lấy hết can đảm, nó vòng tay, cúi đầu chào bà ta với giọng nói lí nhí:
                      - Dạ… con chào dì.
                      Con em bắt chước chị:
                      - Dạ con chào dì.
                      Người đàn bà, miệng đỏ bởi nước trầu nhai, cười hiền hậu:

                      - Hai đứa là con cái nhà ai? Đến đây làm gì?
                      Con chị bớt run, lễ phép trả lời:
                      - Dạ tụi con là con của bà Năm. Con nghe mấy dì và má con nói con là hái trái trong vườn được nên con mới hái!
                      - Má con và các dì chỉ mua cam, quít, bưởi, sa bô chê và mãng cầu thôi mà!
                      Khuôn mặt của con chị đỏ rần, tay chân nó lại run run, nó hỏi trong ngập ngừng:

                      - Dạ… nói vậy má con không mua cây chùm ruột này hả?
                      Người đàn bà phụt nước trầu gần một bụi cây dại, đưa tay áo lên chùi mép, nói:
                      - Không, chỉ mua cam, quít và bưởi thôi… nhưng mà đã vào vườn thì con muốn ăn gì, cứ hái.
                      Con chị lấy lại bình tĩnh:
                      - Con chỉ ăn thử thôi chứ không thích lắm.

                      Bà chủ vườn gật đầu thông cảm:

                      - Chua quá nên con không thích ăn chứ gì?
                      - Dạ phải.
                      Bà chủ vườn vừa nhai trầu chành chạch vừa giảng giải:
                      - Đi vườn phải biết lựa chọn cây trái mới ăn thấy ngon. Nếu tụi bây ăn trái ngọt trước trái chua sau thì sẽ thấy trái chua, chua hơn. Tỉ dụ như ăn mãng cầu hay sa bô chê ngọt rồi ăn chùm ruột chua thì thấy nó chua nhiều hơn. Vô vườn của dì Bảy thì tìm trái chua như chùm ruột, bưởi, khế ăn trước, rồi mới ăn trái ngọt như sa bô chê, nhãn, chuối, mãng cầu, đu đủ sau.

                      Con chị thưa:
                      - Dạ tụi con chưa hái trái gì nhiều, chỉ có ổi và chùm ruột này thôi.
                      - Vậy bây giờ thích thứ nào thì hái thứ nấy! Dì cho phép đó. Tìm trái chín mà hái ăn chứ không được hái bừa hái bãi, vừa ăn vừa bỏ, tiếc lắm, tội lắm!

                      Hai đứa nhỏ nghe vậy thì lắc đầu nguầy nguậy. Chúng vẫn còn ngại khi cành ổi vừa trái, vừa lá vẫn còn trong chiếc mũ trên tay. Bà chủ vườn đề nghị:

                      - Vậy chớ hai đứa thích ăn chùm ruột ngọt không? Dì Bảy có cây chùm ruột ngọt đặc biệt lắm nhưng phải đi đến cái ao cá gần nhà dì Bảy kìa.
                      Con chị nghe thế thì háo hức lắm. Nó hỏi:
                      - Chỗ đó có xa không dì?
                      - Không xa đâu! Qua chỗ trồng mãng cầu và sa bô chê kia là tới ngay.
                      Con em rối rít:
                      - Cho con đi với dì! Con chưa bao giờ được ăn chùm ruột ngọt.
                      Người đàn bà đi trước dẫn đường, hai đứa nhí nha nhí nhảnh theo sau. Bà vừa đi, vừa nói:

                      - Dì cho hai đứa bây hái hết cây chùm ruột ngọt đem về tha hồ thả sức mà ăn. Dì chỉ quý mấy cây chùm ruột chua của dì thôi bởi vì chùm ruột chua mới làm mứt được còn chùm ruột ngọt chỉ ăn sống ngon thôi chứ làm mứt không được.

                      Cây cối trong vườn được trồng rất ngay hàng thẳng lối. Mấy dì cháu men theo những gốc cam quít sum suê đầy trái, rồi qua những hàng cây sa bô chê cao chỉ đến ngang đầu con chị. Làn nắng vàng óng ả đậu trên những tán lá xanh mượt như muốn làm rõ những trái nâu tròn đang ẩn bên dưới. Cuối khu đất trống là chỗ trồng rau nơi gần ao thả cá. Ao cá hình vuông được bao bọc bằng hàng rào cây chằng ngang bởi dây kẽm, trông duyên dáng do những dây leo dại có bông tim tím mà chẳng đứa nào trong hai chị em biết rõ tên. Ngoài hàng rào kẽm, lác đác mấy cây đu đủ sai trái, trái lớn trái nhỏ, trái ươm vàng lẫn trái xanh non; vài luống rau thơm đủ loại đang thoang thoảng toả hương; và đơn độc một cây chùm ruột vươn cành che mát cho cái chuồng vịt. Người đàn bà chỉ cây chùm ruột, nói với con chị:
                      - Cây chùm ruột này là chùm ruột ngọt đó. Con đứng trên cái đống gỗ cạnh cái chuồng vịt này với mấy cái cành đó tha hồ mà hái trái.
                      Thấy hai con nhỏ vẫn còn đang tần ngần, bà giục:
                      - Lên đó hái đi. Hái bao nhiêu thì hái, mà tu?t hết cây cũng được! Để dì vô nhà kiếm mấy cái bịch cho tụi bây đựng.

                      Bà gỡ cái nón lá trao cho con em, căn dặn thêm:
                      - Lấy cái nón của dì hứng cho dễ. Cái nón vải của tụi bây nhỏ xíu không hứng được đâu. Nhưng phải cẩn thận nghe! Cành chùm ruột dòn lắm, khi kéo cành có thể gãy đó!

                      Nói xong, bà đi về hướng căn nhà gỗ có mái tôn thấp ở triền dốc phía bên kia của bờ ao.
                      Con em ngước lên nhìn mấy cành chùm ruột chỉa về phía cái chuồng vịt, nói:
                      - Cho em leo lên mấy cái miếng gỗ này hái chùm ruột nghe chị Hạ.
                      Con chị bước lên đống gỗ, bảo em:

                      - Leo lên đi, chị kéo cành xuống cho Vy bứt!
                      Con em nghe chị, leo lên đống gỗ bứt lấy bứt để những chùm ruột bỏ vào trong chiếc mũ của nó và hai túi áo bên hông.
                      Con chị nhai chùm ruột, nói:
                      - Chùm ruột ngọt nhưng chát lắm Vy à!
                      Con em bỏ vào miệng một trái, nói:
                      - Chát nhưng mà ngọt và ngon lắm chứ bộ. Em sẽ hái hết trái của cây chùm ruột này đem về cho bạn của em.

                      - Cho đứa nào?
                      - Cho mấy đứa trong lớp em như con Bê nè, con Hương nè, con Hoa nè và con Hồng chị của con Hoa nữa.
                      - Cho để “dụ nai” tụi nó chứ gi?

                      - "Dụ nai" cái gì?
                      - "Dụ nai" để xin được đồ ăn đó!
                      - Em đâu có “dụ nai” tụi nó lần nào đâu?

                      - Có chứ sao không! Chị thấy rõ ràng là Vy hay "dụ nai" bạn Vy để được ăn đồ ăn của tụi nó!

                      Con nhỏ em chớp mắt như muốn khóc:
                      - Lần nào?
                      - Nhiều lần lắm. Trong giờ chơi đó! Mỗi lần chị ở trên hiên sau nhìn xuống sân là chị thấy Vy xin đồ ăn của bạn Vy à. Có khi chị thấy bạn Vy chìa cho Vy mút kem, rồi Vy và con đó mút qua mút lại. Có khi chị thấy Vy đi theo sau cái con nào có đồ ăn gì đó trên tay và Vy nói cái gì đó với nó mà chị không biết nhưng chị chắc chắn là Vy xin đồ ăn của con nhỏ đó!

                      Con em nhảy khỏi đống gỗ, ngồi dưới gốc cây chùm ruột, mặt dàu dàu, thú nhận:
                      - Con Hạnh đó! Nó có bánh cam. Lúc đó em chỉ hỏi xin nó ăn. Em hỏi xin chứ không có "dụ nai".
                      Con chị nói:
                      - Hỏi xin là dụ nai đó Vy!

                      Con em cãi:
                      - "Dụ nai" là gạt người ta. Nói láo để người ta cho mình ăn. Em xin tụi nó không cho thì thôi chứ đâu có gạt ai đâu! Em chỉ sợ má đánh tội xin ăn thôi chứ em không có tội “dụ nai”.

                      Con chị trấn an:
                      - Chị biết lâu rồi mà chị đâu có méc má! Chị đâu có muốn má đánh Vy cái tội xin ăn.

                      Thấy em không trả lời, con chị nói thêm:
                      - Nhưng mà chị không thích thấy cảnh Vy xin bạn Vy đồ ăn đâu! - Nó nghĩ một lúc để nhớ mấy chữ mẹ dặn rồi tiếp tục dạy đời con em - Mình nghèo thì mình "thủ phận" đừng để tụi trong trường cười chị em mình, cười má mình!
                      Con em không nói không rằng. Nó móc chùm ruột trong hai túi áo ra bỏ vào trong cái nón lá của bà chủ vườn, rồi lựa những trái ngon nhất để bỏ lại trong túi áo. Con chị khệ nệ túm đống chùm ruột trong vạt áo trước bụng, bước xuống đến chỗ em ngồi:

                      - Vy cho bạn Vy mấy trái đó hả?

                      Con em không trả lời, hỏi lại chị:
                      - Chị lấy hết đống chùm ruột đó cho bạn chị hả?

                      - Không.
                      Con em ngước đầu lên, tròn mắt ngạc nhiên nhìn chị:
                      - Vậy chị cho ai?
                      - Chị để dành cho Vy. Khi nào Vy không có gì ăn, chị sẽ cho Vy ăn.

                      - Chị không có bạn sao?
                      - Chị có bạn chứ, nhưng chị không có bạn thân để cho.

                      Đăm chiêu nhớ lại câu nói của mấy đứa bạn trong lớp "Xúp mày ra!", "Xúp mày ra! Không cho mày chơi chung với tụi tao!" "Đừng cho nó chơi với bọn mình!", nó nói tiếp:
                      - Mấy đứa bạn trong lớp chị toàn là những đứa con nhà giàu và hách dịch lắm, cho làm gì! Tụi nó có thèm mấy trái chùm ruột này đâu mà cho!
                      Con em khư khư cái ý định của nó:

                      - Bạn em thích chùm ruột này chớ! Em cho bạn em!
                       
                      Con chị không nói gì thêm. Nó ngồi bên em, nhai chùm ruột và nhìn những con vịt lang thang trên bờ ao. Những con vịt dạn dĩ lạch bạch lên đến tận lưới thép, ngóng thức ăn. Thấy bóng chủ trên lối ngang bờ ao chúng thi nhau kêu cạp cạp. Con em đến sát hàng rào kẽm quẳng cho chúng vài trái chùm ruột, nhại theo tiếng kêu cạp cạp cạp. Mái tóc bù xù và dáng đứng thâm thấp phía sau lưng của nó làm con chị cười khanh khách. Con chị lẩm bẩm bài hát mới được học trong lớp: “Một đàn vịt bơi dưới ao hồ. Thằng bờm xờm vác que đòi đánh. A a a nó kêu quác qua quác qua. Chạy xao xác tan tành"
                      Bà chủ vườn trở lại, trao cho hai đứa hai cái bọc ni lông lưng lửng trái bên trong:
                      - Hai đứa bỏ chùm ruột vào trong hai cái bao này đi. Dì có cho thêm mấy trái lựu, và mãng cầu ở trỏng. Về nhà ăn thử coi trái cây ở vườn dì Bảy Lương Sơn có ngon không?
                      Con em vui vẻ nhận cái bọc ni lông, cảm ơn rối rít. Con chị hỏi bà:
                      - Chỗ này là Lương Sơn hả dì?
                      - Ừ! - Bà giục hai đứa - Thôi hai đứa bỏ mấy trái chùm ruột vô hai cái bao này đại đi mà ra với mấy dì với má tụi bây ngoài đó. Chiều tối như vầy chắc mấy bả chuyển mấy cái sọt trái cây lên xe lam để chuẩn bị về rồi đó!
                       

                      Trên đường về, chiếc xe lam chật ém bởi những chiếc sọt trái cây xếp chồng lệch lên nhau. Hai chị em con nhỏ với hai cái bọc "gia tài" trái cây trước bụng, lặng yên nghe mấy người đàn bà trò chuyện:
                      - Tụi mình lời cái vườn này bộn.
                      - Chưa bán sao chị biết được?

                      - Tính đi! Tính rợ cũng biết là lời rồi chứ còn gì nữa!
                      - Ừ, đúng đó chị! Thấy ít hoa tưởng trái đậu không được nhiều ai ngờ sai quá cỡ vậy.

                      - Mình còn phải trở lại hái hai lần nữa mới hết!
                      - Chắc bà Bảy cũng không ngờ đâu! Bán xong đợt trái cây này, chia tiền lời xong, chị em tụi mình hùn tiền mua bánh tráng, đường vàng cúng ông địa nghe!
                       

                      Những tia nắng chiều vàng vọt, nhạt nhoà trên những tán lá cây. Khu vườn Lương Sơn từ từ lùi dần về sau khi chiếc xe lam chuyển bánh nặng nề và chậm chạp hướng về thành phố biển Nha Trang. Những người trên xe lam đều nôn nóng mong được trở về nhà trước khi trời sập tối.
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:06:05 bởi Ct.Ly >
                      #11
                        Cung Thi Lan 09.08.2007 16:57:59 (permalink)
                             Chương Mười 
                         

                           Con chị không hề thích ăn cục đường vàng hay bánh tráng phồng nào mà má nó và mấy người đàn bà buôn bán cúng ông địa nhưng nó rất thích thú với cảnh họ tất bật sửa soạn hoa quả, bánh phồng và đường tán cúng ông. Mỗi lần mấy người đàn bà cúng ông địa và đề cập đến chữ lời, nó mơ hồ nghĩ rằng vốn của mẹ nó đã tăng lên nhiều hơn trước và định bụng một ngày nào sẽ xin mẹ tiền mua cho một con búp bê. Nó mừng thầm khi nghĩ đến một con búp bê biết nhắm mắt, mở mắt. Nếu bà mẹ chỉ cho hai chị em chúng một con búp bê thôi cũng đủ cho hai đứa vui vẻ chia phiên hay chơi chung với con búp bê ấy. Hai đứa sẽ chơi trò chơi gia đình, trò chơi nấu đồ ăn, trò chơi đi chợ, trò chơi dạy học, trò chơi may đồ, và thay đồ cho em bé. Nó ấp ủ mãi ước mơ thầm kín cho đến ngày mẹ nó hái hết các vườn cây thầu bán trước Tết âm lịch.

                         
                        Hôm ấy, đường đi đến vườn cây dường như xa lắm nên những người đàn bà buôn bán ngồi tựa vào nhau, nhắm mắt, ngủ gà ngủ gật trên hai hàng ghế sau của chiếc xe lam. Được đi thăm vườn, hai con nhỏ quên cả nỗi mệt nhọc khi phải ngồi chen chúc trong xe trên đường xa. Chúng say mê nhìn cảnh vật thanh bình của đồng quê qua vai những người đàn bà ngồi đối diện. Nhìn chán, con chị tưởng tượng trong tay có một con búp bê cùng những trò chơi với con em. Mộng mơ với những ảo giác trong yên lặng một lúc, nó kê miệng, nói thì thầm bên tai em:
                        - Nếu chị em mình có một con búp bê, Vy đặt tên nó là gì?
                        Con em hỏi lớn:
                        - Búp bê đâu hả chị? Có búp bê đâu?
                         

                        Mấy người đàn bà đang thiu thiu ngủ, nghe tiếng hỏi, giật mình mở mắt dáo dác nhìn quanh trên ghế dưới sàn:
                        - Búp bế nào? Có con búp bế nào đâu? Búp bế của ai vậy?
                         
                        Con chị xụ mặt, quay đầu nhìn ra phía sau. Sau lưng nó là ô khung cửa xe lam với những cây vườn, cánh đồng, đường đất, và bờ cỏ. Tất cả lần lượt hiện ra rồi thay đổi, vụt trôi mất ra sau như phim hình trong cái ti vi tại phòng khách bác Cả mà thỉnh thoảng buổi tối hai chị em chúng ngồi với bà mẹ ở góc cửa ra vào, trên hiên hành lang của ngôi nhà lớn nhìn vào coi ké. Không nghe chị trả lời, con em biết chị giận, không dám hỏi thêm cũng không dám nói năng gì.
                         
                        Mấy người đàn bà trở nên tỉnh táo; họ không gạn hỏi hai đứa nhỏ về chuyện con búp bê nào đó nữa mà giục tài xế chạy nhanh hơn. Chiếc xe lam chạy bon bon trên đường quốc l thêm một quãng rồi rẽ nhanh vào con đường đất hẹp. Xuyên qua các khu vườn rng, nó ì à ì ạch dằn xóc trên đoạn đường đá sỏi và nhiều ổ gà rồi dừng lại trước một cánh cổng khép hờ, hai bên trồng bông giấy hai sắc tim tím và hồng nhạt. Mọi người chưa kịp xuống xe, người chủ vườn tất tả từ trong nhà chạy ra thất thanh kêu:
                        - Thôi chết rồi mấy chị ơi! Cam quít bưởi bồng trái nào trái nấy rụng sạch trơn hết rồi!
                        Dì Tư ngồi ghế trước cạnh tài xế nhảy vội khỏi xe, cũng hỏi, la bai bải:
                        - Sao vậy chị Năm? Tui mới lên thăm vườn cách đây mấy bữa mà!
                        Mấy người đàn bà lần lượt bước xuống xe, vây quanh bà chủ vườn:
                        - Cam quít bị sao? Bị rầy ăn hả?
                        - Cái gì xảy ra vậy chị Năm?
                        - Chỉ nói cam quít rụng hết!
                        - Rụng hết? Làm sao rụng hết được? Chị nói thật hay nói chơi vậy chị Năm?

                        Bà chủ vườn nhăn nhó:
                        - Trời đất ơi! Chuyện buôn bán mà tui nói chơi làm gì! Tui nôn nóng chờ mấy chị lên gần chết! Mấy chị theo tôi ra vườn mà coi! Không còn một trái nào trên cành nữa.
                         
                        Chưa kịp dặn dò tài xế điều gì, đám đàn bà hớt ha hớt hải đổ xô theo bà chủ. Không chờ ai ra lệnh hay sai bảo phải làm gì, cả hai chị em con nhỏ lật đật chạy theo họ. Giữa những hàng cây đầy lá vàng, lá đỏ lá cam xen lẫn, mọi người dẫn lên lá khô lào xào dưới chân tưởng chừng như tất cả đang đi trong rừng thu. Những người đàn bà bán trái cây ở chợ Đầm tản mác quanh vườn. Họ ngơ ngơ, ngác ngác nhìn hết cành cây này đến ngọn cây khác như bị mê hoặc. Hai con nhỏ kinh ngạc chẳng khác gì. Chúng há hốc miệng ra ngẩn ngơ nhìn vườn cây lác đác những lá vàng, lá đỏ xen lẫn những lá nâu xanh trên cành.
                         
                        Rải rác xung quanh vườn một lúc, những người đàn bà bán trái cây ở chợ Đầm nhóm nhau lại than van kêu trời, kêu đất. Dì Chín có tiếng là người điềm đạm nhất bấy giờ lại là người tỏ ra mất bình tĩnh nhất:
                        - Chưa bao giờ tui thấy cái cảnh lá cây cháy úa như vầy! Nắng quá cây chết, lá vàng, trái rụng chứ gì đâu! Ba thứ chút chút toòng teng kia mà được gì nữa chớ!
                        Dì Ba Rỗ đạp mạnh chân trên đám lá:

                        - Kiểu này chết thật rồi!
                        Bà mẹ hai đứa nhỏ vò đầu bứt tai:

                        - Gần đến ngày tư, ngày tết rồi mà khiến cho tụi con gặp chuyện như vầy sao trời?
                        Dì Tư rên rỉ, nói như khóc:
                        - Trời ơi! Sao mà kỳ dữ vậy? Tui mới đi thăm vườn tuần trước, vườn cây đầy lá xanh và cành trái xum xuê mà! Chị có tưới nước gì bậy không?
                        Bà chủ vườn nói với giọng giận dữ:
                        - Chị nghĩ sao mà nói tui tưới hết cái khu vườn lớn như vầy? Cam quít mọc lớn chừng này rồi, mọc gì thì mọc chứ ai mà tưới nước làm gì chứ!
                        Dứt lời, bà kéo tay dì Tư đi hướng về phía căn nhà có mái ngói đỏ bên hàng cây cau:
                        - Đi! Chị đi vô nhà tui mà coi. Lũ khủ, chút chút cũng rụng đầy. Tự dưng mà nó rụng hết vườn cây như là bị ếm tà vậy đó!
                        Mấy người đàn bà còn lại tất ta, tất tưởi đi theo bà chủ nhà và dì Tư hướng về căn nhà ba gian với mái ngói đỏ rồi khựng lại trước ngưỡng cửa, mặt nguệch ra trân trân nhìn một đống cam quít chất đầy trên nền xi măng. Cả hai đứa nhỏ kinh ngạc không kém khi chúng đứng chen vào giữa đám đàn bà. Một đống trái tròn nhỏ, tròn lớn, vàng vàng, đỏ đỏ như những trái banh nhựa nhiều màu nhiều kích cỡ.
                        Dì Ba Rỗ hớt hãi bước đến đống cam, cúi xuống nhặt vi một trái cam vàng úa bóp nắn rồi vừa chép miệng vừa than van liên hồi:
                        - Cam gì mà vàng úa như cam ủng vậy trời! Cam bán tết mà không cuống không lá như vầy ai mua cúng giùm cho mình chứ?
                        Dì Tư cũng ào vào đống cam, hết bốc trái này lên, bỏ trái khác xuống, miệng la bải hải:
                        - Trời đất ơi là trời! Lạ gì mà lạ dữ vậy trời! Mới tuần trước cam còn cành còn cuống giờ trụi lụi như cam thúi, cam héo vầy thì bán cho ai đây trời!

                        - Cả một vườn như vầy mới chết chứ! Dì Chín thở dài.
                        Bà chủ vườn:
                        - Tui đã nói là nó rụng một đêm thôi là hết nửa vườn rồi. Tui với mấy đứa con tui lượm cả mấy buổi trời mệt bở hơi tai! Lớp lá, lớp trái, dọn bắt chết vậy đó!

                        Bà mẹ hai con nhỏ ngồi bệt bên đống cam, bóp bóp, nắn nắn vài ba trái vàng, trái cam, trái đỏ rồi than van:

                        - Tết nhứt kiểu này thì khổ cả đám! Cam như vầy mà ai mua bày biện cúng kiến cho?
                        Chợt nhớ ra điều gì, bà thảy mấy trái cam vào cái đống banh vàng khè và đỏ au, đứng phắt dậy hốt hoảng:

                        - Thôi chết rồi chị Tư ơi! Mình phải qua vườn bà Mười Đại Điền xem sao.
                        Dì Tư trấn an:
                        - Vườn nào ra vườn đó chứ! Đâu có phải ở đâu cũng như vậy đâu. Tại làm sao chứ lý nào.
                        Bà chủ nhà thả mình ngồi trên tấm phản, với cây quạt giấy quạt phành phạch, cất giọng bất bình:
                        - Chị nói làm sao là làm sao? Bao nhiêu năm tui buôn bán với chị thể nào mà chị nói vậy?
                        Dì Chín giảng hoà:
                        - Thôi chuyện đâu còn có đó. Mình cứ qua nhà bà Mười Đại Điền xem sao đã!
                        Mọi người hướng ra cửa. Bà chủ nhà quẳng cái quạt giấy trên chiếc phản, đứng lên:
                        - Tui cũng đi theo mấy chị nữa. Mười kia Đại Điền thì Năm này cũng Năm Đại Điền chứ mấy thứ. Để tui đi theo mấy chị coi thử vườn người ta ra sao cho biết.

                        Chiếc xe lam chở đám người đàn bà ồn ào đến vườn bà Mười Đại Điền. Họ không gọi chủ vườn mà hướng thẳng về phía căn nhà vách đất lợp tôn xiêu vẹo. Bà chủ vườn không có ở trước sân, cũng không ở trong nhà nhưng một đống cam bưởi màu cam, vàng, và đỏ ở một góc nhà như thay cho người vắng mặt trả lời phần nào thắc mắc của những người đàn bà thầu vườn của bà.
                        Mặc cho mọi người đứng ngẩn ngơ, tiếc của và thất vọng, bà Năm Đại Điền đến cái bàn cạnh cửa sổ kéo ghế ngồi chồm hổm. Bà móc trầu cau trong túi áo ra vừa nhai vừa phân bua:
                        - Tui đã nói là năm nay thời tiết thất thường không sao hiểu nổi mà các chị không tin tui!
                        Dì Tư vò trán, lắc đầu ngầy nguậy không trả lời, bà ngồi xuống đối diện bà Năm, lấy ly rót trà. Dì Chín, dì Ba Rỗ, bà mẹ hai đứa nhỏ, và hai đứa nhỏ bu lại đống cam vàng xỉn rờ rẫm một lúc rồi nối đuôi đi thẳng ra ngoài cái cửa sau để ra vườn tìm bà Mười Đại Điền.

                        Dì Ba Rỗ kêu ơi ới:
                        - Chị Mười ơi! Chị Mười ơi!
                        Không một tiếng đáp lại. Những con chó từ các khu vườn bên thấy bóng dáng người lạ lồng lộn sủa ầm ĩ, làm lũ chim đang đậu trên các cành xơ xác lá hốt hoảng kêu lên, vươn cánh bay khỏi vườn.
                        Dì Chín tiếp dì Ba Rỗ gọi bà Mười "Chị Mười ơi! Chị Mười ơi!" Như lần đầu, chỉ vọng đến tiếng sủa ăng ẳng của mấy con chó từ các khu vườn cạnh và tiếng kêu thảng thốt của những con chim.
                        Mọi người chán nản quay vào nhà bà Mười. Hai con nhỏ lầm lũi, im lặng đi theo họ. Chúng không hó hé lấy một lời từ lúc bước ra khỏi xe lam đến nhà bà Năm và chứng kiến sự lạ dường như hết sức nghiêm trọng. Con em rất muốn hỏi chị nhiều điều nhưng sợ chị còn đang giận nó nên không dám. Con chị thì im lặng, không phải đã hết giận con em nhưng vì nỗi âu lo của mẹ nó và mấy người dì buôn bán chung với mẹ nó càng lúc càng lan dần, lan dần sang nó. Nét mặt, lời nói, và cử chỉ hốt hoảng khác thường của mọi người, nó hồ nghi chuyện không ổn này sẽ ảnh hưởng đến việc buôn bán của mẹ nó và những người hùn vốn với bà.
                        Chăm chú nhìn từng người trong nhà, hai đứa lắng nghe lời đối thoại của họ.

                        Bà Năm vừa nhai trầu bỏm bẻm vừa nói:
                        - Mấy chị lo lấy sọt hốt cái đống cam này đi rồi sang vườn tui dọn luôn thể cho tiện.

                        Dì Chín thở dài:
                        - Để tụi tui chờ chị Mười về nói chuyện sao đã chứ!
                        Bà Năm nói:
                        - Còn nói chuyện gì nữa? Mấy lần trước lên vườn, nếu không có ai thì chị cũng hái cam, chất cam rồi chở về tỉnh bơ vậy?
                        - Sao chị so bì với mấy lần trước được?- Dì Tư lên cao giọng- Mấy lần trước tụi tui phải cặm cụi hái từ trên cây, sắp xếp vào sọt, cam quít tươi nguyên có cành có lá đàng hoàng, chớ đâu tệ hại như bữa nay?

                        Bà Năm chừng như muốn trở mặt, đổi giọng the thé:
                        - Cái luật mua vườn là vậy chị biết mà! Đã giao kèo xong, có lỗ có lời gì cũng phải chịu. Năm trước chưa có chị Năm Nha Trang buôn chung, mấy chị buôn lời quá chừng ai nói?

                        Dì Tư bực bội, nói to đến át giọng:
                        - Ai không biết giao kèo là giao kèo nhưng mà chị nghĩ chị là tụi tui xem thử. Ai đời lãnh mấy đống cam héo, cam úa này. Tiền xe chuyên chở đã chớ, còn cái công bán mới chết đây nè! Ai mà mua thứ cam thiếu điều như đồ bỏ cúng kiến, ăn uống. Hổng chừng cho người ta cũng chẳng thèm nhận. Làm sao tụi tui đập vô cái tiền còn thiếu chị chớ?
                        Bà Năm nói ngang:
                        - Tui không biết à! Luật sao thì làm vậy!
                        Dì Chín cất giọng van nài:
                        - Chị Tư nói phải đó chị Năm. Chị nghĩ coi, ai mà mua mấy trái héo này chưng cúng ngày tư ngày tết? Tụi tui làm sao kiếm được tiền trả số còn lại cho chị được.
                        Bà Năm la ong óng:
                        - Các chị đừng ỷ đông mà ăn nói ngược ngạo! Lúc lời sao không kẹp tui vô, đến lúc lỗ lại muốn tui cùng gánh chịu? Giao kèo như vậy giao kèo với chó chứ giao kèo với ai!
                        Dì Tư thực sự nổi nóng:
                        - Nè! Tui nói cho chị nghe nghe. Làm người lớn phải ăn nói đàng hoàng đâu ra đó, không được lôi chó lôi mèo ra đây mà đệm. Có hai đứa nhỏ xíu ngồi đây, chị chửi chó mắng mèo coi sao được, chị không sợ ê mặt hả?
                        Bà Năm với lon đựng bã trầu dưới bàn, nhổ phẹt một bãi vào đó, rồi giận dữ nói:

                        - Mấy chị kêu mấy đứa nhỏ ra ngoài đi. Tui không bắt tụi nó hóng chuyện người lớn. Các chị ăn nói tai ngược vậy mà bắt tui câm miệng hả?
                        Hai đứa nhỏ bước vi ra sân trước khi thấy mẹ khoác tay ra hiệu. Tiếng năn nỉ của bà mẹ còn văng vẳng sau lưng:

                        - Chị Năm làm ơn hiểu giùm cho tụi em. Năm nào lời em không thấy chứ năm nay em mới hùn vốn làm ăn đã thấy cảnh kỳ lạ này. Chị nghĩ xem! Tụi em làm sao mà bán hết đống cam héo này? Phải chi còn có lá cam xanh tươi thì tụi em còn bẻ nhánh gắn vào làm cảnh cho người ta mua. Đàng này…
                        Vừa ra ngoài, con chị len lén bước đến bên cửa sổ, phía dưới có trồng mấy khóm hoa vạn thọ và hoa cánh bướm, lỏm nghe những lời đối thoại của người lớn bên trong. Còn con em không phải chứng kiến cảnh người lớn cãi nhau chừng như thích lắm. Nó vừa lăng quăng chạy theo đàn gà vừa giang hai tay bắt mấy con gà con. Gà mẹ xù lông kêu tục tục để gọi con về núp dưới cánh, rồi nghểnh đầu về phía nó thủ thế và bảo vệ đàn con. Con em không đếm xỉa gì đến gà mẹ; nó dợm bước tới gần đàn gà để cố chụp một chú gà con vô tư ham chơi chưa chịu theo mẹ. Con chị la lớn:
                        - Vy không được bắt nó! Gà mẹ mổ đui mắt đó!

                        Con em nghe chị gọi, vui mừng khôn cùng vì nó đoán rằng con chị đã hết giận. Nó chạy đến bên chị thỏ thẻ:
                        - Em thấy mấy con gà con dễ thương ghê! Chị bắt giùm em một con nghe?
                        Con chị nhăn mặt:
                        - Bắt nó sao được? Gà mẹ mổ mình đau lắm!

                        Con em nghiêng đầu, cất giọng nhõng nhẽo nài nỉ:
                        - Em muốn nựng nịu rờ nó một chút thôi. Em chơi với nó một chút thôi rồi thả nó ra.
                        Con chị hỏi:
                        - Em muốn con nào? Màu nào?
                        - Con màu vàng nâu.
                        - Bốn con vàng nâu lận đó!
                        - Con vàng nâu nào cũng được. Cho em chơi một con thôi!
                        Con chị bày em:
                        - Chị dí một đầu, em dí một đầu rồi sáp vào chụp. Nhớ chụp nhanh rồi chạy liền, coi chừng gà mẹ mổ đó nghe!

                        Con em nghe lời chị và cả hai đứa khum người giang tay vây tròn đàn gà vào chính giữa. Mất phương hướng giữa hai cái bóng to lớn kỳ dị trước mặt, gà mẹ hốt hoảng xòe rng cánh, và kêu tục tục liên hồi để gọi con vào ẩn núp. Mấy chú gà con sợ hãi, nháo nhác xung quanh chân mẹ, miệng kêu chiêm chiếp, không biết nên ẩn hay chạy. Con chị thò tay vào toan chụp một con. Gà mẹ xù mình, vươn đầu mổ nó và cả đám gà con nhảy loạn xạ, náo đng.

                        - Bắt nó đi! Bắt đi chị! - Con em reo hò cổ vũ.
                        Con chị lại khum người xuống, thò tay vào đàn gà cố gắng thêm một lần nữa nhưng vẫn không bắt được con gà con nào. Nó nhăn nhó:

                        - Mấy con gà con này lanh quá chừng.
                        Đúng lúc ấy, một con chó mực nhảy xồm từ ngoài cổng vào sủa ong ỏng. Cả hai chị em con nhỏ, gà mẹ, và đàn gà con đều chạy tứ tán. Người đàn bà đi sau con chó mực vừa đe chó, vừa la to:

                        - Đừng có chạy! Thấy chó sủa mà chạy nó chụp cắn cho bây giờ!
                        Ông tài xế xe lam đi theo sau lưng bà, gợi chuyện:
                        - Vậy là nãy giờ chị không có ở nhà hèn chi mấy chị ở chợ Đầm để tui ngoài đây chờ lâu quá mà không nói gì với tui cả. Chất cam ở đây xong tui còn phải quay vào phía vườn trong gần rẫy núi để chở cam cho mấy bả nữa đó!

                        - Dạ, đi đâu thì thủng thẳng hãy đi bây giờ thì vào nhà dùng nước đã "anh Hai"! Ở ngoài đây chi cho nóng nực!

                        Tiếng chó sủa, tiếng nói của bà chủ vườn và ông tài xế xe làm khiến những người đàn bà buôn bán đang tranh luận phải trái ngưng bặt. Tất cả đưa mắt về phía cửa sổ và cửa ra vào. Bà Năm Đại Điền mừng như bắt được vàng khi thấy người đàn bà bước vào nhà. Làm như chính mình là chủ nhà, bà ta đon đả đẩy cái ghế bên cạnh, mời mọc:
                        - Chị là chị Mười Đại Điền phải không? Ngồi đây! Ngồi đây chị! Tui thứ Năm. Tui ở phía trong Đại Điền. Người ta quen miệng gọi tui là Năm Đại Điền.

                        Người chủ vườn vừa lấy ghế mời ông tài xế xe lam ngồi vừa chép miệng:
                        - Đại Điền trong, Đại Điền ngoài gì cũng bị thiệt hết cả chứ chẳng chừa cái Đại Điền nào!
                        Bà Năm Đại Điền nhìn bà Mười Đại Điền trân trân:

                        - Thời tiết mỗi năm mỗi khác, cây trái lúc thiệt, lúc nên, trời cho thì được, trời không cho thì mất chứ biết nói sao!
                        Bà Mười Đại Điền vừa rót nước vừa nói:
                        - Trời thương, trời ghét gì chị ơi! Tụi nó rải thuốc khai quang để khai nương mở rẫy gì không biết mà diệt sạch ráo cây cối. Từ đây thẳng ra ngoài l chính, vườn nào vườn nấy không còn trái trên cành. Lá thì vàng hết trơn hết trọi.
                        Xoay qua người tài xế xe lam, bà nói bình thản:
                        - Gì thì gì uống nước đã. Mời anh "Hai" dùng nước. Uống nước các chị ơi!
                        Dì Chín trả lời:
                        - Ăn uống gì chị ơi, cam quít như vầy rầu thúi ruột!
                        Bà Năm Đại Điền hỏi dồn:
                        - Ai nói chị với chị là cây cối bị rải thuốc?
                        - Mấy ngày nay tui đi hỏi thăm tin tức. Nhiều người ở đây đã biết và đều nói vậy!

                        Dì Tư nghe vậy, chụp ngay cơ hội để kèo nài:
                        - Đó! chị Năm thấy không! Có phải thời tiết gì đâu? Bởi vì người bỏ thuốc khai quang gì đó cam quít mới chết cành rụng trái như vậy chớ! Sao bắt tụi em chịu?
                        Bà Năm dường như không nghe bà Tư nói, tiếp tục hỏi bà Mười:
                        - Chớ tụi nó là ai?
                        - Là mấy người khai quang chứ biết ai mà nói bây giờ!
                        Bà Năm nôn nóng:
                        - Nó bỏ lúc nào? Làm sao mà bỏ hết cái vùng này được?
                        - Nó bỏ bằng máy bay chị ơi. Tụi nó có tiền mua thuốc bỏ cho cây cối chết hết rồi khai khẩn đất mới đó mà!
                        Đám đàn bà hùn chung vốn bàn tán xôn xao:
                        - Đúng là phải có cái gì mới xảy nên chuyện như vậy chứ có phải là thời tiết đâu mà để cho tụi mình chịu thiệt?
                        - Mấy chỉ phải tính sao cho mình chớ. Tụi mình mà chịu hết sao kham?
                        Bà Năm không thèm đề cập đến những điều họ bàn tán, tiếp tục hỏi bà Mười:
                        - Cái tụi nào mà làm ăn thất trách vậy? Sao không rải thuốc trong rừng, trong núi mà rải trong vườn người ta vậy chứ?
                        - Tui đã nói với chị là tui không biết đích xác ai làm. Nghe đâu, tụi nó rải thuốc một nơi, rớt xuống một nẻo! Trái rụng, lá rụng chưa xong đâu nghe chị! Mấy bả còn nói là từ từ cây cối sẽ chết rụi hết cả đó. Vì thuốc khai quang không chừa sót cái cây ngọn cỏ nào cả!
                        Bà Năm nhai trầu choèn choẹt một lúc rồi hậm hực nói:
                        - Tui nghe chị cứ nhắc đi nhắc lại “tụi nó” mà tui tức mình không biết tụi nó là ai! Tui có nghe, có thấy máy bay gì mà nói là máy bay bỏ thuốc?
                        Bà Mười nói giọng bực bội chẳng kém bà Năm:
                        - Tui cũng nghe người ta kể chuyện bàn tán rồi tui nói lại thôi chứ tui có biết tụi nó là ai đâu! Nghe nói là mấy tụi khai hoang lập ấp mới gì đó mà!
                        Người tài xế xe lam nhắc khéo những người đàn bà thầu vườn:
                        - Mấy chị coi sao chứ lái xe đi hai chỗ xa như vầy tui nghĩ không kịp về trước bảy giờ tối đâu.
                        Dì Chín nói:
                        - Hai chị tính sao tính giùm tụi em đi! Chứ cam héo như vầy tụi em không bán được đâu. Làm sao tụi em kiếm đủ tiền đập vào cái phần thiếu còn lại đây?

                        Bà Mười Đại Điền nói chậm rãi và từ tốn:
                        - Thôi tui nói như vầy cho nhanh. Mấy chị chất hết mớ cam này về dưới bán đi. Tui thì tui chịu cho mấy chị nửa phần nợ còn lại.
                        Bà Năm Đại Điền chép miệng:
                        - Tui chịu một phần ba là quá cỡ rồi!
                        Dì Tư không rời chiếc ghế, kèo nài hai bà chủ vườn:
                        - Hai chị thương tình mà tính lại chứ làm sao tụi em bù cái phần lỗ này được? Hai ba đống cam như đống núi làm sao tụi em bán hết được đây?
                         

                        Mặc cho bà dì Tư năn nỉ hết lời, hai bà chủ vườn vẫn khăng khăng với quyết định cuối cùng của họ. Mặt người nào người nấy cũng dàu dàu ủ ê nhưng không dám phản kháng lời tuyên bố của người có quyền. Rồi mấy người đàn bà lục đục đi ra ngoài chiếc xe lam lấy sọt và lẳng lặng chất cam. Xong, họ chào hai bà chủ vườn ra về. Hai chị em con nhỏ đi theo họ ra sân. Những lời than van và những chữ "bù lỗ, phần thiếu còn lại, nợ, làm sao đập bù… " cứ lập đi lập lại trong đầu con chị, tựa như tiếng côn trùng đang rên rỉ trong khu vườn lúc xế chiều.
                        Trên xe lam đi trở lại nhà bà Năm Đại Điền, con em thì thầm trong tai con chị:
                        - Chị Hạ có muốn em đặt tên cho búp bê không?
                        - Không!
                        Con em lại ghé tai chị:
                        - Sao hồi nãy chị hỏi?
                        Mân mê những trái cam nhiễm thuốc khai quang đỏ vàng trong cái sọt trước mặt, con chị thờ ơ nói:
                        - Chị chỉ hỏi chơi thôi.
                        Mặt con em bí xị. Nó đang thất vọng ghê gớm lắm.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:08:04 bởi Ct.Ly >
                        #12
                          Cung Thi Lan 13.08.2007 01:53:01 (permalink)
                          Chương Mười Một
                           

                          Những rổ cam vàng rượm không cành không cuống gợi sự tò mò của khách hàng khi họ đi ngang chỗ bán trái cây của nhóm đàn bà hùn chung vốn. Chúng cũng đã khiến cho mấy người khách hàng quên hẳn điều kiêng kỵ và tật mê tín dị đoan của mấy người buôn bán như “bán mơ xưa”, “bán mở hàng", "vía nặng, vía nhẹ", khi họ đặt nhiều câu hỏi không nên hỏi về sản phẩm không tốt của người buôn khi mà chẳng hề có ý định mua những sản phẩm ấy.

                          - Trời ơi! Cam gì mà vàng chét vậy?
                          - Chưa bao giờ tui thấy cam lạ như vầy? Cam bị sao vậy chị?
                          - Cam trông như cam héo mà sao nhiều dữ vậy mấy chị?
                          Lúc đầu, những người đàn bà bán hàng còn lịch sự trả lời, tâm sự hay năn nỉ khách như:

                          - Cam quít bị rụng bởi vì thuốc khai quang đó chị.

                          - Chị mua giùm em ít trái em bán rẻ cho!
                          - Mua cam về vắt nước uống cho khoẻ chị ơi!
                          - Không muốn cúng thì vắt nước uống, mua giùm em đi!

                          Dần dần, nhận thấy không thuyết phục được khách hàng, họ không thèm trả lời cũng không năn nỉ bất cứ ai nữa, để mặc cho cam trong rổ ngày càng héo nhăn héo nheo ra sao thì ra.
                          Mọi người đều hiểu là không ai dại đến nỗi bỏ tiền ra mua trái cây héo úa để trưng bày trong những ngày đầu năm, khi mà táo Mỹ, lê Mỹ và cam Mỹ xuất hiện đầy dẫy trong các gian hàng lớn của những người đại lý thầu trái cây. Khách hàng xúm xít quanh các gian hàng lớn phảng phất mùi thơm ngọt ngào của trái cây ngoại để tranh nhau mua những trái tươi tốt nhất. Ngoài những thứ trái cây thường được mua theo tập tục dành cho Tết nguyên đán như dưa hấu, thơm, chuối, đu đủ người ta ra vẻ biết hưởng thụ khi lựa chọn những trái cây có kèm theo cái tên Mỹ như táo Mỹ, lê Mỹ hay cam Mỹ. Những thứ trái cây mà bà mẹ và những bà bạn hàng của bà đã từng mua bán thử nhưng không thể nào đủ tiền để mua sỉ và bán lẻ trong những ngày chợ nhộn nhịp nhân dịp Tết Nguyên Đán sắp đến. Số vốn hùn hạp của họ hầu như đã phải dốc hết để trả nợ cho những người chủ vườn, tiền vận chuyển, và các khoản chi phí chuyên chở, bốc xếp cho ba gác từ nhà bà mẹ đến chợ vào lúc trời tờ mờ sáng và từ chợ về nhà khi trời tối mịt. Mỗi ngày, sau khi tan chợ, mấy bà bạn hàng lại họp nhau ở căn nhà nhỏ của ba mẹ con, tính toán phân chia số tiền ít ỏi mà họ kiếm được trong ngày và cả một số cam héo. Dần dà, tin đồn cam bị nhiễm độc lan rộng, hàng họ ế ẩm đến nỗi số tiền bán cam trong ngày không đủ trả chi phí chuyên chở bốc xếp và, nhóm người buôn bán với bà mẹ hai con nhỏ bàn nhau đem đổ hết thảy mấy thúng cam rụng bởi thuốc khai quang còn lại vào khu chứa rác của chợ. Chuyến buôn bán cam trong những ngày cận Tết của họ đã hoàn toàn thất bại.
                          Thâm hụt vốn, nhóm buôn bán trái cây với bà mẹ hai con nhỏ đành phải giải tán việc hùn hạp của họ và bà mẹ phải ở nhà chăm sóc hai đứa nhỏ và quán xuyến công việc nội trợ như lúc chưa đi buôn bán. Sự có mặt thường xuyên của mẹ trong nhà khiến hai chị em con nhỏ vui sướng hẳn lên. Mặc dù chúng không còn được đi thăm những khu vườn cây trái xanh tươi, không được gặp những người buôn bán chung với mẹ, không được ăn những cái mặt trái cây thừa, không thấy thịt cá trong những bữa ăn, hai con nhỏ hạnh phúc bên mẹ của chúng lắm.
                          Có lẽ những người trong ngôi nhà lớn đoán được sự thay đổi trong đời sống ba mẹ con ở căn nhà nhỏ khi không còn thấy chiếc xe ba gác chở hàng đi đi về về và không còn nghe tiếng nói cười cởi mở của những người đàn bà buôn bán, tuy nhiên, chẳng ai đề cập đến chuyện gì đã xảy ra. Bà nội im lặng. Ông bà bác Cả im lặng. Cô Sáu im lặng. Cô Út không nói gì và cũng không chửi bới nữa.
                          Hôm ấy là ngày hai mươi ba tháng chạp âm lịch, ngày đưa ông táo về trời theo phong tục tập quán của những người theo dạo thờ cúng ông bà. Sáng sớm, trước khi đi chợ, cô Sáu đi ngang khu vườn cây ăn trái, gõ cửa căn nhà nhỏ và nói với bà mẹ:
                          - Chút nữa, chị đưa ra hai cháu ra hàng em nghe. Em sẽ cho chúng tiền ăn sáng.

                          Nghe như thế, bà mẹ làm y theo lời. Đúng chín giờ sáng bà dắt hai đứa ra chợ, để chúng lẩn quẩn quanh sạp tạp hoá của cô Sáu, rồi lân la qua mấy cái hàng buôn bán trái cây quen biết trước đó. Hai đứa nhỏ loay hoay xung quanh sạp hàng tạp hoá của cô Sáu, nhìn cô bán hàng cho khách và chờ nhận tiền. Sau khi nhận tiền của khách, cô Sáu đếm tiền cho hai đứa nhỏ rồi bảo chúng dắt nhau đi xuống những hàng bán thức ăn để chọn những món ăn sáng mà chúng thích.
                          Len lỏi quanh các quầy thức ăn với em, con chị ngơ ngẩn nhận ra là chưa bao giờ mẹ chúng đi ăn hàng cùng với chúng. Nó nghĩ đến mẹ và nhớ những ngày buôn bán tần tảo của bà. Nó nhớ những buổi tối sau khi chia lời với những người buôn bán chung, mẹ nó thường chắt chiu từng đồng cho chúng tiền ăn sáng nhưng luôn luôn ăn những thức ăn cũ, những mẫu cơm cháy, hay cơm nguội để lót lòng. Nó còn hiểu là cô Sáu chỉ cho hai đứa tiền ăn sáng chứ không bao giờ cho tiền để mẹ chúng ăn với chúng. Nó biết là trong khi hai chị em nó đang ăn, mẹ chúng đang đói và lang thang từ hàng trái cây này đến hàng trái cây khác cho đến lúc dẫn chúng đi về nhà. Nó nghĩ đến cô Sáu và hiểu rõ là cô Sáu đã kiếm tiền cho hai chị nó ăn trong khi cô phải nhịn đói vì tất bật buôn bán. Nó cảm kích đức tính hy sinh của những người lớn và mơ mộng sẽ được cô tiên ban phép thần như trong những truyện cổ tích do mẹ kể để được đền công ơn của những người mà nó hàm ơn. Con em không nghĩ ngợi vẩn vơ. Nó thường vòi chị dẫn đi khắp các gian hàng ăn trước khi quyết định món ăn mà nó thích.
                          Ăn sáng xong, chiều em, con chị dắt con em đi ngang các sạp hàng bán đồ chơi để nhìn những con búp bê nhựa rẻ tiền hay những con thú nhựa nho nhỏ nằm trong những gói ni lông với một hai viên kẹo bên trong. Con em thường ao ước có một thứ gì trong gian hàng bán đồ chơi mà chẳng bao giờ nó có được bởi vì con chị luôn luôn nói với nó là "tiền là để ăn sáng chứ không phải tiền để mua đồ chơi.” Con chị biết con em vừa muốn ăn sáng và cũng muốn có đồ chơi nhưng số tiền cô Sáu cho chị em nó không thể đáp nổi cho cả tiền ăn sáng và tiền đồ chơi cho nên nó luôn khư khư với những gì người lớn căn dặn. Ăn sáng xong, dắt em đi ngang các hàng đồ chơi một chốc, nó dắt em trở lại gian hàng tạp hoá của cô Sáu ngay. Nó thích nhìn cảnh người đi qua lại trước hàng cô và nhìn cảnh xếp xếp, gói gói. Công việc chẳng khác nào trò chơi buôn bán mà nó bày cho con em dưới gốc cây vú sữa. Bởi vì gian hàng tạp hoá của cô Sáu có rất nhiều thứ như kẹp tóc, dầu thơm, long não, dầu khuynh diệp, thuốc nhuộm tóc, khăn trài bàn, áo quần đàn ông, áo quần đàn bà, áo quần trẻ con và đủ các thứ linh tinh khác, và bởi vì người ta có phong tục mua đồ mới trong những ngày cuối năm để chuẩn bị cho những ngày tết âm lịch cho nên cô Sáu luôn luôn bị bận rộn bởi vô số khách vây quanh hàng. Cô không thể vừa tiếp chuyện với khách, vừa gói hàng, vừa thu tiền, và vừa thối tiền cho nên dần dần cô giao cho hai đứa nhỏ những việc nhỏ như thu dọn các thứ khách tạm lựa còn để bề bộn trên các hộp kiếng, hay bỏ đồ vào bao cho khách, cho đến những việc quan trọng hơn như thu tiền, hay thối tiền.

                          Quay lại đón hai đứa nhỏ, bà mẹ hiểu ra rằng cô Sáu cần chúng phụ giúp cô trong dịp tết nên bà lưu chúng ở lại và dặn dò đến chiều tối sẽ đón chúng về. Khi trở về nhà một mình, cảnh chợ tết tấp nập kẻ bán người mua bây giờ mới thu hút tâm trí bà. Những bộ áo đầm, giày và dép trẻ em xinh xắn kiểu mới nhất được treo trên móc hay trong tủ kính của các gian hàng trung tâm; những nhánh mai vàng đầy búp xen lẫn một vài bông hoa vừa hé nở, những cây tắc xanh tươi trĩu quả, những chậu cúc, chậu hồng, vạn thọ, thược dược muôn hồng ngàn tía được đặt ngay ngắn trên lề các lối dẫn vào trung tâm chợ; và những trái dưa hấu xanh thẫm, những đòn bánh tét no tròn, những hộp bánh mứt gói giấy bóng kính đủ màu bày chồng lớp trên các kệ hàng. Tất cả như đang đón mời, nhưng tất cả chợt đem đến cho bà bao nỗi muộn phiền, day dứt. Bà xót xa nhớ đến cảnh nhà đơn chiếc chưa sắm sửa được gì. Bà không nghĩ đến mình nhưng hai con bà vẫn chưa có quần áo mới. Ngay cả bàn thờ Phật và bàn thờ chồng hiện cũng chỉ bày vỏn vẹn hai ly nước trắng, cái quả bồng và bình hoa trống trơn. Nghĩ đến số tiền eo hẹp trong túi, bà không dám ngừng lại hay hỏi giá một người bán hàng nào. Cho đến lúc lướt ngang gian hàng bánh mứt cuối cùng, nơi mà có những cái bánh in hình cối bọc trong giấy bóng sặc sỡ và người bán hàng niềm nở mời mọc, thì bà mới mạnh dạn ghé lại thăm dò giá cả. Nét mặt bà dãn hẳn ra khi bà biết được những cái bánh in hình cối kia có giá tiền vừa phải với số tiền còn lại mà bà đang có. Nghĩ rằng chúng vừa có thể thay thế cho mứt tết và hoa quả, vừa có thể tôn vẻ trang trọng hơn cho bàn thờ trong dịp Tết, bà quyết định móc tiền mua bảy cái rồi rảo nhanh về nhà.
                          Chiều hôm ấy, cô Sáu cho hai chị em con nhỏ cùng đi xích lô về nhà sớm. Chiếc xe đầy ắp các giỏ hoa quả, bánh trái trên đùi, và dưới chân cô Sáu và con chị. Con em đứng sau lưng hai người, ôm mấy bó hoa.

                          Cô Sáu vui vẻ nói với ông xích lô:
                          - Anh chịu khó chở nặng một chút, đến chỗ tui đưa thêm tiền cho.
                          Ông xích lô vui vẻ không kém gì cô Sáu:
                          - Được rồi mà chị Sáu! Thêm hai đứa nhỏ có là bao.
                          - Hôm nay tui mua đồ nhiều lắm, tui sẽ trả thêm cho anh. Cái gì ra cái nấy. Anh coi đấy! Lo mua bán đến ngày đưa ông táo về trời cũng không nhớ. Thấy mấy bà đi chợ nói tui mới nhớ! Tui mua vội mua vã các thứ để kịp cúng tối nay.

                          Ông xích lô không trả lời. Ông phải gồng người đẩy chiếc xe trên cái dốc giữa đám người đông đúc. Con em là người vui nhất trong xe. Lần đầu tiên nó được đi xe xích lô vì vậy nó ra vẻ quan trọng lắm. Đi ngang nhà mấy đứa hàng xóm nó nhoài người vẫy tay, gọi con nhỏ bạn học:
                          - Ê Hoa! Hoa! Tao được đi xe xích lô nè!
                          Ông xích lô la nó:
                          - Đứng đàng hoàng, coi chừng té đó!
                          Con chị ngồi im không nói gì. Đến cổng, nó và con em phụ xách một chiếc giỏ, đi theo ông xích lô và cô Sáu vào ngôi nhà lớn của nội, rồi dắt em trở về nhà.
                          Hai đứa về nhà khi bà mẹ lúi húi lau những chiếc bóng đèn dầu bên chiếc bàn cạnh cửa sổ. Bu quanh mẹ hai đứa chăm chú nhìn những bóng đèn tròn trên bàn. Con em huyên thuyên:
                          - Má ơi, tụi con về rồi nè! Tụi con đi xích lô. Má khỏi cần phải đón.

                          Bà mẹ hỏi:
                          - Vậy hai đứa con ăn chiều chưa?

                          Con em gật đầu, chớp đôi mắt linh lợi:

                          - Con ăn rồi! Chiều nay cô Sáu bán đắt lắm. Cô Sáu cho ăn bánh hỏi với thịt quay. Tụi con có gói để dành cho má nữa. Tụi con nói không muốn ăn nữa rồi gói lại để dành đem về cho má đó!

                          Bà mẹ lắc đầu:

                          - Má không ăn đâu. Để dành mai các con ăn. Má ăn cơm rồi.

                          Con chị lên tiếng:
                          - Má ăn cơm với gì vậy má?
                          - Má ăn với xì dầu.
                          - Sao hôm nay má ăn chay vậy? Hôm nay có phải là ngày rằm hay mùng một không?
                          - Má thích ăn chay thì ăn chứ đâu cần ngày rằm hay mùng một!
                          Con em nằn nì:
                          - Má ăn đi má! Ngày mai tụi con đi ra hàng cô Sáu nữa. Cô sẽ cho tụi con ăn nữa, má đừng lo.

                          Suy nghĩ một lúc, con em nói tiếp:
                          - Tối nay cô Sáu còn cho mình đồ ăn nữa má à! Cô Sáu nói cúng đưa ông táo về trời xong sẽ cho tụi con đồ ăn.

                          Con chị nhìn về phía nhà lớn. Ánh điện trong ngôi nhà lớn của nhà hai bác Cả và nhà cô Sáu lập lòe sau những hàng cây. Tiếng gọi, tiếng nói từ trong sân gạch phía sau nhà bác Cả văng vẳng trong khu vườn đêm. Giờ này chắc hẳn bà nội, cô Sáu, và Cô Út đang rộn ràng làm bánh mứt và sửa soạn các thứ để cúng đưa ông táo. Con chị hỏi mẹ:

                          - Má có cúng đưa ông Táo không má?

                          - Có chứ, má cúng rồi! Má lau mấy cái bóng đèn này để cúng Phật Bà và ba con.
                          - Má cúng ông táo ở đâu vậy má?

                          - Ở dưới bếp đó con à!
                          Con chị đứng lên, bước ra khỏi bàn, đến ngưỡng cửa và bước xuống bếp. Bên cạnh bếp lò một chiếc đèn dầu chân vịt nho nhỏ được thắp sáng. Ánh đèn vàng vọt chiếu hắt lên cái dĩa sành đựng ba cái bánh in gói giấy bóng kính, hai chén nước lạnh và ba nén nhang. Tất cả mọi vật trong bếp câm nín với ánh đèn như cái im lặng của con chị. Nó quay ra khỏi bếp, đến giếng, thả gàu xuống nước. Mùi mứt gừng thơm thoang thoảng trong khí đêm khiến nó hướng mắt về phía cái sân gạch. Ánh điện lung linh, bóng người qua lại, tiếng nói, tiếng cười ở cái sân sau ngôi nhà lớn cho nó hiểu bà nội và cô Út đang làm các thứ mứt gừng, mứt khoai, mứt bí ở ngoài sân như mọi năm. Cảnh xôn xao đàng sau ngôi nhà lớn cho nó có ý nghĩ là ông Táo sẽ vui vẻ tìm đến nhà nội và cô Sáu hơn là đến căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó và ông Táo cũng sẽ thích đến bếp của bà nội hơn là đến bếp của mẹ nó. Lặng lẽ, nó xối nước lên đôi chân. Nước mát tràn trên hai bàn chân làm con nhỏ chị dễ chịu. Nó đạp chân lên nhau để kỳ cọ những đất ghét bám trên các ngón chân và gót chân. Ngước mặt nhìn lên trên, nó lại bắt gặp hai sợi dây điện đan trong những tàu lá dừa và cảm giác khoan khái như bị tan biến. Những cây dừa này không hiểu do ai trồng, đã vô tình tiếp tay cho sự tăm tối và u buồn ngàn đời trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó. Nghĩ đến ba, nó bước nhanh vào nhà hỏi mẹ:
                          - Con thắp hương cho ba nghe má!
                          Mẹ nó vừa ngạc nhiên vừa trả lời:
                          - Má vừa thắp hương cho ba xong nhưng con muốn thắp nữa cũng được.

                          Con chị không nói, cũng không hỏi thêm. Nó lặng lẽ đến bàn thờ của ba nó, lấy một cây nhang và đốt cháy trong cái đèn nho nhỏ ở chính giữa bàn thờ. Đó là lần đầu tiên con chị thắp hương cho ba nó. Nó không biết người lớn mở đầu lời cầu nguyện như thế nào nên im lặng nhìn tấm ảnh bán thân của ông và mọi thứ trên bàn thờ. Cũng như nơi cúng ông Táo, bàn thờ ba nó chỉ có hai chén nước lã, hai cái bánh in trên quả bồng, không có đèn cầy, không có hoa, không có trái. Những đồ vật trống trải trên bàn thờ khiến nó nhớ những trái cây mà mẹ nó từng bày cúng trên những quả bồng khi mẹ nó buôn bán trái cây. Nó nhớ những ngày đi vườn, những buổi tối chia lời của mẹ, rồi quyết định cầu nguyện ba nó giúp cho mẹ nó có cơ hội tiếp tục buôn bán trái cây để mẹ nó có trái cây cúng ba, cúng phật và có tiền nuôi sống chị em nó. Ánh đèn leo lét của ngọn đèn dầu gây cho nó tủi thân nghĩ hai sợi dây điện trong những cành lá dừa và cảnh tối tăm trong căn nhà nhỏ. Nó thì thầm thêm lời cầu nguyện. Nó cầu ba nó làm cho cây dừa rụng hết lá để bác Cả gái bằng lòng "mở điện” truyền từ nhà ngôi nhà lớn đến căn nhà nhỏ. Tham lam hơn, nó cầu nguyện nhiều thứ khác như được học giỏi, được quà bất ngờ, được áo đẹp, và được nhiều đồ chơi đắt tiền. Càng khấn, nó càng hạ thấp giọng để không cho con nhỏ em tò mò đang đứng bên nghe lóm.
                          Bà mẹ chờ con chị thắp hương cho ba nó và cầu nguyện xong, định hỏi điều gì đó nhưng thấy khuôn mặt trang trọng của nó thì nén lại. Con em bám theo chị đến cái bàn gỗ, hỏi ríu rít:
                          - Chị Hạ nói gì với ba vậy?
                          - Chị nói gì Vy hỏi làm chi?
                          Con em không hết thắc mắc:
                          - Chị có cầu ba làm cái gì tốt cho em không?
                          Con chị trả lời:
                          - Chị cầu ba làm nhiều điều tốt cho tất cả ba mẹ con mình.
                          Nó quay sang hỏi mẹ:
                          - Sao má cúng ba và Phật Bà chỉ có hai cái bánh mà cúng ông Táo đến ba cái bánh vậy?

                          - Vì ông táo có ba người.
                          - Ba người? Con nghe ông Táo con nghĩ chỉ có một người thôi chứ!
                          - Ba người lận con à cho nên con thấy bếp lò có ba cục gạch đó!

                          Con chị buồn rầu:
                          - Con nghĩ ông táo không đến nhà nhà mình đâu.

                          - Vì sao?- Bà mẹ hỏi.
                          - Mình đâu có cúng đủ lễ! Không có hoa, không có trái cây.

                          - Con đừng nói bậy mà mang ti! Ông Táo là Táo quân gồm có hai Táo ông một Táo bà. Ông bà Táo là vua bếp nên lúc nào cũng ở trong bếp để theo dõi mọi chuyện trong gia đình người. Táo quân thường tâu những việc làm xấu tốt của mình cho Ngọc Hoàng nghe để Ngọc Hoàng phán xét. Thánh thần không phân biệt giàu nghèo đâu. Hôm nay ông Táo về trời, đến sau tết mình sẽ đón ông trở lại.

                          Con chị lắc đầu:

                          - Con không hiểu gì về chuyện này. Tối nay má kể chuyện ông Táo cho tụi con trước khi đi ngủ đi! Mình đi ngủ sớm nghe má!

                          Bà mẹ gật đầu ưng thuận. Những buổi tối dưới ánh đèn dầu lù mù, khi hai đứa nhỏ không còn có bài làm, bài học, bà thường cho chúng đi ngủ sớm để kể chuyện cho chúng nghe. Đó là thú tiêu khiển duy nhất của chúng mà bà có thể làm cho.
                          Con chị bảo em:
                          - Vy ra lu rửa chân mau đi! Đi ngủ sớm để má kể chuyện Ông Táo cho mình nghe.
                          Con em đáp gọn lỏn:

                          - Không! Em chưa muốn đi ngủ.

                          Con chị trợn mắt tức giận bởi vì nó chưa bao giờ bị con em cãi lại như thế. Nó hỏi với giọng khô khan:
                          - Thức làm gì nữa? Vy muốn ngồi đây chờ muỗi cắn hả?

                          Con em chỉ tay về phia ngôi nhà lớn:
                          - Em chờ cô Sáu với cô Út cho đồ cúng ông Táo. Hai cổ ra nhà mình cho đồ kìa!
                          Xuyên qua mấy khung cửa sổ, con chị thấy hai cái bóng lụp xụp gần bờ giếng đang hướng về nhà nó. Tiếng cô Sáu vang ở ngoài vườn:
                          - Chị Năm ơi, ra lấy đồ cho mấy cháu nì!
                          Ba mẹ con chạy đến cửa ra vào. Hai người đàn bà bước vào nhà không phải là cô Sáu và cô Út mà là cô Sáu và cô Mỹ.
                          Bà mẹ hỏi cô Mỹ vồn vã:
                          - Trời ơi! Cô đi đâu mà tối quá vậy?
                          - Em đến thăm chị để cho các cháu mấy xấp vải may áo dài. Chị đưa hai cháu đi may áo dài đi. Bao nhiêu tiền công em trả lại.
                          Bà mẹ cúi đầu:

                          - Cảm ơn cô. Tui buôn bán thất bại quá không sắm sửa được gì.
                          Nhìn quanh nhà và các bàn thờ, cô Mỹ chép miệng:
                          - Tội nghiệp! Ngày tư ngày Tết mà chị làm ăn thất bại, còn tụi em thì bận rộn không ngớt tay.
                          Nắm tay bà mẹ, cô thân mật đề nghị:

                          - Hiện giờ tiệm em còn có một số giày dép kiểu cũ mà mấy người đi phố chẳng muốn hỏi tới. Em muốn bày bán số hàng tồn này với giá rẻ mạt ở trên đường Phan Bội Châu mà không có ai coi. Nếu chị phụ em bán thì em sẽ chia hoa hồng cho chị.
                          Cô Sáu chen vào:
                          - Còn mấy ngày nữa đến Tết rồi. Khi mô chỉ mới bắt đầu được?

                          Cô Mỹ nói:
                          - Ngày mai! Ngày mai chị đến tiệm em lấy đồ dọn ra đường Phan Bội Châu bán. Em biểu mấy đứa giúp việc làm cái bảng đại hạ giá để chị bán mau hết. Được giá nào bán giá đó không cần kèo nài gì cả! Sau tết, hàng mới về không để mấy thứ cũ đó làm gì. Bất cứ giá nào cũng phải bán hết trước tết.
                          Sau khi căn dặn cẩn thận những việc cần làm cho ngày hôm sau, cô Sáu và cô Bảy Mỹ vội vã chào từ giã rồi khuất dạng sau bờ giếng. Dưới ánh đèn dầu nhạt nhoà bên khung cửa sổ, ba mẹ con nói nói, cười cười không thôi. Con nhỏ em hân hoan với những thứ đồ cúng ông Táo mà cô Sáu cho, bà mẹ rộn ràng với tương lai hứa hẹn của ngày mai và con nhỏ chị sung sướng mân mê hai xấp vải lụa hồng phấn trên tay. Con chị thầm cảm ơn ba nó đã chấp nhận một trong những lời mà nó cầu xin.

                           
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:09:12 bởi Ct.Ly >
                          #13
                            Cung Thi Lan 13.08.2007 01:59:14 (permalink)
                             
                            Chương Mười Hai



                            Đường Phan Bội Châu là con đường chính dẫn đến chợ Đầm, một khu chợ lớn nhất của thành phố biển Nha Trang. Từ sáng đến khuya, người và xe qua lại trên con đường này đông như mắc cửi, nên bà mẹ không bao giờ cho phép hai đứa nhỏ đến chợ mà không có bà hay người lớn nào đó đi kèm. Những con đường mà chúng có thể tự tiện sánh vai nhau cất bước chỉ là những con đường thân quen từ nhà dẫn đến trường.
                             

                            Vào những ngày có chợ Tết, đa số dân ở thành phố biển đổ xô về chợ Đầm mua sắm nên số người buôn bán ở đây tăng lên gấp bội. Người ta phải chia lô ở lòng đường Phan Bội châu để mở rộng thêm chỗ cho những người buôn bán và cảnh sát phải ngăn rào không cho xe chạy vào con đường này từ khúc đầu đường cho đến khúc rẽ vào chợ Đầm.
                             

                            Ngày bà mẹ giúp cô Bảy Mỹ bày bán giày dép đại hạ giá trên vỉa hè chật ních của đường Phan Bội Châu là ngày hai đứa nhỏ được tự do dắt nhau đi từ hàng đại hạ giá của bà qua những gian hàng bán Tết để đến hàng tạp hoá của cô Sáu.
                             
                            Len lỏi trên các vỉa hè, dọc theo các cửa hiệu, hai đứa nhỏ hoa mắt bởi các loại hàng Tết giăng bày. Những hàng bánh mứt, hàng hoa nhựa, hàng bán hình Chúa Jésu và đức Mẹ, hàng bán hình Phật tổ và Bồ tát, hàng bán lư hương, hàng bán pháo… được trưng bày thật đẹp mắt như mời mọc, cuốn hút dòng người ngược xuôi qua lại. Người bán hàng mặt tươi roi rói cười cười, nói nói, gọi mời khách dạo chợ. Mới mười giờ sáng đã có nhiều người đi mua sắm Tết. Kết hợp mua sắm các thứ thực phẩm thường ngày, họ lân la hết hàng này sang hàng khác để săn tìm, chọn lựa, và mặc cả để mua bằng được những thức ngon, vật lạ theo giá tiền vừa ý nhất.
                             

                            Hớn hở xuyên qua đám đông người, hai con nhỏ vượt qua các gian hàng hoa Tết, hàng dưa hấu, hàng trái cây, hàng bông rồi hướng về khu tạp hoá của chợ Đầm. Đến khu may mặc, hai đứa đứng lại ngắm nghía những xấp vải đủ màu, hoặc thanh nhã, hoặc sặc sỡ được giăng ngang trên những quầy may. Những người chủ, thợ may và thợ phụ đang bận rộn may may, cắt cắt. Tiếng máy may đạp rè rè liên tục kèm theo những tiếng giục nhau, tiếng kèo nài của những người khách tạo nên một không khí nhộn nhịp và rộn ràng. Tần ngần một lúc với hai xấp vải tơ trên tay, con chị quyết định dẫn em đi thẳng đến hàng cô Sáu.
                             
                            Cô Sáu đang thối tiền cho khách, thấy hai đứa nhỏ mừng như bắt được vàng:
                            - Hai đứa ra trước quầy tiếp khách cho cô. Hạ thâu tiền để con Vy bỏ đồ vào bao cho khách.
                            Lách mình vào giữa nhóm người đang xúm xít vây quanh quầy tạp hoá của cô Sáu, hai đứa nhỏ làm y theo lệnh của cô. Ba cô cháu thi nhau gói hàng, thâu tiền, thối tiền cho đến trưa mà quầy hàng của cô Sáu vẫn chưa vãn khách.
                            Đến xế chiều, lác đác chỉ còn vài người khách cô Sáu gọi thức ăn đến tận hàng. Mặc cho cô giục nó ăn cho mau, con chị đến cái góc của quầy tạp hoá rút hai xấp vải tơ ra:
                            - Má con nói nhờ cô có rảnh đưa tụi con đi may mấy cái áo dài.
                            - Vì sao má con không dẫn các con đi?

                            - Vì má con phải bán hàng cho cô Bảy. Với lại, má con không có tiền, má con sợ.
                            - Cô Bảy sẽ trả tiền may cho hai con mà sợ gì? Đưa vải cho mấy đứa thợ may may, đến khi nào lấy áo thì nói cô Mỹ trả cho, có chi mờ sợ?
                            - Má con không có tiền nên sợ không muốn đi tới tiệm nào cả.
                            Cô Sáu chép miệng:
                            - Tiệm nào bây giờ cũng không nhận đồ may nữa đâu con. Hoạ chăng mấy cái quầy may trong chợ này có nhận không thôi. Hôm nay chỉ còn sáu ngày nữa là Tết, không biết họ có nhận cho không!
                            Cô trao hai chén bún cho hai chị em, giục rối rít:
                            - Thôi hai đứa ăn lẹ đi! Để cô tính cho!

                            Nghe vậy, con em lùa vội, lùa vàng vài miếng bún vào miệng, rồi buông đũa xuống:

                            - Con no rồi. Con không ăn nữa.

                            Cô Sáu la:
                            - Ăn nữa đi! Từ sáng đến chừ không có chi trong bụng răng mờ no?
                            Con chị ngập ngừng chén bún trên tay:
                            - Vậy có ai nhận may áo dài trước Tết không cô?
                            - Để cô lo cho! Nếu không may được, cô cũng mua cho hai đứa hai cái áo đầm mới. Đừng lo!
                            Những lời nói của cô Sáu làm con em an tâm. Nó nhai thong thả và lấy thêm thức ăn.

                            Lần này cô Sáu giục nó:
                            - Con Vy ăn mau lên để cô dẫn đi may đồ. Còn con Hạ coi hàng cho cô! Khi nào người ta nhận may, Vy sẽ chỉ chỗ cho con tới đo đồ.

                            Con chị lo lắng:
                            - Rồi sao con bán cho người ta? Con đâu biết giá hết?

                            Cô Sáu nói nhanh và vội vã:
                            - Gần chiều tối rồi! Người ta lo đi chơi chợ Tết chứ không mua tạp hoá nhiều nữa đâu mà con sợ! Bán được gì thì bán còn không chờ cô về. Cô phải mua vải may quần trắng để tụi con mặc với áo dài nữa! Nhớ ngồi gần hộc tủ đựng tiền đừng ra phía trước quầy hàng.
                            Nói xong, cô lấy một ít tiền, cặp hai xấp vải vào nách và kéo con em đi theo bên cạnh. Nhìn hai ống quần cao thấp và dáng điệu tất bật của cô khuất sau dãy hàng tạp hoá với con em, con chị vừa thấy thương thương vừa lo lắng. Hơn bao giờ hết, nó hiểu tấm lòng thương yêu của cô Sáu dành cho chị em nó. Nó hiểu cô muốn đền bù cho chúng những những thiệt thòi mà chúng phải chịu đựng trong cảnh mất cha. Lơ đãng nhìn người qua kẻ lại, nó hồi hộp và lo lắng khi nghĩ đến những người thợ may không chịu nhận đồ may cho chị em nó. Nó nghĩ đến chiếc áo đầm mà cô Sáu hứa cho rồi lắc đầu khi cái áo dài tơ màu hồng phấn với những thứ nữ trang "hồi môn" mà mẹ nó cho đeo trong ngày Tết hiện ra rực rỡ hơn và đặc biệt hơn trong trí của nó.

                            Xếp dọn các thứ thức ăn thừa bỏ vào giỏ rác cạnh bên quầy hàng, con nhỏ chị liếc mắt hướng về phía dãy hàng may. Cô Sáu và con nhỏ em chưa thấy trở lại. Mỉm cười hy vọng, nó đưa cây phất trần phủi những bụi tấm trên các mặt kính và xếp các chồng áo sơ sinh. Vài người khách ngang qua hàng, nhìn nó nhưng không hỏi mua thứ gì; có lẽ họ nghĩ nó không biết buôn bán nên chẳng muốn phí thời gian. Con nhỏ chị không thấy chuyện chào mời khách mua hàng là quan trọng, nó chìm mình mơ màng với chiếc áo dài mới trong ngày đi chùa và lấy lộc đầu năm với mẹ và với em.
                            Thình lình con em vừa thở hổn hà hổn hển vừa chạy về phía nó.
                            - Chị Hạ ơi! Mình không có áo dài mới được rồi!

                            Con chị giật mình, lắp bắp hỏi:
                            - Vì … vì sao vậy?
                            - Không ai chịu may cho mình hết!
                            Cô Sáu bước theo sau nó, mặt nhăn nhó. Cô quẳng hai xấp vải trên mặt tủ kính càu nhàu:
                            - Hai cái áo nhỏ tí xíu mà cũng làm khó khăn. Mấy con quỷ thợ may làm eo làm sách. Hết Tết coi thử có ai cầu cạnh nữa không cho biết!
                            Nghe giọng phàn nàn khá lớn của cô, bà bán hàng tạp hoá cạnh bên lên tiếng hỏi:
                            - Chuyện gì vậy chị Sáu? Có chuyện gì mà chị bực mình dữ vậy!
                            Được dịp, cô Sáu phân trần:
                            - Chị Mận coi đó! Mấy con nhỏ thợ may có lạ gì với em. Lần nào tụi nó đến mua kim chỉ nút, dây kéo, em cũng để giá hạ hơn người khác vậy mà bữa nay trở mặt làm tàng. Em năn nỉ hết nước miếng mà tụi nó không chịu may cho hai đứa cháu em hai cái áo dài!
                            - Tết là vậy đó chị! Tụi nó nhắm may không nổi nên không nhận cho chị chứ không phải làm tàng với chị đâu!

                            Cô Sáu nhìn hai đứa, an ủi:

                            - Tối nay cô đi mua áo đầm cho hai con. Đừng buồn!

                            Không nghe hai con nhỏ trả lời, cô nói tiếp:
                            - Năm nay cô đi chùa với má con và hai đứa con, cô sẽ lì xì cho hai đứa nhiều hơn mấy đứa khác.

                            Con chị vẫn im lặng. Con em hớn hở hỏi:
                            - Con lấy tiền lì xì ăn sáng lúc con đi học được không?
                            - Được! Còn hai xấp vải này sau Tết cô đưa các con đi may. Cô sẽ trả tiền may cho, không cần cô Mỹ trả!
                            Mặt con chị ủ rũ, nó lí nhí:
                            - Con không mặc áo dài sau Tết đâu! Đi học chỉ mặc áo đầm trắng hay đồ bộ trắng thôi!

                            Cô Sáu chưa biết trả lời sao thì bà Mận vọt miệng sang mách nước:
                            - Em biết chỗ nào nhận may trong lúc này rồi chị Sáu! Chị đem hai cháu đến ông Hào thợ may dưới hàng rau đó! Ít ai đem đồ cho ông may nên ổng sẽ nhận may cho chị trong dịp này.
                            Mặt cô Sáu tươi hẳn lên. Cô không ngớt cảm ơn bà bạn hàng tốt bụng, rồi giục con em:
                            - Đi! Đi với cô may áo! Chặp nữa biết chỗ rồi con dắt chị Hạ đi may.
                            Dứt lời Cô Sáu dẫn con em đi xuống khu hàng bán thức ăn thay vì đi về hướng hàng may như lần đầu.

                            Con chị ngồi một mình coi hàng cho cô Sáu và mơ màng với cái áo dài tượng tượng. Một người đàn bà đến quầy; sau khi chọn chiếc áo cánh vừa ý, hỏi nó giá. Lúng túng không biết trả lời, nó gọi to cầu cứu:
                            - Cô Mận ơi, nói giùm con giá tiền cái áo này. Bác này muốn mua mà con không biết giá!
                            Cô Mận chạy sang, xem xét kiểu áo, nói giá và thu tiền cho nó. Cứ thế, con chị trở nên dạn dĩ chào mời khách và bán được nhiều hàng giùm cô Sáu hơn. May mắn sao, lúc này khá nhiều khách đến mua, nhận hàng, trả tiền đến độ nó không hay biết cô Sáu đã trở lại và đứng bên quầy hàng. Cô Sáu vui vẻ, hất hàm về phía con em đang đứng chờ:

                            - Con đi với con Vy đo áo dài đi. Ông Hào chịu nhận may cho hai đứa rồi. Để cô bán hàng cho!
                            Há hốc miệng vì sung sướng, Con chị nhảy xuống khỏi sạp hàng, bước đến bên em. Con em đi trước dẫn đường. Nó bước xuống khu bán thức ăn, không nói gì.
                            Níu tay em, con chị huyên thuyên hỏi:
                            - Ông thợ may đó đo áo dài cho em rồi hả?
                            - Ừ, Ông đo quần cho em nữa.

                            - Chừng nào ông cho mình lấy áo?
                            - Em không biết!
                            Nhận ra sự im lặng và ngập ngừng bất thường của con em, con chị lo lắng hỏi:
                            - Sao em buồn vậy?
                            - Em không thích mặc áo dài ngày Tết
                            - Áo dài đẹp hơn áo đầm chứ. Ngày thường mình mặc áo đầm rồi!

                            - Em không thích đàn ông may áo dài.
                            Con chị tiếp tục an ủi em:
                            - Vì không ai nhận may nữa nên cô Sáu mới đưa ổng may cho mình đó em! Không sao đâu! Có áo dài mặc là tốt rồi!
                            Con em không nói gì thêm, lặng lẽ rảo bước và con chị lẽo đẽo đi theo sau nó, không nói gì nữa. Đi ngang qua các gian hàng thức ăn vắng người, các hàng rau đang dọn dẹp, và các vũng nước đọng của khu hàng cá trống không, hai đứa dừng lại trước một quầy ki-ốt gỗ. Đó là một quán may nghèo nàn. Chỉ có một bàn máy may đạp bằng chân cũ kỹ. Cái phản gỗ thấp lè tè chất đầy các xấp vải, chỉ chừa một khoảnh hẹp để cắt vải. Người đàn ông đang may cũng phải ngồi một góc trên chiếc phản. Ông đạp máy lốp cà lốp cốp như thể cái bàn đạp sắp rơi xuống dưới nền xi măng. Thấy hai đứa nhỏ bước vào, ông ngừng chân đạp. Trục bánh quay của máy may kêu rin rít như muốn át tiếng nói của ông với cô con gái trạc tuổi trung học đang ngồi trên chiếc ghế gỗ vuông đối diện:

                            - Con lấy số đo của con nhỏ nớ cho ba. Hắn là cháu o Sáu đó! Hắn may áo dài và quần dài.
                            Cô con gái nghe lời, bảo con chị đứng ngay ngắn hướng mặt về phía cửa ra vào rồi tìm lấy thước dây và sổ ghi. Thẹn thùng vì người lạ đụng vào người, con chị nín thở, đứng im như lính trong thao diễn nghiêm.
                            Cô gái nói giọng Huế rặc:
                            - Thở bình thường coi nờ! Tóp bụng chi rứa? Bụng teo tẻo như ri còn tóp nhỏ thêm, may chật áo bi chừ!
                            Ông thợ may căn dặn.

                            - Nới thêm số đo cho ba! Người ta nói “nhỏ may ra bà già may vô", may trừ hao cho chắc ăn!

                            Lần này con chị thở phình bụng ra. Cô gái không biết ghi số đo nào cho chính xác, ngần ngừ với con số trên tay, nhẩm nhẩm, tính tính một lúc rồi mới ghi số vào sổ. Con em đứng yên ở góc cột cửa ra vào, đưa mắt nhìn hết người này đến người kia. Khi nó nhìn con chị, con này mỉm cười với nó và nháy mắt ra hiệu chờ.
                            Một bà già với dáng điệu khổ sở, lụm cụm bước vào chào ông thợ may. Sau khi trao cho ông thợ may chiếc quần cũ để nhờ ông thay chiếc sợi dây thun bị giãn, bà hết nhìn con chị lại nhìn con em rồi chép miệng nói:
                            - Tội nghiệp! Tết đến nơi rồi mà nhà còn có tang. Nhà tụi này có ai chết vậy anh Hai?
                            Nghe bà này hỏi vậy, khuôn mặt dàu dàu của con em càng tỏ ra buồn rầu hơn. Khuôn mặt nó như chảy dài xuống với đôi mắt chơm chớp như đang rơm rớm khóc. Con chị nhìn em và thầm trách con này có bộ mặt hãm tài nên đã khiến cho bà già kia hiểu lầm. Nín thở vì những đụng chạm bởi sợi thước dây, nó cố giữ người thăng bằng để giúp cô gái lấy số đo nhanh hơn.

                            Tiếng ông thợ may gắt gỏng trả lời sau lưng:
                            - Nhà hắn có ai chết mô mờ chị nói ba láp rứa! Tụi hắn may áo dài ăn Tết đó thê!
                            - Chời quơi! Hồi giờ tui đâu có thấy anh may đồ thường. Thấy anh chuyên môn may đồ tang không tui đâu có biết!

                            Câu nói của bà già làm con chị hốt hoảng. Nó ngoái cổ bất thình lình ra phía sau. Những tấm ván gỗ xung quanh quán may này không có một tấm vải màu nào giăng bày như những gian hàng may trên khu hàng may mặc. Trên cái phản gỗ thấp vô số những cun vải xô trắng dày cồm cộm chồng lên nhau. Nó thảng thốt hỏi cô gái:
                            - Bộ chị may quần cho em bằng vải tang trắng đó hả?

                            Cô gái lắc đầu nguầy nguậy:

                            - Không! Mần răng mờ có chuyện như rứa! Em có để tang ai mô mờ may vải tang? Đứng ngay lại coi nờ! Còn cái chiều dài quần nữa là xong.
                            Con chị chưa hết lo lắng:
                            - Vậy chị may cho em vải nào?
                            Ông thợ may rút nhanh xấp vải trắng và hai xấp vải lụa trên bàn may, chìa trước mặt nó, nói át một hơi:
                            - Vải nội nì. Mấy xấy vải nội là vải của o Sáu mi kêu tau may cho chị em mi. Tau không có điên mà may vải tang cho bọn mi ăn Tết. Đo xong rồi phải không? Bội chừ dắt em về đi! Nói o Sáu bốn ngày nữa đến lấy đồ.

                            Con chị gật đầu an tâm. Nó khoanh tay, cúi đầu lí nhí chào từ giã ông chủ thợ may, bà già và cô gái rồi dắt em ra khỏi quán. Tiếng ông thợ may cằn nhằn sau lưng:
                            - Chị tưởng tui không biết may áo dài răng mờ nói như rứa? Tui may áo quần xưa cho mấy ôn mấy mệ còn khó hơn ba cái đồ khỉ tân thời ngày nội nữa huống chi may cho tụi nhỏ chút chút như ri?
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:10:37 bởi Ct.Ly >
                            #14
                              Cung Thi Lan 13.08.2007 02:28:16 (permalink)
                                        
                              Chương Mười Ba
                               
                               

                              Tiếng pháo nổ dòn giã trước nhà bác Cả khiến hai chị em con nhỏ chạy đến cửa ra vào thò đầu ra nhìn về phía cổng trước ngôi nhà lớn. Hôm nay là mùng một âm lịch, và hai bác Cả đang đốt pháo đón mừng năm mới. Tiếng nói cười vui nhộn trước ngôi nhà lớn thu hút hai đứa nhỏ đến xem.
                               
                              Chúng hăm hở định mang dép chạy về phía cổng trước, bà mẹ đã ngăn lại:
                              - Hai đứa không được chạy vô đó!

                              Con em nhìn mẹ, ngạc nhiên:
                              - Sao vậy má?
                              - Hôm nay là ngày mùng một; đến nhà ai trước là đạp đất nhà người đó đó!

                              Con em bướng bỉnh:
                              - Con mang dép. Con không "đạp đất” nhà bác Cả đâu!

                              - Đạp đất không phải là đạp đất nhà người ta với chân trần hay dùng chân trần đạp trên nhà người ta. Đạp đất nghĩa là mình là người đầu tiên đến nhà người nào đó và đặt bàn chân đầu tiên của mình vào nhà người ấy.
                              Con chị thắc mắc:
                              - Vì sao người ta không cho mình tới nhà họ trước vậy má?
                              - Không ai cấm mình vào nhà họ sớm hay trễ cả nhưng mà bởi vì người ta tin người đầu tiên vào nhà họ quyết định một năm của họ thành công hay thất bại cho nên mình phải biết thông lệ mà giữ kẽ! Má đã giải thích nhiều lần về chuyện đạp đất đầu năm cho các con rồi mà các con không nhớ gì cả!
                              Con em ngồi bệt trên bậc tam cấp, lảm nhảm:
                              - Con đâu có “tính” vô nhà bác Cả đâu! Con chỉ đến trước sân nhà để lượm pháo thôi!

                              Con chị ngồi xuống cạnh em, thở dài. Cũng như con em, nó muốn vào nhà bác Cả ngay để lượm mấy viên pháo để đốt chơi, nhưng nó hiểu là không thể nào đến ngôi nhà lớn trước khi gia đình cô Mỹ hay con cháu bác Cả "đạp đất” ngôi nhà lớn ấy. Mẹ nó luôn giải thích cho chị em nó hiểu rằng không ai muốn những người nghèo bước đến nhà trong ngày mùng một bởi vì đa số mọi người đều tin dị đoan rằng những người nghèo thường có khuôn mặt buồn bã, hãm tài nên thường đem những điều xui xẻo và nghèo khó suốt cả năm. Qua những lời căn dặn của mẹ, nó mơ hồ hiểu vị trí của chị em nó ở đâu và chị em nó là ai trong khuôn viên đại gia đình. Suy nghĩ một lúc nó cất giọng người lớn nói với con em:
                              - Chút nữa tụi mình lượm cũng được Vy! Khi nào má dẫn mình đi chùa, ngang nhà bác Cả thì mình lượm.
                              Con em nhăn mặt, càu nhàu:
                              - Chút nữa mấy đứa con của cô chú Bảy Mỹ và con của anh Ký, chị Trịnh đến lượm hết cho coi!

                              Bà mẹ hắng giọng, vẻ không vui:
                              - Hai đứa ra sân rửa mặt mũi tay chân rồi vào thay quần áo mới, chải đầu chải tóc cho đàng hoàng, tươi tắn lên đi. Đầu năm mà ngồi giữa nhà ụt mặt như vậy sao làm ăn được chớ? Không nên ngồi đưa mặt hãm tài trước cửa nhà như vậy! Ở nhà mà đầu năm có cái mặt hãm tài như vậy làm ăn không nên nổi huống hồ tới nhà ai!
                              Ngại tiếng đằng hắng, con chị nhanh nhảu đứng lên, giục em:
                              - Lẹ đi Vy! Để má la đầu năm là cả năm bị la hoài cho coi! Rửa mặt, chải đầu xong mình thay áo quần để đi chúc Tết và lãnh tiền lì xì!
                              Bà mẹ ngắt lời:
                              - Chưa vào nhà nội được thì chưa chúc Tết ai cả! Sửa soạn xong, hai đứa lấy giấy viết ra viết vài chữ cho má. Đầu năm viết vài chữ để cả năm học giỏi!

                              Hai đứa nhỏ ngoan ngoãn vào bếp lấy bàn chải đánh răng rồi bước đến lu nước. Cái lu đầy ắp nước! Ngày Tết Nguyên Đán, ngày đầu năm, nào cũng vậy chúng không những bị cấm đạp đất mà còn bị cấm động giếng. Người trong khuôn viên nhà nội chỉ được phép xách nước giếng sau khi bà nội cúng thần giếng xong, cho nên mẹ chúng đã chuẩn bị một lu nước đầy để dùng cho cả ngày mùng một.
                              Con em vừa đánh răng, vừa nói lơ lớ :

                              - Em mặc áo đầm chứ không mặc áo dài đâu!

                              Con chị không đáp lại. Nó hiểu chắc chắn rằng, khi con em thích mặc áo đầm thì mẹ nó cũng bắt nó mặc áo đầm theo để cho hai chị em ăn mặc giống nhau khi đi ra đường. Nghĩ đến những chiếc áo mới của ngày tết, nó thấy lòng chùng xuống. Cả chiếc áo dài mơ ước và cái áo đầm cô Sáu mua cho đều không làm nó vừa ý. Chiếc áo dài mà ông thợ may may cho nó rộng đến nỗi nó tưởng chừng mình đang bơi trong ấy. Mặc dù nó cố mặc cái áo lót dày thật dày bên trong cũng không thể nào vừa cái độ rộng mà ông thợ may trừ hao. Khi nó mặc chiếc áo dài tơ vào, thân hình cao lêu nghêu của nó tựa như cái cọ rửa chai đang lắc lư, kỳ cọ lớp trong cái chai rỗng là lớp vải lụa phất phơ, lụng thụng. Cái áo đầm cô Sáu mua cho nó chẳng khá gì hơn. Nó dài tận mắt cá chân. Với lập luận con nít mau lớn, cô Sáu đã mua trừ hao cho nó gấp hai lần kích thước thật của nó, và khi nó mặc vào, nó trông giống như mặc áo bính của ai.
                              Không nghe chị trả lời, con em nhắc lại lần nữa:
                              - Em không mặc áo dài. Em mặc áo đầm đó chị Hạ!

                              Con chị vào bếp đặt chiếc bàn chải đánh răng vào cái lon, rồi bước lên nhà, cũng không thèm trả lời. Con em đi sau nhì nhằng nói tiếp:
                              - Hôm nay tới phiên chị Hạ mặc ríp-pông đó! Chị mặc áo đầm với em nghe chị Hạ!

                              - Ừ, nhưng mà chị sẽ mặc áo đầm cũ chứ không mặc áo mới đâu!

                              Con em tròn mắt:
                              - Sao vậy?
                              - Vì không có cái áo mới nào vừa với chị cả!
                              - Em cũng vậy!
                              - Vậy hai chị em mình cùng mặc áo cũ đi nghe!

                              Bà mẹ rầy:
                              - Đầu năm không nên mặc áo cũ! Có áo mới là quý lắm rồi còn mong chi? Người lớn cho cái gì lấy cái đó không được khen chê. Không mặc áo của mấy cô cho là tụi bây phụ lòng các cô đó! Người lớn kiếm tiền cực khổ mới có của mà cho tụi bây, còn nhỏ mà bày đặt khen chê, đòi cái nọ, cái kia không tốt đâu. Thay đồ lè lẹ rồi ra viết vài chữ lấy hên!
                              Vâng lời mẹ, hai đứa chải đầu, mặc áo đầm mới và lấy giấy viết ra ngồi trên chiếc bàn cạnh cửa sổ. Ngồi bên nhau, trước hai tờ giấy trắng, chúng cắn bút nặn óc suy nghĩ sẽ phải viết chữ gì và câu văn nào sao cho có ý nghĩa, đó là một cực hình đối với chúng. Mẹ hai đứa luôn luôn tin rằng nếu hai đứa con bà viết một vài câu văn câu thơ gì đó gọi là khai bút đầu năm, thì văn chương chữ nghĩa chúng sẽ thông suốt, và chúng sẽ học hành giỏi giang suốt năm, cho nên bà thường đánh thức chúng dậy khi tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ. Năm nay bà mẹ ngủ quên. Bà đã không đón giao thừa cũng không kêu hai đứa nhỏ thức dậy lúc giữa đêm, và hai đứa nhỏ tưởng đâu đã thoát lệ khai bút đầu năm, nào ngờ mẹ chúng không quên tập tục này.
                              Ngần ngừ một lúc, hai con nhỏ viết tên chúng trên hai tờ giấy rồi in đậm những nét chữ. Không biết viết gì thêm, chúng đưa mắt nhìn nhau rồi cùng bật cười khanh khách. Con em vừa nói, vừa cười ngặt nghẽo:
                              - Chị Hạ mặc áo đầm mới thấy lạ quá hà!
                              Con chị vừa nguýt em, vừa cười khì khì:
                              - Em cũng vậy chứ bộ! Có đẹp gì đâu!

                              Bà mẹ nhắc chúng:
                              - Viết văn thơ gì thì viết đi, đừng cười giỡn nữa!

                              Con chị than vãn:
                              - Con không biết viết gì! Con không biết làm thơ mà cũng không thích viết luận văn đâu!

                              - Viết cái gì cũng được, không cần phải thơ văn gì cả. Viết vài chữ để lấy hên ngày đầu năm thôi.

                              Con chị tiếp tục than vãn và phản đối:

                              - Nhưng con đâu biết viết gì? Ngày lễ sao không được nghỉ mà còn phải viết chứ?
                              Bà mẹ đằng hắng, nghiêm giọng:
                              - Con học đến lớp nhì mà không biết một cái gì để viết sao? Ngày đầu năm nào cũng phải viết, sao còn làm bộ hỏi tới hỏi lui hoài vậy? Viết mấy chữ trong ngày đầu năm để học giỏi cả năm. Học giỏi cho con, không phải học giỏi cho má!

                              Ngẫm nghĩ một lúc, con chị hỏi mẹ:
                              - Vậy con viết bài Học Thuộc Lòng được không?

                              - Được! Viết đi!
                              Con em hỏi mẹ:
                              - Con có thể chép lại bài của chị Hạ được không má?

                              Bà mẹ gật đầu:

                              - Cũng được. Miễn là có viết là tốt rồi!
                              Con chị chấm ngòi viết lá tre vào hũ mực tím. Nó viết học thuộc lòng mà nó thích nhất:
                              Bà ơi cháu rất yêu bà
                              Đi đâu bà cũng mua quà về cho
                              Hôm qua có chiếc bánh bò
                              Bà chia cho cháu phần to nhất nhà.
                              Mỗi lần cháu chạy chơi xa
                              Mẹ cháu có đánh thì bà lại bênh.
                              Cháu không nói bậy, nói càn
                              Bà xoa đầu cháu khen ngoan nhất nhà.
                              Vừa chấm dứt giòng thơ cuối cùng, con chị khoan khoái đặt bút xuống bàn nhìn em. Con em cầm nghiêng cây bút mực nắn nót viết từng nét một. Những chiếc bóng của lá dừa và nắng lung linh tên trang giấy trắng của nó như muốn in hình vào bài thơ mà con nhỏ em đang viết. Con chị bất chợt đưa mắt nhìn lên song cửa sổ. Ánh nắng đầy ắp trên các lá dừa cho biết mặt trời đã lên cao. Vài con chim cất tiếng hót líu lo như đang đón mừng nắng mới của mùa xuân. Những tiếng pháo nổ đì đùng từ xa như khơi động mạch xuân tràn chảy vào không gian. Bỗng dưng con chị nhận ra một điều lạ lẫm. Nó không nghe thấy tiếng gọi nhau ơi ới, nô đùa náo nhiệt thường ngày của bọn trẻ hàng xóm ngoài bức tường thành dài của khuôn viên nhà nội. Có lẽ bọn trẻ hàng xóm cũng bị cha mẹ giữ trong nhà để viết khai bút đầu năm như chị em nó? Nhà nội và bác Cả cũng có điều khác biệt, không có bóng dáng một ai cười cười nói nói trong sân và không có lấy một tiếng gõ của chiếc khoen cổng. Chỉ thấy những hàng hoa được cắt tỉa gọn gàng thẳng tắp làm nổi bật màu trắng mới của nước vôi, cái vòm hình vòng cung cao đài các ở hiên trước và vẻ nguy nga tráng lệ của ngôi nhà. Vào lúc này, không vang vọng tiếng pháo nổ, không xôn xao tiếng nói cười. Mọi vật dường như lắng chìm vào thế giới trầm lặng lạ thường của ngày đầu năm. Có lẽ vì mọi người, giàu cũng như nghèo, sang cũng như hèn, đều sợ bị đổ thừa đạp đất nhà người khác nên chẳng có một ai ra đường. Và cũng có lẽ họ đang chờ người khác đạp đất xong mới đi viếng nhà nên mọi căn nhà và mọi con đường trong thành phố vắng vẻ đến tận trưa. Con chị đưa mắt nhìn xa tận phía sân gạch sau ngôi nhà lớn, qua các hàng cây trong vườn, rồi đến cái giếng nước; đâu đâu chẳng thấy một bóng người. Giờ này có lẽ bà nội, hai bác Cả, hai cô đang ngồi trong phòng khách của ngôi nhà lớn để chờ con cháu về chúc Tết. Mỉm cười với không gian yên lặng, con chị cảm thấy như thiêu thiếu tiếng la hét thường ngày của cô Út. Nó đăm chiêu suy nghĩ và luyến tiếc nhớ những buổi chợ Tết và không khí của những ngày trước Tết. Những ngày trước Tết, người người đua nhau mua sắm tấp nập cho nên đâu đâu cũng nhộn nhịp và rộn ràng; trái lại, vào những ngày Tết như bấy giờ không gian gần như lắng trầm trong yên lặng nếu không có những loạt nổ đì đùng của những tràng pháo. Tết là dịp mọi người trong gia đình quây quần bên nhau để cúng kiến, chúc tụng, ăn uống, chơi cờ, hay đánh bạc. Ngày tết trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó chẳng khác gì ngày thường bởi vì bà mẹ không thể sửa soạn mâm cao cỗ đầy, chẳng một ai trong ba người biết chơi cờ bạc và cũng chẳng bao giờ họ chúc tụng với nhau những lời khách sáo. Cả ba mẹ con cứ như là một; họ không bao giờ câu nệ, màu mè với nhau mà luôn luôn cùng nhau tuân theo những tập tục mà những người trong ngôi nhà lớn áp dụng. Và bởi vì cái khác nhau giữa sự thanh đạm, đơn giản trong gia đình riêng của ba mẹ con nó và cái sang trọng, kiểu cách của đại gia đình trong ngôi nhà lớn của nội mà nó cảm thấy sự xôn xao của Tết và những ngày đầu xuân chỉ là lúc tất cả bà con của đại gia đình họ Hoàng họp mặt tại ngôi nhà lớn. Vào lúc ấy, tất cả những người họ hàng sẽ làm cho không khí trong nhà nội của chúng vui vẻ hơn và huyên náo hơn lên.
                              Bất chợt, không gian trầm lặng đang vây quanh con chị bị khuấy động bởi tiếng đàn phong cầm ngân vang từ phía bên kia đường. Tiếng đàn réo rắc, lan toả khắp nơi trong xóm như muốn phả vào mùa xuân niềm vui sống. Mắt con chị sáng ngời sung sướng. Năm nào cũng vậy, ông láng giềng người Hoa trước nhà thường dạo phong cầm bài hát người con gái Trung Hoa xinh đẹp và những bài hát mùa xuân. Con chị rất thích nghe tiếng đàn du dương ngợi ca người con gái Trung Hoa xinh đẹp quen thuộc bởi vì khi nghe bài hát này, nó hiểu là ông người Hoa kia sẽ đàn những bài xuân Việt kế tiếp. Năm nay không hiểu lý do gì ông đã không chơi bài cô gái Trung Hoa xinh đẹp nào đó mà khởi đầu bằng khúc ca xuân của người Việt. Con chị hát thầm theo tiếng nhạc “Ngày thắm tươi bên đời xuân mới. Lòng đắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi thắm. Ta muốn hái muôn ngàn đoá hồng…"
                              Con em đặt dấu chấm cuối cùng cho bài thơ xong, quẳng bút trên bàn, reo:
                              - Em viết xong rồi!
                              Giật mình, con chị gắt to:
                              - Xong thì thôi, có gì la dữ vậy!
                              - Em mỏi tay quá! Nhưng mà em viết đẹp hơn chị đó!

                              Con chị chun mũi, hất mặt, nói móc:
                              - Giỏi sao không tự viết đi, chép của chị chi vậy?

                              Rồi nó lại lắc lư đầu và ngâm nga theo điệu nhạc của tiếng đàn. Nhìn điệu b của con chị, con em bắt chước lắc đầu qua lại và ngâm nga hát theo.
                              Bà mẹ nói:
                              - Ngồi đó mà hát hò! Viết xong rồi thì lo cất giấy tờ, viết mực gọn ghẽ để lấy chỗ mà tiếp khách!
                              Hai đứa nhỏ vừa đứng lên, tiếng khoen gỗ của chiếc cổng nhà bác Cả vang lên, cả hai vội vàng chồm người về phía trước, dí sát mắt vào song cửa.
                              Con em reo lên mừng rỡ:
                              - Gia đình của anh Ký chị Trịnh đến rồi!

                              Con chị hoà theo em:
                              - Ba đứa con trai lớn của anh chỉ cũng về nữa kìa! Minh Toàn nè, Minh Thành nè, Minh Trung nè, và ba đứa Thuý Phương, Thuý Phong, Thuý Phi nữa! Vui quá vui đi!

                              Tiếng sủa của hai con chó Kiki và Vàng dồn dập, tiếng người la chó, tiếng cười, tiếng nói lao xao trước cổng đã khiến cho ngôi nhà lớn trở nên rộn ràng, và nhộn nhịp hơn bất cứ ngày nào trong năm. Hai chị em con nhỏ cuống quýt chạy ù đến cửa ra vào để nhìn ra cổng trước rõ ràng hơn. Bà mẹ trách chúng:
                              - Không được đứng giữa cửa vào ngày đầu năm! Hai đứa trở vào dọn dẹp bàn mau lên đi!

                              Con em nấn ná nhìn ra ngoài cổng trước một lúc rồi nhảy cỡn lên:
                              - Có gia đình cô Bảy Mỹ đến nữa! Đông quá! Nhiều người đến vui ghê!
                              Bà mẹ nói:
                              - Bây giờ ba má con mình có thể vào nhà bà nội để chúc Tết được rồi. Các con dọn dẹp hết giấy viết trên bàn đi rồi đi!

                              Con chị hối hả chạy đến bàn học, vừa cất giấy và viết vào cặp, vừa giục em:
                              - Vy dọn tờ giấy khai bút của em nè! Muốn đi nhanh mà cứ rề rà.
                              Con em nghe chị, nhét vội các thứ còn lại trên bàn vào cặp của nó rồi cùng chị đi lấy giày.
                              Trước khi bước ra khỏi nhà, bà mẹ căn dặn hai đứa nhỏ chuẩn bị những câu chúc Tết mà bà đã tập cho chúng tối hôm trước rồi dắt chúng đi về phía ngôi nhà lớn.
                              Bà mẹ ngắt lời:
                              - Chưa vào nhà nội được thì chưa chúc Tết ai cả!
                              Con chị vừa nguýt em, vừa cười khì khì:
                              - Em cũng vậy chứ bộ! Có đẹp gì đâu

                              Và bởi vì cái khác nhau giữa sự thanh đạm, đơn giản trong gia đình riêng của ba mẹ con nó và cái sang trọng, kiểu cách của đại gia đình trong ngôi nhà lớn của nội mà nó cảm thấy sự xôn xao của Tết và những ngày đầu xuân chỉ là lúc tất cả bà con của đại gia đình họ Hoàng họp mặt tại ngôi nhà lớn. Vào lúc ấy, tất cả những người họ hàng sẽ làm cho không khí trong nhà nội của chúng vui vẻ hơn và huyên náo hơn lên.
                               
                              Rồi nó lại lắc lư đầu và ngâm nga theo điệu nhạc của tiếng đàn. Nhìn điệu bộ của con chị, con em bắt chước lắc đầu qua lại và ngâm nga hát theo.
                              Bây giờ ba má con mình có thể vào nhà bà nội.
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 06:12:10 bởi Ct.Ly >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 53 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9