Nguồn: Tiếng Dân Kêu http://dvdvn.org/TDK/_HSNQ/HSNQ_20070728_BuiMinhTuan.htm BÙI MINH TUẤN Sơ lược tiểu sử Bùi Minh Tuấn sinh năm 1961 tại Hà Nội. Vượt biển tới Hồng Kông ngày 22/6/1981. Bị giam giữ và tiếp tục trao cho Trung Cộng cầm tù tại Quảng Châu... Sau nhiếu năm lên tiếng của cơ quan nhân quyền và sự can thiệp của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, cho tới ngày 27/9/1991 mới được qua định cư tại Phẩn Lan. Tác phẩm: Tập thơ Trung Quốc: Ngục Tù và Nước Mắt là tâm tình của Bùi Minh Quốc qua các kinh nghiệm sống trong giai đọan bị giam giữ tại Trung Cộng trước khi tìm được tự do thật sự. Tác phẩm được Đảng Vì Dân giới thiệu trên diễn đàn Tiếng Dân Kêu Tham khảo: http://dvdvn.org/TDK/_HSNQ/HSNQ_20070728_BuiMinhTuan.htm TRUNG QUỐC Ngục tù và nước mắt Bạn đọc thân mến,
Thưa các bạn: tôi là một người Việt Nam tỵ nạn, cũng như tất cả những người Việt tỵ nạn khác. Tôi rời quê hương để ra đi tìm tự do vào ngày 31-05 1981 bằng đường biển và tới được Hồng Kông ngày 22-06-1981. Nhưng sau khi tôi tới Hồng Kông, chính quyền Hồng Kông nghi ngờ tôi là đã định cư tại Trung Quốc, vậy mà chúng giam cầm tôi hai năm rưỡi trong các nhà tù và nhà thương điên tại Hồng Kông và chúng đã hành hạ tôi bằng những loại thuốc vô cùng ghê tởm, nhằm hủy hoại hệ thần kinh của con người. Những người mà chính quyền Hồng Kông cho là trọng tội bị đưa vào nhà thương điên, đa số sau này bị mắc bệnh tâm thần. Đây là tội ác vô cùng dã man của chính quyền Hồng Kông giữa một thời đại mà nhân loại cho là văn minh này.
Tuyệt thực,(*) chúng bảo tôi điên Đưa vào bệnh viện chúng tiêm, chúng hành Mửa ra nhớt dãi mật xanh Toàn thân đau đớn chúng quăng vào phòng. (*)Tôi tuyệt thực để đòi được hưởng quy chế tỵ nạn, như tất cả những người Việt Nam tỵ nạn. Quần áo bắt cởi hết ra Chân tay trói lại tưởng là đã xong Ngờ đâu châm ngọn lửa hồng Gí vào đốt trụi phần lông cuộc đời. Cho tới ngày 14-12-1983, chính quyền Hồng Kông đưa tôi sang Trung Quốc. Sau khi tới biên giới Trung Quốc, tôi đã không xuống xe và nói với công an Trung Cộng rằng: Tôi là người Việt Nam, chưa từng ở qua Trung Quốc. Nhưng công an Trung Cộng đã dùng vũ lực bắt tôi phải sang xe của chúng, và chiều hôm đó chúng chở tôi tới trại giam Trung Lac Tam, cách Quảng Châu khoảng 30 cây số. Tại đây, chính quyền Trung Cộng ép tôi phải tự nhận là đã định cư tại Trung Quốc. Chúng giam tôi ròng rã hơn nửa năm trời, bắt ăn đói, nằm đất và đánh đập tôi vô tội vạ. Có lần chúng giam một người Việt gốc Hoa cùng phòng với tôi. Vì không chịu nổi sự đối xử bất nhân của chính quyền Trung Cộng, nên anh ta đã dỡ ngói bỏ trốn. Sáng hôm sau, bọn công an đem tôi ra đánh đập một cách tàn nhẫn, chúng đánh tôi ngất xỉu, người tôi bê bết máu và bầm tím vì những vết dùi cui điện. Đánh xong, chúng nói với tôi rằng: "
sao mày không trốn theo nó, ở đây để chờ chết à". Ôi lũ Tàu cực kỳ vô luân và phi lý.
Tù giam hành hạ thân tàn Mỗi khi cơn đói cồn ran dạ dày Run, rủn mình mẩy chân tay Bước đi loạng choạng cuồng quay mặt mày. * Lắm đêm trời rét căm căm Không giường, không chiếu, không chăn, không màn Một mình trong xó phòng giam Tôi ngồi run rẩy thở than một mình. * Ngộp thở vì cái thùng phân Nửa tháng mới được một lần đổ đi Mỗi lần mở nắp, ôi thì Cái mùi xú uế không gì lợm hơn. * Rét ơi, ta sợ rét rồi Bao đêm giá lạnh ta ngồi co ro Ngực cổ ta rát vì ho Người run cầm cập ta bò thay đi. * Thật thâm độc lũ ghẻ tàu Cắn loét da thịt xót đau vô cùng Chân, tay, mông, bẹn lung tung bộ hạ ngứa ngáy nổi khùng phát điên. * Sau những trận đòn chí tử Người tôi bầm tím, lử đử ươn ươn Nhức đau mình mẩy trong xương Mỗi khi thời tiết bất thường đổi thay. DUY VẬT BIẾN CHỨNG Tôi đang sống những tháng ngày Chủ nghĩa duy vật đọa đày bất nhân Tù giam tàn tạ tấm thân Ăn đói, nằm đất thùng phân cạnh mình Mạng sống bệnh hoạn rập rình Thần kinh căng thẳng, thân hình còm nhom Bước đi chẳng thể lom khom Chân qùy tay chống thân còm rét run Lắm đêm, đói lả tay chùn Bò đi không nổi nó phun ra quần Xung quanh như thể tử thần Rình rập đây đó tấm thân suy tàn Quay cuồng mộng ảo miên man Mơ mơ tỉnh tỉnh mơ màng lơ mơ Thân bại hoại, mắt cay mờ Lịm đi cho tới tận giờ cơm trưa Mỗi khi trời đổ cơn mưa Mình mẩy đau nhức vết xưa bị đòn Ghẻ lở ngứa ngáy thân còm Ho hen bệnh hoạn mỏi mòn mầu tang Mà lòng những ước hạ sang Đông dài, xuân thoảng, mênh mang hạ về Ngờ đâu ngột ngạt tiết hè Ngày ruồi đêm muỗi vè vè quanh tôi Ngợp mùi xú uế thiu ôi(*) Hòa trong cơn đói làm tôi quay cuồng Ai ơi, muốn hiểu tận tường Duy vật biến chứng tôi nhường vào đây. (*) Phân và nước tiểu bị om lâu ngày, bốc lên cái mùi vô cùng tởm lợm. Khốn thay: Sống trong chế độ phi nhân Ngộp thở vì cái thùng phân của mình. Tới giữa tháng 08 năm 1984, chính quyền Trung Cộng bắt tôi ra ngoài đi làm và chúng đã đối xử với tôi vô cùng độc ác và hèn hạ. Nhiều khi, tưới phân và nước tiểu cho rau xong, chúng kêu tôi ngồi bắt sâu,mùi phân và nước tiểu bốc lên làm tôi choáng váng không sao chịu nổi. Thật không có từ ngữ nào lột tả được sự thâm độc vô luân của chính quyền Trung Cộng
. Sáng ra, chúng chẳng cho ăn Bắt đi bổ củi, chặt cành cưa cây Đói cồn cào trong dạ dày Mắt hoa, mình lả, chân tay rã rời. * Trưa hè trời nắng chói chang Chúng bắt đi dỡ khoai lang trên đồi Mặt mày nhễ nhại mồ hôi Dừng tay uống nước chúng lôi ra làm. * Buổi sáng lùa ngỗng ra đồi Trưa về quét dọn, chiều ngồi thái rau Tối khuya bên ngọn đèn dầu Tôi ngồi gục mặt vò đầu miên man. * Nghỉ làm bởi tôi nhức đầu Đang ngồi ôm mặt thằng Tàu kêu đi Ra ngoài quát tháo xồ xì Bợp tai đá đít không gì tức hơn. * Sáng ra trời lạnh hơi sương Long lanh ngọn cỏ, giọt vương cây cành Trên đường ra tưới rau, hành Đôi thùng nước tiểu tròng trành bờ vai. * Những chiều cuốc đất trên đồi Gió đông hiu hắt, lòng tôi u sầu Không gian bao phủ một mầu Mầu đen quyền lực vò nhàu đời tôi. CÓ NHỮNG CHIỀU Có những chiều tiết trời hiu hắt Tưới phân xong, ngồi bắt sâu rau Tôi ngừng tay bởi váng đầu Thằng công an đứng càu nhàu không thôi Có những chiều trên đồi dỡ lạc Trời ngột ngạt, nắng rát lưng tôi Thân hình nhây nhớt mồ hôi Đương làm đứng dậy mắt tôi sa sầm Có những chiều tiết trời hiu quạnh Ngồi hái rau dưới nắng hanh vàng Môi rớm máu, mặt khô ran Chân tay nứt nẻ, ruột gan cồn cào Có những chiều trên đồi cuốc đất Trời tối sầm, gió bấc tràn qua Thân gầy gió tạt mưa sa Người run cầm cập, thịt da tím bầm Bao năm rồi giam cầm đánh đập Thể xác này bầm dập đớn đau Đời bao cay đắng khổ sầu Bấy nhiêu uất hận lũ Tàu dã man. Trong hơn ba năm bị giam cầm tại đây, tôi đã nhiều lần viết thư nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Bắc Kinh hãy lên tiếng can thiệp- và nhiều lần viết thư yêu cầu chính quyền Trung Cộng hãy trả tôi về Hồng Kông, như chúng đã nhận tôi sang đây. Nhưng mãi tới đầu năm 1987, tôi mới được ban ngoại kiều tỉnh Quảng Đông cho hay rằng, trường hợp của tôi chỉ có hai con đường:
1) Là họ sẽ đưa tôi ra vùng ven biển, để ghép vào một chiếc thuyền tỵ nạn đi từ Việt Nam ghé qua, sang Hồng Kông. Nếu như bị chính quyền Hồng Kông trả lại cho Trung Quốc thì chính phủ Trung Quốc sẽ không nhận.
2) Là tiếp tục bị tù ở Trung Quốc suốt đời.
Cho dù có bị chết trên biển, tôi đành phải chấp nhận con đường thứ nhất. Ngày 30-03 1987, công an Trung Cộng đưa tôi ra vùng biển Trạm Giang. Sau đó, chúng ghép tôi xuống một chiếc thuyền tỵ nạn đi từ Việt Nam ghé qua. Sau gần một tháng lênh đênh trên biển, ngày 24-04-1987 tôi lại tới được Hồng Kông an toàn. Sau khi tới Hồng Kông, tôi đã khai toàn bộ sự thật về trường hợp của tôi với cục di dân Hồng Kông, nhưng chính quyền Hồng Kông lại tiếp tục giam cầm tôi. Cho tới ngày 20-12-1987, chính quyền Hồng Kông lại đưa tôi sang Trung Quốc. Lần này, chúng đưa tôi sang tỉnh Quảng Tây bằng đường biển, cùng với một số người Hoa đã định cư tại nông trường của Trung Quốc.
Sau khi tàu cặp vào cảng Bắc Hải, tôi nói với công an Trung Cộng là tôi chưa từng định cư tại bất kể nông trường nào của Trung Quốc. nhưng công an Trung Cộng lại dùng vũ lực bắt tôi phải lên xe và tối hôm đó, chúng chở tôi tới nông trường Ninh Minh, nằm gần với biên giới Việt Nam. sau khi xe về tới nông trường, cán bộ của nông trường nói với tất cả mọi người là ai ở phân trường nào thì về phân trường đó. Tôi nói với họ là tôi chưa từng định cư tại nông trường, họ bảo ngày mai họ sẽ xác minh lại.
Sáng ngày hôm sau, họ trả lời với tôi là họ đã nhận nhầm tôi và bảo tôi phải tự quay trở về Quảng Đông, nơi mà trước đây tôi bị giam giữ. Sau đó, họ mua cho tôi một cái vé xe lửa và viết một tờ giấy giới thiệu đến ban ngoại kiều tỉnh Quảng Đông. Hai ngày sau, tôi tới ban ngoại kiều tỉnh Quảng Đông tại thành phố Quảng Châu, đưa giấy và trình bày với họ về trường hợp của tôi. Nhưng sau khi đọc xong tờ giấy, họ bảo với tôi là họ không còn trách nhiệm trong vấn đề này nữa và đuổi tôi ra ngoài. Tôi nói với họ là hãy cho tôi một chỗ ở tạm thời, chứ tôi sống làm sao nổi. Lũ quái vật đã trả lời tôi rằng:
"Nhiều người Trung Quốc còn không có nhà ở, mày chết cũng chẳng có vấn đề gì". Tôi thiết tưởng, chỉ có thứ ngôn ngữ nào đó của loài quái vật, mới có thể tả được sự tàn ác của lũ quái vật đối với con người, và mới có thể nói lên được sự thâm độc vô luân trong cái chế độ duy vật bất nhân này.
Thân tôi đâu phải trái banh Mà lũ Trung Cộng tranh giành cướp nhau Đá qua đồi núi, biển sâu Quăng đi đá lại nát nhầu đời tôi. * Đêm nay, tôi biết về đâu Loanh quanh ngõ vắng tới đầu nhà ga Thẫn thờ như một bóng ma Mắt vương giọt lệ hoen nhòa lối đi. * Đêm nay, đang ngủ ngoài ga Dùi cui (điện) nó thúc toạc da máu trào Kêu thì chẳng thấu trời cao Cắn răng cam chịu làm sao bây giờ. * Đêm nay, nằm dưới lùm cây Màn trời chiếu đất đọa đày thân tôi Xung quanh rác rưởi tanh hôi Cùng chung số phận thì thôi cam đành. * Ban ngày đi giữa Quảng Châu Màn đêm buông xuống về đâu bây giờ Mắt tôi dòng lệ lóa mờ Biết rằng bãi rác đang chờ đợi tôi. * Thương em đào liễu tấm thân Áo cơm, bờ bụi thế nhân trao tình Chợt thương cho tấm thân mình Lấy gì làm vốn mưu sinh qua ngày. TÔI ĐANG PHẢI SỐNG Tôi đang phải sống trong những ngày tháng không thể tưởng Lăn lóc bơ vơ nơi xó chợ lề đường Vì sự bạo ngược của chính quyền Trung Cộng bất lương Chế độ này không một chút tình thương Chúng đã coi tôi như một kẻ thù giai cấp Hòng biến tôi thành loài thú vật Vì lũ cầm quyền chuyên nghề áp bức Tôi là người yêu chuộng tự do Tôi đang phải sống trong một chuỗi ngày khốn khổ âu lo Vất vưởng, cơ hàn, bệnh hoạn, nguy nan Cuộc đời tôi giờ đây chỉ còn tấm thân tàn Nhưng, lý tưởng tự do sẽ không thể tiêu tan. Trong thời gian phải sống lang thang tại Quảng Châu, tôi có viết thư cho báo Đường Sống ở bên Mỹ. Rất may, họ đăng tin và sau đó gửi đi cho các cơ quan tranh đấu cho nhân quyền.
Vào cuối tháng 04-1988, tôi nhận được một lá thư của tòa đại sứ quán Pháp tại Bắc Kinh gửi cho tôi, qua địa chỉ của một người quen mà tôi đã gửi cho Đường Sống. Trong thư nói là mang 240 đồng nhân dân tệ và hộ chiếu đến để làm thủ tục đi Pháp. Tôi đã mang lá thư này đến ban ngoại kiều tỉnh Quảng Đông và một tuần sau, tôi được chấp thuận cho vào ở tạm thời một nơi tại Quảng Châu, dưới sự quản lý của công an Trung Cộng.
Sau khi chính quyền Trung Cộng biết rằng, không có ai là thân nhân bên Pháp đứng ra bảo lãnh tôi, chúng đã kiểm duyệt thư từ của tôi một cách khắt khe và thường xuyên dùng những thủ đoạn đê hèn nhằm khủng bố tinh thần tôi. Chúng bảo tôi là hãy tự nguyện xin ra định cư tại một nông trường Hoa Kiều trong tỉnh Quảng Đông. Nếu không, chúng sẽ trả tôi về Việt Nam qua ngả biên giới. Cho dù có bị giết, tôi không thể chấp nhận việc làm gian ma của chính quyền Trung Cộng.
TA PHẢI NÓI Ta phải nói lên điều sự thật Ê, lũ Hồng Kông và Trung Cộng bạo tàn Đã tám năm hành hạ ta trong ngục thất Tội trạng chi ? Hỡi bè lũ Hán gian Ta phải nói lên điều sự thật Ta chấp nhận nguy biến cam go Sẵn sàng chết vì lý tưởng tự do Không chung sống với loài qủy đỏ Ta phải nói lên điều sự thật Chế độ này duy vật bất nhân Hại người mòn mỏi bằng mùi phân Biến con người xuống thành con vật Ta phải nói lên điều sự thật Tiếng nói sự thật là tiếng nói của lương tri Dù ngày mai phải vĩnh viễn ra đi Lòng ta thanh thản không chút gì vướng bận Ta phải nói lên điều sự thật Này, chính quyền Trung Cộng vô luân Đã tám năm ta bị giam cầm Trong ngục tối âm thầm đày đọa Lũ chúng bay hèn hạ hung tàn Sự hung tàn chỉ hun lồng lửa oán Lửa trong ta, lửa thần trí Việt Nam Lũ chúng bay duy vật dã man Không thể làm ta tiêu tan lý trí Lũ chúng bay mặt người dạ qủy Sao giết được ý chí trong ta Ý chí ta mang hào khí ông cha Thà bị giết! Thề không khuất phục Trước kẻ thù không đội trời chung. Cho tới ngày 27-09-1991, do sự sắp xếp của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, tôi đã đến định cư tại Phần Lan. Được cứu ra từ nỗi đau khổ tột cùng, được thoát khỏi chốn địa ngục. Tôi nguyện suốt đời đội ơn những người đã chủ trương và điều hành báo Đường Sống trước đây. Nếu như không có tình yêu thương của họ, thì chắc chắn tôi đã bị chết âm thầm trong bàn tay sắt máu của chính quyền Trung Cộng.
ĐỜI TÔI QÚY TRỌNG (Kính tặng nguyệt san Đường Sống) Đời tôi qúy trọng nghĩa nhân Vì ánh sáng ấy từ tâm con người Tối tăm giữa cõi chợ đời Ánh hào quang ấy đã khơi dậy tình Đời tôi thoi thóp hồi sinh Ơn này Đường Sống ban tình yêu thương Giải cứu tôi khỏi đêm trường Thoát sự hành hạ của phường sát nhân Nay tôi gửi chút tình thân Lòng trọng nhân nghĩa kính dâng lên Người Thân tàn hồi lại sắc tươi Là nhờ Đường Sống tình Người chứa chan. Thưa các bạn,
Trong những năm qua sống bình yên nơi xứ người, tôi đã cố quên đi những uất nghẹn, để mong tìm được sự thanh tĩnh trong tâm hồn và làm lại cuộc đời mới. Nhưng vì những hệ lụy của hơn mười năm giam cầm, đày đọa và đánh đập của chính quyền Trung Cộng đã làm cho sức khỏe của tôi càng ngày càng bị suy yếu trầm trọng và cứ mỗi khi trái gió trở trời người tôi lại đau nhức vì những vết đòn thù.
Nay tôi viết ra những dòng tâm sự này, để mong được chia sẻ với các bạn những điều tôi đã trải qua và cảm nhận trong cuộc hành trình tìm tự do đầy gian khổ này.
Chúc các bạn gặp nhiều may mắn,
Chào thân ái.
Bùi Minh Tuấn. TB- Vào năm 1986, trong khi tôi đang bị giam cầm tại trại giam Trung Lac Tam- Quảng Châu. Một hôm có một số cán bộ người Tàu còn rất trẻ, nói tiếng Việt thông thạo, chúng đến gặp tôi và tự giới thiệu là từ Bắc Kinh tới. Chúng bảo với tôi là chính phủ Trung Quốc trả tôi về Hồng Kông, nhưng chính quyền Hồng Kông không nhận. Nên hãy trở về Việt Nam làm việc cho chúng, chúng sẽ đưa tôi về đến Sài Gòn an toàn, có đầy đủ giấy tờ tùy thân và một cuộc sống sung túc. Cho dù có căm ghét chế độ Cộng Sản ở Việt Nam tới mức nào đi chăng nữa, tôi không thể chấp nhận cách hành xử vô luân phi lý của chính quyền Trung Cộng và càng không thể chấp nhận làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Tôi đã trả lời dứt khoát với bọn chúng là tôi không bao giờ chấp nhận việc làm này. Chúng bảo cho tôi sáu tháng để suy nghĩ, tôi nói là tôi không cần phải suy nghĩ. Nhưng khoảng nửa năm sau chúng quay trở lại, biết rằng tôi không chấp nhận việc làm xấu xa của bọn chúng. Trước khi ra về chúng còn bắt tay tôi và nói với tôi rằng- hy vọng năm hai nghìn anh em mình sẽ gặp nhau ở Việt Nam. Ôi, thế mới biết lũ Tàu cực kỳ thâm hiểm. Cũng trong lần gặp này, sau khi chúng biết rằng tôi dứt khoát không chấp nhận việc làm bất lương của bọn chúng, chúng quay ra nói với tôi là - về làm việc cho bác Hoàng Văn Hoan. Tôi nghĩ bụng tôi đâu có biết thằng khốn kiếp ấy là ai, chúng nó tranh giành quyền lực với nhau, thằng được thì làm vua, thằng thua bỏ chạy. Tôi làm gì có loại Bác Hoan với loại Bác Hồ.
SAU MỘT CUỘC HẢI TRÌNH Sau một cuộc hải trình đầy sóng gió
Tôi đã đến được bến bờ tự do
Thoát khỏi chế độ bạo quyền qủy đỏ
Tôi sung sướng và vô cùng hớn hở
Trước mặt tôi một chân trời rộng mở
Trời tự do tôi vẫn hằng ước mơ
Nhưng trời ơi! Tôi đâu có ngờ
Bảy năm qua tôi vô cùng khổ sở
Trong bàn tay tráo trở của Hồng Kông
Thông đồng với lũ Trung Cộng bạo tàn
Đã biến tôi thành món hàng đổi trao
Bảy năm qua, vất vưởng chốn ngục lao
Bảy năm qua, bao ức oan cay đắng
Bảy năm qua, như câm lặng đêm dài
Chúng đã coi tôi như loài cầm thú
Quăng quật tôi qua mười mấy ngục tù
Tương lai định cư tăm tối mịt mù
Ôi cuộc đời như chiếc lá cuối thu
Nhưng trong tôi tình quê vẫn ấp ủ
Bao đắng cay càng căm thù Cộng Sản
Là nguyên nhân mọi đau khổ ly tan
Đẩy quê hương tôi xuống vực thẳm điêu tàn
Người ở lại trong áp bức lầm than
Kẻ ra đi mang nỗi niềm tủi hận
Kiếp tha hương lê thân phận lưu đày
Thượng Đế ơi! Hãy cho tôi một ngày
Cho một ngày tương lai sáng lạn
Trên quê hương tôi không còn Cộng Sản
Để tất cả con Hồng cháu Lạc
Được trở về trong lòng Mẹ Việt Nam.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). ĐÊM THA HƯƠNG Đêm nay giữa chốn tha hương
Ta nằm thao thức nhớ thương quê nhà
Nhớ em, nhớ Mẹ, nhớ Cha
Nhớ người vun xới cho ta nên người
Quê hương đất Mẹ đẹp tươi
Sao ta lại phải bỏ người ra đi
Chỉ vì Cộng Sản gian phi
Ta đi ta mãi khắc ghi mối thù
Cha anh bị chúng bỏ tù
Thương gia trí thức chúng thu cửa nhà
Ngập tràn đói khổ xót xa
Em thơ thiếu sữa, Mẹ già thiếu ăn
Đêm nằm thao thức năm canh
Nghĩ về quê Mẹ sao đành người ơi
Đêm nay khắp bốn phương trời
Lắng tai nghe lấy những lời Mẹ than
Xuân về quê Mẹ điêu tàn
Đắng cay trộn với lầm than lệ nhòa
Xuân về thiếu cả sắc hoa
Thiếu từ tiếng pháo, thiếu qùa trẻ thơ
Xuân về thiên hạ ngẩn ngơ
Người người mong mỏi đợi chờ tin con
Xuân về lòng Mẹ héo hon
Mẹ đang mong đợi ngày con trở về.
(Trung lac Tam- Quảng Châu- Trung Quốc 1985). THỂ CHẾ TRUNG CỘNG Thể chế Trung Cộng vô luân phi lý
Cán quyền gian tham ấu trĩ hẹp hòi
Thói gian tham đã khai ngòi tội ác
Dìm con người trong đói khát, ngu si
Nhân tính băng hoại đạo lý suy vi
Xã hội này đang trên đà tự hủy.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). THƯƠNG EM (Thương tặng tuổi thơ Trung Quốc) Thương em giữa độ tuổi thơ
Cuộc sống côi cút bơ vơ không nhà
Trò đời sao nỡ sinh ra
Duyên tình gượng ép khai hoa trái mùa
Thương em biết mấy cho vừa
Cõi trần ai vốn dư thừa đắng cay
Hồn em trong trắng thơ ngây
Tránh sao cạm bẫy bủa vây cuộc đời
Thương em tâm thể rã rời
Bán phần thơ sắc cho đời mua vui
Áo cơm, chuốc nỗi ngậm ngùi
Sống trong ngục tối ngợp mùi tưởi tanh
Thương em, nín lặng sao đành
Hỡi sấm sét đánh tan tành không gian
Cho bao thống khổ tiêu tan
Cho quyền lực hết thời gian tung hoành.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). ĐÊM NAY Đêm nay, gió bấc tràn về
Ngoài trời gió rít não nề từng cơn
Lòng tôi chẳng ước gì hơn
Chỉ mong được một ổ rơm để nằm
Đêm nay, trời rét căm căm
Quần manh áo mảnh tôi nằm sao yên
Rũ rượi như thể người điên
Co ro ngồi dưới hàng hiên dãy nhà
Đêm nay, lạnh buốt thịt da
Tôi ngồi run rẩy mong qua đêm dài
Biết rằng cuộc sống ngày mai
Vẫn trong đau khổ miệt mài thế thôi
đêm nay rét qúa trời ơi
Ngồi không ngủ được bụng tôi cồn cào
Sống trong chế độ tù lao
Con người con vật có nào hơn nhau
Đêm nay, ngồi giữa Quảng Châu
Lạc loài đất khách lòng sầu khôn nguôi
Xa quê lúc tuổi đôi mươi
Khổ đau đã cướp sắc tươi cuộc đời
Đêm nay, đã bảy năm trời
Bảy năm sóng gió cuộc đời nổi trôi
Dạt vào xã hội tanh hôi
Người coi như rác thì thôi cam đành.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). HITLER ƠI Hitler ơi, ngươi mãi bị loài người nguyền rủa
Sao tư tưởng của ngươi lại là hiện thực thời nay
"Lẽ phải ở trong tay những kẻ có sức mạnh
và quyền thế"
Cho xó trần gian này ê chề thống khổ
Đây, chế độ lao tù chúng nói là tự do
Cuộc sống cơ cực bần hàn chúng bảo là
hạnh phúc ấm no
Những thứ đó chúng cho là lý tưởng
Ngụy lẽ nó bắt nguồn từ chân lý
Và chân lý ấy thì bất di bất dịch
Ôi, mớ lý thuyết Mác-Lê là vô địch.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). BẢY NĂM QUA Bảy năm qua tôi vô cùng khổ sở
Trong bàn tay của lũ Tàu man rợ
Bảy năm qua, chúng thay nhau đày đọa
Chốn ngục tù biến thân tôi tàn tạ
Sự dã man hành hạ xác thân tôi
Nhưng sao giết được ý chí con người
Tôi còn sống còn nuôi niềm hy vọng
Dù chỉ là tia hy vọng mong manh.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). TÔI CẦU MONG Nhân loại ơi! Có cảm thấy xót xa
Dân tộc tôi đang đau khổ lệ nhòa
Nước Việt Nam tôi triền miên trong tăm tối
Bởi chế độ bạo tàn bê bối gian manh
Chúng đã biến dân tộc tôi trở thành
Thứ công cụ để thi hành tham vọng
Cho học thuyết Cộng Sản hão huyền viển vông
Đỉnh cao thế giới đại đồng
Ăn ngon mặc đẹp mà không dùng tiền
Xã hội không có chính quyền
Giấc mơ của lũ vừa điên vừa khùng
Chúng đã xô dân tộc tôi xuống tận cùng vực khổ
Và muôn đời sẽ không có tự do
Nếu tương lai bè lũ cộng nô còn thống trị
Hỡi tất cả những phương trời tự do và công lý
Hỡi những con người trong chế độ lương tri
Hãy cùng nhau đồng loạt đứng lên đi
Hãy lắng nghe một Việt Nam lâm ly bi thảm
Hãy nhìn lũ tham tàn đang leo thang bành trướng
Cho lý tưởng điên cuồng Cộng Sản bất lương
Chúng đang lấy súng đạn trộn với máu xương
Để xây dựng thiên đường ma qủy
Hỡi nhân loại tôi cầu mong thức tỉnh
Kẻo máu người chúng nhuộm đỏ hành tinh
Máu đổ thây rơi suốt cuộc hành trình
Tôi cầu mong sao thế giới hòa bình tự do công lý.
(Trung Lac Tam- Quảng Châu- Trung Quốc 1986). THẰNG VỚT TRĂNG Trăng soi gương nước dễ coi
Thằng điên nhìn thấy liền đòi vớt trăng
Người khôn thấy vậy khuyên rằng
Chớ nên cuồng mộng nhăn răng có ngày
Thằng điên man rợ đáp ngay
Ta đây đã quyết có ngày thành công
Dù cho thây lấp đầy sông
Thế gian phá sản và không còn người
Địa cầu nhuốm đỏ máu tươi
Thì ta ắt phải là người được trăng
Nhân gian có hiểu được rằng
Con người Cộng Sản là thằng vớt trăng.
(Trung Lac Tam- Quàng Châu- Trung Quốc 1987). GIẤC MỘNG ĐÊM GIAO THỪA Ôi! Đêm nay là ba mươi Tết
Sau cả ngày mỏi mệt lang thang
Khắp Quảng Châu nơi hang cùng ngõ hẹp
Tôi bước đi trong cơn đói say mềm
Giờ ngồi đây trong con hẻm vắng
Tiết trời xuân không gian im ắng
Màn sương đêm bao trùm dầy đặc
Gió hiu hiu se sắt thịt da
Tiếc thương đời ngập ngụa nỗi xót xa
Khiến lòng tôi chạnh tưởng nhớ quê nhà
Nhớ miền quê hương yêu dấu thiết tha
Nhớ lũy tre xanh rủ mái nhà
Nhớ đình làng, giếng nước, cây đa
Nhớ người dân quê hiền hòa chất phác
Nhớ độ xuân về ngào ngạt hương thơm
Nhớ mùi khói bếp quyện hương rơm
Nhớ mông lung vào giấc ngủ chập chờn
Tôi mơ về một bữa cơm gạo trắng
Rưới nước mắm pha tỏi, ớt, chanh
Mấy qủa cà và một đĩa rau xanh
Tôi đang ăn, ăn rất ngon lành
Bỗng tiếng pháo đì đoành vọng lại
Nỗi bàng hoàng đưa tôi về thực tại
Cơn ngái ngủ, ôi trong mình bải hoải
Mắt cay sè, muỗi lượn bên tai
Người ngứa ngáy, hai bàn chân tê dại
Niềm đơn côi, đói rét miệt mài
Khổ đau này biết chia sẻ cùng ai
Tạo Hóa ơi! Cho thời gian ngừng lại
Để cuộc đời đừng có ngày mai.
(Quảng Châu- Trung Quốc. Mậu Thìn 1988). THƯ GỬI MẸ Mẹ ơi! Con viết thư này
Gửi về cho Mẹ để thay nghĩa tình
Mượn lời gửi gấm bóng hình
Xin Mẹ tha thứ tội tình cho con
Mong lòng Mẹ bớt héo hon
Mẹ đừng nghĩ đến đứa con lưu đày
Nhớ lời Mẹ dạy trước đây
Cuộc đời tỵ nạn đắng cay tràn trề
Tha hương kiếp sống não nề
Xa quê mới thấu tình quê ngọt ngào
Nhưng vì chế độ tù lao
Con còn ở lại có nào yên thân
Nên đành trốn Mẹ một lần
Vượt qua biển cả muôn phần hiểm nguy
Đâu ngờ từ buổi con đi
Là tình mẫu tử chia ly trọn đời
Nghĩ thương Mẹ lắm! Mẹ ơi!
Mẹ đã đau khổ một đời vì con
Bao năm sương gió mỏi mòn
Sớm hôm tần tảo nuôi con nên người
Mẹ vui những lúc con cười
Mẹ buồn khi thấy con lười biếng ăn
Bao nhiêu cực nhọc cam đành
Chắt chiu bùi ngọt Mẹ dành cho con
Ước mong con được vuông tròn
Mai ngày khôn lớn Mẹ còn cậy trông
Mẹ ơi! Giờ nghĩ đau lòng
Không nghe lời Mẹ nên nông nỗi này
Từ ngày xa Mẹ đến nay
Đời con chứa chất đắng cay tủi sầu
Sống trong đày đọa cơ cầu
Dưới bàn tay của người Tàu dã man
Giờ đây còn tấm thân tàn
Đang trong ngục tối biết đàng nào ra
Mẹ ơi! Đã bảy năm qua
Con đi biết Mẹ xót xa trông chờ
Mẹ ơi! Con có đâu ngờ
Con đi để Mẹ từng giờ nhớ mong
Thôi Mẹ đừng đợi, đừng trông
Kẻo thêm héo hắt mỏi mong lệ nhòa
Giờ đây tuổi Mẹ đã già
Lỡ khi đau ốm thêm đà héo hon
Mẹ ơi! Tha thứ cho con
Bảy năm xa Mẹ mỏi mòn khổ đau
Tim con tủi nhục vò nhàu
Bảy năm xa Mẹ lệ sầu vương rơi.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). ĐỜI TA Đời ta, từ buổi xa quê
Dập vùi trong chuỗi lê thê ngục tù
Ôi nay đã qúa bảy thu
Bao nhiêu oan nghiệt, hận thù , xót xa
Đời ta mắt lệ hoen nhòa
Dư thừa ý chí, nhưng mà rủi ro
Trong cơn hoạn nạn ai cho
Một chút nhân nghĩa ta so nghìn vàng
Đời ta đau xót ngập tràn
Trong cơn hoạn nạn ai màng đến ta
Thói thường ra vẻ chan hòa
Qua cơn hoạn nạn gian tà mới hay
Đời ta, qúa đỗi đắng cay
Bơ vơ đất khách ngửa tay xin tiền
Năm xu níu áo người hiền
Gặp phải thằng ác nó liền tạt tai
Đời ta, là chuỗi đêm dài
Hiện tại tăm tối, tương lai mịt mù
Sống trong chế độ lao tù
Mưu cầu cơm áo oán thù lẫn nhau
Đời ta, dù sống nơi đâu
Mà thờ ơ trước niềm đau quê nhà
Thà làm cát bụi phù sa
Bón cho thảo mộc nở hoa dâng đời
. (Quảng Châu- Trung Quốc 1988). NIỀM ĐAU QUÊ MẸ Việt Nam quê Mẹ yêu thương
Chứa chan tình nghĩa vấn vương cõi lòng
Dân ta dòng giống Lạc Hồng
Tình yêu non nước mặn nồng thiết tha
Non sông đất nước bao la
Hòa trong cuộc sống thiết tha mặn nồng
Quê ta gạo trắng nước trong
Tài nguyên phong phú, ruộng đồng phì nhiêu
Quê ta, ôi thật đáng yêu
Xa người lòng thấy sao nhiều xót xa
Tìm đâu những buổi chiều tà
Hoàng hôn buông xuống chim sà ngọn tre
Tìm đâu những buổi nắng hè
Chiều về lộng gió ven đê thả diều
Tìm đâu thôn xóm thân yêu
Lòng người chan chứa tình yêu nồng nàn
Tìm đâu mỗi độ xuân sang
Hương hoa tỏa ngát mênh mang lòng người
Tìm đâu ánh mắt nụ cười
Tấm lòng chung thủy mà người ta yêu
Quê ta đẹp biết bao nhiêu
Giờ sao xơ xác tiêu điều tan hoang
Bao người lìa xứ lang thang
Kẻ còn ở lại tóc tang đọa đày
Tuổi xuân mòn mỏi tháng ngày
"Nghĩa vụ quốc tế" phơi thây chiến trường
Từng đoàn nô lệ tha phương
Si-bê-ri lạnh buốt xương lưu đày
Xót thương bao tấm thân gầy
"Vùng kinh tế mới" đêm ngày rẫy nương
Xót thay quang cảnh phố phường
Trẻ thơ nhan nhản lề đường xin ăn
Thương bao thân phận cha anh
Tập trung cải tạo để thành thây ma
Đau thương đất tổ quê cha
Cam Ranh quân đế quốc Nga trị vì
Quê nhà tang tóc phân ly
Khiến cho dòng lệ ướt mi Mẹ hoài
Oán quân Cộng Sản vô loài
Thực hiện chính sách miệt mài tang thương
Hỡi người lưu lạc muôn phương
Là dòng Việt tộc hãy thương quê nhà
Đừng vì phù phiếm trăng hoa
Tiện nghi vật chất xóa nhòa tình quê
Đồng tâm ta vạch hướng về
Cùng nhau thực hiện lời thề đấu tranh.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1988). TA NGỒI ĐÂY Ta ngồi đây nghe đất trời rúng động
Hỡi bạo quyền Trung Cộng dã man
Dùng xe tăng nghiến nát đám dân lành
Lũ chúng bay cho là chiến thắng
Ta ngồi đây, chốn đọa đày thầm lặng
Nghe tin này thắt quặn ruột gan
Uất nghẹn hờn căm thế lực yêu gian
Không thể câm nín trước cuồng bạo phũ phàng
Dẫu bị giết, thân tàn đâu có hãi
Ta muốn thét tỏ cùng nhân loại
Ôi lũ bay một bầy chó dại
Chuyên cắn càn, sát hại lương dân.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1989). NGƯỜI ƠI Người ơi! Thuyết Cộng hão huyền
Sinh ra chế độ chuyên quyền phi luân
Cán Cộng vô học bất nhân
Sống trên xương máu mồ hôi dân lành
Xã hội đói khổ bạo hành
Trai hiền sinh dữ, gái lành hóa hư
Còn đâu duyên dáng tiểu thư
Khi mà cuộc sống qúa ư nghèo nàn
Làm sao giữ trọn phẩm vàng
Sống trong xã hội phũ phàng đảo điên
Còn đâu đức tính trai hiền
Khi mà đói khổ bạo quyền giương cao
Làm sao giữ vẻ thanh tao
Ở trong chế độ tù lao đọa đày
Xã hội nghèo đói lắt lay
Hỏi ai giữ tấm lòng ngay cho vừa
Bần cùng tính xấu đẩy đưa
Sinh tồn, đạo lý lọc lừa lẫn nhau
Người ơi! Lòng có xót đau
Nhìn về đất Mẹ cơ mầu diệt vong
Sao người tin tưởng chờ mong
Cái trò đổi mới trong vòng gian ma
Hôm nay Cộng nới lỏng ra
Ngày mai thắt lại thế là tiêu tan
Bản chất lũ Cộng dã man
Hãy nhìn bài học Thiên An Môn này
Người ơi! Thức tỉnh góp tay
Kiên trì tranh đấu cho ngày tương lai
Xóa bỏ chế độ độc tài
Thiết lập đa đảng, trong ngoài hợp xây
Một nền dân chủ từ đây
Sẽ đưa dân tộc tới ngày phồn vinh.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1989). CHẾ ĐỘ TRUNG CỘNG Chế độ Trung Cộng bất lương
Gây bao thống khổ tang thương kinh hoàng
Chính quyền bản chất bạo tàn
Kẻ càng gian ác thì càng thăng quan.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1990). VIẾNG MỘ ANH HÙNG PHẠM HỒNG THÁI Nguyện noi gương chí tiền nhân
Vì dân vì nước hiến dâng cuộc đời
Sáng nay tôi đến viếng Người
Đứng trước ngôi mộ vùng trời lưu vong
Cúi xin thắp nén hương lòng
Dâng niềm tôn kính thay vòng hoa tươi
Tấm gương Người mãi rạng ngời
Tiếng bom Sa-Điện muôn đời âm vang
Lòng thương dân nước lầm than
Quyết tử diệt lũ bạo tàn thực dân
Ơn Người vị quốc vong thân
Nguyện noi gương chí tiền nhân anh hùng.
(Hoàng Hoa Cương- Quảng Châu- Trung Quốc 1990). TA THỀ Ta thề, noi chí tiền nhân
Giương cao hào khí trước quân ngoại thù
Chín năm qua bị cầm tù
Trong nanh vuốt lũ Hán thù gian ma
Ta mang trí tuệ ông cha
Mang dòng hào khí tinh hoa Tiên Rồng
Niềm tin thắp sáng trong lòng
Ý chí son sắt với dòng thời gian
Chặng đường tranh đấu nguy nan
Tinh thần chịu đựng lại càng nêu cao
Ta thề, quyết lấy máu đào
Phát huy truyền thống anh hào Việt Nam.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1990). TA MUỐN THÉT Ta muốn thét vào mặt lũ cuồng điên
Giam cầm ta nay đã một thập niên
Tội lỗi chi ? Hỡi phỉ quyền gian ác
Đọa đày ta tấm thân tàn xơ xác
Tuổi ba mươi tóc điểm bạc mái đầu
Ta đang sống và hứng trọn niềm đau
Dưới vực sâu ta vẫn ngẩng cao đầu
Ta đâu sá! Hỡi lũ Tàu man rợ
Trái tim ta chùm hoa thơ vẫn nở
Giống Lạc Hồng đâu có sợ lũ bay
Trời đất còn đây, ta vẫn còn đây
Mặc cho qủy dữ bủa vây tứ bề
Ta vẫn sống và không hề nao núng
Giữa ngục tù họng súng, dùi cui.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1991). TA PHẢI DẠY Ta phải dạy cho chính quyền Trung Cộng bất lương
Một bài học luân thường đạo lý
Của văn hóa Lạc Việt ngời sáng lương tri
Và truyền thống đấu tranh ngút ngàn hào khí
Hãy lắng nghe! Hỡi tập đoàn vô luân phi lý
Đã mười năm! Đọa đày ta chưa thỏa ý
Giết ta đi! Hỡi bầy qủy mặt người
Lũ bay sinh ra từ loài đười ươi khốn kiếp
Tâm thể ta bầu nhiệt huyết Tiên Rồng
Thịt xương ta đâu sợ xiềng gông sắt thép
Tinh thần ta coi sấm sét tầm thường
Trái tim ta tha thiết với quê hương
Tấm lòng ta cảm thương nhân loại
Đã mười năm, tù đày hãm hại
Dưới gót thù chí khí lại càng cao
Sự bạo cuồng giết cả giấc chiêm bao
Nhưng chính nghĩa làm sao giết được
Ôi lũ bay sói lang tàn ngược
Hòng tiêu diệt cả ý tưởng tự do
Giữa ngục tù nguy biến cam go
Thề quyết tử vì tự do công lý
Dòng giống Việt tâm hồn đạo sĩ
Dùng văn thơ thay cho vũ khí
Ta viết lên dạy lũ qủy mặt người.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1991). CHỚ NÊN Chớ nên sùng bái cá nhân
Vốn được sùng bái bại lần lương tâm
Nẩy sinh tham vọng vượt tầm
Ắt gây thế sự thăng trầm đảo chao
Chớ nên ngạo mạn tự cao
Nghiệp đời đã chắc ai nào hơn ai
Làm người có lúc đúng sai
Đối nhân đừng để đời ai oán mình
Chớ nên mê muội ái tình
Xem thường bầu bạn, coi khinh người đời
Lỡ tình đương chín rụng rơi
Ai người an ủi cho vơi nỗi sầu.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1991). TỈNH DẬY Mười năm ta ngủ giấc say
Giật mình thức tỉnh mới hay chuyện đời
Mau mau tỉnh dậy người ơi
Mười năm ta nỡ bỏ rơi quê nhà
Mười năm thảm cảnh sơn hà
Muôn dân đói khổ, nhà nhà ly tan
Mười năm hờn oán ngút ngàn
Ôi bản chất Cộng hung tàn gian manh
Mười năm non nước tan tành
Ta còn tâm huyết sao đành bó tay
Nếu không trả mối thù này
Thì đừng mơ tưởng tới ngày hồi hương
Cũng đừng nói đến yêu thương
Càng thêm hổ thẹn với lương tâm mình
Người đời coi rẻ thầm khinh
Chúng ta một lũ bạc tình vong ân
Nên! Lòng trung hiếu rất cần
Ta phải thể hiện tinh thần đấu tranh
Lòng quyết gạt bỏ lợi danh
Không thể ấu trĩ đấu tranh nửa vời
Bởi lẽ sự nghiệp trên đời
Đều do tâm não con người tạo nên
Chỉ sợ tâm nhược ý hèn
Gặp thời cũng chẳng làm nên chuyện gì
Mười năm giấc ngủ li bì
Mau mau ta tỉnh dậy đi hỡi người.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1991). PHẨM ĐỜI Phẩm đời muôn thủơ tại tâm
Dòng sinh mệnh vốn thăng trầm thịnh suy
Hương lòng đong buổi loạn ly
Dũng khí tỏ lúc gian nguy đọa đày
Sắt son ư ? cuộc no say
Qua cơn khổ nạn mới hay chính tà
Thói đời ta tự khoe ta
Vàng thau khắc biết khi qua lửa hồng
Đời bao ngụy tạo do lòng
Sẽ bị đào thải theo dòng thời gian
Ân tình nghĩa cử chứa chan
Trước sau mãi được nhân gian ca truyền.
(Quảng Châu- Trung Quốc 1991). NỖI LÒNG KẺ THA HƯƠNG Phần Lan trời mới vào thu
Không gian tĩnh mịch âm u cảm buồn
Tiết trời lành lạnh hơi sương
Hàng cây ủ rũ, con đường vắng hoe
Một mình lặng bước trên hè
Thân phận viễn xứ não nề khôn nguôi
Lạc loài giữa chốn quê người
Hồn tôi ẩn hiện khung trời quê hương
Quê nhà còn lắm đau thương
Chế độ độc đảng nhiễu nhương ngập tràn
Nỗi lòng thương nhớ miên man
Cầu mong đất nước Việt Nam mai này
Qua thời chuyên chính tù đày
Cuộc sống trăm họ sum vầy bên nhau
Yêu thương xoa dịu niềm đau
Tạo cho non nước ngàn sau vững bền
Đối nhân lấy đức làm nền
Sống chan hòa đạo êm đềm nước non.
(Helsinki- Phần Lan 1995). VIỆT CỘNG BÁN NƯỚC Lũ Việt Cộng đã triều cống, tạ Tàu(*)
Việt Nam ơi! Một niềm đau muôn thủơ
Dòng lịch sử sẽ muôn đời nguyền rủa
Chúng bán rẻ xương máu của tiền nhân
Đảng Cộng Sản đã cam tâm cắt nhượng
Một phần lãnh thổ cho giặc bắc phương
Bộ chính trị, ôi một phường nhu nhược
Nhục nào hơn nhục bán nước cầu vinh
. (Helsinki- Phần Lan 2000). (*) Ngoài sự thần phục ra, Việt Cộng còn có ý tạ ơn và tạ lỗi Trung Cộng (Từ năm 1985, tôi đã gửi những bài thơ này cho báo Lửa Việt ở Canada và báo Đường Sống ở Mỹ).
Địa chỉ liên lạc. Email: nguctuvanuocmat@yahoo.com