. Vài Ý-Kiến Nhân Đọc Bài Phỏng-Vấn Thứ-Trưởng Bộ Ngoại-Giao Vũ Dũng Về Vấn-Dề Biên-Giới Trên Báo Nhân-Dân Trương Nhân Tuấn
06-01-2008
©Vietnam Review Báo Nhân-Dân hôm 2 tháng 1 năm 2008 có đăng bài phỏng-vấn ông Vũ Dũng, Thứ-Trưởng bộ Ngoại-Giao kiêm Chủ-Nhiệm Ủy-Ban Biên-Giới Quốc-Gia nhân-dịp tỉnh Lào-Cai hoàn-thành công-tác phân-giới cắm-mốc trên thực-địa với tỉnh Vân-Nam, Trung Quốc. Toàn-bộ bài phỏng-vấn đăng ở link
http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=37&sub=50&article=112915 (đăng lại ở phần cuối) Tác-giả bài viết này có một số nhận-xét về bài phỏng vấn, phần liên-quan đến đường biên-giới, lần-lượt ghi lại theo thứ-tự các câu hỏi của phóng-viên báo Nhân-Dân như sau :
1/ Hỏi: Xin ông cho biết ý nghĩa của việc hoàn thành phân giới cắm mốc (PGCM) biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tại địa bàn tỉnh Lào Cai?
Trả lời: Với việc cắm cột mốc số 144 tuần qua, công tác PGCM trên tuyến biên giới của tỉnh Lào Cai của Việt Nam với tỉnh Vân Nam của Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi…
Người ta không thể nói việc cắm mốc khu-vực biên-giới này là thắng-lợi nếu người ta nắm rõ tình-hình biên-giới Việt-Trung. Việc cắm mốc được bắt đầu từ cuối năm 2001, tức đã 6 năm qua và đoạn biên-giới Lào-Cai là đoạn ngắn nhất, dễ cắm mốc nhất so với các tỉnh khác như Cao-Bằng, Lạng-Sơn.
Biên-giới trên bộ giữa Việt-Nam và Trung-Quốc dài khoảng 1.400Km, đi qua các tỉnh thuộc Việt-Nam từ Đông sang Tây là Quảng-Ninh, Lạng-Sơn, Cao-Bằng, Hà-Giang, Lào-Cai và Lai-Châu. Hai tỉnh Lào-Cai và Quảng-Ninh có đường biên-giới ngắn hơn nhiều so với các tỉnh còn lại. Đặc-biệt đường biên-giới Lào-Cai với Vân-Nam hầu hết là biên-giới thiên-nhiên do sông, suối cấu thành. Vùng biên-giới Lào-Cai chỉ được xác-định vỏn-vẹn bằng 4 giới-điểm chiếu theo Hiệp-Ước Biên-Giới 20-12-1999 (HUBG), là các giới-điểm 6,7,8 và 9 (tức chỉ có 3 đoạn biên-giới trên tổng số 60 đoạn). Theo HUBG, nếu biên-giới theo sông hay suối thì không cắm mốc mà chỉ xác-định đường biên-giới qua đường trung-tuyến dòng chảy hay trung-tuyến luồng tàu bè qua lại và chủ-quyền các cồn, bãi nếu có trên sông hay suối. Như thế biên-giới Lao-Cai với Vân-Nam chỉ phải cắm mốc trên chiều dài vài ba chục ki-lô-mét. Điều đáng chú ý khác đoạn biên-giới Lào-Cai – Vân-Nam không có những tranh-chấp lãnh-thổ làm thay đổi đường biên-giới lịch-sử (tức đường biên-giới theo các công-ước Pháp-Thanh 1887 và 1895). Các đoạn biên-giới có tranh-chấp được thể-hiện qua HUBG ở các điểm « đường biên-giới theo đường đỏ », tức hai bên không đồng-ý bản-đồ của Nha Địa-Dư Pháp vẽ theo các công-ước 1887 và 1895 mà phải thuơng-lượng lại.
Phải 6 năm mới hoàn-tất được vài mươi cây-số khu-vực Lào-Cai cho thấy đây không phải là một « thắng-lợi lớn » như ông Vũ Dũng nói.
Nguyên-văn phần mô-tả đường biên-giới Lào-Cai theo HUBG sau đây (1), các chữ viết màu xanh là đoạn biên-giới phải cắm mốc.
2/ Hỏi: Xin ông cho biết thực trạng tình hình PGCM (tức phân giới, cắm mốc, chú thích của tác-giả) trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc và khả năng hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ này trước tháng 6-2008?
Trả lời: Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400 km. Hai bên thống nhất cắm khoảng 1.800 cột mốc, trong đó có 1.533 mốc chính và gần 300 mốc phụ.
Kể từ khi cắm mốc giới đầu tiên đến nay các lực lượng PGCM của hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã hoàn thành hơn 85% khối lượng công việc PGCM trên thực địa… Ngoài Lào Cai, các tỉnh Lai Châu, Quảng Ninh cũng đã hoàn thành hơn 95% công việc, Nhóm PGCM số sáu thuộc tỉnh Hà Giang cũng vừa hoàn thành toàn bộ công việc trên thực địa… chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng công tác PGCM trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc sẽ hoàn thành thắng lợi trong sáu tháng đầu năm 2008 như thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước
Đường biên-giới tỉnh Quảng-Ninh, tương-tự như tỉnh Lào-Cai, là đường biên-giới ngắn so với các tỉnh khác và một phần là biên-giới thiên-nhiên do sông, suối cấu-tạo thành. Đường biên-giới này tương-ứng khoảng từ mốc-giới 56 đến mốc giới 61 của HUBG, tức chỉ có 5 đoạn biên-giới trên tổng-số 60 đoạn. Trong đó có một vùng tranh-chấp lãnh-thổ, ghi lại qua HUBG bằng câu « đường biên-giới theo đường đỏ », được viết bằng màu đỏ (2).
Đoạn màu đỏ tương-ứng trên thực-địa là vùng Trình-Tường. Tài-liệu của nhà-nước CSVN do Nhà Xuất-Bản Sự-Thật phát hành năm 1979 mang tựa đề « Vấn Đề Biên-Giới giữa Việt-Nam và Trung-Quốc » mô-tả lại nguyên-nhân và hậu-quả của tranh-chấp vùng Trình-Tường như sau :
« Lợi-dụng đặc-điểm là núi-sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân-dân hai bên biên-giới vốn có quan-hệ họ-hàng, dân-tộc, phía Trung-Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh-thổ Việt-Nam để làm ruộng, làm nương, rồi định-cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối cùng nhà cầm-quyền Trung-Quốc ngang-ngược coi những khu-vực đó là lãnh-thổ Trung-Quốc.
Khu-vực Trình-Tường thuộc tỉnh Quảng-Ninh là một thí-dụ điển-hình cho kiểu lấn-chiếm đó. Khu-vực này được các văn-bản và các bản-đồ hoạch-định và cắm mốc xác-định rõ-ràng là thuộc lãnh-thổ Việt-Nam: đường biên-giới lịch-sử tại đây đi qua một dải núi cao, chỉ rõ làng Trình-Tường và vùng chung-quanh là lãnh-thổ Việt-Nam. Trên thực-tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình-Tường, những người dân Trung-Quốc sang quá-canh ở Trình-Tường đều đóng thuế cho nhà đương-cục Việt-Nam. Nhưng từ năm 1956, phía Trung-Quốc tìm cách nắm số dân sang làm ăn ở Trình-Tường bằng cách cung-cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải, và nhiều hàng khác, đưa họ vào công-xã Ðồng-Tâm thuộc huyện Ðông-Hưng, khu tự-trị Choang - Quảng-Tây. Nhà đương-cục Trung-Quốc ngiễm-nhiên biến một vùng lãnh-thổ Việt-Nam, dài 6 km, sâu hơn 1.300 m thành sở-hữu tập-thể của một công-xã Trung-Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt-Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh-sống ở Trình-Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện-thoại, tự cho phép đi tuần-tra khu-vực này, đơn-phương sửa lại đường biên-gới sang đồi Khâu-Thúc của Việt-Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành-hung, bắt cóc công-an vũ-trang Việt-Nam đi tuần-tra theo đường biên-giới lịch-sử và họ phá-hoại hoa-mầu của nhân-dân địa-phương ».
Theo biên-bản phân-giới cắm mốc ngày 21 tháng 12 năm 1893 của công-ước Pháp-Thanh 1887, biên-giới vùng Trình-Tường tương-ứng các cột mốc 30, 31, 32, được xác-định nguyên-văn như sau:
«La frontière suivra ensuite le cours de ce même affluent jusqu’à son intersection avec le ruisseau qui prend sa source à 500 mètres de 呈祥 (en annamite Trinh Tuong, en chinois Tcheng Siang) ; elle suivra ce ruisseau depuis cette intersection jusqu’à sa source ; de là, elle se dirigera par des lignes droites jusqu’à 北崗 (en annamite Bac Cuong Aï, en chinois Pé Kang Aï), passant par les sommets 675, 812 et 746 qui se trouvent au N.O. de Trinh Tuong.
Le village de Trinh Tuong appartient à l’Annam ; ceux de 衞慙 (en annamite Vệ Tàm, en chinois Shu Tsan) et de 矯曹(en annamite Kiểu-Tào, en chinois Kiao Tsao) à la Chine. »
Tạm dịch : Ðường biên-giới sau đó theo dòng chảy của phụ-lưu nói trên cho tới giao điểm của phụ-lưu này với con suối mà nguồn của nó cách Trình-Tường 呈祥 (Tcheng-Siang) 500 m ; đường biên-giới theo dòng suối từ giao-điểm này cho tới nguồn của nó. Từ đây đường biên-giới là những đường thẳng nối cho tới Bắc-Cương Ải 北崗, đi ngang qua các đỉnh 675, 812 và 746 ở phía Tây-Bắc Trình-Tường.
Làng Trình-Tường thuộc về Việt-Nam ; các làng Vệ-Tàm 衞慙 ( Shu-Tan) và Kiểu-Tào 矯曹(Kiao Tsao) thì thuộc về Trung-Hoa. »
Nguyên-văn biên-bản cắm mốc các cột mốc chung-quanh vùng Trình-Tường như sau :
BORNE n° 30
à 60 mètres au S.E. du village de 那沙 (en annamite Na Sa, en chinois Na Cha).
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 65°
Poste de Hoan Mô (côté Ouest) 343°
BORNE COMMUNE n° 31
à 600 mètres à l’Est de 呈祥 (en annamite Trinh Tuong, en chinois Tcheng Siang).
Repérage (azimuths magnétiques)
Poste de Hoan Mô 347°
Sommet du 東另嶺 (en annamite Đông Lánh Lãnh, en chinois Toung Linh Ling)
cote 763 210°
BORNE COMMUNE n° 32
à 1160 mètres au N.N.O. du village de Trinh Tuong.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Ðông-Lánh-Lãnh 176°
Sommet du (en annamite Pha Lai Lanh, en chinois Pa Lai Ling)
cote 895 73°
BORNE COMMUNE n° 33
au col situé entre les côtes 746 et 750 ; à 340 métres au S ; de la vallée de Bac Cuong Aï.
Biên-bản của công-ước Pháp-Thanh xác-định rõ rệt làng Trình-Tường thuộc về Việt-Nam cũng như các cột mốc xác-định vị-trí đường biên-giới. Nếu văn-bản này được đưa ra thì phía Trung-Quốc không có lý-do gì dành đất của Việt-Nam (nếu họ tôn-trọng công-ước 1887).
Đến nay tỉnh Quảng-Ninh đạt được 95% công việc. Chắc-chắn 5% còn lại là khúc xương khó nuốt tên Trình-Tường. Biên-giới vùng Trình-Tường đã được Ủy-Ban Phân-Giới do ông Galliéni vẽ bản-đồ (năm 1893) rất chính-xác. Bộ bản-đồ 1/50.000 của Sở Địa-Dư Đông-Dương cũng vẽ rất rõ-rệt vùng này. Việc khó-khăn chắc-chắn là do phía Trung-Quốc đã chiếm và cho dân đến sinh-sống từ nhiều thập niên (từ năm 1956). Biện-pháp nào giải quyết cho những người dân Hoa trên đất Việt này ? Phía Trung –Quốc thì luôn có luận-cứ : Nếu là đất Việt thì làm sao có dân Hoa được ? Và như vậy trên đường biên-giới có vài mươi trường-hợp tương-tự như vùng Trình-Tường.
Ông Vũ Dũng tin-tưởng các đội phân-giới – cắm mốc sẽ hoàn-tất vào tháng 6 năm này nhưng có lẽ đây là lời tiên-đoán lạc-quan, không thuyết-phục.
3/ Hỏi: Một số mạng nước ngoài đưa tin thất thiệt rằng, Việt Nam bị mất đất. Ông có bình luận gì về ý kiến này?
Trả lời: Chủ quyền lãnh thổ là vấn đề hết sức thiêng liêng đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Ðối với dân tộc Việt Nam thì chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Gần tám thập kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng những hy sinh, mất mát to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này…Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.
Tước tiên là nhận-xét về cách đặt câu hỏi của phóng-viên báo Nhân-Dân. Chúng tôi cho rằng cách đặt câu hỏi như thế thật không đúng điệu, nếu không nói là vừa thiếu lương-tâm vừa vô trách nhiệm. Người cầm bút lương-thiện không ai đặt như thế. Ký-giả cho rằng « Một số mạng nước ngoài đưa tin thất thiệt rằng, Việt Nam bị mất đất ». Căn-cứ vào đâu ký-giả cho rằng người ta loan tin thất-thiệt ?
Vấn-đề mất đất đã quá rõ-ràng ở một số địa-điểm mà các bằng-chứng đến từ các cơ-quan như bộ Ngoại-Giao, các viên-chức thẩm-quyền của nhà nước CSVN hay từ các tài-liệu phân-giới Pháp-Thanh 1885-1897, hiện đang tồn-trữ ở Văn-Khố Hải-Ngoại Pháp-Quốc (Centre des Archives d’Outre Mer - CAOM) tại Aix-En-Provence. Nó đã là những sự thật hiển-nhiên, người viết sẽ trở lại ở dưới. Về biển cũng thế, trong Vịnh Bắc-Việt nhà-nước CSVN đã làm mất 11.000km² lãnh-hải Việt-Nam cho Trung-Quốc do hậu-quả hiệp-ước tháng 12 năm 2000. Số-phận quần-đảo Hoàng-Sa có thể sẽ vĩnh-viễn thuộc về Trung-Quốc nếu công-hàm 1958 của chủ-tịch Hồ Chí Minh (do thủ-tướng Phạm Văn Đồng ký) được một tòa-án quốc-tế công-nhận hiệu-quả của nó.
Ông Vũ Dũng cho rằng : « Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau ».
Đất đai, đường biên-giới lịch-sử (1887), đường biên-giới hiện nay (1999) vẫn còn nguyên-vẹn, một mặt trên giấy-tờ lịch-sử và pháp-lý, một mặt trên thực-địa. Nếu ông Vũ Dũng cho rằng những « mạng này » thiếu thông-tin thì phải cung-cấp thông-tin cho người ta. Không thể một mặt dấu thông-tin mặt khác cho rằng nguời ta thiếu thông-tin được. Làm thế là thiếu trách-nhiệm. Và cũng cần khẳng-định là không ai có « ý-đồ » nào trong vấn-đề lãnh-thổ, lãnh-hải quốc-gia ngoài « ý-đồ » yêu nước, muốn bảo-vệ lãnh-thổ. Ông Vũ Dũng sẽ gặp nhiều khó-khăn để bênh-vực hành-vi mà một bộ-phận lớn nhân-dân Việt-Nam cho là « bán nước nhượng biển » của chế-độ hiện-tại.
Riêng về ký-giả phỏng-vấn, thiển-nghĩ, xưa nay đã đi « dưới tấm chỉ đường của trí-tuệ », đã quen thói đi một bên lề đường, cây viết của họ là « cần câu cơm ». Vì thế cũng thông-cảm cho việc sai sót. Tuy nhiên, chuyện của đất nước là chuyện trọng-đại, khi khác nếu có viết thì nên cân-nhắc.
4/ Hỏi: Gần đây có nhiều dư luận khác nhau về việc phân định khu vực thác Bản Giốc và khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, xin Thứ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này?
Trả lời: Như trên tôi đã nói, căn cứ quan trọng nhất để xây dựng Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là các Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Do hạn chế của điều kiện lịch sử, các văn bản pháp lý về hoạch định và PGCM giữa Pháp và Nhà Thanh có những điểm quy định không rõ ràng. đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn từ 1/20.000 đến 1/500.000, có nghĩa một mi-li-mét trên bản đồ tương đương với từ 20 m đến 500 m trên thực địa. Hơn nữa, địa hình trên bản đồ không hoàn toàn phù hợp với địa hình trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới tại các khu vực này. Chính vì vậy tại các khu vực này đã xảy ra tranh chấp rất phức tạp và kéo dài.
Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan. Trấn Nam Quan do Trung Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc, chứ không phải đường biên giới đi qua Ải Nam Quan như một số người vẫn hiểu.
Thác Bản Giốc gồm hai phần: phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, không có tranh chấp; phần thác thấp gắn liền với sông Quây Sơn. Theo Công ước Pháp - Thanh, đường biên giới đi giữa sông Quây Sơn đến thác và mốc 53 nằm phía trên thác đánh dấu sự chuyển hướng đường biên giới từ sông lên bờ. Hiện nay ta và Trung Quốc chưa PGCM đoạn biên giới khu vực này nhưng có thể khẳng định phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, phần thác thấp sẽ được phân giới theo luật pháp và tập quán quốc tế về trung tuyến dòng chảy hoặc trung tuyến tàu thuyền đi lại được, hoàn toàn không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc như một số người nói. Hàng triệu lượt khách du lịch đến thác Bản Giốc đều biết rất rõ điều này.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, về tổng thể, các giải pháp đạt được trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền nói chung và đối với hai khu vực cụ thể nói trên là thỏa đáng, đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên.
a/ Vấn-đề khu-vực Nam-Quan : Ở trên ông Vũ Dũng đã cho rằng « các mạng » loan tin sai hoặc vì do thiếu thông-tin, hoặc vì do có « ý-đồ ». Nhưng đọc phần trả lời của ông Vũ Dũng về khu-vực Nam-Quan người ta không khỏi nghi-ngờ về sự hiểu biết « thông-tin » của ông Dũng. Ông Dũng thiếu thông-tin hay ông có « ý-đồ » ?
Ông Dũng là Thứ-Trưởng bộ Ngoại-Giao kiêm Chủ-Nhiệm Ủy-Ban Biên-Giới Quốc-Gia, ông phải thông-hiểu các vấn-đề liên-quan đến biên-giới hơn ai hết. Ông nói « Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan ». Điều này không sai nhưng không ai nói như thế vì nó không có ý nghĩa gì hết. Đường biên-giới ở phía Nam của Nam-Quan, ta thấy Hà-Nội hay Sài-Gòn đều ở phía Nam của Nam-Quan, phải chăng đưòng biên-giới qua các nơi này ?
Đường biên-giới tại cổng Nam-Quan được xác-định ra sao theo các công-ước Pháp-Thanh ?
Biên-bản phân-định ký ngày 7 tháng 4 năm 1886 của hai phái-đoàn Pháp và nhà Thanh tại Đồng-Đăng như sau :
La Commission de Délimitation Franco-Chinoise a reconnu, le sept avril mil huit cent quatre-vingt-six, qu’à partir du point situé à cent mètres en avant de la Porte de Nam-Quan, sur la route de Nam-Quan à Ðồng-Ðăng, la frontière remonte à l’Ouest jusqu’au sommet de la montagne rocheuse sur lequel est situé le fort marqué A sur le croquis ci-joint, suit à partir de ce fort le haut de la muraille rocheuse qui domine la route de Ðồng-Ðăng jusqu’au point marqué B sur le croquis. Ce point B se trouve à l’endroit où le sentier qui, se détachant de la route de Ðồng-Ðăng à Nam-Quan, conduit au village de Lung-Ngieu, coupe la muraille rocheuse. Elle suit ensuite ce même chemin jusqu’au la Porte du village de Lung-Ngieu. A partir de cette Porte elle reprend le haut des rochers qui contournent le cirque du village de Lung-Ngieu pour arriver à un point marqué C. Du point C elle se dirige à l’Ouest jusqu’à la Porte de Kida.
....
Tạm dịch:
Biên-bản số 4.
Ủy-Ban Pháp-Hoa Phân-Ðịnh Biên-Giới nhìn-nhận, nhằm ngày bẩy tháng tư năm một ngàn tám trăm tám mươi sáu, từ một điểm được xác-định cách cổng Nam-Quan 100 thước trên đường từ Nam-Quan về Ðồng-Ðăng, đường biên-giới theo hướng Tây đi lên đến đỉnh ngọn núi đá mà trên đó có một đồn-binh được đánh dấu là điểm A ở trên sơ-đồ kèm theo đây, sau đó đường biên-giới đi từ điểm nầy theo đỉnh cao của bức tường núi đá nhìn xuống con đường Ðồng-Ðăng cho đến điểm B đánh dấu trên sơ-đồ. Ðiểm B là điểm mà con đường mòn - đường mòn nầy là một nhánh rẽ của con đường Ðồng-Ðăng đi Nam-Quan - dẫn đi đến làng Lũng-Ngọ cắt bức tường núi đá. Ðường biên-giới theo con đường mòn nầy cho đến Cổng làng Lũng-Ngọ. Từ cổng nầy đường biên-giới đi lên ngọn rặng núi đá bọc quanh thung-lũng của làng Lung-Ngieu để đi đến điểm C. Từ điểm C đường biên-giới đi về hướng Tây cho đến cửa Du.
Tài-liệu khác là biên-bản tổng-hợp ký-kết giữa đại-tá Galliéni và ông tri-phủ Long-Châu tên Thái Hy Bân ngày 19 tháng 6 năm 1894, cột mốc tại Nam-Quan được ghi-nhận như sau: Tên Nam-Quan, Mang số 18, cắm trên đường Nam-Quan về Ðồng-Ðăng, cách cổng Nam-Quan 100 mét. (A environ 100m en avant de la porte de Nam-Quan). Biên-bản tiếng Hán thì cột mốc số 18 mang tên Trấn Nam Quan Ngọai 鎭南關外 .
Như thế cột mốc tại Nam-Quan đã được xác-định một cách rõ-rệt trên hai biên-bản : biên-bản phân-định 7 tháng 4 năm 1886 và biên-bản phân-giới, cắm mốc ngày 19 tháng 6 năm 1894, ghi rõ tên và vị-trí cột mốc bằng 2 thứ tiếng (Pháp và Hoa). Mô-tả như thế không thể chính-xác hơn được nữa.
Thế mà ông Dũng nói là : « các văn bản pháp lý về hoạch định và PGCM giữa Pháp và Nhà Thanh có những điểm quy định không rõ ràng ».
Tài-liệu của bộ Ngoại-Giao, nơi ông Vũ Dũng làm việc đến chức Thứ-Trưởng, công-bố năm 1979 qua nhà Xuất-Bản Sự-Thật, nói về Nam-Quan như sau :
Năm 1955, tại khu-vực Hữu-Nghị Quan, khi giúp Việt-Nam khôi-phục đoạn đường sắt từ biên-giới Việt-Trung đến Yên-Viên, gần Hà-Nội, lợi-dụng lòng tin của Việt-Nam, phía Trung-Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt-Trung sâu trong lãnh-thổ Việt-Nam trên 300m so với đường biên-giới lịch-sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên-giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính-Phủ Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa đã đề-nghị chính-phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều-chỉnh lại điểm nối ray cho phù-hợp với đường biên-giới lịch-sử nhưng họ một-mực khước-từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn-bộ vấn-đề biên-giới thì sẽ xem-xét. Cho đến nay họ vẫn trắng-trợn ngụy-biện rằng khu-vực hơn 300m đường sắt đó là đất Trung-Quốc với lập-luận rằng “không thể có đường sắt nuớc này đặt trên lãnh-thổ nước khác”.
Cũng tại khu-vực này, phía Trung-Quốc đã ủi nát mốc biên-giới số 18 nằm cách cửa Nam-Quan 100m trên đường Quốc-Lộ để xóa vết-tích đường biên-giới lịch-sử, rồi đặt cột mốc ki-lô-mét 0 đường bộ sâu vào lãnh-thổ Việt-Nam trên 100m, coi đó là vị-trí đường quốc-giới giữa hai nước ở khu-vực này.
Như vậy, họ đã lấn-chiếm một khu-vực liên-hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo-Lâm, huyện Văn-Lãng, tỉnh Lạng-Sơn của Việt-Nam, dài 3.100km (có lẽ ghi sai, m chứ không thể km, chú-thích của tác-giả) và vào sâu đất Việt-Nam 0,500 km. Năm 1975, tại khu-vực mốc 23 (xã Bảo-Lâm, huyện Văn-Lãng, tỉnh Lạng-Sơn), họ định diễn lại thủ-đoạn tương-tự khi hai bên phối hợp đặt ống dẫn dầu chạy qua biên-giới: phía Việt-Nam đề-nghị đặt điểm nối ống dẫn dầu đúng đường biên-giới, họ đã từ-chối, do đó bỏ dở công-trình này.
Như thế phía Việt-Nam nắm vững hoàn-toàn nội-dung công-ước Pháp-Thanh, phần liên-quan đến Nam-Quan.
Ông Vũ Dũng không thể không biết việc cột mốc mang số 18 cách cổng Nam-Quan 100m đã bị Trung-Quốc « ủi nát » và biên-giới tại đây đã lấn vô phía Việt-Nam trên 100m từ thời ông Hồ còn làm Chủ-Tịch nước.
Ông Dũng diễn-dịch đường biên-giới vùng Nam-Quan với ngôn-ngữ rất « ngoại-giao », rất chung chung, không nói chính-xác cột mốc tại Nam-Quan thời Pháp và nhà Thanh họ cắm tại đâu, cột mốc này sang thời chủ-tịch Hồ Chí Minh thì bị Trung-Quốc « ủi nát » và lấn đất ra sao. Ông không nói thì mọi người cũng thông-cảm thôi. Vì nói ra thì để lộ cái tội không giữ được nước của Bác Hồ mà ông đã không hết lời ca ngợi : Gần tám thập kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng những hy sinh, mất mát to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này…
Giữ thế nào mà lại viết công-hàm nhượng đảo 1958, ký hiệp-ước nhượng đất và biển năm 1999 và năm 2000 ? Thật mĩa-mai phải không ông Vũ Dũng ?
b/ Vấn-đề thác Bản-Giốc :
Ông Vũ Dũng nói rằng : Thác Bản Giốc gồm hai phần: phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, không có tranh chấp; phần thác thấp gắn liền với sông Quây Sơn. Theo Công ước Pháp - Thanh, đường biên giới đi giữa sông Quây Sơn đến thác và mốc 53 nằm phía trên thác đánh dấu sự chuyển hướng đường biên giới từ sông lên bờ.
Đây cũng là ngôn-ngữ « ngoại-giao », chỉ nói chung chung, hiểu sao cũng đúng. Con sông Qui-Xuân (Quây-Sơn) bắt nguồn từ Trung-Quốc, chảy vào Việt-Nam (qua Ải Lung, cột mốc 81), cắt một góc Đông-Bắc Cao-Bằng, và chảy vào lại Trung-Quốc (mốc 30, 31, 32). Phần trên hay phần dưới thác đều thuộc sông Qui-Xuân. Đoạn trên thuộc Việt-Nam, đoạn dưới sông này (khoảng các cột mốc 30-31-32) con sông là đường biên-giới. Nhưng thác Bản-Giốc nằm ở đâu ?
Ông Dũng cho rằng thác gồm hai phần, phần trên và phần dưới, nhưng nói vậy là thiếu.
Chỉ nói về trường-hợp thác Bản-Giốc. Thác Bản-Giốc là một loại thác bậc thềm (có 3 bậc), cao khoảng 50m. Như thế thác Bản-Giốc (cũng như các thác nước khác) có 3 phần : phần trên (là sông), phần giữa (là thác), phần dưới (là sông). Phần giữa thác Bản-Giốc cao khoảng 50m. Ông Dũng nói thác có hai phần để khỏi cắt nghĩa lôi-thôi về phần giữa, tức phần quan-trọng nhất, cái thác thuộc về nước nào ?
Ký-giả phỏng-vấn rõ-ràng không có kiến-thức (thông-tin) về thác nước.
Nhưng thực ra vị-trí thác Bản-Giốc trên sông Qui-Xuân (Quây-Sơn) không đơn-giản như ông Dũng mô-tả. Sự thật về thác Bản-Giốc như thế nào ? Thác này theo tài-liệu lịch-sử thì thuộc về ai ? Quí độc-giả có thể xem bài viết sau đây, có đầy đủ hình-ảnh, tài-liệu lịch-sử và pháp-lý đính kèm.
http://www.congdongnguoiviet.fr/TaiLieu/tlTimHieuChuQuyenBanGioc.htm Trong bài viết này chúng tôi chỉ xin trưng ra tài-liệu của bộ Ngoại-Giao Việt-Nam công-bố năm 1979 nói về chủ-quyền thác Bản-Giốc.
« Năm 1955-1956, Việt-Nam đã nhờ Trung-Quốc in lại bản-đồ nước Việt-Nam tỉ-lệ 1/100.000. Lợi-dụng lòng tin của Việt-Nam, họ đã sửa ký-hiệu một số đoạn đường biên-giới dịch về phía Việt-Nam, biến vùng đất của Việt-Nam thành của Trung-Quốc. Thí-dụ: họ đã sửa ký-hiệu ở khu-vực thác Bản-Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao-Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản-Giốc của Việt-Nam và cồn Pò-Thoong….
Tại khu-vực cột mốc 53 (xã Ðàm-Thủy, huyện Trùng-Khánh, tỉnh Cao-Bằng) trên sông Qui-Thuận có thác Bản-Giốc, từ lâu là của Việt-Nam và chính-quyền Bắc-Kinh cũng đã công-nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung-Quốc đã huy-động trên 2.000 người kể cả lực-lượng vũ-trang lập-thành hàng rào bố-phòng dày-dặc bao-quanh toàn-bộ khu-vực thác Bản-Giốc thuộc lãnh-thổ Việt-Nam, cho công-nhân cấp-tốc xây-dựng một đập kiên-cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên-giới, làm việc đã rồi, xâm-phạm lãnh-thổ Việt-Nam trên cồn Pò-Thoong và ngang-nhiên nhận cồn này là của Trung-Quốc. »
Theo tài-liệu dẫn trên và các tài-liệu lịch-sử thì thác Bản-Giốc hoàn-toàn thuộc về Việt-Nam.
Ta thấy mới đây, phát-ngôn-nhân Trung-Quốc ông Tần Cương có cho rằng phe Việt-Nam thay đổi quan-điểm theo thời-gian. Ông này nói đúng. Thác Bản-Giốc đang của Việt-Nam bây giờ thành của Trung-Quốc ½.
Ông Dũng nói rằng vùng Bản-Giốc chưa phân-giới : « Hiện nay ta và Trung Quốc chưa PGCM đoạn biên giới khu vực này nhưng có thể khẳng định phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, phần thác thấp sẽ được phân giới theo luật pháp và tập quán quốc tế về trung tuyến dòng chảy hoặc trung tuyến tàu thuyền đi lại được, hoàn toàn không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc như một số người nói. Hàng triệu lượt khách du lịch đến thác Bản Giốc đều biết rất rõ điều này ».
Từ lâu phía Trung-Quốc đã đặt tên thác Bản-Giốc của Việt-Nam là Đức Thiên Bộc Bố và cho khai-thác du-lịch. Thác này được giới thiệu trên tờ quảng-cáo du-lịch « Guangxi Carte Touristique » như là « première grande chute d’eau transnationale de l’Asie ».
Nếu chưa phân-giới thì tại sao Trung-Quốc có thể làm việc này được? Ông Dũng lại nói sai.
Kết-luận: Không ngoại-lệ, ông Vũ Dũng, không khác các nhân-vật tương-tự như Thứ-Trưởng bộ Ngoại-Giao Lê Công Phụng, ông Bộ-Trưởng Nguyễn Dy Niên trong quá-khứ, tất-cả những tuyên-bố hay trả lời phỏng-vấn của các ông này chỉ làm cho vấn-đề biên-giới càng mù-mờ thêm. Ở hai điểm trên biên-giới được đề-cập là Nam-Quan và Bản-Giốc, nội-dung bài trả lời của ông Vũ-Dũng không khác ông Lê Công Phụng, tức cả hai chối quanh là không có mất đất, có điều ông Dũng có cái lưỡi gỗ chuyên-nghiệp hơn ông Phụng. Việc công-tác cắm mốc kéo dài cho thấy đã có những tranh-chấp sôi-nổi chủ-quyền một số vùng đất trên biên-giới. Ở Nam-Quan, Bản-Giốc với những bằng-chứng cụ-thể như vậy cho thấy Việt-Nam có mất đất cho Trung-Quốc, nhà-nước CSVN không thể ngụy-biện. Chúng tôi nghĩ rằng, nhà-nước CSVN không thể bưng-bít thông-tin mãi như thế được. Ông Vũ Dũng, với trách-nhiệm đang có, nên công-bố bộ bản-đồ đính-kèm hiệp-ước 1999, một bộ-phận không thể tách-rời của HUBG 1999. Chỉ có việc công-bố này mới có thể giải-tỏa mọi ngộ-nhận bất-lợi nơi dư-luận và chứng-tỏ đây là một nhà-nước có trách-nhiệm.
Tài-liệu tham-khảo: hồ-sơ phân-định biên-giới CAOM. Xem Biên-Giới Việt-Trung 1885-2000 – Lịch-sử thành-hình và những tranh-chấp xuất bản năm 2005 của cùng tác-giả.
(1) Từ giới điểm số 6, đường biên giới theo sống núi, hướng Tây Nam đến một điểm gần yên ngựa phía Đông Bắc điểm có độ cao 2546 trong lãnh thổ Việt Nam, sau đó theo khe, hướng Đông Nam đến đầu nguồn suối Lũng Pô (Hồng Nham), rồi xuôi theo suối Lũng Pô (Hồng Nham) và hạ lưu của nó, hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu suôn này với sông Hồng, từ đó đường biên giới xuôi sông Hồng, hướng Đông Nam đến hợp lưu sông Hồng với sông Nậm Thi (Nam Khê), tiếp đó ngược sông Nậm Thi (Nam Khê), hướng chung Đông Bắc đến hợp lưu sông Nậm Thi (Nam Khê) với sông Bá Kết (Bá Cát), rồi ngược sông Bá Kết (Bát Tự), hướng chung là hướng Bắc đến hợp lưu sông này với một nhánh suối không tên, sau đó ngược nhánh suối không tên đó, hướng Bắc đến giới điểm số 7. Giới điểm này ở giữa nhánh suối không tên nói trên, cách điểm có độ cao 614 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 595 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 463 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,65 km về phía Đông.
Từ giới điểm số 7, đường biên giới rời suối, hướng Đông Bắc, đến điểm có độ cao 143, sau đó hướng Đông Bắc, cắt qua một khe rồi bắt vào sống núi, hướng Bắc, qua các điểm có độ cao 604, 710, 573, 620, 833, 939, 1201 đến điểm có độ cao 918, rồi theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 1158, 1077, 997, 1407, 1399, 1370, 1344, 1281, 1371, 1423, 1599, 1528, 1552, 1372, 1523, 1303 đến điểm có độ cao 984, sau đó theo sống núi nhỏ, hướng chung là hướng Nam đến giới điểm số 8. Giới điểm này ở hợp lưu sông Xanh (Qua Sách) với một nhánh phía Tây của nó, cách điểm có độ cao 1521 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,85 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1346 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 3,82 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 1596 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,27 km về phía Tây - Tây Bắc.
Từ giới điểm số 8, đường biên giới xuôi sông Xanh (Qua Sách), hướng chung là hướng Nam đến hợp lưu sông này với sông Chảy, rồi ngược sông Chảy, hướng chung Đông Nam, đến giới điểm số 9. Giới điểm này ở hợp lưu sông Chảy với sông Xiao Bai, cách điểm có độ cao 1424 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 1031 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,00 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1076 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,40 km về phía Nam.
(2) Từ giới điểm số 56, đường biên giới theo đường phân thủy giữa các nhánh sông trong lãnh thổ Việt Nam và các nhánh sông trong lãnh thổ Trung Quốc, hướng chung Đông Bắc, qua các điểm có độ cao 652, 975, 875, 835, 1150, 1082 đến giới điểm số 57. Giới điểm này ở điểm có độ cao 882, cách điểm có độ cao 638 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 3,55 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 1265 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,95 km về phía Nam - Tây Nam, cách điểm có độ cao 1025 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,20 km về phía Tây - Tây Nam.
Từ giới điểm số 57, đường biên giới theo sống núi, hướng Tây Nam đến điểm tiếp nối với một khe, rồi theo khe, hướng Nam - Đông Nam, đến giữa suối Tài Vằn, sau đó xuôi suối này và hạ lưu của nó là suối Nà Sa đến giới điểm số 58. Giới điểm này ở hợp lưu suối Nà Sa với một nhánh sông nằm ở phía Đông, cách điểm có độ cao 423 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 447 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,75 km về phía Nam, cách điểm có độ cao 320 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,45 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 58, đường biên giới ngược nhánh sông phía Đông nói trên đến ngã ba sông Đồng Mô, rồi ngược sông Đồng Mô, Bỉ Lao, Cao Lạn đến giới điểm số 59. Giới điểm này ở hợp lưu hai con suối Cao Lạn và Phai Lầu, cách điểm có độ cao 1052 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,10 km về phía Bắc, cách điểm có độ cao 600 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,57 km về phía Đông, cách điểm có độ cao 602 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,00 km về phía Tây.
Từ giới điểm số 59, đường biên giới ngược suối Cao Lạn hướng Đông Nam, sau đó rời suối đi theo đường thẳng hướng Đông - Đông Nam đến một chỏm núi không tên phía Bắc điểm có độ cao 960 trong lãnh thổ Việt Nam, rồi theo đường đỏ trên bản đồ đính kèm Hiệp ước đến giới điểm số 60. Giới điểm này ở điểm có độ cao 1100, cách điểm có độ cao 1156 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,10 km về phía Bắc - Tây Bắc, cách điểm có độ cao 683 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 2,65 km về phía Tây Nam, cách điểm có độ cao 1094 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 0,95 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 60, đường biên giới theo sống núi nhỏ hướng Đông Bắc, xuống khe, rồi theo khe hướng chung là hướng Đông Bắc chuyển Đông - Đông Nam, đến một nhánh thượng lưu sông Ka Long, sau đó xuôi theo sông này, hướng Đông - Đông Bắc, đến giới điểm số 61. Giới điểm này ở hợp lưu sông Ka Long với một sông khác (Bắc Luân), cách điểm có độ cao 561 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 2,20 km về phía Đông Bắc, cách điểm có độ cao 117 trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 0,95 km về phía Tây Bắc, cách điểm có độ cao 224 trong lãnh thổ Trung Quốc khoảng 1,60 km về phía Nam - Tây Nam.
Từ giới điểm số 61, đường biên giới xuôi theo trung tuyến luồng chính tầu thuyền đi lại của sông Ka Long, Bắc Luân, đến điểm cuối của nó, bắt vào giới điểm số 62. Giới điểm này là điểm tiếp nối đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Hoàn Thành Phân Giới Cắm Mốc Biên Giới Trên Đất Liền Việt Nam - Trung Quốc Là Nguyện Vọng Chung Và Lợi Ích Lớn Của Nhân Dân Hai Nước Nhân Dân
02-01-2008
LGT (ND): Nhân dịp tỉnh Lào Cai hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên thực địa với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, ông Vũ Dũng, Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia đã trả lời phỏng vấn Báo Nhân Dân. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn.
Hỏi: Xin ông cho biết ý nghĩa của việc hoàn thành phân giới cắm mốc (PGCM) biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc tại địa bàn tỉnh Lào Cai?
Trả lời: Với việc cắm cột mốc số 144 tuần qua, công tác PGCM trên tuyến biên giới của tỉnh Lào Cai của Việt Nam với tỉnh Vân Nam của Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi. Lào Cai trở thành tỉnh đầu tiên trong bảy tỉnh biên giới phía bắc nước ta hoàn thành nhiệm vụ mang tính lịch sử quan trọng này. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với Lào Cai, mà còn có tác dụng lan tỏa tích cực đối với cả khu vực biên giới Việt - Trung và mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước.
Từ nay, đường biên giới của tỉnh Lào Cai đã được xác định rõ ràng và được đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới hiện đại trên thực địa, tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, góp phần gìn giữ sự ổn định ở khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu hợp tác, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại giữa tỉnh Lào Cai và tỉnh Vân Nam nói riêng và giữa Việt Nam với Trung Quốc nói chung.
Lào Cai hoàn thành PGCM cũng sẽ cổ vũ, khích lệ công tác PGCM trên toàn tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các bài học và kinh nghiệm của Lào Cai chắc chắn sẽ được các tỉnh khác tham khảo, học tập để đẩy nhanh tiến độ PGCM nhằm hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử này trong sáu tháng đầu năm 2008, theo tinh thần chỉ đạo của Ðảng, Nhà nước ta, cũng như nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Ðúng như phát biểu ý kiến của đại diện lãnh đạo tỉnh Vân Nam, Trung Quốc tại Lễ mừng công hoàn thành công tác PGCM của tỉnh Lào Cai ngày 30-12-2007 vừa qua: Có thể coi đây là "bông hoa đẹp" của quan hệ hợp tác, hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc nói chung và Lào Cai nói riêng, góp phần xây dựng đường biên giới Việt - Trung thật sự trở thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.
Hỏi: Xin ông cho biết thực trạng tình hình PGCM trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc và khả năng hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ này trước tháng 6-2008?
Trả lời: Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400 km. Hai bên thống nhất cắm khoảng 1.800 cột mốc, trong đó có 1.533 mốc chính và gần 300 mốc phụ.
Kể từ khi cắm mốc giới đầu tiên tại cặp cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) và Ðông Hưng (Quảng Tây) cuối năm 2001, trải qua hơn sáu năm bền bỉ phấn đấu, khắc phục muôn vàn khó khăn, gian khổ, đến nay các lực lượng PGCM của hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã hoàn thành hơn 85% khối lượng công việc PGCM trên thực địa, đồng thời đã khẩn trương tiến hành nghiệm thu thành quả PGCM, đăng ký mốc giới, mô tả hướng đi của đường biên giới, hoàn chỉnh bản đồ đính kèm Nghị định thư PGCM...
Ngoài Lào Cai, các tỉnh Lai Châu, Quảng Ninh cũng đã hoàn thành hơn 95% công việc, Nhóm PGCM số sáu thuộc tỉnh Hà Giang cũng vừa hoàn thành toàn bộ công việc trên thực địa.
Mặt khác, để đẩy nhanh tiến độ PGCM, vừa qua, tại Hà Nội, hai Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ đàm phán về biên giới lãnh thổ Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí một số biện pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến độ PGCM như tăng cường lực lượng PGCM, ưu tiên ổn định cuộc sống bình thường của cư dân biên giới, dỡ bỏ tất cả các công trình nằm trên đường biên giới, kể cả các công trình quân sự... để tạo thuận lợi cho PGCM.
Như vậy, với tiến độ PGCM như hiện nay và với các biện pháp quan trọng chỉ đạo công tác PGCM mà hai bên đã thỏa thuận, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng công tác PGCM trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc sẽ hoàn thành thắng lợi trong sáu tháng đầu năm 2008 như thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Hỏi: Một số mạng nước ngoài đưa tin thất thiệt rằng, Việt Nam bị mất đất. Ông có bình luận gì về ý kiến này?
Trả lời: Chủ quyền lãnh thổ là vấn đề hết sức thiêng liêng đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Ðối với dân tộc Việt Nam thì chủ quyền lãnh thổ lại càng thiêng liêng cao cả. Dân tộc ta từ nghìn xưa đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Gần tám thập kỷ qua, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng những hy sinh, mất mát to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này.
Trong đàm phán với Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng như trong quá trình PGCM trên thực địa, chúng ta đều đã thể hiện hết sức rõ ràng lập trường bất di bất dịch, đó là: chủ quyền lãnh thổ là vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể nhân nhượng. Vì vậy, không thể có chuyện "Việt Nam mất đất", "cắt đất" cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa tin.
Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này hoặc do thiếu thông tin hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.
Việt Nam và Trung Quốc khởi động đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ và Vịnh Bắc Bộ từ năm 1974. Năm 1991, hai bên ký Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, năm 1993, ký tiếp Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước; theo đó, về biên giới trên bộ, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, cam kết tôn trọng đường biên giới lịch sử theo các Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại. Ngày 30-12-1999, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền.
Vì vậy, có thể nói Hiệp ước 30-12-1999 là kết quả của quá trình đàm phán kiên trì trong rất nhiều năm giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiệp ước đã phản ánh đầy đủ, hoàn chỉnh nhất đường biên giới lịch sử để lại theo những nguyên tắc đã nói ở trên.
Hỏi: Gần đây có nhiều dư luận khác nhau về việc phân định khu vực thác Bản Giốc và khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, xin Thứ trưởng cho biết ý kiến về vấn đề này?
Trả lời: Như trên tôi đã nói, căn cứ quan trọng nhất để xây dựng Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là các Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Do hạn chế của điều kiện lịch sử, các văn bản pháp lý về hoạch định và PGCM giữa Pháp và Nhà Thanh có những điểm quy định không rõ ràng. đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn từ 1/20.000 đến 1/500.000, có nghĩa một mi-li-mét trên bản đồ tương đương với từ 20 m đến 500 m trên thực địa. Hơn nữa, địa hình trên bản đồ không hoàn toàn phù hợp với địa hình trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới tại các khu vực này. Chính vì vậy tại các khu vực này đã xảy ra tranh chấp rất phức tạp và kéo dài.
Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan. Trấn Nam Quan do Trung Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc, chứ không phải đường biên giới đi qua Ải Nam Quan như một số người vẫn hiểu.
Thác Bản Giốc gồm hai phần: phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, không có tranh chấp; phần thác thấp gắn liền với sông Quây Sơn. Theo Công ước Pháp - Thanh, đường biên giới đi giữa sông Quây Sơn đến thác và mốc 53 nằm phía trên thác đánh dấu sự chuyển hướng đường biên giới từ sông lên bờ. Hiện nay ta và Trung Quốc chưa PGCM đoạn biên giới khu vực này nhưng có thể khẳng định phần thác cao hoàn toàn thuộc Việt Nam, phần thác thấp sẽ được phân giới theo luật pháp và tập quán quốc tế về trung tuyến dòng chảy hoặc trung tuyến tàu thuyền đi lại được, hoàn toàn không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc như một số người nói. Hàng triệu lượt khách du lịch đến thác Bản Giốc đều biết rất rõ điều này.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, về tổng thể, các giải pháp đạt được trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền nói chung và đối với hai khu vực cụ thể nói trên là thỏa đáng, đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên.
Hỏi: Vừa qua dư luận đã thể hiện thái độ bức xúc trước việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, xin Thứ trưởng bình luận về vấn đề này?
Trả lời: Chính phủ ta đã tỏ thái độ rất rõ ràng về việc thành lập thành phố "Tam Sa". Ðây là việc làm không phù hợp với thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước, với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Ðông (DOC).
Lãnh đạo cấp cao Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có những biện pháp kịp thời đối với việc làm sai trái này. Chúng ta sẽ tiếp tục giao thiệp trực tiếp, chính thức với phía Trung Quốc về vấn đề này, cố gắng giải quyết vấn đề thông qua đàm phán hữu nghị trên tinh thần hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, có lý, có tình.
Chúng ta có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hỏi: Nhân đây, xin Thứ trưởng cho biết đôi nét về tình hình quan hệ Việt - Trung hiện nay?
Trả lời: Quan hệ Việt - Trung từ sau bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trung Quốc đã trở thành đối tác toàn diện rất quan trọng của Việt Nam. Lãnh đạo hai nước đã thường xuyên gặp gỡ, trao đổi và đạt được nhiều nhận thức chung rất quan trọng có liên quan đến tất cả các lĩnh vực quan hệ hai nước trên tinh thần tin cậy, hợp tác hữu nghị, cùng phát triển.
Liên quan đến biên giới lãnh thổ, lãnh đạo cấp cao hai nước đã thỏa thuận sớm hoàn thành PGCM biên giới trên bộ như đã nói ở trên; về trên biển, hai bên cam kết thông qua đàm phán hòa bình giải quyết các vấn đề tồn tại, tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, phù hợp luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Ðông (DOC), không có các hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc có bước phát triển lớn. Trong nhiều năm liền, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam (riêng năm 2007, kim ngạch buôn bán hai chiều dự kiến đạt hơn 14 tỷ USD). Ðầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam tuy chưa tương xứng với tiềm năng nhưng đang tăng với tốc độ khá cao. Ðặc biệt, với việc triển khai thực hiện dự án "hai hành lang, một vành đai kinh tế" đã được Lãnh đạo cấp cao hai nước thỏa thuận và nhiều dự án lớn khác về hạ tầng cơ sở như cải tạo, nâng cấp một số đoạn đường bộ và đường sắt, xây dựng một số cầu cảng, nhà máy điện..., Trung Quốc có thể sẽ trở thành một trong những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam trong tương lai không xa.
Về du lịch, Trung Quốc là thị trường nguồn lớn nhất của Việt Nam với lượng khách từ Trung Quốc mỗi năm đạt từ 600.000 đến 800.000 lượt người và có thể tăng nhanh trong vài năm tới. Trung Quốc cũng đang là một trong những nước cung cấp tín dụng ưu đãi dài hạn cho Việt Nam để xây dựng các dự án hạ tầng cơ sở và công nghiệp. Quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực khác, kể cả quốc phòng, an ninh, cũng đang phát triển ngày thêm chặt chẽ. Hai nước đã và đang phối hợp với nhau rất tốt trên nhiều vấn đề khu vực và quốc tế.
Ðối với vấn đề biên giới lãnh thổ, ngoài công tác PGCM như đã nói ở trên, trong Vịnh Bắc Bộ, hai nước đã phối hợp triển khai có hiệu quả hai hiệp định là Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá; hải quân hai nước đã tiến hành nhiều cuộc tuần tra chung trong Vịnh; Tập đoàn dầu khí hai nước đã hoàn thành công tác khảo sát địa chấn chung trong Vịnh, số vụ vi phạm giảm một cách đáng kể. Hai nước cũng đã tiến hành ba vòng đàm phán về phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và 11 vòng đàm phán về các vấn đề trên biển.
Mới đây nhất, trong cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa hai Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về biên giới lãnh thổ, hai bên đã thỏa thuận tăng cường hợp tác trên biển, trước mắt trong các lĩnh vực ít nhạy cảm như nghiên cứu khoa học biển, phòng, chống thiên tai, phòng, chống tội phạm trên biển, đối xử nhân đạo với ngư dân hai nước.
Những kết quả đạt được nói trên cho thấy, cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều đã có những cố gắng giữ gìn và vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt - Trung, vì lợi ích chung hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Trung là trách nhiệm và lợi ích của cả Việt Nam và Trung Quốc. Hai nước cần đứng trên tầm cao của lợi ích lớn của hai nước, của hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế để xử lý các vấn đề do lịch sử để lại, các vấn đề nảy sinh thông qua đối thoại, thương lượng hòa bình.
Thực tiễn cũng chứng minh rằng, xây dựng mối quan hệ Việt - Trung "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" thật sự là nguyện vọng chung, là lợi ích lớn của nhân dân hai nước. Quan hệ giữa hai Ðảng, hai nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc đang phát triển tốt đẹp và chắc chắn sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp hơn.
Bản để in http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=7215
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.01.2008 13:56:26 bởi Ngọc Lý >