Truyện dài HAI CHI EM của CUNG THI LAN
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 53 bài trong đề mục
Cung Thi Lan 21.08.2007 15:26:45 (permalink)
     Chương Hai Mươi Lăm
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngày cuối niên học năm ấy là ngày hạnh phúc nhất của con nhỏ em và là ngày hãnh diện của con chị bởi vì con em được lãnh thưởng hạng nhì. Trong buổi lễ phát thưởng, thầy cô giáo, cha mẹ, học sinh đứng chật ních quanh cái cột cờ giữa sân trường. Con chị cùng mọi người đứng trang nghiêm dự lễ. Nó im lặng nghe các cô giáo của khối lớp hai đọc danh sách những học sinh được phần thưởng danh dự và phần thưởng các thứ hạng mà tưởng như lồng ngực của nó muốn vỡ tung. Hôm ấy mẹ của chúng không thể đến dự lễ vì phải buôn bán và chỉ mình nó là thành viên duy nhất trong gia đình sắp được chứng kiến giờ phút vinh dự nhất trong đời mà nó thường ước mơ có được.
Cô giáo lớp 2A lộng lẫy trong chiếc áo dài ngọc bích, kêu lớn tên của con nhỏ em:
- Hoàng thị Thảo Vy được giải thưởng hạng nhì. Cô mời em Hoàng Thị Thảo Vy lên nhận phần thưởng.
Con chị sung sướng nói với đứa học trò cùng lớp đang đứng cạnh:
- Tên của em tui đó!
Con nhỏ nhún vai ngó nó một thoáng rồi nhìn thẳng. Những đứa khác cũng không nói gì. Ngượng ngập, nó rướn cổ  cao hơn những cái đầu trước mặt để  nhìn về phía đám học trò khối lớp hai. Từ trong dãy hàng của lớp, con em len lỏi xuyên qua đám học trò để 
bước nhanh lên bục đài gỗ trước mặt. Dáng nhỏ nhắn của nó dễ thương trong chiếc áo đầm trắng phồng to bởi cái ríp bông bên trong. Hên cho nó là hôm nay nó mặc cái ríp bông nên chiếc váy được xoè ra chứ không bị xẹp như chiếc áo đầm mà con chị đang mặc. Mẹ chúng chỉ mua cho một cái ríp bông cho nên hai đứa phải chơi cái trò “bao tiếng xùm, bum tiếng xà” để biết ngày nào cái ríp bông sẽ thuộc về đứa nào. Hôm ấy nếu không là phiên con em mặc cái ríp bông thì chắc chắn con chị cũng nhường cho em bởi vì nó hãnh diện khi thấy em trên bục lãnh thưởng trước toàn thể thầy cô và học trò trong trường. Con em đưa tay đón gói phần thưởng to được bọc giấy bóng kính đỏ trên tay cô giáo rồi cúi đầu quay bước xuống bục đài. Thấy em khệ nệ ôm phần thưởng trở lại hàng của nó, con chị vừa vui mừng, vừa nôn nao. Nó muốn chạy ngay đến chỗ con em để tò mò xem những gì có trong gói quà thưởng to thật to ấy nhưng nó phải tuân theo kỷ luật của buổi lễ là giữ im lặng cho đến khi buổi lễ kết thúc.
Cuối cùng, buổi lễ cũng chấm dứt và mọi người lần lượt đi ra khỏi trường. Người lớn, trẻ nít, cha mẹ, học trò nôn nao, rộn ràng trên khắp nẻo đường về nhà. Hai đứa nhỏ tung tăng đi giữa rừng học trò, lòng vui như hội. Con em hãnh diện với món quà thưởng trên tay, con chị đi cạnh em hãnh diện không kém. Được đi bên em với gói phần thưởng bọc giấy kính đỏ, con chị thấy tự hào lắm. Nó nhớ những buổi tối bên ngọn đèn dầu leo lét, để chứng minh cho mẹ thấy rằng chúng chăm học, cả hai chị em thi nhau đọc các bài học thuộc lòng bằng cái giọng đều đều, và kéo dài chẳng khác nào tụng kinh. Thay vì nhớ như làu làu các câu vừa đọc thuộc lòng, giọng đọc ê a, cộng thêm ánh đèn dầu leo lét và bóng tối bao phủ xung quanh đã làm cho chúng cảm giác buồn ngủ nhanh hơn những ngày không phải học bài. Để thay đổi cách đọc đơn điệu, buồn tẻ, hai con nhỏ bày trò thi nhau đọc bài thật to. Con chị đọc to, con em cố gào để đọc to hơn chị. Cứ thế, khu vườn mỗi đêm thường vang lên những tiếng gào thét hơn là tiếng ê a đọc bài bình thường. Lúc đó, bởi vì những người lớn trong khuôn viên nhà nội, và vài người hàng xóm than phiền cho nên  mẹ chúng bắt buộc chúng phải đọc nhỏ lại. Đọc thầm, học thầm không phải là lối học thú vị của nhỏ em; nó chỉ thích đọc làu làu to hơn chị như dự phần một trò chơi hơn là đọc để nhớ. Từ khi bị cấm không cho đọc to, con nhỏ em chán nản không chú tâm học như trước. Mỗi lần ngồi vào bàn học, nó lật vài trang sách, vài trang vở một cách thờ ơ rồi ngoáy hai lỗ mũi để cạy muội. Những khói đèn trong hai lỗ mũi của nó đen xì xì như hai lỗ mũi của con chị, và như lớp bụi đen đóng dày xung quanh cổ bóng đèn dầu mà mỗi ngày mẹ nó phải dùng khăn ướt chùi để lấy ánh đèn rõ hơn cho hai đứa đọc chữ và viết bài. Những lúc con em tỏ ra ơ thờ với sách vở, con chị thường “làm gái, làm mụ” dạy đời con em về cái hậu quả vì thất học. Và cũng lúc ấy, con chị chắc chắn là con em sẽ bị ở lại lớp chứ không bao giờ ngờ được cảnh con em đứng trên bục lãnh phần thưởng. Một phần thưởng mà trong đó những món quà đánh giá sức học và sự cố gắng mà nó luôn   ao ước chứ không phải là những món quà bố thí thương hại của những người nhân đức từ tâm ban bố cho.
- Vy ôm nặng chưa? Cho chị ôm dùm chút được không? Con chị gạ em.
Con em lắc đầu:
- Để em ôm! Em ôm được mà, chị ôm cặp chị nặng rồi!
Con chị tiếp tục gạ:
- Cho chị ngó một chút coi có gì trong đó đi!
Con em không trao gói phần thưởng cho chị nhưng nó dừng lại, thọt tay vào cái kẽ chỗ buộc nơ chỉ trỏ:
- Có vở, viết màu nè!
Đưa gói phần thưởng cao khòi đầu nó nheo mắt nhìn xuyên qua lớp kính đỏ, nói huyên thuyên:
- Có cái cặp nữa nè! Có hình Bạch Tuyết nữa đó chị Hạ. Chị thấy chưa? Thấy chưa?
- Có con búp bê không?
- Không có!
- Sao Vy biết?
- Hồi nãy em chọt tay vô trong! Em cũng bóp xung quanh mà không thấy cái đầu búp bê.
Con chị an ủi:
- Biết đâu con búp bê đang ở trong cặp. Đi mau về nhà mở  ra coi!
Con em khệ nệ với gói phần thưởng vài bước, chuyền gói phần thưởng sang cho chị:
- Cho chị ôm dùm cho em đó!
Con chị hớn hở đón lấy, đặt trên cặp, rồi ôm trước bụng. Nó đi chậm chứ không như những lời giục con em. Nó hãnh diện khi thấy những đôi mắt thèm thuồng và những cái đầu ngoái lại nhìn vào mặt nó. Những đứa học trò đi cạnh nó có lẽ cho rằng nó là đứa học giỏi vì nó được phần thưởng.
Con em hối chị:
- Đi mau lên chị Hạ! Má về nhà thấy em lãnh quà chắc mừng lắm.
            Lời của con em khiến cho con chị khựng lại. Lúc này nó mới nhớ đến bản thành tích biểu và kết quả học tập cuối năm của nó. Nó bị ở lại lớp với lý do học lực yếu và nghỉ học quá nhiều. Trước khi trao bản thành tích biểu cho nó, cô giáo còn giải thích cặn kẽ  lý do vì sao cô phải để nó ở lại lớp. “Em nghỉ học học quá nhiều nên em phải ở lại lớp, chứ không phải vì em biếng nhác đâu! Cô mong là sang năm em có đủ sức khỏe để đi học đều đặn hơn. Em ở lại lớp một năm nữa để  học đủ chương trình học của lớp bốn, và như thế khi lên lớp năm, có lợi cho em hơn!”. Lần đầu tiên nó được một cô giáo đối xử dịu dàng và nó đã không buồn nhiều với tin phải ở lại lớp. Lúc đó, lý do chính đáng mà cô giáo nêu ra đã làm cho nó nguôi ngoai  nỗi lo buồn thua sút so với bạn bè cùng lớp. Thế nhưng, bấy giờ nghĩ đến cảnh thưa chuyện bị ở lại lớp với mẹ tương phản với thành tích trong học tập mà con em có được, nó thấy tim nó như bị ai bóp chặt. Buồn bã trao gói phần thưởng lại cho con em, nó nói:
- Vy cầm đi!
Con em ngạc nhiên:
- Sao vậy? Sao chị không muốn  ôm dùm gói phần thưởng cho em nữa vậy?
Con chị ủ rũ:
- Chị buồn quá!
- Vì sao chị buồn?
- Chị bị ở lại lớp rồi!
Con em thảng thốt, hạ thấp đôi tay tưởng như sắp đánh rớt cả gói phần thưởng xuống đất:
- Vì sao chị bị ở lại lớp vậy?
- Tại chị nghỉ học nhiều, thiếu bài không đủ điểm lên lớp.
- Thật vậy hả chị?
- Thật chứ!
- Chị nghỉ học nhiều tại chị bị bệnh nặng chứ đâu phải tại chị đâu mà cô cho chị ở lại lớp!
Con chị lắc đầu:
- Chắc có lẽ cô giáo chị nói vậy vì không muốn chị buồn thêm thôi chứ chị biết chị dở toán lắm.
Con em buồn bã:
- Tại chị không có ba, không có anh chị nào dạy cho chị nên chị không biết làm phải không?
Con chị rơm rớm nước mắt:
- Ừ! Nhưng mà bây giờ chị bị ở lại lớp rồi thể nào chị cũng bị đánh.
- Má không đánh chị đâu. Má biết chị bịnh và đang yếu mà!
- Má nói là đi học mà ở lại lớp má sẽ đánh.  Vy học có phần thưởng mà chị ở lại lớp thì chị sẽ bị đánh chứ sao khỏi!
- Em sẽ xin má đừng đánh chị!
Chờ chị mở cổng, con em nói tiếp:
- Phải chi bác Cả dạy cho chị dùm ba thì chị không học dở đâu phải không?
Liếc mắt vào ngôi nhà lớn, con chị lắc đầu.
- Chị không cần nhờ bác giúp đâu!
- Chị sợ bước vào nhà bác Cả một mình nên không nhờ bác dạy  phải không?
Con chị gật đầu, nói hết những ý nghĩ mà nó có trong đầu:
            - Ừ! Và có bao giờ bác hỏi chị em mình học hành như thế nào đâu mà nhờ? Có đời nào bác bước chân vào căn nhà nghèo nàn của mình để thăm hỏi mình đâu? Bác với bác Cả gái chỉ tiếp xúc với những người sang trọng quý phái chứ không nghĩ gì đến chị em mình đâu. Chị không mơ tưởng chuyện bác giúp cho chị!
Bước vào căn nhà nhỏ, con chị buồn bã:
- Phải chi má biết dạy cho chị thì chị không học dở đâu!
Đặt gói phần thưởng trên bàn, con em nói:
- Tại má không biết nhiều chữ, không dạy chị được cho nên chị bị ở lại lớp, má không đánh chị đâu.
Con chị không trả lời em, mở cặp, rút bảng thành tích biểu ra, đọc lẩm nhẩm. Con em sà vào bên chị, châu đầu, lướt mắt trên những lời phê rồi nói với giọng đầy thất vọng:
- Chị ở lại lớp thật rồi!
Thờ ơ gói phần thưởng trước mặt, con em lo lắng hỏi:
- Vì sao chị dám cãi bác Cả, dám ngủ ngoài vườn ban đêm mà sợ má đánh chuyện ở lại lớp?
 Con chị cúi đầu, nói thật nhỏ:
- Bởi vì học dở là ti đáng đánh mà! Má đi buôn bán khổ cực nuôi mình ăn học mà mình học dở không được lên lớp, bị đánh là đúng quá rồi! Đã đi học thì nhất định phải lên lớp chứ! Ngẫm nghĩ một lúc, nó buồn rầu nói tiếp - Chị nghĩ là chị đáng bị đánh vì tội này nhưng mà chị không thể học giỏi được.
Con em gãi đầu:
- Sao mình có nhiều tội trên đời vậy chị?
- Tội gì nhiều đâu?
- Tội ăn cắp nè, tội nói láo nè, tội ở dơ nè... còn tội học dở nữa đó!
- Mấy tội đó khác nhau chứ Vy!
- Khác nhau cái gì?
- Tội ăn cắp và nói láo thì bị xử khi mình chết. Dưới âm phủ người ăn cắp bị quỷ sứ chặt tay, người nói láo thì bị quỷ sứ cắt lưỡi. Còn tội ở dơ và học dở thì bị “người sống” xử! Nhưng may là tội do “người sống” xử ít hơn tội do người chết xử vì ma, và quỉ sứ là những người tàng hình họ bay bổng khắp nơi nên biết mình nhiều tội hơn người thường.
Con em không chú tâm đến lời giải thích dông dài của con chị, nó vẫn còn thắc mắc chuyện bị đòn vì “tội” không được lên lớp.
- Má học dở có bị đánh không? Con em hỏi thêm.
- Có chứ! Chắc má bị bà ngoại đánh chứ sao không! Mà mình không được hỏi như vậy đâu Vy! Hỏi người lớn như vậy là hỗn đó Vy!
- Nhưng mà ... chị Hạ nói không đúng đâu!
Con chị phùng má:
- Chị nói cái gì không đúng?
- Chị nói người chết tàng hình không thấy được, sao quỷ sứ cắt lưỡi người tàng hình được chứ?
- Chị chỉ nói người chết thành ma tàng hình thôi. Còn chuyện quỷ sứ cắt lưỡi là má nói. Ma tàng hình mà quỷ sứ cũng tàng hình luôn nên tàng hình trị tàng hình được! Chị nghe má kể chuyện trị ti dưới âm phủ do Diêm vương quyết định ra sao thì chị nói lại như vậy! Có phải chị nói trước đâu mà nói chị không đúng!
Con em không để ý lời biện luận lớn tiếng của chị, nó tiếp tục nói với đôi mắt mơ màng:
- Nếu ba tàng hình mà ba còn bày chị làm bài được thì chị không phải ở lại lớp đâu phải không?
Con chị nguôi giận, gật đầu tán đồng ngay:
- Ừ, Vy nói đúng đó...nhưng mà ba còn sống thì vẫn ngon hơn!
- Ngon gì?
- Ba sẽ dạy mình học. Ba đã dạy cho biết bao người ở quê ngoại và dạy cho cả má mình thì dạy cho chị em mình dễ dàng thôi. Mà ba sẽ dạy cho mình biết đủ thứ chứ không phải chỉ bày học thôi đâu. Chị em mình sẽ được học giỏi toán, giỏi nhạc và  cả đàn nữa!
- Vì sao chị biết?
- Không nhớ mấy bữa trước mình lén má lục cái tủ dưới bàn thờ ba sao! Cái đàn măng-đô-lin của ba, những quyển sách sưu tầm tài liệu của ba và cái ra đi ô do ba tự ráp chứng tỏ ba là người có tài.
Con em tán thành:
- Má có kể là ba làm thầy giáo. Ba làm thầy giáo dạy người ta thì dạy chị em mình được.
Ngưỡng mộ nhìn con em và gói phần thưởng, con chị nói:
- Vy học giỏi và có phần thưởng, lớn lên thế nào cũng giỏi như ba đó! Vy sẽ được trở thành người giàu như “nhà” bác Cả còn chị chắc sẽ nghèo như má.
            Khuôn mặt con em hớn hở hẳn lên. Nó đứng dậy, mở vội gói phần thưởng, nói huyên thuyên:
            - Khi nào em giàu em sẽ cho chị tiền, sẽ mua áo quần cho chị và sẽ nuôi chị với má.
Con chị chăm chú nhìn những ngón tay của em trên gói phần thưởng, hỏi dồn:
- Có con búp bê không Vy?
- Không, nhưng có mấy cuốn vở này. Em cho chị hai cuốn, em hai cuốn. Cái cặp là của em! Còn hp màu này, mình xài chung nghe!
Trao hai cuốn vở có hình Bạch Tuyết và bảng cửu chương đàng sau bìa cho chị, con em nói tiếp:
- Chờ khi em lớn lên, em giàu, em sẽ chia cho chị nhiều thứ nữa nghen.
- Ừ. Nếu lớn lên Vy giàu, con Vy sạch sẽ mà con chị dơ Vy cũng cho tụi nó chơi với con chị với nghe!
Con em nhanh nhẩu:
- Có chứ! Con của em sẽ cho con của chị chơi búp bê chung. Tụi nó chơi trong nhà không dơ như tụi mình bây giờ đâu!
- Nhưng mà lúc Vy giàu, Vy đừng chửi người nghèo là “ở dơ” hay “mọi rợ” nghen.
            - Không đâu! Em sẽ bày người nghèo đừng ở dơ nữa. Cô giáo nói ở dơ thường có bệnh đó chị Hạ! Và em cũng sẽ thương người nghèo lắm. Em sẽ cho người nghèo tiền nữa.
Con chị lắc đầu tuyệt vọng:
            - Chị cũng muốn học giỏi để lớn lên được giàu nhưng chắc chắn là chẳng bao giờ chị được giàu nữa đâu!
Dứt lời, nó tức tưởi khóc nức nở. Con em hốt hoảng bước đến ôm chị:
- Em sẽ cho chị tiền mà! Khi  nào em giàu, em có tiền là em cho chị tiền liền!
Bà mẹ vừa bước vào nhà, nghe tiếng khóc của con chị hốt hoảng hỏi con em:
- Vì sao chị Hạ khóc vậy Vy?
Con em rụt rè:
-... Dạ ...tại vì chị Hạ bị ở lại lớp đó má!
Con chị òa lớn tiếng khóc:
- Không phải con làm biếng học đâu má ơi! Má đừng đánh
con nghe má!
Bà mẹ thở phào:
- Vậy mà má tưởng chuyện gì! Má biết con không được lên lớp mà! Con nghỉ học quá nhiều không học đủ bài nên phải ở lại lớp thôi. Không có gì đáng buồn, đáng sợ cả. Má không đánh vì chuyện này đâu. Năm tới cố gắng học là con sẽ được lên lớp. Đừng buồn nữa!
            Trong vòng tay của mẹ, con chị ngước mặt lên nhìn bà với đôi mắt ngạc nhiên. Lời đe dọa ngày nào, “Má nói rồi đó! Nếu hai đứa không lo học để ở lại lớp thì đừng trách má đánh đòn! Má đã nói là má sẽ làm!” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đến độ khắc sâu vào tâm trí nó và nó tin rằng mẹ sẽ không bao giờ thay đổi lời bà đã nói. Những lời đe dọa của mẹ được nó chấp nhận như một tiêu chuẩn để nó có thể vượt lên đến đích học tập mặc dù trong thực tế, khả năng của nó không thể nào vượt qua. Giờ đây may mắn cho nó là mẹ nó đã không thực hiện những gì bà đã hăm he đe dọa. Trái lại, bà đã giải thích và dạy dỗ chị em chúng một cách ôn tồn:
- Má không biết chữ nên má không làm sao dạy các con học được. Các con phải tự cố gắng nghe lời cô giảng bài trong lớp. Học thầy, học cô nếu không hiểu thì hỏi bạn. Cuộc đời của má không biết chữ nên chịu nhiều thiệt thòi và các con cũng chịu thiệt thòi như má cho nên má ao ước là các con được học đến nơi đến chốn để đời con của các con đở khổ hơn các con bây giờ. Sở dĩ má la các con là má muốn các con học cao và có trình độ hơn má. Má muốn các con có sự học để có cuộc đời sung sướng hơn cuộc đời của má.
            Con chị toan nói cho mẹ nó biết là không phải đến lớp học nghe thầy cô giảng bài là có thể học được và giỏi ngay. Nó muốn kể cho mẹ nghe về trình đ khác nhau của những đứa học trò trong lớp và cách dạy đưa những đứa học giỏi làm mẫu đọc bài hay giải toán của cô giáo nó. Đa số những đứa học trong lớp nó là những đứa đã có kiến thức chuẩn bị trước bởi cha mẹ nhưng cô giáo lại căn cứ việc thu thập kiến thức bài học của lớp qua kiến thức của chúng và thường chú ý nhiều đến những đứa học giỏi này mà thôi. Nó cũng muốn cho mẹ nó rõ là theo cách dạy ấy, nó không thể nào theo đuổi kịp chúng bạn khi mà nó không có sự hỗ trợ và kèm dạy tại nhà bởi những người thân có trình độ. Nó cũng muốn nói thêm về quan niệm “Học thầy không tầy học bạn” của mẹ nó đề cập không thể áp dụng cho những đứa học trò trong bậc tiểu học nhất là những đứa đang học cùng lớp với nó. Những đứa học giỏi thường là những đứa có tham vọng hơn người và ích kỷ. Bởi vì không bao giờ muốn ai hơn mình để chúng có thể đạt điểm cao nhất lớp và đạt những phần thưởng cuối năm, chúng sẵn sàng che từng chữ để không bị ai cóp pi, cũng như không hề muốn cho ai hiểu những gì chúng biết. Những đứa được giải thưởng hạng ba thì mong đạt hạng nhất nhì, đứa hạng nhất thì mong đạt hạng danh dự. Những thứ hạng mà nó không bao giờ mơ tưởng đạt được trong đời. Nó cũng muốn nói với mẹ là nó thực tâm muốn học giỏi nhưng mà những cay đắng về sự bất hòa giữa mẹ nó và gia đình nội, những nghi vấn về sự đối lập giữa ngọn đèn dầu leo lét trong căn nhà nhỏ và ánh đèn sáng trưng của ngôi nhà lớn và những lời chửi mắng mỗi ngày trong khuôn viên nhà thường làm cho nó có những mơ mộng và tưởng tượng một thế giới an bình thay vì chăm chú nghe cô giảng bài.
Những điều nó muốn nói bị quên đi ngay khi nghe được những lời tâm sự chân thành của mẹ khi bà đề cập đến sự thất học của bà. Nó hỏi:
- Vì sao má không biết chữ?
- Khi má nhỏ, ông ngoại dạy chữ nho, ông không cho con gái đi học. Má và mấy dì phải đi làm rung, chỉ có mấy cậu mới được đi học chữ Việt đến trung học.
- Vì sao ông ngoại không cho con gái đi học vậy hả má?
- Vì ông ngoại quan niệm con gái học nhiều chữ, viết thư cho con trai không tốt!
- Vì sao bà ngoại không nói ông ngoại là má không viết thư cho trai và khuyên ông ngoại cho má đi học?
- Ông ngoại nói gì bà ngoại phải nghe nấy có bàn cãi được gì đâu! Bà ngoại cũng nghĩ  là má nên ở nhà phụ làm ruộng hơn đi học cho nên má mới ra nông nỗi không biết chữ nghĩa gì cả.
- Như vậy tại ngày xưa con gái hay viết thư cho trai nên ông bà ngoại không cho má đi học hả?
- Đâu có đâu con! Thời đó con gái nào mà dám suồng sã như thế! Tại ông bà ngoại sợ nên mới cấm vậy thôi.
Con chị thở dài:
- Con chưa gặp ông bà ngoại nhưng mà...
Nó bỏ lửng câu định nói thêm “con nghĩ ông bà ngoại khó chẳng khác gì những người lớn trong gia đình nội” khi nhìn đôi mắt lo âu và dò xét của mẹ.
 
 
 
 
           
 
#31
    Cung Thi Lan 21.08.2007 15:30:57 (permalink)
         Chương Hai Mươi Sáu
     
     
     
     
     
     
     
    Con chị gục đầu chống vào phần tựa của chiếc ghế trước mặt. Cảm giác háo hức vì được đi xe hơi lần đầu tiên và xôn xao vì được về thăm quê ngoại bị tiêu tan khi chiếc xe đò nặng nề leo lên dốc của đèo Cả. Trong khi chiếc xe từ từ xuyên qua ngọn đèo ngoằn ngoèo, con chị nôn thốc nôn tháo không ngừng vào trong chiếc bao ni lông trắng mà mẹ nó chuyền vào tay. May mắn cho nó là được ngồi sát cửa sổ của xe đò cho nên khi túi ni lông đầy thức ói mửa nó có thể quẳng xuống đường đèo để vòi cái khác. Mùi hơi người quyện lẫn mùi xăng và khói xe làm nó cảm thấy khó chịu. Đầu nhức, cổ lờn lợn và bụng xông xốc bởi những cái thắng gấp của chiếc xe; nó cảm thấy mệt lả. Vật đầu ngửa ra sau, nó nhắm mắt lại để cố giảm bớt cơn chóng mặt và kềm hãm những cơn ói kế tiếp.
    Con em ngồi cạnh, nhăn mặt:
    - Chị Hạ mửa hôi quá hà! Sao chị mửa nhiều dữ vậy? Chị bị đau hả?
                Con chị chưa kịp trả lời, vi cúi đầu xuống ói thốc vào trong cái túi ni lông chứa lõng bõng thức ăn và nước dãi nhầy nhụa mà nó chưa kịp quẳng ra ngoài xe.
    Bà mẹ đang cúi đầu lúi húi lục trong cái giỏ dưới chân, kiếm thêm  túi ni lông, dúi vào tay con em:
    - Giữ cái túi ni lông này cho chị! Đây là cái túi ni lông cuối cùng. Nếu chị con còn mửa nữa, phải mửa ra ngoài xe thôi. Chị con mửa không phải vì bị đau đâu mà vì say sóng đó!
    Con em tròn mắt ngạc nhiên
    - Mình  đâu có đi biển đâu mà say sóng vậy má?
    - Say sóng là đi xe hơi không quen bị mửa.
    - Con cũng đi xe lần đầu tiên sao con không bị say sóng?
    - Có lẽ tại con khỏe hơn chị.
    - Nhưng mà bây giờ chị Hạ mửa hôi quá làm con cũng muốn mửa theo! Con em bịt mũi than.
    Bà mẹ cằn nhằn:
    - Tối hôm qua má đã nói ngủ sớm đi mà hai đứa không chịu nghe! Ngủ không đủ, hay bị say sóng khi đi xe hơi lắm mà! Thôi thì giữ cái túi ni lông đó đi, có mửa thì mửa vào trong đó!
    Con chị không nói được lời nào. Nước mắt nước mũi nó trào ra tràn đầy trên mặt. Chưa kịp gạt tay lau, nó lại cúi xuống, đưa miệng vào chiếc bao ni lông ói ra những giòng nước xanh, rồi nước vàng. Nhăn mặt, nó quẳng túi ni lông xuống đường và rùng vai liên tiếp. Bà mẹ vội vàng đứng dậy bảo con em thay chỗ ngồi. Đỡ đầu con chị nghiêng vào vai, bà rút khăn lau mặt, xoa dầu cù là vào cổ và trán nó, rồi bảo:
    - Con để đầu xuống đây đi! Nhắm mắt lại cho đỡ chóng mặt thì không bị mửa nữa. 
     Nghe lời, con chị ngả đầu xuống, lăn vòng trên đùi mẹ, nhắm mắt. Miệng nó đắng ngắt vì chất nước xanh vàng vẫn còn vương trong cổ họng. Nó muốn xin mẹ nó nước uống để làm sạch cái cổ đắng nhưng lại sợ bị ói nữa nên đành nằm yên. Đầu của nó bị xóc lên xuống theo nhịp chạy của xe, và thỉnh thoảng bị tuột xuống bởi những lần xe thắng gấp nhưng sau đó được giữ lại và được vuốt ve bởi đôi bàn tay dịu dàng của bà mẹ và nó an  tâm  rơi vào giắc ngủ bình yên. Vài giờ sau, tiếng nói xôn xao của mọi người làm cho con chị choàng tỉnh. Nó giương đôi mắt ngái ngủ nhìn mẹ.
    - Đã đến nơi rồi hả má?
    Bà mẹ gật đầu:
                - Đã đến bến xe Tuy Hòa rồi nhưng con cứ nằm một chút nữa đi. Chờ người ta đi xuống hết rồi mình xuống.
    Con chị vùng dậy, nhìn qua cửa xe. Nhiều người đi tới lui chộn rộn giữa mấy chiếc xe đò trên bãi đậu. Họ gọi nhau, nói chuyện với nhau với những âm thanh lạ kỳ, lúc thì nhão nhoẹt lúc thì nặng nề chói tai.
                Con em  vươn vai, vừa ngáp, vừa hỏi:
    - Ủa! Đã đến quê ngoại, đến nhà ngoại rồi hả má?
    Bà mẹ khom lưng rút hai chiếc giỏ dưới gầm ghế ra vừa trả lời
    - Chưa đâu con. Mình chỉ mới tới Tuy Hòa thôi chứ chưa đến nhà ngoại. Mình phải đón xe lam lên ngã ba Quốc lộ rồi đi bộ lên Minh Đức mới tới .
    Đôi mắt con em sáng rực, tỉnh hẳn cơn ngái ngủ:
    - Đi bộ nữa? Trời ơi! Sao mình phải đi bộ? Mình phải đi  bộ xa lắm không hả má?
    - Chắc là khoảng ba cây số thôi con. Thường thường từ sáng sớm đến trưa hay có xe ngựa đi từ Ngã Ba Quốc Lộ vào làng Minh Đức nhưng bây giờ đã ba bốn giờ chiều rồi không còn xe ngựa nữa. Mặc may thì đón được xe ngựa còn không thì phải đi bộ thôi.
    Xuống xe lam là lúc trời đã về chiều và quả như bà mẹ nói, ba mẹ con không tìm thấy xe ngựa nào đi về  phía làng Minh Đức. Hai tay hai chiếc giỏ nặng trĩu, bà mẹ vội vã bước nhanh về phía trước, hai đứa nhỏ xách hai chiếc giỏ nhỏ đi chầm chậm theo sau. Trên đường đất thoai thoải mà dọc hai bên là những ngôi nhà mái tôn vách đất được xây trên  cao,  con chị ý thức được nó đang đi dần dần xuống một con dốc đất. Những làn gíó mát rượi từ dưới dốc thổi lên làm nó cảm thấy dễ chịu. Vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, con chị khoan khoái mỉm cười. Nó thà đi bộ và hít khí trong lành còn hơn bị tù túng ngồi chẹt trong xe và ói mửa không ngừng. Đến lúc ấy nó không còn nghĩ chuyện đi xe hơi bác Cả là ao ước của nó nữa. Bất chợt, một giọng nói  đầy luyến âm và láy nhão cắt đứt giòng tư tưởng của nó:
    - Coi nẫu chớ bay! Nẫu ăn mặc cái kiểu gì lạ chưa bay!
    Đưa mắt nhìn bên vệ đường, con chị  bắt gặp những ánh mắt tò mò của những đứa trẻ ở cùng độ tuổi đang ngưng trò chơi đá cầu. Sắc phục đơn giản và nước da đen cháy của chúng làm con chị  chăm chú nhìn kỹ hơn. Đa số bọn chúng đi chân đất, con trai ở trần mặc quần đùi nâu hay đen, con gái mặc quần đen và áo ba bà màu sẫm. Khi đi qua mặt bọn chúng, mặc dù đi gần sát, nó chỉ hiểu được bập bõm vài chữ mà bọn con nít đang nói chuyện với nhau. Nghi hoặc bọn nhỏ nói xấu điều gì về mình, con chị mắc cở, nhấc cánh tay đang xách chiếc giỏ nhỏ lên cao để kéo vành mũ xuống che khuất đôi mắt. Con em ngoài cổ nhìn bọn chúng, chỉ tay bảo con chị:
    - Coi kìa chị Hạ! Chiều rồi mà tụi nó còn đi chân không! Tụi nó còn dơ hơn tụi mình đó chị!
    Con chị nói nhỏ:
    - Kệ tụi nó! Ngó tụi nó làm chi cho tui nó để ý.
    Mấy đứa nhỏ tinh nghịch ném vài hòn đất nhỏ sau lưng hai chị em. Quay phắt người ra sau, hai đứa trợn mắt, gườm gườm nhìn bọn trẻ. Chưa kịp nói lời đay nghiến nào để trả đũa hành vi chọc phá, cả hai há hốc miệng, lắng nghe những người lớn đang đứng gần đó mắng bọn trẻ xối xả:
    - Chơi “dãy sao” bay? Khiến nẫu chửi hửng? Đi dìa đi! Đừng chơi ở dây nữa!
                Một người đàn ông đạp xe đạp chạy ngang ngoái đầu nhìn bà mẹ, hỏi trống không:
    - Dìa Minh Đức phải không “dãy”? Quá giang xe không?
    Bà mẹ nói to đáp lại:
    - Dạ không cảm ơn anh. Tui đi có tới ba mẹ con còn bao nhiêu giỏ xách nữa làm sao anh chở cho hết
    Ông ta ngừng xe, hỏi tiếp:
    - Dìa nhà ai ở Minh Đức “dãy”? Muốn chở dùm một đứa không?
    Hai đứa nhỏ nhìn người đàn ông lạ lắc đầu nguầy ngậy trong khi bà mẹ đặt hai chiếc giỏ xuống đường, vừa lau trán vừa tươi  cười:
    - Tụi này không bao giờ để người lạ chở đâu anh!  Nếu có tiện đường thì anh làm ơn ghé vào nhà bà Năm Điền nhắn dùm có con Ba Háo ở Nha Trang về thăm. Tui cảm ơn anh nhiều lắm.
    - Được rồi! Tui đi ngang ngõ đó mà. Để tui báo bả cho!
    Dứt lời, người đàn ông đạp xe vùn vụt xuống dốc và ba mẹ con với những chiếc giỏ nặng trĩu đi sau.
    Cuối con dốc, hai dãy nhà bên đường chấm dứt bằng những khóm tre cao ngất. Trước mặt ba mẹ con là cánh đồng bao la bát ngát. Cánh đồng giục bà mẹ nhanh bước mặc dù hai chiếc giỏ oằn nặng như muốn tuốt hai cánh tay bà ra khỏi thân. Con em bước nhanh theo mẹ. Nó xuýt xoa luôn miệng:
                - Quê ngoại đẹp quá! Đẹp nhất trên thế gian này đó má!
    Con chị im lặng bước chầm chậm đàng sau. Nó không ghẹo con em khi con này nói những chữ “đẹp nhất trên thế gian” như những lần trước. Cái đẹp thực tế của cánh đồng hoàn toàn thu hút nó. Chưa bao giờ, ngay cả trong cảnh thần tiên khi mơ mộng và tưởng tượng, nó thấy màu xanh lá cây nào đẹp như những màu xanh lá của cánh đồng trước mặt. Màu xanh phơi phới của cỏ, xanh mơn mởn của lúa non, xanh vàng của lúa đang chín, xanh lá cây tươi của những khóm chuối, xanh nhạt nhòa của những khóm tre, và xanh lá nâu thẫm của cây cối phủ trên những ngọn núi xa xa, đều đón chào nó nồng nhiệt như chúng đang khoe tất cả màu xanh lá cây đẹp  nhất của trần gian. Đôi mắt con chị đói khát nuốt chửng những làn sóng lúa xanh đang đuổi nhau tận tít chân trời. Nó mơ mộng là người lữ hành tự do đang lang bạt trên con đường đất vắng mà hai bên đường chỉ có một màu xanh lục và xanh lá non. Những màu xanh thiên nhiên đang lung linh nhảy múa và reo vui với những cơn gió như đang reo vui trong ý nghĩ của nó. “Quê ngoại của mình đẹp lắm! Đẹp đến nỗi không nơi nào sánh bằng, chứ không phải là ‘xứ nẩu’ mà các cô hay châm biếm đâu!” Hít sâu mùi thơm của lá, và của lúa, con chị khoan khoái ngẩng đầu lên. Bầu trời xanh ở trên cao với những cụm mây trắng như bông dường như rơi xuống thấp hơn để đùa vui với đàn chim cánh trắng đang bay la lả. Nó hân hoan  đón những cơn gió thơm mùi lúa chín và mùi cây cỏ quyện lại trong khi bước đều đặn theo sau mẹ và em.
    Đi hết cánh đồng, ba người  đi chầm chậm vào ngôi làng nhỏ nơi có rất nhiều vườn chuối và nhà tranh vách đất. Bà mẹ vẫn là người đi đầu, con em bám chặt theo sau và con chị đi tuột xa tít sau cùng. Một vài người bên đường đi theo bà mẹ hỏi một vài câu lớn tiếng như tiếng nói của người đàn ông họ gặp trên con dốc. Những câu hỏi trong trỏng, trống không, đứt đoạn, không đầu không đuôi, không chủ ngữ, không vị ngữ, và cũng không rõ ràng dành cho người nào. Ngang qua nhóm chợ chiều, con chị nhíu mày khó chịu nghe những câu hỏi như hỏi cung do ba người đàn bà đặt ra khi họ vây quanh bà mẹ và con em giữa đường
    - Chời quơi! Con Ba Háo đây na bay? Lấy chồng ở thành phố từ “năm nẵm” giờ mới dìa sao hả Háo?
    - Mấy đứa con gái của mày lớn chừng dầy rồi hửng? Lấy chồng thành thị cách gì mà con lớn chừng dầy mới về quê “dãy” mày?
    - Mày biết ba mày chết chưa “dãy” Háo? Tệ gì mà tệ dữ “dãy” mày! Ông Năm Điền bịnh nặng nhắn mày mấy bận, chờ mày hết ngày này sang ngày khác mà sao mày đành tâm không dìa “dãy”mày? Chời quơi! Lấy chồng thành thị cách gì mà cha chết không dìa gặp mặt “dãy”!
    Bà mẹ ậm ừ trong miệng một vài lời gì đó mà con chị, dù đã đi đến sát bên cạnh bà, không thể nào hiểu được bà đang chào mấy người đàn bà kia hay qua loa những lời vô nghĩa để tránh khỏi trả lời những câu hỏi tò mò đường đột. Nó liếc ba người đàn bà đi chân đất, quần ống cao ống thấp, và những chiếc nón lá rách tả tơi với ánh nhìn ác cảm. Tiếng nói “đồ dân nẫu” vang lên làm nó thảng thốt. Nó nhận ra tiếng nói ấy không phải là tiếng nói của bà bác Cả hay cô Út mà chính là tiếng nói khe khẽ thốt ra từ trong hai hàm răng của nó. Nó cũng nhận ra rằng tiếng nói xúc phạm vừa qua không phải xuất phát từ trong đầu mà thật sự từ trong miệng của nó. Cho dù tiếng nói ấy có khẽ đến độ chẳng ai nghe được, nó ân hận vì đã nói những chữ hỗn xược. Nó trách những người đàn bà quá nhiều chuyện khiến cho nó đã thốt ra những chữ mà nó từng ghét cay ghét đắng mỗi khi nghe mẹ nó bị làm bẽ mặt trong khuôn viên nhà họ Hoàng. Nó suy nghĩ và tự an ủi lương tâm là những chữ “đồ dân nẫu” từ miệng nó không phải bắt nguồn cách phục sức mộc mạc bình dân của những người ở quê ngoại mà bởi vì cung cách ba người đàn bà nông thôn mới gặp này đối xử với mẹ nó giữa đường lộ một cách quá suồng sã, và bất lịch sự. Buồn thay, do bị thu thập và nhập tâm  từ lâu đời, nó đã thốt ra những lời mà nó từng oán ghét .
                Ba người đàn bà bị con chị rủa thầm “thứ nẫu” kia không hề biết họ đang bị khinh ghét, cũng như không hề hay biết họ đang làm chuyện mà những người văn minh thành phố gọi là “lắm điều, nhiều chuyện”; họ chụm lại nhau thành một nhóm nhỏ, bàn tán lớn tiếng với nhau:
    - “Dãy na” chị? Từ ngày nó đi lấy chồng nó chưa dìa đây lần nào sao?
    - Dìa nẳm nào đâu? Cha nó bệnh nó cũng không dìa, cha nó chết nó cũng không dìa, “nẫu, nẫu” ở đây nói biết mấy mà bà không nghe “dãy”?
    -Tệ gì tệ dữ “dãy” ông! Tui tưởng nó không dìa thăm lúc ba nó chết chứ đâu biết nó chưa dìa năm nào! Ăn ở như “dãy” làm sao “nẫu” không nói được ông!
    Ba mẹ con bước đi nhanh như chạy; dường như họ chẳng muốn nghe những điều ba người đàn bà kia bàn tán sau lưng, thế mà, họ cứ phải đi trước những người ấy. Vài người đi chợ về, đi theo toán người tạo thành một cái đuôi dài. Đến ngã ba, bà mẹ bước ngập ngừng nhìn con đường có chiếc cầu gỗ dẫn ra cánh đồng lúa xa một lúc rồi đi rẽ về phía con đường đất hẹp giữa lũy tre thẳng tắp chạy dài ôm vòng những ngôi nhà dưới chân núi và cánh đồng rau muống, rau môn nối liền với cánh đồng lúa rộng mênh mông xa tít đến chân trời. Hàng tre xanh um, cao ngất và thẳng tắp ven đường thỉnh thoảng bị những tảng đá thấp có mặt phẳng láng làm đứt ngang. Những tảng đá này được xem là những “cái cổng” hay “ cái ngõ” khi mà chúng thông thương những căn nhà tranh vách đất qua vườn chuối hay vườn hoa với con đường đất trước mặt. Những đứa nhỏ đang chơi trước “cổng” vụt chạy theo sau toán người, reo hò ầm ĩ. Chúng trầm trồ và xuýt xoa hai bộ đồ  sáng rực cùng màu mà hai chị em con nhỏ đang mặc. Và cứ như thế, họ trở thành đám rước linh đình mà trong đó ba mẹ con nghiêm trang đi trước với đám người cười nói ồn ào với những tiếng “nẫu”, “dãy na”, “quý trời đất quơi!” sau lưng.
    Đến một tảng đá khá lớn, bằng phẳng và láng bóng, bà mẹ dừng lại đặt hai chiếc giỏ lên trên. Hai đứa nhỏ tin chắc là mẹ chúng định ngồi nghỉ mệt, toan đặt những chiếc giỏ nhỏ mà chúng đang xách cạnh bên, phải trố mắt ngạc nhiên nhìn đám người đàn ông đàn bà, thanh niên thanh nữ và trẻ con, từ hai căn nhà tranh thấp thoáng bên trong, ào ạt chạy ra, rối rít gọi chào:
    - Chị Ba dìa! Chị Ba dìa đúng rồi mẹ “quơi”!
    - Đi “dô”  nhà mau lên “quớ” chị Ba! Mẹ đang ở trong nhà đó chị!
    - Hai cháu đây “na”? Đi mau với dì “dô” nhà chào “quại” “quớ”  cháu!
    Hai đứa nhỏ ngỡ ngàng khi mà những chiếc giỏ của bà mẹ và của chúng bị xách đi mà không được một lời hỏi ý kiến có thuận hay không. Chúng lặng lẽ bước theo mẹ và toán người trên lối trồng những cánh hoa nhỏ có màu cam thẫm buồn bã hai bên, rồi ngang qua vườn chuối đầy những buồng xanh, qua cái lu nước cạnh bụi hoa đỏ thắm bên cái sân xi măng rộng chứa đầy lúa phơi, qua cái nhà mái tranh vách đất đồ sộ để đến căn nhà nhỏ cũng vách đất mái tranh nơi mà đám gà vịt lớn nhỏ chạy lộn xộn ra ra, vào vào trong nhà, bậc cấp hay sân đất tự do trong khi tiếng vịt kêu, lợn la ủn ỉn náo động hơn tiếng nói cười xôn xao của người bu quanh trước cửa.
    Một bà lão vóc người nhỏ thó trong chiếc áo dài đen ngắn ngủn đến tận đầu gối, tóc bạc búi cao, gương mặt xanh xao với nhiều vết nhăn trên trán, trên góc đuôi mắt, trên má và ngay cả trên đôi môi khô, ngỡ ngàng nhìn đám đông người đang vây quanh trước cửa nhà bà.
    - Chị Ba dìa rồi đây mẹ! Một người đàn bà, kéo tay bà mẹ đẩy sát trước mặt bà, nói.
    Chằm chằm ánh mắt trên khuôn mặt bà mẹ như muốn nhận rõ chắc chắn điều vừa nghe, đôi mắt của bà lão tóc bạc như bị thôi miên và bà mẹ bước nhanh về phía trước, đến sát mặt bà lão tóc bạc hơn, nói trong nức nở:
    - Mẹ ơi, con đưa hai cháu về thăm mẹ đây!
    Hai đứa nhỏ được lôi ra khỏi “đám rước”,  đến giữa bà mẹ và bà già tóc bạc, khoanh tay cúi đầu như mẹ bảo:
    - Dạ thưa bà ngoại, chúng con về thăm ngoại.
    Như bị một cơn gió độc đột ngột tạt vào, khuôn mặt bà lão tóc bạc trở nên lạnh lùng như một khối băng. Nguẩy đầu, quay phắt người đi vào nhà, ngồi cạnh chiếc ghế cạnh bàn thờ có cẩn xà cừ giữa nhà, bà nói rành rọc từng chữ như cố mài chúng thành những lưỡi băng đá sắc bén:
    - Đi luôn đi! “Dìa” đây làm gì “dãy”? Bỏ cha, bỏ mẹ được thì cứ đi luôn! Bây giờ là người tỉnh thành rồi còn biết gì quê cha đất tổ nữa!
    Bật khóc nức nở trước ngưỡng cửa, bà mẹ nói không ngừng như thể chưa bao giờ được tự do nói:
    - Tại sao mẹ nỡ đuổi mẹ con con đi? Đâu có phải là con không muốn về thăm cha, thăm mẹ, nhưng mà từ khi chồng con chết, con phải làm việc vất vả để nuôi hai đứa con của con, “lớp” ăn, “lớp” học, con không thể nào kiếm được tiền xe về quê. Con mang tiếng lấy chồng thành thị mà có ích sướng gì đâu hả mẹ? Thân con chỉ là con tôi, con mọi trong gia đình chồng của con mà có cha mẹ anh em nào biết cho? Con tưởng đâu là con về đây được mẹ và anh chị em thương lo chăm đón ngờ đâu cả mẹ cũng hất hủi con. Có phải mẹ giận con vì cha đau nặng mà con không về thăm cha không? Mẹ oán con vì lúc cha chết con không về để nhìn mặt cha lần cuối phải không? Sao mẹ không thương con mà hiểu dùm cho con là con không có tiền để đi xe về? Con là người chứ có phải là súc vật đâu mà không biết tình cha con, hả mẹ? Tại sao mẹ nỡ...
    Bà mẹ càng nói, tiếng nói của bà càng sôi nổi và mạnh mẽ như thể bà khí thế lắm, vậy mà chưa thố lộ hết nỗi uất ức, toàn thân của bà lả dần như sắp quỵ xuống trước cửa ra vào khiến mọi người sợ hãi vội vàng dìu bà đến cái giường tre cạnh bàn thờ.
    Người đàn ông trung niên, trong bộ đồ bà ba nâu đen, đến bên bà già tóc bạc khuyên can:
    - Con đã nói với mẹ nhiều lần rồi! Nó làm gì có tiền mà đưa con nó “dìa” đây chịu tang cha? Ai cũng có phần số và duyên kiếp. Số nó không được gặp cha lần cuối cũng phải chịu thôi!
    Một người đàn bà trẻ, kéo tay hai đứa nhỏ đặt trên hai vai của bà lão tóc bạc.
    - Nói xin lỗi “quại” dùm cho mẹ cháu đi! Nghe lời dì Bảy đi cháu!
                Con em sợ sệt rụt tay về. Con chị đứng yên không phản đối nhưng ánh nhìn của nó vô cùng ác cảm trên khuôn mặt bà già tóc bạc, người đã làm cho mẹ nó khóc vật vã và đau khổ. Thình lình, bà già tóc bạc chụp lấy bàn tay nó, khóc sướt mướt:
                - Cháu tui ở thành thị mà ốm yếu “dãy” na trời? Ở trỏng mẹ không có gì cho cháu ăn sao hả cháu? Mẹ cháu làm không đủ nuôi cháu ăn phải không?
    Nước mắt con chị rớt ra. Nó không biết đối phó như thế nào với cái đầu đang khóc nấc trên ngực và cái ôm đang xiết cứng toàn thân của nó. Nó mang máng nhớ lại câu ca dao tục ngữ mà mẹ nó thường ngâm nho nhỏ trong một giọng trầm buồn vào những lúc nào đó trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó: “Nghèo thì mất thảo mất ngay, ơn cha cũng bỏ nghĩa thầy cũng quên!” Nó không nhớ là mẹ nó đã đọc những câu câu ca dao này vào những lúc nào nhưng vì nó nghe nhiều lần như tiếp thu một khúc nhạc đơn điệu được lập đi lập lại hoài nên nó đã thuộc lòng vanh vách. Đến lúc ấy, nó hiểu thêm về chữ nghèo mà mẹ nó âm thầm than thở một mình. Giận bà ngoại đã gây ấn tượng không thú vị trong phút ban đầu và làm cho mẹ nó buồn, nhưng nó vẫn đứng yên cho bà ôm chầm và than khóc.
    Một người đàn ông trẻ hơn và thấp hơn người đàn ông trung niên, đưa cho hai chị em chúng mỗi đứa ba cây nhang:
    - Lạy ông ngoại đi hai cháu!
    Nghe lời ông ta, hai đứa nhỏ ngoan ngoãn xá lạy tấm hình của ông lão hiền hậu trên bàn thờ ba lần. Khi bà mẹ lục lọi trong hai chiếc giỏ và đem ra những thứ trái cây, thức ăn, nhang, bánh thắp hương, chiếc bàn thờ trở nên thịnh soạn và ấm cúng hơn.
                Đám đông hàng xóm đang tò mò hóng chuyện được thưa mời về, lặng lẽ giải tán. Những người còn lại trong gia đình hàn huyên, tâm tình cho đến chiều tối. Qua đối thoại của họ, hai đứa nhỏ biết được người đàn ông trung niên, cao nghều như cò là cậu Hai, anh của  mẹ nó và là con trưởng của gia đình. Người đàn bà thấp như vịt đẹt là vợ cậu Hai, mợ Hai. Tuy là cặp vợ chồng có chiều cao chênh lệch khá rõ, họ kế thừa cơ ngơi khổng lồ sau khi ông ngoại qua đời  chẳng khác nào như cơ ngơi của ông bà bác Cả trong khuôn viên nhà họ Hoàng sau khi ông nội nó qua đời. Họ có một căn nhà đồ sộ, một cái sân phơi lúa vuông vức, và ba thửa rung lúa rộng lớn. Không  những họ được “hào của” mà còn được cả “hào con”. Sáu người con của gia đình họ là con số kỷ lục mà chẳng có người bà con nào trong dòng họ dám đạt đến. Chị Vịnh, con đầu của họ hơn con chị hai tuổi, chị Vương bằng tuổi con chị, và bốn người kia, anh Dân, chị Tín, anh Tiến và anh Cu Tèo, đều nhỏ tuổi hơn cả con chị và con em nhưng hai chị em nó phải lễ phép xưng hô anh chị và khoanh tay cúi đầu chào kính trọng như người lớn vì vai vế họ cao hơn chúng trong mối quan hệ bà con: cha của họ là anh của mẹ hai đứa nhỏ. Bà mẹ là người con thứ hai của gia đình nhưng được gọi là Ba khi mà người con đầu đáng lẽ phải gọi là Nhất hay Một, lại được gọi là Hai, cậu Hai. Và do lẽ đó, bà mẹ có đến hai tên thứ: “Ba” theo thứ tự trong gia đình mình và “Năm” theo thứ tự ra đời của ông chồng. Dì Bốn,  có khuôn mặt giống bà mẹ cũng như những bà dì kia như tạc nhưng đẫy đà nhất trong đám chị em, đã từng đóng kịch giả làm bà mẹ để  trấn an ông bố của hai chị em con nhỏ bằng cách nhận lời kết hôn sau khi ông được súc ruột lần tự tử thứ hai. Dì Bốn cũng như dì Sáu, dì Bảy đều có hai đứa con gái, và đều ở nhà chồng gần đó. Họ không thể ở trong khuôn đất nhà bà ngoại bởi vì phận họ là gái, có chồng phải theo chồng. Chỉ có anh Thu con của dì Năm đã chết và cậu Tám là người được ở chung với bà ngoại và cậu Tám. Anh Thu thường đi sớm về tối để giúp bà ngoại trong việc đồng áng. Anh có vai em trong mối quan hệ bà con với hai con nhỏ vì mẹ anh ta thứ năm, em gái của bà mẹ, nhưng do tuổi anh lớn hơn hai đứa nhỏ khá nhiều nên chúng khăng khăng gọi là anh. Cậu Tám học cao nhất trong gia đình ngoại, đang làm thôn trưởng cho thôn Minh Đức và có khả năng làm xã trưởng trong tương lai. Cậu chuẩn bị làm đám cưới với vị hôn thê đang sinh sống tại thị trấn Tuy Hòa.
    Tối hôm ấy anh Thu giúp bà ngoại lo cơm nước. Ba mẹ con hai đứa nhỏ ăn cơm với bà ngoại, cậu Tám và anh Thu. Bữa cơm chỉ có rau muống luộc chấm mắm, và cá rô nướng vậy mà hai chị em con nhỏ ăn rất nhiều cơm. Cơm lúa mới hạt thơm và dẻo như nếp tươi làm chúng thấy ngon miệng.Ăn xong, cậu Tám và anh Thu xin ngủ nhờ tại nhà cậu mợ Hai.
     
     
     
     
     
    #32
      Cung Thi Lan 22.08.2007 16:21:26 (permalink)
            
      Chương Hai Mươi Lăm
       
       
       
       
       
       
       
       
      Ngày cuối niên học năm ấy là ngày hạnh phúc nhất của con nhỏ em và là ngày hãnh diện của con chị bởi vì con em được lãnh thưởng hạng nhì. Trong buổi lễ phát thưởng, thầy cô giáo, cha mẹ, học sinh đứng chật ních quanh cái cột cờ giữa sân trường. Con chị cùng mọi người đứng trang nghiêm dự lễ. Nó im lặng nghe các cô giáo của khối lớp hai đọc danh sách những học sinh được phần thưởng danh dự và phần thưởng các thứ hạng mà tưởng như lồng ngực của nó muốn vỡ tung. Hôm ấy mẹ của chúng không thể đến dự lễ vì phải buôn bán và chỉ mình nó là thành viên duy nhất trong gia đình sắp được chứng kiến giờ phút vinh dự nhất trong đời mà nó thường ước mơ có được.
      Cô giáo lớp 2A lộng lẫy trong chiếc áo dài ngọc bích, kêu lớn tên của con nhỏ em:
      - Hoàng thị Thảo Vy được giải thưởng hạng nhì. Cô mời em Hoàng Thị Thảo Vy lên nhận phần thưởng.
      Con chị sung sướng nói với đứa học trò cùng lớp đang đứng cạnh:
      - Tên của em tui đó!
      Con nhỏ nhún vai ngó nó một thoáng rồi nhìn thẳng. Những đứa khác cũng không nói gì. Ngượng ngập, nó rướn cổ  cao hơn những cái đầu trước mặt để  nhìn về phía đám học trò khối lớp hai. Từ trong dãy hàng của lớp, con em len lỏi xuyên qua đám học trò để 
      bước nhanh lên bục đài gỗ trước mặt. Dáng nhỏ nhắn của nó dễ thương trong chiếc áo đầm trắng phồng to bởi cái ríp bông bên trong. Hên cho nó là hôm nay nó mặc cái ríp bông nên chiếc váy được xoè ra chứ không bị xẹp như chiếc áo đầm mà con chị đang mặc. Mẹ chúng chỉ mua cho một cái ríp bông cho nên hai đứa phải chơi cái trò “bao tiếng xùm, bum tiếng xà” để biết ngày nào cái ríp bông sẽ thuộc về đứa nào. Hôm ấy nếu không là phiên con em mặc cái ríp bông thì chắc chắn con chị cũng nhường cho em bởi vì nó hãnh diện khi thấy em trên bục lãnh thưởng trước toàn thể thầy cô và học trò trong trường. Con em đưa tay đón gói phần thưởng to được bọc giấy bóng kính đỏ trên tay cô giáo rồi cúi đầu quay bước xuống bục đài. Thấy em khệ nệ ôm phần thưởng trở lại hàng của nó, con chị vừa vui mừng, vừa nôn nao. Nó muốn chạy ngay đến chỗ con em để tò mò xem những gì có trong gói quà thưởng to thật to ấy nhưng nó phải tuân theo kỷ luật của buổi lễ là giữ im lặng cho đến khi buổi lễ kết thúc.
      Cuối cùng, buổi lễ cũng chấm dứt và mọi người lần lượt đi ra khỏi trường. Người lớn, trẻ nít, cha mẹ, học trò nôn nao, rộn ràng trên khắp nẻo đường về nhà. Hai đứa nhỏ tung tăng đi giữa rừng học trò, lòng vui như hội. Con em hãnh diện với món quà thưởng trên tay, con chị đi cạnh em hãnh diện không kém. Được đi bên em với gói phần thưởng bọc giấy kính đỏ, con chị thấy tự hào lắm. Nó nhớ những buổi tối bên ngọn đèn dầu leo lét, để chứng minh cho mẹ thấy rằng chúng chăm học, cả hai chị em thi nhau đọc các bài học thuộc lòng bằng cái giọng đều đều, và kéo dài chẳng khác nào tụng kinh. Thay vì nhớ như làu làu các câu vừa đọc thuộc lòng, giọng đọc ê a, cộng thêm ánh đèn dầu leo lét và bóng tối bao phủ xung quanh đã làm cho chúng cảm giác buồn ngủ nhanh hơn những ngày không phải học bài. Để thay đổi cách đọc đơn điệu, buồn tẻ, hai con nhỏ bày trò thi nhau đọc bài thật to. Con chị đọc to, con em cố gào để đọc to hơn chị. Cứ thế, khu vườn mỗi đêm thường vang lên những tiếng gào thét hơn là tiếng ê a đọc bài bình thường. Lúc đó, bởi vì những người lớn trong khuôn viên nhà nội, và vài người hàng xóm than phiền cho nên  mẹ chúng bắt buộc chúng phải đọc nhỏ lại. Đọc thầm, học thầm không phải là lối học thú vị của nhỏ em; nó chỉ thích đọc làu làu to hơn chị như dự phần một trò chơi hơn là đọc để nhớ. Từ khi bị cấm không cho đọc to, con nhỏ em chán nản không chú tâm học như trước. Mỗi lần ngồi vào bàn học, nó lật vài trang sách, vài trang vở một cách thờ ơ rồi ngoáy hai lỗ mũi để cạy muội. Những khói đèn trong hai lỗ mũi của nó đen xì xì như hai lỗ mũi của con chị, và như lớp bụi đen đóng dày xung quanh cổ bóng đèn dầu mà mỗi ngày mẹ nó phải dùng khăn ướt chùi để lấy ánh đèn rõ hơn cho hai đứa đọc chữ và viết bài. Những lúc con em tỏ ra ơ thờ với sách vở, con chị thường “làm gái, làm mụ” dạy đời con em về cái hậu quả vì thất học. Và cũng lúc ấy, con chị chắc chắn là con em sẽ bị ở lại lớp chứ không bao giờ ngờ được cảnh con em đứng trên bục lãnh phần thưởng. Một phần thưởng mà trong đó những món quà đánh giá sức học và sự cố gắng mà nó luôn   ao ước chứ không phải là những món quà bố thí thương hại của những người nhân đức từ tâm ban bố cho.
      - Vy ôm nặng chưa? Cho chị ôm dùm chút được không? Con chị gạ em.
      Con em lắc đầu:
      - Để em ôm! Em ôm được mà, chị ôm cặp chị nặng rồi!
      Con chị tiếp tục gạ:
      - Cho chị ngó một chút coi có gì trong đó đi!
      Con em không trao gói phần thưởng cho chị nhưng nó dừng lại, thọt tay vào cái kẽ chỗ buộc nơ chỉ trỏ:
      - Có vở, viết màu nè!
      Đưa gói phần thưởng cao khòi đầu nó nheo mắt nhìn xuyên qua lớp kính đỏ, nói huyên thuyên:
      - Có cái cặp nữa nè! Có hình Bạch Tuyết nữa đó chị Hạ. Chị thấy chưa? Thấy chưa?
      - Có con búp bê không?
      - Không có!
      - Sao Vy biết?
      - Hồi nãy em chọt tay vô trong! Em cũng bóp xung quanh mà không thấy cái đầu búp bê.
      Con chị an ủi:
      - Biết đâu con búp bê đang ở trong cặp. Đi mau về nhà mở  ra coi!
      Con em khệ nệ với gói phần thưởng vài bước, chuyền gói phần thưởng sang cho chị:
      - Cho chị ôm dùm cho em đó!
      Con chị hớn hở đón lấy, đặt trên cặp, rồi ôm trước bụng. Nó đi chậm chứ không như những lời giục con em. Nó hãnh diện khi thấy những đôi mắt thèm thuồng và những cái đầu ngoái lại nhìn vào mặt nó. Những đứa học trò đi cạnh nó có lẽ cho rằng nó là đứa học giỏi vì nó được phần thưởng.
      Con em hối chị:
      - Đi mau lên chị Hạ! Má về nhà thấy em lãnh quà chắc mừng lắm.
                  Lời của con em khiến cho con chị khựng lại. Lúc này nó mới nhớ đến bản thành tích biểu và kết quả học tập cuối năm của nó. Nó bị ở lại lớp với lý do học lực yếu và nghỉ học quá nhiều. Trước khi trao bản thành tích biểu cho nó, cô giáo còn giải thích cặn kẽ  lý do vì sao cô phải để nó ở lại lớp. “Em nghỉ học học quá nhiều nên em phải ở lại lớp, chứ không phải vì em biếng nhác đâu! Cô mong là sang năm em có đủ sức khỏe để đi học đều đặn hơn. Em ở lại lớp một năm nữa để  học đủ chương trình học của lớp bốn, và như thế khi lên lớp năm, có lợi cho em hơn!”. Lần đầu tiên nó được một cô giáo đối xử dịu dàng và nó đã không buồn nhiều với tin phải ở lại lớp. Lúc đó, lý do chính đáng mà cô giáo nêu ra đã làm cho nó nguôi ngoai  nỗi lo buồn thua sút so với bạn bè cùng lớp. Thế nhưng, bấy giờ nghĩ đến cảnh thưa chuyện bị ở lại lớp với mẹ tương phản với thành tích trong học tập mà con em có được, nó thấy tim nó như bị ai bóp chặt. Buồn bã trao gói phần thưởng lại cho con em, nó nói:
      - Vy cầm đi!
      Con em ngạc nhiên:
      - Sao vậy? Sao chị không muốn  ôm dùm gói phần thưởng cho em nữa vậy?
      Con chị ủ rũ:
      - Chị buồn quá!
      - Vì sao chị buồn?
      - Chị bị ở lại lớp rồi!
      Con em thảng thốt, hạ thấp đôi tay tưởng như sắp đánh rớt cả gói phần thưởng xuống đất:
      - Vì sao chị bị ở lại lớp vậy?
      - Tại chị nghỉ học nhiều, thiếu bài không đủ điểm lên lớp.
      - Thật vậy hả chị?
      - Thật chứ!
      - Chị nghỉ học nhiều tại chị bị bệnh nặng chứ đâu phải tại chị đâu mà cô cho chị ở lại lớp!
      Con chị lắc đầu:
      - Chắc có lẽ cô giáo chị nói vậy vì không muốn chị buồn thêm thôi chứ chị biết chị dở toán lắm.
      Con em buồn bã:
      - Tại chị không có ba, không có anh chị nào dạy cho chị nên chị không biết làm phải không?
      Con chị rơm rớm nước mắt:
      - Ừ! Nhưng mà bây giờ chị bị ở lại lớp rồi thể nào chị cũng bị đánh.
      - Má không đánh chị đâu. Má biết chị bịnh và đang yếu mà!
      - Má nói là đi học mà ở lại lớp má sẽ đánh.  Vy học có phần thưởng mà chị ở lại lớp thì chị sẽ bị đánh chứ sao khỏi!
      - Em sẽ xin má đừng đánh chị!
      Chờ chị mở cổng, con em nói tiếp:
      - Phải chi bác Cả dạy cho chị dùm ba thì chị không học dở đâu phải không?
      Liếc mắt vào ngôi nhà lớn, con chị lắc đầu.
      - Chị không cần nhờ bác giúp đâu!
      - Chị sợ bước vào nhà bác Cả một mình nên không nhờ bác dạy  phải không?
      Con chị gật đầu, nói hết những ý nghĩ mà nó có trong đầu:
                  - Ừ! Và có bao giờ bác hỏi chị em mình học hành như thế nào đâu mà nhờ? Có đời nào bác bước chân vào căn nhà nghèo nàn của mình để thăm hỏi mình đâu? Bác với bác Cả gái chỉ tiếp xúc với những người sang trọng quý phái chứ không nghĩ gì đến chị em mình đâu. Chị không mơ tưởng chuyện bác giúp cho chị!
      Bước vào căn nhà nhỏ, con chị buồn bã:
      - Phải chi má biết dạy cho chị thì chị không học dở đâu!
      Đặt gói phần thưởng trên bàn, con em nói:
      - Tại má không biết nhiều chữ, không dạy chị được cho nên chị bị ở lại lớp, má không đánh chị đâu.
      Con chị không trả lời em, mở cặp, rút bảng thành tích biểu ra, đọc lẩm nhẩm. Con em sà vào bên chị, châu đầu, lướt mắt trên những lời phê rồi nói với giọng đầy thất vọng:
      - Chị ở lại lớp thật rồi!
      Thờ ơ gói phần thưởng trước mặt, con em lo lắng hỏi:
      - Vì sao chị dám cãi bác Cả, dám ngủ ngoài vườn ban đêm mà sợ má đánh chuyện ở lại lớp?
       Con chị cúi đầu, nói thật nhỏ:
      - Bởi vì học dở là ti đáng đánh mà! Má đi buôn bán khổ cực nuôi mình ăn học mà mình học dở không được lên lớp, bị đánh là đúng quá rồi! Đã đi học thì nhất định phải lên lớp chứ! Ngẫm nghĩ một lúc, nó buồn rầu nói tiếp - Chị nghĩ là chị đáng bị đánh vì tội này nhưng mà chị không thể học giỏi được.
      Con em gãi đầu:
      - Sao mình có nhiều tội trên đời vậy chị?
      - Tội gì nhiều đâu?
      - Tội ăn cắp nè, tội nói láo nè, tội ở dơ nè... còn tội học dở nữa đó!
      - Mấy tội đó khác nhau chứ Vy!
      - Khác nhau cái gì?
      - Tội ăn cắp và nói láo thì bị xử khi mình chết. Dưới âm phủ người ăn cắp bị quỷ sứ chặt tay, người nói láo thì bị quỷ sứ cắt lưỡi. Còn tội ở dơ và học dở thì bị “người sống” xử! Nhưng may là tội do “người sống” xử ít hơn tội do người chết xử vì ma, và quỉ sứ là những người tàng hình họ bay bổng khắp nơi nên biết mình nhiều tội hơn người thường.
      Con em không chú tâm đến lời giải thích dông dài của con chị, nó vẫn còn thắc mắc chuyện bị đòn vì “tội” không được lên lớp.
      - Má học dở có bị đánh không? Con em hỏi thêm.
      - Có chứ! Chắc má bị bà ngoại đánh chứ sao không! Mà mình không được hỏi như vậy đâu Vy! Hỏi người lớn như vậy là hỗn đó Vy!
      - Nhưng mà ... chị Hạ nói không đúng đâu!
      Con chị phùng má:
      - Chị nói cái gì không đúng?
      - Chị nói người chết tàng hình không thấy được, sao quỷ sứ cắt lưỡi người tàng hình được chứ?
      - Chị chỉ nói người chết thành ma tàng hình thôi. Còn chuyện quỷ sứ cắt lưỡi là má nói. Ma tàng hình mà quỷ sứ cũng tàng hình luôn nên tàng hình trị tàng hình được! Chị nghe má kể chuyện trị ti dưới âm phủ do Diêm vương quyết định ra sao thì chị nói lại như vậy! Có phải chị nói trước đâu mà nói chị không đúng!
      Con em không để ý lời biện luận lớn tiếng của chị, nó tiếp tục nói với đôi mắt mơ màng:
      - Nếu ba tàng hình mà ba còn bày chị làm bài được thì chị không phải ở lại lớp đâu phải không?
      Con chị nguôi giận, gật đầu tán đồng ngay:
      - Ừ, Vy nói đúng đó...nhưng mà ba còn sống thì vẫn ngon hơn!
      - Ngon gì?
      - Ba sẽ dạy mình học. Ba đã dạy cho biết bao người ở quê ngoại và dạy cho cả má mình thì dạy cho chị em mình dễ dàng thôi. Mà ba sẽ dạy cho mình biết đủ thứ chứ không phải chỉ bày học thôi đâu. Chị em mình sẽ được học giỏi toán, giỏi nhạc và  cả đàn nữa!
      - Vì sao chị biết?
      - Không nhớ mấy bữa trước mình lén má lục cái tủ dưới bàn thờ ba sao! Cái đàn măng-đô-lin của ba, những quyển sách sưu tầm tài liệu của ba và cái ra đi ô do ba tự ráp chứng tỏ ba là người có tài.
      Con em tán thành:
      - Má có kể là ba làm thầy giáo. Ba làm thầy giáo dạy người ta thì dạy chị em mình được.
      Ngưỡng mộ nhìn con em và gói phần thưởng, con chị nói:
      - Vy học giỏi và có phần thưởng, lớn lên thế nào cũng giỏi như ba đó! Vy sẽ được trở thành người giàu như “nhà” bác Cả còn chị chắc sẽ nghèo như má.
                  Khuôn mặt con em hớn hở hẳn lên. Nó đứng dậy, mở vội gói phần thưởng, nói huyên thuyên:
                  - Khi nào em giàu em sẽ cho chị tiền, sẽ mua áo quần cho chị và sẽ nuôi chị với má.
      Con chị chăm chú nhìn những ngón tay của em trên gói phần thưởng, hỏi dồn:
      - Có con búp bê không Vy?
      - Không, nhưng có mấy cuốn vở này. Em cho chị hai cuốn, em hai cuốn. Cái cặp là của em! Còn hp màu này, mình xài chung nghe!
      Trao hai cuốn vở có hình Bạch Tuyết và bảng cửu chương đàng sau bìa cho chị, con em nói tiếp:
      - Chờ khi em lớn lên, em giàu, em sẽ chia cho chị nhiều thứ nữa nghen.
      - Ừ. Nếu lớn lên Vy giàu, con Vy sạch sẽ mà con chị dơ Vy cũng cho tụi nó chơi với con chị với nghe!
      Con em nhanh nhẩu:
      - Có chứ! Con của em sẽ cho con của chị chơi búp bê chung. Tụi nó chơi trong nhà không dơ như tụi mình bây giờ đâu!
      - Nhưng mà lúc Vy giàu, Vy đừng chửi người nghèo là “ở dơ” hay “mọi rợ” nghen.
                  - Không đâu! Em sẽ bày người nghèo đừng ở dơ nữa. Cô giáo nói ở dơ thường có bệnh đó chị Hạ! Và em cũng sẽ thương người nghèo lắm. Em sẽ cho người nghèo tiền nữa.
      Con chị lắc đầu tuyệt vọng:
                  - Chị cũng muốn học giỏi để lớn lên được giàu nhưng chắc chắn là chẳng bao giờ chị được giàu nữa đâu!
      Dứt lời, nó tức tưởi khóc nức nở. Con em hốt hoảng bước đến ôm chị:
      - Em sẽ cho chị tiền mà! Khi  nào em giàu, em có tiền là em cho chị tiền liền!
      Bà mẹ vừa bước vào nhà, nghe tiếng khóc của con chị hốt hoảng hỏi con em:
      - Vì sao chị Hạ khóc vậy Vy?
      Con em rụt rè:
      -... Dạ ...tại vì chị Hạ bị ở lại lớp đó má!
      Con chị òa lớn tiếng khóc:
      - Không phải con làm biếng học đâu má ơi! Má đừng đánh
      con nghe má!
      Bà mẹ thở phào:
      - Vậy mà má tưởng chuyện gì! Má biết con không được lên lớp mà! Con nghỉ học quá nhiều không học đủ bài nên phải ở lại lớp thôi. Không có gì đáng buồn, đáng sợ cả. Má không đánh vì chuyện này đâu. Năm tới cố gắng học là con sẽ được lên lớp. Đừng buồn nữa!
                  Trong vòng tay của mẹ, con chị ngước mặt lên nhìn bà với đôi mắt ngạc nhiên. Lời đe dọa ngày nào, “Má nói rồi đó! Nếu hai đứa không lo học để ở lại lớp thì đừng trách má đánh đòn! Má đã nói là má sẽ làm!” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đến độ khắc sâu vào tâm trí nó và nó tin rằng mẹ sẽ không bao giờ thay đổi lời bà đã nói. Những lời đe dọa của mẹ được nó chấp nhận như một tiêu chuẩn để nó có thể vượt lên đến đích học tập mặc dù trong thực tế, khả năng của nó không thể nào vượt qua. Giờ đây may mắn cho nó là mẹ nó đã không thực hiện những gì bà đã hăm he đe dọa. Trái lại, bà đã giải thích và dạy dỗ chị em chúng một cách ôn tồn:
      - Má không biết chữ nên má không làm sao dạy các con học được. Các con phải tự cố gắng nghe lời cô giảng bài trong lớp. Học thầy, học cô nếu không hiểu thì hỏi bạn. Cuộc đời của má không biết chữ nên chịu nhiều thiệt thòi và các con cũng chịu thiệt thòi như má cho nên má ao ước là các con được học đến nơi đến chốn để đời con của các con đở khổ hơn các con bây giờ. Sở dĩ má la các con là má muốn các con học cao và có trình độ hơn má. Má muốn các con có sự học để có cuộc đời sung sướng hơn cuộc đời của má.
                  Con chị toan nói cho mẹ nó biết là không phải đến lớp học nghe thầy cô giảng bài là có thể học được và giỏi ngay. Nó muốn kể cho mẹ nghe về trình đ khác nhau của những đứa học trò trong lớp và cách dạy đưa những đứa học giỏi làm mẫu đọc bài hay giải toán của cô giáo nó. Đa số những đứa học trong lớp nó là những đứa đã có kiến thức chuẩn bị trước bởi cha mẹ nhưng cô giáo lại căn cứ việc thu thập kiến thức bài học của lớp qua kiến thức của chúng và thường chú ý nhiều đến những đứa học giỏi này mà thôi. Nó cũng muốn cho mẹ nó rõ là theo cách dạy ấy, nó không thể nào theo đuổi kịp chúng bạn khi mà nó không có sự hỗ trợ và kèm dạy tại nhà bởi những người thân có trình độ. Nó cũng muốn nói thêm về quan niệm “Học thầy không tầy học bạn” của mẹ nó đề cập không thể áp dụng cho những đứa học trò trong bậc tiểu học nhất là những đứa đang học cùng lớp với nó. Những đứa học giỏi thường là những đứa có tham vọng hơn người và ích kỷ. Bởi vì không bao giờ muốn ai hơn mình để chúng có thể đạt điểm cao nhất lớp và đạt những phần thưởng cuối năm, chúng sẵn sàng che từng chữ để không bị ai cóp pi, cũng như không hề muốn cho ai hiểu những gì chúng biết. Những đứa được giải thưởng hạng ba thì mong đạt hạng nhất nhì, đứa hạng nhất thì mong đạt hạng danh dự. Những thứ hạng mà nó không bao giờ mơ tưởng đạt được trong đời. Nó cũng muốn nói với mẹ là nó thực tâm muốn học giỏi nhưng mà những cay đắng về sự bất hòa giữa mẹ nó và gia đình nội, những nghi vấn về sự đối lập giữa ngọn đèn dầu leo lét trong căn nhà nhỏ và ánh đèn sáng trưng của ngôi nhà lớn và những lời chửi mắng mỗi ngày trong khuôn viên nhà thường làm cho nó có những mơ mộng và tưởng tượng một thế giới an bình thay vì chăm chú nghe cô giảng bài.
      Những điều nó muốn nói bị quên đi ngay khi nghe được những lời tâm sự chân thành của mẹ khi bà đề cập đến sự thất học của bà. Nó hỏi:
      - Vì sao má không biết chữ?
      - Khi má nhỏ, ông ngoại dạy chữ nho, ông không cho con gái đi học. Má và mấy dì phải đi làm rung, chỉ có mấy cậu mới được đi học chữ Việt đến trung học.
      - Vì sao ông ngoại không cho con gái đi học vậy hả má?
      - Vì ông ngoại quan niệm con gái học nhiều chữ, viết thư cho con trai không tốt!
      - Vì sao bà ngoại không nói ông ngoại là má không viết thư cho trai và khuyên ông ngoại cho má đi học?
      - Ông ngoại nói gì bà ngoại phải nghe nấy có bàn cãi được gì đâu! Bà ngoại cũng nghĩ  là má nên ở nhà phụ làm ruộng hơn đi học cho nên má mới ra nông nỗi không biết chữ nghĩa gì cả.
      - Như vậy tại ngày xưa con gái hay viết thư cho trai nên ông bà ngoại không cho má đi học hả?
      - Đâu có đâu con! Thời đó con gái nào mà dám suồng sã như thế! Tại ông bà ngoại sợ nên mới cấm vậy thôi.
      Con chị thở dài:
      - Con chưa gặp ông bà ngoại nhưng mà...
      Nó bỏ lửng câu định nói thêm “con nghĩ ông bà ngoại khó chẳng khác gì những người lớn trong gia đình nội” khi nhìn đôi mắt lo âu và dò xét của mẹ.
       
      #33
        Cung Thi Lan 22.08.2007 16:28:11 (permalink)
              
        Chương Hai Mươi Sáu
         
         
         
         
         
         
         
        Con chị gục đầu chống vào phần tựa của chiếc ghế trước mặt. Cảm giác háo hức vì được đi xe hơi lần đầu tiên và xôn xao vì được về thăm quê ngoại bị tiêu tan khi chiếc xe đò nặng nề leo lên dốc của đèo Cả. Trong khi chiếc xe từ từ xuyên qua ngọn đèo ngoằn ngoèo, con chị nôn thốc nôn tháo không ngừng vào trong chiếc bao ni lông trắng mà mẹ nó chuyền vào tay. May mắn cho nó là được ngồi sát cửa sổ của xe đò cho nên khi túi ni lông đầy thức ói mửa nó có thể quẳng xuống đường đèo để vòi cái khác. Mùi hơi người quyện lẫn mùi xăng và khói xe làm nó cảm thấy khó chịu. Đầu nhức, cổ lờn lợn và bụng xông xốc bởi những cái thắng gấp của chiếc xe; nó cảm thấy mệt lả. Vật đầu ngửa ra sau, nó nhắm mắt lại để cố giảm bớt cơn chóng mặt và kềm hãm những cơn ói kế tiếp.
        Con em ngồi cạnh, nhăn mặt:
        - Chị Hạ mửa hôi quá hà! Sao chị mửa nhiều dữ vậy? Chị bị đau hả?
                    Con chị chưa kịp trả lời, vi cúi đầu xuống ói thốc vào trong cái túi ni lông chứa lõng bõng thức ăn và nước dãi nhầy nhụa mà nó chưa kịp quẳng ra ngoài xe.
        Bà mẹ đang cúi đầu lúi húi lục trong cái giỏ dưới chân, kiếm thêm  túi ni lông, dúi vào tay con em:
        - Giữ cái túi ni lông này cho chị! Đây là cái túi ni lông cuối cùng. Nếu chị con còn mửa nữa, phải mửa ra ngoài xe thôi. Chị con mửa không phải vì bị đau đâu mà vì say sóng đó!
        Con em tròn mắt ngạc nhiên
        - Mình  đâu có đi biển đâu mà say sóng vậy má?
        - Say sóng là đi xe hơi không quen bị mửa.
        - Con cũng đi xe lần đầu tiên sao con không bị say sóng?
        - Có lẽ tại con khỏe hơn chị.
        - Nhưng mà bây giờ chị Hạ mửa hôi quá làm con cũng muốn mửa theo! Con em bịt mũi than.
        Bà mẹ cằn nhằn:
        - Tối hôm qua má đã nói ngủ sớm đi mà hai đứa không chịu nghe! Ngủ không đủ, hay bị say sóng khi đi xe hơi lắm mà! Thôi thì giữ cái túi ni lông đó đi, có mửa thì mửa vào trong đó!
        Con chị không nói được lời nào. Nước mắt nước mũi nó trào ra tràn đầy trên mặt. Chưa kịp gạt tay lau, nó lại cúi xuống, đưa miệng vào chiếc bao ni lông ói ra những giòng nước xanh, rồi nước vàng. Nhăn mặt, nó quẳng túi ni lông xuống đường và rùng vai liên tiếp. Bà mẹ vội vàng đứng dậy bảo con em thay chỗ ngồi. Đỡ đầu con chị nghiêng vào vai, bà rút khăn lau mặt, xoa dầu cù là vào cổ và trán nó, rồi bảo:
        - Con để đầu xuống đây đi! Nhắm mắt lại cho đỡ chóng mặt thì không bị mửa nữa. 
         Nghe lời, con chị ngả đầu xuống, lăn vòng trên đùi mẹ, nhắm mắt. Miệng nó đắng ngắt vì chất nước xanh vàng vẫn còn vương trong cổ họng. Nó muốn xin mẹ nó nước uống để làm sạch cái cổ đắng nhưng lại sợ bị ói nữa nên đành nằm yên. Đầu của nó bị xóc lên xuống theo nhịp chạy của xe, và thỉnh thoảng bị tuột xuống bởi những lần xe thắng gấp nhưng sau đó được giữ lại và được vuốt ve bởi đôi bàn tay dịu dàng của bà mẹ và nó an  tâm  rơi vào giắc ngủ bình yên. Vài giờ sau, tiếng nói xôn xao của mọi người làm cho con chị choàng tỉnh. Nó giương đôi mắt ngái ngủ nhìn mẹ.
        - Đã đến nơi rồi hả má?
        Bà mẹ gật đầu:
                    - Đã đến bến xe Tuy Hòa rồi nhưng con cứ nằm một chút nữa đi. Chờ người ta đi xuống hết rồi mình xuống.
        Con chị vùng dậy, nhìn qua cửa xe. Nhiều người đi tới lui chộn rộn giữa mấy chiếc xe đò trên bãi đậu. Họ gọi nhau, nói chuyện với nhau với những âm thanh lạ kỳ, lúc thì nhão nhoẹt lúc thì nặng nề chói tai.
                    Con em  vươn vai, vừa ngáp, vừa hỏi:
        - Ủa! Đã đến quê ngoại, đến nhà ngoại rồi hả má?
        Bà mẹ khom lưng rút hai chiếc giỏ dưới gầm ghế ra vừa trả lời
        - Chưa đâu con. Mình chỉ mới tới Tuy Hòa thôi chứ chưa đến nhà ngoại. Mình phải đón xe lam lên ngã ba Quốc lộ rồi đi bộ lên Minh Đức mới tới .
        Đôi mắt con em sáng rực, tỉnh hẳn cơn ngái ngủ:
        - Đi bộ nữa? Trời ơi! Sao mình phải đi bộ? Mình phải đi  bộ xa lắm không hả má?
        - Chắc là khoảng ba cây số thôi con. Thường thường từ sáng sớm đến trưa hay có xe ngựa đi từ Ngã Ba Quốc Lộ vào làng Minh Đức nhưng bây giờ đã ba bốn giờ chiều rồi không còn xe ngựa nữa. Mặc may thì đón được xe ngựa còn không thì phải đi bộ thôi.
        Xuống xe lam là lúc trời đã về chiều và quả như bà mẹ nói, ba mẹ con không tìm thấy xe ngựa nào đi về  phía làng Minh Đức. Hai tay hai chiếc giỏ nặng trĩu, bà mẹ vội vã bước nhanh về phía trước, hai đứa nhỏ xách hai chiếc giỏ nhỏ đi chầm chậm theo sau. Trên đường đất thoai thoải mà dọc hai bên là những ngôi nhà mái tôn vách đất được xây trên  cao,  con chị ý thức được nó đang đi dần dần xuống một con dốc đất. Những làn gíó mát rượi từ dưới dốc thổi lên làm nó cảm thấy dễ chịu. Vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, con chị khoan khoái mỉm cười. Nó thà đi bộ và hít khí trong lành còn hơn bị tù túng ngồi chẹt trong xe và ói mửa không ngừng. Đến lúc ấy nó không còn nghĩ chuyện đi xe hơi bác Cả là ao ước của nó nữa. Bất chợt, một giọng nói  đầy luyến âm và láy nhão cắt đứt giòng tư tưởng của nó:
        - Coi nẫu chớ bay! Nẫu ăn mặc cái kiểu gì lạ chưa bay!
        Đưa mắt nhìn bên vệ đường, con chị  bắt gặp những ánh mắt tò mò của những đứa trẻ ở cùng độ tuổi đang ngưng trò chơi đá cầu. Sắc phục đơn giản và nước da đen cháy của chúng làm con chị  chăm chú nhìn kỹ hơn. Đa số bọn chúng đi chân đất, con trai ở trần mặc quần đùi nâu hay đen, con gái mặc quần đen và áo ba bà màu sẫm. Khi đi qua mặt bọn chúng, mặc dù đi gần sát, nó chỉ hiểu được bập bõm vài chữ mà bọn con nít đang nói chuyện với nhau. Nghi hoặc bọn nhỏ nói xấu điều gì về mình, con chị mắc cở, nhấc cánh tay đang xách chiếc giỏ nhỏ lên cao để kéo vành mũ xuống che khuất đôi mắt. Con em ngoài cổ nhìn bọn chúng, chỉ tay bảo con chị:
        - Coi kìa chị Hạ! Chiều rồi mà tụi nó còn đi chân không! Tụi nó còn dơ hơn tụi mình đó chị!
        Con chị nói nhỏ:
        - Kệ tụi nó! Ngó tụi nó làm chi cho tui nó để ý.
        Mấy đứa nhỏ tinh nghịch ném vài hòn đất nhỏ sau lưng hai chị em. Quay phắt người ra sau, hai đứa trợn mắt, gườm gườm nhìn bọn trẻ. Chưa kịp nói lời đay nghiến nào để trả đũa hành vi chọc phá, cả hai há hốc miệng, lắng nghe những người lớn đang đứng gần đó mắng bọn trẻ xối xả:
        - Chơi “dãy sao” bay? Khiến nẫu chửi hửng? Đi dìa đi! Đừng chơi ở dây nữa!
                    Một người đàn ông đạp xe đạp chạy ngang ngoái đầu nhìn bà mẹ, hỏi trống không:
        - Dìa Minh Đức phải không “dãy”? Quá giang xe không?
        Bà mẹ nói to đáp lại:
        - Dạ không cảm ơn anh. Tui đi có tới ba mẹ con còn bao nhiêu giỏ xách nữa làm sao anh chở cho hết
        Ông ta ngừng xe, hỏi tiếp:
        - Dìa nhà ai ở Minh Đức “dãy”? Muốn chở dùm một đứa không?
        Hai đứa nhỏ nhìn người đàn ông lạ lắc đầu nguầy ngậy trong khi bà mẹ đặt hai chiếc giỏ xuống đường, vừa lau trán vừa tươi  cười:
        - Tụi này không bao giờ để người lạ chở đâu anh!  Nếu có tiện đường thì anh làm ơn ghé vào nhà bà Năm Điền nhắn dùm có con Ba Háo ở Nha Trang về thăm. Tui cảm ơn anh nhiều lắm.
        - Được rồi! Tui đi ngang ngõ đó mà. Để tui báo bả cho!
        Dứt lời, người đàn ông đạp xe vùn vụt xuống dốc và ba mẹ con với những chiếc giỏ nặng trĩu đi sau.
        Cuối con dốc, hai dãy nhà bên đường chấm dứt bằng những khóm tre cao ngất. Trước mặt ba mẹ con là cánh đồng bao la bát ngát. Cánh đồng giục bà mẹ nhanh bước mặc dù hai chiếc giỏ oằn nặng như muốn tuốt hai cánh tay bà ra khỏi thân. Con em bước nhanh theo mẹ. Nó xuýt xoa luôn miệng:
                    - Quê ngoại đẹp quá! Đẹp nhất trên thế gian này đó má!
        Con chị im lặng bước chầm chậm đàng sau. Nó không ghẹo con em khi con này nói những chữ “đẹp nhất trên thế gian” như những lần trước. Cái đẹp thực tế của cánh đồng hoàn toàn thu hút nó. Chưa bao giờ, ngay cả trong cảnh thần tiên khi mơ mộng và tưởng tượng, nó thấy màu xanh lá cây nào đẹp như những màu xanh lá của cánh đồng trước mặt. Màu xanh phơi phới của cỏ, xanh mơn mởn của lúa non, xanh vàng của lúa đang chín, xanh lá cây tươi của những khóm chuối, xanh nhạt nhòa của những khóm tre, và xanh lá nâu thẫm của cây cối phủ trên những ngọn núi xa xa, đều đón chào nó nồng nhiệt như chúng đang khoe tất cả màu xanh lá cây đẹp  nhất của trần gian. Đôi mắt con chị đói khát nuốt chửng những làn sóng lúa xanh đang đuổi nhau tận tít chân trời. Nó mơ mộng là người lữ hành tự do đang lang bạt trên con đường đất vắng mà hai bên đường chỉ có một màu xanh lục và xanh lá non. Những màu xanh thiên nhiên đang lung linh nhảy múa và reo vui với những cơn gió như đang reo vui trong ý nghĩ của nó. “Quê ngoại của mình đẹp lắm! Đẹp đến nỗi không nơi nào sánh bằng, chứ không phải là ‘xứ nẩu’ mà các cô hay châm biếm đâu!” Hít sâu mùi thơm của lá, và của lúa, con chị khoan khoái ngẩng đầu lên. Bầu trời xanh ở trên cao với những cụm mây trắng như bông dường như rơi xuống thấp hơn để đùa vui với đàn chim cánh trắng đang bay la lả. Nó hân hoan  đón những cơn gió thơm mùi lúa chín và mùi cây cỏ quyện lại trong khi bước đều đặn theo sau mẹ và em.
        Đi hết cánh đồng, ba người  đi chầm chậm vào ngôi làng nhỏ nơi có rất nhiều vườn chuối và nhà tranh vách đất. Bà mẹ vẫn là người đi đầu, con em bám chặt theo sau và con chị đi tuột xa tít sau cùng. Một vài người bên đường đi theo bà mẹ hỏi một vài câu lớn tiếng như tiếng nói của người đàn ông họ gặp trên con dốc. Những câu hỏi trong trỏng, trống không, đứt đoạn, không đầu không đuôi, không chủ ngữ, không vị ngữ, và cũng không rõ ràng dành cho người nào. Ngang qua nhóm chợ chiều, con chị nhíu mày khó chịu nghe những câu hỏi như hỏi cung do ba người đàn bà đặt ra khi họ vây quanh bà mẹ và con em giữa đường
        - Chời quơi! Con Ba Háo đây na bay? Lấy chồng ở thành phố từ “năm nẵm” giờ mới dìa sao hả Háo?
        - Mấy đứa con gái của mày lớn chừng dầy rồi hửng? Lấy chồng thành thị cách gì mà con lớn chừng dầy mới về quê “dãy” mày?
        - Mày biết ba mày chết chưa “dãy” Háo? Tệ gì mà tệ dữ “dãy” mày! Ông Năm Điền bịnh nặng nhắn mày mấy bận, chờ mày hết ngày này sang ngày khác mà sao mày đành tâm không dìa “dãy”mày? Chời quơi! Lấy chồng thành thị cách gì mà cha chết không dìa gặp mặt “dãy”!
        Bà mẹ ậm ừ trong miệng một vài lời gì đó mà con chị, dù đã đi đến sát bên cạnh bà, không thể nào hiểu được bà đang chào mấy người đàn bà kia hay qua loa những lời vô nghĩa để tránh khỏi trả lời những câu hỏi tò mò đường đột. Nó liếc ba người đàn bà đi chân đất, quần ống cao ống thấp, và những chiếc nón lá rách tả tơi với ánh nhìn ác cảm. Tiếng nói “đồ dân nẫu” vang lên làm nó thảng thốt. Nó nhận ra tiếng nói ấy không phải là tiếng nói của bà bác Cả hay cô Út mà chính là tiếng nói khe khẽ thốt ra từ trong hai hàm răng của nó. Nó cũng nhận ra rằng tiếng nói xúc phạm vừa qua không phải xuất phát từ trong đầu mà thật sự từ trong miệng của nó. Cho dù tiếng nói ấy có khẽ đến độ chẳng ai nghe được, nó ân hận vì đã nói những chữ hỗn xược. Nó trách những người đàn bà quá nhiều chuyện khiến cho nó đã thốt ra những chữ mà nó từng ghét cay ghét đắng mỗi khi nghe mẹ nó bị làm bẽ mặt trong khuôn viên nhà họ Hoàng. Nó suy nghĩ và tự an ủi lương tâm là những chữ “đồ dân nẫu” từ miệng nó không phải bắt nguồn cách phục sức mộc mạc bình dân của những người ở quê ngoại mà bởi vì cung cách ba người đàn bà nông thôn mới gặp này đối xử với mẹ nó giữa đường lộ một cách quá suồng sã, và bất lịch sự. Buồn thay, do bị thu thập và nhập tâm  từ lâu đời, nó đã thốt ra những lời mà nó từng oán ghét .
                    Ba người đàn bà bị con chị rủa thầm “thứ nẫu” kia không hề biết họ đang bị khinh ghét, cũng như không hề hay biết họ đang làm chuyện mà những người văn minh thành phố gọi là “lắm điều, nhiều chuyện”; họ chụm lại nhau thành một nhóm nhỏ, bàn tán lớn tiếng với nhau:
        - “Dãy na” chị? Từ ngày nó đi lấy chồng nó chưa dìa đây lần nào sao?
        - Dìa nẳm nào đâu? Cha nó bệnh nó cũng không dìa, cha nó chết nó cũng không dìa, “nẫu, nẫu” ở đây nói biết mấy mà bà không nghe “dãy”?
        -Tệ gì tệ dữ “dãy” ông! Tui tưởng nó không dìa thăm lúc ba nó chết chứ đâu biết nó chưa dìa năm nào! Ăn ở như “dãy” làm sao “nẫu” không nói được ông!
        Ba mẹ con bước đi nhanh như chạy; dường như họ chẳng muốn nghe những điều ba người đàn bà kia bàn tán sau lưng, thế mà, họ cứ phải đi trước những người ấy. Vài người đi chợ về, đi theo toán người tạo thành một cái đuôi dài. Đến ngã ba, bà mẹ bước ngập ngừng nhìn con đường có chiếc cầu gỗ dẫn ra cánh đồng lúa xa một lúc rồi đi rẽ về phía con đường đất hẹp giữa lũy tre thẳng tắp chạy dài ôm vòng những ngôi nhà dưới chân núi và cánh đồng rau muống, rau môn nối liền với cánh đồng lúa rộng mênh mông xa tít đến chân trời. Hàng tre xanh um, cao ngất và thẳng tắp ven đường thỉnh thoảng bị những tảng đá thấp có mặt phẳng láng làm đứt ngang. Những tảng đá này được xem là những “cái cổng” hay “ cái ngõ” khi mà chúng thông thương những căn nhà tranh vách đất qua vườn chuối hay vườn hoa với con đường đất trước mặt. Những đứa nhỏ đang chơi trước “cổng” vụt chạy theo sau toán người, reo hò ầm ĩ. Chúng trầm trồ và xuýt xoa hai bộ đồ  sáng rực cùng màu mà hai chị em con nhỏ đang mặc. Và cứ như thế, họ trở thành đám rước linh đình mà trong đó ba mẹ con nghiêm trang đi trước với đám người cười nói ồn ào với những tiếng “nẫu”, “dãy na”, “quý trời đất quơi!” sau lưng.
        Đến một tảng đá khá lớn, bằng phẳng và láng bóng, bà mẹ dừng lại đặt hai chiếc giỏ lên trên. Hai đứa nhỏ tin chắc là mẹ chúng định ngồi nghỉ mệt, toan đặt những chiếc giỏ nhỏ mà chúng đang xách cạnh bên, phải trố mắt ngạc nhiên nhìn đám người đàn ông đàn bà, thanh niên thanh nữ và trẻ con, từ hai căn nhà tranh thấp thoáng bên trong, ào ạt chạy ra, rối rít gọi chào:
        - Chị Ba dìa! Chị Ba dìa đúng rồi mẹ “quơi”!
        - Đi “dô”  nhà mau lên “quớ” chị Ba! Mẹ đang ở trong nhà đó chị!
        - Hai cháu đây “na”? Đi mau với dì “dô” nhà chào “quại” “quớ”  cháu!
        Hai đứa nhỏ ngỡ ngàng khi mà những chiếc giỏ của bà mẹ và của chúng bị xách đi mà không được một lời hỏi ý kiến có thuận hay không. Chúng lặng lẽ bước theo mẹ và toán người trên lối trồng những cánh hoa nhỏ có màu cam thẫm buồn bã hai bên, rồi ngang qua vườn chuối đầy những buồng xanh, qua cái lu nước cạnh bụi hoa đỏ thắm bên cái sân xi măng rộng chứa đầy lúa phơi, qua cái nhà mái tranh vách đất đồ sộ để đến căn nhà nhỏ cũng vách đất mái tranh nơi mà đám gà vịt lớn nhỏ chạy lộn xộn ra ra, vào vào trong nhà, bậc cấp hay sân đất tự do trong khi tiếng vịt kêu, lợn la ủn ỉn náo động hơn tiếng nói cười xôn xao của người bu quanh trước cửa.
        Một bà lão vóc người nhỏ thó trong chiếc áo dài đen ngắn ngủn đến tận đầu gối, tóc bạc búi cao, gương mặt xanh xao với nhiều vết nhăn trên trán, trên góc đuôi mắt, trên má và ngay cả trên đôi môi khô, ngỡ ngàng nhìn đám đông người đang vây quanh trước cửa nhà bà.
        - Chị Ba dìa rồi đây mẹ! Một người đàn bà, kéo tay bà mẹ đẩy sát trước mặt bà, nói.
        Chằm chằm ánh mắt trên khuôn mặt bà mẹ như muốn nhận rõ chắc chắn điều vừa nghe, đôi mắt của bà lão tóc bạc như bị thôi miên và bà mẹ bước nhanh về phía trước, đến sát mặt bà lão tóc bạc hơn, nói trong nức nở:
        - Mẹ ơi, con đưa hai cháu về thăm mẹ đây!
        Hai đứa nhỏ được lôi ra khỏi “đám rước”,  đến giữa bà mẹ và bà già tóc bạc, khoanh tay cúi đầu như mẹ bảo:
        - Dạ thưa bà ngoại, chúng con về thăm ngoại.
        Như bị một cơn gió độc đột ngột tạt vào, khuôn mặt bà lão tóc bạc trở nên lạnh lùng như một khối băng. Nguẩy đầu, quay phắt người đi vào nhà, ngồi cạnh chiếc ghế cạnh bàn thờ có cẩn xà cừ giữa nhà, bà nói rành rọc từng chữ như cố mài chúng thành những lưỡi băng đá sắc bén:
        - Đi luôn đi! “Dìa” đây làm gì “dãy”? Bỏ cha, bỏ mẹ được thì cứ đi luôn! Bây giờ là người tỉnh thành rồi còn biết gì quê cha đất tổ nữa!
        Bật khóc nức nở trước ngưỡng cửa, bà mẹ nói không ngừng như thể chưa bao giờ được tự do nói:
        - Tại sao mẹ nỡ đuổi mẹ con con đi? Đâu có phải là con không muốn về thăm cha, thăm mẹ, nhưng mà từ khi chồng con chết, con phải làm việc vất vả để nuôi hai đứa con của con, “lớp” ăn, “lớp” học, con không thể nào kiếm được tiền xe về quê. Con mang tiếng lấy chồng thành thị mà có ích sướng gì đâu hả mẹ? Thân con chỉ là con tôi, con mọi trong gia đình chồng của con mà có cha mẹ anh em nào biết cho? Con tưởng đâu là con về đây được mẹ và anh chị em thương lo chăm đón ngờ đâu cả mẹ cũng hất hủi con. Có phải mẹ giận con vì cha đau nặng mà con không về thăm cha không? Mẹ oán con vì lúc cha chết con không về để nhìn mặt cha lần cuối phải không? Sao mẹ không thương con mà hiểu dùm cho con là con không có tiền để đi xe về? Con là người chứ có phải là súc vật đâu mà không biết tình cha con, hả mẹ? Tại sao mẹ nỡ...
        Bà mẹ càng nói, tiếng nói của bà càng sôi nổi và mạnh mẽ như thể bà khí thế lắm, vậy mà chưa thố lộ hết nỗi uất ức, toàn thân của bà lả dần như sắp quỵ xuống trước cửa ra vào khiến mọi người sợ hãi vội vàng dìu bà đến cái giường tre cạnh bàn thờ.
        Người đàn ông trung niên, trong bộ đồ bà ba nâu đen, đến bên bà già tóc bạc khuyên can:
        - Con đã nói với mẹ nhiều lần rồi! Nó làm gì có tiền mà đưa con nó “dìa” đây chịu tang cha? Ai cũng có phần số và duyên kiếp. Số nó không được gặp cha lần cuối cũng phải chịu thôi!
        Một người đàn bà trẻ, kéo tay hai đứa nhỏ đặt trên hai vai của bà lão tóc bạc.
        - Nói xin lỗi “quại” dùm cho mẹ cháu đi! Nghe lời dì Bảy đi cháu!
                    Con em sợ sệt rụt tay về. Con chị đứng yên không phản đối nhưng ánh nhìn của nó vô cùng ác cảm trên khuôn mặt bà già tóc bạc, người đã làm cho mẹ nó khóc vật vã và đau khổ. Thình lình, bà già tóc bạc chụp lấy bàn tay nó, khóc sướt mướt:
                    - Cháu tui ở thành thị mà ốm yếu “dãy” na trời? Ở trỏng mẹ không có gì cho cháu ăn sao hả cháu? Mẹ cháu làm không đủ nuôi cháu ăn phải không?
        Nước mắt con chị rớt ra. Nó không biết đối phó như thế nào với cái đầu đang khóc nấc trên ngực và cái ôm đang xiết cứng toàn thân của nó. Nó mang máng nhớ lại câu ca dao tục ngữ mà mẹ nó thường ngâm nho nhỏ trong một giọng trầm buồn vào những lúc nào đó trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó: “Nghèo thì mất thảo mất ngay, ơn cha cũng bỏ nghĩa thầy cũng quên!” Nó không nhớ là mẹ nó đã đọc những câu câu ca dao này vào những lúc nào nhưng vì nó nghe nhiều lần như tiếp thu một khúc nhạc đơn điệu được lập đi lập lại hoài nên nó đã thuộc lòng vanh vách. Đến lúc ấy, nó hiểu thêm về chữ nghèo mà mẹ nó âm thầm than thở một mình. Giận bà ngoại đã gây ấn tượng không thú vị trong phút ban đầu và làm cho mẹ nó buồn, nhưng nó vẫn đứng yên cho bà ôm chầm và than khóc.
        Một người đàn ông trẻ hơn và thấp hơn người đàn ông trung niên, đưa cho hai chị em chúng mỗi đứa ba cây nhang:
        - Lạy ông ngoại đi hai cháu!
        Nghe lời ông ta, hai đứa nhỏ ngoan ngoãn xá lạy tấm hình của ông lão hiền hậu trên bàn thờ ba lần. Khi bà mẹ lục lọi trong hai chiếc giỏ và đem ra những thứ trái cây, thức ăn, nhang, bánh thắp hương, chiếc bàn thờ trở nên thịnh soạn và ấm cúng hơn.
                    Đám đông hàng xóm đang tò mò hóng chuyện được thưa mời về, lặng lẽ giải tán. Những người còn lại trong gia đình hàn huyên, tâm tình cho đến chiều tối. Qua đối thoại của họ, hai đứa nhỏ biết được người đàn ông trung niên, cao nghều như cò là cậu Hai, anh của  mẹ nó và là con trưởng của gia đình. Người đàn bà thấp như vịt đẹt là vợ cậu Hai, mợ Hai. Tuy là cặp vợ chồng có chiều cao chênh lệch khá rõ, họ kế thừa cơ ngơi khổng lồ sau khi ông ngoại qua đời  chẳng khác nào như cơ ngơi của ông bà bác Cả trong khuôn viên nhà họ Hoàng sau khi ông nội nó qua đời. Họ có một căn nhà đồ sộ, một cái sân phơi lúa vuông vức, và ba thửa rung lúa rộng lớn. Không  những họ được “hào của” mà còn được cả “hào con”. Sáu người con của gia đình họ là con số kỷ lục mà chẳng có người bà con nào trong dòng họ dám đạt đến. Chị Vịnh, con đầu của họ hơn con chị hai tuổi, chị Vương bằng tuổi con chị, và bốn người kia, anh Dân, chị Tín, anh Tiến và anh Cu Tèo, đều nhỏ tuổi hơn cả con chị và con em nhưng hai chị em nó phải lễ phép xưng hô anh chị và khoanh tay cúi đầu chào kính trọng như người lớn vì vai vế họ cao hơn chúng trong mối quan hệ bà con: cha của họ là anh của mẹ hai đứa nhỏ. Bà mẹ là người con thứ hai của gia đình nhưng được gọi là Ba khi mà người con đầu đáng lẽ phải gọi là Nhất hay Một, lại được gọi là Hai, cậu Hai. Và do lẽ đó, bà mẹ có đến hai tên thứ: “Ba” theo thứ tự trong gia đình mình và “Năm” theo thứ tự ra đời của ông chồng. Dì Bốn,  có khuôn mặt giống bà mẹ cũng như những bà dì kia như tạc nhưng đẫy đà nhất trong đám chị em, đã từng đóng kịch giả làm bà mẹ để  trấn an ông bố của hai chị em con nhỏ bằng cách nhận lời kết hôn sau khi ông được súc ruột lần tự tử thứ hai. Dì Bốn cũng như dì Sáu, dì Bảy đều có hai đứa con gái, và đều ở nhà chồng gần đó. Họ không thể ở trong khuôn đất nhà bà ngoại bởi vì phận họ là gái, có chồng phải theo chồng. Chỉ có anh Thu con của dì Năm đã chết và cậu Tám là người được ở chung với bà ngoại và cậu Tám. Anh Thu thường đi sớm về tối để giúp bà ngoại trong việc đồng áng. Anh có vai em trong mối quan hệ bà con với hai con nhỏ vì mẹ anh ta thứ năm, em gái của bà mẹ, nhưng do tuổi anh lớn hơn hai đứa nhỏ khá nhiều nên chúng khăng khăng gọi là anh. Cậu Tám học cao nhất trong gia đình ngoại, đang làm thôn trưởng cho thôn Minh Đức và có khả năng làm xã trưởng trong tương lai. Cậu chuẩn bị làm đám cưới với vị hôn thê đang sinh sống tại thị trấn Tuy Hòa.
        Tối hôm ấy anh Thu giúp bà ngoại lo cơm nước. Ba mẹ con hai đứa nhỏ ăn cơm với bà ngoại, cậu Tám và anh Thu. Bữa cơm chỉ có rau muống luộc chấm mắm, và cá rô nướng vậy mà hai chị em con nhỏ ăn rất nhiều cơm. Cơm lúa mới hạt thơm và dẻo như nếp tươi làm chúng thấy ngon miệng.Ăn xong, cậu Tám và anh Thu xin ngủ nhờ tại nhà cậu mợ Hai.
         
         
         
         
        #34
          Cung Thi Lan 23.08.2007 16:19:16 (permalink)
               Chương Hai Mươi Bảy
           
           
           
           
           
           
           
          Tiếng lợn kêu eng éc náo động không khí yên lặng của ban mai và đánh thức hai chị em con nhỏ dậy. Lần theo tiếng kêu inh ỏi của mấy con lợn, cả hai đi ra phía sau, tới cái chuồng lợn làm bằng cây và mái lợp nửa tôn, nửa tranh.
          Bà mẹ đang giúp bà ngoại khiêng những thau cám lẫn thân chuối xắt nhỏ đổ vào máng lợn trong khi anh Thu đang xối nước rửa chuồng. Mùi phân lợn nồng nặc, khó thở.
          - Đi ra giếng súc miệng và rửa mặt đi các con.
          Nấn ná một lúc nhìn bốn con lợn sữa sục mõm vào máng thức ăn, hai đứa nhỏ lửng thửng đi ra phía trước.
          Năm đứa nhỏ con cậu Hai đang lảng vảng trước cửa nhà lớn rủ chúng ra giếng rửa mặt. Đến giếng mới nhớ không đem bàn chải và kem đánh răng, hai con nhỏ đành bắt chước  theo những đứa nhỏ bà con dùng ngón tay trỏ chà hai hàm răng qua lại, súc miệng bằng bàn tay bụm chứa nước, rửa mặt bằng những cái quẹt nước ngang dọc qua loa, và lau mặt bằng vạt áo và tay áo. Con em tinh nghịch  xách nước tưới những cây chuối quanh giếng. Đó là lần đầu tiên nó được xách nước từ giếng lên một mình. Bởi vì xách nước mà không cần phải đứng kề miệng giếng, chỉ đẩy cái đòn tre lên cho gàu sòng chìm xuống nước giếng và kéo chiếc gàu lên bằng sức nặng của những tảng đá nặng cột sau đòn tre, nên con em tha hồ đưa lên, kéo xuống cái gàu sòng nhiều lần như nó thích.
          - Rửa mặt xong đi núi nghen? Chị Vương, con gái thứ hai của cậu mợ hai, hỏi hai đứa nhỏ khi cả bọn đi ra “ngõ”.
          Ngồi trên tảng đá phẳng lớn giữa hai khóm tre trước cổng, hai đứa nhỏ thích chí lăn qua tuột lại trên mặt láng cứng và mát lạnh. Con chị hỏi qua loa:
          - Núi ở đâu? Xa không?
          - Không xa, ngay sau lưng nhà mình kìa! Anh Dân, con thứ ba của cậu mợ Hai, trả lời.
          Con chị và con em xoay người lại. Sau lưng hai căn nhà mái lá của cậu mợ Hai và của bà ngoại là đỉnh núi với nhiều cây xanh thấp thoáng.
          - Núi gần vậy hả? Con em ngạc nhiên hỏi.
          - Gần vậy cho nên ngày nào rửa mặt xong tụi tao cũng “đi núi” cả. Anh Dân nói.
          - Giờ tụi em đi không được rồi! Trưa hay chiều đi được không? Con chị nói khi nghe tiếng mẹ gọi vào ăn cơm sáng.
          - Mấy anh chị đây thường “đi núi” buổi sáng nhưng ngày hôm nay chờ hai đứa “đi núi”  buổi chiều cũng được. Chị Vương trả lời.
          Mấy đứa nhỏ vào nhà bà ngoại. Trên nền đất, thức ăn sáng gồm có những chiếc bánh tráng gạo dày được nhúng ướt sũng trong cái rổ tre, chút cơm nguội trong cái nồi đồng, vài con cá rô trên chiếc dĩa đất và mắm nguyên chất trong cái chén sành. Hai đứa được bảo ăn, ngượng ngùng cuốn những miếng bánh tráng ướt trước cái nhìn chăm bẳm của những đứa bà con.  Hai đứa cảm thấy mắc cở vì không thể mời những người đang ngồi kề  ăn cùng. Mấy đứa nhỏ bà con không muốn ăn thức ăn không phải dành cho chúng, cũng không muốn nhìn miệng kẻ đang ăn nhưng chúng vẫn ngồi chờ hai con nhỏ bà con “thành thị” kia ăn xong để được chơi với nhau.
          Bà ngoại bảo anh Thu nhúng thêm bánh tráng đủ cho cả bọn cùng ăn. Bà mẹ ăn qua loa cho có lệ rồi cùng bà ngoại ra thăm vườn chuối. Một lát sau hai người cắt một buồng chuối mốc thành từng nải rồi xếp chúng cùng những xấp lá chuối vào trong một cái thúng nhỏ. Bà ngoại cặp thúng bảo tất cả đám trẻ cùng đi với bà ra chợ. Mấy đứa nhỏ hân hoan theo bà như sắp được chứng kiến một việc quan trọng nào đó mà bà sắp dành cho.
          Sau khi mua bán trao đổi với những người bán lẻ ở nhóm chợ nhỏ của làng, bà ngoại đếm những đồng tiền lẻ và gom cả cho tất cả những đứa cháu nội và cháu ngoại mua những thứ mà chúng thích. Những đứa nhỏ con cậu mợ Hai ân cần chăm lo những sở thích của hai chị em chúng:
          - Em thích mua món gì? Con Tín, đứa con thứ tư của Cậu mợ Hai, hỏi con chị.
          - Em thích mua củ sắn và củ mì tinh luộc. Con chị mắc cở trả lời khi phải xưng hô chị em một cách ngược đời với đứa nhỏ hơn nó ba tuổi.
          - Còn Vy thích mua mấy cục kẹo này! Con em láu táu chỉ tay vào cái tray tròn có những viên kẹo nâu làm bằng đường vàng lổn ngổn trong mớ bột trắng.
          Con chị hỏi:
          - Còn mấy “anh chị” muốn ăn gì?
          Chị Vương xốc “anh” Cu Tèo, con Út của cậu mợ Hai, ngay ngắn bên hông, trả lời:
          - Không ăn gì đâu! Tất cả số tiền này là cho hai em. Hai em không muốn mua nữa thì để dành hôm sau đi chợ mua kẹo ăn.
          Mấy đứa nhỏ con cậu mợ Hai, kẻ gói kẹo, người ôm sắn, kẻ túm mì, người giữ tiền dùm cho hai chị con nhỏ. Và hai chị em, cảm động khôn cùng trước tấm chân tình thơm thảo, chia nhau những thứ có được để cùng ăn.
          Bà ngoại không quan tâm đến số tiền có được từ những thứ mà bà hái trong vườn, cũng không để ý chuyện chia chác giữa những đứa cháu ngoại và cháu nội ra sao, bà đang khoe với những bà bán hàng sự viếng thăm bất chợt của con cháu bà từ  “thành thị”và giải thích lý do tại sao con gái bà ở “thành thị” không về  thăm cha và để tang cha được khi ông ốm nặng và qua đời.
          Trưa hôm ấy, bà mẹ  và bà ngoại  lội  xuống cánh  đồng trước nhà cắt  rau muống. Mấy đứa nhỏ  con cậu  mợ Hai nhìn  chằm  chằm người cô ruột, được thành thị hoá từ lời ăn tiếng nói, đến cử chỉ, và cách ăn  mặc, xăn quần bì bõm  dưới nước đồng cắt rau. Còn  con  chị khi nhìn thấy mẹ quấn quýt bên bà ngoại của nó thì nó hiểu rằng lớn tuổi như mẹ nó cũng muốn kề cận với mẹ ruột của mình.
          Ăn cơm trưa xong, trong khi con em cùng với đám trẻ chơi với những con gà con và vịt con, con chị hỏi chị Vương:
          - Đi núi chưa hả chị ?
          - Muốn đi giờ hả?
          - Không, em chỉ hỏi vậy thôi. Tùy chị!
          - Chị phải đi học hè. Lớp chỉ có một tiếng thôi, từ một giờ đến hai giờ.
          - Chị học lớp mấy?
          - Lớp bốn sang năm lên lớp năm. Em cũng học bằng lớp chị phải không? Cùng tuổi mà! Lớp hè này, nẫu dạy không lấy tiền, đi học với chị cho vui!
          - Em đi chơi với chị thôi! Con chị nói.
          Chị Vương chuẩn bị tươm tất khi đến lớp. Chị thay bộ quần áo đen rách vá bằng chiếc áo bà ba màu xanh đọt chuối nhạt và quần đen thẳng thớm. Chị chải và kẹp tóc gọn phía sau bằng chiếc kẹp ba lá. Chị mang đôi dép nhựa sứt quai được buộc cẩn thận và ngay ngắn bởi chiếc ghim băng. Chị trở thành một cô thôn nữ nhỏ nhắn, mộc mạc và đáng yêu đến độ con chị cảm thấy mình xa lạ, lòe loẹt và đỏm dáng trong bộ đồ bộ đang mặc, mặc dù màu sắc của nó không rực rỡ như hôm qua.
          Ra khỏi cổng, chị Vương không đi dọc theo hàng tre về phía cuối làng để  thỏa mãn trí tò mò của con chị. Trái lại, ôm tập vở trên tay, chị đi ngược về hướng chợ. Con chị vội bước theo bên cạnh. Đó là lúc duy nhất con chị không thấy chị Vương ẵm “anh” cu Tèo kè kè bên hông.
                      Cả hai đi lên triền núi đối diện khu chợ của làng để đến hai lớp học có tường bằng đất sét, mái bằng tranh, và cửa sổ, cửa ra vào bằng cây siêu vẹo. Bàn ghế gỗ cũ xộc xệch chỉ vừa đủ cho tám đứa học trò, mà lúc đó lớp có  đến mười  hai đứa kể cả con chị nên chúng phải ngồi khít vào nhau. Thầy giáo chỉnh tề trong áo sơ mi trắng bỏ vào quần xanh đen thắt nịt lưng. Thầy nói giọng Tuy Hoà và không hề ngạc nhiên trước sự hiện diện của con nhỏ chị. Thầy kêu nó lên bảng hỏi vài câu về văn phạm việt ngữ để thử sức rồi kêu nó giải những bài tập toán mà thầy đã cho lớp tuần rồi. Bài toán nó giải là toán trừ ba số có mượn và toán nhân một số hàng ngàn với hai con số. Những loại toán này so với chương trình học của thành phố chỉ dành cho học trò lớp ba và dĩ nhiên là con chị làm được một cách dễ dàng. Được thầy và bạn trong lớp khen, nó thích chí lắm. Lúc ấy nó ao ước được học ở trường làng Minh Đức mãi để khỏi phải học chương trình toán quá cao của thành phố. Chị Vương luôn miệng thì thầm bảo nó chỉ cho chị cách làm toán khi về nhà.
                      Hai chị em trở về đúng lúc dì Bốn, dì Sáu, và dì Bảy đưa con họ đến thăm ba mẹ con. Mọi người quây quần trước hiên nhà cậu mợ Hai ăn xôi đậu phọng, bánh tráng nướng trét nước mật, khoai lang luộc, chuối mốc chín hườm luộc và bánh cốm đường gừng. Những thức ăn này do các dì đem đến như quà họp mặt.
                      Trong lúc trò chuyện vui vẻ, dì Bảy hỏi hai chị em con nhỏ:
          - Hai cháu có thương “quại” không?
          Cả con chị và con em đều mắc cở, nhưng đều gật đầu.
          - Dạ có. Con em trả lời.
          Câu hỏi của dì Bảy là một câu hỏi đường đột đối với con chị. Nó thắc mắc tại sao dì Bảy  không hiểu rằng câu chất vấn kia bất công đến độ áp đặt người trả lời không thể  nào nói chữ “không” một cách bất lịch sự.
          Dì Sáu hỏi vặn:
          - Nói thương “bà quại” sao hai cháu không nói má “dìa” thăm “bà quại” thường xuyên “dãy”?
          Con em nhún vai, rụt cổ:
          - Con không biết.
          Con chị không trả lời. Nó vừa không thích lối hỏi vặn, hỏi đố vừa bực bội vì các bà dì coi thường chị em nó non nớt đến độ ngốc nghếch. Ngày họp mặt đầu tiên giữa ba mẹ con và gia đình ngoại xảy ra mới ngày hôm qua và lời giải thích của bà mẹ với nỗi uất  ức vẫn còn trong trí nó, thế mà có thể nào dì  Sáu của nó quên mau như vậy. Nó cau mày, bực mình hơn  khi nghe dì Bốn hỏi:
          - Hai cháu thương bà nội hay bà ngoại nhiều hơn “dãy”?
          Con em khôn ngoan trả lời:
          - Con thương bà nội và bà ngoại đồng đều nhau, không ai hơn ai cả!
                      Con chị biểu lộ sự bất mãn một cách thẳng thừng, nó nói:
          - Con thương ai là con để trong bụng chứ không muốn cho ai biết điều đó!
          Ba bà dì của nó đỏ mặt. Họ bực tức tột cùng trước thái độ hỗn xược của nó. Còn nó thì biết rõ ba dì này là những người từng vào Nha Trang giúp mẹ nó khi bà sinh nó và con em.  Họ đã đem các thứ do bà ngoại gửi cho, và đã tận tình chăm sóc mẹ con nó khi chúng vừa mới lọt lòng. Những câu chuyện đầy tình nghĩa của bà ngoại và các dì do mẹ nó kể đã khảm sâu vào tim nó ngay từ lúc nó đủ trí khôn và nó luôn luôn giữ tình máu mủ thân thương với bên ngoại trong trái tim âm thầm của nó. Tuy nhiên, tình cảm của nó dành cho phía ngoại đậm đà sâu sắc bao nhiêu nó không thích nghe một ám chỉ ngầm nào so sánh tình cảm giữa họ nội, và  họ ngoại bởi vì tình cảm mà nó dành cho gia đình nội và gia đình ngoại không thể nào tách biệt và chia rẽ trong trái tim không hề thiên vị của nó.
          Mấy đứa con nít - con của  cậu mợ Hai, con của  dì Bốn, con của dì Sáu, và con của dì Bảy - không thấy thú vị gì khi họp mặt chung với những người lớn, rủ hai chị em con nhỏ ra trước ngõ chơi. Chúng đi dọc theo lũy tre trước nhà, bứt những đọt lá tre, gắn thành vòng tròn, kết thành những sợi dây chuyền, những vòng tay rồi nói cười xôn xao và vui vẻ.
          Chơi chán, chị Vương hỏi:
          - Hai đứa Hạ ,” Qui”(Vy) muốn đi núi chưa “dãy”?
          - Muốn! Em muốn đi!
          Con chị vừa trả lời, cả bọn đều ưng thuận. Cả trai cả gái, mười ba đứa lục tục đi theo con đường dốc hướng lên núi cao. Những căn nhà hai bên triền dốc, được xây cao ráo trên những lớp đá chồng cao thẳng tắp gọn gàng như những tòa lâu đài ngự trị trên sườn núi cao hùng vĩ bởi vì chúng có ngói đỏ và tường xi măng. Có lẽ đó là những căn nhà của những người giàu có của làng. Ven theo triền đá là những cây hoa đủ màu với những con bướm và con chuồn chuồn chập chờn bay lên xuống. Cuối khúc nhà ở, đường lên núi càng dốc, và  những chuồng ngựa, chuồng trâu, chuồng bò liên tiếp san sát nhau. Vài con ngựa còn ở trong chuồng hí vang như muốn báo động cho chủ biết nhiều kẻ lạ đang xâm nhập nơi chúng đang cư ngụ và đang làm chúng hoảng sợ. Mùi phân nồng nặc của mấy cái chuồng súc vật này làm con chị ngạt thở, xây xẩm muốn oẹ.
           Con em bịt mũi, bịt miệng than:
          - Chỗ này thúi quá.
          Mấy đứa nhỏ bà con họ ngoại bình thản không nói gì; chúng cũng không bịt mũi, không khạc đờm, không nhổ nước miếng. Kẻ chân đất, người mang dép cao su, kẻ mang dép nguyên quai màu mới toanh, người mang dép xẹp quai dây chuối thoăn thoắt bước lên những viên đá to nhỏ mòn nhẵn gắn chặt vào đường mòn dưới chân. Xuyên qua khỏi các khóm cây um tùm, con đường mòn càng lúc càng mở rộng hơn. Đến một nơi không có cây cao nào ngoài những bụi cây nho nhỏ, cả bọn đứng lại nhìn lên bầu trời quang đãng và muôn vàn cây cối tươi xanh trên đỉnh núi trước mặt.
          Chị Vuơng chỉ về phía đám cây có những con chim vờn bay lên xuống cách đó độ hai chục mét, nói như reo:
          - Lên phía đó tìm chim chim, dú dẻ ăn đi bay! Xong rồi hãy “đi núi”!
          Con chị háo hức đi nhanh theo hướng chỉ của chị Vương. Nó bỏ quên sự phân vân về lối nói chữ của chị ấy. Chả là họ đang ở núi rồi sao?
          Những con chim thấy bóng người, vụt bay ra khỏi những cành cây thấp nơi có những trái xanh, trái đỏ trái vàng. Bọn nhỏ tranh nhau bu đến cây là tròn có những chùm trái đỏ dài như những hạt đậu chín mùi trĩu nặng toòng teng trên những nhánh cây.
          - Trái này là trái chim chim đó. Hái ăn đi!
          Con chị, ảnh hưởng những câu chuyện kể của mẹ, nghi ngại hỏi hết đứa bà con này đến đứa bà con khác:
          - Trái này có phải là trái độc không? Đã thấy ai  ăn chưa? Có thấy chim vẫn còn sống sau khi ăn trái này không?
          - Trời “quơi” lần nào lũ tao đi núi cũng hái chim chim, dú dẻ, nhãn lồng ăn. Đâu có ai chết đâu mà sợ! Ăn thử đi! Anh Dân nói to như la.
          Vừa nghe nói thế, con em hái ngay một trái bỏ vào miệng, khen rối rít.
          - Trái chim chim ngon quá!
          Con chị nghe lời, hái và nếm thử. Thích thú với vị ngon lạ, nó cùng với đám trẻ thi nhau đi quanh gốc chim chim bứt hết các chùm đỏ, nhai hết chùm này sang chùm khác, và nhả hột xung quanh gốc cây.
          - Có phải trái đỏ này bị chim ăn nhiều nên người ta gọi là trái chim chim không? Con chị hỏi
          - Có thể! Anh Dân trả lời - Nhưng trái dú dẻ vàng này thì không biết vì sao nó có tên là dú dẻ?
          Con chị nhận hai trái hình bầu dục màu vàng mơ trên tay anh ta, nuốt nước miếng:
          - Anh hái ở đâu vậy?
          Anh Dân vừa chỉ khóm cây dày lá xanh thẫm chi chit những trái, con chị và cả bọn trẻ bu lại thi nhau bứt hái, nói cười rộn rã. Tỏ ra là người am hiểu vị trí các loại cây ăn trái mà ngọn núi có được, anh Dân tiếp tục lục tìm và đưa hai chị em đến bụi dây đầy những trái vàng chanh và cây xoay có những trái đen nho nhỏ chi chít trên cành.
          - Đây là bụi nhãn lồng! Còn đây là cây “xay”! Trái nào cũng ăn được hết. Hái ăn đi đừng sợ! Anh Dân nói.
          Thích thú với những trái lạ chưa từng được thưởng thức trong đời, hai chị em con nhỏ réo nhau đến bụi này đến cây khác  xúm xít cùng mấy đứa nhỏ bà con bứt bứt, khèo khèo, hái hái rồi chia nhau ăn hết loại trái này đến loại trái  khác.
          Một lúc sau, con em nhăn mặt la lên:
          - Em đau bụng quá. Em mắc đi cầu.
          Chị Vương nói:
          - Ở đây bây giờ đi “cầu” xa tít ngoài đồng chịu không thấu đâu, đi “núi” được rồi!
                      Dứt lời chị xốc “anh” Cu Tèo đi ngược lại con đường mòn và ngừng lại ở chỗ quang đãng nhất, nơi không có cây cao ngoài những bụi thấp lè tè mọc chi chit và lẫn lộn trên các ụ đá cuội lớn nhỏ.
          - Vào trong mấy bụi cây trong kia tìm chỗ ỉa đi! Chị Vương ra lệnh.
                      Nói xong, chị đi tìm một bụi cây cởi quần cho cu Tèo trước khi cởi quần cho mình, rồi ngồi xụp xuống im lìm. Ngạc nhiên thay, lời của chị Vương tưởng chỉ dành cho con em, không ngờ  tất cả những đứa bà con, đứa nào đứa nấy cũng tìm một bụi cây, cởi quần ngồi im lặng. Con em bắt chước tìm một bụi cây cho nó. Ngơ ngác một mình trên lối đi, con chị chợt thấy chột bụng nên nó đành len lỏi vào trong các bụi rậm để tìm một chỗ. Giải quyết cơn đau bụng xong, con chị bối rối không biết làm sao để chùi sạch chỗ hôi thối. Nhìn qua lại những người ngồi gần, nó chờ học cách giải quyết vấn đề khó khăn mà nó đang có. Anh Tiến, chị Tín, con Thoa - con dì Bốn - xách quần đi khúm núm dọc ngang tìm kiếm thứ gì đó dưới đất. Rồi mỗi đứa ngồi trên một gồ đá lồi lên từ mặt đất, lắc lư những cái mông tròn chà hậu môn lên mặt láng của các gồ đá như thể những cái gồ đá lồi tròn kia là “vật chùi sạch hậu môn”!
          Khi thấy con em bắt chước làm hoàn toàn giống như mấy đứa bà con, mà ngay cả lúc đó “anh” Cu Tèo mới bốn tuổi cũng xoay tròn cái mông thuần thục và nhuần nhuyễn trên ụ đá tròn như đã thực tập khá nhiều lần. Con chị la lớn:
          - Trời ơi! Làm  cái kiểu gì mà “mọi rợ” vậy?
          Vừa la xong, nó thảng thốt bụm miệng ngay. Con em cũng thảng thốt, dáo dác nhìn nó. Hai chữ “mọi rợ” mà chị em chúng đã móc nghéo và thề thốt chẳng bao giờ nói ra kể cả lúc chúng được giàu sang sau này bây giờ lại vang vọng giữa núi đồi xuyên qua bao nhiêu cây cối từ trong miệng con chị. Biết tất cả mọi người đang chằm chằm nhìn nó, con chị ngồi im thin thít, khép chặt đầu gối, và cúi đầu xuống đất.
          Chị Vương hốt hoảng xốc “anh” Cu Tèo đến gần nó:
          - Mọi rợ ở đâu “dãy”?
          Con nhỏ chị ngửng đầu lên, ấp a ấp úng, lấp bấp giải thích:
          - Ơ ... không có!... không có mọi rợ nào ở đây cả! Ý em muốn nói là sao mình chùi đít trên mấy ụ đá vậy? Lỡ mấy người nào đã chùi vào đó trước rồi thì sao? Dơ chết!
          Chị Vương co chân, phủi cỏ dính quần, vô tư nói:
          - Có gì đâu mà lo “dãy”! Ban đêm nào, ban khuya nào mưa không “dìa” núi! Mấy khối đá ở núi Chớp Chài này được nước mưa rửa sạch sáng ngày ra nắng làm khô như mình giặt áo quần vậy mà!
          Ngày nào tụi chị cũng “đi núi”, cũng chùi, có bị gì đâu! Mình phải đi tìm cái ụ đá sạch nhất để mà chùi, thiếu gì ụ đá ở đây mà sợ!
          Con chị vẫn không nhúc nhích. Tệ hại cho nó là mấy đứa nhỏ trong bọn đã vệ sinh xong, bằng cách nhún người lên xuống hay xoay quanh qua lại trên gồ đá lồi, đang thập thò vây tròn xung quanh nó.
          Chị Vương hiểu ý, bảo lũ nhỏ đi ra ngoài con đường mòn đứng chờ, rồi ẵm “anh” Cu Tèo đi tới đi lui tìm một ụ đá sạch nhất cho nó xoay tròn người lên đó.
                      Về đến nhà, mấy đứa con dì Bốn, dì Sáu, dì Bảy chia tay theo mẹ chúng ra về. Mấy đứa con cậu mợ Hai và hai đứa nhỏ ra giếng tắm. Chúng tắm với cả áo lẫn quần. Ướt sùng sũng bởi bao nhiêu gàu nước đùa nghịch, mấy đứa nhỏ chờ cho đến khi trời tối hẳn mới vào nhà thay áo quần.
                      Tối hôm ấy, hai đứa nhỏ ăn cơm với bà ngoại, bà mẹ, cậu Tám và anh Thu. Cơm tối có cá rô nướng, rau muống luộc như hôm trước nhưng có thêm món cua nướng do anh Thu bắt được khi đi làm đồng về, và canh chua cá thu do bà mẹ đem từ thành phố. Sau khi ăn cơm, anh Thu chong thêm một ngọn đèn dầu để làm cho hai đứa nhỏ mấy cái nồi cơm, mấy ấm nước, mấy cái chén và mấy tách trà bằng đất sét. Chị Vương dỗ anh Cu Tèo ngủ xong, chạy qua nhà bà ngoại rủ con chị sang nhà chỉ toán.
                       Vài đứa nhỏ hàng xóm thập thò trước ngưỡng cửa nhà bà ngoại và nhà cậu mợ Hai.
           
           
           
           
           
           
           
           
           
           
          #35
            Cung Thi Lan 23.08.2007 16:21:26 (permalink)
                 Chương Hai Mươi Tám
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
             
            Đêm hôm ấy là đêm trăng sáng. Trăng mười sáu tròn đẹp lơ lửng trên bầu trời như chiếc đèn điện tròn khổng lồ đang chiếu sáng khắp cả chân núi Chớp Chài nơi làng Minh Đức. Ánh trăng dịu dàng hòa mình vào trong không gian yên tĩnh, nhẹ nhàng trải rộng ánh sáng trên những mái tranh, trên những cành ổi rồi len lỏi âm thầm xuyên qua những tàu chuối và đến tận những khóm tre bên dưới. Trăng đã đưa đường cho mọi người trong làng ung dung đi lại trên con đường đất dọc theo ngôi làng và vỗ về dân làng trầm lặng thưởng thức cái yên bình của đêm thanh. Những tiếng kêu gọi ơi ới, những tiếng nói ồn ào của ban ngày dường như tan biến mất ngay từ lúc trăng lên. Và trăng càng lúc càng sáng tỏ.
                        Gia đình dì Bốn, dì Sáu, dì Bảy và vài người lớn con nít quanh xóm đến nhà bà ngoại. Họ cùng với gia đình cậu mợ Hai, Cậu Tám, anh Thu tụ tập trên cái sân phơi lúa để vừa ngắm trăng vừa họp mặt chia tay với ba mẹ con. Hai con nhỏ ngồi cạnh mẹ và bà ngoại trên sân phơi lúa, mặt hướng về phía đỉnh núi sau mái tranh của nhà cậu mợ Hai. Anh Thu đem ấm trà lớn và khay đựng tách trà ra đặt ở giữa sân nơi mà vài gói gạo, vài gói bột mì tinh, vài túi nếp thơm, hai ba xấp bánh tráng, và  vài khúc mía được xếp dồn cạnh nhau thành một đống nhỏ. Những thứ thức ăn này là quà của phần lớn những người có mặt biếu ba mẹ con trước khi họ lên đường.
            Cậu Tám đặt khay bánh thuẫn đủ màu do vợ sắp cưới của cậu mới đem đến, vui vẻ nói:
            - Xin mời tất cả các bác, các anh chị dùng bánh uống trà. Các cháu nhỏ thì ăn bánh ở đây nhưng lấy nước uống ở chỗ kia.
            Hướng mắt về phía cái lu nho cạnh hoa trang con chị mỉm cười. Mặc dầu mẹ nó đã căn dặn phải lấy nước đun sôi trong nhà bếp uống nhưng vì lười nên nó thường bắt chước những đứa nhỏ con cậu mợ Hai dùng gáo dừa múc nước lu uống mỗi khi đi chơi núi hay đi chơi  đồng về. Gần hai tuần uống nước lu với những con lăng quăng trong đáy, may mắn là nó không bị đau bụng. Yên lặng ngắm mọi người xung quanh, nó ngạc nhiên khi thấy họ không hề để ý đến lời mời của cậu Tám. Lạ lùng hơn nữa là những đứa nhỏ! Tưởng đâu chúng thích thú với những chiếc bánh thuẫn đủ màu trên cái khay lớn, nhưng chúng vẫn ngồi im và nhìn sững vào mặt của nó.
            Một bà lão chen vào ngồi giữa bà mẹ và con chị, hỏi lớn:
            - Bà nghe cháu của bà nói cháu kể chuyện đời xưa hay lắm phải không? Đâu? Kể cho bà nghe một chuyện trước khi đi dìa trong thành phố của cháu đi!
            Con chị cúi mặt, mắc cở lắc đầu. Những đứa nhỏ bà con và hàng xóm đang ngồi trên các gờ quanh sân phơi lúa, nhích đến trước mặt nó để được ngồi gần hơn, nhao nhao nói:
            - Kể đi Hạ! Kể chuyện cho tụi tao nghe với đi! Ngày mai chị em mày “dìa” trỏng rồi, tụi tao đâu còn được nghe chuyện nữa!
             Chị Vương nói:
            - Kể đi Hạ! Mai em đi rồi! “Nẫu nẫu” đến đây để nghe em kể chuyện mà em từ chối “dãy”na?
                        Con chị ngước mặt lên. Ánh trăng chiếu sáng từng khuôn mặt những đứa trẻ ngồi quanh nó. Những ánh mắt chờ đợi khiến nó nhớ lại buổi tối đầu tiên khi bọn trẻ trong xóm đến nhà ngoại chơi, lúc đó, nó vô tình kể cho bọn trẻ nghe những câu chuyện mà nó chỉ có tham vọng  gây say mê và làm chúng cười bò bằng những chi tiết thêm thắt và phóng đại chứ không nghĩ những câu chuyện kỳ quái và dị thường của nó đã khiến cho bọn trẻ phải  chơi trò “tay trắng, tay đen” để được ngủ lại và nghe thêm chuyện kể trong căn nhà chật chội của bà ngoại. Tệ hại hơn, những đứa nhỏ tuyên truyền đến tai những người  lớn tuổi là nó kể chuyện hay mà không hề hay biết là chính sự im lặng, chú tâm nghe chuyện và những tiếng cười thích chí của chúng đã kích thích nguồn hứng thú của con chị khiến cho nó kể nhiều chi tiết thú vị và hấp dẫn.
            - Kể đi Hạ! Mai mày đi rồi! Kể hôm nay là chuyện cuối mà! Một đứa nói.
            Con chị lắc đầu. Kể  chuyện trong bóng tối dễ dàng hơn dưới ánh trăng sáng, nhất là trước bao nhiêu người lớn tuổi đang ngồi xúm xít quanh nó. Những người mà nó tin chắc kinh nghiệm đời của họ sẽ làm cho họ cười thầm những chi tiết ngu xuẩn kỳ cục do nó bịa đặt ra.
            Bà mẹ rót nước trà mời bà ngoại, quay đầu sang động viên nó:
            - Con kể một câu chuyện đi! Đừng để mọi người chờ tội nghiệp.
            Con em níu tay nó:
            - Kể chuyện đi chị Hạ! Chuyện gì cũng được mà!
            Khuôn mặt con em dưới ánh trăng trông ngây thơ và dễ thương như khuôn mặt dễ thương của con em trong phim Hai Chị Em Mồ Côi trong phim Ấn Độ lạ thường nhưng con chị không muốn kể câu chuyện khá dài này.
            Ánh trăng soi trên mái nhà cậu mợ Hai càng lúc càng  rõ và tiếng côn trùng kêu râm rang xung quanh vườn chuối càng lúc càng lớn hơn. Một vài con đom đóm bay lên bay xuống chơm chớp ánh sáng, mọi người vẫn yên lặng ngồi chờ và con chị vắt óc cố tìm một câu chuyện đặc biệt để kể. Một câu chuyện đặc biệt nào đây? Một câu chuyện nào có thể đặc biệt hơn câu chuyện Nàng Út Rẫy Dưa mà trong đó nó bịa thêm cảnh hoàng tử không thấy nàng Út bé tí tẹo nên đái trên những dây dưa đến độ cả lá và dưa đều chết héo sạch rụi, hơn câu chuyện Thạch Sanh Lý Thông mà trong đó nó bịa thêm là Lý Thông xấu đui xấu điếc đến độ khi ông ta xuống hang cứu công chúa, công chúa phải giựt mình hoảng hốt và luôn miệng than trời trách đất là thà được chết dưới hang còn hơn để kẻ xấu xí như vậy ôm kéo cô lên, và hơn câu chuyện Thần Biển và Thần Trời suốt đời ganh tị với nhau hoài về sắc đẹp màu xanh lơ mà trong đó nó bịa thêm cảnh họ đánh nhau điên khùng bởi hai tên gọi “màu xanh nước biển” và “màu xanh da trời” đến nỗi gây mưa to sóng lớn mỗi năm đây?
            Ông Cậu Hai và cậu Tám  đang quấn thuốc rê, chuyện trò gần ngọn đèn dầu thỉnh thoảng kín đáo đưa mắt nhìn nó. Ba thửa ruộng lúa chín vàng mênh mông của cậu mợ Hai và một thửa ruộng nho nhỏ lèo tèo nửa vàng nửa xanh của bà ngoại, và cậu Tám, mà nó được nhìn thấy khi đi chơi đồng những ngày trước đó, lần lượt hiện ra trong trí nó. Nó chợt nghĩ đến chuyện Ăn Khế Trả Vàng và toan thay thế cây khế kia bằng những thửa ruộng. Thế nhưng, nó không thể kể chuyện này bởi vì chắc chắn cậu Hai sẽ biết nó ám chỉ tính tham lam của người anh Cả muốn vơ quét hết phần của cha mẹ và bình tâm trước cảnh em chịu cảnh nghèo hơn, khổ hơn. Như thế, ông sẽ nghĩ nó là một đứa nhỏ hỗn láo, một đứa nhỏ mà mẹ nó không dạy chu đáo. Có thể là cậu Hai không nghĩ về những cái mà nó đang lo lắng suy nghĩ nhưng câu chuyện Ăn Khế Trả Vàng thật không phù hợp cho lúc ấy chút nào cho nên không đề cập đến chuyện anh em giàu nghèo vẫn hay hơn.
            Con em níu tay nó một lần nữa. Nó nhìn mặt con em, nhìn lên đỉnh núi Chóp Chài hiện rõ trên bầu trời dưới ánh trăng vằng vặc rồi buột miệng kể:
            - Ngày xưa có một người đàn bà không thích có chồng có con nên bỏ đi lên núi sống một mình như kẻ tu hành. Bà đi mãi, đi mãi cho đến khi gặp một hang núi cạnh con suối nước trong và rừng cây ăn trái  xanh um. Những cây chim chim chín đỏ, những trái dú dẻ vàng mơ, những trái nhãn lồng mỏng vỏ ngọt lịm, những trái xay đen tuyền là thức ăn, nước suối là nước uống và hang đá là nhà của bà.
            Im lặng một lúc, con chị chờ đợi những tiếng phản đối và trêu chọc. Nó cố tình lấy những loại trái cây trên núi Chóp Chài để lồng vào câu chuyện mà nó đang kể  và mong câu chuyện kết thúc ngay từ lúc bắt đầu. Chắc chắn mọi người hiểu rằng nó đang bịa câu chuyện với những cây trái của địa phương và không ai muốn nghe những lời bịa đặt mà không có vẻ gì giống những câu chuyện thần thoại hay cổ tích thường nghe. Thế nhưng, những đôi mắt vẫn tiếp tục chờ đợi trong yên lặng và nó tiếp tục câu chuyện với giọng kể hùng hồn hơn:
                        - Một hôm, đang tắm dưới suối, bà bắt gặp hai tép bưởi hồng phấn tươi ngon kỳ lạ mặc dù chẳng có cây bưởi nào mọc gần đó. Không kềm nổi sự thèm ăn, bà bóc hai tép bưởi, cho vào miệng ăn hết sạch. Sau khi ăn hai tép bưởi bà có bầu chin tháng mười ngày và hạ sinh hai đứa con gái. Hai cô con gái của bà rất xinh đẹp và giống nhau như tạc. Họ được bà đặt tên là Ngọc Cam và Ngọc Khổ.
            - A! Té ra chuyện Ngọc Cam Ngọc Khổ!
            Con chị nín bặt. Nó nghĩ là bất cứ người Việt Nam nào, dù lớn hay nhỏ cũng đều biết câu chuyện Ngọc Cam Ngọc Khổ này và nó có thể kết thúc nơi đây. Thế nhưng, có tiếng hỏi lớn:
            - Rồi sao nữa? Sao không kể tiếp “dãy”?
            - Ơ... ơ... rồi khi hai đứa con gái Ngọc Cam, Ngọc Khổ lớn lên thì bà này trở nên già nua, bệnh hoạn và chết. Hai đứa Ngọc Cam và Ngọc Khổ chôn cất mẹ nhưng vẫn giữ lại bộ đồ của mẹ. Họ dùng bộ đồ của bà để đem củi khô xuống chợ đổi thức ăn. Ngày mà một cô mặc áo quần thì cô khác phải ở truồng ngồi núp trong hang.
            Không có một tiếng cười và con chị lại nhìn vào mặt em nói tiếp:
            - Một ngày kia, khi cô em Ngọc Khổ đem củi ra chợ bán thì gặp một chàng công tử con quan. Say mê với sắc đẹp Ngọc Khổ, chàng công tử này đưa nàng về nhà xin cha mẹ cưới hỏi. Trong khi công tử tìm cách sai người hầu giúp Ngọc Khổ đến hang núi rước chị trước khi cử hành hôn lễ thì Ngọc Cam khốn khổ với đoàn tùy tùng săn bắn của hoàng tử, con vua. Vị hoàng tử bám riết con nai đến tận hang núi và sai quan lính đốt quanh hang để xiết vòng vây con thú đang săn. Ngọc Cam đang núp trong hang núi, ngạt vì  khói lửa, khóc than kêu cứu” Đừng đốt nữa! Tôi đang ở trong đây!” Hoàng tử và đám cận vệ kinh ngạc la to: “Người hay ma phải ra ngay không thôi ta đốt chết!” Hoàng tử nói. Ngọc Cam sợ bị chết cháy, chạy ào ra. Ngạc nhiên trước sự xuất hiện của nàng, hoàng tử  hỏi rõ đầu đuôi, rồi sai quân lính cung cấp cho nàng áo quần trước khi đưa nàng về hoàng cung, xin hoàng thượng cưới nàng làm vợ.
            Con chị nuốt nước bọt kể tiếp:
                        - Khi công tử đưa Ngọc Khổ đến hang núi tìm chị thì chỉ thấy một đám tro tàn trước cửa hang. Nghĩ là chị đã bị chết cháy, Ngọc Khổ than khóc, xin công tử cho để tang chị ba tháng mười ngày trước khi làm đám cưới. Mãn hạn, Ngọc Khổ đặt hương án làm lễ mãn tang chị và lúc ấy cô gặp Ngọc Cam cùng hoàng tử trên đường về hang núi tìm em. Hai bên trùng phùng hoan hỉ. Cuối cùng, Ngọc Cam ưng hoàng tử và Ngọc Khổ ưng công tử. Họ trở nên giàu có và hạnh phúc muôn đời.
            Dứt lời, đôi mắt con chị còn mơ màng trên đỉnh núi Chớp Chài. Ánh trăng và bầu trời sáng làm rõ hơn cái chóp nhọn của núi nơi mà con chị tưởng tượng Ngọc Cam và Ngọc Khổ đã từng sống ở đó.
            Một bà lão ngồi trước mặt nó giữa đám trẻ, đứng lên tìm chỗ nhổ bã trầu, rồi quẹt miệng bằng tay áo, tấm tắc khen ngợi:
            - Chời quơi, con nhỏ có khiếu kể chuyện hay dữ  dậy na bay! Cháu “quại” bà kể chuyện hay lắm đó nghe bà Năm!
            Bà ngoại mỉm cười hãnh diện, vồn vã mời mọi người dùng trà và bánh. Người lớn, con nít tản mát ăn bánh uống nước vui cười thỏa mãn. Một lát sau, họ tụm năm tụm ba hàn huyên trò chuyện nhưng không quên bàn tán câu chuyện vừa nghe. Dì Tư, dì Sáu, dì Bảy và các bà dì quanh xóm vây quanh bà mẹ hỏi vì sao con chị biết nhiều truyện cổ tích và  bà  đã dạy con theo cách như thế nào. Bà mẹ cho họ biết là bà thường kể chuyện cổ tích cho hai đứa con gái bà nghe vào ban tối trước khi ngủ nhưng chưa bao giờ  bà thấy con chị nói nhiều và kể chuyện nhiều như những ngày nó thăm quê lần này như thế. Bà mẹ nói năng điềm đạm khi tiếp chuyện với chị em ruột và chị em xóm giềng nhưng bà không giấu được vẻ mặt hân hoan.
            Bà lão ngồi cạnh con chị, vỗ vai nó:
            - Dìa “trỏng” ráng học giỏi nghe cháu. Khi nào được “dìa” đây nữa thì kể chuyện thêm cho mấy bà con nghe!
            Con chị gật đầu ưng thuận. Trong lúc ấy, nó thầm biết ơn bà lão này đã khăng khăng yêu cầu nó kể chuyện và mọi người chú tâm lắng nghe câu chuyện của nó. Sự tôn trọng của mọi người đối với nó đã kích thích tinh thần của nó và làm cho nó có hứng thú diễn đạt những chi tiết trong câu chuyện linh động hơn và thú vị hơn. Lúc ấy, nó cảm thấy rất gần gũi những người nông thôn ở quê ngoại. Những người này đã cho nó cơ hội bày tỏ những điều mà nó phiêu lưu trong trí tưởng tượng. Và nó cũng hiểu được vì sao nó thường câm nín trước những người lớn trong đại gia đình họ Hoàng. Những lời châm biếm, và chê bai  của họ đã khiến cho nó sợ hớ ra những điều không thông dụng, những điều dị kỳ trong trí tưởng tượng của nó.
            Anh Thu dúi cho nó một gói nóng bỏng. Mở ra, nó hít hà với cái mùi thơm:
            - Hạt nổ! Lúa nếp tươi! Anh mới rang đó hả?
            - Cho em để thưởng công kể chuyện hay. Anh Thu nói.
                        Con nhỏ chị cảm động. Nó cười tươi vui sướng. Những buổi chiều đi thăm đồng về, anh Thu thường ngắt những nhánh lúa nếp chín vàng mọc lòa xòa bên bờ ruộng rồi bỏ vào nồi đất rang cho nó. Sau khi làm sạch trấu,  anh Thu thường hỏi con chị là nó có muốn ăn hạt cốm không. Những lúc ấy, con chị thường ương bướng nói là hạt nổ chứ không là hạt cốm vì nó nổ trong nồi đất khi bị rang nóng và vì nó chưa được phết đường dính lại thành cốm. Chiều hôm nay anh Thu bận rộn với đống lúa phơi, thấy anh tất bật hốt lúa vào bồ cho đến lúc trăng lên, nó cứ ngỡ là anh Thu đã bỏ thói quen rang những hạt lúa nếp tươi nào ngờ anh ta vẫn còn cho nó ăn hạt nổ lần cuối cùng.
            Con em ôm chặt lấy nó:
            - Chị Hạ nhớ kể chuyện này lại cho em nghe khi mình về nhà nghe. Em thích nghe chuyện này lắm!
            Con chị gật đầu, mỉm cười:
            - Về nhà, chị sẽ chiều em hết mọi thứ, đừng lo! Bây giờ Vy ăn hạt nổ với chị đi!
             
             
            #36
              Cung Thi Lan 24.08.2007 16:34:57 (permalink)
                    
              Chương Hai Mươi Chín
               
               
               
               
               
               
               
               
              Một buổi chiều chạng vạng tối, khi mà hai vợ chồng trẻ  bị hai con chó cô Út sủa dồn từ cổng trước đến cây vú sữa và bà mẹ chạy ra xua chó cho họ, hai đứa nhỏ mới biết chúng còn có nhiều người bà con nữa chứ không phải những người  đang cư ngụ trong khuôn viên nhà nội. Người đàn bà trẻ kia là chị bà con của chúng. Chị là chị Tươi, một trong bốn người con của người chị thứ ba của ba chúng. Vì mẹ của chị  ấy đã mất nên các chị em của chị phải sống với ba chị trong Sài Gòn cho đến khi tất cả đều lập gia đình.
              Bước vào căn nhà lù mù tối, chị Tươi cười nói vui vẻ liếng thoắng:
              - Chà hai đứa con của mợ lớn như ri rồi thê! Vy đây sao?
              Con em khoanh tay, cúi đầu:
              - Dạ thưa anh chị mới đến nhà em.
              Chị cười tươi roi rói, xoa đầu con nhỏ em:
              - Ai ngờ con Vy ra ri! Ngày cậu mất Vy chưa biết đi mà ngày ni như ri rồi!
              Xoay người về phía con chị, chị nói liên tục:
              - Hạ đây phải không? Trời ơi! Hắn cao như ri rồi thê! Đến o con gái mấy hồi mợ nờ!
                          Con chị cúí đầu, mắc cở:
              - Dạ, em chào anh chị mới đến.
              Đặt hai chiếc xách tay nho nhỏ cạnh tường, người đàn ông cao lêu nghêu và ốm tong teo nhìn nó mỉm cười. Chị Tươi lấy tay  đặt trên đầu nó rồi ướm vào người chị:
              - Cao gần bằng chị rồi! Gần làm o con gái giúp mạ được rồi đó Hạ nờ!
              Con chị ngẩng đầu mỉm cười. Lời nói của chị làm nó để ý là nó đã cao gần bằng chị và thực tế hình như không phải nó cao lắm so với lứa tuổi mà chỉ vì chị Tươi  quá thấp đối với phụ nữ ở độ tuổi lập gia đình. Chị Tươi trông càng thấp hơn khi đứng cạnh người bạn đời của chị. Anh ta cao nhòng như cây sào. Trái hẳn với vợ, anh ta rất im lặng. Thỉnh thoảng anh dè dặt trả lời “dạ có” hay “dạ không” khi bị bà mẹ hỏi đến. Khuôn mặt hốc hác, nước da xanh dờn, và đôi mắt trũng sâu của anh dưới ánh đèn dầu lập loè làm cho con chị đoán là anh đã trải qua một cơn bệnh ghê gớm lắm. Với ước đoán, con chị hiểu phần nào lời than thở của chị Tươi:
              - Tội nghiệp! Chị mang tiếng ở Sài Gòn nhưng ra đây không có chi cho hai em!
              Bà mẹ lắc đầu:
              - Các con không cần phải cho hai em cái gì cả. Hai con đến thăm mợ và các em là qúy lắm rồi.
              Con chị thở dài. Lần đầu tiên gặp người chị bà con này mà nó tưởng như đã gần gũi thân thiết từ lâu lắm. Những người nghèo hình như dễ gần nhau hơn những người giàu và những người nghèo gặp nhau. Hội ngộ với chị  Tươi đã cho nó cay đắng nhận ra rằng những người bà con giàu có trong giòng họ nội thường bước thẳng vào ngôi nhà lớn, trái lại những người nghèo khổ cơ cực thường đi tẻ sang căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó khi họ bước vào khuôn viên của đại gia đình họ Hoàng. Ngoài ra, nó còn nhận thấy rằng khi một người trong giòng họ mất đi thì mối quan hệ giữa những người thân còn lại của gia đình riêng của họ không còn chặt chẽ bao nhiêu với những người trong đại gia đình nữa, nhất là khi cái nghèo ám ảnh những người ấy. Buồn cười thay, đáng lẽ những người bị mất người thân, những người bị thiệt thòi cần được bảo bọc thương yêu bởi tình thương của đại gia đình thì họ lại bị đẩy lùi xa bởi cái khoảng cách giàu và nghèo trong giòng họ.
              Kéo tay chị Tươi ngồi xuống ghế, bà mẹ ân cần hỏi:
              - Hai con làm ăn ở Sài Gòn ra sao?
              Chị Tươi đang tươi roi rói bỗng sa sầm nét mặt:
              - Con khổ lắm mợ ơi! Hai đứa con bị thất nghiệp mấy tháng nay mà tiền thuê nhà ở Sài Gòn mắc quá thành ra tụi con đánh liều ra đây kiếm sống.
              Bà mẹ gật đầu:
              - Không làm ăn được ở Sài Gòn thì làm ăn ở đây. Sống gần bà con không đến nỗi tệ  đâu con.
              - Dạ, nhưng tụi con không biết ở thành phố nhỏ như Nha Trang này có dễ kiếm việc để kiếm sống qua ngày không.  Tụi con cũng không biết ở nơi mô nữa. Chị Tươi cúi đầu than.
              - Tạm thời không có chỗ ở thì hai con ở với mợ. Kiếm được việc rồi hãy thuê nhà. Bà mẹ nói.
              Quay người nhìn khoảng hẹp của nền nhà trước bàn phật và bàn thờ ba hai đứa nhỏ, chị Tươi nói ngập ngừng:
              - Để con vô chào ngoại, cậu mợ Cả và mấy dì rồi mới tính được.
              Nhìn qua khung cửa sổ chị Tươi hỏi như tự nói với chính mình:
              - Giờ ni không biết ngoại và mấy dì đang làm chi trong nớ. Chắc đang còn ăn cơm. Thôi thì chờ thêm một chút nữa!
              Bà mẹ tiếp tục thuyết phục:
              - Tụi con đừng ngại. Mợ lấy chiếu ngủ ngoài đây với các em còn các con ngủ ở trong giường lớn. Ở một thời gian khi nào các con  tìm được chỗ ở rồi hãy đi.
              - Cảm ơn mợ. Nếu ngoại và mấy dì trong nớ không cho tụi con ở thì tối nay tụi con ngủ tạm trước bàn phật đây rồi sẽ thuê nhà.
              Bà mẹ chuyển đề tài:
              - Còn ba con ra sao?
              Chị Tươi cúi đầu:
              - Ba con thì bệnh nặng lắm. May mờ hai vợ chồng thằng Vỹ làm ăn được nên chăm sóc cho ông, chứ tụi con nghèo quá, đành phải mang tội bất hiếu mà thôi!
              Bà mẹ gật gù:
              - Tội nghiệp ba con thật! Vợ mất mà tự lo cho các con khôn lớn nên người như vậy là hay lắm rồi. Nhất là lo được cho cháu Vỹ học ra bác sĩ nữa chứ!
              Chị Tươi thở dài:
              - Mỗi người có một cái số! Trong mấy chị em con không ai khổ như con. Tụi con không làm được nên trò trống chi cho nên cứ phải nay đây mai đó. May là tụi con chưa có con.
              Bà mẹ an ủi:
              - Không sao đâu con. Ở trỏng làm ăn không được thì kiếm việc ở đây. Con có chữ nghĩa, kiếm việc mấy hồi!
              Chị Tươi lắc đầu, không nói. Bà mẹ chép miệng, tiếp tục:
              - “Gà trống nuôi con” như ba con mà nuôi được các con nên người, còn mợ không hiểu có nâng đỡ hai em học thành tài không?
              Chị Tươi chớp mắt:
              - Hai em  học lớp mấy rồi mợ?
              - Năm nay Hạ học lớp nhất con à, còn Vy học lớp nhì.
              Chị Tươi tròn mắt:
              - Ủa? Mần răng mờ tụi hắn học cách nhau có một lớp rứa mợ?
              - Cách đây hai năm mợ lo đi buôn bán bỏ chị em nó ở nhà. Ăn uống thất thường lại kén ăn nên con Hạ bị bịnh mấy tháng trời. Thiếu bài vở, bị ở lại lớp nên nó phải học hai năm lớp nhì. Cũng may là năm nay nó được lên lớp nhất.
              Chồng chị Tươi kéo cuốn vở sách Toán đang mở trên bàn gần hơn, đọc lướt vài giòng rồi ngẩng đầu lên nhìn con chị:
              - Em đang làm mấy bài toán này hả?
              Giọng nói miền nam dịu dàng hiền lành của anh đã khiến con chị  thành thực giải bày những boăn khoăn trong ngày của nó:
              - Dạ, em làm từ chiều đến giờ mà em không biết cách giải. Em không biết làm sao tìm được đáp số như đáp số đã cho. Những bài toán về tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch  khó quá; không giống như bài toán mẫu.
              Bà mẹ buồn bã nói:
                          - Học hết năm nay, em Hạ phải thi vào lớp đệ thất của trường Nữ Trung Học Nha Trang nhưng mà nó yếu toán lắm, không biết nó có đậu được vào trường trung học công lập của chính phủ để mợ khỏi phải trả tiền đi học tư không. Mợ không biết chữ để dạy các em cho nên tụi nó học vất vả lắm con à!
              Chị Tươi linh hoạt :
              - Trời ơi, anh Lê giỏi toán lắm đó mợ! Trước tê anh dạy kèm toán ở Sài Gòn mờ mợ. Để ảnh vẽ cho Hạ mần, mợ đừng có lo!
              Anh Lê hỏi:
              - Cô giáo bắt Hạ làm những bài nào đâu?
              - Dạ, bốn bài này.
              Anh Lê đọc chăm chú các đề toán một lần, sau đó cầm viết, ngoáy các con số trên những tờ giấy nháp gần đó. Một lúc sau, anh ngoắc tay ra hiệu con chị ngồi gần.
              Chị Tươi đứng lên vui vẻ:
              - Hạ ngồi  xuống chỗ chị  đi. Anh Lê vẽ cho em một tí ti thôi là em biết mần ngay. Ngày mai không bị cô giáo la nữa mô!
              Con chị hớn hở chen vào chỗ chị Tươi. Nó chăm chú nhìn anh Lê giảng giải và không ngần ngại hỏi anh những phần nó không hiểu rõ. Húy hoáy ghi ghi chép chép, bụng nó mừng rơn.
              Con em kéo tay chị Tươi đến chiếc ghế còn lại:
              - Chị ngồi đây đi.
              Chị Tươi xoa đầu nó:
              - Vy ngoan ghê hỉ!
              Con em long lanh đôi mắt:
              - Anh chị ở luôn trong nhà này với tụi em hở?
              Chị Tươi cười:
              - Vy có “ưng” anh chị ở với Vy không?
              Con em nhanh nhảu trả lời:
              - Dạ có. Em thích anh chị ở chung với tụi em. Em thích anh Lê bày toán cho chị Hạ mỗi ngày để chị Hạ không có khóc nữa.
              Chị Tươi nói đùa:
              - Chị ở với Vy, Vy có cơm cho chị ăn không?
              - Dạ có! Em sẽ nhịn cơm cho chị ăn.
              - Không phải cho một mình chị ăn đâu! Còn anh Lê nữa. Vy có cho anh Lê và chị ăn không?
              - Em cho hết cơm của em luôn!
              Bà mẹ chợt nhớ ra:
              - Nãy giờ lo nói chuyện mà mợ quên hỏi hai con đã ăn gì chưa? Nhà mợ còn cơm nguội nhưng chẳng có thức ăn gì cả, chỉ có  xì dầu thôi.
              Chị Tươi xua tay:
              - Con chỉ chọc Vy thôi, tụi con đã ăn trên đường rồi mợ nờ!
              Con em buồn bã:
              - Nếu em biết chị đến em nhịn rau muống xào cho chị rồi.
              - Mần răng mà Vy ưng nhường đồ ăn cho chị rứa?
              - Để được chị ở với tụi em đó!
              Chị Tươi cảm động:
              - Chị sẽ ở với tụi em. Nếu không được ở trong khu nhà nội, anh chị sẽ thuê nhà ở gần các em.
              Bà mẹ ân cần:
              - Hai con đi đường xa chắc mệt lắm! Chuẩn bị đi nghỉ cho khỏe đã. Có  chuyện gì để tính sau.
              Chị Tươi nói:
              - Con chỉ  cần tắm trước khi vào chào ngoại. Lúc ngồi trên xe con bị thằng bé ngồi bên cạnh đổ thức ăn trên người hôi quá!
              Bà mẹ ngần ngại:
              - Hay là... con vào ngoại tắm luôn được không?
              - Mần răng rứa mợ?
              - Nhà tắm của mợ không có đèn không thấy đường tắm đâu.
              Chị Tươi vui vẻ:
              - Tưởng chi, chứ không có đèn điện con lấy cái đèn dầu con vịt ni tắm cũng được.
              - Không được đâu!
              Chị Tươi trố mắt:
              - Răng rứa mợ? Mợ tắm được, con tắm được mờ! Con đã từng sống khổ rồi, chi mờ làm không được. Con bình dân lắm mợ à!
              - Nếu con thắp đèn tắm, là bị nhìn trộm đó!
              - Ai nhìn?
              - Mấy đứa con trai  hàng xóm sau lưng nhà mợ đó!
              Đọc được vẻ ngạc nhiên của hai vợ chồng anh Lê chị Tươi, bà mẹ tiếp tục giải thích:
              - Bởi vì tường nhà tắm của mợ bị vỡ loang lỗ hết cả mà nó lại là vách của vườn sau dãy nhà hàng xóm cho thuê, cho nên tụi con trai ở dãy nhà thuê thường ra đi tiểu luôn. Nếu tụi nó nghe tiếng nước dội và thấy bóng đèn, sẽ ngó vào nhà tắm và thấy hết.
              - Vậy mần răng mợ tắm được?
              - Mợ có lấy mấy miếng nhựa che những chỗ hổng nhưng phải tắm trong bóng tối. Vì nhà tắm thấp, tụi nó đứng sau, ngó qua kẽ hở của mái ngói thì thấy hết nên phải làm vậy. Mợ đã quen chỗ nào là chỗ nào nên múc nước tắm được chứ các con tắm không được đâu.
              Chị Tươi nói ngập ngừng:
              - Rứa thì... chắc là... tụi con phải chào ngoại rồi tắm trong nớ luôn.
              Anh Lê nhìn vợ lắc đầu:
              - Anh không cần phải tắm.
              Chị Tươi nhìn anh Lê, toan nói gì lại nín lặng. Anh Lê ngó lơ về phía con chị, rồi chăm chú nhìn những con số mà nó đang ghi. Con chị trao vở cho anh Lê:
              - Dạ, em đã làm xong hết rồi.
              Anh Lê kiểm tra vở ghi của con chị, gật gù.
              - Hạ biết làm rồi đó. Nếu có bài toán mới nào không hiểu thì hỏi anh, anh sẽ chỉ cho.
              Chị Tươi đứng lên:
              - Mình vào chào ngoại, cậu mợ Cả và mấy dì đi anh!
              Bà mẹ đứng lên theo:
              - Để mợ đưa các con vào đó, nếu không, mấy con chó sẽ cắn các con đó!
              Ba người vừa bước ra khỏi nhà,  con em đến ngồi cạnh chị Nhìn xuyên qua các khung sắt của cửa sổ, nó buồn bã nói:
              - Chắc anh Lê và chị Tươi không ở nhà mình đâu!
              Con chị nói với giọng buồn chẳng khác gì con em:
              - Tại nhà mình nhỏ nên không có chỗ cho ảnh chỉ ở đó Vy!...Với lại nhà mình không có buồng tắm đàng hoàng nữa.
              Con em bồi thêm
              - Với lại nhà mình cũng không có điện nữa phải không chị Hạ?... Nhưng mà anh Lê với chị Tươi sẽ ở đâu?
              - Ở trong nhà nội đó Vy!
                          Nhìn ánh mắt ngờ vực của con em, con chị khẳng định lời vừa nói của mình:
              - Chị cá với Vy năm sợi dây thun là anh Lê và chị Tươi sẽ ở trong nhà nội mà!
              - Không đâu! Cô Út sẽ chửi và không cho ảnh chỉ ở đâu.
              Với sự hy vọng mơ hồ, con chị  nói liều:
              - Có thể là hai bác Cả sẽ cho ảnh chỉ ở!
              Con em lắc đầu nguầy nguậy:
              - Em không tin vậy đâu!
              Con chị  không từ bỏ niềm tin:
              - Nếu không, ảnh chỉ cũng thuê nhà ở gần đây. Chị Tươi mới nói đó mà! Để rồi Vy coi!
              Con em nhìn chị:
              - Em biết chị Hạ muốn anh Lê dạy chị toán mà! Em cũng muốn ảnh chỉ ở gần mình. Nhưng mà chắc chắn ảnh chị không được ở đây đâu. Chị  cũng biết vậy mà sao chị lại nói vậy?
              Con chị chống cằm:
              - Phải chi nhà mình rộng như nhà cô Bảy Mỹ phải không Vy?
              Con em chớp mắt:
              - Mình cố gắng học để lớn lên mình xây lại nhà nghe chị Hạ!
              Con chị gật đầu, mặt tươi hẳn lên
              - Ừ, mình sẽ đi làm kiếm tiền, sẽ xây nhà lại! Mình sẽ xây một phòng cho khách ở. Mình sẽ xây lại tường phía sau để không bị ai dòm khi mình tắm. Mình sẽ bắt điện để nhà mình sáng như nhà của người ta.
              Con em hỏi:
              - Mình có xây lầu không?
              Con chị đáp ngay:
              - Có chứ! Nếu mình có nhiều tiền thì mình sẽ xây lầu!
              Con em gật đầu, ưng thuận
              - Ừ! Có lầu thì nhà mình mới rộng được!
              - Rồi mình trồng hoa nữa nghe Vy!
              - Ừ! Mình trồng hoa cho nhà mình đẹp hơn! Mà chị muốn trồng hoa gì?
              - Hoa cúc nè, hoa lan huệ nè và hoa hồng nữa.
              - Mà trồng hoa là mình phải tưới nước chứ nó chết đó chị Hạ!
              - Ừ, mình sẽ thay nhau tưới nước. Chị tưới một ngày, em tưới một ngày!
              - Lúc mình có nhà như vậy anh Lê và chị Tươi sẽ ở chung nhà với mình há chị Hạ há!
              - Ừ! Chắc như vậy rồi đó Vy! Không phải chỉ có anh Lê với chị Tươi đâu mà còn nhiều người tới chơi nữa. Con Tín, con Hạnh, thằng Đức, con Thúy Phong, Minh Thành, Minh Trung, Thúy Phi, Thúy Phương cũng đến nữa.
              - Mình có cho tụi hàng xóm tới chơi không?
              - Có chứ! Nhưng mà lúc đó nhà mình phải có cổng riêng phía trước nhà để mấy đứa hàng xóm không phải đi vòng trước nhà bác Cả. Nếu tụi nó phải vào cổng trước nhà bác Cả rồi tới nhà mình, tụi nó sợ không muốn đến chơi với mình đâu.
              Bà mẹ trở về nhà, thảng thốt hỏi:
              - Chứ nãy giờ hai đứa chưa đi ngủ hả?
              - Dạ tụi con chờ má . Con em nói.
              - Khuya rồi! Lo ngủ đi, chờ má làm gì. Thấy má bận tiếp anh chị,  việc gì đã làm thì theo đó mà làm, khỏi phải chờ!
              - Má đi đâu nữa vậy? Con chị hỏi.
              - Má xách mấy giỏ đồ này cho anh chị con. Anh chị sẽ ngủ trong nhà cô Sáu.
              Hai đứa nhỏ reo lên mừng rỡ:
              - Anh chỉ ở luôn trong khu nhà mình hả má?
              - Anh chị con chỉ ở tạm thời thôi, chờ đến khi thuê được nhà sẽ dọn đi.
              Con chị thu dọn sách vở trên bàn, vui vẻ nói với con em:
              - Thấy chưa Vy! Chị nói bà nội cho anh chỉ ở trong nhà mình là cho ở trong nhà mình mà! Từ nay chị có người kèm cho chị học toán rồi!
               
               
               
               
               
               
               
              #37
                Cung Thi Lan 24.08.2007 16:57:16 (permalink)
                      
                Chương Ba Mươi
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                Hai chị em con nhỏ ngồi trên bậc thềm trước căn nhà trọ của anh Lê và chị Tươi, lơ đễnh nhìn xe chạy ngang trên đường cái đầy nắng chói chang trước mặt rồi nheo mắt về phía cuối đường Hoàng Tử Cảnh nơi mà những cành cây của khuôn viên nhà họ Hoàng thấp thoáng xa xa. Ngồi chán, chúng lại đứng lên. Mặc cho những tia nắng gay gắt đang phủ đầy trên đầu và trên vai, chúng không chịu vào trong nhà. Đã khá trưa mà chị Tươi vẫn chưa về; anh Lê đang vật vã với cơn bệnh hoành hành như những lần trước. 
                Từ lúc anh Lê và chị Tươi thuê căn nhà trọ này, hai chị em con nhỏ thường đến nhà họ mỗi ngày. Đi học về, cơm nước vừa xong là con chị ôm vở bảo em đi với nó ngay. Mỗi lần đến căn nhà trọ,  hai dứa nhỏ ít khi gặp chị Tươi nhưng thường xuyên chứng kiến cảnh anh Lê rên rỉ đau thương bởi cơn đau đớn. Sợ hãi trước chứng bệnh kỳ lạ mà anh Lê mắc phải, con em thường tử chối lời khẩn cầu của con chị. Nhưng mà lần nào cũng vậy, chị nó thường van nài dai dẵng đến độ nó đành phải bỏ giấc ngủ trưa, li nắng, đi b, và quan sát hoặc lắng nghe anh Lê vật vã trong cơn đau hoành hành cho đến khi con chị được anh giải cho những bài toán mới được về nhà.
                Hôm ấy, hai đứa nhỏ không ngồi trong nhà quan sát anh Lê như những lần trước. Những tiếng rên rỉ đầy thảm thiết và đau thương của anh Lê làm cho chúng sợ đến kinh hoàng. Thấp thỏm trên ngưỡng cửa, con em lo lắng hỏi:
                - Sao hôm nay chị Tươi về lâu quá vậy chị Hạ?
                Con chị lắc đầu, dăm chiêu:
                - Chị không biết nữa. Chị không hiểu sao chị Tươi thường bỏ anh Lê đi trong lúc anh Lê bị đau nặng như vầy?
                Con em thản nhiên nói:
                - Nhưng mà lần nào chị Tươi về thì anh Lê cũng hết bịnh ngay.
                Con chị chép miệng:
                - Vì chị Tươi cho anh Lê uống thuốc đó Vy!
                - Sao chỉ không chịu mua nhiều một lần cho tiện, có phải không chị?
                - Ừ! Chắc tại chỉ không có tiền nên phải vậy thôi.
                Con em cằn nhằn:
                - Thuốc gì mà chỉ chữa bịnh một chút rồi bịnh lại! Đáng lý anh Lê phải đi khám bác sĩ phải không chị?
                Con chị gật đầu:
                - Ừ!... nhưng mà chắc ảnh chỉ không có tiền đi khám bác sĩ đó Vy.
                Nhìn vào trong, con em hỏi nhỏ:
                - Anh Lê bị bịnh gì mà bị hoài vậy chị?
                Con chị ậm ừ:
                - Chị không biết! Chắc hồi nhỏ ảnh dơ đó! Cô giáo chị nói ở dơ hay bị bịnh.
                - Hồi ảnh nhỏ sao chị biết?
                - Tại vì chị Tươi hay nói là ảnh ít khi chịu tắm đó! Chị nghĩ hồi nhỏ ảnh không chịu tắm nên quen ở dơ.
                Con em gật gù:
                - Đúng rồi! Tội nghiệp ảnh quá đi! Nếu mà...
                Con em chưa dứt câu nói, nín đột ngột vì tiếng  kêu la rên xiết dữ dội của anh Lê vang ra. Nó hốt hoảng đứng lên, tròn mắt nhìn vào nhà, giục chị:
                - Chết cha rồi! Anh Lê đau quá rồi! Mình vào nhà “cứuỂ anh Lê chứ không ảnh chết đó chị Hạ.
                Con chị cũng đứng lên, khư khư ôm mấy cuốn vở. Không ngừng quay đầu ra đường, vào nhà, nó chép miệng, càu nhàu:
                - Sao chị Tươi lại bỏ anh Lê trong lúc bệnh nặng như vầy không biết nữa!
                Con em kéo tay chị. Con chị ngần ngừ nhìn xuống đường một lúc rồi theo em bước vào nhà.
                Trên giường, anh Lê đang lăn lộn với cái chăn mỏng.  Thân người anh run cầm cập như bị sốt rét. Anh cuống quít kéo mép viền chăn hết phía nọ lại đến phía kia như thể muốn che kín cả thân mình ngay lập tức. Tuy nhiên, anh càng muốn che hết thân mình bao nhiêu thì cử chỉ hấp tấp và vụng về của anh đã làm cho chiếc chăn hở hết bên này lại đến bên khác. Đa phần của chiếc chăn bị ép chặt giữa bụng và đôi chân co rúm cho nên anh Lê thực sự đang ôm chiếc chăn chứ không phải dùng chiếc chăn để bọc lấy người.
                Con em sợ hãi, giật tay chị lia lịa :
                - Anh Lê bị lạnh quá rồi đó! Mình đắp mền lại cho ảnh mau lên đi chị Hạ!
                Con chị ngoạc miệng ra, xiết chặt những cuốn vở trong vòng tay. Nó kinh đảm hoàn toàn trước những cử chỉ kỳ lạ của anh Lê. Ôn lại những lần bị bệnh, nó thường nằm im trên giường để cho mẹ nó sờ đầu, xức dầu, cạo gió, cắt lể, đắp chăn và vỗ về cho nó ngủ. Cơn bệnh của anh Lê đã không để cho nó áp dụng được một trong những việc mà mẹ nó đã làm. Nó không dám đến gần cái giường và cũng không dám kéo tấm chăn để đắp dùm cho anh Lê như lời con nhỏ em yêu cầu. Trong khi con chị chưa biết định cách gì để giúp anh Lê thì anh ta ngồi bật dậy bất thình lình, cuống cuồng với những cái bứt rứt vô hình mà thân thể anh đang chịu đựng. Với đôi mắt hoang dại không thần sắc, anh ngồi co rúm và rên rỉ không ngơi. Đôi bàn tay xương xẩu như bàn tay của b xương cách trí, víu chặt vào đám tóc rối  bù xù cứ như là anh muốn bứt nhẵn nhụi đi để giảm bớt cơn đau mà anh đang có.
                Con em sáp lại gần chiếc giường. Đôi mắt sâu hắm của anh Lê lờ đờ nhướng lên. Nước mắt tuôn đầy trong hốc mắt, anh lắc đầu ra hiệu cho nó đi ra khỏi chỗ anh ngồi. Đôi môi tím đen run run như không thể mở ra được dù anh đang muốn nói điều gì đó với nó. Chúng mím vào nhau càng lúc càng chặt như thể giúp anh Lê giảm bớt cơn đau dữ dội đang dày vò trong thân thể mà anh đang chịu đựng.
                Con em la to:
                - Trời ơi! Chị Hạ ơi! Làm sao mình cứu anh Lê đây chị Hạ?
                Con chị bật khóc:
                - Chị không biết làm sao cứu ảnh nữa! Chị sợ quá! Chị không biết làm sao.
                Mặc cho hai đứa nhỏ la to khóc lớn, anh Lê gục đầu trên đầu gối. Xiết vòng tay chặt cứng vào đôi chân khẳng khiu, anh run lên từng chặp.
                Một lúc sau, anh Lê im lìm và hai đứa nhỏ ngưng la khóc. Lúc này, chúng rón rén đi vòng quanh giường, lúc thì ngướng đầu vào dò xét nghe ngóng, lúc thì sát người vào nhau thì thầm. Cả ba người giống như đang chơi trò chơi đoán tìm mà anh Lê là người đang nhắm mắt để đoán ai là người trong hai đứa đã làm cái gì đó.
                Thình lình chị Tươi bước vào nhà như một cơn lốc. Quẳng chiếc giỏ đầy thức ăn giữa nhà, chị sà lên giường, đỡ đầu anh Lê lên, lo lắng hỏi:
                - Anh mần răng rứa?
                Anh Lê nhìn chị, vui mừng hỏi:
                - Có không em?
                Chị Tươi gật đầu, lục lọi trong túi áo. Nhận ra những đôi mắt nhìn tò mò của hai đứa nhỏ, chị ngưng lại, nghiêm nghị bảo:
                - Hai đứa ra đàng trốc ngồi chơi để anh Lê hết bệnh rồi anh vẽ cho làm bài.
                Hai đứa nhỏ líu ríu nghe lời. Con chị không hỏi là anh Lê sẽ có khỏe lại ngay không bởi vì nó biết trước là lần nào chị Tươi cho anh Lê thuốc gì đó thì vài giờ sau anh sẽ trở lại bình thường. Vui sướng ra mặt, nó cùng con em xòe bàn tay chơi với những cái bóng của những ngón tay trên sân nắng.
                Chị Tươi trở ra ngoài nhà trước, gọi hai đứa nhỏ:
                - Hai em vô nhà đi. Chị nói ra đàng trốc là ngồi trong nhà trước chứ chi mờ ngồi ngoài nắng như ri!
                Con chị đứng lên, hỏi ngay:
                - Anh Lê đỡ chưa hả ch
                - Anh đỡ nhiều rồi. Để anh nghỉ một tí rồi anh dạy cho em.
                Con em đến gần sát chị Tươi, nghiêng đầu hỏi hàng loạt:
                - Anh hết bị run rồi hả chị? Chị cho anh thuốc gì mà hay quá vậy? Ảnh phải ngủ cho đỡ mệt hả? Chừng nào ảnh mới dậy được vậy?
                - Cho anh ngủ yên vài giờ là anh dậy ngay thôi. Hai em phụ chị lo bữa ăn chiều! Khi nào anh dậy, mình ăn cơm. Ăn xong, đứa mô muốn anh chỉ vẽ làm chi thì làm.
                Hai đứa quay đầu nhìn vào chiếc gường. Anh Lê đang nằm yên lặng, mắt nhắm nghiền.  Những cử chỉ run lẩy bẩy, dằn vặt, cấu xé và vật vã đã biến mất đi đâu và anh Lê yên bình như đang nguôi ngoai hoàn toàn trong cơn mộng đẹp. Hai đứa nhỏ đưa những ánh mắt ngạc nhiên nhìn nhau nhưng không nói gì. Chúng yên lặng ngồi xuống hai chiếc ghế con con gần chiếc bàn gỗ thấp sát vách tường. Chị Tươi kéo chiếc giỏ đi chợ đến gần chúng, cười hóm hỉnh:
                - Hạ để vở trên bàn coi nờ! Mần chi mờ phải ôm khư khư mấy cuốn vở như rứa? Để ở chỗ ni không ai lấy đâu mờ lo.
                Con chị kín đáo ngoái cổ nhìn anh Lê lần nữa trước khi làm theo lời chị Tươi yêu cầu. Con nhỏ em nhìn chằm chằm chiếc giỏ đựng thức ăn của chị Tươi, but miệng kêu lên:
                - Sao hôm nay chị mua nhiều thức ăn dữ vậy?
                Chị Tươi nói một cách dịu dàng:
                - Chị mua nhiều để cho hai đứa ăn chung với anh chị. Chị chưa bao giờ cho các em thứ chi  Hôm nay chị đãi hai em ăn.
                Con em vui ra mặt:
                - Chị em mình ăn cơm chiều với anh Lê chị Tươi nghe chị Hạ, đừng ăn cơm chiều ở nhà hôm nay được không?
                Con chị đăm chiêu, trả lời nhát gừng:
                - Không biết má có cho không?
                Chị Tươi xếp các thứ trên bàn, nói với giọng trách móc:
                - Chi mờ không cho! Chị có mua rau, thịt, trứng, cá đủ thứ. Chị còn mua chả lụa nữa nè! Đã mua nhiều thức ăn cho hai đứa như ri thì  hai đứa phải ở lại ăn với anh chị. Mần răng mờ mợ không cho hai đứa ăn với anh chị? Ăn với anh chị thì có chi nờ?
                Con chị cúi đầu:
                - Ăn cũng được thôi nhưng mà thực ra em không thích ăn gì cả. Em chỉ muốn anh Lê khỏi hẳn bệnh để dạy em làm bài thôi.
                - Thì em ở lại ăn rồi anh Lê chỉ cho em làm bài, có chi mô mờ khó nờ?
                Con chị rụt rè hỏi:
                - Vì sao..anh Lê không đi bác sĩ khám để chữa hết bệnh vậy chị?
                Chị Tươi dường như chỉ quan tâm về việc chị em nó ở lại ăn thức ăn cùng chị hơn là lo lắng đến câu hỏi của nó, chị nói:
                - Thức ăn nhiều lắm! Ở lại ăn với anh chị hỉ?
                Con chị gật đầu một cách chiếu lệ và không quên lập lại câu hỏi.
                - Dạ em ở lại! Nhưng mà... không có cách nào chữa trị cho anh Lê dứt hẳn bệnh sao hả chị?
                Chị Tươi không nhìn mặt nó, cũng không trả lời câu hỏi của nó. Thay vào đó, chị đặt mấy cái dĩa trên bàn, nói từ tốn:
                - Hạ giúp chị mở mấy gói chả ni rồi sắp vô mấy cái dĩa ni cho chị để chị đi nấu cơm.
                Con em liếng thoắng hỏi:
                - Chị có muốn em giúp gì không?
                - Em nhặt rau dùm chị nghe! Em có biết nhặt rau không?
                - Dạ biết. Em phụ má em  lặt rau hoài!
                Chị Tươi xách nồi cơm, đi ra phía sau nhà. Con em ôm gói rau bước theo sau. Con chị ngồi lại ơ thờ mở các gói chả bỏ vào dĩa. Nó vẫn còn lo lắng căn bệnh mà nó cho là anh Lê chưa được chuẩn đoán bởi bác sĩ nhưng nó cảm thấy ân hận trước thái độ giả lờ của chị Tươi. Nó tự trách là đã không nghe lời mẹ “dựa cột mà nghe” thay vì “thưa thốt” luôn mồm cho nên mới bị chị Tươi tránh né, lơ là. Chắc chắn là chị Tươi đang giận nó nên không trả lời câu hỏi.
                            Sắp xếp những đĩa chả ngay ngắn trên bàn xong,  con chị tém gọn những chiếc lá chuối và giấy báo rồi đi ra ngoài sân trước. Nó đi thẳng đến chỗ chứa rác ở góc đường, quẳng rác vào đó rồi trở lại nhà. Chần chờ trên bậc thềm trước nhà một lúc nó ngồi xuống nhìn nắng nhạt nhòa trên con đường trước mặt. Vài người hàng xóm đi ngang nhìn sâu vào trong nhà với ánh mắt tò mò, và soi mói khiến nó bỏ ý định đi thẳng vào nhà sau để phụ chị Tươi làm bếp. Nó ngại căn bệnh của anh Lê tái phát, nó lo sự bất trắc nào đó xảy ra khi anh nằm trên giường một mình, nó không muốn những người đi đường nhìn thấy cảnh anh Lê dằn vặt trong đau đớn, và nhất là nó ngại không biết nói gì khi phải ngồi làm bếp với chị Tươi; cho nên nó ngồi yên một mình trước bậc thềm nhà, suy nghĩ mông lung thay vì đi ra phía sau bếp. Nó vẫn còn tự trách là đã quá tò mò và đi sâu vào chuyện riêng tư của người lớn nhưng sau đó lại tự an ủi rằng những sự việc diễn ra trước mắt không thể nào ngăn cản những thắc mắc mà nó có. Sống trong căn nhà trọ này đã hơn một tháng mà anh Lê chẳng bao giờ đi làm một ngày nào. Chị Tươi thường đi chợ vào buổi sáng nhưng chẳng phải buôn bán như mẹ của nó; trái lại, chị thường bán những gì chị có. Thỉnh thoảng vào những đêm khuya, trời đen như mực mà chị vẫn còn đến nhà hỏi thăm mẹ chúng hay cô Sáu cô Út xem ai muốn mua áo quần hay nữ trang của chị hay không. Những vật dụng trong nhà chị như lò than, ấm nước, nồi cơm đều mới toanh. Chúng chứng tỏ anh chị không chú ý nhiều đến chuyện ăn uống mà chỉ quan tâm nhiều đến căn bệnh trầm trọng của anh Lê. Nó không hiểu mức độ quan tâm của họ đối với căn bệnh kỳ lạ của anh Lê như thể nào nhưng nó hiểu rõ rằng họ rất nghèo và quẩn bấn trước tình cảnh vừa không có việc làm vừa phải bị bệnh hoạn. Nó thở dài chán ngán khi hiểu được cuộc sống không như những hình ảnh mà nó tưởng tượng mỗi ngày. Nó ngưỡng mộ kiến thức sâu rộng của anh Lê và luôn ao ước có một trình độ kiến thức như vậy để lớn lên đi làm có tiền xây nhà và bắt điện sáng cho mẹ. Thế nhưng trước thực tế mà nó đối diện - kiến thức sâu rộng của anh Lê không giúp anh ta có được một việc làm- đã làm nó mất lòng tin vào những mơ ước mà nó ôm ấp mỗi ngày. Phải chăng học giỏi để có việc làm tốt chỉ là một ước mơ hão huyền? Thở dài, cúi xuống nhìn hai cánh tay đen đủi và khẳng khiu, nó lắc đầu lẩm bẩm:
                - Mình cũng ốm như anh Lê. Chắc rồi mình cũng sẽ bị bịnh như anh ấy. Lớn lên dù có học giỏi cách mấy, mình cũng không kiếm được việc làm đâu.
                - Vô nhà ăn cơm Hạ! Nhà có chi mờ phải ngồi coi nhà rứa?
                            Con chị giật mình, ngẩng đầu  nhìn lên, bắt gặp ánh mắt vui tươi của chị Tươi, nó mừng rỡ:
                - Anh Lê đã dậy chưa mà ăn cơm hả chị?
                            - Chưa dậy cũng phải dậy để ăn một tí chứ sáng chừ anh có ăn chi mô nờ!
                Anh Lê đang ngồi trên ghế con cạnh cái bàn đầy thức ăn, nói trong tiếng ngáp dài:
                - Dậy để dạy cho Hạ làm toán nữa chứ!
                Con em ngồi cạnh anh Lê, hỏi nhỏ:
                - Anh đã hết đau chưa?
                - Hết rồi! Vy sợ anh chết hả? Anh nghe Vy khóc quá mà.
                Con em bẽn lẽn:
                - Đâu phải là em. Chị Hạ khóc đó!
                Anh Lê cười nhẹ, nói trầm tĩnh:
                - Hạ sợ anh chết vì không có ai dạy cho Hạ học chứ thương gì anh!
                Con nhỏ chị cúi đầu. Mặt nó buồn dàu dàu. Thật sự nó sợ anh Lê chết vì không ai dạy cho nó học như anh nói nhưng chẳng phải là nó không thương anh. Trong mơ ước của nó thường có hình ảnh nó mời anh Lê với chị Tươi ở trong căn nhà đẹp do nó tạo nên. Và cũng trong những hình ảnh tưởng tượng ấy, nó còn mơ cả chuyện biếu anh Lê thật nhiều tiền để bác sĩ chữa dứt bệnh cho anh.
                Chị Tươi kéo tay áo nó:
                - Anh Lê nói chơi cho vui thôi, đừng nghĩ ngợi chi cho mệt! Ngồi xuống ghế ni ăn cơm với anh chị!
                Con chị gật đầu lặng lẽ ngồi xuống giữa anh Lê và chị Tươi. Chị Tươi vừa gắp thức ăn vào chén cho nó, vừa hỏi:
                - Dạo ni Hạ học Toán ở trường ra răng rồi?
                - Dạ em học đỡ hơn trước nhiều.
                - Em có thể tự làm một mình được chưa?
                - Dạ chưa được. Em cần anh giảng cho em vì những bài toán cô em cho thường khác hơn những bài mẫu ở lớp.
                Anh Lê nói :
                - Bài nào không hiểu cứ đem qua cho anh chỉ cho. Đừng ngại gì cả!
                Con chị gật đầu biết ơn:
                - Dạ.
                Chị Tươi nhìn nó chăm chú:
                            - Rứa em không thể áp dụng cách cô giáo giảng và cách anh Lê vẽ để tự làm các bài toán mới một mình răng?
                Con chị lắc đầu:
                - Dạ không. Những bài toán lớp năm không giống nhau chị à. Hết tìm vận tốc, đường dài, rồi thời gian. Không giống nhau gì cả!
                Anh Lê gàn ra:
                - Không biết thì sang đây anh chỉ cho. Không có gì đâu mà lo!
                Chị Tươi ngập ngừng:
                - Em chỉ muốn là Hạ có thể tự làm một mình bởi vì khi nó thi vào trường công lập mà không tự làm được thì khó mà đậu được.
                Anh Lê nhìn chằm chằm vào con chị, gật gù:
                - Nó sẽ tự làm được! Từ đây đến lúc nó thi còn mấy tháng nữa; anh kèm được!
                Ánh mắt của chị Tươi tỏ ra bối rối :
                - Nhưng mà nếu...
                Anh Lê nhíu mày:
                - Nếu gì mà nếu? Em ăn đi cho mấy đứa ăn! Không nói chuyện học lúc này; để cho tụi nó còn vui thú mà ăn nữa chứ!
                 
                 
                 
                #38
                  Cung Thi Lan 25.08.2007 17:18:14 (permalink)
                       Chương Ba Mươi Mốt
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                  - Mất hết rồi! Mất hết rồi! Trời ơi là trời! Bao nhiêu của hồi môn của tui! Bao nhiêu tiền bạc của tui!
                  Tiếng la khóc của cô Út làm cho khuôn viên nhà họ Hoàng náo động. Tò mò hai đứa nhỏ quay vào lối dẫn đến sân gạch đàng sau ngôi nhà lớn thay vì đi thẳng ra cổng để đến nhà anh Lê chị Tươi.
                  Cô Út đi qua đi lại trên chiếc sân gạch, vò đầu bức tai, miệng la bai bải:
                  - Còn chi nữa mờ nói tui tìm? Còn chi nữa mô mờ tìm! Mất hết rồi! Mất hết rồi!
                  Bà bác Cả gái bước khỏi bậc thềm sau, hớt hơ hớt hãi hỏi :
                  - O mất cái chi mờ la dữ rứa?
                  Bà nội đang đứng trước nhà cô Sáu, trả lời thay cho cô Út
                  - Hắn mất hộp nữ trang.
                  Bà bác Cả gái thảng thốt hỏi:
                  - O để mô mờ mất?
                  Cô Út hổn hển trả lời:
                  - Em để trong rương quần áo của em. Em nhét dưới đáy rương mờ hắn lục ra lấy cho bằng được. Cái “bóp” tiền em để trong nớ cũng mất sạch luôn.
                  Bà nội la to:
                  - La to cái họng cho làng xóm hay hết thê! Ai vô phòng mi mờ lấy? Có chịu im cái họng mờ tìm mô nờ!
                  Chị Cựu bước từ trong bếp ra, phân trần:
                  - Con làm ở nhà nội bốn năm trời mờ con chưa bước vô phòng ngủ của mệ với o lần mô đó nờ. Đừng nghi con mờ tội cho con lắm nghe o! Nếu o muốn con phụ o tìm trong rương thì con tìm dùm cho.
                  Cô Út vùng vằng:
                  - Tau có nghi chi cho mi mô nờ! Của tau còn chi nữa mờ tìm dùm? Thứ vô luân thất đức! Tụi hắn lấy sạch rồi!
                  Bác Cả gái nhíu mày:
                  - Tụi hắn là tụi nào?
                  - Tụi con Tươi với thằng Lê chứ còn ai nữa chị. Hai đứa không lấy còn ai vô đây mờ lấy!
                  Con chị tức giận. Nó định hỏi cô Út câu hỏi mà bác Cả gái đang đặt ra:
                  - Mần răng mờ cô biết hai đứa nớ lấy?
                  - Còn ai vô đây nữa chị! Thằng chồng hút sì ke, con  vợ bán đồ nuôi chồng hút. Hôm trước con Tươi vô đây bán chiếc nhẫn vàng y, thấy giá rẻ, em mua dùm ngay. Kêu hắn vào phòng lấy tiền trả, em lục tiền trong rương, hắn thấy mờ. Chỉ có con Tươi biết chỗ em cất tiền thôi. Nó không lấy còn ai vô nhà ni lấy?
                  Bà nội bước lại gần cô Út, la to:
                  - Mi có thấy hắn lấy mô nờ? Trưa hôm qua hắn ghé thăm tau nột tí là đi ngay. Lấy chi mờ lấy! Để hắn qua đây tau hỏi cho tường tận ra răng. Nghi oan cho con cháu chi mà tội rứa!
                  - Oan chi mờ oan! Con cháu chi mờ con cháu! Rước mấy thứ quần khố áo ôm vô nhà chứa chấp để chúng ăn cắp đồ của tui!
                  Bà nội chưa kịp nói gì, cô Út lại la lớn:
                  - Rước thứ bần cùng vào nhà để hắn lấy hết đồ của tui cho vừa lòng vừa dạ mạ!
                  Bà nội tức giận, run run bước chân vào nhà bếp. Con chị tức giận chẳng khác gì bà nội của nó. Mắt nó long lên, đỏ rực hơn cả những giọt nắng xuyên qua những chiếc lá khế chua đang chiếu trên mặt. Đôi má nó nóng phừng phừng. Căm phẫn những lời chửi bới vừa nghe, nó chằm chằm nhìn cô Út. Nghĩ đến hoàn cảnh khổ cực và cuc sống đạm bạc của anh Lê và chị Tươi nó thương họ chẳng khác nào thương cho thân phận khổ cực của ba mẹ con nó. Chữ bần cùng của cô Út vừa nói nhắc cho nó nhớ chữ bần cùng trong câu ca dao “bần cùng sinh đạo tặc!’ mà cảm thấy căm ghét chủ nhân đặt ra câu ca dao ấy. Cho dù người ta dùng câu này để biện hộ cho hành động “đạo tặc” hay châm biếm những kẻ “bần cùng” thì vẫn không bao giờ đúng cho tất cả mọi trường hợp trên đời. Mẹ chúng luôn luôn dùng câu ca dao “nghèo cho sạch, cho thơm” để dạy chị em chúng. Bà luôn luôn nhắc nhở chúng thủ phận nghèo, không dòm ngó tò mò, không xin xỏ hay ăn chực ăn cắp của ai với lý do là không để cho bất cứ ai mạ lỵ danh dự mình. Giờ đây đối diện với những gì xảy ra trước mắt, nó thấm thía lời mẹ dạy nhiều hơn. Bực tức cái tính nghi ngờ của những người giàu khi họ bị mất cắp, nó muốn hét to lên là “không phải người nghèo nào trên đời cũng đâm ra ăn cắp! Không phải người nghèo nào trên đời cũng chăm bẳm vào của cải của những người giàu có!” Nó còn muốn hét to rằng: “Có nhiều người nghèo trên đời vươn lên bằng sức lực và hai bàn tay chứ không phải chờ của ăn cắp của những ngườì giàu đâu!” Tuy nhiên, như những lần trước, nó chỉ tự la to hét lớn với những giòng tư tưởng trong đầu nó mà thôi.
                  Thình lình bà nội bước từ trong bếp ra cây khế chua nơi hai chị em con nhỏ đang đứng như phỗng. Bà hỏi:
                  - Hai đứa qua nhà chị Tươi chưa rứa?
                  Con chị lắc đầu:
                  - Dạ chưa. Tụi con định đi nhưng...
                  - Rứa thì hai đứa con đi qua nhà kêu hắn qua đây gấp cho mệ.
                  Con chị gật đầu:
                  - Dạ để con đi kêu chỉ cho.
                  Con em đi theo chị:
                  - Em đi với chị nữa.
                  Dứt lới, hai đứa nhanh chân bước ra ngoài lối sỏi. Bà nội chúng nói vói theo:
                  - Nhớ đi mau và nói chị qua nhà gấp cho mệ hỏi chuyện.
                  Hai con nhỏ đi gần như chạy đến cái cổng gỗ. Cài chiếc khoen cổng xong chúng cắm đầu cắm cổ chạy sang đường và thẳng tiến đến nhà anh Lê và chị Tươi. Con em thở hổn hển, nói:
                              - Nắng nóng quá đi! Mình chạy nhanh thêm tí nữa để em đến nhà chị Tươi uống nước. Lúc nãy em ăn cơm mà quên uống nước!
                  Con chị không nói gì. Nó chạy nhanh hơn như lời con em yêu cầu nhưng không phải vì bài làm hay vì uống nước như con em. Nó muốn báo cho chị Tươi ngay tin xấu để chị có thể  minh oan lập tức những hồ nghi đang xảy ra trong khuôn viên nhà họ Hoàng.
                  Hai đứa nhỏ càng chạy nhanh, con đường đến nhà chị Tươi  càng xa hơn những ngày trước. Băng qua con đường Đào Duy Từ đến dãy nhà trọ, chúng cảm nhận những đôi mắt tò mò và nghi ngại của vài người trong những căn nhà trọ cạnh nhà anh Lê và chị Tươi dính chặt trên người chúng. Vài chiếc đầu thò ra, ngoái đầu dò xét chúng khi chúng đứng trước căn nhà đóng cửa kín mít.
                  Con chị gõ cửa kêu lên:
                  - Anh Lê ơi anh Lê! Chị Tươi ơi chị Tươi!
                  Bà hàng xóm cạnh nhà chị Tươi lên tiếng vói sang:
                  - Anh chị cháu dọn đi luôn rồi! Kêu làm chi cho mệt. Bộ hay đứa không thấy cái ổ khóa ở ngoài cửa đó sao?
                  Con chị quay nhìn bà:
                  - Dạ thưa bác,  anh chị cháu đi đâu ạ?
                  - Hình như anh chị cháu đã dọn đi luôn rồi.
                  Người đàn ông đứng cạnh bà ta, cằn nhằn:
                  - Bà biết gì mà nói với chúng là tụi nó đi luôn? Ng nhỡ tụi nó đi chơi đâu vài ngày rồi trở lại thì sao? Chuyện ai thì mặc họ, lắm chuyện làm gì vậy? Vào nhà để tôi đóng cửa lại. Nắng hắt vào nhà nóng như vậy mà không chịu đóng cửa cứ vớ vẫn chuyện người khác!
                  Khuôn mặt bà hàng xóm đỏ bửng:
                  - Tôi thấy tụi nó dọn đi thì tôi nói cho hai đứa bé ấy biết để chúng khỏi phải đứng gọi cửa chứ thế nào mà lắm điều lắm chuyện?
                  Mặc dù nói như thế, bà hàng xóm khép hai cánh cửa ra vào ngay. Không được hỏi thêm câu nào, hai đứa nhỏ bối rối và hồ nghi những lời vừa được nghe. Đập cửa thêm nột lúc, con chị bảo em đi  cùng nó vòng ra phía sau nhà. Nó hy vọng gặp nột trong hai người bà con của nó tại vòi nước máy nơi mà những người thuê nhà tại  dãy nhà thuê thường lấy nước để sinh hoạt. Không nột bóng người ở phía đàng sau và hai đứa vòng ra phía trước nhà. Con chị bảo con em theo nó đến bãi chứa rác tại góc đường Hoàng Tử Cảnh và Quang Trung để tiếp tục đi tìm anh Lê và chị Tươi mặc dù chúng có thể thấy rõ mồn một bất cứ người nào đứng đó từ  trước căn nhà của họ. Vòng xung quanh bãi chứa nhưng chẳng gặp được ai, hai đứa dắt nhau trở lại nhà đóng kín cửa. Con chị chán nản ngồi bệt trên bậc cấp cuối cùng của thềm nhà.
                  Con em nhăn mặt giục chị:
                  - Thôi mình đi về nói cho bà nội biết đi chị! Ảnh chỉ đi đâu mất rồi!
                  Con chị ngước lên nhìn em, nằn nì:
                  - Ở đây chờ một chút  nữa đi Vy. Chắc ảnh chị đi đâu nột chút rồi về thôi! Hôm qua mình còn gặp ảnh chỉ, còn ăn cơm với ảnh chỉ mà!
                  Con em dượm bước, nói một cách cương quyết
                  - Đi về cho em uống nước nột chút thôi rồi mình qua lại! Trời nắng quá! Em khát không chịu được nữa rồi!
                  Nghe lời em, con chị đứng dậy. Nó bước theo em với đôi chân nặng nề. Con em tuy đòi về sớm nhưng cũng bước chầm chậm như chị. Nó vừa gạt mồ hôi trên trán vừa hỏi:
                  - Em nghe cô Út nói anh Lê hút sì ke. Sì ke là gì vậy chị?
                  - Sì ke là thuốc phiện đó Vy! Nhưng mà anh Lê đâu có hút sì ke đâu mà Vy tin!
                  Con em gật đầu:
                  - Chị nói đúng đó! Mình tới nhà anh Lê hoài. Có thấy anh Lê hút sì ke đâu!
                  - Ừ, mình đến nhà anh Lê “nhiều nhất trong thiên hạ” phải không Vy? Đâu có ai trong nhà nội tới nhà ảnh đâu mà biết ảnh bị bệnh. Cô Út với cô Sáu hay nói là người hút thuốc phiện thường ốm tong teo như bộ xương cách trí. Hai cổ còn nói là những người hút thuốc phiện thường có ống hút để bỏ thuốc phiện vào hút mỗi ngày vì ghiền đó Vy. Nhưng mà mình đâu có thấy ống thuốc phiện nào ở nhà anh Lê đâu? Chắc người ta thấy ảnh ốm nên nói ảnh hút thuốc phiện sì ke đó Vy.
                  Con chị dang cánh tay khẳng khiu ra trước mặt nói tiếp:
                              - Như chị ốm như vầy rồi nói chị sì ke thuốc phiện sao? Mình nghèo không có gì ăn bị ốm hay bị người ta nói sì ke thuốc phiện lắm đó Vy.
                  Con em, vẫn như bao lần khác, tán đồng ngay những lý luận của chị:
                  - Đúng rồi! Chị nói đúng đó. Nhưng em chỉ không hiểu anh Lê đi đâu. Buổi trưa chị Tươi thường đi chợ nhưng anh Lê luôn luôn ở nhà mà? Ảnh biết chị em mình đến nên luôn để cửa trước chờ tụi mình. Vậy ảnh đi đâu mà không chờ tụi mình chứ?
                  Câu hỏi của con em như tiếng chuông bất thình lình đánh thức những nỗi thắc mắc và boăn khoăn của con chị. Tất cả những  ý nghĩ đơn thuần mà nó có càng lúc càng bị thay thế bằng sự nghi ngại mơ hồ. Lục lọi trong trí, con chị bàng hoàng khi nhớ lại rằng chưa bao giờ  anh Lê  hay chị Tươi đóng hay khóa cửa nhà trong thời gian trưa như lúc bấy giờ. Hai người biết chị em nó thường sang nhà họ để nhờ anh Lê dạy kèm vì vậy cả hai thường để cửa mở. Ngay cả những lúc anh Lê phải vật vã với cơn bệnh hoành hành, và hàng xóm có thể chứng kiến anh bị dằn vặt và đau đớn với căn bệnh như thế nào từ ngoài cánh cửa mở rộng nhưng anh vẫn một mực để yên cánh cửa ra vào mở  rộng để chúng  có thể vào nhà dễ dàng. Có lần hai chị em vào căn nhà mở cửa nhưng chẳng có bóng người, lo lắng lẫn  ái ngại, chúng ngồi trông cho đến khi anh Lê trở về. Lúc đó anh nói là anh đi mua thuốc lá ở cái quán nhỏ tại góc đường Hoàng Tử Cảnh và Đào Duy Từ gần đó. Hỏi anh sao để cửa mở, và không sợ nhà bị ăn trộm vào lấy hết đồ sao thì anh cười khì  khì và trả lời rằng “Nhà  anh đâu có gì mà sợ mất trộm? Anh chỉ sợ hai đứa đứng ngoài nắng chờ thôi. Anh biết hai đứa thường đến nhà anh giờ này mà. Nếu hai đứa đến nhà mà không gặp anh chị, thấy cửa mở thì cứ vào trong nhà ngồi chờ anh một chút, anh sẽ về ngay. Đừng sợ!”
                  Hy vọng với những điều vừa nhớ ra, con chị vui mừng bảo em vào quán bán lẻ ở góc đường Hoàng Tử Cảnh và Đào Duy Từ. Chen chân giữa những người đứng ngồi quanh quán, con chị thu hết can đảm hỏi bà chủ:
                  - Dạ thưa dì, anh Lê của con có đến đây không?
                  Bà chủ quán đang tính tiền cho khách, trà lời nó mà chẳng ngẩng đầu lên hay nhìn vào mặt nó.
                  - Lê chồng con Tươi hả? Không có.
                  Hai đứa nhỏ đứng tần ngần, đảo mắt nhìn quanh. Vài thanh niên ngồi uống nước và hút thuốc lá ở chiếc bàn cạnh gốc keo, vài người đàn bà và vài đứa nhỏ ngồi chum hum nướng bắp gần đó. Không một ai trong họ là anh Lê hay chị Tươi. Hai đứa lầm lũi quay ra khỏi quán .
                  Bất chợt tiếng nói của bà chủ quán làm hai đứa đứng lại.
                  - Từ sáng đến giờ đâu thấy anh Lê ra đây phải không Hùng?
                  Thằng bé trạc tuổi con chị, hít hà với trái bắp nóng trên tay, trả lời:
                  - Dạ không má. Tối hôm qua chỉ  có vợ ảnh ra trả tiền nợ hôm trước ảnh mua thuốc lá thôi à.
                  Hất cằm về hướng nhà anh Lê và chị Tươi, nó nói:
                  - Nhà ảnh ở đàng kia kìa. Chỗ cái cửa xanh lá cây đó. Hai đứa mày tới đó gõ cửa là gặp ngay.
                  Nhìn theo hướng thằng bé nói, con chị gật đầu:
                  - Cảm ơn. Biết rồi.
                  Ra khỏi quán, con chị kéo tay em đi chậm để nghe những lời đối thoại sau lưng:
                  - Nghe nói sáng nay hai đứa đó dọn đi rồi mà!
                  - Hai đứa nhỏ này là em bà con của tụi nó ở khu biệt thự họ Hoàng đó! Sao tụi nó đi mà không báo cho gia đình tụi nó biết để tụi này đi tìm vậy chớ?
                  - Ai không biết tụi nó có quan hệ bà con với cái khu biệt thự nhà họ Hoàng! Nghe nói là bà cụ Hoàng hỏi bà Cần cho tụi nó thuê nhà đó mà! Nhưng mà tụi nó đi hay ở ai mà biết tụi nó có báo cho gia đình giòng họ của tụi nó hay không? Mấy đứa nhỏ đó mà! Muốn kiếm ai thì kiếm chứ  đâu có phải là chúng đi kiếm vợ chồng tụi nó như vậy là mấy người họ hàng của tụi nó không biết tụi nó đã đi rồi đâu!
                  Buồn lo với những lời vừa nghe được, hai đứa nhỏ bước nhanh về nhà.
                              Mọi người trong nhà tụ tập đông đúc nhiều hơn lúc chúng ra đi. Ngoài bà nội và chị Cựu đang ở trong nhà bếp, bác Cả gái, và cô Út đứng trên sân gạch dưới tàn cây khế chua, cô Bảy Mỹ và cô Sáu đang đứng trước hiên nhà cô Sáu. Hai đứa nhỏ chưa biết chào ai trước ai sau, mọi người đã xúm xít hỏi han chúng không ngừng.
                  - Tụi hắn mô rồi? Hai đứa mi có gặp hắn không?
                  - Tụi hắn nói răng?
                  - Tụi hắn có qua đây không?.
                  Con em lắc đầu và trả lời gọn lỏn:
                  - Dạ không.
                  Con chị đỡ lời em:
                  - Tụi con không gặp ai cả. Tụi con gọi hoài mà không ai mở cửa.
                  Con em nói tiếp:
                  - Bà hàng xóm ở bên cạnh nhà ảnh chỉ nói anh chỉ đã dọn đi luôn rồi.
                  Cô Út đang chăm chú lắng nghe từng lời nói của hai chị em con nhỏ bỗng quay ngoay ngoắt vào nhà bếp, rú lên trong nức nở:
                  - Đó thấy chưa! Thấy chưa! Hắn ăn cắp đồ của tui nên mới lo trốn đi mất rồi. Coi mạ còn binh tụi hắn nữa không.
                  Cô Bảy Mỹ đi theo cô, vỗ về:
                  - Em bình tĩnh coi nờ. Nói chi cho nhiều để mạ buồn rứa?
                  Cô Út rưng rưng khóc:
                  - Rứa bây chừ em mất của ai buồn cho em nì? Thứ vô hậu! Lấy hết của của tui! Con cháu chi mờ ác độc như phù thủy!
                  Bà nội đang ngồi trên cái phản, đưa ánh mắt van lơn nhìn chị Cựu:
                  - Con đi tới nhà mụ Cần kêu mụ sang đây cho mệ gặp một chút hỉ?
                  Chị Cựu, đang tựa đầu vào chiếc vách và đứng im như pho tượng, gật đầu nhanh, đội nón vội và bước thật mau ra khỏi nhà bếp.
                  Mặc cho chị Cựu sốt sắng và vội vã đáp lại lời yêu cầu của bà nội bao nhiêu, cử chỉ nhanh nhảu và khẩn cấp của chị không chế ngự nổi lo lắng và bồn chồn của cô Út. Cô rưng rức khóc lóc với những lời kể lể dài dòng:
                              - Trời ơi! Làm sao mà tui lấy lại được của cải của tui đây trời? Toàn bộ của cải chứ có phải một hai cái đâu nờ! Cái dây chuyền thánh gíá có hột soàn kỷ nộiệm mà tui chưa bao giờ đeo, rồi mấy chiếc vòng cẩm thạch, dây chuyền ngọc trai, xuyến vàng tây, mấy chiếc nhẫn vàng y và cái lắc năm chỉ vàng y nữa trời ơi là trời!
                  Bà nội không nói gì, chỉ chép miệng liên tiếp cho đỡ bối rối rồi kéo cái rổ tre con con để lấy miếng trầu đã têm đưa vào miệng. Nhai trầu một cách chậm rãi và nhìn mông lung trên sân nắng, bà không có vẻ để ý nghe những món nữ trang bị lấy cắp do cô Út cằn nhằn dai dẳng bên tai. Bà đang lo lắng nột điều gì rất mơ hồ.
                  Trên sân, cô Sáu phân trần với bà bác Cả:
                  - Hôm ni em định về sớm đi thăm mộ ba và ôn mệ với con Bảy nào ngờ nghe chuyện như ri.
                              Bà bác Cả gái không trả lời. Bà chép miệng, lắc đầu rồi quay lưng đi về phía cánh cửa sau của ngôi nhà lớn. Cô Sáu tảng lờ nhìn hai đứa nhỏ:
                              - Răng không vào trong nhà mà đứng ngoài sân nắng như ri?
                  Con chị cúi đầu:
                  - Thôi để  tụi con đi về.
                  Quay sang con em, con chị hỏi gặn:
                  - Vy hối về nhà cho nhanh để uống nước sao chưa đi uống nước đi?
                  Con em nuốt nước bọt:
                  - Bởi vì em chờ chị đi về với em.
                   Con chị  không nói  gì. Nó đi trước, con em đi theo sau. Hai đứa nhỏ đi đến hàng hoa bụt thì gặp chị Cựu tất tả đi vào và  chúng lại quay theo chị trở lại căn nhà bếp của bà nội.
                  Chưa kịp lấy chiếc nón trên đầu xuống, Chị Cựu vội vã nói ngay:
                  - Thưa mệ, nhà bà Cần có đám giỗ nên bà không đi sang nhà mình được nhưng bà có nói là chị Tươi đã trả chìa khóa nhà cho bà và dọn đi rồi.
                  Mọi người há hốc kinh ngạc đến độ không đáp lại chị Cựu một lời nào và chị Cựu bối rối nói tiếp:
                  - Bà Cần còn nói là chị Tươi đã thanh toán tiền thuê nhà mệ không cần phải lo chi cả.
                  Cô Út òa khóc nức nở:
                  - Rứa thì mần răng mờ mạ lấy lại của cho tui? Tụi nó ăn cướp sạch của cải của tui rồi!Tụi nó có còn ở đây nữa mô mờ tìm.
                  Con chị lặng người, nhìn trân trân vào những cuốn vở và sách đang ôm trên tay. Anh Lê và chị Tươi mới còn ăn cơm với chị em chúng hôm qua mà lẽ nào? Nó chợt ngửng đầu lên, đưa ánh nhìn biết ơn cô Sáu khi cô hỏi chị Cựu những điều nó muốn tìm hiểu:
                  - Rứa thì đồ đạc trong nhà của hắn mần răng? Bà Cần có nói tụi hắn đi mô không? Bà có biết tụi hắn dấu nhà mình không rứa?
                  Chị Cựu  trả lời:
                  - Bà nói chị Tươi đã cho bà tất cả xoong, nồi, thau, chén bởi vì chỉ phải đi gấp. Nghe mô chỉ được tin ba chị bị bệnh nặng ở Sài Gòn.
                  Bà nội cau mày, lo lắng hỏi:
                  - Ba hắn bị bệnh chi mờ hắn không nói cho tau hay?
                  Cô Bảy lắc đầu:
                  - Hắn nói như rứa để kiếm cớ trả nhà đó mờ. Hơi mô mờ mạ tin!
                  Quay sang chị Cựu, cô Bảy Mỹ hỏi:
                  - Rứa bà Cần còn nói chi nữa không?
                  Chị Cựu ngập ngừng:
                  - Bà nói là anh Lê thường lên cơn ghiền sì ke ai trong xóm nhà thuê của bà cũng biết. Bà cũng lo là anh chỉ quỵt tiền thuê nhà nhưng may mắn là ảnh chỉ đã thanh toán đầy đủ nên mệ đừng lo chi nữa.
                  Cô Út đột nhiên hét lớn:
                              - Mần răng tụi nó có tiền trả tiền thuê nhà? Ăn cắp của tui bán để lấy tiền trả tiền nhà chứ mô mờ có?
                  Không được ai đối đáp những câu hỏi trống không, cô Út đập đầu liên tiếp trên đầu gối rên rỉ những lời khóc than ai oán:
                  -Trời ơi là trời! Mần răng mà tui lấy lại của của tôi đây hở trời! Bao nhiêu năm tui dành dụm, chắt mót cực khổ mà quân vô hậu lấy một lúc sạch trơn.
                  Ngẩng đầu bất thình lình về phía bà nội, cô nói với giọng như thể cưa nghiến rin rít trong gỗ cứng:
                  - Tại mạ mờ ra như rứa. Mạ không liên lạc với hắn mần răng mờ hắn ăn trộm đồ của tui được? Con con, cháu cháu! Như rứa cho vừa dạ mạ chưa nờ?
                  Cô Sáu chạy vào nhà cô một lúc rồi chạy sang nhà bếp với hộp khảm xà cừ:
                  - Đây nì! Tau cho mi hết hộp nữ trang của tau nì, muốn lấy chi thì lấy hết đi đừng đay nghiến mạ chi mờ tội nghiệp. Mạ già rồi để mạ yên!
                  Cô bảy Mỹ cũng mở bóp lấy một xấp tiền thật dày:
                  - Còn ni nữa nì. Chị cho em để bù số tiền em đã mất. Còn dư, em muốn mua vàng vòng chi thêm thì mua. Nếu thiếu thì chị cho thêm.
                  Cô Út nhận hộp nữ trang và tiền xong, nín bặt. Một lúc, cô khóc thút thít:
                  - Nếu mờ hắn không lấy trộm của tui thì giờ nội vốn tui lên gấp đôi rồi chứ mô mà có chừng nội thôi?
                  Nước mắt con chị chảy dài trên đôi má. Nó quay người bước nhanh về phía vườn cây. Đến gốc vú sữa nó ngồi bệt trên nột gốc lồi khóc rưng rức.
                  Con em lặng lẽ bước đi theo chị, đứng sau lưng im lặng nghe chị khóc. Một lúc, nó hỏi nho nhỏ:
                  - Chị Hạ buồn vì không còn có anh Lê bày chị làm bài nữa phải không?
                  Con chị vừa gạt nước mắt vừa mếu máo:
                  - Chị mất anh Lê rồi! Chị không còn ai trên đời này bày chị làm bài nữa rồi!
                  Con em rưng rưng:
                  - Ước gì cô Út không bị mất tiền để chị không bị mất anh Lê.
                              Con chị vùi đầu trong tuyệt vọng:
                  - Chị không còn có anh Lê nữa rồi! Chị không còn có ai giúp chị làm bài nữa. Hết người rồi! 
                              Con em nín thinh, lặng lẽ ngồi cạnh bên chị rất lâu mà không biết nói gì để an ủi. Đến khi nó nghe cô Sáu và cô Bảy Mỹ bàn tán chuyện đón xe đến nghĩa trang thăm mộ ông bà trong lúc hai người dắt nhau đi trên lối sỏi hướng về phía cổng trước, và tiếng nói của bà nội, cô Út cùng chị Cựu râm ran từ trong sân gạch, nó hiểu là chuyện mất cắp của cô Út đã hoàn toàn được giải quyết. Trong khi đó, tiếng khóc nức nở của con chị còn văng vẳng mãi bên tai khiến nó thấu hiểu rằng chuyện anh Lê bỏ đi làm chị nó đau khổ hơn vạn lần chuyện cô Út mất của. Quên khát, nó im lặng ngồi chờ chị một cách kiên nhẫn.
                  Con chị nhắm mắt trong thổn thức. Nó thấy nó đang ngồi trong căn nhà trọ. Nó thấy cái bàn nhỏ, cái ghế nhỏ, cái vách tường, cái giường và anh Lê. Nó nghe giọng nói Sài Gòn của anh Lê văng vẳng bên tai. Hình ảnh của ngày hôm qua và những ngày trước đó trong căn nhà trọ của anh Lê và chị Tươi ào ạt hiện ra trong tâm trí của nó.
                   
                   
                   
                  #39
                    Cung Thi Lan 25.08.2007 18:08:09 (permalink)
                         Chương Ba Mươi hai
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                    - Em hiểu chưa?
                    Con chị nhịp cây thước kẻ trên bàn, ngó chăm chăm trên mặt con em.
                    Con em đang ngồi trên cái đòn, tì hai tay lên chiếc ghế trước mặt, cúi đầu nói lễ phép:
                    - Dạ thưa cô em hiểu rồi.
                    Con chị cầm thước chỉ vào những giòng chữ trên miếng gỗ tựa của chiếc ghế nơi mà nó dùng làm bảng ghi. Nó nói:
                    - Hiểu rồi thì ghi bài này vào vở đi! Nhớ ghi cẩn thận nghe chưa!
                    Con em gật đầu:
                    - Dạ nghe
                    - Giỏi lắm! Bây giờ em viết bài được rồi, viết đi!
                    Con em cúi đầu, cẩn thận nắn nón từng chữ. Con chị  chắp tay sau lưng đi qua lại xung quanh em như cô giáo thực thụ. Bỗng nhiên nó khựng bước, há hốc miệng nhận ra ông bác Cả đứng ngoài sân trên bậc tam cấp cuối đang nhìn vào trong nhà nó. Bàng hoàng trước sự xuất hiện của ông, nó cúi đầu lí nhí chào:
                    - Con chào bác.
                    Ông bác Cả trai gật đầu ra hiệu:
                    - Con đi theo bác vào nhà bác biểu.
                    Dứt lời ông quay đi hướng về phía ngôi nhà lớn. Con chị vội vã xỏ chân vào đôi dép nhựa trên bậc tam cấp đi theo ông để mặc con em ngơ ngác còn lại một mình trong căn nhà nhỏ.
                    Xuyên qua vườn cây, lối trồng hoa, các bậc tam cấp, hành lang, con chị bước chầm chậm theo ông bác Cả đi vào phòng khách. Đến căn phòng riêng của mình, ông bác Cả ngừng lại ra hiệu cho nó đi vào. Con chị ngập  ngừng đẩy rộng cánh cửa kính để bước hẳn vào phòng. Đây là lần đầu tiên nó được ông bác Cả dẫn đến giang sơn riêng biệt của ông. Nó vừa hồi hộp, vừa lo lắng không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra cho nó. Trong ý nghĩ, nó hình dung một cuộc đối thoại về một bài giảng đạo đức hoặc là một bài dạy kèm mà nó sẽ cúi đầu gật nhẹ với những chữ dạ để có thể mau chóng bước nhanh ra khòi căn phòng xa lạ và lạnh lùng này.
                    Ông bác Cả chỉ chiếc ghế gỗ đen bóng lưỡng đang đặt giữa phòng và nói:
                    - Con ngồi xuống đó đi. Chờ bác một chút.
                    Con chị líu ríu nghe lời. Nó khẽ khàng ngồi xuống trên một góc chiếc ghế. Xa lạ với căn phòng có nhiều tủ sách, nó đảo mắt nhìn xung quanh. Chưa bao giờ nó thấy được căn phòng nào chứa nhiều sách như thế. Sách xếp chồng chồng, lớp lớp ngăn nắp trong các tủ kính cao, trên kệ, trên cả cái bàn cạnh nơi nó ngồi. Khoanh tay trước bụng cho đỡ bối rối, nó lướt mắt trên những giòng chữ nước ngoài ở cuốn sách đang mở dở gần đó. Yên tâm với ý nghĩ là sẽ được ông bác Cả chỉ dạy một tiếng nước ngoài nào đó trước khi nó vào trường trung học, con chị dựa người ra sau chỗ tựa lưng ghế chờ đợi.
                    Từ phía sau cái kệ đựng sách bằng gỗ, ông bác Cả bước ra với khăn, kéo và lược trên tay. Ông giải thích khi nhận ra đôi mắt ngạc nhiên của con chị:
                    - Bác cắt tóc cho con để ngày mai con đi học trường bác dạy.
                    Trong vô ý thức, con chị đáp ngay chữ dạ mà không kịp suy nghĩ lời đề nghị của ông có phù hợp với sở thích của nó hay không. Nó có một mái tóc thật đen dày và mượt chẳng khác của mẹ nó. Mái tóc dày và dài che hết phần lớn khuôn mặt thon nhỏ và phủ đầy lưng gầy khẳng khiu của nó khiến cho bà mẹ buộc nó phải  cột gọn phía sau hay thắt  bím hai bên. Từ năm học lớp ba, khi mẹ nó phải đi chợ sớm để buôn bán, nó đã tập tự thắt bím một mình trước khi đi học. Vì mái tóc khá dày, nó phải rẽ đường ngăn đôi từ đỉnh đầu đến sau ót để thắt hai con bím ở hai bên. Mỗi lần nó chia ngôi tóc như thế, con em thường tấm tắc khen nó khéo tay “Chị Hạ giỏi thật! Chị chia ngôi tóc ở sau lưng ngay như chị có mắt ở đàng sau đó!” và nó thường ghẹo con em là “chị có mái tóc đẹp nên chị phải chăm sóc nó. Chứ đâu như Vy, ngày nào cũng để chị chải và thắt bím cho.” Và như thế, nó và con em thường có hai bím tóc đến độ những đứa trẻ khác thường chọc chúng là “Ba Tàu” “Chệt” hay “Tàu le”. Một lần ở nhà cô chú Bảy Mỹ, sau khi tắm xong nó thả tóc để chờ khô và chị Nghĩa đã hết lời khen ngợi mái tóc của nó  “Hạ có mái tóc đẹp quá! Chị chưa thấy ai có mái tóc đen tuyền bóng mượt như ri! Nếu chị có mái tóc như của Hạ, chị thả tóc dài để khoe chứ không thắt ‘con rít’ như ri mô! Thắt con rít như ri mần gãy tóc hết!” Lúc đó nó đã mỉm cười và nói rằng “Em làm theo lời má em dặn. Má em nói là khuôn mặt em ốm mà bị tóc che nữa thì thấy tối tăm lắm nên em cột gọn lại. Má em còn nói là đi học với mái tóc bù xù cô giáo không thích. Em thích nghe lời má dặn và em cũng muốn cô giáo em thích em nữa!”
                    Nghĩ đến mẹ, con chị giật mình. Nó nhớ ra là chưa xin phép mẹ có nên để ông bác Cả cắt tóc hay không. Quay người ra sau, nó định từ chối lời đề nghị ban đầu của ông nhưng cái đầu nó bị quay ngược trở lại bởi hai bày tay của ông ở hai bên màng tang.
                    - Ngồi im để bác choàng cái khăn cho khỏi bị dính tóc.
                                Nó rụt cổ lại khi những ngón tay của ông bác Cả chạm vào cổ nó. Không nói gì về phản ứng của nó, ông bác Cả nhìn cái cổ áo lá sen khít cổ mà nó đang mặc một cách chăm chú để nhét cái mép khăn choàng sát chặt vào. Ngột ngạt, nó ngồi im và cố giữ thân người thật ngay ngắn trên chiếc ghế. Ông bác Cả mở hai sợi dây thun cột hai bím tóc và hai suối tóc tuôn ra phủ đầy hai vai nó đến tận lưng. Nó cảm thấy những chiếc răng lược đan vào mái tóc nó từ đỉnh đầu cho đến tận ót. Chúng di chuyển nhịp nhàng và đều đặn cho đến lúc ông bác Cả nghiêng đầu hết bên nọ sang bên kia để kiểm tra vị trí như ông muốn. Chải xong mái tóc ông đặt ngay chiếc lược trên bàn rồi cầm chiếc kéo trên tay. Ngắm nghía mái tóc của nó với ánh mắt đăm chiêu và căng thẳng một lúc ông  kê chiếc kéo cạnh màng tang nó cắt thẳng xuống đến tận ót. Từng mảnh tóc rơi tuột xuống, ào ạt khỏi lưng con chị như những giòng suối đổ mạnh xuống từ con thác cao. Nó đưa đôi mắt hoảng loạn nhìn ông. Nó không nghĩ là ông đã cắt tóc nó nhiều như thế.
                    Trấn an nó, ông bác Cả giải thích:
                    - Bác cắt cho con kiểu tóc đờ-mi gạc-xông. Kiểu tóc này là kiểu tóc hợp với khuôn mặt trái soan nhỏ như khuôn mặt của con.
                    Con chị chớp mắt ưng thuận mặc dù nó không biết cái kiểu tóc có tên Tây Mỹ kia là kiểu tóc gì. Nó cảm thấy đầu nó nhẹ đi khi mái tóc dài của nó hoàn toàn bị cắt hết.  Nhìn xuống mớ tóc dài rơi rải rác trên chiếc khăn choàng trắng và dưới chân ghế, nó tiếc rẻ những sợi tóc dài sau bao nhiêu năm gìn giữ.
                    Ông bác Cả cắt xong mớ tóc dài, hết nhắm lại so để tiếp tục cắt. Thời gian nhắm nhắm, so so và cắt cắt kéo dài hơn cả thời gian ông cắt mớ tóc dài kia. Nhìn những giọt mồ hơi chảy trên trán ông, nó hiểu công việc cắt tóc không phải là việc làm dễ dàng đối với ông. Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa và ông bác Cả đáp lại với đôi mắt dán chặt trên mái tóc của nó.
                    - Vô đi.
                    Chị Hải Châu bước vào với những lá thư trên tay. Ngạc nhiên với công việc mà ông bác Cả đang làm, chị trố mắt:
                    - Bác cắt tóc cho Hạ hả? Cắt ngắn dữ vậy hả?
                    Ông bác Cả không trả lới, cũng không quay lại nhìn chị. Ông gặn hỏi:
                    - Con muốn chi?
                    - Có thư của bác.
                    Ông trả lời khô khan:
                    - Để trên bàn cho bác.
                                Chị Hải Châu bước chậm chậm đến bàn giấy với đôi mắt ái ngại trên mái tóc con chị. Đặt nhẹ những phong thư trên bàn giấy, chị lặng lẽ quay lưng đi nhưng không quên liếc mắt nhìn mái tóc con chị lần cuối trước khi khép cánh cửa kính lại. Mái tóc thề thẳng tắp của chị Hải Châu qua tấm cửa kính sáng bóng khiến con chị ngậm ngùi tiếc rẻ mái tóc dài của nó. Nó ao ước phải chi ông bác Cả cắt tóc nó ngang dài đến vai như kiểu “tóc thề” của chị Hải Châu thì nó sẽ có được một cái dáng yểu điệu ưa nhìn của một cô thiếu nữ như chị ta rồi. Nghĩ đến ánh mắt ái ngại của chị Hải Châu, và hồ nghi mái tóc mới có sự bất ổn, nó nóng lòng muốn rời khỏi chiếc ghế đang ngồi và chạy ngay về nhà để tìm cái gương soi mặt. Hiểu ý nó, ông bác Cả trao cho nó cái gương tí tẹo sau khi ông đặt cây kéo trên bàn. Hồi hộp nhìn vào chiếc gương, nó chỉ thấy đôi mắt lo âu của nó trên khuôn mặt. Nó không thấy được cả mái tóc lẫn khuôn mặt của nó trong cái gương bé tí teo. Nghiêng đầu bên nọ sang bên kia nhiều lần, nó chỉ thấy mặt nghiêng bên má thay vì cả khuôn mặt và mái tóc.
                    Ông bác Cả mở chiếc khăn choàng cho nó, bảo:
                    - Bây giờ con về đi. Để bác dọn mớ tóc này cho.
                    Con chị tần ngần, chưa chịu đứng lên. Nó nấn ná nhìn vào chiếc gương nhỏ thêm một lần nữa mới trao lại cho ông. Ông bác Cả đón lấy chiếc gương và dặn dò thêm:
                    - Bảy giờ sáng ngày mai con đến ga-ra chờ bác chở đi học. Chiều nay nhớ chuẩn bị viết vở đầy đủ. Bác đã nói chuyện này với mạ con rồi.
                    Con chị đứng lên, khoanh tay, gật nhẹ:
                    - Con cảm ơn bác.
                    Bước ra khỏi phòng ông, nó đi nhanh qua căn phòng khách, qua hành lang rồi nhảy xuống các bậc tâng cấp và chạy vùn vụt qua lối trồng hoa hướng về căn nhà nhỏ. Con em đang ngồi trên gốc lồi ở gốc cây vú sữa trong vườn cây, đứng lên đón nó giữa đường. Nó cười ngặt nghẽo:
                    - Trời ơi! Tóc chị Hạ kỳ lạ quá hà!
                    Con chị không trả lời em, nó chạy ù vào nhà tìm lấy cái gương hình chữ nhật được bọc thiếc đàng sau. Một khuôn mặt ngao ngáo được bao quanh bởi mái tóc đen ngắn ôm tròn quoanh cứ như là đầu nó bị chiếc nồi đen úp  khít bên trên. Nghiêng qua, ngoảnh lại, ngẩng lên nhìn xuống, nheo mắt, nhoẻn miệng nó vô vọng tìm cái đẹp hợp với cái tên Tây, tên Mỹ của kiểu tóc mà ông bác Cả nói với nó.
                    Con em đứng sau lưng nó, lo lắng hỏi:
                    - Bác Cả trai có cắt tóc cho em không vậy?
                    Con chị buông thỏng chiếc gương xuống, lắc đầu:
                    - Không.
                    Con em thở phào:
                    - Vậy em có thể giữ y nguyên mái tóc dài của em rồi. Nhưng mà bây giờ em với chị không còn giống nhau nữa rồi! Chị đâu có tóc dài để thắt  con rít đâu mà mình giống nhau!
                    Con chị vuốt lấy vuốt đễ mái tóc ngắn, buồn bã than trách:
                    - Bác Cả nói kiểu tóc này là... cái tên Tây gì đó. Tên là...tên là... Đúng rồi! tên là “đờ-mi gạc-xông”. Tên nghe hay ghê lắm mà sao kiểu tóc thấy ghê quá.
                    Con em nhìn sửng con chị, lập lại câu hỏi:
                    - Bác Cả có bắt em cắt tóc kiểu “gạc- xông” này không?
                    Con chị nhìn hai bím tóc của con em lắc đầu:
                    - Chị không nghe bác biểu em vào cắt tóc. Nhưng mà khi nào Vy  vào trung học và đi học trường với bác Cả, Vy cũng sẽ bị cắt tóc như chị.
                    Con em thở phào:
                    - May cho em quá! Em sẽ cố gắng được vào trường công Nữ Trung Học Nha Trang chứ không học trường tư, chỗ bác làm việc đâu! Nhưng mà sao chị để bác cắt cái kiểu tóc kỳ lạ này vậy?
                    Con chị nhăn mặt, phân bua:
                    - Chị có biết bác cắt cho chị kiểu gì đâu? Chị chỉ nghe bác nói cắt tóc cho chị thôi à! Chị tưởng bác chỉ cắt ngắn đi như tóc chị Hải Châu, Hải Yến chứ ai ngờ bác cắt cho chị kiểu tóc “gạc xông” này!
                    Chớp mắt buồn rầu, nó cúi đầu xuống:
                    - Với lại chị đâu có muốn cắt tóc nhưng mà chị không dám nói là không.
                    - Vậy rồi chị sẽ nói với má làm sao?
                    - Bác Cả nói là đã bàn với má việc cắt tóc cho chị rồi. Bác còn nói là ngày mai chị phải đi xe hơi với bác để đến trường bác học.
                    Con em reo lên:
                    - Vậy là chị được đi xe hơi với bác Cả rồi!
                    Con chị gật đầu:
                    - Ừ chị sẽ đi học với chị Hải Yến và chị Hải Châu trên xe bác.
                    Chợt nhớ ra điều quan trọng, con em giật bắn người. Nó chau mày hỏi:
                    - Nhưng mà chị không chờ kết quả kỳ thi vào trường Nữ Trung Học sao?
                                Con chị lắc đầu:
                    - Chắc chị bị rớt rồi. Bác Cả và má cũng nghĩ vậy nên lo cho chị vào trường tư thục. Nếu chờ đến khi có kết quả kỳ thi mà chị không được đậu thì chị không biết học ở đâu. Lúc đó muốn vào học ở trường tư thục cũng bị trễ rồi. Nhưng mà chị không hiểu làm sao má có tiền cho chị học trường tư?
                    Nghe tiếng chó sủa, con em nhìn ra cổng, reo lên:
                    - Má đi chợ về kìa chị. Mình ra hỏi má là sẽ biết hết tất cả ngay.
                    Bà mẹ gác chiếc đòn gánh cạnh hai cái thúng tại gốc dừa, vui vẻ khi thấy con chị:
                    - Bác Cả đã cắt tóc cho con rồi đó hả Hạ?
                    Con chị sửng sốt:
                    - Má biết bác Cả cắt tóc cho con hở?
                    - Bác có nói chuyện với má lâu rồi nhưng không thấy bác cắt tóc cho con gì cả tưởng đâu bác đã quên rồi.
                    Con chị phụng phịu, nói với giọng đầy trách móc:
                    - Sao má không nói cho con biết gì cả?
                    Bà mẹ ngạc nhiên:
                    - Nói gì? Chuyện người lớn bàn bạc phải nói với con sao?
                    Con chị nhăn nhó:
                    - Con đâu có thích cắt tóc đâu mà bắt con cắt?
                    - Bác Cả không có rảnh mà ráng dành thời giờ cắt tóc cho con, đáng lẽ con phải biết ơn mới phải chứ có đâu lại nói như vậy? Bà mẹ cằn nhằn với giọng bất mãn.
                    - Con không có thích kiểu tóc này. Tóc kiểu này ngắn hơn cả tóc bum bê làm cho con thấy tóc con dày hơn, nhiều hơn và lưng bị trống trơn đàng sau!
                    - Má lại thấy mặt con tròn trĩnh hơn, sáng hơn, và trông thông minh hơn - Khen hết lời mà khuôn mặt ỉu xìu của con chị vẫn không thay đổi, bà mẹ gay gắt hỏi vặn:
                    - Nhưng mà nếu con không thích cắt tóc tại sao không nói cho bác Cả biết để bây giờ cằn nhằn má?
                                Con chị đuối lý, im lặng. Nó hiểu tình trạng của mẹ nó cũng giống như nó. Đối diện với những lời đề nghị của những người lờn hơn, là phận kẻ vai dưới khó lòng phủ nhận. Người lớn khi quyết định làm gì thường có lý do của họ cho nên hầu như chẳng ai muốn làm ngược ý họ. Vì vậy từ chối những quyết định của người lớn là sự phản kháng bất lịch sự mà chính mẹ nó và nó đều không muốn.
                    Bà mẹ an ủi:
                    - Bác Cả không phải là thợ cắt tóc nhưng con được bác Cả cắt tóc là may mắn lắm rồi.
                    Con chị giương đôi mắt buồn bã nhìn mẹ và cố gắng nghe bà giải thích:
                    - Con phải mừng vì được bác Cả cắt tóc cho! Bác Cả là người thông thái và thành công trong học đường lẫn chức nghiệp cho nên  được bác cắt tóc là được “cái huông” học giỏi và thành công như bác đó!
                    Con chị không trả lời. Nó nhắm mắt và lắc đầu nhè nhẹ. Mẹ nó lúc nào cũng tin những điều mê tín.
                    Không nghe con chị phản đối, nhưng thấy thái độ kỳ quoặc của nó, bà mẹ nói tiếp:
                    - “Xấu mặt thì lâu chứ xấu đầu mấy chốc!” Vài tháng sau thì tóc dài ra lại thôi. Lúc đó con muốn để dài mấy thì để!
                    Lục trong chiếc giỏ nhựa bà lôi ra một túi giấy:
                    - Con vào mặc thử hai cái áo đầm này xem có vừa không?
                    Con chị rút hai cái áo đầm ra khỏi chiếc túi giấy, ngạc nhiên:
                    - Con phải đi học với áo đầm hoa này sao hả má?
                    - Ừ! Con học trường tư thục mà! Mặc gì mà không được!
                    Con chị đến cái tủ áo nơi mà nó thường dùng cánh cửa tủ che khuất người khi thay đồ.  Ngần ngừ với hai chiếc áo trên tay, nó hỏi:
                    - Má không mua cho Vy cái nào sao hở má?
                    - Má chỉ mua hai cái để con mặc thay đổi khi đi học vì ngày mai nhập trường rồi. Trường công khai giảng trễ hơn trường tư thục Lê Quý Đôn, hôm nào có tiền má sẽ mua cho Vy sau.
                    Con chị càu nhàu sau cánh cửa tủ:
                    - Con không thích mặc áo hoa hòe đủ màu này đi học tí nào. Hồi giờ con đâu có mặc đồ màu đi học.
                    Ngồi trên nền nhà xi măng với mẹ con em thỏ thẻ nói:
                    - Khi nào má mua áo cho con thì mua áo đầm trắng. Trường con không mặc áo màu mà con cũng không thích áo đầm màu đâu. Năm tới con sẽ cố gắng thi đậu vào trường Nữ Trung Học Nha Trang để mặc áo dài trắng chứ con không thích mặc áo đầm màu như của chị Hạ.
                    Bà mẹ đăm chiêu:
                    - Nếu các con cố gắng thi đậu vào trưòng công Nữ Trung Học thì má không phải lo lắng tiền học mỗi tháng. Nhưng mà dù có được học ở trường công hay tư má cũng sẽ cho các con đi học đến nơi đến chốn chứ không để các con thất học như má đâu.
                    Con chị bước ra khỏi cánh cửa tủ, cắt đứt đối thoại giữa hai mẹ con:
                    - Má thấy con sao? Vy thấy chị sao hả Vy?
                    - Áo vừa rồi. Như vậy ngày mai mặc đi học được rồi!
                    Con em cười khúc khích:
                    - Chị giống mấy con nhỏ ngoại quốc trong ti vi ở nhà bác Cả  quá hà!
                    - Giống làm sao? Mà có đẹp không?
                    - Không. Em thấy không đẹp. Em chỉ thích mặc áo trắng. Em thích mặc áo dài hơn.
                    Con chị cằn nhằn:
                    - Vy mà biết Vy thích cái gì! Lúc thì nói không thích áo dài lúc thì nói là thích áo dài.
                    Con em cãi lại:
                                - “Ngày xưa” em không thích áo dài nhưng mà bây giờ thấy chị mặc áo đầm này với cái tóc này em thích mặc áo dài trắng hay áo đầm trắng hơn là áo đầm màu mè.
                    Con chị không trả lời em. Nó thu dọn mớ quần áo bỏ vào tủ  rồi đi đến cửa sổ. Ủ rũ bên song sắt, nó nhìn ra ngoài vườn cây nghĩ ngợi mông lung.
                                Nắng đã nhạt trên sân cát và cây lá trong vườn. Xa xa bóng chị Hải Châu và Hải Yến đang tưới nước cho những chậu hoa trước nhà bác Cả. Từ ngày có hai chị Hải Châu và Hải Yến về ở với gia đình bác Cả, hoa lá tươi xanh hơn và hai chị em con nhỏ có dịp lân la đến ngôi nhà hai bác Cả thường xuyên hơn. Chị Hải Châu và chị Hải Yến là hai trong bảy người con gái của người chú gọi bà nội của hai chị em con nhỏ  là dì. Sau khi cả hai không thể đậu vào trường công lập tại Pleiku và biến cố tết Mậu Thân năm 1968 đã khiến ông chú Trần, ba của hai chị em chị Hải Châu và Hải Yến, quyết định gửi gắm họ học trường tư thục Lê Quý Đôn nơi mà ông bác Cả làm việc. Ông bà Bác Cả đã nồng nhiệt đón hai chị em chị Hải Châu Hải Yến ở trong nhà vì họ được nguồn giúp đỡ việc cơm nước khi mà Chị Cựu đã xin thôi việc về quê trước khi ông chú Trần xuống Nha Trang một tuần. Là vai chị trong mối quan hệ bà con nhưng vì số tuổi nhỏ hơn họ rất nhiều nên hai chị em con nhỏ quen miệng gọi hai ngưới ấy là “chị Hải Châu” và “chị Hải Yến”. Nghĩ đến chuyện đi học với hai người chị họ trong xe bác Cả, con chị cảm thấy an tâm vì được đi học cùng người thân trong ngôi trường mới lạ nhưng lại lo lắng vì sợ sẽ bị say sóng, ói mửa và gây mùi hôi thối trong xe như lần đi xe đò về thăm quê ngoại. Suy nghĩ lui lui tới tới một lúc, nó quyết định  chuẩn bị túi ni lông cho trường hợp ói trong xe bất kể mùi hôi của ói mữa có làm phật ý ông bà bác Cả hay không. Quen thuộc khá lâu với chuyện tự đi học và về nhà, ngồi gò bó với những người sang trọng trong xe quả là chuyện quá mức đối với nó. Tuy nhiên nó không thể độc lập đi học một mình khi mà nó chưa biết đường đi. Mang máng trong trí, hình như con đường từ nhà đến trường Lê Quý Đôn xa gấp ba lần con đường nó đi đến trường Nữ Tiểu Học, và qua nhiều ngã tư lớn. Nó không thể nào nhớ đường đi vì chỉ được đi qua một lần hôm đi thi vào trường Nữ Trung Học mà lúc đó tâm trí của nó chỉ dành cho kỳ thi chứ không phải là những con đường hay các ngã tư đến trường.
                    Lắc đầu chán chường, nó chợt nhớ hai bím tóc của nó đã bị mất đi. Vuốt mái tóc ngắn, nó thở dài buồn bã. Nó luyến tiếc nhớ con đường thường xuyên đi bộ đến trường Nữ Tiểu Học Nha Trang và những việc làm quen thuộc khi nó đi đến trường trong suốt sáu năm qua. Nghĩ đến mơ ước được học cao hơn để sau này có cơ hội giúp mẹ, nó mơ hồ không hiểu ước muốn hiện tại của nó là gì. Hai trường Lê Quý Đôn và Nữ Trung Học Nha Trang đều cách xa nhà. Cho dù được thi đậu vào trường công lập Nữ Trung Học Nha Trang nó cũng phải đi cùng với xe ông bác Cả một thời gian như khi học trường tư thục Lê Quý Đôn.
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                     
                    #40
                      Cung Thi Lan 26.08.2007 15:24:41 (permalink)
                           Chương Ba Mươi Ba
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                      Mặt trời rực đỏ trên cao. Những tia nắng sáng loà chiếu khắp sân trước của trường Nữ Trung Học Nha Trang. Một số đông người lớn và con gái trẻ  ra vào trước cổng trường mở rộng trong khi số khác tụ tập trước bảng thông cáo, tụm nhóm nhỏ bàn tán xôn xao. Những người lớn là những phụ huynh và những đứa con gái kia là những học sinh lớp nhất của các trường trong thành phố Nha Trang và là thí sinh của kỳ thi vào trường công Nữ Trung Học vừa qua.
                      Trường Nữ Trung Học Nha Trang và trường Nam Trung Học Võ Tánh là hai trường công lập lớn ở Nha Trang do chính phủ dài thọ. Hàng năm, hai trường công lập này thường thâu nhận học sinh với số giới hạn cho nên được trúng tuyển kỳ thi vào hai trường này, học sinh không những được học miễn phí mà là niềm danh dự cho gia đình họ. Mỗi khi hai trường trung học công lập này thông báo kết quả kỳ thi tuyển vào lớp đệ thất, dân chúng của thành phố Nha Trang luôn luôn nô nức đi xem kết quả rồi xôn xao với cảnh người đậu kẻ rớt.
                      Từ sáng sớm, kết quả kỳ thi  đã được đăng trên bảng yết thị của trường Nữ Trung Học Nha Trang thế mà con chị không hay biết chút nào. Mãi đến trưa khi con Hồng gọi nó ngoài bức thành trước căn nhà nhỏ và rủ nó cùng đi xem kết quả, nó mới hay cái ngày mà nó xôn xao mong chờ nay đã đến. Đi bộ theo những đứa khác trong xóm, hai chị em nó và chị em con Hồng cùng đến trường Nữ Trung Học Nha Trang. Len lỏi xuyên qua đám người đang bu thành từng lớp dày trước những bảng thông báo, bốn đứa nhỏ tản ra khắp phía. Nhón người cao hơn những cái đầu trước mặt, con chị cố gắng đảo mắt xuyên qua các ô lưới. Nó thầm đọc trong đầu “Hoàng Thị Đan Hạ! Hoàng Thị Đan Hạ! Cầu trời cho có tên Hoàng Thị Đan Hạ”. Vài đứa đứng phía trước reo lên sung sướng một lúc rồi hè nhau chen ra ngoài để  cho nó khoảng trống trước mặt sát gần tấm lưới chắn của bảng yết thị hơn. Nó đọc từng tên một, từng hàng một, lúc thì từ trên xuống, lúc thì từ dưới lên. Thất vọng vì không thấy tên mình, nó chen ra ngoài và nhìn hai cái bảng yết thị bên cạnh.
                      Con nhỏ em reo lên:
                      - Em thấy tên chị rồi!
                      Con chị vội vã lấn đến bảng yết thị nơi con em bị bao quanh bởi những đứa trẻ khác.
                      - Đâu? đâu Vy?
                      - Đây nè. Ở số một trăm mười ba đó!
                      - Trời ơi! Đúng rồi! Tên của chị! Hoàng Thị Đan Hạ! Tên chị! Tên chị!
                      Con Hồng vồ vập, chen vào chỗ hai đứa, châu mắt nhìn vào cái lỗ của lưới thép nơi con nhỏ em đang trỏ vào.
                      - Đâu đâu? Tên Hạ đâu? Nó hỏi.
                      - Đây nè! Tên chị Hạ nè. Hoàng Thị Đan Hạ ở số một trăm mười ba đó. Thấy chưa? Đây nè!
                      - Đúng rồi! Hạ được đậu rồi, sướng quá!
                      Con chị gật đầu nhưng nói với giọng đầy lo lắng:
                      - Không hiểu có tên trong danh sách này là được đậu rồi không ?
                      Một đứa con gái lấn sát vào người nó, nói giọng gay gắt:
                      - Chứ không có coi hàng chữ trên đầu bảng hả? Danh sách học sinh trúng tuyển vào lớp đệ thất của trường Nữ Trung Học Nha Trang đó là gì?
                      Một đứa khác cằn nhằn:
                      - Đậu rồi thì đi ra sau đi để người khác tìm tên đi! Hai ba người che trước bảng không cho ai thấy gì cả!
                      Con Hồng phản đối:
                      - Tui còn phải tìm tên của tui nữa. Tìm dùm Hồng tên Nguyễn Thị Thu Hồng đi mấy đứa.
                      Mặc cho những đứa con gái quoanh nó lao nhao yêu cầu đủ điều, con chị nấn ná bên tấm lưới, chòng chọc mắt vào hàng chữ “Hoàng thị Đan Hạ”.
                      Con em nói:
                      - Ở đây có tên Lê Thị Thu Hồng chứ không có tên Nguyễn Thị Thu Hồng
                      Con  Hoa lo lắng:
                      - Có khi nào người ta đánh lộn tên của chị không?
                      Con Hồng lắc đầu:
                      - Con gái thường có tên các loài hoa. Thiếu gì đứa có tên Hồng. Con Nguyễn Thị Thu Hồng này có ngày sinh khác chị mà! Tìm tên Nguyễn Thị Thu Hồng, sinh ngày chin tháng mười hai năm một ngàn chín trăm năm mươi bảy đó!
                      Nghe lời nó, cả bọn chia nhau đi tìm tên “Nguyễn Thị Thu Hồng”. Loanh quanh trước những bảng yết thị cho đến lúc nắng nhạt và người vãn dần mà chẳng đứa nào tìm ra tên Nguyễn Thị Thu Hồng, sinh ngày chín tháng mười hai năm một ngàn chín trăm năm mươi bảy. Không muốn làm con Hồng thất vọng, con Hoa, con chị, và con em cố gắng tìm từng tên một trong những tờ giấy đánh máy danh sách học sinh trúng tuyển.
                      Con em chỉ vào lỗ trống của tấm lưới:
                      - Có tên con Tín đây nè chị Hạ. Ở số bảy mươi tám nè!
                      Con chị gật đầu:
                      - Lê thị Thanh Tín! sinh ngày bảy tháng chín năm một ngàn chin trăm năm mươi bảy. Đúng rồi, đúng là tên con Tín nhà mình.
                      Con em khoe con Hoa:
                      - Em bà con Vy cũng đậu vào trường Nữ Trung Học nữa đó Hoa! Tên nó đây nè!
                      Con chị chen vào, vui vẻ nói:
                      - Đúng rồi. Con Tín nhỏ hơn chị một tuổi mà giỏi ghê. Nó mới học lớp nhất xong là thi đậu liền. Chắc gia đình cô Bảy Mỹ sẽ thưởng cho nó nhiều thứ lắm.
                      Con Hồng cũng tụm vào nhóm, than vãn không ngơi:
                      - Má Hồng cũng hứa thưởng cho Hồng quà nếu Hồng thi đậu nhưng Hồng không mong quà đâu, Hồng chỉ mong được học ở trường Nữ Trung Học Nha Trang thôi. Học ở trường này được mặc áo dài trắng đồng phục và được xưng tên với chữ lót.
                      Con chị ngac nhiên:
                      - Hồng chưa học ở đây sao biết vậy?
                      - Chị Nguyệt, chị của con Vân trong xóm học ở trường Nữ Trung Học Nha Trang này nên Hồng biết mà! Hồi lúc học tiểu học tụi nó gọi chỉ là Nguyệt như tụi trong xóm mình gọi chỉ vậy đó, còn bây giờ bạn chỉ trong trường nữ này toàn gọi chỉ  là Minh Nguyệt.
                      - Vậy Hồng muốn học trường đó để bạn Hồng gọi là Thu Hồng hả?
                      - Ừ, và được mặc áo dài trắng nữa.
                      Con chị hân hoan nói:
                      - Như vậy bạn trong trường Nữ Trung Học Nha Trang sẽ gọi Hạ là Đan Hạ và gọi con Tín là Thanh Tín. Nghe cũng hay lắm!
                      - Gia đình mà có hai người thi đậu là sướng quá rồi! Mấy chị em nhà Hạ học giỏi thật!
                      Con chị lắc đầu:
                      - Con em họ của Hạ thì giỏi thật vì nó học thẳng rồi thi đậu luôn. Còn Hạ phải ở lại hai năm lớp nhì đến bây giờ mới thi đậu được.
                      Con Hồng cúi đầu:
                      - Dầu gì Hạ cũng được đậu vào trường Nữ Trung Học còn đỡ hơn Hồng, bị rớt!
                      Con chị nhìn nó ái ngại:
                      - Có lẽ mình chưa tìm kỹ! Bây giờ tụi mình chia nhau tìm thêm một lần nữa đi!
                      Con Hồng lắc đầu:
                      - Thôi tụi mình về đi! Hồng đã đọc kỹ từng tên rồi. Không có tên của Hồng, tìm hoài chỉ phí công thôi!
                      Vừa dứt lời, con Hồng quay người đi thật nhanh ra khỏi cổng trường. Cả bọn im lặng nhìn nhau rồi cùng bước nhanh đi theo nó.
                      Nôn nao nhìn những tia nắng nhạt còn sót lại trên đường, con chị phá tan bầu không khí im lặng:
                      - Chiều đến mau quá! Giờ này chắc má đi chợ về rồi đó Vy. Má mà biết chị đậu chắc mừng lắm đó!
                      Con em hớn hở bước bên chị, nói huyên thuyên:
                      - Vậy là má không phải đóng tiền học cho chị nữa rồi. Em mừng cho chị và mừng cho má nữa!
                      Con Hồng đi chậm hơn, nói buồn bã:
                      - Còn má Hồng chắc buồn lắm. Má Hồng không có tiền cho Hồng học tư đâu.
                      Con Hoa an ủi:
                      -  Má sẽ xin cho chị học lại lớp nhất thêm một năm nữa. Học thêm lớp tiếp liên thì sang năm thế nào chị cũng được đậu vào trường Nữ Trung Học mà!
                      Con chị  bước ngang hàng với hai chị em con Hồng, tiếp lời:
                      - Đúng rồi đó Hồng! Hạ học hai năm lớp nhì mới đậu được đó. Hồng cố gắng học thêm lớp tiếp liên thì sang năm thể nào Hồng cũng được đậu vào trường Nữ  Trung Học Nha Trang!
                      Con Hồng than van:
                      - Biết như vậy Hồng không bỏ học lớp luyện thi đệ thất giữa chừng đâu.
                      Con chị ngạc nhiên, nhìn mặt nó:
                      - Ủa Hồng có học luyện thi vào lớp đệ thất hả?
                      - Ừ.
                      - Ở đâu vậy?
                      - Ở đình Phương Câu đó! Hồng học với ông thầy Dần. Hạ có biết ổng không?
                      Con chị gật đầu:
                      - Hạ nghe ông thầy Dần dạy toán nổi tiếng lắm nhưng má Hạ không có tiền cho Hạ đi học.
                      - May là Hạ không học. Chứ Hồng đi học thêm cũng bỏ giữa chừng thôi.
                      Con chị kinh ngạc:
                      - Vì sao Hồng bỏ học nửa chừng?
                      - Bởi vì ông thầy Dần nhận học sinh đông quá. Có tới bốn mươi học sinh trong lớp lận nên lớp ồn lắm. Mặc dù ông thầy Dần dữ lắm nhưng tụi nó có sợ đâu. Khi ổng quay về phía bảng giảng bài là tụi nó nói chuyện. Hôm đó, trong lúc ổng giảng bài, mấy đứa con trai ngồi phía trước nói chuyện xì xào, Hồng không nghe ổng nói gì nên hỏi đứa bên cạnh. Khi ông quay xuống lớp, ổng tưởng Hồng nói ồn nên đến tát cho Hồng một tát tai. Sau ngày đó Hồng bỏ học luôn.
                      - Rồi má Hồng nói sao?
                      - Má Hồng không biết gì cả. Hồng đâu có kể cho má Hồng. Với lại má Hồng đi bán cả ngày và đâu có bao giờ coi vở ghi của Hồng đâu mà biết Hồng nghỉ học.
                      - Vậy còn tiền học thì sao?
                      - Đóng từ đầu tháng rồi. Không học thì mất. Nhưng mà Hồng chỉ nghỉ độ một tuần trước khi mãn khóa học luyện thi.
                      Con Hoa trách:
                      - Má mà biết chị Hồng bỏ học thêm nên bị thi rớt thì thế nào má cũng đánh chị cho coi!
                      Con em nói với con Hoa:
                      - Má Hoa không biết thì đừng có méc nữa. Nếu Hoa không méc thì làm sao chị Hồng bị đòn được?
                      Con Hồng nói nho nhỏ:
                      - Chỉ sợ má Hồng trách thầy Dần vì sao cho Hồng học thêm mà Hồng không được đậu. Nếu má Hồng hỏi thầy, sẽ biết Hồng bỏ học!
                      Con chị nhìn con Hồng:
                      - Có phải Hồng mắc cở vì bị đánh trước bạn bè nên bỏ học không?
                      Con Hồng cúi mặt, rưng rưng:
                      - Đúng vậy đó. Hồng mắc cở với cả lớp, nhất là với mấy đứa con trai học chung.
                      Chùi nước mắt, nó nói thêm:
                      - Hồng không dám kể cho má Hồng nghe bởi vì hễ mỗi lần Hồng có vấn đề gì, má Hồng luôn luôn nói là lỗi của Hồng trước nên mới gây ra vấn đề.
                      Không nghe một ai bàn bạc câu nào, con Hồng nói tiếp:
                      - Bây giờ Hồng thấy hối hận vì bỏ học. Phải chi Hồng học hết khóa, được thầy ôn bài, thì  chắc không đến nỗi bị rớt như bây giờ.
                      Con chị an ủi:
                      - Đậu rớt do may rủi thôi. Hạ đâu có bao giờ nghĩ Hạ được đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang đâu!
                      - Tại Hạ đậu rồi mới nói vậy thôi!
                      - Thật đó! Hạ đâu có học giỏi đâu mà tin là mình được thi đậu chứ? Có lẽ Hạ nghe lời chị họ bày cho nên Hạ mới được thi đậu.
                      Nước mắt ráo rảnh, con Hồng hỏi dồn:
                      - Cách nào vậy?
                      - Trước ngày thi, chị Hải Châu dặn Hạ ngủ sớm và dậy thật sớm để chị chở đến trường bằng xe đạp. Sáng sớm, khi chị Hải Châu đến Hạ trường Nữ Trung Học Nha Trang để thi, cổng chưa mở cửa và chị chở Hạ băng qua đại lộ để đến quán chè của ông cai trường Lê Qúy Đôn mua chè ăn.
                      Con Hồng kinh ngạc:
                      - Ăn chè vào lúc sáng sớm?
                      Con chị gật đầu:
                      - Ừ. Hạ không bao giờ ăn ngọt vào buổi sáng nhưng nghe theo lời chị để được thi đậu. Chị nói với bà vợ ông cai trường bán cho Hạ ly chè đậu xanh để Hạ được may mắn khi thi. Khi nghe chỉ nói là ăn chè đậu xanh để được thi đậu, Hạ cố gắng ăn hết ly chè đậu xanh.
                      Con Hồng ngây người, ngớ ngẩn hỏi:
                      - Ăn chè đậu thì thi đậu sao?
                      - Chị Hải Châu nói ăn chè đậu xanh hay đậu đỏ mới thi đậu còn ăn đậu đen thì sẽ bị thi rớt vì đen đem đến xui xẻo. Hạ không biết có đúng không nhưng Hạ là người khách đầu tiên ngồi ăn tại quán chè đó. Lúc chị em Hạ tới quán, bà vợ ông cai chưa kịp bày hàng ra đầy đủ gì cả nhưng mà sau đó nhiều người chở con vào ăn chè đậu trước khi thi như cách chị Hải Châu bày cho Hạ.
                      - Hạ có tin là ăn chè đậu được thi đậu không?
                      - Hạ không biết! Nhưng Hạ làm thêm mấy điều mà chị Hải Châu căn dặn Hạ khi chị chở Hạ trở lại trường Nữ Trung Học Nha Trang là đọc kỹ đề bài trước khi làm, viết sạch đẹp và không bỏ một câu hỏi nào. Chị còn biểu Hạ làm câu dễ trước, khó sau và cố gắng suy đoán cách trả lời cho các câu hỏi bị bí.
                      Con Hồng chép miệng:
                      - Phải chi Hồng được căn dặn như vậy!
                                  Con chị bâng khuâng nhìn cái quán nhỏ bên đường khi cả bọn ngừng lại ở ngã tư đường Hoàng Tử cảnh và Đào Duy Từ. Nó nói:
                      - Hạ được đậu cũng là vì Hạ có một người anh bà con dạy kèm cho Hạ toán lớp nhất nữa.
                      Quay đầu, giương đôi mắt ươn ướt về phiá căn nhà trọ của anh Lê và chị Tươi xa xa, nó rưng rưng nói tiếp:
                      - Bây giờ người anh họ của Hạ không còn ở Nha Trang này nữa nên Hạ không thể báo tin cho ảnh biết là Hạ được đậu vào trường Nữ Trung Học Nha Trang nhưng Hạ luôn luôn biết ơn ảnh vì ảnh đã giúp cho Hạ hiểu toán nhiều và làm được bài trong khi thi.
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                      #41
                        Cung Thi Lan 26.08.2007 15:27:26 (permalink)
                             Chương Ba Mươi Bốn
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                        Hai đứa nhỏ trở về nhà lúc trời chỉ còn vương vài tia nắng tàn trước cổng. Trong khi con chị còn loay hoay với chiếc khoen cổng, con em đã chạy ù về phía căn nhà nhỏ, gọi ầm ĩ:
                        - Má ơi! Chị Hạ đậu rồi! Chị Hạ đậu rồi má!
                        Từ trong cánh cửa mở rộng, bà mẹ thò đầu ra:
                        - Con gái lớn chín mười tuổi đầu rồi mà đứng ngoài đường la ông ổng vậy hả Vy! Không sợ “trong nhà” la má là không biết dạy con sao?
                        Con em hớn hở nói không ngừng:
                        - Con mừng quá má à! Tại chị Hạ thi đậu đó! Chị Hạ đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang rồi!
                        Bà mẹ đứng giữa ngưỡng cửa, mỉm cười:
                        - Má biết rồi. Má mừng lắm! Má chờ tụi con nãy giờ mà không thấy tụi con về. Đi coi kết quả sao mà lâu quá vậy?
                        Như chiếc bong bóng đang bay cao, bỗng xì hơi, con em khựng lại trước mặt bà, hạ thấp giọng hỏi :
                        - Ủa? Sao má biết chị Hạ đậu rồi vậy?
                        - Cô chú Bảy Mỹ chở con Tín vào cho bà nội hay là nó đã thi đậu. Chú Mỹ còn kể là lúc sáng đi xem bảng kết quả có thấy tên của chị Hạ nữa. Má nghe mừng lắm nhưng chờ hoài không thấy các con về.
                        Con chị tuột đôi dép trên bậc tam cấp, hỏi qua loa:
                        - Vậy cô chú Bảy Mỹ và con Tín còn ở trong nhà nội không hả má?
                        Bà mẹ nói vội vã:
                        - Còn chớ! Bởi vậy con đừng cởi dép ra ngoài làm gì.  Mang luôn để đi vào thưa bà nội và các bác, các cô biết là con đã thi đậu.
                        Con chị ngơ ngác nhìn mẹ. Nó hỏi trong hoang mang:
                        - Vì sao con phải thưa “trong đó” biết là con thi đậu vậy hả má?
                        Bà mẹ nói nhanh như những bước chân thoăn thoắt mà bà đang bước qua các bậc tam cấp:
                        - Để bà nội và các bác, các cô mừng cho con. Đi mau lên đi các con!
                        Mang lại đôi dép để bước theo mẹ và em, con chị vẫn chưa hết thắc mắc :
                        - Mừng cho con để làm gì?
                        - Mừng cho con là con đã thi đậu chớ mừng làm gì nữa?
                        Dứt lời bà mẹ kéo tay con em bước nhanh qua sân giếng. Cả hai bước nhanh như chạy bao nhiêu, con chị càng bước khoan thai và chậm rãi bấy nhiêu. Nó vẫn còn hoang mang vì không hình dung được cảnh sẽ báo cho “trong đó” biết tin nó thi đậu ra sao và sẽ nhận những lời chúc mừng như thế nào. Trong ý tưởng, dù cho là tin vui hay buồn, đậu hay rớt, nó chỉ báo cho mẹ và em nó biết mà thôi. Bởi vì trong những giây phút vui vẻ hay đau buồn, chỉ có ba mẹ con nó là những người hiểu được nhau và chia sẻ với nhau. Đối với nó, nỗi buồn  do thất bại là sự thua thiệt mà nó cần giấu kín để rồi âm thầm cố gắng vượt qua trong những lần sau; còn thành công là phần thưởng mà cũng nên được giữ bí mật giữa ba mẹ con chúng như số lời mà mẹ nó giấu nhẹm mỗi ngày sau khi buôn bán. Trong ý nghĩ đơn giản, nó ao ước được thi đậu để mẹ nó không còn phải trả tiền học cho trường tư thục Lê Quý Đôn chứ chưa bao giờ nó nghĩ  đến chuyện báo cho đại gia đình họ Hoàng biết tin vui này.
                        Đến cửa sau của ngôi nhà lớn, bà mẹ mạnh dạn đưa hai chị em con nhỏ vào phòng tiếp khách riêng của bà nội mà không chờ một người nào mời ba mẹ con bước vào. Vui vẻ khôn xiết giữa đám người ngồi đứng ở trong phòng, bà mẹ hớn hở nói:
                        - Hạ, đến đây đi con! Đến trước mặt bà nội thưa cho bà nội biết tin vui của con đi!
                        Con chị ngập ngừng. Nó kinh ngạc nhìn bà mẹ. Lần đầu tiên nó thấy mẹ nó nói chuyện một cách tự nhiên đầy tự tin trước mặt mọi người trong gia đình nội, những người trong đại gia đình họ Hoàng, tại ngôi nhà lớn như thế. Theo ánh mắt và cái hất cằm của mẹ, nó tiến gần trước mặt bà nội và khoanh tay nói nhỏ nhẹ:
                        - Dạ thưa bà nội con đã được đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang rồi.
                        Bà nội mỉm cười, khoác tay bảo nó:
                        - Giỏi lắm, bà nội biết con đậu rồi! Đến đây với bà nội đi!
                        Nhận ra con Tín đang đứng bên trái cạnh cái ghế chạm trổ mà bà nội đang ngồi, nó líu ríu bước đến đứng bên phải của bà.
                        Bà nội kéo cánh tay nó và cánh tay con Tín đặt trước bụng, đưa ánh mắt đầy thú vị qua lại hai bên, nói cười vui vẻ:
                        - Năm ni bà có hai đứa cháu nội, ngoại đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang bà mừng còn hơn ai cho bà ngọc ngà châu báu! Chi cho sướng bằng có con cháu làm rạng danh ôn mệ. Con gái mờ giỏi hỉ! Hai đứa cháu gái của mệ giỏi hỉ!
                                    Cô Bảy Mỹ cười hỉ hả bên chiếc bàn nước:
                        - Năm ni số học sinh thi đông hơn năm ngoái mà trường Nữ Trung học Nha Trang nhận học sinh có giới hạn nên có nhiều đứa bị rớt lắm mạ nờ. Con của bà Tài tốn bao nhiêu tiền học thêm luyện thi mà có tìm thấy tên trong danh sách trúng tuyển mô.  Còn con bà Thục học ngày học đêm suốt cả tháng trời như con mọt sách cũng bị rớt. Mấy đứa con của mấy bà buôn bán trước đường Độc Lập mà con quen rớt sạch trơn, vậy mờ gia đình mình có tới hai đứa đậu! Đúng là gia đình mình có ơn phước ôn mệ!
                        Con Tín nghiêng đầu sau lưng bà nội chồm về phía con chị vồn vã hỏi:
                        - Trước khi thi vào trường Nữ Trung học Nha Trang, Hạ ghi phiếu màu xanh lá cây hay màu hồng vậy?
                        Con chị nhìn nó:
                        - Hạ ghi phiếu màu xanh lá cây. Được đậu, Hạ sẽ học sinh ngữ Pháp Văn.
                        Con Tín reo lên:
                        - Tín cũng ghi phiếu xanh lá cây! Cũng học Pháp Văn nữa! Vậy là hai đứa mình học cùng một lớp rồi.
                                    Từ phòng ăn, bà bác Cả gái bước vào:
                        - Thưa mạ, nhà có chuyện chi mờ vui dữ rứa?
                        Khuôn mặt bà nội tươi roi rói.
                        - Con Hạ và con Tín được đậu vào trường Nữ Trung học rồi! Hai đứa có tin vui nên vào báo cho gia đình hay đó mờ!
                        Đôi mắt bà bác Cả gái đã lớn bỗng như lớn ra thêm. Bà hỏi trong kinh ngạc:
                        - Trường Nữ Trung học Nha Trang đã ra thông báo chưa mờ biết tụi nó đậu?
                        Cô Bảy Mỹ gật đầu, nhanh nhẩu đáp:
                        - Dạ trường đã ra thông báo rồi. Sáng hôm nay tụi em đi xem kết quả thấy tên hai đứa trong danh sách, mừng quá nên tụi em thu dọn tiệm sớm hơn ngày thường một chút để vào báo cho mạ mừng.
                        Cô Bảy Mỹ vừa dứt câu, cô Sáu tiếp lời:
                        - Chợ Đầm hôm ni có buôn bán được chi. Thiên hạ xôn xao con đậu, con rớt như giặc náo loạn thiên đình. Nhưng mờ về sớm như hôm ni để biết con cháu thi đậu còn hơn là ngồi ngoài chợ ế.
                        Cô Út đang rót nước trà, nói vọng lại:
                        - Học tài thi vận chứ có chi đâu mờ ngạc nhiên? Thiếu chi đứa học giỏi mà rớt còn đứa học dở lại may mắn được đậu.
                        Bác Cả gái kéo một chiếc ghế ngồi đối diện trước mặt bà nội và mọi người bên bàn nước, nhăn mặt nói với cô Út:
                        - May mắn chi mờ may mắn! Nếu tụi ni không làm chi được thì mần răng người chấm bài cho điểm đậu? Năm ngoái thằng Minh Thành được đậu vào trường Võ Tánh, năm ni thằng Minh Trung lại đậu vào Võ Tánh nữa. Mấy đứa nớ không làm bài được chi thì có thi đậu được răng?
                                    Con chị kín đáo nhìn bà bác Cả. Khuôn mặt đỏ ửng của bà cho thấy là bà giận lắm. Cách đấy hai hôm, trường Võ Tánh ra thông báo kết quả thi tuyển và gia đình bác Cả vui mừng nhộn nhịp với tin thằng Minh Trung được thi đậu. Hân hoan, vui mừng chỉ là cái lệ của bà bác Cả bởi vì trong thâm tâm bà, bất cứ người cháu ngoại nào của bà đã đi thi thì tất phải đậu thôi.
                        Đứng bên con nhỏ em cạnh cửa phòng chị Hải Châu và Hải Yến, bà mẹ liếc nhẹ về phía cô Út, nói nhỏ:
                        - Có lẽ cháu Hạ đậu được vào trường công cũng nhờ may mắn thôi. Chứ cháu nó ốm yếu như vậy làm gì học bằng con người ta. Chỉ có năm lớp nhì không mà cháu còn phải học hai năm huống gì thi vào lớp đệ thất trường công. Có thể là vì cháu học hai năm lớp nhì nên có căn bản thi đậu vào lớp đệ thất của trường công lập không chừng?
                        Bà bác Cả nhìn thẳng vào mặt bà mẹ, cao giọng:
                        - Bài học và bài làm lớp nhì có giống lớp nhất mô nờ! Tui dạy học mấy năm tê tui biết mờ. Con Hạ ni đậu được là do nó có trí thông minh. Mang máu huyết họ Hoàng trong người, ai mờ không thông minh học giỏi!
                        Bà bác Cả vừa dứt câu, mọi người trong phòng trố mắt nhìn bà sững sốt. Câu nói cuối cùng của bà cứ như một lời ca cực kỳ thâm trầm và ý nghĩa đến độ nó ngân vang mãi trong lòng mọi người đang hiện diện tại căn phòng tiếp khách riêng của bà nội, đặc biệt là những người lớn. Bà nội lấy chiếc khăn mùi xoa trong túi áo chùi hai bên khóe môi dù chẳng có vết đỏ của trầu ăn nào. Ông chú Bảy Mỹ đưa mắt lơ láo qua khung cửa sổ, giả như chăm chú nhìn những con chim sẻ non đang chuyền cành. Cô Bảy Mỹ vuốt nhẹ sau lưng con Tín một cách không chủ đích. Bà mẹ hai đứa nhỏ, cô Sáu, cô Út cúi gầm mặt im lặng. Tất cả tỏ vẻ hổ thẹn vì đã không nhận ra những điều hay ho mà bà bác Cả vừa nêu. Có lẽ không ai ngờ được người chị dâu vị kỷ nhất và lạnh lùng nhất trong đại gia đình lại đề cao giá trị của huyết thống của gia đình chồng như thế. Cũng không ai tin được một người không có con trai nối dõi tông đường họ Hoàng như bà bác Cả lại tuôn ra những lời đầy mỹ ý đối với cái họ của gia đình chồng như vậy. Cho nên, lời nói của bà bác Cả không những tạo nên sự khâm phục mà còn làm dâng cao niềm xúc động trong lòng mọi người qua sự im lặng của họ.
                        Con chị ngẩng đầu lên. Nó bắt gặp ánh mắt thẳng thắn và trang trọng của bà bác Cả. Ánh mắt biểu lộ sự ngưỡng mộ thành thật giống như những lời đầy thiện ý mà bà vừa thốt ra. Nó chớp mắt và run run đôi môi. Nó định thốt ra hai tiếng cảm ơn như mẹ nó thường dạy khi nó nhận được món gì do những người lớn trong gia đình nội ban cho; thế nhưng, hai chữ này bị triệt tiêu ngay khi những ý nghĩ đối nghịch và mâu thuẫn hiện lên và đầy ắp trong trí của nó. Nó chợt rùng mình. Cảnh tượng bị thi rớt và câu nói “Mang máu huyết họ Hoàng trong người, ai mờ không thông minh học giỏi!” bị áp đảo bởi những câu “Lũ con ông Đạm là như rứa, có chi mờ lạ nờ! Có học hành chi mờ được thi đậu!”, “Cái lũ ngu nớ mờ! Suốt ngày chỉ lo chơi đất, chơi cát dơ dáy chứ học hành chi mô mờ được thi đậu?” Nó nuốt nước bọt và cúi mặt xuống. Cảnh tối tăm của những buổi tối ngồi học bên cạnh chiếc đèn dầu lù mù, cảnh tuyệt vọng đi tìm người giải cho những bài toán hóc búa, cảnh ngồi khóc âm thầm dưới gốc cây vú sữa cứ tuôn trào hiện ra.
                         Những cảnh tượng ấy làm cho nó cảm thấy cay đắng nhiều hơn những câu la mắng vừa nghe trong hồi tưởng. Nước mắt hoen trên mi, nó chua chát tự hỏi phải chăng sự thành công của bất cứ cá nhân nào trong đại gia đình này chỉ là do huyết thống và nổ lực riêng của người đó mà không cần sự hợp quần và khích lệ giúp đỡ của tất cả thành viên trong đại gia đình ấy? Phải chăng hoàn cảnh khổ sở túng cùng chẳng là vấn đề đáng được quan tâm? Phải chăng mọi người áp dụng câu “Sướng nhờ, khổ chịu!” để rồi ai được thành công thì được nêu danh trong cả họ, còn thất bại thì âm thầm chịu đựng một mình? Nó nghĩ đến một số bà con được thi đậu vào trường Võ Tánh và Nữ Trung học trước đó và những người bị thi rớt phải học ở các trường tư thục. Mọi người đề cập đến những món quà thưởng, những buổi liên hoan cho những người thi đậu nhưng chẳng có ai nghĩ đến chuyện chia buồn với những người thi rớt và những món quà tinh thần để họ vượt lên nỗi buồn khổ vì thất bại. Nó mơ hồ không rõ tập tục dành cho những người thi đậu được áp dụng trong đại gia đình họ Hoàng và không nhớ được bao nhiêu người trong giòng họ bị bỏ rơi khi họ bị thi rớt. Đứng giữa bao nhiêu người lớn trong đại gia đình, nó muốn hỏi nhiều câu với chữ vì sao nhưng nghĩ đến tuổi mười một, số tuổi còn con nít của mình, nó không muốn làm mất đi cái không khí trang trọng của buổi họp mặt.
                        Bà bác Cả hài lòng trước cái im lặng do tán đồng ngấm ngầm của mọi người. Bà hớn hở nói khi ông bác Cả bước vào phòng.
                        - Con Hạ đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang rồi đó anh. Anh có chi lo mờ thưởng cho nó đi!
                        Ông bác Cả nhướng cặp kính cận lên để l đôi mắt vui sáng:
                        - Rứa à? Giỏi hỉ! Rứa thì Hạ không còn phải học ở trường Lê Quý Đôn nữa rồi!
                        Con Tín nói:
                        - Con cũng đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang nữa đó cậu!
                        Ông bác Cả gật gù:
                        - Con đậu là đúng rồi. Con có khả năng và điều kiện. Còn Hạ đậu là do ba nó phù hộ!
                        Con chị đưa mắt kinh ngạc lên nhìn ông. Nó không tin những điều nó vừa nghe được. Nó thường nghe những người lớn trong đại gia đình họ Hoàng nói rằng ông bác Cả thường hay bông đùa qua những câu nói đầy ngụ ý, nhưng đề cập đến linh hồn ba của nó có nghĩa là ông cũng tin vào điều thần bí vô hình như nó thường âm thầm cầu nguyện ba nó những khi nó gặp khó khăn. Qua lời ông nói, nó thấy rõ là ông không tin vào khả năng mà nó có được và điều ông nghĩ trái ngược hoàn toàn với điều mà bà bác Cả khẳng định chỉ vài phút trước đó. Nó im lặng ngẫm nghĩ. Trước ngày trường Nữ Trung học Nha Trang thông báo kết quả học sinh đậu vào lớp đệ thất, ông bác Cả đã bàn với mẹ nó  chuẩn bị cho nó học tại trường tư thục Lê Quý Đôn trong khi ông chẳng mảy may bàn bạc với cô chú Bảy Mỹ về chuyện chuẩn bị cho con Tín học ở trường tư để đề phòng chuyện con Tín thi rớt. Có lẽ sức học của con Tín và sự giàu có của cô chú Bảy Mỹ đã không làm ông  quan tâm lo lắng như hoàn cảnh và khả năng của nó. Miên man với những ý nghĩ trong đầu, nó im lặng nhìn ông như những lần gặp mặt trước đây. Từ khi sinh ra đời cho đến lúc ấy, chưa bao giờ nó và ông nói chuyện hơn ba câu đối thoại. Cảm giác vui buồn lẫn lộn lâng lâng trong lòng, nó tiếp tục hòa theo cái im lặng của mọi người để lặng lẽ  nghe lời ông bác Cả nói với bà mẹ.
                        - Con Hạ được đậu vào trường Nữ Trung học là tốt rồi nhưng thím ráng lo cho nó học để nó được lên lớp mỗi năm bởi vì học ở trong trường Nữ Trung học không phải dễ đâu.
                        Bà mẹ gật nhẹ đầu:
                        - Dạ em sẽ cố gắng.
                        Ông chú Bảy Mỹ nhìn bà thương hại:
                        - Hay là chị đưa các cháu ra nhà ở với tụi em và phụ tụi em trông coi tiệm để cho con Hạ và con Tín đi học chung với nhau? Em sẽ thuê thầy dạy kèm cho hai đứa học thêm mỗi chiều cho hai đứa nó có căn bản.
                        Cô Bảy Mỹ lắc đầu:
                        - Con Hạ ni có chịu ở chung với mình mô nờ! Nó lại trốn về đây, nhịn đói, bệnh đau rồi mình lại bị mang tiếng nữa. Phải chi nó như người ta, cho mạ nó làm ăn thì đỡ rồi!
                        Bà mẹ phân trần:
                        - Dạo này tui buôn bán trái cây cũng được lắm cô chú à! Tui hùn vốn với mấy chị em quen thầu trái cây Sài Gòn bỏ cho mấy bà bán rong trên đường Độc Lập chứ không phải chỉ có bán lẻ ngoài chợ Đầm thôi đâu. Hàng Sài Gòn về lúc nào là tui bán hết lúc nấy nên tui cũng có lời cũng khá lắm chứ không như trước. Nhưng mà... nếu như buôn bán không được chăng nữa, tui cũng phải ở nhà với mấy cháu. Cháu Hạ ốm yếu, bị thiếu máu, tôi không đành tâm bỏ nó đi làm xa.
                        Cô Bảy Mỹ nghe bà mẹ nói vậy, không nói gì thêm. Cô mở cái ví da cá sấu, bảo con chị đến gần:
                        - Cô cho con một ít tiền gọi là quà thưởng con thi đậu. Con muốn mua chi thì mua tùy ý.
                        Con chị lí nhí:
                        - Con cảm ơn cô. Con sẽ đưa má con mua vải trắng may áo dài cho con đi học.
                        Cô Bảy Mỹ gật đầu và đứng lên theo ánh mắt ra hiệu của chú Bảy Mỹ:
                                    - Bây chừ tụi con phải đưa cháu về nghe mạ! Hôm nào tụi con mở tiệc ăn mừng cho con Tín, con sẽ mời mạ, mấy anh mấy chị và các cháu đến chia vui cùng gia đình con.
                        Cô chú Bảy Mỹ dắt con Tín bước ra khỏi phòng, ông bà bác Cả cũng quay lưng đi lên nhà trước. Vừa đúng lúc ấy, hai chị Hải Châu và Hải Yến dắt xe đạp vào sân gạch.
                        Dựng xe vào bức tường, chị Hải Châu hớn hở nói vọng vào nhà:
                        - Hạ đậu rồi phải không? Thấy chị đưa đi thi hên không?
                        Con nhỏ chị chạy vội ra đón hai chị. Nó rối rít nói:
                        - Em mừng quá chị Hải Châu ơi! Em không ngờ em được đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang.
                        Chị Hải Yến trao cho nó chiếc hộp chữ nhật nho nhỏ khi cả ba người bước vào phòng:
                        - Đây là quà thưởng em thi đậu của hai chị đó!
                        Con chị mở cái hộp có hình đàn cá bơi lội trong lớp nhựa ni lông trắng qua khoá nam châm. Nó reo lên:
                        - Hộp đựng viết. Em thích hộp đựng viết này lắm! Sao hai  chị biết em thích hộp đựng viết kiểu này vậy?
                        Chị Hải Châu nói:
                        - Hôm nọ thấy Hạ chơi mở ra đóng vào với cái khóa nam châm của hộp viết của chị, chị biết Hạ thích nó nên sáng nay sau khi ghé trường Nữ Trung học xem kết quả, chị nói chị Hải Yến góp tiền mua cho Hạ ngay.
                        Ông bác Cả trở lại với cuốn sách dày cm trên tay:
                        - Cuốn tự điển Pháp Văn ni là quà của bác cho con. Con sẽ học Pháp Văn tại trường Nữ Trung học Nha Trang chứ không học Anh Văn như ở trường Lê Quý Đôn cho nên cuốn tự điển này rất thuận lợi cho con.
                        Cô Út và cô Sáu cũng chìa tiền cho nó:
                        - Hai o thưởng cho con đây. Dành tiền mờ mua xe đạp đi học.
                        Con chị chưa kịp cúi đầu cảm ơn ai, bà nội kêu nó đến trước mặt:
                        -  Cái ni là tiền bà nội cho con. Bà nội cho con nhiều hơn cho con Tín vì dầu chi mạ hắn có của nhiều hơn mạ mi. Con cố gắng học giỏi thêm nữa để sau này được thi tú tài.
                        Lau nước mắt, bà nội nói tiếp:
                        - Tội nghiệp cho ba mi không còn sống để chứng kiến cảnh mi được thi đậu vào trường công Nữ Trung học Nha Trang.
                        Con chị cũng lau nước mắt như bà nội. Cúi đầu chào từng người để về nhà, nó rưng rưng khóc. Nghĩ đến người ba thân yêu đã mất, tim nó như bị xé nát.
                                    Trên đường về căn nhà nhỏ, hai chị em con nhỏ đi chầm chậm lùi xa hẳn sau lưng mẹ. Con em  hỏi nhỏ:
                        - Chị được thi đậu, có nhiều quà mà sao chị khóc vậy?
                        Con chị đáp với giọng trầm trầm:.
                        - Chị chỉ buồn vì không có ba để khoe với ba là chị được thi đậu thôi, chứ chị mừng lắm! Bởi vì được đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang là ước vọng của chị mà!
                        - Em cũng mừng cho chị nữa. Sang năm em cố gắng thi đậu vào trường Nữ Trung học Nha Trang để được học chung trường với chị và được mặc áo dài trắng.
                        Con chị gật đầu:
                        - Rồi hai đứa mình sẽ học cho đến khi tụi mình đậu tú tài.
                        Con em tán đồng ngay:
                        - Nhất định là mình phải cố gắng để thi đậu tú tài!
                        Ngước mắt lên nhìn những sợi dây điện giăng mắc trong những tàu dừa trên đầu khi hai đứa đi ngang sân giếng, con chị nói thêm:
                        - Rồi mình sẽ đi làm kiếm tiền để bắt điện riêng cho nhà mình sáng chứ không cần nhờ câu điện từ nhà hai bác Cả  nữa. Câu điện từ “trong đó” như hiện giờ nhà mình sẽ bị tăm tối “cả đời” mà thôi!
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                         
                        #42
                          Cung Thi Lan 26.08.2007 16:03:39 (permalink)
                               Chương Ba Mươi Lăm
                           
                           
                           
                           
                           
                           
                           
                           
                           
                          Những hoài bão và ước mơ thầm kín của hai chị em con nhỏ bị hủy diệt đi khi bà mẹ dắt một người đàn bà lạ về nhà và bảo chúng gọi bà ta là “Dì” Sáu. Buổi chiều hôm ấy, sau khi dọn dẹp các thứ đem từ chợ về, bà mẹ bảo hai đứa nhỏ dọn cơm cho “dì Sáu” ăn chung. Ngồi xung quanh mâm cơm với mẹ và “Dì” Sáu trên nền nhà, cả hai đứa nhỏ vừa im lặng nhai cơm vừa để ý nghe những lời đối thoại.
                          “Dì” Sáu rưng rưng, đưa tay áo lau nước mắt:
                          - Trời ơi, nếu không có chị cho tá túc em không biết đi đâu và cũng không biết ở đâu. Khi không mà bị tụi nó rút cái “bóp tiền” lúc nào không hay! Nếu mà không được ở đậu đêm nay chắc em chết quá. Đàn bà con gái mà lưu lạc nơi  không bà con thân thuộc như ở thành phố Nha Trang này em đâu biết phải làm sao?
                          Bà mẹ trao đũa cho dì Sáu, lắc đầu nói:
                          - Em ăn cơm đi đừng lo nghĩ gì nữa cả! Khi cái rủi đến thì không biết đâu mà ngừa cả em à. Cứ coi nhà “qua” như nhà của em vậy, đừng ngại gì cả! Tối nay ngủ đỡ với “qua” rồi sáng mai ra bến xe Ninh Hòa mà đón xe đi.
                          “Dì” Sáu uể oải chống đũa trên chén cơm, dàu dàu nét mặt:
                                      - Nhưng mà em đã bị mất hết tiền nên không thể nào mua vé về Ninh Hòa được nữa. Má em đang đau nặng và đang chờ em từng giờ từng phút ... vậy mà mới đi từ Suối Dầu xuống đây đã bị kẹt ở đây rồi.
                          Bà mẹ đưa ánh mắt thương hại nhìn  “Dì” Sáu:
                          - Không sao, lo ăn cơm đi! “Qua” sẽ cho em tiền đi xe.
                          Lời nói của bà mẹ với dì Sáu không được nhắc lại đến lần thứ hai nhưng đối với hai đứa nhỏ đó là lời hứa chắc chắn. Hai chị em nó nhìn nhau bàng hoàng. Cử chỉ rộng rãi và phóng khoáng của mẹ và đôi mắt tí hí không ngừng lén lén lút lút liếc ngang liếc dọc của người đàn bà lạ khiến chúng không an tâm. Cả hai đứa đều muốn nói cho mẹ biết những gì chúng cảm nhận và báo cho bà cảnh giác người đàn bà lạ hiện đang có mặt trong nhà nhưng chẳng đứa nào dám mở lời ra sao. Trong cách dạy của bà mẹ, phận làm con  khi nghe cha mẹ chuyện trò là phải tìm cách lảng đi chỗ khác. Ăn cơm chung mâm, được nghe lỏm chuyện của người lớn quả là quá đáng rồi huống hồ chen vào câu chuyện. Hai con nhỏ nhai cơm chậm rãi. Chúng đưa mắt, ngầm nói với nhau là người đàn bà xa lạ trước mặt không có chút gì thành thật bởi vì khi bà ta nói chuyện, đôi mắt của bà không bỏ sót một nơi nào trong căn nhà.
                          Không để ý ánh nhìn mất thiện cảm của hai chị em con nhỏ,  đôi mắt của  “dì Sáu” đang buồn bã bỗng tươi sáng hẳn lên:
                          - Như vậy thì em đi ơn chị nhiều lắm.
                          Bà mẹ cười xuề xòa:
                          - Ơn nghĩa gì em ơi. Người với người giúp nhau là chuyện thường. Như “qua” đây cũng cực khổ đắng cay nhiều thứ lắm cho nên bây giờ thấy ai khổ là “qua” giúp ngay.
                          “Dì” Sáu nói nhanh:
                          - Chị ăn ở có phúc đức như vầy thì sau này không sợ khổ đâu!
                          Bà mẹ gật đầu:
                          - “Qua” cũng ráng tích phước để sau này đời con cháu qua sướng hơn qua chứ đời qua khổ quá rồi em à, có khổ nữa cũng chẳng thấm gì đâu!
                          “Dì” Sáu đảo mắt nhìn khắp mọi nơi trong nhà.
                          - Sao vậy chị? Có nhà ở thành phố như vầy là sướng lắm rồi đâu đến nỗi như ở miền thôn quê như chỗ Suối Dầu của em.
                          - Quê của “qua” ở Tuy Hòa chứ đâu phải ở Nha Trang đâu em! Theo chồng vào đây “qua” chịu bao nhiêu cay đắng với gia đình chồng chứ có sung sướng gì ở nơi thành phố này! Ngày chồng của “qua” chết, “qua” chỉ có trong tay một đứa con lên ba và một đứa chập chững biết đi.  Đó! Bây giờ hai đứa nó lớn được chừng này rồi đó em.
                          Hai đứa nhỏ cúi dầu, đưa mắt nhìn xuống mâm cơm, vội vã gắp thức ăn. Linh tính cặp mắt của người đàn bà lạ đang nhìn dò xét,  cả hai cùng tỏ vẻ chăm chú ăn cơm. Chúng không muốn trả lời bất cứ câu hỏi nào của bà ta.
                          Tiếng bà mẹ đều đều:
                          - Em biết không! Chồng chết, hai đứa con nhỏ ở hai tay, “qua” phải lây lất làm việc kiếm sống qua ngày chứ biết nhờ được ai. “Qua” khổ đến nỗi là ngày cha của “qua” bệnh nặng mà “qua” không có được một đồng về mua vé về thăm, bị bà con xóm làng chửi rủa. Bây giờ nhìn thấy cảnh em như vầy, qua thương lắm. Thôi ăn cơm đi rồi qua đưa cho tiền mai đi xe. Tối nay ngủ với “qua”, “qua”kể cuộc đời của “qua” cho em nghe.
                          “Dì” Sáu ưng thuận gật đầu, bình thản ăn cơm như người thân quen khá lâu với gia đình ba mẹ con hai đứa nhỏ.
                          Cơm nước xong, bà mẹ chuẩn bị đèn dầu cho buổi tối. Ngọn đèn vừa sáng lên, bà bảo dì Sáu ngồi cạnh rồi lục trong chiếc giỏ nhựa mà bà thường đem đi chợ để lấy ra một gói khăn mù xoa vuông vắn.
                          Hai đứa nhỏ đang thu dọn chén bát, không quên liếc nhẹ về phía họ. “Dì Sáu” ngồi xếp bằng, thẳng lưng nhìn chăm chú gói khăn mù xoa mà bà mẹ đang mở ra. Một xấp tiền dày cm vuông vắn nằm ngay giữa trung tâm chiếc khăn tay vuông vắn màu xanh mực được mở rộng. Những vết nếp gấp trên khăn cho biết bà mẹ đã cẩn thận xếp cất gói tiền khá chu đáo và trân trọng. Những tờ bạc màu xanh lá cây và hồng nhạt trong xấp tiền được xếp đè xuống có thứ tự chợt bung ra cho biết những tấm giấy tiền lớn ở bên ngoài và những tấm giấy tiền nhỏ ở bên trong. Rút vài tờ bạc từ bên trong, bà mẹ trao cho “Dì” Sáu:
                          - “Qua” cho em số tiền này để em mua vé xe. Ngày mai lo mà
                          về cho kịp thăm má chứ má em trông tội nghiệp! Già cả bệnh hoạn không biết trăm tuổi lúc nào!
                          “Dì” Sáu cầm tiền, run run nói:
                                      - Số tiền này đủ cho em mua vé xe rồi. Em đi ơn chị. Thật tình là em không biết bao giờ mới trả được cái ơn này cho chị.
                          Bà mẹ vui vẻ:
                          - Có gì đâu mà ơn nghĩa! Làm phước được là “qua” vui lắm rồi! Ráng về đó lo cho bác mạnh khỏe hôm nào rảnh ghé nhà “qua” chơi. Biết đâu ngày nào “qua” đi mua trái cây vườn ở Suối Dầu, “qua” biết nhà em không chừng!
                          “Dì” Sáu đáp lại một cách mau mắn:
                          - Dạ phải đó chị! Khi nào em lo cho má em xong,  em ghé lại đây đưa chị và hai cháu lên nhà em chơi cho biết nhà.
                          Bà mẹ nói dịu dàng:
                          - Thôi giờ em lo rửa ráy đi mà đi nghỉ, ngày hôm nay lo kiếm tiền mất chắc cũng mệt lắm rồi.
                          “Dì” Sáu nghe lời bà mẹ hờ hững bỏ mấy tờ giấy bạc vào cái giỏ da nhỏ của bà. Bà mẹ nhìn theo cử chỉ của “Dì” Sáu, cảnh cáo:
                          - Em bỏ tiền “tâm lơ tâm lất” như vậy hèn chi mà không bị tụi nó lấy cắp. Có tiền thì gói vào khăn hay vải gọn như “qua” vầy nè! Gói vầy mới không bị ai để ý lấy!
                          “Dì” Sáu cười bẻn lẻn:
                          - Ừ há! Em không nghi ngờ ai lấy cắp tiền của của mình nên ít khi để ý mấy chuyện nhỏ nhặt này lắm chị à. Thôi để em nhét kỹ vào dưới mấy cái áo này cho chắc ăn.
                          Mơ hồ với những lời đối thoại của hai người, hai đứa nhỏ lặng lẽ làm những công việc theo thói quen hàng ngày. Dọn dẹp chén bát xong, hai đứa sửa doạn đi tắm, học bài rồi đi ngủ.
                          Tối hôm ấy, để tạo điều kiện cho dì Sáu quen với chỗ mới mà có thể đi lại dễ dàng nếu dì có thói quen tiểu tiện ban đêm, bà mẹ đã chuẩn bị chiếc đèn con vịt trên cái ghế gỗ cạnh giường. Ánh đèn dầu đủ làm rõ lối đi từ giường ra ngoài cửa ra vào và lờ mờ một vài nơi trong “buồng ngủ”. Ánh sáng của đèn làm cho hai đứa nhỏ xa lạ với ánh sáng khi nằm ngủ dù là ánh sáng chập chùng và nhỏ bé. Cả hai chị em đều trăn trở trên giường. Nhìn chán chê lên cái trần mùng, chúng lăn lộn với những chiếc gối ôm. Có lúc chúng nằm đối diện nhau và nhìn nhau chằm chằm. Chúng muốn trao đổi với nhau những điều mà chúng nghi hoặc về người đàn bà xa lạ hiện đang ngủ chung trong căn nhà của chúng nhưng chẳng đứa nào dám mở miệng ra bởi vì mẹ chúng và người đàn bà lạ kia đang nằm ngủ chung trên cái giường sát cạnh giường của chúng. Hai người đàn bà xầm xì hàng giờ để tâm sự bao nhiêu chuyện mà họ có được. Tiếng nói đều đều của họ đã làm cho hai đứa nhỏ xao lãng chuyện suy tư và những tia sáng lờ mờ từ ngọn đèn dầu đã làm cho chúng  chìm nhanh vào giấc ngủ.
                           Con chị đang cùng em đắm chìm trong giấc ngủ êm đềm bổng giựt mình thức giấc bởi những tiếng gọi thất thanh của bà mẹ:
                                      - Sáu ! Sáu! Sáu đâu rồi em?
                          Con chị giật mình, nhỏm người dậy. Nó thò đầu ra khỏi mùng:
                          - Má tìm “Dì” Sáu hở má? Coi chừng dỉ đi xuống nhà tắm để đi tiểu đó má à!
                          - Không có! Má thức dậy thấy nhà cửa mở “tạch bách” nên đi xuống nhà bếp và nhà tắm tìm dỉ nhưng không thấy dỉ đâu.
                          Con chị bước ra khỏi giường:
                                      - Để con kêu thử coi dỉ ở đâu.
                          - Bây giờ mới bốn giờ sáng, kêu lớn tiếng, “trong đó” sẽ la mình bất lịch sự, làm náo động không cho ai ngủ. Hay là con ra phía trước nhà mình xem dỉ có đi lộn ra trước để đi tiểu không?
                          Nghe lời mẹ, con chị vội vàng đi ra phía trước nhà tìm dì Sáu. Sân đất giữa mặt trước của căn nhà và bức tường thành vắng lặng. Không thấy người đàn bà có tên “dì Sáu”, nó đi vòng ra giếng rồi vòng lại nhà bếp. Nó quên bẵng là nó đã đi một mình trong vườn giữa lúc màn đêm còn vây kín không gian. Có lẽ điều mà nó lo lắng và bận tâm lúc đó chỉ là sự biến mất đột ngột của một người đàn bà xa lạ trong nhà nó vào lúc nữa đêm chứ không phải là sự nguy hại nào đó có thể xảy ra cho bản thân cho nên nó đã thực hiện ngay lời mẹ yêu cầu. Tìm mãi mà không thấy được “Dì” Sáu, nó buồn bã đi vào nhà báo mẹ:
                                      - Con không thấy “Dì” Sáu đâu cả mà à!
                          Không trả lời con, bà mẹ chăm chú lục lọi các thứ đồ đạc trong chiếc giỏ nhựa rồi bỏ tất cả vương vải trên nền nhà bên cạnh chiếc đèn dầu nhỏ. Lật úp chiềc giỏ nhựa cho bao thứ còn lại bên trong rơi xuống hết, bà nói một mình trong hốt hoảng:
                          - Chết rồi! Chết tôi rồi trời ơi! Cái gói tiền của tôi đâu mất rồi!
                                      Linh tính có điều gì chẳng lành, con chị  sà đến ngồi  sụp xuống bên mẹ. Quan sát từng cử chỉ của bà một lúc, nó vội bước đến phòng thờ châm chiếc đèn dầu lớn đem lại:
                                      - Con nghĩ là bà dì Sáu đã ăn cắp gói tiền của má rồi!
                          Không đáp lại lời nó, bà mẹ vò đầu bứt tai, tiếp tục nói một mình:
                          - Trời ơi! Con ngu quá rồi trời ơi! Tại sao con lại tin mà cho người lạ vào ngủ trong nhà như vậy hở trời!
                          Cuống quít, quơ quơ, quào quào các thứ trên nền nhà, bà nói vội vã với con chị :
                          - Đâu? Đâu rồi? Đâu rồi? Hạ ơi! Con lục từng thứ một trong cái giỏ này coi má có nhét lộn gói tiền đâu không chứ nghi ngờ mà người ta không có làm cũng mang tội nữa con à!
                          Con chị vội vàng làm theo ý mẹ. Trong khi lật từng thứ  trên nền nhà để tìm gói tiền, nó nói chậm và rõ từng chữ một:
                          - Con nghĩ là “Dì” Sáu đó đã lấy tiền của má và trốn đi rồi. Nếu không, dì đi đâu? Nhà mình nhỏ xíu như vầy, dì ở đâu trong nhà mà mình không biết? Nếu dỉ có ra ngoài sân, mình kêu nhỏ dỉ cũng nghe được để vô nhà chứ đâu cần phải đi tìm!
                          Đôi bàn tay của bà mẹ đang lùng sục trong mớ đồ một cách hấp tấp bỗng ngừng lại một cách đột ngột. Bà mẹ ngửng đầu lên, chăm chú nhìn vào mặt con chị:
                          - Có phải là con đã có lòng nghi “Dì” Sáu là người không thật thà rồi phải không?
                          Con nhỏ chị vừa chớp mắt gật đầu, bà mẹ la ngay:
                          - Biết người ta gian xảo, tại sao không nói cho má biết để má đề phòng?
                          Con nhỏ chị nói lớn và nhanh như trả bài thuộc lòng cho cô giáo:
                          - Má đâu có hỏi con? Má luôn luôn dặn tụi con là không được xen vào chuyện người lớn, con đâu dám nói chen vào khi má nói chuyện với dỉ? Với lại, má cũng hay dặn tụi con là đừng bao nghi ngờ ai, phải biết cái gì chắc chắn và rõ ràng mới nói nếu không sẽ bị mang tội ... cho nên chiều hôm qua con không biết là con nghi ngờ có đúng không nữa.
                                      Nhìn những bóng cây thấp thoáng xa xa trong vườn, con chị chợt quay đầu ra sau nhìn về phía giường bà mẹ và hạ giọng nói nhỏ:
                          - Mà coi chừng dỉ còn trong nhà đó má! Coi chừng dỉ còn nằm ở trên giường, nghe mình nói xấu như vầy là chết! Chứ từ nhà mình ra đến cổng trước phải qua khu vườn nội, dỉ mà đi ra thì bị mấy con chó Lu Lu, con Vàng và con Mi Nô cắn chết.
                          Bà mẹ nghe lời nó, rọi chiếc đèn về phía sau, nói to:
                          - Nó đâu có ở trong nhà mình nữa mà sợ chớ! Má đã kiếm nó trước khi con thức dậy rồi mà! Rõ ràng là má đã nhét gói tiền trong giỏ này tối hôm qua mà bây giờ mất đi đâu?
                           Đặt chiếc đèn xuống nền xi măng, bà mẹ nhìn ra ngoài vườn, chau mày:
                          - Mấy con chó nhà nội không cắn “con đoảng hậu ăn cắp” này đâu. Nó đã âm mưu trước rồi! Tưởng là chiều hôm qua, khi nó mới vô nhà, nó cho mấy miếng bánh dư cho mấy con chó ăn là vì nó không muốn bỏ thức ăn thừa sợ bị mang tội, ai ngờ bây giờ mới biết nó làm vậy để cho mấy con chó quen hơi tay của nó!
                          Con chị lắc đầu:
                          - Mà mấy con chó cũng không cắn dỉ đâu! Bởi vì “dỉ” đi từ nhà mình ra cổng, tụi nó tưởng “dỉ”  là má.
                          Bà mẹ không nói gì thêm. Bà lặng lẽ chống hai cánh tay lên đầu gối ôm đầu, khóc nức nở. Con chị lưỡng lự một lúc rồi giúp mẹ thu dọn từng món bỏ vào chiếc giỏ nhựa của bà. Nó hỏi trong lo lắng:
                          - Như vậy má không còn tiền mua bán nữa sao hả má?
                          Bà mẹ nghẹn ngào trả lời:
                                      - Má còn hàng với mấy dì, nếu bán chia ra vẫn còn có tiền; nhưng mà nếu mua nhiều hàng từ Sài Gòn phải cần tiền nhiều mới hùn với mấy dỉ được.
                          Thu hết can đảm, nó hỏi tiếp:
                          - Vậy má có còn “vốn” gì để bán lấy tiền mà buôn bán với mấy người bạn hàng của má không?
                          Bà mẹ giật nẩy mình khi nghe con chị nhắc chữ vốn. Bà hốt hoảng chạy vào tủ đựng quần áo cạnh đầu giường của hai chị em con nhỏ, kêu la rối rít:
                          - Chết rồi! Chết rồi! Cầu trời thương xót con đừng cho nó biết cái chỗ này.
                          Con chị bàng hoàng trước hành động kỳ lạ của mẹ. Linh cảm có một cái gì ghê gớm đang xảy ra cho gia đình, nó run run đứng lên để theo mẹ đến tủ đựng áo quần.
                          Bà mẹ liên tục rít lên những tiếng kêu than:
                          - Trời đất ơi! Chết rồi! Trời ơi là trời ! Tui mất hết thật rồi. Không còn ở chỗ này nữa rồi! Rõ ràng tui để chỗ này mà mất tiêu rồi!
                          Vừa lật từng chiếc áo rách và giẻ rách, bà tiếp tục lẩm bẩm một mình:
                          - Mới ngày hôm kia tui còn gói thêm vào năm phân vàng và chính tay tui giấu ở dưới đống áo quần rách này mà bây giờ không tìm ra. Giấu trong đống giẻ rách dưới hốc kẹt này mà sao nó biết như thần vậy trời?
                          Lật đật và rối rít lục loại dưới kẹt tủ, bà mẹ vùng vẫy, rên khóc như một người mất trí. Sau khi giũ giũ, xổ xổ đống giẻ rách và áo quần cũ, bà thét to lên như bị ai đâm vào người:
                          - Trời ơi! Cái quân vô hậu! Cái quân vô lương tâm! Ai ngờ đưa nó vào nhà cho ăn, cho ở, cho tiền mà nỡ lòng nào nó cướp hết của của tôi như thế này nè trời!
                          Con chị run rẩy tựa sát người vào cánh cửa tủ. Kinh hoàng trước cảnh mẹ tự dày vò một cách thương tâm, nó hốc miệng ra, cứng người chết trân, chết lặng.
                          Bất chợt, bà mẹ tung mớ áo quần cũ lên xuống khắp nơi xung quanh chỗ bà ngồi, rồi đập đầu trên nền xi măng la khóc:
                          -Trời ơi là trời! Con mất hết rồi! Con mất hết rồi trời ơi! Cho con chết đi cho rồi! Con còn sống làm chi nữa! Bao nhiêu mồ hôi nước mắt con dành dụm đã mất sạch sẽ rồi!
                          Con chị hốt hoảng kéo mẹ lên, la khóc vang khắp nhà:
                          - Má ơi má! Đừng làm như vậy má ơi! Đừng chết bỏ tụi con! Đừng chết bỏ tụi con má ơi! Tội nghiệp tụi con lắm má ơi!
                          Tiếng la của nó lớn và kinh đảm đến nỗi đánh thức con em dậy và tỉnh hẳn cơn ngái ngủ. Nhìn thấy mẹ lăn lộn trên nền nhà, con em chồm đến ôm bà, khóc nức nở:
                                      - Má đừng làm như vậy nữa! Đừng làm như vậy nữa má ơi! Con sợ lắm! Ngừng đi! Ngừng đi má!
                          Bà mẹ vùi mặt trên nền xi măng, rên rỉ một cách tuyệt vọng:
                          - Quân lường gạt giết má chết rồi các con ơi. Nó lấy hết tiền, lấy hết của cải của mẹ con mình rồi!
                          Con chị gạt nước mắt không ngừng. Nó nói với con em trong tiếng khóc nức nở:
                          - “Dì” Sáu ăn cắp tiền của má trốn đi rồi Vy ơi!
                          Bà mẹ ngẩng đầu lên nhìn hai đứa nhỏ với đôi mắt thất thần, và nghẹn ngào trong từng lời nói:
                          - Đâu có phải là chỉ mất tiền thôi đâu con! Má mất hết vàng bạc luôn rồi.
                          Con chị rụng rời như bị ai chặt từng khớp tay chân. Nó run rẩy hỏi:
                          - Có phải ... có phải má muốn nói là tất cả vốn của nhà mình đều bị “Dì” Sáu lấy cắp không? Vàng bạc hồi môn của tụi con cũng mất luôn hả má?
                          Bà mẹ nức nở:
                          - Đúng rồi con ơi! Vốn, tiền của gia đình mình đều bị lấy cắp hết rồi!
                          Con em ngơ ngác hỏi:
                          - Má nói là tụi con mất hết mấy sợi dây chuyền và chiếc lắc mà tụi con hay đeo trong ngày những ngày tết ta đó hả má?
                          Con chị đáp thay mẹ:
                          - Đúng rồi đó em! Mình mất hết tiền, hết vàng bạc rồi! Chắc chắn là “Dì” Sáu này lấy của cải của nhà mình chứ không phải ai nữa đâu! “Dì” Sáu này ác quá!
                          Con em hỏi rối rít:
                          - Mà má đã biết nhà dỉ chưa? Má có biết nhà dỉ để đi đòi lại không?
                          Bà mẹ gạt nước mắt, lắc đầu:
                          - Nó gạt má nên dựng chuyện nói láo đủ thứ, chưa chắc gì nó ở Suối Dầu đâu! Mà Suối Dầu rộng lắm, biết đâu mà tìm!
                          Nhận ra hai khuôn mặt đầy lo lắng và tội nghiệp của hai đứa nhỏ, bà mẹ đập hai tay vào đầu khóc sướt mướt:
                          - Tại sao trời không cho con biết nó là thứ lường gạt để con phải gặp cảnh như vầy hả trời? Con bắt các con của con nhịn ăn, nhịn mặc bao nhiêu năm nay mà chỉ “mấy giờ mấy phút đồng hồ” thôi là bị quân vô lương lấy hết trơn. Tại sao con ngu vậy hả trời?
                          Con chị nhìn mẹ thương hại:
                          - Thôi má đừng buồn nữa. Khi nào lớn lên con sẽ kiếm nhều tiền mua lại cho má.
                          Bà mẹ  sụt sùi lắc đầu:
                          - Chờ con lớn đến chừng nào? Làm sao má có tiền để hùn vốn với mấy dì bán sỉ nữa đây? Làm sao má có tiền để đóng tiền học cho em con?
                          Con em cúi đầu. Lời nói của bà mẹ khơi lại niềm đau của nó. Vì bị thi rớt kỳ thi tuyển vào lớp đệ thất của trường Nữ Trung học Nha Trang nên nó phải học tại trường Lê Qúy Đôn. Mặc dù số tiền học phí được giảm năm mươi phần trăm nhưng giá tiền học phí vẫn còn rất lớn đối với sự thu nhập ít ỏi của bà mẹ cho nên bà phải tần tảo làm việc vất vả để lo đóng tiền học hàng tháng cho nó. Mỗi sáng đi học cùng chị ngang trường Nữ Trung Học Nha Trang, con em thường nhìn vào khuôn viên trường Nữ Trung Học Nha Trang một cách thèm khát. Nó ao ước được mặc áo dài trắng như chị của nó và được đứng dưới những hàng dương. Thế nhưng mỗi lần đi học, nó phải lội bộ ngang trường Nữ Trung Học Nha Trang trước khi băng qua con lộ Lê Thánh Tôn để đi đến trường tư  thục Lê Quý Đôn.
                          Con chị thở dài. Nó ái ngại nhìn em một lúc rồi nhìn ra ngoài cổng. Trời bắt đầu sáng và những khóm hoa trước nhà bác Cả chờn vờn trong gió. Hoa lá như đang chuẩn bị đón những tia nắng sớm của buổi bình minh. Bỗng nhiên, những cành hoa hoàng anh bên vách hiên nhà bác Cả được tém qua một phía và “Dì” Sáu tươi cười đang đi về phía căn nhà nhỏ. Khuôn mặt của “Dì” Sáu càng lúc càng hiện ra lớn dần ngay sát mặt con chị.
                          - Dẹp mấy thứ này dùm má, rồi chuẩn bị đi học đi con!
                          Giật mình, con chị chớp mắt. Khuôn mặt tươi cười của “Dì” Sáu biến mất đi đâu chỉ còn lại khuôn mặt hốc hác và đôi mắt đỏ hoe của bà mẹ.
                           
                           
                           
                           
                          #43
                            Cung Thi Lan 26.08.2007 16:08:03 (permalink)
                                 Chương Ba Mươi sáu
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                            Vừa đặt chiếc giỏ xuống nền nhà, bà mẹ vui vẻ bảo hai đứa nhỏ:
                            - Hạ Vy mau ra lấy thức ăn dọn ra cho má để má lau dọn bàn thờ và sắp xếp hoa quả cúng.
                            Hai đứa nhỏ hớn hở vây quanh bà, hỏi rối rít:
                            - Ủa hôm này ngày gì mà má mua đồ nhiều dữ vậy?
                            - Hôm nay có giỗ hả má?
                            - Không phải con à! Tại lâu quá má không cúng kiến gì nên có dịp  là má lo cúng kính đàng hoàng chứ để bàn thờ trống không hoài! “Thờ mà không phượng” tội lỗi quá!
                            Con em lăng xăng giúp mẹ lấy mấy cái rổ. Nó nói không ngừng:
                            - Trời ơi, đã có bánh ít, mà còn có bánh nậm, bánh cam, bánh tiêu, chè đậu. Còn gì đây? Ô! chả lụa! Còn mấy gói lá này là nem chua, gói này là bún với chả cá, còn gói này là thịt quay. Sao đủ thứ đồ ăn vậy má?
                            Bà mẹ nhắc nó:
                            - Để mấy thứ thức ăn xa mấy trái cây cúng Phật đi. Đừng để thịt thà mắm muối dính đồ cúng Phật không nên.
                            Con em há hốc nhìn những trái táo Mỹ đỏ bóng, những trái lê vàng mọng nước, những trái cam xanh có cành lẫn lá và những trái đu đủ chín hườm tươi còn mủ đầy trên đầu cuống. Nó nuốt nước miếng, hỏi:
                            - Sao hôm nay má cúng trái cây sang quá vậy hả má? Thường ngày má chỉ cúng có chuối mốc thôi hà! Hoa này cũng là hoa sang nữa! Hoa lay ơn chứ không phải hoa huệ thường như mấy bữa trước.
                            Con chị thú vị nhìn những  thứ thức ăn do bà mẹ bày trong ba cái rổ. Nó cảm thấy yên tâm vì không còn phải nghe những tiếng than van, rên rỉ và hình ảnh sầu não của mẹ từ sau cái buổi kinh hoàng do “dì”  Sáu gây ra. Nó mỉm cười tin chắc là mẹ nó đã gặp lại dì Sáu tại chợ Đầm và đòi được lại toàn bộ những của cải mà bà đã bị lấy cắp. Vui vẻ cùng em phụ mẹ, nó líu lo với con em về những món ăn mà chúng sẽ có được trong buổi cơm chiều hôm ấy.
                            Khi ba mẹ con quây quần xung quanh mâm cơm, bà mẹ niềm nở nói nói cười cười:
                            - Ăn đi con ! Ăn đi! Các con ăn cho đã chứ mấy hôm nay má không mua gì cho các con ăn hết! Tội nghiệp!
                            Con em giục bà:
                            - Má cũng ăn đi! Má ăn với các con đi cho vui!
                            Bà mẹ lắc đầu, mỉm cười:
                            - Má vui quá nên đâm ra no mà không ăn nổi nữa!
                            Con em nằn nì:
                            - Ăn đi mà! Ăn với con đi mà má!
                            Con chị cười thật tươi khi nó hỏi bà mẹ:
                            - Dì Sáu trả lại tất cả tiền và nữ trang cho má rồi phải không má? Con biết chắc chắn là vậy!
                            Khuôn mặt bà mẹ đang vui bỗng sa sầm:
                            - “Cái con đó” gạt má đi luôn rồi chứ đâu có tìm gặp má làm gì nữa đâu con. Đừng nhắc kẻ lường gạt đó nữa. Má mà nghĩ đến chuyện mất của là má điên đầu!
                            Con chị chau mày. Nó ngạc nhiên hỏi:
                            - Vậy má có tiền đâu mà mua nhiều thứ quá vậy?
                            Đưa đôi đũa chỉ vào các đĩa thức ăn trên mâm, bà mẹ vồn vã bảo nó:
                            - Ăn đi! Ăn đi rồi từ từ má kể cho nghe.
                            Con chị gắp thịt vào chén nhưng vẫn dán chặt đôi mắt trên khuôn mặt mẹ để chờ nghe câu chuyện của bà. Bà mẹ nhìn nó và nói:
                            - Má không làm chuyện gì bậy bạ để lấy tiền mua thức ăn cho các con đâu mà sợ! Má mới trúng số đó! Ăn đi!
                            Con chị cười bẻn lẻn, gắp thức ăn:
                            - Đâu có bao giờ con nghĩ má làm chuyện xấu để kiếm tiền đâu! Nhưng mới ngày hôm qua má còn than khóc là không có tiền mà bây giờ lại mua thức ăn cho tụi con quá nhiều nên con ngạc nhiên đó chớ!
                            Con em đang nhai cơm bỗng ngưng lại hỏi:
                            - Má trúng số nhiều tiền không mà mua nhiều  đồ vậy?
                            - Má trúng tới một ngàn tư lận!
                            - Một ngàn tư! Trời ơi một ngàn tư là mua được mấy phân vàng rồi phải không má?
                            Con chị cũng nói cười vui vẻ như con em:
                            - Trời ơi má có đến một ngàn tư! Trúng số đến một ngàn tư là má hên quá rồi. Nhưng sao má không để dành tiền làm vốn buôn bán. Ăn hết tiền rồi làm sao có cho những ngày sau?
                            - Không sao, má vẫn còn tiền mà! Nhưng mà... từ nay về sau má không tằn tiện nữa. Chẳng thà má để cho các con ăn xài chứ không bắt các con nhịn ăn nhịn mặc để  rồi bị gạt mất tiền như trước nữa đâu
                            Con chị vừa nhai cơm vừa ngẫm nghĩ. Nó nhớ quầy bán vé số Kiến thiết ở góc đường trước rạp hát Tân Quang nơi nó thường đi ngang để đến trường. Cứ mỗi sáng thứ tư, những tờ vé số có in hình màu, in mộc dấu và in giá tiền bị xé bỏ và xả vung vãi đầy trên nền đất trước quầy bán đã gợi sự tò mò của nó và nó đã từng nhặt hai ba tờ để xem chơi.
                            Nó gật gù nói:
                            - Con thấy tờ giấy số Kiến Thiết chỉ có hai đồng thôi mà má trúng tới một ngàn tư thật là hên cho má quá đi!
                            - Má đâu có trúng số kiến thiết!
                            - Ủa! vậy chớ mà trúng số gì?
                            - Má trúng số đề.
                            - Số đề? Hồi giờ con chưa nghe ai bán số đề hết, chỉ thấy người ta bán số Kiến Thiết không hà!
                            - Số đề là số mà mấy người chủ cái ghi phiếu cho mình khi mình mua một con số bao nhiêu tiền chớ đâu phải là số Kiến Thiết.
                            - Vậy số đề là số mà người ghi ra ở giấy chứ không phải mấy tờ giấy số có hình như ở mấy chỗ bán vé số  hả má?
                            - Ừ. Số Kiến Thiết là của chính phủ quốc gia phát hành còn số đề này chỉ ghi lậu thôi. Cảnh sát mà bắt được chủ cái thì bỏ tù chủ cái ngay.
                            Con chị trố mắt, chau mày:
                            - Lậu? Cảnh sát bắt? Đánh số đề mà “chùng chùng lén lén” tránh né cảnh sát như vậy thì má đánh làm chi? Sao má không mua vé số Kiến thiết có hơn không?
                            Bà mẹ lắc đầu:
                            - Đâu có ai trúng số Kiến Thiết nhanh như số đầu và số đuôi của số đề này đâu mà mua làm gì!
                            Con chị lắc đầu:
                            - Con không hiểu mấy cái số này. Gì mà số đề rồi lại số đầu, số đuôi!
                                        Bà mẹ ngưng nhai cơm, nói với nó:
                            - Con cũng đừng tìm hiểu về mấy cái số đó làm gì. Đánh số đề này là cờ bạc mà.
                            - Cờ bạc? Sao má biết cờ bạc mà má còn đánh số đề?
                            - Bởi vì má thấy mấy dì bạn hàng đánh, má cũng đánh thử một lần cho biết mà thôi chứ đâu ngờ đánh một lần là trúng liền như vậy!
                            Con chị ngừng nhai, vừa suy nghĩ, vừa nói:
                            - Hôm nay là thứ ba. Chiều hôm nay có xổ số Kiến thiết mà má lại trúng số đề như vậy là số đề này có liên quan đến số Kiến Thiết hả má?
                            - Đúng rồi. Hai con số đầu tiên mà số kiến thiết xổ số đề gọi là số đầu. Còn hai con số cuối cùng của lô độc đắc ở số đề gọi là số đuôi.
                            - Rồi mình đánh làm sao?
                            - Mình muốn đánh con số nào thì đánh miễn là đành hai con thôi. Từ số không không đến số chín mươi chín.
                            - Má đã trúng con số nào vậy má?
                            - Má đánh số mười chín. Má đánh cả số đầu lẫn đuôi nhưng mà má đánh số đầu con số mười chín tới hai chục lận còn đánh đánh số đuôi con số mười chín chỉ có mười đồng thôi.
                            - Trời ơí! Má đánh một lần ba chục đồng! Đánh nhiều dữ vậy! Nếu thua thì mất nhiều tiền quá!
                            - Thua ăn gì thì chỉ đánh một lần thôi cho nên vừa thu tiền hàng xong là má đánh hết để thử thời vận. Trúng thì có nhiều, một lần thua thì thôi chứ má mất tiền và nữ trang quá nhiều rồi ba, bốn chục nữa có là bao?
                            Con chị lo lắng:
                            - Nhưng mà ba chục đồng đối với nhà mình cũng nhiều lắm. Má cố gắng làm, dành dụm thì sắm lại cũng được thôi!
                            Bà mẹ chép miệng, thở dài:
                            - Biết bao giờ mới sắm lại được? Một ngày má kiếm chỉ vài chục đồng lời mà phải chi phí đủ thứ chưa kể tiền học của em. Công sức má làm lụng vất vả bao nhiêu năm trời đã tiêu tan!
                            Trấn an con chị, bà mẹ nói tiếp:
                            - Má chỉ đánh một lần nên mới đánh nhiều tiền như vậy thôi chứ má không đánh nữa đâu. Lo ăn cơm cho xong rồi dọn dẹp, đừng lo nghĩ gì  nữa!
                            Con em vẫn còn thích thú câu chuyện trúng số của mẹ, nó hỏi:
                            - Vậy rồi má trúng số đuôi hay số đầu?
                            Được hỏi trúng chỗ, bà mẹ vui vẻ trả lời:
                            - Má trúng số đầu con à. Má đoán ngay là nó ra con số mười chín đầu nên đánh nhiều tiền hơn số đuôi.
                            - Vì sao má chắc chắn là số đầu ra con số mười chín?
                            - Bởi vì má thấy con bướm đậu trên đầu của má. Má hỏi mấy dì bán hàng con bướm số mấy, mấy dì nói số mười chín vậy là má đánh số đầu con mười chín nhiều hơn số đuôi.
                            Con em cười nắc nẻ:
                                        - Ha ha ha...Con bướm đậu trên đầu nên đánh số đầu mười chín! Tức cười ghê, con vật mà cũng có số! Mà má đoán hay quá hà! Đoán hay như vậy hèn chi trúng phóc!
                                        Ngưng cười, nó hỏi đột ngột:
                            - Ủa! nói vậy mấy con vật trên đời đều có số cả hả má?
                            - Ừ, đúng vậy đó con.
                            - Vậy con chó số mấy vậy má ?
                            - Số mười một.
                            - Còn con dê?
                            - Con dê số ba mươi lăm.
                            Con em lại cười. Lần này nó cười lớn hơn trước:
                            - Ha ha ha... “ba mươi lăm là con dê xồm!” Hèn chi con hay nghe người ta nói mấy người đàn ông dê con gái là ba mươi lăm ! Té ra con số ba mươi lăm là con số của con dê!
                            Con chị giật nẩy mình. Nó đưa đôi mắt hốt hoảng nhìn con em rồi liếc nhẹ về phía bà mẹ. Nó thầm lo cho con em vì mấy chữ con nhỏ vừa nói không thích hợp với tuổi của nó tí nào và chắc chắn con nhỏ sẽ bị bà mẹ la ngay. Lạ lùng thay, bà mẹ cười theo con em và con nhỏ này ngước mặt lên trần nhà tiếp tục hỏi:
                            - Còn con thằn lằn số mấy hả má?
                            - Số chín mươi chín, số cuối cùng!
                            - Hay quá! Người ta đặt số cho mấy con vật cũng hay há má! Đứt đuôi như con thằn lằn hèn chi thằn lằn có số cuối cùng là chín mươi chín.
                            Nhìn xuống bếp, con em lại hỏi:
                            - Ông táo có số không má?
                            - Có chớ, ông táo số ba mươi chín hay bốn mươi gì đó má không nhớ.
                            Con chị gác đôi đũa trên cái chén, chau mày kinh ngạc:
                            - Làm sao mà má biết mấy con số này hay dữ vậy? Má mới đánh thử số đề ngày hôm nay thôi mà?
                            - Má có bảng ghi tên các con số mà! Chiều nay đi lãnh tiền ông chủ cái số đề cho má bảng tên các con số. Má có đọc sơ qua nên nhớ một vài con thôi.
                            Con em ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
                            - Má đánh hai chục mà trúng một ngàn tư...như vậy là đánh một đồng ăn bảy chục đồng  lận hở má?
                            - Ừ đánh một đồng trúng bảy chục đồng, cho nên má đánh hai chục trúng một ngàn tư.
                            Con em hí hửng nói:
                            - Để hôm nào con nhịn tiền ăn sáng đánh thử một đồng xem có trúng không?
                            Bà mẹ nghiêm mặt:
                            - Không được! Còn nhỏ mà cờ bạc lớn lên quen thói hư!
                            Con em vét hết phần cơm trong chén vào miệng nhai một lúc rồi vô tư vô lự nói:
                            - Vậy thì khi tụi con dọn dẹp xong má cho con coi bảng tên các con số để con biết con nào là của con vật nào thôi.
                            Con chị lặng lẽ dọn mâm chén, không nói gì. Nó cảm thấy rõ ràng  là mẹ nó hoàn toàn mâu thuẫn trong việc làm và lời nói của bà. Phân vân không hiểu điều gì đúng sai, nó lắc đầu nhè nhẹ một mình. Nhớ lại những tiếng rên khóc và cảnh ăn cơm nguội với rau mắm của những ngày trước đó, nó mỉm cười hài lòng nhìn bà mẹ và con em đang nói cười vui vẻ. Mang hai đĩa thịt quay và chả cá còn lại vào tủ đựng thức ăn, lòng nó mừng rơn. Nó hy vọng mẹ tiếp tục đánh số đề và gặp may mắn mãi mãi.
                                        Trời bắt đầu tối dần dần. Từ trong ánh đèn lù mù của căn nhà nhỏ, tiếng đọc ê a của con em vang ra khu vườn  đêm như tiếng đọc thuộc lòng bản cửu chương của đứa học trò chăm chỉ:
                                        - Không một cá biển, không hai ốc, không ba ngỗng, không bốn công, không năm trùn, không sáu cọp, không bảy heo, không tám thỏ, không chín trâu , mười cua, mười một chó, mười hai ngựa, mười ba voi, mười bốn mèo, mười lăm chuột, mười sáu ong, mười bảy …
                             
                             
                             
                             
                            #44
                              Cung Thi Lan 26.08.2007 16:12:11 (permalink)
                                    
                              Chương Ba Mươi Bảy
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                                          Nắng trước sân của căn nhà nhỏ nhạt dần dần. Trước bậc thềm nhà, xung quanh các gói ni lông đựng len và các cây que đan, con em ngồi tréo chân, chăm chú ngoáy hai que đan vào nhau. Nó huyên thuyên nói:
                              - Ngày hôm nay là thứ ba, thế nào má cũng trúng số nữa cho coi! Má đoán số hay ơi là hay! Lần nào má đoán con gì là trúng con nấy! Hôm trước má trúng con chín mươi chín tưởng đâu má thấy con thằn lằn nên đánh chín chín ai ngờ má nói là con bươm bướm to có số chín chín. Sê ri của con bướm là mười chín, năm chín, và chín chín đó chị Hạ!
                              Từ trong bếp, tiếng nói của con chị vọng ra kèm theo tiếng rang lào xào:
                              - Biết rồi! Có lần má còn kể là má trúng con chín mươi mốt vì thấy con bướm nhỏ đậu ngược trên mấy bó hoa của gian hàng bên cạnh gian hàng của má chứ gì? Hôm nay không biết má đoán con gì  để đánh nhưng chị không tin má sẽ trúng hoài đâu!
                              - Em thấy lần nào má cũng đánh con số mười chín. Má nói với em là má nuôi con số mười chín vì má luôn luôn thấy bướm. Má nghĩ con bướm là tiên đó chị!
                              Tiếng rang lào xào vẫn đều đều nhưng giọng nói con chị trở nên mỉa móc:
                              - Chị không hiểu má! Má chỉ nói đánh thử một lần thôi mà bây giờ má lại đánh luôn.
                              Con em cãi:
                              - Tại vì má đoán hay, bày người ta đánh trúng mà không đánh thì uổng. Hơn nữa hồi giờ má trúng bao nhiêu lần rồi lỡ có thua vài lần cũng đâu có sao?
                              Tiếng rang lào xào trong bếp ngưng bặt và tiếng con chị lớn hơn :
                              - Nhưng mà chị lo lắm! Bởi vì càng chơi số đề, má càng đánh nhiều tiền và nhiều con số. Đánh như vậy lỡ thua một cái, ăn được bao nhiêu cũng hết trọi thôi
                              Con em không đáp lời nó. Hì hục đưa hai mũi que đan lên xuống thêm một lúc, nó hỏi:
                              - Em đan đến hai chục mũi xuống rồi làm sao nữa để có thêm một mũi?
                              Con chị nói lớn
                              - Vắt dây len lên que rồi đan một mũi xuống nữa rồi vắt dây len lên que nữa để  có hai mũi thêm hai bên rồi mới đan tiếp tục hai mươi mũi xuống bên kia. Xong rồi qua phía bên kia đan toàn bộ mũi lên.
                              Con em im lặng tiếp tục lúi húi công việc của nó. Con chị hỏi vọng ra:
                              - Được chưa Vy?
                              - Em đang làm, chưa biết được hay không!
                              Con chị cằn nhằn:
                              - Đã đan một chiếc vớ rồi mà đến chiếc thứ hai không nhớ!
                              Con em đáp lại:
                              - Em làm được rồi! Mới hỏi chút thôi, chị làm gì dữ vậy?
                              Con chị nói lớn:
                              - Làm gì dữ đâu? Chị chỉ nói là em không chịu để ý thôi! Nếu người ta dạy mình làm mà mình không để ý nhớ thì không làm đẹp đâu!
                              Con em cãi:
                                          - Tại chị học ở trường Nữ Trung Học Nha Trang được cô dạy và làm chung với các bạn của chị nên chị làm nhanh và nhớ lâu được, còn em chỉ học qua chị thì làm sao mà nhớ lâu như chị? Biết vậy, không thèm học đan đâu!
                              Con chị cất giọng cầu hòa:
                              - Thôi được! Chị không chê em nữa đâu. Tiếp tục đan nữa đi cho xong một đôi vớ. Vì em học trường Lê Quý Đôn không có học môn Nữ Công và Hội Họa như trường Nữ Trung Học Nha Trang nên chị muốn em cũng được biết những thứ mà chị biết thôi chứ chị đâu muốn la em làm gì! Chị thương em như vậy mà em không hiểu còn hờn giận đủ điều!
                              Con em không đáp lại lời chị. Nó reo lên:
                              - Em đan xong hàng lên rồi. Có hai cái lỗ hai bên rồi! Bây giờ em nhớ lại cách đan rồi chị không cần nhắc em nữa.
                              Con chị khệ nệ khiêng chiếc chảo nóng từ bếp ra. Nó trải giấy báo giữa sân rồi đổ hết những thứ trong chảo ra trên tờ báo.
                              Con em chăm chú theo dõi từng động tác của chị, ngạc nhiên hỏi:
                              - Ủa nãy giờ chị rang cát hả?
                              - Ừ
                              - Sao cát có màu gì kỳ vậy?
                              - Màu này là màu lông của con chó Kiki đó Vy. Chị phải “cực khổ” lắm mới nhuộm được màu này đó!
                              Con em bỏ dây đan và que trước cửa nhà, đến ngồi bên chị:
                              - Trời ơi! Cái màu này y chang màu lông của con Kiki. Chị pha màu hay quá!
                              Con chị dùng đũa cào qua lại đống cát trên tờ báo
                              - Ừ chị trộn màu đà lẫn màu cam và chút chút mấy màu khác nữa để có màu này. Chị muốn làm hình con chó Kiki để nhớ nó.
                              - Sao chị làm hay vậy?
                              - Nhờ cô dạy vẽ của chị bày đó mà! Chị cũng bắt chước mấy đứa bạn trong lớp chị hòa màu đủ thứ để tìm màu lạ. Hôm nào chị sẽ chỉ cho em công thức pha màu để lấy các màu như màu xanh lá cây, màu cam và màu tím.
                              Xoay xoay những hát cát trong những ngón tay, con chị nói với em:
                              - Cát nguội rồi! Đi vào nhà xem hình chị vẽ đi Vy!
                              Khệ nệ đặt gói cát màu trên nền nhà, con chị lục đưa cho em coi bức vẽ trên mặt các tông hình chữ nhật kích lớn khoảng bằng những bức tranh chưng tường của các phòng khách:
                              - Đây nè! Em thấy chị vẽ cái hình này giống con Kiki không?
                              - Tướng ngồi của con chó này giống y chang tướng ngồi của con chó Kiki! Em phục chị thật! Rồi bây giờ chị làm gì với mớ cát này?
                              - Chị sẽ trét hồ xung quanh người con chó rồi rải cát màu này lên. Để khô một lúc, chị sẽ lật tấm hình ngược lại cho những hạt cát thừa rơi xuống. Sau đó chị sẽ dùng màu đen tô chỗ hai con mắt của nó và phần nền phía sau để cho hình con chó này nổi bật lên.
                              Dứt lời con chị thực hiện các bước mà nó nói. Con em chăm chú nhìn chị:
                              - Con Kiki chết đã lâu vậy mà chị còn nhớ nó!
                              Con chị vừa rải cát trên hình con chó vừa nói
                              - Chị thương con Kiki hơn con Vàng vì nó lo coi nhà, và dễ ăn chứ không như con Vàng, “công tử” Nhật, luôn ngủ trong nhà lại kén ăn. Hơn nữa, cũng tại vì chị nên nó mới chết vì thế chị phải nhớ nó chớ!
                              Con em phản đối:
                              - Nó chết có phải là do chị đâu mà chị cứ nói vậy!
                              Con chị lắc đầu
                              - Tại chị làm nên chị biết mà! Sau cái hôm chị trượt chân trên cành cây khế khô và té trên người nó lúc nó đang nằm ngủ dưới gốc khế, nó bệnh không chịu ăn mới chết.
                              - Em nghe cô Sáu và cô Út  nói con Kiki già rồi nên mới chết mà!
                              Lật ngược bức vẽ cho lớp cát dư rớt xuống, con chị ngửng đầu lên nhìn em:
                              - Tại hai cổ không biết vì chị mà con Kiki chết đó thôi.
                              - Đâu phải đâu! Hai cổ là người lớn mà sao không biết được chứ? Chị không biết thì có! Em nghe Cô Út và cô Sáu nói rõ ràng là con Kiki già quá đến bệnh mọp người cho nên phải xin thêm chó con nuôi chớ một mình con Vàng không đủ trông nhà. Vậy đâu phải tại chị té làm nó chết! Nó bệnh già nên nó mới chết!
                              Con chị đang quệt màu nước vào cái nền phía sau hình con chó bỗng ngừng tay. Nó nghiêm mặt nói:
                              - Sao dám nói là chị không biết gì? Chị làm cái gì là chị biết cái đó! Hôm chị té trên mình con Kiki không có em. Em chỉ toàn nghe nói lại chứ biết gì mà nói? Đừng cãi nữa! Cãi với chị là hỗn nghe chưa!
                              - Chị nói không đúng em mới cãi chớ! Lúc chị kể em nghe chị té trên người  con Kiki nó vẫn bình thường mà! Sau này nó mới bệnh rồi mới chết! Không phải mình làm mà nói hoài cho ra vẻ quan trọng!
                              - Dám nói kiểu như vậy hả? Cãi không đúng thì đừng có cãi! Im đi!
                              - Không im!
                              Con chị buông cây viết lông xuống, chỉ vào mặt em, hất hàm:
                              - Sao không im? Muốn  hỗn  hả?
                              - Không hỗn nhưng muốn nói cái đúng thôi! Cứ nói!
                              Con chị bịt tai:
                              - Nói gì thì nói đi, không ai thèm nghe đâu!
                              - Con Kiki già con Kiki chết! Già chết! Già chết!
                              Con chị trợn mắt, chỉ tay vào trán con em:
                              - Đi ra chỗ khác đi đừng coi hình con chó này của tui nữa!
                              - Không đi! Nhà của tui thì tui đứng!
                              Con chị vụt đứng lên, để tấm hình trên bàn học, chống nạnh:
                              - Dám xưng tui với tui hả?
                              - Chị cũng xưng tui sao không nói? Chị xưng tui được, tui xưng tui được!
                              Con em cũng đứng lên, chống nạnh. Mặt hai đứa xáp vào nhau gườm gườm những ánh mắt đỏ rực như lửa. Đúng lúc ấy, bà mẹ bước vào nhà. Khuôn mặt của bà hầm hầm và dữ tợn nhiều hơn mặt hai đứa nhỏ. Bà hét lên:
                              - Tụi bây đang làm cái gì vậy? Hết chuyện làm rồi  bây giờ đi gây sự cãi nhau phải không?
                              Hai đứa nhỏ giật mình khi thấy sự xuất hiện của bà mẹ. Chúng vội tản ra hai phía khác nhau. Mỗi đứa ngồi trên một chiếc ghế cách xa bởi chiếc bàn học nhưng không quên đưa những đôi mắt trừng trừng nhìn nhau.
                              Bà mẹ chỉ trỏ quanh nhà:
                              - Coi tụi bây đây nè! Nhà cửa bày biện tùm lum. Nào là giấy, báo, rồi cát, rồi dây nhợ, len sợi không khác gì cái chợ chồm hổm.
                              Bước ra sân, bà lại nói to:
                              - Trước nhà lại để chảo nồi đen thui hèn chi mà tui không bị xui xẻo cho được!
                              Đi xuống bếp, bà lại hét lớn:
                              - Còn coi cái bếp của tui đây nè trời! Tụi nó bày đủ thứ màu! Chén ăn cơm mà nó nhuộm màu đà, màu nâu, màu vàng, màu đỏ đủ thứ! Coi như vầy có chết tui được không? Con cái lớn rồi mà nhà cửa, bếp núc như vầy coi có được không?
                              Bước lên nhà, bà chỉ vào mặt từng đứa:
                              - Nuôi cho tụi bay lớn đến chừng đó, ăn học đến chừng đó để bây giờ tụi bây bày nhà, bày cửa như vậy đó hả? Hai đứa đi vô nằm hết trên giường cho tao!
                              Hai đứa cúi đầu không dám nói gì  và bà mẹ vụt bước ra sân đến hàng cây mãng cầu. Vừa bứt cành, vừa tuốt lá, bà càu nhàu không thôi :
                              - Con với cái! Nuôi cho lớn để tụi bay bày nhà bày cửa dơ dáy chứ không làm được ích gì!
                              Sau khi bứt một mớ cành mãng cầu, bà mẹ mang cả dép bước ngang qua những búp len đan trên bậc tam cấp mà quên cả thói quen tuột dép ra trước cửa nhà. Thẳng vào buồng ngủ, bà ngồi trên chiếc giường của bà, song song cạnh giường của hai đúa nhỏ, vươn roi đập mạnh vào mông con chị:
                              - Đã lớn đầu mà để nhà cửa bày biện dơ dáy như cái chợ nè! Làm chị mà không làm gương cho em nè!
                              Con chị giật nẩy mình. Nó vừa khóc vừa lấy tay xoa mông.
                              - Lấy cái tay ra chứ tao đánh nột cái nữa là gãy tay ngay bây giờ!
                              Con chị rụt rè rút tay ra khỏi mông nhưng không hết khóc. Khác hẳn những lần bị đòn trước là bà mẹ hỏi tội rồi mới vung roi. Ngọn roi đầu tiên bắt đầu hết sức bất ngờ làm nó không kịp chuẩn bị tinh thần. Ấm ức vì ngọn roi vô cớ, nó rên rỉ như người bị thương.
                              - Ai để cái chảo đen thui trước nhà? Bà mẹ hỏi lớn.
                              Con chị ngửng đầu nhìn mẹ. Nó muốn nói là nó đã dùng cái chảo để rang cát màu cho bức tranh thi vẽ toàn trường Nữ Trung Học và kỳ thi này có ý nghĩa quan trọng đối với nó nhưng ánh mắt nảy lửa hung tợn của mẹ làm nó chỉ trả lời hai chữ đơn giản:
                              - Dạ con.
                              Hai chữ này vừa thốt ra những vụt roi vung tới tấp vào mông nó. Nó hốt hoảng dưa tay đỡ những trận mưa roi. Bà mẹ vừa đánh vừa la:
                              - Để nồi chảo đen thui trước nhà để trù ẻo cho tao xui xẻo phải không? Làm con mà hại mẹ nè! Hại nè! Hại nè!
                              Những chữ “hại nè”càng lập đi lập lại bao nhiêu con chị càng bị nhiều vết roi trên cánh tay phải bấy nhiêu. Bất kể e ngại cánh tay khẳng khiu của nó bị những vết roi, bà mẹ đánh như muốn trút những nổi bực dọc mà bà có. Bất lực với thái độ dữ tợn kỳ lạ  mà nó chưa từng thấy mẹ nó có trước đây. Nó nằm im, ghì đầu vào gối để chịu đựng cho hết trận đòn. Sau đó, nó nghe những tiếng khóc ré của con em:
                              - Làm em mà dám cãi chị nè. Chị em mà gây gỗ cãi nhau nè. Cãi cho đã rồi khóc trù cho nhà mạt nè! Tao đánh cho chừa cái tật gây chuyện! - Bà mẹ vừa đánh, vừa la.
                              Con chị khóc. Con em khóc. Tiếng khóc nức nở và uất ức của hai đứa hòa lẫn nhau tạo một không khí u sầu và thê thảm trong căn nhà nhỏ. Đánh chán chê, bà mẹ buông roi bắt hai đứa đứng trước mặt như mọi lần và cả hai cùng xin lỗi:
                              - Thưa má, con xin lỗi má từ nay về sau con không bày dơ nhà nữa.
                              - Thưa má con không dám cãi với chị nữa. Lần sau nếu con tái phạm má đánh con nhiều hơn.
                              Sắc mặt lạnh lùng, bà mẹ nói:
                              - Được rồi. Thu dọn đồ đạc đi rồi ăn cơm. Trù ẻo cha mẹ, đem nồi đen để trước nhà rồi xem hôm nay có gì ngon mà ăn không?
                                          Lờ mờ lời mẹ ám chỉ, con chị cúi đầu đi thu dọn các thứ từ bếp, trên sân đến trong nhà. Khi kéo giỏ đi chợ của mẹ sang một phía để quét nhà, nó chợt nhìn thấy những tờ giấy ghi số đề ngổn ngang trong ấy. Nó nhớ lại hôm ấy là ngày thứ ba và những tờ giấy ghi số đề  không được chủ cái thu hồi chứng tỏ mẹ nó đã mất tiền vì thua số. Tổng cộng số tiền của những tờ số ghi, lòng nó đau như cắt. Nó lờ mờ hiểu được nguyên nhân trận đòn dữ dội vừa xảy ra. Có lẽ vì quá mê tín nên mẹ nó đã tin rằng bà bị thua số đề bởi vì do nó đem lại vận đen, vận xui đến cho bà. Nó đã để cái chảo đen trước căn nhà bà cư ngụ. Thở dài buồn bã, nó chế nước mắm vào cái chén con con.
                               
                               
                               
                               
                               
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 53 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9