MÁ - Truyện ngắn
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 27 bài trong đề mục
Nghiêm Lương Thành 30.09.2007 07:48:29 (permalink)
Nghiêm Lương Thành




 
            Chiến khẽ cựa mình. Đầu nhức như búa bổ. Anh nghe thấy tiếng muỗi leo eo bên tai, lúc gần, lúc xa, lơ mơ làng màng nhưng đầy hăm doạ. Mí mắt nặng tựa kẹp chì, không sao mở ra được. Bả vai bên trái tê bại, nhức nhối như có những mảnh thuỷ tinh nằm xiên xẹo bên trong. Chiến khó nhọc đưa cánh tay còn cử động được quờ quạng quanh mình. Ngón tay chạm phải cái gì đấy ẩm và bở; thính giác bắt gặp mùi hăng nồng của đất mới lẫn với mùi ngai ngái của rễ cây. Gì thế này ? - Anh hốt hoảng - Mình chết rồi ư ? Người ta đã chôn mình rồi sao ? Sự hốt hoảng nhoàng đến như một tia lửa bén vào nhúm cỏ khô, thổi bùng trong anh một chút năng lượng vừa đủ hé được cặp mí mắt sưng mọng.
            Tối quá. Anh đưa tay lên rờ rẫm một lần nữa. Đúng là mình đang nằm trong một cái hố. Rờ tiếp, thấy trên mình có một tấm gì đấy, mềm mềm như tấm chăn mỏng; dưới lưng là một tấm bố, dưới tấm bố là một tấm gỗ ghép khá dày, kê cao cách mặt hố chừng gang tay. Nhưng tại sao chôn mà không lấp đất ? Đúng lúc ấy, Chiến nhận ra có một lỗ tròn nhỏ; dồn hết thị lực nhìn kỹ, đúng ra là miệng một cái ống. Ánh sáng theo đầu ống đằng trên chui vào, yếu ớt phả ra một khoảng nhờ nhạt nước hến phía trên đầu. Vậy là rõ rồi: Ai đó đã chôn anh; cái ống kia là dùng để tuồn thức ăn xuống cho người xấu số; phía trên mặt đất, đúng chỗ mình nằm, sẽ là một cái nhà mồ. Trông nó thế nào nhỉ ? Chắc là giống như những cái mà anh đã từng trông thấy. Chiến đưa tay cấu lên mặt. Cũng khá đau. Bả vai cũng vẫn nhức; một mảng đầu cũng vẫn nhức. Đã là ma sao lại còn biết đau, biết nhức ? Nhưng đã thấy ai nói ma không biết đau đâu ! Thế thì … mình đã là ma chưa nhỉ ? Hoang mang quá, hồi lâu, anh vẫn chưa quyết được bề nào.
            Đầu đuôi thế nào mà mình lại chết ?
            Trí nhớ bắt đầu yếu ớt hồi phục. Anh cố gắng lần lần nhớ lại …
 
*
 
            Chiến và Hiền được phân công làm nhiệm vụ trinh sát nắm tình hình trước khi đơn vị tiến đánh đồn Phúc Khê; Một điểm chốt với đúng nghĩa của nó, được trang bị mạnh, nằm án ngữ và kiểm soát đường tiếp lương cho một số đơn vị quân chủ lực phía nam trung bộ.
            Là lính trinh sát có thâm niên, vậy mà lần đi này, khác hẳn với những lần trước, Hiền cứ bần thần, hết vào rồi lại ra, mà chẳng để làm cái gì cả. Cho đến trước lúc xuất phát khoảng nửa giờ, chẳng hiểu nghĩ thế nào, anh chàng lôi bút giấy ra hý hoắy viết. Chiến hỏi thì cười hiền khô, bảo tranh thủ viết mấy chữ, ngày mai có giao liên ra binh trạm, nhờ gửi về cho mẹ yên lòng. Nghe vậy, Chiến cười và không khỏi thầm tự trách vì đã mấy tháng liền chưa gửi lá thư nào về cho mẹ mình.
            Hai người lính nai nịt gọn ghẽ, súng khoác chéo vai, rời đơn vị vào lúc trời đã chạng vạng. Đến cách Phúc Khê khoảng hơn cây số thì đã gần tám giờ tối. Tây Nguyên đã bắt đầu vào mùa mưa. Mặt đất tối thui, trơn lầy vì cơn mưa lúc chiều chưa kịp khô. Những tảng mây xám vần vũ đầy trời; thảng hoặc mới để lộ ra một khoảng trời có những chấm sao vàng vọt, nhừa nhựa và không tên. Vượt qua một con lộ rải cấp phối nham nhở, họ men theo một con đường mòn, cây cối thìa lìa rậm rịt suốt dọc hai bên. Con đường nhỏ này dẫn tới một ngôi làng nhỏ nằm cách đồn Phúc Khê ngót ba trăm mét đường chim bay. Theo kế hoạch, họ đến một nhà cơ sở để lấy những thông tin đã được chuẩn bị trước, sau đó tiếp cận thực địa, kiểm tra và cập nhật tình hình lần cuối.
            Vào đến buôn, đang men theo vệ cỏ ven đường, phát hiện phía trước có ba thằng lính đang đi ngược chiều, hai người nhẹ nhàng rẽ tạt sang bên, khéo léo thu mình nấp sau lùm cây bên một cái ao nhỏ. Thật rủi, đúng lúc bọn lính đi tới, mảng đất Hiền đang tỳ chân bỗng bị lở và lăn tõm xuống ao. Bị hẫng người, khi lấy lại thăng bằng, không may khẩu súng đập vào mấy quả lựu đạn gài phía hông, phát ra một tiếng cạch … Mấy thằng lính dừng lại.
- Tao nghe có tiếng động dưới kia - Một thằng nói và chỉ tay về phía lùm cây họ đang nấp.
- Chính xác là tiếng kim khí va vào nhau ! - Thằng thứ hai bình luận. Rồi cả ba đứa, không đứa nào bảo đứa nào, cùng nằm rạp xuống mặt đường, chĩa lăm lăm những cái nòng AR15 đen ngòm về phía bụi cây.
            - Ê, thằng nào dưới đó, ra mau, không tao bắn ! - Thằng thứ ba quát lên.
            Im lặng. Chiến và Hiền ngồi yên tựa hai gò đất, mắt căng lên, gần như ngừng thở.
            - Không có chi đâu. Đ … má thằng nầy, nhát chết quá xá.
          - Tao nghe có tiếng kim khí thiệt mà ! Có người … không ra là không có đàng hoàng rồi. Tụi Việt cộng nằm vùng nầy không thể đối xử lịch sự được. Không thịt nó thì nó cũng thịt mình.
            Nói, rồi tên đó xả đại một băng về phía hai người. Chiến bị dính một viên vào bả vai. Hiền trúng đạn, ngã nhào xuống ao. Chiến áp đầu xuống mặt đất, nhìn bạn lả người, ngồi dựa vào bờ đất, nước ngập đến ngang ngực. Chiến nghiến răng … Đằng nào cũng lộ rồi, thịt ngay mấy thằng này rồi nhanh chóng đưa Hiền thoát hiểm - ý nghĩ thoáng qua đầu anh như một tia chớp. Anh mắm môi bắn xối xả về phía ba cái bóng đen đang lồm cồm bò dậy. Hai thằng gục xuống tại trận, thằng còn lại, tay vẫn ôm súng, rẽ sang hướng bên kia đường, chạy thục mạng về phía một ngôi nhà nhỏ vẫn còn bập bùng ánh lửa. Chiến, vai áo sũng máu, đau nhói, mắm môi cố vọt lên đuổi theo.
            Thằng đó chạy xuyên qua một trảng vườn, về phía một ngôi nhà mái lá. Khi Chiến đuổi kịp, nó đã chạy vào đến cái sân đất, miệng kêu hoảng loạn, chới với: “Má, má ơi … cứu con …”. Chiến dừng lại, điểm xạ: Pằng, pằng … Thằng lính lập tức đổ gục xuống bên một khóm cúc hôi. Chiến hạ súng, thở dốc. Bỗng, lúc ấy, có cái gì đấy, cứng lắm, giáng xuống đầu đánh cấc. Anh thấy  một vầng sáng khô khốc và xốp giòn, vầng sáng đó tức khắc vỡ oà ra trong đầu và sau đó không còn biết gì nữa.
            Không biết là sau bao lâu, khi Chiến tỉnh lại, mở mắt và, qua ánh sáng của ngọn lửa bếp hắt ra từ ngôi nhà nhỏ, anh nhận ra mình đang nằm trên mặt đất; một bà già đứng bên cạnh, cúi đôi mắt ngây dại xuống nhìn anh, khúc củi trên tay đang run lên từng hồi. Anh cố giơ bàn tay về phía bà già và lắp bắp: “ … Hiền … dưới ao …”, rồi sau đó lại chìm tiếp vào khoảng đen vô thức.
 
*
 
            Chợt có tiếng động phía trên … tiếng bước chân người dẫm lên lớp lá khô. Chắc là người ta đưa cơm ra tuồn xuống ống cho ma mới đấy. Chiến im lặng, chờ đợi. Tiếng bước chân người dừng lại ở phía chân anh. Rồi có tiếng bới đất. Lát sau, khi những tiếng động chấm dứt, một khoảng hình vuông lộ ra, ánh sáng theo ô vuông tràn vào khiến anh hơi nheo mắt lại. Dù việc nhìn có khó khăn, anh vẫn nhận ra hình dáng một bà lão đang tụt xuống khoảng mồ anh đang nằm. Xuống đến nơi, cái bóng ấy lại dướn người, đỡ một vật gì từ bên trên, trông như một chiếc gùi nhỏ. A ! chính là bà lão cầm khúc củi đã đứng bên mình … khi ấy.
            Bà lão làm một động tác gì đấy, khoảng ánh sáng lập tức biến mất. Trong bóng tối, Chiến nghe thấy tiếng bàn tay lục lọi trong cái gùi nhỏ. Miệng Chiến đắng ngắt và cứng lại. Một ánh lửa loé lên, sáng gắt. Đôi mắt như gặp ánh lửa hàn. Chiến thấy sợ, định làm một động tác gì đó. Bà lão giơ tay, ra hiệu cho anh nằm xuống và đưa que diêm châm vào ống muống của một chiếc đèn dầu hoả nhem nhuốc.
- Nằm yên ! - Bà lão thì thào - Mấy đứa vừa đi tuần qua đấy.
Rồi, vậy là … - Chiến mừng rỡ nhận ra mình chắc chắn vẫn chưa phải là ma. Và, trong giây phút đấy, anh sực nhớ:
- Thằng Hiền …
- Hiền nào ? … À, cái thằng dưới ao … Ta chôn nó rồi, bên cạnh thằng Nam.
Chiến im lặng, khẽ thở dài. Cái thở dài của một người lính đã quá dạn dày với cái rủi ro, cái còn mất, cái sắc không luôn hiện hữu nơi trận mạc:
- Thế là xong !
          - Xong ... ? – Bà lão quay lại, cau mặt – Cha ơi ... một lúc những hai mạng người ! Anh nói, nghe cứ nhẹ như công tử Bạc Liêu thua bạc nè !
            Bà quay sang nhìn ngọn đèn, thờ thẫn hồi lâu, rồi lắc đầu, lẩm nhẩm:
- Vô phước, ... vô phước ... !   

        Anh cảm thấy đang dâng lên trong mình một cái gì đấy, ứ đầy cổ ... na ná như một thứ tự ái. Anh cũng cảm thấy buồn cho bà già quê mùa, tay chân khẳng khiu, đen đúa, quanh năm suốt tháng chỉ quanh quẩn bên mấy sào đất vườn cùng những thứ nồi niêu bặm ám, vặt vãnh mà không bao giờ có thể biết và hiểu được cái thế giới hùng vĩ này đang vươn dậy, trải qua những vận động lớn lao ra sao. Chiến không nói gì và đưa mắt quan sát bà lão.
         Lát sau, tay vẫn còn run run, bà lấy ra từ chiếc gùi một cái bát, rồi thong thả lấy thìa múc, nhấm đầu môi, gật gù và đưa về phía miệng Chiến:
- Hết nóng rồi.
Chiến không há miệng, nhìn bà lão; cái nhìn của một thứ phản xạ cảnh giác không phải được tự nhiên ban cho.
- Đừng sợ, há miệng ra, má bón cho.
Cử chỉ thong thả, giọng nói hiền hậu và tiếng má ấm dịu, như một đạo chú nhà Bụt, trong khoảnh khắc, đã làm tan biến tất cả những gì là nghi kỵ, dè chừng như những bóng ma tự nhiên tan biến trong thinh không chan hoà ánh dương ban mai. Chiến lập tức thấy yên lòng và ngoan ngoãn há miệng. Ôi, Cháo gà ! Đã lâu quá rồi, Chiến hầu như đã quên hẳn mùi vị của cái thứ đồ ăn này.
Lát sau, bát cháo đã hết. Bà lão tỏ vẻ hài lòng, để cái bát sang bên và bắt đầu nhẹ nhàng tháo miếng vải bết máu, khô cứng từ vai Chiến ra, lấy khăn ướt cẩn thận lau sạch vết thương đã hơi se miệng. Bà lại lấy ra một cái bát khác đựng thứ gì đấy nhão bết, trông như lá cây đã được giã nhỏ, đem đắp vào vết thương và buộc lại bằng những mảnh vải xé ra từ một chiếc áo. Lúc ấy, Chiến nhận ra hai giọt nước mắt đang ứa ra từ cặp mắt nhăn nheo của bà.
- Má ! – Chiến khẽ gọi.
- Gì con ?
- Con đã bị ngất phải không, má ?
- Ừ.
- Sao con lại ngất ?
- Má đánh con !
Chiến choáng người.
Lát sau, anh gượng hỏi tiếp:
- Sao má lại đánh con ?
- Vì mày giết thằng Nam !
- Thằng Nam nào, má ?
- Còn thằng nào nữa ? Mày chẳng đã bắn chết nó trong sân nhà má đó sao ?!
- Nó là Nguỵ !
- Nó cũng bảo mày là Nguỵ !
- Nhưng nếu nó bắn chết con thì má tính sao ?
- Thì má đánh nó !
            - Sao má đánh con đau muốn chết, rồi lại cứu con ?
- Cái này … các con làm sao hiểu được.
- Thì má cứ nói …
- Điều này … chỉ có người làm má mới hiểu được. Trời ơi … bú mớm, cưng chiều, chăm chút, yêu quý, dạy bảo, lo âu, thấp thỏm … cả hai chục năm trời may ra mới có nổi được một đứa con đẹp đẽ như thế. Vậy mà … đoàng một cái… Mà rặt những đứa mới chỉ nhìn thấy nhau lần đầu …
Chiến không hiểu gì lắm, nhưng anh cảm thấy có điều gì đấy … thiêng liêng lắm, đang ùa vào lồng ngực đau buốt của mình.
Bà má cúi tấm lưng còng xuống, run rẩy lượm lấy mảnh vải bết máu khô của Chiến, khẽ thấm lên đôi mắt già nua dường như đã quá mệt mỏi vì vô vọng. Hồi lâu, như người mộng du vô định, bà thì thào:
- Tụi bay … đều là những đứa con rứt ruột của má !
        

   01 tháng 9 năm 2007
(Truyện đăng lần đầu)


 
đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.10.2007 01:07:27 bởi Ct.Ly >
#1
    Nghiêm Lương Thành 01.11.2007 11:31:33 (permalink)
    Nghiêm Lương Thành



    CÁI MỒM
     
     
    Các máy chạy điện lấy năng lượng qua cầu dao. Các máy động lực lấy năng lượng qua chế hoà khí hoặc bơm cao áp ... Năng lượng làm cho máy chạy, còn máy chạy lúc nào, lâu hay chóng lại do con người quyết định. Hơn nữa, năng lượng đưa vào máy không hề làm máy phát triển về kích thước, sinh sôi về số lượng. Vì thế, những cầu dao, chế hoà khí, bơm cao áp ... đó đều không được gọi là mồm. Thực ra, trong ý tưởng, chúng ta cũng muốn chế ra những loại máy móc có thể phát triển về kích thước, sinh sôi về số lượng như thế. Dù sao thì các giấc mơ Giả kim thuật, Trường sinh bất lão, Động cơ vĩnh cửu và hiện giờ là ý tưởng đó cũng là những cái mốc đánh dấu các bước tiến về tư duy của chúng ta. Con người thì không ngừng vật vã loay hoay, còn Thượng đế thì tay chống cằm, mắt quan sát và miệng cười tủm tỉm !
    Năng lượng của cây là đất, nước và ánh sáng. Năng lượng của các loài vật ruột dài là cây cỏ. Năng lượng của các loài vật ruột ngắn là các loài ruột dài. Năng lượng của người là cây cỏ, là các loài ruột ngắn ruột dài và, đôi khi, chính đồng loại.
    Một cái mồm hoàn hảo bao giờ cũng có đủ răng và lưỡi. Loài nào cũng có răng hàm. Loài ăn cỏ thì răng cửa phát triển. Loài ăn thịt thì răng nanh phát triển. Loài người thì răng gì cũng phát triển. Loài cầm thú dùng răng làm vũ khí để áp đảo, lấn lướt đồng loại và các loài khác. Loài người có văn hoá nên chẳng làm thế, chỉ dùng răng để làm duyên khi cười.
    Mồm của giống người trông thì nhỏ nhẻ, hiền lành, nhưng biết bao loài thảo mộc: cao quý như nhân sâm, bình dân như củ ráy; biết bao loài thú vật: Hung hãn, to lớn như voi như hổ, hiền lành bé nhỏ như chim như sóc không gì là không phải khuất phục. "Toạ thực tiêu sơn !" Khiếp thật. Chả trách, mấy ông khoa học, lo sợ rồi đây giống người sẽ ăn hết cả quả đất, đang hốt hoảng hô hào: Chú ý, chú ý ! Sinh đẻ phải có kế hoạch !
    Vì có lưỡi nên mồm còn có một công năng nữa là phát âm. Cái sự phát âm này cũng mầu nhiệm lắm, chẳng cần phải đằng đẵng khổ luyện, tu hành thành chính quả cũng có thể làm được những công nghiệp phi thường. Trong nháy mắt, nó có thể biến một con dê già thành chú tuấn mã, biến Thạch Sanh thành gã lưu manh, đổi Lý Thông ra Bồ tát, ... và hơn thế, khiến cho đám người ưu tú nhất của một quốc gia, cứ như đang đứng trong một dòng nước chảy xiết, phải nhất tề thành tâm mà trầm trồ, mà tấm tắc rằng "Quả là đức hoàng đế đang mặc một bộ triều phục đẹp chưa từng thấy !", trong khi, cái lũ trẻ ranh miệng còn phảng phất hơi sữa, nói năng bát nháo chi thiên, thì lại nhẩy cẫng chân sáo và reo tướng lên giữa đường giữa chợ: "A, chúng mày ơi, hoàng đế cởi truồng !". Cũng còn may cho xã hội, bởi đấy chỉ là con trẻ. Để giải thích tính uyển chuyển và vô cùng linh động của cái lưỡi, người đời bảo vì nó không có xương. Thực ra, có lẽ, chả phải.
    Người đời bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhưng cũng chỉ dễ nhận ra ở những người có đôi mắt luôn mở to, trong sáng; số khác, cứ cố tình khép bớt mi mắt, lim dim che dấu tinh thị như loài rắn thì làm sao biết được. Nhưng mồm thì khác, đã có mồm và không bị câm thì không thể không nói, mà dù có khéo giấu diếm đến mấy thì các loại tâm địa, tâm hồn, cũng như cái kim trong bọc, không thể lúc nào cũng kiểm soát được, đến lúc nào đó cứ hồn nhiên tự tác mà phô ra. Vậy tại sao không nói Cái mồm cũng là cửa sổ của tâm hồn ?
    Có câu: Bệnh từ mồm mà vào, hoạ từ mồm mà ra. Từ đó có thể thấy: Người ta phải tự chịu trách nhiệm về những thức mình ăn, những điều mình nói, chứ quyết không thể cứ thích lên theo ý riêng mà bừa phứa vung vít được; càng không thể vì thiếu bản lĩnh, kém tự tin mà mượn rượu nói nhảm; lại càng không thể lợi dụng những lý tưởng cao cả, vụng về che lấp những ý đồ tối tăm mà nói nhảm nói nhí, làm điều xằng bậy ngang trái. Nhưng lại thấy thuốc chữa bệnh, thuốc bổ cũng qua mồm mà vào cơ thể, và cũng thấy lời yêu thương, hoà thắm, câu an ủi chân thành từ miệng mà ra. Chim hót bằng mỏ, người hát bằng miệng. Vậy tại sao không bổ sung: Sự khoẻ mạnh từ mồm mà vào, điều cao đẹp từ miệng mà ra ?!
    Có một kỹ sư chế tạo máy kể vui rằng: Trong khi quan sát, nghiên cứu quá trình vận hành của cụm mồm do mình tạo ra, Thượng đế đã rất buồn khi thấy, đôi khi, cái mồm của giống người yếu đuối đến độ không cắn vỡ nổi cả một hạt cơm; nhưng Ngài lại cười như nắc nẻ khi nhận ra, vẫn cái mồm ấy, lại cắn vỡ tan tành cả những đồng tiền kềnh kệch bằng kim loại, một công năng không hề được Ngài thiết kế ! Cười chán, Ngài mới từ từ đưa ống tay áo lên lau những nước mắt vô tình cứ tràn ra trong lúc nắc nẻ, ngả nghiêng mà phán rằng: "Ngộ nghĩnh thật ! Ngộ nghĩnh quá thể !! (lại cười ...) Ôi, chết mất, ta đau bụng quá. Bay đâu ... dâng cao Sao vàng !".
    Để ghi lại các sự kiện lịch sử đặc biệt hoặc công tích cao cả của các bậc cao nhân, chẳng phải người ta đã dùng đá núi mà tạc chữ lên đó ? Nhưng cũng chỉ được ngàn năm là cùng. Ngoài ngàn năm, dù chẳng có bia đá nào ghi lại, mà cũng chẳng cần câu chuyện minh oan kỳ bí của triều đình nhà Lê, không ai không biết cụ Nguyễn Trãi là bậc tiên trí. Thế mới biết cái sự bia miệng nó trơ trơ, nó nó chân xác, nó bền vững đến thế nào ! Bia miệng tạo ra chân văn và xây nên chân sử. Bia miệng là trời, còn bàn tay là … bàn tay.
    Giời sinh ra cái mồm là để ăn và nói. Đó là lẽ tự nhiên. Thoạt tiên, cứ ngỡ đó là hai hành vi đơn giản, nhưng thực ra không phải. Vì không đơn giản nên phải học. Về chuyện này, các bậc tiên nhân của chúng ta đã đúc kết và truyền lại cho con cháu trước tác: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Cũng là lời nói, lời hoà thắm, trung thực luôn mang lại tình cảm ấm áp, tin cậy; lời thị phi, dối trá có hệ thống chẳng bao giờ đem lại điều gì tốt lành.
    Nói là một trong những nhu cầu sống còn của xã hội con người. Không thể tưởng tượng nổi điều gì sẽ xảy ra nếu một ngày nào đó giống người bỗng dưng nhất loạt câm bặt.  Chừng nào còn con người, chừng ấy sự nói vẫn tồn tại và phát triển. Sự nói liên tục phát triển cả về ngôn ngữ lẫn cách biểu hiện và hình thức truyền thông: Nói bằng mồm, bằng mắt, bằng cử chỉ; nói bằng sách báo, bằng hội hoạ, âm nhạc, phim ảnh, phát thanh … và truyền hình theo đường truyền vệ tinh.
    Nền Tự do ngôn luận được thế giới coi là đỉnh cao sự phát triển văn hoá của xã hội loài người. Thật bất hạnh cho một dân tộc nào đó nếu Hiến pháp nước họ, thực chất, không xác nhận quyền tự do ngôn luận của công dân. Thời Pháp thuộc, dân ta cũng đã từng bất hạnh như vậy bởi “… bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca; vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng và bị đối xử đúng với tội trạng ấy [1]”, bởi “Về mặt báo chí, xuất bản bằng tiếng phương Đông, chính phủ giành lấy cái quyền bỉ ổi chỉ cho phép xuất bản những loại nào ca ngợi mình và sau khi đã có kiểm duyệt rồi. Chính phủ lợi dụng cái quyền độc đoán ấy để lập ra những tờ báo tiếng An Nam theo ý mình, được hưởng trợ cấp bí mật của nhà nước (Lấy từ tiền đóng thuế của người An Nam ? - TG) và chuyên làm việc quảng cáo tuyên truyền cho chính phủ và thường kỳ viết những bài phỉnh nịnh các quan trên có thế lực ở thuộc địa” [2] .
    Nói là hình thức truyền tải thông tin bằng âm thanh. Thông tin là ánh sáng của văn hoá, của khoa học và lý trí tiến bộ. Loài người không ngừng có tâm thức hướng đến cái cao đẹp và sự hoàn thiện. Nếu các Thánh tông đồ của Chúa Trời, các Đệ tử của Phật Gia, các chân nhân … không được nói những lời của ánh sáng, thì không biết con người ta còn tự đầy ải nhau đến thế nào ?
    Thông tin cũng là tình cảm của đại tự nhiên. Mùa xuân đến, chim trống líu lô réo rắt là để tỏ tình với chim mái. Nếu không cho nó hót thì sinh ra mùa xuân để làm gì ? Và những loài chim kia, cũng chẳng mấy chốc, tự biến mất khỏi cái mặt đất xanh mướt, tràn đầy sinh khí này và mùa xuân bẽ bàng kia sẽ chẳng bao giờ quay trở lại nữa.
     
    Thế thì hãi quá !
     
     
    09/2005 - 07/2006



    [1] Nguyễn ái Quốc: Vấn đề dân bản xứ. Báo L’Humanité ngày 02/08/1919.

    [2] Nguyễn ái Quốc: Đông dương và Triều Tiên. Báo Le Populaire ngày 04/09/1919.

     
     
     
    Đã mang vào thư viện
    Chúc vui
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.11.2007 03:30:04 bởi Ct.Ly >
    #2
      Nghiêm Lương Thành 09.11.2007 05:19:03 (permalink)
      Nghiêm Lương Thành



      GIỜI SINH RA THẾ
       
       
                Không có thực phẩm chúng ta sẽ chết.
                Không có văn chúng ta không chết, nhưng không thể thoát được hai chữ hoang dã khoác trên mình như hàng triệu loài khác của tạo hoá. Bộ não và sự lao động sinh ra văn. Văn khiến cái phần lương trong tâm ngày càng sáng rỡ, lao động ngày càng có hiệu quả, quả tim ngày càng nhạy cảm, tươi thắm và rộng mở.
             Thực phẩm là dinh dưỡng cho phần thân xác. Đối với một cơ thể sống, nếu đầu vào là thực phẩm thì đầu ra là hành vi.
      Văn là dinh dưỡng cho phần hồn. Đối với một tâm hồn, nếu đầu vào là văn thì đầu ra là định hướng hành vi.
      Hành vi được định hướng tốt đẹp thì gọi là Thạch Sanh. Thạch Sanh có cha mẹ, có bà con, có một cái rìu, một cái niêu đất, một cây đàn, một người vợ hiền và một đàn con ngoan.
            Văn là một hợp phần lớn của Nghệ thuật. Vào những năm cuối của nửa đầu thế kỷ trước, người Việt chúng ta đã từng có một cuộc tranh cãi nảy lửa trên văn đàn để quyết định xem "Nghệ thuật vị nhân sinh" hay "Nghệ thuật vị nghệ thuật" ? Nói cho đến cùng kỳ lý, có lẽ, cũng chả khác gì các cuộc tranh luận bất tận về con tôm và cái tép. Chỉ biết rằng: khi văn đạt đến độ cao thâm, không phải ai cũng có thể hiểu thấu thì nó chính là Triết học và Tôn giáo. Còn lại, thực khó mà nói là thế nào, chỉ biết mẹ dùng văn để hát ru ta ngủ; Lý Thường Kiệt dùng văn viết thông điệp "Nam quốc sơn hà Nam đế cư"; Nguyễn Trãi dùng văn để đánh giặc, yên dân; Dân chúng dùng văn để tuyển dụng kẻ quét chùa; Hồ Xuân Hương dùng văn để bảo "ví đây đổi phận làm trai được"; Cô gái Kinh Bắc dùng văn để "về nhà dối cha dối mẹ rằng qua cầu gió bay ..."; Nguyễn Công Trứ dùng văn để khẩn hoang lập ấp cho dân, mà "Đ ... mẹ nhân tình ..." bạc bẽo và "giắt lưng dành để tháng ngày chơi" ...
              Nhân sinh là đại bình dân. Đại bình dân là "liên tục phát triển" [1]. Đại bình dân chế ra văn dân gian. Văn bác học lấy văn dân gian làm sữa mẹ. Thụ bẩm sữa mẹ thì tất sẽ biết ơn và yêu quý mẹ; yêu cái mà mẹ yêu, ghét cái mà mẹ ghét và gạt bỏ những gì khiến mẹ bất an.
                  Văn là một thứ thông tin đặc biệt. Đã là thông tin thì lẽ đương nhiên phải hiểu được. Viết ra mà không ai hiểu được thì chỉ còn cách kính chuyển ông Giời thưởng thức ! Khiến cho người khác không hiểu là điều ai ai cũng có thể làm được; chân lý này, cách đây hai thế kỷ, đã được Voltaire khái quát trong khúc biện giải về con cừu mầu đỏ. Sự bí hiểm là mỹ phẩm được bài trí trên khuôn mặt thiếu sức cuốn hút, là lối làm dáng có phần kênh kiệu vô lối của người cầm bút. Đại chúng không cần bí hiểm, đại chúng cần văn. Chân văn vốn quang minh chính đại. Thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã thẳng tay khủng bố và cấm đoán những người cầm bút từng lớn tiếng phê phán nền chính trị độc tài, phi nhân bản của chúng và kêu gọi những người đồng bào của mình đứng lên đòi quyền làm người, đòi quyền tiến bộ. Vì vậy, thời ấy, để văn vẫn có thể "tải đạo", người ta bất dắc dĩ phải tìm những hình thức biểu hiện "mềm dẻo", khả dĩ lọt được lưới kiểm duyệt (làm công cho Nhà nước bảo hộ - Một biến thái của hình thức Nhà nước tư nhân) để đến với công chúng. Đó là sự  tạm thời phải mã hoá các thông tin, khác hẳn với sự bí hiểm.   
             Tầu hoả thì chỉ đi trên đường ray, chim trời thì lượn bay tuỳ ý. Không có đường ray thì tầu hoả chả để làm gì. Chim trời bị nuôi trong lồng sẽ thành chim nhà. Chim nhà xa lạ với nắng gió, với lồng lộng và ngút ngát. Văn là sự sinh sôi. Sinh sôi là đạo lý. Mọi sự sinh sôi đều không hiểu khuôn mẫu. Cây trồng trong chậu có thể là đẹp, nhưng phải luôn nhớ che gió cho nó. Cây mọc từ đất trong đại tự nhiên thường thẳng đuỗn thô kệch, nhưng có thể che mưa che nắng cho ta. Khuôn mẫu có thể tạo ra trật tự, trật tự chỉ là tạm thời. Có người thắc mắc rằng: Liệu có cần thiết phải mất công, mất thì giờ, loay hoay phân loại, tranh luận và định nghĩa thế nào là truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết ? Người uống rượu chỉ nhớ và mê những thứ rượu ngon. Quan tâm đến đồ chứa, vật đựng là những tay chơi yêu thích đồ đạc. Kẻ phong lưu thường ham những nơi sơn thanh thuỷ tú. Còn giới dịch vụ thì đến đấy để dựng lều dựng quán. Lều quán nhiều quá thì sơn thuỷ khó bề tiếp tục thanh tú. Mà kém thanh tú thì chẳng ai buồn đến nữa. Chẳng ai đến nữa thì tất lều quán phải dỡ chuyển đi. Lều quán chuyển đi hết thì, tự nhiên, sơn lại thanh, thuỷ lại tú ...
      Liệu có nhất thiết cứ phải bảo rằng người viết phải thế này, nên thế kia hoặc phải tránh cái này, phải không được làm cái kia hay không ? Nhiều điều, kể cả điều bị những nhà lý luận hiện đại chê bai sâu sắc, thì các văn hào đều đã làm cả rồi. Ngày xửa ngày xưa chúng ta đi bằng hai chân. Đến khi đã thuần hoá được giống ngựa thì vừa đi bằng ngựa vừa đi bằng chân. Cho đến ngày nay, cách di chuyển của chúng ta lại càng phong phú: đi bằng chân, đi bằng ngựa, đi bằng ôtô, đi bằng tàu thuỷ, tầu bay ... và, thậm chí, bằng cả tàu con thoi với tốc độ vũ trụ cấp 2. Kiểu đi nào cũng có cái đẹp, cái bất tiện và cái hay ho của nó; Có điều, hình như ta vẫn thích ngắm nhìn một phụ nữ đẹp trong tà áo dài mềm mại hơn là trong bộ cánh phi hành gia. Song, vấn đề cuối cùng vẫn là đi đâu và để làm  gì ?!
      Trong khoa quân sự cổ, điều cấm kỵ là bày trận quay lưng ra sông bởi đó cũng đồng nghĩa với sự tự sát. Nhưng cũng có người lại cố tình vi phạm điều răn dạy này, bảo rằng đấy là tìm lấy cái sống ở chính ngay trong cái chết và kết quả đã (rất) không tồi. Trong hội hoạ, cố tình đặt các mảng màu tương phản cạnh nhau mà không có mảng chuyển tiếp là điều tối kỵ, nhưng chính sự vi phạm đó lại tạo nên một trường phái ấn tượng. Trong âm nhạc, dùng các âm hạ át để kết thúc một bản nhạc là phạm luật cổ điển nhưng lại tạo ra một trường phái cách tân trẻ trung tươi tắn. Ở Việt nam, sự cách tân này đã có từ thời quan họ xa xưa - bằng chứng là ở cái nốt kết lửng lơ ngơ ngẩn trong điệu Qua cầu gió bay của những kẻ muôn đời phải lòng nhau - và sự phá niêm phá luật trong thơ đã từng tạo ra cả một nền Thơ mới.
              Thường nghe: Chân giá trị của một tác phẩm sẽ được công chúng thẩm định và thời gian sẽ cho câu trả lời.
      Cũng thường nghe: Dân là biển. Thật khôi hài khi có ai đó cho rằng sóng biển phải như thế này, như thế kia thì mới đúng. Chớ, như thế là lấn sân của người khác ! Hơn nữa, kẻ bị lấn sân lại chính là cái nhà ông Giời mà ta vẫn hằng tự giác hương khói khôn nguôi. Nước biển thì ở biển. Biển nhận các loại nước lục địa dồn về mình, làm cho tất cả trở thành mặn và xanh biếc. Không mặn, không xanh biếc thì không phải nước biển.
      Liệu có thể nói: Biển ơi, đừng mặn đừng xanh nữa !
      Có lẽ biển sẽ không hiểu. "Giời sinh ra thế" mà !
       
      Tháng 10 năm 2005

      [1]  Mượn chữ của chương trình quảng cáo dầu BP.
      #3
        Nghiêm Lương Thành 09.11.2007 05:35:40 (permalink)
        Nghiêm Lương Thành

        KHÓC VÀ CƯỜI  
        Người ta cứ bảo cuộc đời là khổ lắm, cho nên, khi mới được sinh ra, đứa trẻ đã khóc liền. ấy là nói theo lối hài hước có độn chút nước mắt của mấy bố nhà văn thơ "can tội" cứ xểnh ra là mổ xẻ, là khái quát. Nói cho nó hay hay vậy thôi, chứ thực ra, theo các bác sỹ, đó là một dấu hiệu khởi động tất yếu của một cỗ máy sinh thể, hoàn toàn vô thức và "đậm đà bản sắc" sinh lý. Lúc mới được sinh ra, có những đứa bé, do một lý do nào đó, chưa khóc được, các bà đỡ còn chủ động lấy tay đét vào mông chúng, khiến chúng phải bật khóc lên; tiếng khóc càng to càng làm các bà hài lòng.
        Trừ cái khóc lọt lòng ra, từ đấy trở đi, tiếng khóc của bé đã trở thành một thứ ngôn ngữ thông tin. Khi bé tè, bé ị, tấm tã lót bị ướt, bé khó chịu, bé ọ ẹ, bé bèn khóc lên, thế là mẹ bé biết mà lau thấm và thay cho bé cái tã mới khô ráo, thơm tho mùi nắng. Khi bé đói bụng, bé bị sốt, bị đau bụng ... thấy khó chịu, bé cũng khóc và, khi ấy, vầng trán lấm tấm mồ hôi cùng đôi tay dịu dàng của mẹ bé luôn biết mình phải làm gì. Mẹ bé, cũng như những người mẹ khác, đã lặng lẽ, âm thầm, tự nhiên mà làm những việc như vậy mà không hề nghĩ rằng chính họ đã tạo ra và dưỡng dục nên cả cái thế giới loài người muôn màu này. Có phải vì vậy, ở xứ ta mới có nhiều đền thờ Mẫu đến thế chăng ? Và trong cuộc đời, mỗi khi gặp hiểm nguy, mỗi khi lâm vào tuyệt vọng đến cùng cực, con người ta, dù là bé thơ hay cụ già, dù là đàn ông hay đàn bà, đều bất giác mà thốt lên tự đáy lòng hai tiếng: Mẹ ơi ! Còn những người cha, những người đàn ông, tuy là mạnh mẽ, là trụ cột của những gia đình, là rường cột của những quốc gia thật đấy, nhưng đã bao giờ có được cái diễm phúc ấy ? Hiếu sinh, ưa tiếng cười và tiếng chim bồ câu là thuộc tính của các bà mẹ; còn các ông bố lại khoái mùi diêm sinh, thèm oai như như dê đực, thì rốt cục chỉ làm cho cuộc sống trở nên rối mù, phiền toái đến ngớ ngẩn, thậm chí có cả lẫn cả máu và sự hận thù không đáng có. Vì thế đã có ý tưởng cho rằng các vị trí nguyên thủ quốc gia, nguyên thủ quốc tế rất nên bầu cho phụ nữ ! Tất nhiên, điều này sẽ khiến cho các ông bố phải chau mày nổi đoá bởi nó đi ngược lại những cái sở thích, sở khoái của họ và, tất yếu, sẽ gây ra những thiệt hại sâu rộng và vô cùng thảm khốc cho ngành đại công nghiệp chế tạo súng lục, súng trường ... mà họ đã thả hồn tang bồng, dày công sáng kiến và vun đắp trong nhiều thế kỷ ! Hoà bình, tự do, hạnh phúc là do con người làm ra; sống trong bầu không khí ấy, số rất ít thì khóc, số còn lại đều cười. Chiến tranh, khủng bố cũng do con người làm ra; sống trong bầu không khí ghê lạnh này, số rất ít thì cười, số còn lại đều khóc; Mà trẻ em và những người mẹ là những người khóc thảm thiết nhất.
        Trẻ sơ sinh thì nằm trong nôi. Nhìn chúng ngủ ngoan lành như những chú chó con no sữa, cặp môi bé xíu, mỏng mảnh như cánh đào, chốc chốc lại nhoẻn một cái, không ai cưỡng được một nụ cười cứ tự nhiên nở trên môi như nước nguồn ấm áp tự nhiên tuôn chảy. Các cụ bảo: Mụ dạy đấy ! Vài tháng sau, trong những lúc thức chơi, bé cũng vẫn cười với bà với mẹ như vậy. Và đến một lúc nào đó - hy vọng là thế - khi tất cả người lớn đều cười với nhau theo lối ấy, chúng ta hoàn toàn có thể tuyên bố: Hạ giới đã tiến kịp Thiên đường !
        Những đứa bé cứ thế lớn dần, như cây trồng trên đất, như cá nuôi dưới nước.  Theo thời gian, tiếng khóc bớt dần đi cùng với tiếng cười cứ nhiều dần lên. Trong tiếng khóc, tiếng cười trong veo của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng "giòn cười tươi khóc", thấy có ánh sáng và cả nhạc. Và khi con người ta bước vào tuổi dậy thì, trong tiếng cười tiếng khóc lại thấy có thêm cả thơ và hơi thở của gió xuân nữa. Thuở bé, tâm hồn chúng ta vốn rất gần với đức Chúa Trời. Bởi thế, ngay từ thuở còn đang lập đạo, Ngài đã bảo với các người lớn rằng: "Hãy để con trẻ đến cùng ta ..."
        Nhưng, thật tiếc, những cấu tố ánh sáng, nhạc, thơ và gió xuân đó, từ cái mốc "nhi lập", đã bắt đầu trở nên nghịch biến, mờ nhạt dần theo dòng thời gian, dần nhường chỗ cho những cảm xúc kim tiền và quyền lực trần ai muôn thuở. Vậy nên, từ gã lêu lổng đến hạng vua chúa, từ bác nông phu đến bậc trí giả, không ai là không có lúc thành thực ngẩn ngơ, luyến tiếc cái tuổi thanh xuân có khả năng tự lấp lánh toả sáng và "vô tích sự" mà mình đã từng có đó.
        Trẻ con khóc vì hờn dỗi với ông bà, cha mẹ, anh chị đã quên, chưa kiếm giấy bản cho chúng làm diều, chưa kịp đẵn tre cho chúng vót thẻ chơi chuyền. Chúng cười hớn hở khi được ông bà cho quà, bố thưởng cho một cuốn sách, mẹ mua cho cái áo mới. Chúng cười khanh khách, trêu chọc lẫn nhau khi thấy ông bà vui khoẻ, gia cảnh đầm ấm, khi thấy buổi chiều cha múc nước cho mẹ gội đầu, buổi sớm mẹ pha trà cúc mời cha uống.
        Thiếu nữ nhỏ lệ vì bắt gặp người yêu đã tươi cười với một cô gái khác. Và má nàng ửng hồng, cặp môi hé cười ngượng ngịu sung sướng khi phát hiện ra chàng cũng cười như thế mỗi lần gặp các bạn trai của mình.
        Thiếu nam khóc vì giận mình yếu đuối, tài hèn, đức mỏng, không làm được việc gì cho ra hồn. Chàng cười bâng khuâng khi nhớ lại rằng nàng đã để yên tay nàng trong lòng tay mình và trong làn gió nhẹ chiều xuân, hương bưởi từ mái tóc óng ả thoáng đưa khiến chàng ngẩn ngơ bối rối.
        Người lớn vốn ít khóc, nhưng lý do để mà khóc thì có nhiều lắm. Bác nông phu nhìn đất đai khô nẻ, trời cứ cao xanh ngằn ngặt, không một gợn mây, nắng cháy lúa khoai rồi nghĩ đến đàn con thơ dại và người vợ hiền thảo của mình mà khóc. Chú công chức thấy mình bị tụt hậu, thua thiệt, không kiếm chác được gì trong cuộc bon chen mênh mông với cuộc đời mà khóc. Kẻ thị dân gặp lúc đồng tiền mất giá, bản vị hao mòn, kinh doanh thập thõm, nghĩ đến cái công nghiệp bao năm vun đắp đang tiêu tán dần mà khóc. Bậc trí giả gặp lúc thời thế đảo điên, chân nguỵ nhập nhèm, bất công ngang trái, dân lành hoạ hại, lực bất tòng tâm cũng khóc; nước mắt của họ có màu đỏ thắm. Chỉ có Phật là chẳng thấy khóc bao giờ. Phật không cần ăn, ngài tồn tại bằng những năng lượng có sẵn và đang lưu hành trong vũ trụ. Nếu hỏi: Năng lượng ấy từ đâu mà có ? thì ngài sẽ bảo: Còn chờ kết quả nghiên cứu khoa học của cánh phàm trần ! Quang minh chính đại là phẩm chất của các bậc siêu phàm. Đơn giản là vũ trụ có trước Ngài. Phật không cần lấy vợ lấy chồng bởi ngài đã từ bỏ giới tính. Và, để phát triển hệ thống tông đồ của mình, ngài đã chọn lọc và sử dụng ngay trong số những sinh vật có đủ chín khiếu, được sinh ra trong quá trình tính dục mà ngàì luôn dạy là phải diệt chúng đi. Vô sinh mà lại hiếu dưỡng: liệu có thể không ? Không có tình yêu thì làm sao có thể khóc ? Không có tình yêu thì làm sao trong tiếng cười có ánh sáng, có nhạc, có thơ, có hơi thở của gió xuân ?! Kẻ không có tình chỉ có thể cảm nhận được sự nóng lạnh vật lý chứ tuyệt nhiên không thể cảm nhận và thẩm thấu được cái tinh diệu của mùa xuân. Tình yêu chỉ có thể là năng lực của những sinh thể hiếu sinh hiếu dưỡng mà thôi ! Người đời chẳng vẫn bảo "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ" đó sao ?
        Người lớn cũng ít cười và cái cười cũng có khối vẻ. Có cái cười, giống như con trẻ, cũng hồn nhiên mà phát tác ra những chuỗi âm thanh giòn tan, trong trẻo, tươi mát ... có khả năng truyền những tình cảm bác ái, sáng lành, hóm hỉnh và tin cậy sang cho những người xung quanh: Đấy là cái cười của các bậc hiền nhân. Bậc trượng phu hào sảng thường cười bình thản, cười khà, cười vang, cười lớn, đôi mắt rộng mở, thần thái ung dung; cái cười có sức truyền những tình cảm tự tin, khoáng đạt và bao dung sang cho người khác.
        Kẻ tiểu nhân lại thường cười lí nhí, đôi mắt ti hí luôn đảo đi đảo lại, ngước xéo liếc nhìn để đoán định tình cảm của người khác mà điều chỉnh kiểu cười cùng hành vi cho "phù hợp", đặng đắc chút sở cầu. Kiểu cười của cái hạng này cũng phong phú như các chủng loại côn trùng trong tự nhiên vậy. Cái cười của hạng này cũng có khi chỉ có thể nhận biết bằng thị giác: Cười ruồi, cười nhếch mép, cười khẩy, cười nhạt, cười "vẫy đuôi", cười khen rắm thối, cười đểu, cười nham hiểm, cười nửa miệng, cười bợ đỡ, cười a dua ... hoặc chỉ cần thoáng nghe cũng đủ nhận ra: Cười hô hố, cười gằn, cười khằng khặc, cười sằng sặc, cười hi hý, cười đắc ý, cười đắc lợi ... Nói chung đều gây cho người nghe một cảm giác rùng mình và khơi dậy ở họ một phản xạ cảnh giác gần như bản năng.
        Người bình thường thì cười theo lối bình thường của mình. Họ cười vì vui, vì hài lòng, vì chân cứng đá mềm, vì mùa màng tươi tốt, vì con cháu ngoan lành thông sáng. Họ cười khi thấy của rơi ngoài đường không ai nhặt, khi thấy ban đêm đi ngủ mà cửa nhà không phải cài then và tiếng hát của con trẻ thì đầy ắp khắp cả thôn cùng ngõ vắng. Tiếng cười diễu cợt, mỉa mai của họ nhẹ nhàng thế thôi, nhưng lại điều tiết được cả hành vi xã hội, khiến các Lý Thông phải hành sự trong lén lút, hệ thống Nghêu Sò cùng ốc Hến cũng chỉ dám lấm lét thì thầm. Cái cười của người dân tự nhiên ở trong lòng mà ra, cấm đoán cũng không được, có tiền cũng không mua được, có quyền cũng không tạo ra được. Cái cười của họ có khả năng khích lệ, bồi đắp tích cực cho một triều đại quang minh sáng láng, nhưng cũng có thể đưa lại khả năng xoá sổ một triều đại tối tăm, đồi bại. Có điều, cả người thường lẫn kẻ tiểu khí đều có cái cười hả hê. Tất nhiên sự hả hê của hai loại người này hoàn toàn không giống nhau về tính, nhưng hình như cùng không được tôn giáo nào hoan nghênh.
        Khóc và cười, theo cách nghĩ thông thường, được coi là hai trạng thái biểu cảm buồn và vui của con người. Người ta nói "lúc cười, khi khóc ..." thì cũng được hiểu là: lúc vui, khi buồn. Có một người, khi tâm sự, đã nói rằng: "Mỗi khi ta gặp điều đau khổ, có được một người khóc cùng thì quý lắm và cũng hiếm lắm. Nhưng mỗi khi có được niềm vui lớn trong đời, có được người cùng cười với mình thì khó lắm thay !". 
        Khóc và cười đều từ nội tâm mà ra và được biểu hiện ra ngoài trong sự kết hợp của nước mắt, âm thanh, ánh mắt và nét mặt. Toàn bộ khuôn mặt được huy động để làm việc này. Mắt, miệng, cơ mặt phối hợp với nhau nhanh nhậy và khéo như có thần vậy. Nội tâm mạnh mẽ, trong sáng thì âm thanh hào sảng, đôi mắt mở to nhìn thẳng, nét mặt hồn hậu tươi rói; Tâm địa tối mò thì âm thanh lí nhí và lập tức đối ứng của nó là tròng mắt láo liên, cơ mặt xộc xệch, hình dung dúm dó.
        Tuy vậy, cái sự cười sự khóc cũng có lúc phá cách. Có lẽ đấy là những trường hợp khi tình cảm con người đã đạt tới các trạng thái gần hai đầu cực. Cụ Cao Bá Quát, trong lúc bị giam trong ngục chờ ngày hành quyết, vẫn ngạo nghễ cười nhạo vua quan Tự Đức (chỉ mải dệt những vần thơ cao cả mà sao để đê Văn Giang vỡ liền mười tám năm, khiến con dân lâm vào cảnh lầm than cùng quẫn) và hóm hỉnh cười nhạo chính mình:
        Một chiếc cùm lim chân có đế
        Ba vòng xích sắt bước thì vương !
        Thời những năm bảy mươi thế kỷ trước, có một người vợ nhận được giấy báo tử của chồng đã hơn ba năm. Một buổi sớm, đúng lúc bước chân ra khỏi cửa, Chị chợt nhận ra Anh đã trở về, vai đeo ba lô đang đứng trước sân, thân hình gầy gò, khuôn mặt vàng xạm thì chợt sững lại, mặt mày tái nhợt, đôi môi đông cứng và hai hàng nước mắt cứ thế trào ra, ướt đẫm cặp má thanh xuân đã héo hon vì chờ đợi trong niềm hy vọng mong manh đằng đẵng.
        Một lần đi công tác ở Gia Lai, tình cờ vào một quán cơm bình dân, tôi thấy trên một tờ giấy to, định vị ngay ngắn trên tường quán bằng mấy cái đinh, có viết mấy chữ như thế này: Khi mới được sinh ra, con thì khóc còn mọi người thì cười. Hãy sống sao cho đến lúc con chết, con thì cười còn mọi người thì khóc !
        Người Đông á bảo: Âm và dương là hai mặt của vũ trụ, là nguyên lý tồn tại của tất tần tật; Cái sự cười và khóc của con người là một minh chứng cho học thuyết đó. Không biết có phải thế không, bởi, cứ thử làm một cuộc điều tra xã hội học mà xem; Nếu bạn đưa ra câu hỏi "Thưa Quý vị, Quý vị thích cười hay thích khóc ?" thì có lẽ đến 99,99% (bốn con chín) số người được hỏi sẽ ngờ vực, đưa mắt nhìn kỹ bạn để xác định xem có phải bạn vừa trốn khỏi bệnh viện Trâu Quỳ hay không, rồi thủng thẳng trả lời: "Cười chứ ! ... Tưởng gì cao siêu, thế mà cũng hỏi ... Dở hơi !".
         
         
                                                                                            Tháng 8 năm 2005
        #4
          Nghiêm Lương Thành 17.11.2007 15:08:30 (permalink)
          Nghiêm Lương Thành

          VỀ  QUÊ  
                      Ai mà biết được cây cỏ trên trái đất xanh tự bao giờ. Cũng chẳng ai biết, cũng trên trái đất này, cây đời xanh tự bao giờ. Chúng ta, hiện giờ, so với lớp lớp cha ông, là lớp hậu sinh, nhưng, dần theo dòng thời gian, rồi cũng trở thành lớp tiên nhân của nhiều lớp con cháu sau này và có khối cái mà chúng phải học theo, có khối cái mà chúng phải nhìn nhận, ghi nhớ và rút kinh nghiệm, hệt như hiện giờ chúng ta đang kính cẩn chiêm ngưỡng, học tập, noi theo và phát triển những thành quả của các cụ để lại. Điều đó, trước đây, được coi là một đạo lý, nhưng bây giờ, thực ra, đang có nguy cơ trở thành việc "tính cua trong lỗ" ! Nhiều cánh rừng cách đây vài ba chục năm vẫn còn giữ được vẻ hoang sơ tươi mát, nay đã trở thành đồi hoang đất trọc, nắng lửa chói chang, khiến thiên nhiên, bao dung là thế, cũng phải giận dữ mà giáng tai ! Tình người đẹp là thế, đẹp đến nỗi có người nào đó đã từng nói rằng nếu quả thật có kiếp sau và con người được quyền lựa chọn hình thức đầu thai cho mình thì ông, chắc chắn, sẽ không chọn phương án làm chúa sơn lâm mà lại đầu thai làm Người.
                      Đó là đôi ba cái suy nghĩ của một gã làm nghề viết sớ, có thâm niên bên cửa Phật, cửa Thánh và đầu óc có thể đã phần nào khuynh hướng tín ngưỡng. Nhưng có lẽ cũng không sao, bởi chưa thấy cái "ngưỡng" nào lại xui con người ta làm bậy. Những cái suy nghĩ lộn xộn, ngơ ngác đó nẩy ra sau khi được nghe một khách hàng cả nghĩ, cả hoài đem lòng yêu mến mà kể cho nghe một câu chuyện có liên quan đến đời ông. Vị nào không có thời gian dành cho những thứ giải trí vô bổ thì nên dừng ở đây để bắt đầu hoặc làm tiếp những việc nghiêm túc, quan trọng của mình. Còn vị nào ham vui và không thiếu thời gian (Vàng đấy ! - Chẳng bết có phải không, thấy người ta bảo thế) thì xin xem qua câu chuyện của vị khách đó cho vui. "Tôi" trong câu chuyện là chính người kể chuyện. Công việc của gã viết sớ chỉ đơn giản là chép lại thôi.


          *
           
          Cha đưa cho tôi một cái túi nhỏ bằng lụa điều. Tôi cẩn thận đỡ lấy và hỏi: " Cha đưa cho con cái gì vậy ?". "Mở ra đi !" - Cha tôi nói. Tôi mở chiếc túi và lấy ra một cái hộp nhỏ sơn mài, phần thân và nắp là hình hai chiếc rổ xảo úp vào nhau, thứ rổ quê tôi vẫn dùng để đựng khoai, giong riềng hoặc rau bèo cho lợn. "Con có thể xem được không ?". "Được !". Tôi mở tiếp nắp hộp: Trong đó chỉ có một vuông gỗ nhỏ thớ mịn sắc hồng. Viền quanh bề mặt của vuông gỗ được khảm một dây lá bằng vàng. Nhìn kỹ, đó là hình dây khoai lang. Rải rác, trên cái dây khoai đó, có lẫn những chùm củ thấp thoáng ẩn hiện. ở chính giữa, và choán phần lớn diện tích vuông gỗ, khảm một chữ Tâm to khoẻ, đầy đặn, cũng bằng vàng. Gắn trên nền chữ Tâm là chữ Phúc bằng thứ xà cừ rực rỡ màu lửa hồng tía, nhỏ chừng bằng một phần ba chữ Tâm.
          - Thế nghĩa là gì hở cha ? - Tôi không hiểu gì, hỏi ông.
          - Quỹ thời gian của cha chẳng còn được bao nhiêu. Cha muốn về quê lắm, nhưng yếu quá rồi. Đây là tâm nguyện cuối cùng của cha. Nhất định con phải về, tìm bằng được ông ấy, thay cha đưa cho ông chiếc hộp này và nói giúp cha: "Xin ông nhận lấy. Đây là tấm lòng biết ơn của một con người đối với một con Người !". Nếu chẳng may, ông ấy mất rồi thì con hãy xin phép các con ông ấy, đặt chiếc hộp này lên ban thờ mà kính cẩn thắp một nén nhang thay cha !
          Ngay sáng hôm sau, tôi chào cha và lên đường. Không cần cha phải giải thích, tôi đã biết người mà tôi cần trao "báu vật" kia là ai. Và, nhờ cái tuổi "tri thiên mệnh" trời cho, tôi cũng hiểu ngay, gần như tất cả, cái nghĩa tình mang hơi ấm của lửa hồng mà cha tôi tha thiết gửi gắm vào chiếc hộp kia. Từ khi anh em tôi còn nhỏ, thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại chuyện cái rổ khoai lang, chuyện chú em tôi được vớt lên khỏi dòng sông vô tình nước cả thế nào. Và lần nào cha cũng dặn dò chúng tôi không bao giờ được quên cái ân tình đó. Trong mấy anh em, tôi là con trưởng khôn lớn nên được chứng kiến và biết chuyện này hơn cả. Từ khi tôi tốt nghiệp đại học, đã nhiều lần ông giục tôi về quê. Thực bụng, nhớ thì vẫn nhớ đến cháy ruột cháy gan, nhớ đến từng bụi cây, tảng đá ven đường. Thậm chí, thấy một con đò, tôi cũng nhớ đến quê. Chỉ ngửi thấy mùi rạ mục, mùi hăng hăng của phân trâu tươi cũng đủ gợi cho tôi một tâm trạng cảm hoài của những kẻ tha hương viễn xứ. Nhưng cứ nghĩ đến chuyện về quê là y như rằng chân tôi chùn lại. Những hình ảnh, những kỷ niệm tái tê, buồn tủi thỉnh thoảng vẫn vô thức kéo về, không dễ gì nguôi ngoai. Có lúc tôi đã tự vấn mình, đã tự kết tội mình là hạng cố chấp, nhỏ nhen, nhưng cũng chẳng ăn thua. Người ta bảo tâm hồn trẻ thơ cũng như tờ giấy trắng. Có lẽ thế thật. Những gì được ghi lại trong quãng đầu đời người thường bền vững đến kinh ngạc. Thật may mắn nếu đó là những điều chân thiện, chân mỹ. Thật đáng sợ nếu đó là những điều ác. Và đáng sợ hơn, đó là niềm tin vào những điều tốt đẹp nhưng, theo thời gian khôn lớn, chúng nhận ra rằng thực tế không có gì giống như thế ! Đấy là điều không ai là không biết, nhưng thường cứ phải nếm đủ vị của cuộc đời mới có cơ hiểu được. Tôi nằm trong cái đám "thường" ấy. Để các con tôi tiết kiệm thời gian suy ngẫm và tự vật vã mà thực hiện cái sự điều chỉnh không đáng có ấy, ngay từ khi chúng còn nhỏ, tôi đã luôn cố gắng chỉ cho chúng thấy cuộc đời đúng như nó vẫn tồn tại: Sâu bệnh bao giờ mà chẳng có, nhưng cỏ cây thì vẫn cứ mãi xanh tươi !
          Lần này về quê, tôi mang theo thằng con trai 16 tuổi để mong nó hiểu được phần nào cái nơi được gọi là quê hương mà ai cũng có, cái đạo lý mà ông nội nó được tiếp thu từ nhỏ và cho đến tận cái tuổi cổ lai hy này, ông tuyệt đối chưa bao giờ sao nhãng.
           
          *
           
          Quê tôi không nằm sát quốc lộ và xa nhà ga xe lửa. Xuống tàu, hai bố con tôi hì hụi đỡ chiếc xe máy do người phụ trách toa xe đưa xuống. Sau khi loay hoay chằng chằng buộc buộc những túi những bọc lỉnh kỉnh lên xe, bố con tôi tiếp tục hành trình. Theo con lộ 1A, chả mấy chốc chúng tôi đã tới phố huyện. Khác hẳn với quang cảnh lần ra đi, chỉ lèo tèo vài nóc nhà tranh xác sơ, nằm rải rác trên một đoạn ngắn tũn, phố huyện bây giờ như đã thay da đổi thịt. Ngoại trừ số ít căn nhà vẫn còn tranh tre nứa lá, nhà cửa của dân chúng nói chung là đẹp đẽ khang trang. Các cửa hiệu buôn bán, dịch vụ với đủ thứ biển hiệu, biển quảng cáo san sát kề nhau, kéo dài có dễ đến ngót hai cây số. Thằng con tôi kêu đói. Nó chỉ tay vào một quán ăn lụp xụp, vắng teo, phía trước dựng một cái biển trông khá tạm bợ "Quán Quê hương": "Bố ơi, ta vào quán này đi". Tôi hỏi: "Tại sao không vào cái quán bên cạnh, vừa cao ráo sạch sẽ, vừa đông khách và chắc hẳn là phải ngon hơn rồi !". Nó nhoẻn miệng cười: "Con không biết, nhưng nhà này nghèo hơn, bố con mình vào giúp họ cái khí thế hàng họ ! Với lại, nó là quán Quê hương mà bố !". Nghe nó lý giải, tôi phì cười và thấy vui vui trong lòng. Đúng là phở quê, nhạt nhẽo quá. Tuy vậy nó vẫn làm dịu được cơn đói của hai bố con tôi. "Anh tính tiền giúp" - Tôi nói với anh chủ quán. "Năm mươi ngàn". "bao nhiêu ?!" - tôi ngỡ là mình nghe nhầm và hỏi lại. "Năm mươi ngàn !" - Anh ta nhắc lại, tay cầm con dao chặt thịt bổ bổ trên mặt chiếc thớt khô khốc, nứt nẻ, ngữ điệu rành rọt, chắc nịch và kiên định. Thằng con tôi tròn mắt, mặt đỏ tía tai, toan đứng dậy đòi công lý. Thấy vậy, tôi nhanh tay kéo nó ngồi xuống và đưa mắt ra hiệu hãy kiềm chế. Tôi đưa đủ số tiền gã chủ quán yêu cầu và hai bố con lên xe đi tiếp. Bọn trẻ bây giờ thật nhanh và nhạy cảm. Ngồi đằng sau, nó nói với tôi: "Mình ở xa đến, phải cái người như thế, cũng không còn cách nào, thế cho an toàn, được việc !". Thằng bé nói đúng ! Nhưng sao tôi lại thấy buồn. Cái vùng quê khô cằn, chất phác thân thương của tôi mà cũng có những thứ rác rến như vậy sao ?! Đáng ra tôi phải làm một việc gì đấy, thuận lẽ, thì tôi lại dễ dãi thanh toán, nhẹ nhõm như một nhà tỷ phú. Đáng lẽ thằng con tôi phải tiếp tục phẫn nộ và yêu cầu gã kia không được ngang ngược như thế thì nó lại nhanh chóng hiểu ra vấn đề, tự rút ra cái bài học "Trường đời tân thanh" như một kẻ khôn ngoan thiệp đời như thế. Ôi ! Lỗi tại tôi ? Tại nó ? Hay tại ai đây ?
           Đi quá phố huyện một đoạn, chúng tôi rẽ vào một con đường rải đá răm nhỏ dẫn về làng. Thế mà thấm thoắt đã mấy chục năm trời, kể từ khi cha tôi đứt từng khúc ruột, quyết định dứt áo lìa quê, đưa mẹ con chúng tôi lên định cư trên một vùng núi xa lắc, hẻo lánh ở một tỉnh phía Tây Bắc, lúc bấy giờ vẫn còn bị coi là xứ "ma thiêng, nước độc".
          Cũng trên con đường này đây, năm 1953, ngày ngày mẹ con tôi, vai khoác áo tơi (thứ áo làm bằng lá kè vẫn dùng để lợp mái nhà lúc bấy giờ), lẽo đẽo gánh mía ra phố huyện để bán. Mẹ tôi đi trước, một bên gánh là những lóng mía đã tiện ngắn gọn ghẽ và đều tăm tắp, bên gánh còn lại là đứa em trai đi còn chưa vững. Tôi theo sau mẹ, kẽo kẹt trên vai là hai vác mía, được buộc liền với chiếc đòn gánh theo hình chữ A. Công việc hèn mọn vậy thôi, nhưng mẹ đã bền bỉ cóp nhặt từng xu nhỏ, độ nhật cho cả gia đình tôi sống qua những ngày vô cùng khốn khó và dở cười dở khóc đó.
          Thời gian trước khi xảy ra biến cố, ông nội tôi đã già yếu. Mẹ tôi thì chuyên tâm lo việc đồng áng. Tôi và đứa em gái tên Tuyết đang đi học, ba em trai là Nhoại, Tấn và Du thì hãy còn quá nhỏ. Cha tôi, theo nghiệp của ông nội, làm nghề thầy lang. Nhà tôi lúc nào cũng đông khách. Đó là những nông dân áo quần vá đụp, nón mê, chân đất, lam lũ và luôn rụt rè, khúm núm. Cái sự rụt rè và khúm núm ấy lắm lúc khiến tôi đến phát bực. Sau này, khi đã khôn lớn, tôi mới hiểu được tại sao, đôi lúc, mình lại có thái độ như thế. Có thể diễn nôm cái lý do đã khiến tôi bực bội như thế này: Mình và những người bà con đó đều là nông dân, đều sinh ra từ mảnh đất khô cằn, thấm đẫm mồ hôi và máu này; Họ là mình, mình là họ. Vậy, cái thái độ rụt rè, thiếu tự tin đó đã vô tình hạ thấp phẩm giá của cái giới tự bao đời đã bền bỉ không ngừng tạo ra lúa gạo và biết bao hiền nhân dưỡng sáng cho đời !
          Năm ấy, theo trào lưu của nông thôn mới lúc bấy giờ, gia đình tôi phải dọn đến ở trong căn nhà xiêu vẹo của gia đình ông Chinh. Tôi vẫn nhớ cái buổi chiều ảm đạm đó, thằng cu Tấn mới ba tuổi cứ khóc ời ời, nước mắt, nước mũi toá ra đầy cặp má phính lem luốc và nhất định cứ bám chặt vào cái chõng tre, không chịu ra khỏi nhà: "Nỏ [1] đi mô ! Nỏ đi mô ! ... ờ ... ờ ... tụi bay có nhà thì về nhà bay mà ở ! ...". Tôi phải cố gỡ tay nó khỏi cái gióng tre và lặng lẽ bế đi, lòng đầy buồn tủi, thứ buồn tủi của một đứa trẻ đang ở cuối độ tuổi niên thiếu. Ông nội tôi là người cuối cùng đi ra khỏi ngõ, sau khi để lại một bãi nước đái - trước sự chứng kiến của đội công tác và các tân chủ - chính giữa sân của cái cơ ngơi khiêm tốn, được dựng nên sau bao năm bằng mồ hôi nước mắt và sự chắt bóp bền bỉ đến kinh ngạc của người dân quê khúc ruột miền trung. Trước đó, tôi có nghe mấy người già nói ở đâu đó rằng thời trẻ, ông nội tôi vốn là người ngang tàng và hào sảng. Ngang tàng thì rõ rồi, nhưng hào sảng là gì thì lúc bấy giờ tôi chưa hiểu. Trên đường dọn đến "nhà mới", chúng tôi không gặp một ai. Qua khoảng trống của những rặng râm bụt ven đường làng, nhìn vào những căn nhà quen thuộc, tôi nhận thấy các cánh cửa đều khép lại. Qua các khe cửa khép hờ, tôi nhận ra, lấp ló, mấy khuôn mặt quen thuộc và đâu đó, vọng ra những tiếng thở dài hoặc một giọng lẩm bẩm vút nhẹ lên, hả hê: "Sướng cho lắm vô !". Đổi lại, gia đình ông Chinh và mấy gia đình nữa lại dọn sang ở nhà tôi. Sau đó vài hôm, người ta đến bắt ông nội và đưa ông đi trong tiếng kêu gào của mấy đứa em và nước mắt của mẹ tôi.
          Người ốm, người bệnh thì bao giờ chẳng có. Họ vẫn tìm đến cha tôi. Nhưng thuốc thang và đồ làm chúng tôi không được mang đi, biết lấy gì mà chữa bệnh cho họ ! Cha tôi ngồi ở đầu hè, ái ngại cầm tay một bà lão nước da vàng ệch đang lả người thở dốc vì mệt; hai giọt nước mắt ứa ra, lăn xuống gò má xạm đen của cha. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cha khóc. Tôi lẳng lặng về nhà cũ, nói với ông Chinh là tôi cần phải đem các khay, lọ thuốc về để cha tôi làm thuốc cho bà lão. Ông Chinh, tròng mắt vằn đỏ vì vừa uống rượu mừng nhà mới, nhe ra hai hàng răng lởm khởm, cười khằng khặc vào mặt tôi. Kệ, tôi cứ xông bừa vào nhà, bê lấy một chồng khay thuốc. Lúc quay ra đã thấy lão cầm chiếc nạng phơi rơm đứng chắn ngang ngay cửa: "Mi muốn đưa đi thì phải đưa tiền cho tau ! Những thứ ni chừ là quả thực của tau rồi !". Tiền thì lấy đâu ra lúc bấy giờ ! Có một cái gì đấy, nóng và nghẹn, ngầm ngập dâng lên ứ cổ. Tôi đặt phắt chồng khay xuống và vớ bừa lấy một chiếc ghế đẩu, vung lên, nhằm vào lão mà giáng xuống. Mặt tái dại, quẳng chiếc nạng xuống đất, lão chạy xon xón ra ngoài, báo với dân quân rằng tôi đang cướp nhà lão. Còn tôi, không hiểu làm sao, cứ đứng đực ra đấy, cho đến khi mấy anh dân quân mặt mũi non choẹt, lăm lăm mấy khẩu Mút-cơ-tông cùng những thứ gậy gộc chắc nịch, kéo đến trói nghiến tôi lại và đưa lên chùa nhốt chung với ông nội tôi. Hơn hai ngày sau, phần vì có nhốt tôi thì cũng không giải quyết được gì, phần do có bác Lề thuyền chài bạn của cha, không tấc đất cắm dùi, quần ống xéo ống cao ống thấp, khuềnh khoàng bước vào chùa, nói với người đội trưởng: "Cả cái tổng ni, ai chả biết hắn là đứa bặt trai [2]. Hắn chỉ về lấy thuốc để cha hắn chữa bệnh cho bây tui [3]. Thui [4]... hắn nhỏ rứa, tội tình chi mô mà nhốt như nhốt bọn Việt gian nứ [5] !", người ta bèn thả tôi ra. Trước lúc tôi ra khỏi chỗ nhốt, ông nội ghé vào tai tôi nói: "Biểu với cha cháu lo thu xếp đưa mấy mẹ con đi một nơi thật xa mà sống !". Ba hôm sau, buổi sớm, khi tôi và mẹ vừa gánh mía ra khỏi cổng, thì Tuyết, vừa đi đưa cơm cho ông nội cách đấy chừng mươi phút, mặt mũi tái xám, thập thõm chạy về, vừa nói vừa mếu máo, câu được câu chăng: "Ông ... nội chết ... rồi !". "Tầm bậy !" - Mẹ tôi mắng, vẻ không tin. "Con ... vô chỗ ... nhốt người, con thấy ông ... nằm, con gọi ông, ông ... nỏ nói ... chi, con đỡ ông ngồi ... dậy ... dựa vô ... tường, con xúc cơm cho ông ... mà ... ông ... nỏ ... há ... miệng... ờ ... ờ ... mẹ đền ông cho con ... ờ ... mẹ đền ...".
          Cái chết của người ông kính yêu, đối với tâm hồn đứa trẻ nít mới lớn của tôi, như một nhát dao, chém ngang thân cây tre. Tại sao con người ta lại có thể đối xử với nhau ác độc đến thế ? Vì cái gì chứ ?! ... Lúc đau đớn quá thì oán trách như vậy, chứ thực ra cũng có nhiều người quý trọng ông tôi lắm. Cơm của nhà mang đến cho ông, hồi mới bị nhốt, thức ăn ngoài rau ra mẹ tôi còn cố làm thêm cho riêng ông một chút cá tép hoặc một chút con ruốc kho mặn với khế. Nhưng những ngày sau đó, chỉ mang có cơm và rau thôi, bởi lần nào sau khi ăn xong, ông cũng lén bỏ cá hoặc những loại thức ăn mặn vào liễn để đưa về nhà. Cha nói thì thào với mẹ: "Rứa ra đêm đêm vẫn có người lén đưa thức ăn cho ông, nỏ biết ông có ăn chút mô không, hay lại trút hết về nhà cho con cháu !". "Nước mắt răng chừ chả chảy xuôi !". Mẹ thở dài và lặng lẽ thắp một nén nhang lên chiếc bàn thờ làm tạm rồi cứ lầm rầm khấn vái mãi.
          Mẹ tôi lấy ra từ cái ruột tượng cũ cáu bẩn, lúc nào bà cũng vấn quanh người, những đồng tiền lẻ tích cóp được, cũng cáu bẩn nhem nhuốc như vật đựng chúng, vừa đủ mua cho ông tôi một cỗ quan tài mỏng mảnh bằng thứ gỗ không biết có nên gọi là gỗ tạp không. Nhiều năm sau này, khi mẹ đã đi theo ông nội, cha tôi đóng một chiếc tráp nhỏ, để cái ruột tượng ấy vào, đặt lên bàn thờ bà và nói với các con: "Đấy là cái đức của mẹ các con. Các con nên nhìn vào đấy mà gắng chăm chỉ học hành, lao động; tiêu pha đúng mực, thương yêu đùm bọc lấy nhau và ... nếu giúp được người ngoài thì càng tốt !".
          Cha mẹ tôi làm ma cho ông nội tôi. Một đám tang không kèn trống, cỗ bàn. Nhìn dòng người lặng lẽ đưa ông nội tôi ra đồng, ngoài những người làng - không hiểu tại sao, thời gian ấy không sang nhà tôi chơi nữa, thậm chí có gặp người nhà tôi ở ngoài đường cũng tìm cách lánh mặt - tôi nhận ra còn có cả người ở xã khác, huyện khác và cả những người đã được ông tôi chữa bệnh ở tít đâu, xa lắm. Cũng từ dòng người đang thực hiện cái nghĩa tận của mình ấy, tôi còn nghe được có ai đó đang thì thào với người đi bên cạnh: "Hồi kháng chiến, nhà ông cố nuôi nhiều bộ đội lắm đó. Người mô mà rộng rãi rứa !". Hơn ba năm sau, sau khi thay nhà cho ông nội, cha gọi anh em chúng tôi lại và bảo: "Các con chuẩn bị gói ghém đồ đạc, chỉ những đồ dùng thật cần thiết, hai ngày nữa nhà mình sẽ dời đi quê mới !". Các em tôi bắt tay vào việc ngay. Thằng Tấn, thằng Du cứ nằng nặc đòi đem đi cả chiếc chõng tre. Mẹ thì không nói gì, chỉ thở dài nhìn chúng tôi, lòng đầy thương cảm. Còn tôi lại nghĩ: Thì ra cha vẫn nhớ lời ông nội ! Tuy vậy, trong lòng, tôi vẫn thấy bứt rứt, nao nao, không thông. Tôi đánh liều hỏi cha: "Mần răng lại phải lìa quê mà đi hở cha ?!". Cha buồn rầu trả lời: "Phải xa quê cha tất tổ, xa mồ mả các cố, cha mẹ cũng đau lòng lắm con ạ, nhưng còn cuộc đời về sau của các con ... Nếu không, đến khi trăm tuổi, cha còn mặt mũi mô mà gặp ông nội các con nữa ?!"  
           
          *
           
          Chiều muộn, bố con tôi đã đến bến đò. Chỉ còn hơn hai cây số nữa là về đến quê. May quá, đò vừa tới bến. Đợi cho khách lên bờ hết, bố con tôi hỳ hục đưa xe máy xuống đò. Không quen việc nên cứ hỳ hà hỳ hục như đánh vật, tý nữa thì rơi cả xe lẫn người xuống sông.
          -  Nầy, mấy chú ! - ông lão lái đò gọi giật mấy thanh niên đang cắm cúi đi ngược lên đê - xuống đây giúp ông ni một tay hề [6], cấy [7] xe nặng quá.
          Mấy cậu trai nghe tiếng ông lão gọi, liền vui vẻ quay xuống giúp. Loáng một cái, chiếc xe đã nằm gọn an toàn trong khoang đò.
          - Lần sau đi đường phải có ý - ông lão vui vẻ nói với mấy cậu trai - thấy người gặp khó thì giúp người ta. Nhớ hề ?!
          - Dạ, chúng con nhớ !
          Bọn trẻ vui vẻ đáp lại và chào ông lão. Tôi quay sang thằng con: "Con cũng nhớ chứ ?". "Vâng !" nó cười với ông lão và đáp. Đò đã đủ khách và bắt đầu chậm chạp rời bến. Một cô gái đứng lên, bước lần về phía ông lão: "Cố để con". "ừ !" Ông lão trao tay chèo cho cô gái và tìm một chỗ để ngồi. Ông tháo bầu rượu đeo bên hông, làm một tợp nhẹ, chép miệng một cái, rồi cao hứng cất lên một câu Đò đưa:
          "Nước lên lắp xắp bờ biền[8]
          Người ta sang cả, em cắm thuyền đợi ai ?"
          "Cố vẫn yêu đời hề ?" - Một nông dân trạc tuổi tôi trêu vui ông lão. "Ăn thua chi, hồi xưa bây tui [9] còn "Hát cho đổ quán xiêu đình, cho long lanh nước cho rung rinh trời" nữa ấy chớ ! ... Bây dừ chẳng thấy hát nữa, nghĩ cũng thấy thương tụi trẻ". Ông lão lại làm một tợp rượu nữa rồi cất tiếng cười khà khà. Nhìn mái tóc cụ già bạc như mây, phất phơ trong làn gió nồm nam; khuôn mặt sáng hồng, hiền vui, nhẹ nhõm; hàm răng đều đặn, chắc khoẻ và đôi mắt lanh lợi, hóm hỉnh, tôi bỗng giật mình: Phải chăng đây là tất cả ý nghĩa của cuộc đời mà con người ta cứ vật vã, loay hoay, làm cho nó trở nên rối mù, tẻ nhạt và đôi khi có lẫn cả máu !
          Chỉ còn vài chục mét nữa là tới bờ. Tôi nhìn xuống dòng nước, ngay chỗ này đây, vào cái đận tôi đi bán mía với mẹ ... thằng cu Tấn cứ khóc, đòi đi theo bằng được. Hôm ấy hàng bán hết sớm, mẹ còn đi mua gạo, anh em tôi về trước. Lúc ngồi trên thuyền, nó nhoài người ra nghịch nước và bị ngã xuống sông. Đôi tay bé tý của nó đập loạn xạ, tuyệt vọng ... cái đầu của nó bắt đầu giã gạo. Lúc bấy giờ, tôi cuống quá, chân tay mồm miệng cứng đờ. Mấy bà hét lên, kêu cứu mấy người đang đi phía trên đê. Tôi nghe tiếng ai đấy, từ đám người đó vọng xuống: "Con nhà địa chủ, cứu mần chi !". Thế rồi, ơn Phật, cùng lúc ấy, tôi nghe ùm một cái, từ một chiếc thuyền đánh cá đang tiến lại phía chiếc đò ngang, một người đàn ông để nguyên áo sống lao xuống sông. Loáng một cái, tôi đã trông thấy người ấy nổi lên, một tay túm lấy tóc thằng Tấn, tay kia khoát nước, bơi thẳng vào bờ. Người ấy chính là bác Lề thuyền chài, là cha thằng cu Sạch và con Thơm, bạn thuở nhỏ của tôi. Người ấy chính là mục đích chuyến đi này của bố con tôi.
           ò í e ... ò í ... Tiếng chuông điện thoại di động kéo tôi ra khỏi dòng hồi tưởng buồn bã. Ai trong số những người dân quê trên thuyền đang dùng thứ đồ xa xỉ này vậy ?  Ông lão thò tay vào túi, lấy ra cái vật vừa phát ra cái âm thanh xa xỉ ấy. Tôi bật cười vì chợt nhớ rằng, bây giờ, Đức Di lặc còn được người đời mời cả rượu Heinessy nữa là, nhưng có điều chẳng ai chịu mở nắp khi cúng cả. "Cha về chừ, lỡ còn khách thì mần răng ? Thui, tối ni làm muộn một chút cũng được, hề. Việc đó có quan trọng chi mà bay cứ hối [10] !". Đấy là toàn bộ thông tin của ông lão gửi sang đầu máy bên kia.
          Đò vào bến. Tôi hỏi tiền đò hết bao nhiêu, ông lão bảo: "Tuỳ ông !" rồi chỉ tay vào cái hộp gỗ nhỏ để ở đầu mũi đò. Tôi quay lại, thấy mọi người bỏ vào cái "hòm phiếu" ông lão vừa chỉ ấy kẻ một ngàn, người năm trăm, cũng có người bỏ hai tờ hai ngàn. Lại có người không bỏ gì mà cứ thế đi thẳng lên đê. Tôi thấy lạ, nhưng cũng bỏ vào mười ngàn (theo giá chung ở mọi nơi) và chào ông lão.
          Đường từ bến lên người ta làm chéo vát so với chiều con đê nên cũng thoai thoải, không dốc lắm. Bố dắt, con đẩy cũng nhẹ nhàng. Chợt tôi nhận ra chiếc xe lăn nhanh hẳn lên, khiến tôi phải rảo bước mới kịp.
          - Đẩy mạnh thế làm gì cho mệt, con ! - Không quay lại, tôi nhắc thằng bé.
          - Chỗ ni dốc lắm, nỏ lên được mô, để tôi giúp thì mới được - Một giọng người già vang lên phía sau lưng tôi.
          Tôi quay lại, cũng vừa lúc xe đã lên mặt đê.
          - Cảm ơn cố ! - Tôi quay lại cảm ơn con người tốt bụng vừa giúp bố con tôi.
          - Ơn huệ chi ... - Người đó đưa tay lên gãi gãi đầu, nở một nụ cười méo xệch, phô ra hàm răng lởm khởm vàng khè - ông cho tui mười ngàn tiền công.
          Đưa tay lên gãi gãi đầu, cái cười méo xệch, hàm răng lởm khởm, giọng lè nhè và mùi rượu nồng nặc ... Tất cả những cái đó khiến tôi ngờ ngợ, như đã gặp ở đâu, lâu lắm rồi. Tôi trân trân nhìn ông già gầy guộc, đôi tròng mắt láo liên trong hai hốc mắt trũng sâu, môi dưới ướt dượt, trề ra như chỉ chực chảy xuống như sáp ong gặp lửa. Tôi biết, đây cũng là một kiểu làm tiền đã có ở nhiều nơi, nhưng nhìn ông già khô héo, lưng còng xuống trong bộ áo quần tiều tuỵ, hôi hám, tôi vẫn thấy có cái gì đấy thương cảm và móc ví biếu ông ấy hai chục.
          - Này, bác đi đường ơi, cho ông nứ một ngàn thôi -  Cô gái bán nước chè xanh ở một cái quán dưới gốc đa ven đường chạy ra nói với tôi và quay sang ông già - Ông Chinh ! Răng mà ông quá đáng rứa ... bác nứ là khách qua đường. Ông muốn bêu xấu dân cả xã ni à ?!
          - Này cô ! - Tôi túm lấy tay cô gái, đưa mắt nhìn ông già đang cầm tờ hai mươi ngàn vừa đi lảng ra xa vừa ngoảnh lại như sợ tôi đổi ý - Có phải đây là ông Chinh có hai người con là anh Khoái và chị Nhàn không ?
          - Đúng rồi ! Rứa ... ra bác cũng là người vùng ni ?
          - Vâng, gia đình chúng tôi đi Yên Bái khai hoang cũng lâu rồi. Bây giờ về thăm quê, thấy đâu cũng lạ.
          - Vậy mời bác đồng hương vô quán nghỉ uống bát nước chè xanh đã, rồi cần biết cái chi, cháu nhủ [11].
          - Cô à, hoàn cảnh nhà ông Chinh bây giờ thế nào ? - Tôi hỏi trong khi cô gái đang lúi húi rót nước.
          - Cũng chả ra răng ! ... Hồi chưa chia ruộng khoán, còn dựa dẫm vô hợp tác được. Từ chập có khoán mười đến chừ, cả nhà vẫn chứng mô tật nứ, siêng ăn nhác làm, nên không đủ ăn. Chú Khoái nhủ ông Chinh bán nhà, bán ruộng, ra phố huyện mua một vuông đất nhỏ, mở quán ăn, kêu bằng chi hề .... Quán Quê hương. Chậc ... hàng quán kiểu đó làm chi có nhiều khách ! Rứa rồi túng bấn vẫn hoàn túng bấn. Vợ chồng chú Khoái cũng nỏ ngó ngàng chi tới cha, cứ để cho ông rứa đó. Nghĩ cũng thấy tội. Hồi đầu năm, ăn quen bén mùi, cháu nghe nói vợ chồng chú nứ lại bán tiếp một đứa con nhỏ mới hơn một tuổi cho một người Tây, lấy được mô hơn hai chục triệu. Vung vinh được mấy tháng, đánh đề thua hết rồi. Ông Chinh buồn quá, chừ thì thành ra nát rượu, thân tàn ma dại ra rứa đó.
          - Thế cô có biết ông cố Lề không. Hồi tôi còn nhỏ, cố làm nghề thuyền chài, không có nhà cửa, sống luôn trên thuyền ?
          - Bác có họ với cố nứ à ?
          - Không. Nhưng cố là ân nhân của gia đình tôi. Rổ khoai lang cố đưa cho mẹ tôi, ở đúng dưới cái gốc đa này đây, giữa lúc cả nhà tôi đang bị đói, đã cứu gia đình tôi qua được cái đận khốn khó ngày ấy.
          - Hồi năm ất Dậu hở bác ?
          - Không ...  à ... ừ, phải đấy - Tôi lúng túng trả lời - Cô cho tôi hỏi thăm đường đến nhà cố được không ?
          - Cố nứ  ... - cô gái nhìn xuống phía sông và chợt im bặt ... rồi quay lại phía tôi, cười tinh quái - Cháu vẽ đường ra giấy cho bác, dễ tìm lắm. Mà tối nay là lễ mừng thọ cố tám mươi tuổi, bác gặp may rồi đó !
          Rồi, như thể người đã lâu không được nói, cô hào hứng kể liền một hơi: Cố Lề ni là tức cười lắm. Các bác con của cố nứ đều khá giả mà lại tốt tính lắm. Các cháu của cố đứa mô cũng ngoan. Có hai đứa đoạt giải học sinh giỏi quốc gia, đem lại hãnh diện cho cả xã nhà mình đó. Nhà cố có thiếu tiền tiêu mô. Các bác nứ cũng có bắt cố phải làm lụng chi mô. Nhưng tính cố vẫn rứa: Nỏ làm nỏ chịu được. Này bác ơi - cô gái hạ giọng, thì thào đến tức cười - Cố kiếm được rặt có tiền lẻ thôi, rứa mà tích cóp ra răng đủ tiền xây được nhà mẫu giáo cho xã mình đó, sạch và đẹp lắm. Chính quyền xã lấy tên của cố đặt cho cái nhà trẻ, nhưng cố không ưng, đòi vạc mấy chữ tên cố trên nóc đi. Ông chủ tịch xã biểu: Thì cũng phải có một cái tên mà gọi chớ. Cố biểu: Thì cứ gọi là nhà trẻ Kim Ngọc ! Ông chủ tịch nghe vậy thì nhìn cố, tủm tỉm cười. Còn từ độ nứ, chả ai đắp lại mấy cái chữ đã vạc đi đó, nhưng cả xã, chẳng ai biểu ai, cứ kêu cái nhà trẻ đó là nhà trẻ Cố Lề.
           Tôi cất cẩn thận tờ giấy vẽ đường cô gái bán nước đưa cho vào túi ngực. Nhưng ngày hôm ấy sao lại có lắm cái trục trặc thế. Đi được non cây số thì bánh xe xì hơi. May mà chỉ phải dắt bộ có một đoạn. Hiệu chữa xe tư nhân cấp xã có lẽ ít vốn, lượng phụ tùng thay thế dự trữ không nhiều và đến lượt tôi thì không còn xăm mới để thay cho cái xăm cũ vừa bị vò nát vì dắt bộ nữa. Nhờ sự nhiệt tình, khẩn trương của người đồng hương trẻ tuổi mặt mũi lấm lem dầu máy, đến hơn bảy giờ tối, gần một chục vết thủng đã được bịt lại chỉn chu. "Hai ngàn bác ạ" - cậu bảo tôi khi tôi trả tiền. "Sao lại thế ! Gần mười lỗ thủng to nhỏ, nhất định là cậu tính nhầm rồi !". "Bác cũng kể như là người gặp nạn. Lấy rứa cho bác đỡ ngại, chứ tui không lấy tiền của người bị nạn !" - Cậu thanh niên nói rất dứt khoát và xem thái độ thì rõ là không gì có thể lay chuyển nổi. Tôi ngẩn người: "Cậu thật phúc đức quá !". "Phúc chi mô, tui chỉ mần theo cố Lề thui. Mà mần rứa cũng thấy sướng trong người lắm đó. Nỏ tin, khi nào bác cứ mần thử coi, thật đó !". Cậu toét miệng cười, một nụ cười vừa trong vừa mát và có nhiều khuynh hướng hỷ xả.
           
          *
           
          Trong nhà đèn nến sáng choang. Mọi người, chắc là toàn con cháu, đang ăn uống vui vẻ. Bố con tôi dắt xe vào sân. "Cẩn thận nhỡ có chó !" - Tôi quay lại, nhắc thằng con. "Nỏ có chó mô, lâu rồi nhà không nuôi chó ! Lỡ đường hả ? Vô đây nghỉ uống rượu, mai đi tiếp !" - Tôi ngoảnh lại, một cụ già nhanh nhẹn bước ra - "Ô ! Cố đò ... Nhà cố đây à ? - Tôi chột dạ, đồ là mình đã vào nhầm nhà - Con đang đi tìm nhà cố Lề !". "Há ! Tôi đây, còn ông là ... ?". Tôi quýnh lên, quên phắt, buông tay khỏi cái xe máy chưa dựng chân chống và chạy tới túm lấy tay cố.
          - Bác ơi, con là thằng Mẫn, con ông lang Mẫn đây !
          - Há ... - Ông nắm lấy hai cánh tay tôi, ngửa mặt ra phía sau nhìn cho rõ, mắt rơm rớm - Mi đó hở Mẫn ? Ông bà cố chừ ở mô, có được mạnh giỏi không ? Có bị cực không ?
          Tôi kể tóm tắt tình hình gia đình tôi.
          - Ừ, rứa thì tốt rồi. Chỉ tiếc cho bà cố mất sớm, đến lúc con cháu phương trưởng, tốt đẹp thì không được trông thấy. Thôi, hắn cũng là cái số con ạ ! - Rồi ông quay sang thằng con tôi ngó trân trân - Con nhà mi đó Mẫn ?
          - Con chào cố ạ ! - Thằng bé, không biết học ở đâu, khoanh hai tay trước ngực, cúi đầu chào cố.
          - Mặt mũi sáng sủa lắm, gắng rồi thành người hữu dụng con ạ !
          Mọi người trong nhà lúc đó mới chạy ồ ra. Bằng thứ trực giác trẻ con vẫn còn xót lại chút ít, tôi nhận ra - không, phải nói là "đánh hơi" - ngay anh cu Sạch và cô Thơm. Trông gương mặt hồ hởi và nụ cười sáng rỡ của họ, tôi nhận ra trong đó có cả cái hồn của cố Lề và biết chắc rằng mọi điều đang ngày càng tốt đẹp. Chúng tôi cười nói ồn ào, kéo nhau vào nhà, tiếp tục cuộc vui.
          Khi các bà các cô bắt đầu thu dọn mâm bát, ông Sạch nháy mắt ra hiệu cho tôi cùng với ông đi đến bên Cố:
          - Cha ơi, mời cha vô thay áo để con cháu chúc mừng.
          - Tau đã biểu là không cần phải lãng phí rứa mà bây không nghe ! - Ông cố phật ý ra mặt. Còn ông Sạch thì kín đáo nhìn tôi cầu viện.
          - Bác ơi, hôm nay là ngày vui lớn của con cháu. Bác chiều con cháu đi, bác ! - Tôi nài nỉ.
          Chừng như nể tôi đi xa, lâu ngày mới về, Cố cười và miễn cưỡng đi vào buồng. Thoáng một cái, đám thanh niên đã thu dọn và kê bàn ghế xong xuôi. Cố ra khỏi buồng trong bộ lễ phục áo dài khăn sếp may bằng lụa điều, ông Sạch và bà Thơm theo sau. Cố dừng lại ở giữa nhà. Một thằng bé chạy tới túm lấy tay cố, rồi nhảy cẫng lên: "Hoan hô Cố nội bữa ni đẹp quá !". Rồi nó kéo cố về phía chiếc ghế đặt sát bức tường gian giữa, phía sau cái bàn uống nước phủ vải đỏ, kê ngang trước cái ghế: "Con mời cố nội ngồi đây !". Thằng con tôi nhìn cảnh tượng, thấy thích quá, nó ghé vào tai tôi: "Bố ơi, nhà mình cũng làm mừng thọ ông nội đi !". "ừ, phải đấy, chắc chắn nhà mình sẽ đông và vui lắm !"
          - Trật tự ! trật tự nào ! - ông Sạch đứng giữa nhà, dang hai tay. Mọi người lúc bấy giờ đã đứng quây phía trước cố, dáng chừng định nói đôi lời.
          - Thôi, thôi ... không phải phát biểu chi hết, nhạt lắm - Cả nhà chợt nhất loạt im lặng - Hôm nay thật là vui, cảm ơn ông Trời xui khiến, ông Mẫn, con cố Lang Mẫn bạn ta, cũng về vui với nhà ta.
          Nhân dịp cơ hội đang thuận lợi, tôi tiến lên phía cố, hai tay kính cẩn nâng chiếc túi mà cha tôi gửi gắm biết bao tình cảm, ý tứ vào đó:
          - Cha cháu gửi biếu bác chút quà, xin bác nhận lấy. Đây là tấm lòng biết ơn của cả gia đình cháu.
          Cố tiến lên một bước, cũng lấy hai tay kính cẩn mà đỡ lấy. Trước bao nhiêu cặp mắt tò mò của cả nhà, cố lần mở miệng túi, lấy ra chiếc hộp, ngắm nghía và mở ra. Cố nhìn vào lòng hộp, thoáng giật mình rồi nhìn tôi.
          - Ta thực chưa xứng với món quà này ... - cố lặng đi một lúc - nhưng vì cha của con đã yêu mến ta mà khó nhọc công phu tạo ra báu vật này ... - Đến đây, cố xoay người về hướng Bắc, cúi đầu thi lễ - tôi xin lạm nhận tấm tình của cố nhân !
          Bồi hồi hồi lâu, cố chậm rãi quay lại phía con cháu: "Ta cũng có vài câu, đã chuẩn bị từ lâu, nay muốn đọc cho các con các cháu cùng nghe và cố gắng đừng bao giờ quên". Nói rồi, cố cất giọng, từ từ đọc:
          Giữ đạo cương thường con kính bố
          Sáng trong đạo đức cháu chiều ông.
          Đất Trời vần vụ đâu dâu bể ?
          Làm người cốt trọn một chữ Nhân ! [12]
          Không khí lắng xuống, không ai nói câu nào cho đến lúc thằng bé ban nãy hồn nhiên phá vỡ sự im lặng:
          - Cố ơi, cháu nỏ hiểu chi hết.
          - Rồi dần dần cháu sẽ hiểu - Cố cười hiền lành, đưa tay xoa đầu thằng chắt nhỏ trong trẻo như chú chim sâu.
          Ông Sạch ra hiệu cho thằng bé quay lại. Vẫy bà vợ và vợ chồng cô Thơm lại đứng bên, rồi cả bốn người vòng tay trước ngực, cúi đầu kính cẩn:
          - Chúng con kính chúc cha vui khoẻ, sống lâu với con cháu !
          Tiếp theo sau là hàng cháu. Cảnh tượng thật ấm áp và cảm động. Cố Lề ngồi ở chiếc ghế dành riêng cho mình, nhìn đàn con cháu chắt đông đúc mỉm cười hài lòng. Sau khi hàng con và cháu dâng quà mừng là đến lượt các chắt. Sắp trẻ thơ chưa biết phép tắc, cứ thế giành nhau lên trước, đặt vào lòng cố đủ các món quà "lẩm cẩm".
          Có tiếng ồn ngoài cổng. Chẳng đợi ai ra mở, hai cánh cổng gỗ đã bật tung ra và theo đó, một đàn con nít cùng bà con hàng xóm ùa vào. Tôi nhận ra, trong đám người đó có cả cô bán nước và cậu thợ sửa xe. Cô bán nước chào tôi, vẫn nụ cười tinh quái ban chiều. A ... - tôi chợt hiểu ra - cảm ơn cô gái nghịch ngợm ! Anh thợ ảnh có vẻ vất vả tợn. Có lẽ anh không muốn bỏ sót những hình ảnh mà không bao giờ còn lặp lại lần thứ hai nữa. Thôi thì đủ các thứ quà: quê có, tỉnh có. Bên cạnh những gói quà của bà con hàng xóm như ta thường thấy, còn có cả những thứ "lẩm cẩm" của bọn nhỏ nhà trẻ, giống y như quà của các chắt của cố: Quả ổi, quả na, mấy chiếc kẹo, mấy quả chuối, cái bánh cu đơ ...
          Cố Lề ngồi đó, ngập trong quà biếu đủ loại, đủ cỡ, đủ màu sắc ... và nở một nụ cười, nụ cười làm sáng bừng cả gian giữa, chỉ thấy ở những người hạnh phúc mà may chăng, chỉ có âm nhạc mới có cơ ghi lại được.
                      Không khí đầm ấm, thân tình. Kẻ cười người nói râm ran. Người lớn kể với nhau những chuyện về cố và luôn nhắc đám thiếu niên phải nhớ lấy như những bài học. Lũ trẻ nhỏ chạy nhảy, tung tăng nô dỡn và thỉnh thoảng có đứa cao hứng hét tướng lên: Cố Lề muôn năm !
           - Răng mà cố cười lâu rứa hề ?! - Một người đàn ông trạc tuổi tôi, mà mọi người giới thiệu với tôi là bác sỹ, níu tay tôi, nhìn cố, lo ngại hỏi, tựa như hỏi chính mình.
          Không đợi ai trả lời, ông bước đến chỗ cố ngồi: "Cố ơi !". Không trả lời. "Cố ơi !". Vẫn không trả lời. Ông hốt hoảng cầm tay cố bắt mạch. Lát sau, mặt tái nhợt, ông quay ra, thì thào: "Cố thăng rồi !". Những người đứng bên cố chợt im bặt, bàng hoàng. Những người khác chưa hề biết gì, vẫn cười nói râm ran. Lũ trẻ vẫn mải nô đùa cười hát. Tôi nắm tay cố: Đôi tay vẫn mềm và ấm. Tôi nhìn cố: Cố vẫn cười ... đúng là vẫn cười ! Nụ cười vẫn tiếp tục toả sáng, thứ ánh sáng có màu hồng nhẹ, có lẽ cũng giống như vầng sáng toả ra từ xứ Tây Trúc huyền thoại xa xôi !                  


          Tháng 01 năm 2005



          [1] Không
          [2] Giỏi trai
          [3] Bọn tôi
          [4] Thôi
          [5] ấy
          [6] nhỉ
          [7] cái
          [8] Bãi bên sông
          [9] bọn tôi
          [10] Giục
          [11] Bảo
          [12]  Thời ấy ở vùng Diễn Châu - Nghệ An, có mấy câu thơ lưu truyền trong dân chúng: 
               Lỗi đạo cương thường con tố bố

               Vùi sâu đạo đức cháu khiền ông …
          #5
            Nghiêm Lương Thành 17.11.2007 15:19:22 (permalink)
            Nghiêm Lương Thành

            CHỊ  YÊN  
                         Ngại thật, đứng ngần ngừ một lúc trước cửa phòng "Tổng hợp", nhưng rồi bí quá, cuối cùng tôi cũng đánh liều đẩy cửa bước vào. Hai tay xoa xoa vào nhau, bước đi rón rén, mặt mũi đáng thương, y trang ngoại mạo của một kẻ có việc xin xỏ, cầu cạnh.
                        - Chị cho em một ít giấy in - Tôi nói trong hơi thở.
                        - Cậu ăn giấy đấy à ? Tuần trước tôi vừa xuất cho cậu một ram kia mà !
                        - Thật mà chị, có việc cần gấp, em phải in ngay cho nó kịp.
            - A ! Cậu đem công việc ra dọa tôi đấy hả ! ... Cậu không định nói là Vụ trưởng hay Bộ trưởng đang giục đấy chứ ?! Thôi, ra đi cho tôi làm. Việc mang ùn đống lên đây này.
            Biết có nói nữa cũng chẳng ăn thua, tôi lủi thủi bước ra. Quả thực, tuần trước tôi đã dùng giấy để in cho thằng em cái Luận văn tốt nghiệp. Cái bà này "cáo" thật, đố có ai lừa được ! Thế là tôi đành phải hậm hực chạy vội ra phố, đến cửa hàng văn phòng phẩm, tự giác bổ sung ngay để lấy cái làm.
            Đấy là chị Mai Yên của vụ kế hoạch chúng tôi, liên tục là gái tân trong ba mươi tám năm liền. Cái tên, xét về mặt mỹ thuật, hoàn toàn không có gì khớp với một khuôn mặt bình thường, chưa bao giờ dùng kem dưỡng da của chị. Nếu có cái gì tương xứng với khuôn mặt này, thì đó chính là cái mũi hơi bè và có kích thước trên trung bình một chút. Bộ phận "tổng hợp" chỉ có mình chị. Một lần phải khai lý lịch bổ sung, chị lúng túng hỏi mọi người nên điền như thế nào vào mục "Công việc đang làm" cho nó đúng. Cậu Thắng bảo: văn thư vụ. Cậu Quỳnh không đồng ý: Thế còn quản lý tài sản, lo tiếp tân, đoàn ra đoàn vào ... thì sao ? Thấy vậy, anh Cát, vụ trưởng bảo: Cứ ghi là tổng hợp. Thế là cái buồng có mỗi một mình chị ngồi với một lô lỉnh kỉnh những máy vi tính, máy phô tô, máy fax, điện thoại cùng những tủ những giá tài liệu lưu trữ và tả pí lù các thứ văn phòng phẩm được gọi là "Phòng tổng hợp". Phòng này chỉ ai có việc mới đến nên thường không được vượng khí cho lắm.
            Người ta ngại chị, bởi trong công việc ai chả có lúc sai nguyên tắc. Mà sai ở đâu thì không biết, nhưng với chị ấy thì nhận được một "bài học" là cái chắc. Mức độ chát chúa của bài học thì còn phụ thuộc vào thái độ thành khẩn của người đó. Mà đời này có mấy ai chịu mất mặt bao giờ, cho nên cái sự thành khẩn cũng là một thứ hiếm hoi lắm; đối với người ít coi trọng uy tín của bản thân, đã thuộc cái nết của chị, cái sự này cũng chỉ xảy ra thực sự khi chỉ có hai người với nhau. Mà cái chị này, phụ nữ gì mà thiếu tế nhị, thiếu tâm lý: chẳng bao giờ đếm xỉa gì đến cái sỹ diện vĩ mô của cánh đàn ông. Về nguyên tắc, đối với một người phụ nữ chưa hề ký tên vào giấy giá thú như chị, đấy là điều kỵ lắm, cũng  hệt như ngày xưa, phải luôn tỉnh táo để tránh, không dùng những từ có khả năng gây ra sự phạm thượng đối với các bậc Quốc phụ. Ngay cả anh Cát, một lần trách chị tại sao tiếp khách nước ngoài lại cũng sơ sài như tiếp khách trong nước, thì nhận được ngay một câu "đích đáng": "Về mặt con người, nước ngoài hay nước trong là như nhau ! Tuy là dân kinh doanh, mấy người Nhật ở Phúc Yên còn biết nói câu Tôi yêu Việt Nam nữa là ... ". Quá đúng, quá đã ! Nhưng sao chị lúc nào cũng cứng cỏi quá thể như thế ? Không biết nể mặt vụ trưởng lấy một chút, mà có mất gì của nhà mình đâu ?! Vì thế, người ta ít đùa với chị và đặc biệt, nếu hãn hữu chuyện ấy có xảy ra thì cũng chưa thấy ai dám cả gan đùa tay đôi với chị. Bọn trẻ gọi phòng tổng hợp của chị là "Trạm cao áp". Cánh đàn ông lớn tuổi hơn thì dí dủm truyền cho nhau và rất lấy làm tâm đắc cái câu đã được đẩy lên tầm "Bộ ngữ": "Thứ nhất Mai Yên, thứ nhì điện giật !".
            Nói cho đúng ra, làm gì có ai hoàn chỉnh, dù là chỉ xét trên một khía cạnh nào đó như cái thói thẳng thừng, không bao giờ quan tâm đến thái độ người nghe hay cái nết sòng phẳng, chính xác tăm tắp như một cái máy chẳng hạn. Ai cũng ước mơ mình sẽ trở thành một người hoàn chỉnh. Sao lại dại thế ?! Bởi, nếu được vậy thì lúc đó chúng ta còn biết nói gì với nhau nữa đây ? Bộ não sẽ có khả năng bị tê bại, cái lưỡi sẽ có khả năng bị thoái hoá; các văn sỹ, nhạc sỹ cùng tất cả các loại sỹ sẽ lâm vào tình trạng lúng túng, chẳng biết mình phải làm gì, bắt đầu từ đâu nữa ! Và, biết đâu, cái sự khập khễnh, cái sự không hoàn chỉnh ấy lại chẳng phải là ân tứ lớn nhất mà Trời ban cho loài người dại dột chúng ta đó sao ?! Vì thế, ngay cả chị Yên cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng cái việc khập khễnh này của chị, oái oăm thay, sao không chọn ai mà lại chọn đúng anh Cát mà bộc lộ kia chứ.
            Tôi, một gã trai khoẻ mạnh, không giầu, cũng chẳng nghèo, giận ai thì hầm hầm hụi hụi ra mặt và, cho đến bây giờ, đang đạt danh hiệu ba mươi nhăm năm trai tân. Tôi không thích điểm này chỉ vì đã giống thì phải giống những kẻ hay ho, chứ ai lại đi giống cái bà chị này ! Là người đang vươn tới và cố gắng thể hiện một phong cách sống đàng hoàng, thế mà thỉnh thoảng tôi vẫn bị bà ấy rót nước lạnh lên đầu trước mặt toàn thể bàn dân thiên hạ: "Hút thuốc in ít thôi. Tôi mà còn bắt gặp hút trong phòng thì cứ liệu. Ai lại phòng làm việc mà mở cửa vào là cứ thấy hôi mù cả lên !". Còn anh Cát, tuổi đã ngoài năm mươi, là "típ" người thật thà, hiền hậu, hay giúp người. Vì cái tội thật thà, nên tiếng là vụ trưởng một vụ quan trọng trong Bộ - khối kẻ mới trông thấy từ xa mà cái lưng đã tự tiện còng xuống từ lúc nào không rõ - mà cuộc sống gia đình cũng vẫn eo hẹp lắm. Cũng chỉ vì có mỗi thế mà người vợ đã bỏ ba bố con anh để đi tìm một miền đất mới; Không như ngày xưa, phụ nữ bây giờ người ta động lắm ! Xoá bỏ bao cấp, cuộc sống nói chung của người dân đã khá hơn, nhưng anh vẫn ăn bữa trưa trong cái cặp lồng ọp ẹp còn rơi rớt lại từ cái thời vừa bị xoá bỏ ấy. Mọi người góp ý thì anh cười cười, chống chế: "Tiền học các thứ của bọn trẻ bây giờ cao lắm. Giá cả thì cứ lên ... như thế. Với lại, tôi quen thế này từ lâu rồi !". Động lòng trắc ẩn, thỉnh thoảng cái nhà chị Yên, khô như một thứ "nghị định", mua cho anh lạng giò hay tý thịt quay hoặc nấu thứ gì đó từ nhà, đem đến đặt cạnh chiếc cặp lồng để anh ăn thêm. Một lần, anh không nhận, liền bị một cú "cao áp" làm co dúm người lại: "Sao lại thế, anh nghĩ tôi làm thế này để nịnh anh chắc ?! Không chịu ăn, ốm ra đấy, làm khổ con khổ cái; anh cho thế là hay à !". Trước đấy, một lần tình cờ, cậu Thắng trông thấy cái sự ấy liền kể cho mọi người cùng phòng và, để kết luận, cậu gật gù: "Giá mà ... thì ra bà chị cũng biết cách ứng xử với sếp lắm !". Mọi người cũng gật gù, nhếch môi, thả ra những cái cười đồng cảm chí thiết. Người ta gật gù, người ta mỉm cười bí hiểm, như thể chỉ có cách thể hiện ấy mới có thể tách bạch rõ ràng mình với cái típ người xấu xa kia và nếu có thể diễn đạt thành lời thì chắc hẳn sẽ là: Chà ! Thế mà cứ tưởng ... Tôi ý à ... nhất là bét ! Không bao giờ đâu nhé ! Còn cậu Quỳnh, lẳng lặng đứng dậy, dùng khoeo chân khẽ ẩy chiếc ghế ra phía sau và tiến lại gần Thắng, đặt một tay lên vai người đồng sự rồi quay lại phía mọi người, thủng thẳng: Tôi là người có đạo. Trong Kinh Thánh có một chuyện, nhân đây xin kể giúp vui, đại để thế này: Khi Jesus từ núi Ôlive trở về đền thờ, một đám người Pharisi dẫn một người đàn bà tới trước mặt người và nói: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang về tội ngoại tình. Vả, trong luật pháp Môidơ đã truyền cho chúng ta hãy ném đá người dường ấy. Còn ý Thầy thế nào ?". Jesus không đáp mà cúi xuống, lấy ngón tay viết lên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi nên Ngài đứng thẳng dậy mà bảo họ rằng: "Ai trong các ngươi là vô tội, hãy ném đá vào nàng trước đi !". Rồi Ngài lại cúi xuống, viết lên đất. Chúng nghe vậy đều đi ra từng người một, từ già đến trẻ. Còn Jesus ở lại một mình với người đàn bà vẫn đứng giữa đó và phán cùng nàng rằng: "Người đàn bà kia ơi, chúng đâu rồi ? Không ai định tội ngươi sao ?". Nàng đáp rằng: "Thưa chúa, không ai hết". Jesus mới phán rằng: "Ta cũng không định tội ngươi; Hãy đi và từ rày đừng phạm tội nữa!" [1]. Nghe xong câu chuyện, tôi cảm thấy mặt mình gợn sạn. Chà, cái cậu này ! ...
            Thời bây giờ, khác trước nhiều lắm. Người ta quan tâm nhiều đến chữ tâm, cái chữ mà mới đây thôi, trong khoảng ba bốn chục năm vừa rồi, ít người nhắc tới. Có người lý giải rằng cái đó, lúc bấy giờ thì có mà đầy rẫy, đâu đâu chả có, quá bình thường nên chẳng ai nói tới làm gì. Nghe vậy thì biết vậy, hơi đâu mà tranh luận, mà cãi nhau; chứ nói thế, chẳng hoá ra ngày nay chúng ta sống thiếu tâm chắc ? Bố bậy ! Thì đấy, cứ quan sát thì biết: Thời buổi này người ta sống có tình có nghĩa lắm, mọi người đều quan tâm đến nhau nhiều hơn. Hễ người quen chẳng may bị ốm đau, không ai biết mà lại không đến cùng với những lời hỏi thăm ân cần. Hễ nhà nào có việc hiếu, không hẹn mà ai cũng có mặt để tỏ tình chia xẻ, cảm thông sâu sắc, hào phóng thủ thỉ hoặc đọc vang những điều cao cả ngợi ca kẻ xấu số. Cảnh tượng bi ai khiến ngay cả hiếu chủ cũng phải động lòng ghen tỵ và làm cho những quả tim sắt đá nhất cũng phải rưng rưng, run rẩy. Những người trong nhà có việc hỷ như cưới gả, tân gia, đỗ đạt, thọ mai ... cũng vậy, họ rộng lòng, hào hiệp mời tất cả, kể cả những người chỉ quen biết sơ sơ. Chưa bao giờ mối giao cảm cộng đồng lại đạt đến độ đại đồng cao đến thế. Tất nhiên, tuy là thiểu số, nhưng những người chưa tốt thời nào mà chẳng có. Vì vậy, kỹ thuật "Bà con ơi, tôi là người sống có tâm lắm !" cũng được đẩy lên một tầm cao mới, quyết không thể xem thường ! 
            Khi người ta đã vào cái tuổi "đầu năm", về mặt sức khoẻ, thậm chí cả tuổi thọ, không thể nói mạnh được như hồi còn ở "đầu ba". Cứ xem như anh Cát thì rõ, khỏi phải "ný nuận" dài dòng. Vừa mới ký thông báo kế hoạch điều chỉnh vốn xây dựng cơ bản giữa năm còn chưa ráo mực, thế mà, nhoằng một cái, đã phải đi cấp cứu, hôn mê đã mấy ngày rồi. Thì ra anh mắc chứng tiểu đường đã từ lâu, nhưng ngại phiền đến mọi người, nên giấu biệt, không ai biết. Cả bộ xôn sao, điểm nóng nhất là vụ tôi. Người ta hò nhau đi thăm. Những cái phong bì, những túi quà đắt tiền bay vèo vèo, tới tấp vào bệnh viện, đến tận tay thằng con trai cả đang học lớp 12 của anh. Người thì oang oang bằng những thông tin mới cập nhật về "chiến hữu" của mình; kẻ thì nhỏ nhẹ thông báo những biến chuyển về bệnh trạng của anh cho nhau mỗi khi ở viện về. Cảnh tượng thật cảm động !
            Công đoàn cũng vào việc: khẩn trương viết giấy thông báo tình hình sức khoẻ của người ốm dán trên bảng tin và bố trí cắt đặt người, thay nhau trực bên anh trong bệnh viện. Thậm chí, có người còn tìm gặp trực tiếp thư ký công đoàn bộ phận, bức xúc cật vấn: "Tại sao không có tên tôi trong danh sách trực ở bệnh viện ?!". Thế mới biết làm người sướng thật ! Về điểm này, tôi đã gặp may hơn cả đức "Thiên bồng nguyên suý". Tôi thầm cảm ơn Trời vì Người đã cho tôi được đầu thai vào giống người.
            Mọi người trong vụ kháo nhau: "Biết ngay mà, từ hôm ấy đến giờ, bà ấy mới bén mảng vào viện được đúng một lần. Tệ quá !". "Thói đời xưa nay vẫn thế, các ông các bà còn lạ gì !". Họ đang nói về chị Yên. Hình như là thế. Lòng buồn bực, bức bối, tôi xộc thẳng vào phòng tổng hợp. Thấy chị đang loay hoay bên đống tài liệu, tôi tiến lại.
            - Chị bận lắm sao ?! - Tôi hỏi hơi xẵng và cảm thấy máu cà khịa đang lăn tăn sôi trong huyết quản. 
            - Chết tiệt ! Tài liệu hội thảo lần này nhiều thấy mồ ! - Chị trả lời cắm cảu, tay vẫn không ngừng thoăn thoắt phân trang cho các tập tài liệu. Mấy sợi tóc xoã xuống, bết bệt vào cái trán hơi dô, mồ hôi đang rịn ra lấm tấm - Tình hình anh Cát thế nào rồi ?
            -  Vẫn thế ... mà sao chị không vào ngó ngàng anh ấy lấy một chút ? - Tôi nói, mặt nhăn nhó khó chịu.
            - Có người trực rồi, vào thì giúp gì được ? - Chị thản nhiên, đi lại phía bàn, cầm lên một tập phong bì, đưa cho tôi - Chú chuyển đi ngay cho tôi những cái giấy mời này. Chạy quàng lên !
            Vậy là, đối với chị, vẫn có cái gì đấy như là kỵ vía, kỵ dơ, máu cà khịa của tôi chỉ dừng ở mức lăn tăn chứ không sao sôi bùng lên được. Tôi ấm ức cầm tập giấy mời đi ra, chứ tuyệt nhiên không dám "xuống lưỡi", cho chị vài chiêu cho bõ tức, cho hả cái bức xúc cao quý đang đầy ứ trong người.
            Bốn ngày trôi qua, anh Cát đã tỉnh lại và bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm chạp. Người ta lại kéo đến viện: lại phong bì, lại quà; rồi chúc mừng, rồi cười, rồi nói, rồi tranh nhau bày tỏ cái tâm trạng lo lắng của mình trong mấy ngày vừa qua ... Thậm chí có người cao hứng còn báo cáo cả công việc. Đấy là cố tật đáng yêu và vô hại của những công chức mà sự mẫn cán đã được định hướng một cách kỹ lưỡng.
            Thế rồi cái gì đến vẫn phải đến. Nửa tháng sau, bệnh viện chính thức thông báo cho gia đình và cơ quan: "Bệnh của ông Cát đã vào giai đoạn cuối, cuộc sống của ông chỉ còn tính theo tháng ...". Từ hôm đó, anh Cát có nhiều thời gian tĩnh dưỡng hơn bởi ít phải tiếp khách đến thăm hơn.
            Sự kiện ấy khiến mọi người trong cơ quan nghĩ ngợi nhiều hơn. Người ta tiến hành các cuộc chiêm nghiệm nhanh, người ta mau chóng rút ra các bài học, rồi ân cần rót vào tai nhau những kết luận kiêm lời khuyên: "Cuộc đời thực ra cũng ngắn lắm, cố mà sống cho nó vui vẻ !"; "Đấu đá, vật vã, tranh cướp làm cái gì, cuộc đời rốt cuộc có khác gì một giấc mơ !". "Vua Ngô, rốt cuộc, lại ngồi chén anh chén chú với Chúa Chổm ở dưới âm phủ !". "Ai mà nói trước được điều gì ? Có gì vui vẻ thì ới nhau một cái nhá !"; "Giá trị của một con người, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn là cái tâm !" ...
            Rồi sau đó, những câu chuyện bàn tán về tình trạng của anh dường như cũng lắng xuống. Trên bảng tin của cơ quan không thấy dán bảng phân công trực viện nữa. Không còn thấy cái cảnh mọi người ầm ĩ hò nhau vào viện như trước.
            - Vào xem ông Cát thế nào đi ! - Cậu Quỳnh rủ cậu Thắng - chắc ông ấy buồn lắm.
            - Tiếc quá, tôi còn phải làm cho xong cái công văn phúc đáp cho Quảng Bình. Thôi, ông cứ đi đi. Lần sau nhé.
            - ...
             Có chăng, thỉnh thoảng, chỉ thấy vài ba người lặng lẽ đi lẻ. Mấy người đó vẫn hỏi nhau những tin tức về anh nhưng chỉ nói nhỏ, gần như thì thầm. Cái bà Yên trái tính trái nết cũng nằm trong số ít người đó.
            - Tình hình ông ấy thế nào rồi ? - anh Thu, người đang rình đủ  55 tuổi để về hưu sớm, thì thầm với chị Yên.
            - Cũng khá hơn rồi - Chị Yên trả lời - Bệnh viện nói sẽ theo dõi tiếp vài ba hôm nữa, nếu không có gì đặc biệt sẽ cho về điều trị ngoại trú ở nhà.
            - Lần sau, nếu đi, chị gọi tôi với nhé !
            - ...
            Do tình hình anh Cát không thể tiếp tục làm việc được nữa nên cần phải kịp thời có một vụ trưởng mới để tiếp tục điều hành công việc trong vụ. Một trong các ông vụ phó lên thay là cái chắc. Vậy thì sẽ khuyết một chân vụ phó ! Không khí trong vụ như lắng xuống. Những người rỗi việc bắt đầu kín đáo đoán già đoán non, đưa ra các giả định này kia kia nọ. Số còn lại, nghiêm túc hơn, thì trở nên ít nói, mà có nói thì cũng dè dặt lắm, mà cũng chỉ là công việc. Người ta kín đáo quan sát nhau, nghiên cứu nhau, thậm chí để ý đến cả những hành vi sinh hoạt bình thường nhất như ông Đ đã đến quỹ tiết kiệm và lúc ra, tay xách một chiếc túi căng phồng những gì là gì. Hình như một lời chào ngoài hành lang, một cử chỉ ân cần, một cái nhìn trìu mến, một cuộc thăm viếng hồn nhiên nào đó của bất cứ ai cũng đều trở nên rất nghiêm trọng và đáng ngờ lắm. Thế thì sống làm chó gì cho nó mệt - tôi bức bối, cáu kỉnh thầm nghĩ - hàng mấy tuần nay, tịnh chưa được nghe lấy một câu chuyện tiếu lâm nào, buồn héo cả người ! Mà ngay cả cái bà chị còn "trên cả điện giật" kia nữa; Sao lại cũng không giống như trước nữa ? Sao độ này đôi mắt cứ quầng trũng xuống thế kia, lại chẳng thèm uốn nắn ai nữa ? Sao lại rất hay đi muộn về sớm và lúc nào cũng cứ tất tất tưởi tưởi như bị quỷ xua, ma ám vậy ?
            Người ta vẫn bảo phàm bất cứ việc gì của cơ quan, khi đến giờ tan sở hãy cố gắng để nó lại phía bên trong cửa phòng làm việc, chớ có đem về nhà mà làm hỏng hết không khí gia đình. Nói thì dễ, thực thì đâu có vậy ! Tôi thấy buồn, buồn quá, bỏ cơm chiều ở nhà, lên một chiếc xe buýt, rủ mấy đứa bạn đi uống rượu.
            Một giờ sáng. Tôi là người cuối cùng ra khỏi quán rượu, sau khi nghe lời nhắc nhở lịch sự của một nhân viên nhà hàng xinh đẹp. Tôi lững thững bước dọc theo vỉa hè một con phố mới mở. Những đợt gió về đêm mang theo cái lạnh của phương bắc, cuốn theo những lớp bụi mỏng cùng mùi vôi, mùi sơn mới phả vào mặt, xộc vào mũi, hăng đến chảy cả nước mũi. Rẽ thêm hai ngã tư nữa, qua nhà anh Cát. Theo thói quen, tôi ngẩng đầu lên: Cửa sổ vẫn còn sáng đèn. Thế là, chẳng nghĩ ngợi gì, tôi rẽ vào như một cái máy. Thì ra đó là ánh đèn hắt ra từ bàn học của cậu con trai anh.
            - Ô, chú ! - Thằng bé tròn mắt, ngạc nhiên chào tôi.
            - Vẫn còn học à ? Bố cháu thế nào rồi ?
            - Cũng vẫn thế chú ạ - Nó rầu rầu trả lời
            - Chú vào buồng bố cháu một lát có được không ?
            Thằng bé ngước nhìn tôi, có vẻ lưỡng lự.
            -  Nếu bố cháu đang ngủ, chú chỉ nhìn thôi !
            Rồi, chẳng đợi ý kiến của cậu bé, tôi tiến thẳng vào căn buồng nơi anh nằm.
            Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ, tôi nhận ra anh đang nằm yên, hai mắt nhắm nghiền, má và hai hốc mắt lõm xuống khiến khuôn mặt, trước đây vốn đầy đặn là thế, trở nên hốc hác và xám ngắt đến não lòng. Chẳng hiểu anh có ngủ được không. Mà thật lạ, trời đang lạnh thế mà sao lại chỉ đắp cho anh có cái vỏ chăn. Cũng may, tôi thấy phía dưới gầm giường có một lò than đang hồng. Cùng lúc ấy, tôi nhận ra ở góc buồng bên trái, sát cửa ra vào còn có một cái giường một nữa ... một người phụ nữ đang nằm, dáng vẻ mệt mỏi, chẳng có chăn chiếu gì cả, hình như cũng vừa thiếp đi. Nhìn kỹ: Chị Yên ! Tôi vội đưa tay lên bịt miệng mình. Thằng bé thấy vậy liền kéo tôi ra ngoài, khẽ khàng kéo cánh cửa buồng lại, thì thào:
            - Cô Yên đấy chú ạ !
            - Đêm nào cũng vậy à ?
            - Vâng, từ hôm bệnh viện trả bố cháu về. Cháu bảo thế nào, cô ấy cũng không nghe. Cô ấy không cho anh em cháu làm cái gì cả. Đụng vào việc gì cũng bị cô ấy mắng; Cô ấy bảo hai đứa phải tập trung vào học, cháu phải thi bằng được vào đại học, còn em cháu phải thi đỗ vào một trường cấp ba tốt.
            - Vậy thì cô ấy đúng rồi ! Thế nhưng tại sao không đắp cho bố cháu cái chăn dày dày một chút ... mà cả cô Yên nữa, ai bắt mà phải ngủ không chăn như thế ?!
            - Bố cháu bây giờ yếu lắm rồi, đi tiểu cũng thường không tự chủ được nữa, chăn bị ướt hết, không kịp khô. Cô Yên đốt cái lò than để ở dưới gầm giường bố cháu ấy, cũng đủ ấm chú ạ.
            - Nhưng còn cô Yên ... ?
            - Cô ấy cố tình không đắp chăn đấy !
            - Sao lại thế ?
            - Cô ấy không nói, nhưng cháu biết đấy: Lò than ấy là cũng tạm đủ ấm cho hai người. Cô ấy cố tình không đắp chăn là để khi nào than đã kém ấm, lạnh người thì không ngủ được và lúc ấy sẽ biết mà dậy tiếp thêm than vào cho bố cháu khỏi lạnh.
            Tôi ngẩn người.
            Thì ra, có những việc chúng ta bỏ nhiều công ra nghĩ, hí hửng tưởng là hay ho, to tát, nhưng thực ra chỉ giải quyết được khâu óng ánh; Thứ óng ánh tồn tại ký sinh vào một nguồn sáng bên ngoài, nhiều khi cũng vui mắt, nhưng ... cũng chỉ thế thôi. Chị Yên của tôi vốn là người thô vụng, ý thành, nghĩ bằng quả tim, nên mới có được cái sáng kiến bất hủ ấy.  



            Tháng 5 năm 2005  
                                               


             

            [1] Kinh Thánh.Tân ước. Giăng. Người đàn bà ngoại tình.
            #6
              Nghiêm Lương Thành 17.11.2007 15:22:30 (permalink)
              Nghiêm Lương Thành

              NHÀ MỚI  
              Ở thôn cái thôn Đông này, tính cho đến giờ, họ Nguyễn nhà tôi vẫn là dòng họ lớn nhất, bề thế nhất. Cả họ lớn tất thảy có sáu chi, đại đa số sống quây quần với nhau trong thôn. Những kẻ bỏ thôn ra đi đều bị coi là "quân bỏ làng", "hạng vong bản", "ngữ ba vạ ngoài đường" ... và đương nhiên là đắc tội với dòng tộc, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Tội là tội ít coi sóc mồ mả tổ tiên; Tội là tội bêu riếu dòng họ, làm ăn không nên, đến nỗi phải bỏ ra ngoài đường mà kiếm sống, ngụ cư vật vờ. Hiện nay, tình hình đã có khác, bởi, nghĩ cho cùng, trong thâm tâm, có ai là người muốn sống lay lắt mãi ? Nhất là từ khi ông Nguyễn Văn Linh khuyên quốc dân đồng bào hãy tự cứu lấy mình ! Và, muốn nói sao thì nói, cuối cùng cũng phải thừa nhận phần lớn trong số họ đều là người có tâm, nặng lòng với xóm với làng. Họ đi ra ngoài đường, lao động, vật lộn, vất vả chắt bóp và khá dần lên. Có được chút dư dật, lại đua nhau gửi tiền về làng, những mong cho những người thân cũng đỡ phần vất vả. Vậy mà, không hiểu tại sao, những người quen hành động theo trái tim cứ thường bị người đời coi là yếu đuối, không làm được việc nhớn.
              Cha tôi là bậc trưởng họ lão thành, đứng đầu chi trưởng và do đó, lãnh đạo cả sáu chi. Trên thực tế, trong phạm vi họ tộc, cũng có thể coi ông là người đã thành danh và có một ảnh hưởng sâu rộng trong họ. Có lẽ do ông là người nặng lòng với họ mạc, luôn kiên định với những giáo lý Nho gia và có một cách sống gương mẫu, khắc khổ đến khô cứng. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, vẫn phải thừa nhận rằng lòng thành luôn là thứ dung môi tốt để có thể hoà tan bất cứ loại ý chí kiên định nào; Tính kiên định của ông, cuối cùng, cũng bị đạo lý này chi phối và phải mềm đi trước tấm lòng, tấm tình trong suốt của những con cháu họ tộc xa quê.
              Tôi là con trưởng của một gia đình lớn, là anh của tám chú em và ba cô em nên, theo truyền thống, đương nhiên là người tập vị hợp thức và chính đáng của cha tôi. Các em tôi đều đã lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái đề huề. Một số vẫn ở lại quê cha đất tổ, nhưng phần lớn trong số này đều bật ra ngoài làng, khai khẩn thêm đất đai, làm thành cái xóm trại. Cuộc sống ở xóm trại, không hiểu sao, thường cao hơn trong làng. Số kkác, người thì ra sống ngoài tỉnh, kẻ thì định cư ở các tỉnh khác. Trước kia cha tôi thường không hài lòng về họ. Vào những kỳ có việc họ, vào những ngày giỗ mẹ chúng tôi, do bận bịu hoặc khó khăn, những gia đình ở xa về chậm trễ hoặc không về được, ông thường lắc đầu lẩm bẩm: "Mất gốc ! hỏng ! hỏng !
              Vì lý do ông là người đức cao, vọng trọng, con cháu trong họ mới gửi "tấm lòng" của họ về quê cho ông mặc lòng quản lý và sử dụng. Dù là con người của Nho gia, cũng phải thừa nhận rằng ông có chịu ảnh hưởng ít nhiều từ làn gió dân chủ tiến bộ tân thời. Mỗi khi cần làm một việc hoặc một công trình gì đó cho họ, ông mời các bậc cao niên và những thành viên có tâm với họ đến để bàn bạc. Trong những lần như thế, ông thường chú ý lắng nghe, khuyến khích những ý kiến mà ông cho là hợp lý, rồi đưa ra kết luận cuối cùng. Và cái đức cả của ông đã là một đảm bảo đầy sức thuyết phục, khiến mọi người đều vui vẻ trao gửi niềm tin của họ và bằng lòng với mọi ý kiến của ông. Tất nhiên, không phải ông làm gì cũng đúng; đã là người, chẳng có ai là hoàn hảo cả, "ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?". Khi đã được tin yêu thì cái sự thô lỗ liền được đặt tên là phong cách bình dân.
              Vì là con trưởng nên việc tôi ở với cha là hoàn toàn tự nhiên. Chỉ có điều, dinh cơ của cha tôi chỉ là một ngôi nhà gianh. Biết tả thế nào cho các quý vị tuổi trẻ thời tin học có thể mường tượng một cách gần đầy đủ về nó đây ? Lúng túng quá ... thật xấu hổ khi phải thú thực điều này: khi còn học phổ thông, tôi vốn là một trò đặc biệt dốt nát về môn văn, câu chữ cục mịch, ý tứ thô lậu, văn khí xiêu vẹo như kẻ say rượu di chuyển theo lối vắt sổ. Có lẽ vỏ não của tôi nhẵn lắm, nên không có "độ" nhớ và tất yếu thường viết ra những điều ngô nghê, không giống những gì thầy giảng trên lớp. Tuy vậy, tôi cũng cọc cạch phấn đấu được cái bằng 10+3 [1], về làm anh giáo làng dạy môn kỹ thuật nông nghiệp cho học trò cấp hai trong xã. So với bầu bạn cùng tốt nghiệp lớp 10 thì vào hàng áp bét. Nhưng cha tôi bảo: dạy học là một nghề vinh dự, anh phải cố gắng thật nhiều lên mới được ! Thế là, cám ơn cha, lúc cầm phấn, khi cầm cày, tôi đã định chí lạc nghiệp ! Trở lại vấn đề căn nhà gianh. Để có được cái nhìn chung về cái dinh cơ khốn khổ đó, xin quý vị làm ơn nhớ lại những đoạn mô tả căn nhà anh Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố, sau đó nhân chất lượng và kích thước căn nhà đó với hệ số 1,5 là có được chân dung hoàn thiện về căn nhà của chúng tôi.
              Về mùa hạ, gặp lúc cơn giông kéo đến, căn nhà cứ như một người già ốm lâu ngày, mộng mẹo của các vì kèo cứ nghiến vào nhau trèo trẹo, nghe mà không khỏi nổi da gà khắp lưng. Vợ tôi, hai tay vòng lấy ba đứa con như một mẹ gà, ngước cặp mắt lo lắng nhìn mãi lên mái nhà, khuôn mặt tái nhợt, lầm rầm khấn khứa mãi điều gì không rõ. Gió mạnh, hắt đẫm nước mưa vào vách đất. Vách đất trộn rơm khô rang trong tiết nắng nóng mà gặp nước thì cứ cư xử như kiểu vợ chồng nhà Ngâu vậy. Tôi thì tâm thần hồi hộp, tinh thần lang bang, nghĩ quẩn nghĩ dại. Còn cha thì vẫn ngồi thản nhiên như tượng trên chiếc chõng tre, bên cái đèn hoa kỳ và chiếc điếu bát có cái nõ đồng sáng bóng. Thỉnh thoảng, cái nõ điếu ấy lại réo lên một hồi sọc sọc giòn giã và cái chuỗi âm thanh quen thuộc thường ngày ấy thường an thần chúng tôi hơn bất cứ lời giải thích, an ủi nào. Người ta bảo những vật dụng ở bên ta lâu ngày cũng có hồn là thế chăng ?
              Nhà thì thấp, nền bằng đất nện, sân cũng bằng đất nện; mùa hè thì nóng bí, mùa đông thì cái rét theo các kẽ ngạch và các khe hở mà rò rẫm vào đến tận giường nằm. Hơn nữa, nền nhà cũng chỉ cao hơn mặt sân có khoảng già một gang tay nên không khí trong nhà càng ẩm thấp lắm. Cũng vì thế, bệnh thấp khớp của cha đã trở thành mãn tính, các con tôi cũng đâm mắc các chứng viêm phế quản kinh niên, tình hình hô hấp của vợ tôi thời gian ấy cũng không được tốt lắm; Nhìn cả nhà, cấm thấy ai có nước da săn khoẻ. Họ mạc và những bà con trong làng thấy thế lấy làm ái ngại, đã nhiều lần khuyên tôi nên làm lại ngôi nhà. Hình như, từ lâu, vợ tôi cũng ước ao có một ngôi nhà mới, thoáng đãng, khô ráo. Có lần, cô ấy bảo tôi: hiện giờ nhà mình tích cóp được ... ngần này tiền. Tôi nhẩm tính, nếu công xá nhờ họ mạc, bà con thì cũng gần đủ. Thấy tôi ngồi im, không nói gì, cô ấy khẽ thở dài, lẳng lặng buông màn đi nằm.
              Nhưng, trên còn có cha tôi, mà cha tôi đã có ý kiến gì đâu. Vả lại, tôi đã quen vâng lời cha, cái nếp gia đình tôi nó như thế, con cái đều thấm nhuần và từ lâu, coi cái việc "vô chuyên dụng chi đạo" của phận làm con là mặc nhiên, là một điều không phải bàn cãi. Một lần, tôi đánh bạo nói với cha về việc làm lại ngôi nhà. Ông lắng nghe, im lặng hồi lâu, rồi từ từ nói: "Không phải là ta không biết, nhưng anh thấy đấy ... ta và mẹ anh đã làm ra căn nhà này, đã cố gắng, vất vả chạy ăn lần hồi từng ngày, nuôi các anh các chị khôn lớn từ cái nhà gianh này. Căn nhà này là cái tự hào của chúng ta, mọi cái buồn vui đều diễn ra ở đây, các anh chị đều ra đời ở đây, mẹ anh cũng từ đây mà đi theo ông bà và các cụ; phá bỏ căn nhà là việc làm quá sức chịu đựng của ta. Vả lại, chừng nào nó còn thì còn tốt cho các anh các chị, tốt cho cả họ mạc. Nó là một vật chứng để răn dạy, để nhắc nhở các lớp con cháu cái đức thanh khiêm dè sẻn, cái chí phấn đấu của thế hệ trước. Lớp các anh và con cái các anh bây giờ gay go lắm, có thiết tha gì với quê cha đất tổ, vong bản như chơi, có lúc còn lấy chúng tôi ra làm trò đùa nhờn nhã, anh tưởng người già chúng tôi không biết sao ?"
              Thực tế đã như thế "thế thời phải thế" vậy. Tôi bắt đầu yên tâm, tu bổ lại căn nhà để giữ đúng tinh thần của cha. Những khúc đòn tay, những đoạn cột bị mọt đục ruỗng đều được thay thế bằng những khúc tre mới chắc nịch. Những tiếng cọt kẹt, những âm thanh trèo trẹo phát ra từ các mối giằng những khi trời có gió to đã giảm hẳn. Tôi nhẩm tính, cứ đà này, nếu dần dần thay thế thì chỉ trong vòng vài ba năm, toàn bộ rường cột căn nhà này sẽ mới hết, và hiển nhiên, quy mô tuy là không có gì khá hơn, nhưng sẽ có một ngôi nhà khoẻ mà vẫn đảm bảo được tính truyền thống, tính giáo dục theo ý của cha tôi. Vợ tôi, tuy kém vui, nhưng rồi cũng phải bằng lòng và, dần dà, chí thú tu bổ không kém gì chồng. Chỉ có các con tôi là hay so sánh, suy bì với những nhà khác; Chúng hồn nhiên an ủi vợ chồng tôi: Bố mẹ đừng buồn, mấy năm nữa chúng con lớn, sẽ xông pha ra ngoài đường (tức là ra ngoài xã hội - cách nói ở quê tôi) tìm cách kiếm đủ tiền xây cho bố mẹ cái nhà giống như của chú thím Ba ngoài xóm trại.
              Thế nhưng, oái oăm thay, dường như ông Trời vẫn quyết hành tội gia đình tôi: Cứ mỗi khi chuẩn bị thay thế một vài cái đòn tay thì lại phát hiện ra những cái thay lần trước đã bị mọt ở những bộ phận khác ăn lan sang, mục ruỗng đến non nửa. Nhìn người cha hom hem, những đứa con nước da xanh rớt, người vợ tao khang đang có cơ bị suy hô hấp, tôi thấy vô cùng chán nản. Không ngừng lao động, nhịn ăn nhịn mặc, chắt bóp tiết kiệm để rồi cuối cùng bị lũ mọt nhâng nháo, khốn nạn kia hồn nhiên xơi hết thành quả thế ư ?! Cha tôi cũng buồn lắm, ông hỏi tôi:
              - Có cách nào không ?
              - Lấy giẻ tẩm đẫm thuốc diệt mọt rồi cuốn vào các đòn các cột.
              - Không được, mùi lắm ! Đài báo đã nói rồi: Con người ta, nếu ngưỉ những thứ thuốc diệt mối diệt mọt lâu ngày, tất sinh ung thư mà chết !
              Chỉ còn một cách: Phá bỏ căn nhà cũ, đem những thứ dỡ ra để mục làm phân bón ruộng cho đỡ uổng và làm mới hoàn toàn căn nhà. Nhưng tôi không dám nói, bởi, trong gia đình tôi, một khi cha còn sống, đấy là điều cấm kỵ. Nếu lại nói ra lần nữa, tình cảm thiêng liêng cha con sẽ được đánh một cái dấu chấm hết. Mà tôi thì vốn ghét cái dấu ấy lắm; đã nói rồi: tôi dốt văn lắm ! Nhưng, chả nhẽ cứ để cái nguy cơ nhà sập lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu sinh mạng của cả gia đình ? Không làm không được, vẫn phải tiếp tục thay thế các đòn các cột bị mọt ruỗng, mặc dù vẫn biết là cái lối dọn quanh ấy sẽ không đi đến đâu cả. Và, thế là, bao nhiêu tiền lẻ ky cóp được vẫn cứ tiếp tục lần lượt biến thành xen lu lô để rồi chui tọt vào bụng cái giống ký sinh to mồm kẽo kẹt suốt năm suốt tháng trên cái mái nhà ọp ẹp bệnh hoạn ấy.
              Trên tôi còn có cha tôi. Cha tôi là một "già họ" có tâm và mẫu mực. Tôi là đứa con có hiếu, toả sáng lấp lánh trong dòng văn hoá Nho gia. Tôi đang gồng mình vô vọng trong một cái đường hầm hun hút, không chút ánh sáng. Có lẽ kiếp trước tôi đã trót mang trọng tội ! Mà "Đã mang lấy nghiệp vào thân" thì "cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa" ! Xin cảm ơn cụ Nguyễn Du !
              Cuộc vật lộn của chúng tôi cứ diễn ra như thế cho đến một hôm, đúng ra là vào cái ngày có một cuộc họp các trưởng chi họ. Bình thường, việc họp này vẫn làm ở nhà tôi, nhưng hôm ấy ông chú trưởng chi hai lại đề nghị họp tại nhà ông. Lý do rất đơn giản và vui: ông có con chó mực đang độ "sáu bát" [2], nhân tiện buổi họp đó ông muốn mời các trưởng chi cùng thưởng thức cho vui. Ông chú ấy lại rất quý gia đình tôi, nên bảo vợ chồng con cái cùng sang một thể cho nó khí thế. Ba đứa con tôi thích chí lắm, chúng nhẩy cẫng, vỗ tay reo ầm lên, khiến ông, bậc cha chú ông bà, không thể đừng được một nụ cười ấm áp, bao dung trên khuôn mặt nhăn nheo từng trải.
              Đấy là một buổi họp định kỳ theo lịch đã thống nhất của họ lớn. Các cụ thông báo cho nhau tình hình của chi họ mình và bàn về các việc cần làm, cần giải quyết  trong họ. Sau khi kết luận về những việc hệ trọng, cha tôi thông báo tình hình tài chính của Quỹ gia tộc: tính đến lúc ấy, sau khi xây nhà thờ họ và xây mộ tổ, coi như đã hết. Việc khuyến học cho những cháu khá giỏi chắc phải chờ đến kỳ đóng góp quỹ vào cữ gặt mùa. Trời đất bỗng tối sầm, mây đen từ phía tây đã kéo đến từ lúc nào không hay. Cũng may, cái oi nồng đã bị những cơn gió giông mùa hè mang theo làn hơi nước xua đi nhanh chóng. Kết thúc cuộc họp, các cụ cùng chuyển sang mâm rượu. Uống rượu, nhắm thịt chó trong bầu không khí dịu mát, se lạnh thì hỏi còn gì bằng ?
              Mới được tuần rượu thứ nhất, những cơn gió dường như có vẻ mạnh lên. Mà mạnh lên thật; mười mấy năm nay chưa thấy có gió mạnh đến thế. Tôi chột dạ, lắng nghe tiếng gió và nhìn ra ngoài quan sát độ cong của các ngọn cây to đang vật vã, cố vươn thẳng trong cái bể gíó tai ác ấy. Thế này thì nguy rồi ... - tôi nghĩ rất nhanh, vội vã nói lời cáo lỗi với các cụ, rồi, cứ thế mà đội trời đội gió, chạy thẳng một mạch về nhà.
                Quả nhiên, cảnh tượng thật tang thương: căn nhà gianh đã bị đổ sập hoàn toàn.
              - Mẹ em ơi ! ... Nhẫn ơi !
              Không có tiếng trả lời. Tôi quýnh lên, gọi tên người vợ trong cơn thảng thốt. Vẫn không có tiếng đáp. Trong đầu tôi thoáng hiện hình ảnh người vợ hiền thảo lam lũ của mình đang bị đè lấp trong đống gianh tre hỗn độn dọc ngang ấy. Tôi liền nhào thẳng đến vị trí cái buồng trái nhà và bắt đầu điên cuồng gạt, bới ... Hình như có tiếng người ... tôi quay lại và nhận ra cái bà" váy mốc chân lấm" yêu quý của tôi đang run lập cập, nước mắt chảy vòng, toàn thân dúm lại, hai tay bắt chéo vai, đứng ngay ở cửa bếp. May quá, tôi trút được quả núi đang đè trên đầu:
              - Mình có làm sao không ?
              - Không, em đang nấu cám lợn ...
              - Thế thì tốt rồi - tôi vỗ về, an ủi bà xã.
              - Còn vại gạo với ... - Nhẫn chỉ tay về phía cái đống đổ nát.
              Tôi quay lại cái đống đổ nát, thong thả bới, gạt ... Chết rồi ! Tôi nhớ ra và quay sang bới ở chỗ có cái bàn thờ. Đây rồi, tôi tìm thấy cái bát hương lớn đang nằm nghiêng bên cạnh cái mâm bồng, cũng nằm nghiêng và chính nhờ cái mâm bồng đã che chở nên nó vẫn còn nguyên vẹn. May quá ! Tôi cúi xuống, định cầm cái bát hương lên thì chợt nhận ra, bên cạnh nó, lẫn trong đám tro và chân hương ướt nhoét, có một cái túi nhỏ khâu bằng thứ vải thô nhuộm củ nâu và ngâm bùn cẩn thận. Tôi cầm chiếc túi lên, mở ra và thấy trong đó lủng củng các thứ kim loại màu vàng. Tôi nhặt ra một chiếc nhẫn, đưa lên miệng, cắn thử ... mềm lắm, có lẽ là vàng thật. Tôi vội thít miệng túi lại, chạy vào cửa bếp, đưa cho vợ và dặn: Tuyệt đối giữ kín việc này !
              Đúng lúc ấy, cha tôi, cùng mấy đứa em trai, con ông chú vừa chạy về đến nhà. Nhìn cảnh tượng điêu tàn thảm khốc, cha tôi khựng lại, há hốc mồm, và cứ thế ngất đi.
              Đêm hôm ấy, trong bệnh viện tỉnh, trước mặt mấy ông chú và những người họ hàng, cha vẫy tôi lại bên giường, nói gì đấy. Nhưng nghe không được, tôi bèn ghé sát tai mình vào miệng cha và nghe tiếng được tiếng chăng, thì thào yếu ớt: bát hương ... cái túi ... Tôi chợt hiểu ra, trả lời: Dạ, đã chu toàn ! Cha gật nhẹ, khuôn mặt dãn ra, có vẻ mãn nguyện. Rồi ông khó nhọc đưa một tay lên, huơ nhẹ, dường như muốn chào tất cả mọi người đứng xung quanh: Đoàn kết ...  Chỉ nói được hai tiếng ấy rồi ông lịm dần, lịm dần rồi tắt nghỉ.
              Làm ma cho cha xong, anh em chúng tôi ngồi lại với nhau. Tất cả cùng nghị quyết: Tuỳ theo lực và tâm, tất cả sẽ đóng góp để bác trưởng làm lại ngôi nhà mới. Vậy là, với số tiền các em "viện trợ không hoàn lại và không điều kiện", cộng với vốn liếng tích cóp được từ trước, trên vị trí cái nền nhà cũ, vợ chồng tôi đã xây được ngôi nhà mái bằng cao hơn bốn mét dài, rộng hơn sáu chục mét vuông, có cửa ra vào và các cửa sổ rộng thoáng. Tôi được tập vị Trưởng họ của cha tôi. Vợ chồng tôi quyết định: Không nói với ai về chuyện cái túi và sẽ từ từ dùng nó thêm vào để làm các việc của họ. Đối với Nhẫn, đó là một quyết định vô cùng khó nhăn, nhưng cô ấy đã làm được. Từ đấy, tôi lại càng kính trọng và yêu quý cái "bà già váy mốc chân lấm" của tôi hơn. Trong nhà tôi, chẳng ai bảo ai, cứ tự nhiên hình thành một bầu không khí thoải mái: Ai có ý kiến gì thì cứ thoải mái bày tỏ ra; chưa đồng ý thì tranh luận; tranh luận cho đến thống nhất thì thôi; sai thì cùng bỏ, đúng thì cùng làm. Tiêu chí hoạt động của gia đình tôi là: Thoải mái bày tỏ ý kiến cá nhân, phát triển sản xuất, bồi bổ sức khoẻ cho mọi thành viên và ưu tiên về giáo dục cho các con. Và tôi, vốn lười nghĩ ngợi, bèn đem mô hình của nhà mình áp dụng trong toàn họ và đưa ra đề xuất: Huỷ bỏ tục tập vị cha truyền con nối; Trưởng họ sẽ do tất cả mọi người trong họ bầu ra, hai năm một lần. Việc này cũng gây ra nhiều cái trục trặc nhưng, nhờ phúc ấm của các cụ để lại, cuối cùng cũng được cả họ phấn khởi đồng tình. Chỉ trong vòng chưa đến một năm, các gia đình trong làng đang có cơ đuổi kịp các gia đình ngoài xóm trại, quỹ gia tộc đã có thêm phần dự trữ đáng kể và phấn khởi nhất là xuất hiện nhiều thanh niên giỏi giang.
              Sống trong ngôi nhà mới thoáng gió và tràn đầy ánh sáng, cả nhà tôi phấn chấn hẳn lên. Vợ tôi da dẻ trở nên hồng hào, hô hấp thông suốt. Các con tôi đều chia tay với các bệnh phế quản và hai đứa lớn đều đã vào đại học. Con chị chọn ngành sư phạm, nói là để nối nghiệp bố; thằng em chọn ngành nông nghiệp, nói là để nối nghiệp mẹ; còn thằng út, đang học phổ thông, cũng tuyên bố: Con sẽ học luật, để cãi cho những người bị oan.
              -         Còn gì nữa ? - Tôi nheo mắt, cười khuyến khích.
              Nghĩ ngợi một lát, nó có vẻ chịu thua. Tôi nói gỡ bí cho "cậu ấm":
              -         Hướng dẫn cho những người chưa thạo về luật sống theo luật !
              -         Đúng rồi ! Thế mà con không nghĩ ra !
              Bố con tôi cùng cười. Ngoài sân, mấy con gà đang tranh nhau đám thóc vãi, đuổi nhau quang quác.
              Dạo ấy, thỉnh thoảng đi ra ngoài, gặp người trong làng, tôi hay nhận được lời khen: Dạo này trông cô chú và các cháu khá lắm, chắc được ông cụ phù hộ cho đấy !  Còn tôi thì mỉm cười, cảm ơn và rất tin là như thế.
               
              Tháng 9 năm 2005
              [1] Học hết chương trình phổ thông, học thêm ba tháng về sư phạm để trở thành giáo viên.
              [2]  Chó sáu bát, gà lọt dậu (Tục ngữ) đều là đương độ ăn thịt rất ngon.
              #7
                Nghiêm Lương Thành 17.11.2007 17:03:05 (permalink)
                Nghiêm Lương Thành



                NƯỚC NGUỒN
                 
                Đang cắm cúi mài mực, chợt nghe tiếng chào nhỏ nhẹ, hơi run run nhưng rành rọt, tôi ngẩng đầu lên.
                - A bác! Bác ngồi xuống đi, cháu có ấm trà ngon mới pha.
                - Cảm ơn chú. Cụ nhẹ nhàng ngồi xuống, tay vẫn cầm thẻ hương và chiếc nón đã ngả màu nhưng vẫn phẳng phiu, ngay ngắn.
                Tôi rót nước mời cụ, hương trà bốc lên thơm ngát. Cụ đưa bàn tay run run đón lấy chén nước, cảm ơn nhưng lại đặt xuống bàn. Đôi mắt sáng - rất hiếm thấy ở lứa tuổi ngoài bảy mươi - buồn buồn và lúc nào cũng như đang nói một điều gì đấy, đang nhìn tôi chăm chú, vẻ như đắn đo ... Vẫn là cái nhìn ấm và dịu, nhưng có cái gì đấy, không giống thường ngày. Chiều hôm trước, cụ ghé vào chỗ tôi đến hai lần. Thường, cụ hay hỏi han về cái chân khập khiễng và bệnh đau ngực của tôi, cũng có khi là hỏi về công việc, thu nhập hay nói vài câu chuyện gì đó hoặc thỉnh thoảng lại đem cho tôi tấm mía, quả cam hay gói bỏng và nói: "Lộc đấy, ăn cho khoẻ con ạ!". Bao giờ tôi cũng nhận quà của cụ trong tâm trạng của một đứa trẻ khi đón mẹ về chợ. Vậy mà hôm nay ... hình như có điều gì đó khác thường. 
                - Có chuyện gì hả bác ?
                - Ừ, giúp bác với, con !
                - Việc ... ?
                - Phải ! - ngập ngừng một lát, bà cụ nhìn tôi, đắn đo - nhưng là việc của bác thôi.
                - Vâng ... !  Tôi bắt đầu thấy bồn chồn.
                - Là ... viết giúp bác lá sớ.
                - Ôi ! Cứ tưởng việc gì - Tôi thở phào.
                - Để bác nói hết đã ... Nhưng có chắc là giúp bác không ?
                - Hôm nay sao bác lạ thế ? cháu vẫn viết cho bác đấy thôi ?!
                Như mọi lần, tôi đã biết trước nội dung của lá sớ; đại loại là xin Trời, Phật và các Thánh phù hộ độ trì cho hai người ruột thịt của bà, phù hộ cho ông Nguyễn Văn Linh mạnh khoẻ sống lâu để giúp dân giúp nước và cuối cùng là phù hộ cho lũ trẻ đánh giày được ăn, được chơi, được học hoặc phù hộ cho gia đình ông nảo bà nào đó được tai qua nạn khỏi. Sửa soạn xong giấy bút, tôi quay sang, chờ đợi.
                - Thế này nhớ, bác tin con thì con cũng nên giúp bác.
                - Vâng ... nhưng hôm nay bác làm sao thế ? Tôi vội đáp, có ý giục cụ nói.
                - Phải, con muốn viết thế nào thì viết, ý bác thế này: Xin Trời, Phật ... mới các Thánh phù hộ cho bác được ... chết, càng sớm càng tốt !
                            Tôi há hốc mồm. Mình nghe không nhầm đấy chứ ? Chả nhẽ tai mình có vấn đề ?!
                - Viết đi con ! - Cụ giục tôi bằng cái giọng đều đều, bình thản của một người đã từ lâu không còn ngạc nhiên với điều gì và biết rất rõ điều mình đang làm.
                - Nhưng ...
                - Viết đi con !
                - Vậy là bác muốn ... ?! - Tôi nhổm lên, muốn nghe lại điều mình vừa nghe được từ miệng bà cụ nhưng không dám nhắc lại cái từ mà chẳng ai muốn nghe ấy.
                - Phải, con ạ. Cứ viết đi ... - cụ ngập ngừng - mà chắc gì đã được !
                - Trời đất ! - tôi ngồi phịch xuống, lặng đi. Linh cảm bảo tôi: Việc nghiêm túc đây !
                Tôi làm nghề này đã được hơn sáu năm, đã từng viết rất nhiều lá sớ cho rất nhiều người, nhưng viết một lá sớ kiểu thế này thì quả là chưa bao giờ ! Thường, đó là những lá sớ cầu tài xin lộc, cầu xin sức khoẻ, cầu cho tai qua nạn khỏi, xin được thăng quan tiến chức, cầu cho kẻ thù hoặc kẻ đang cạnh tranh với mình phải lụn bại ê chề, xin cho các cậu ấm cô chiêu dứt được khỏi vòng phá gia nghiện hút ... Còn một nguyện vọng như thế, thật trái lẽ thường và xem ra chỉ có thể có ở hai loại người: bị bệnh thần kinh hoặc quá chán đời. Mà chán đời thì - theo cách nói của đám thanh niên tân thời - có một tỷ linh một kiểu ! Mặc dù có nhiều kiểu như vậy, trường hợp của bà cụ có thể rơi vào kiểu nào đây ?
                Mà làm sao cụ lại đến nông nỗi này ?! 
                Trong cái xã hội "Cổng phủ" này, người ta cho rằng bà cụ ngoài bảy mươi ấy có lẽ mắc chứng dở hơi, thứ dở hơi của những người ít học và bị ảnh hưởng nặng nề từ cái lối giáo dục phong kiến xưa cũ. Hàng ngày, ngoài việc gánh hoa quả, bỏng ngô đi bán rong và công việc nhà, cụ dành đến một phần ba thời gian của mình cho việc chăm sóc các ban thờ nội cung, quét tước sạch sẽ các sân, vườn và khu vực cổng phủ ... không công; Săm sắn làm một điều gì đấy cho một kẻ không hề quen biết, thậm chí thoạt trông ai cũng nhận ra đó là hạng chẳng ra gì. Và, đôi khi cụ lại còn tuyên giáo đám thanh niên đi lễ rằng đến đây là để ngưỡng mộ cái đức cả của Phật, của các Thánh để tự mình cố gắng mà noi theo. Chỉ riêng cái lối ăn cơm nhà vác tù và của những người đồng bào, cũng đủ để thiên hạ tiếu luận rồi, nói chi đến những điều chỉ bảo thô sơ, ngô nghê, chỉ đáng nhồi vào tai những kẻ điên gàn bởi thứ đầu óc tầm thường của chúng chỉ có thể dung nạp được những điều thô sơ, ngô nghê, xa rời vật chất kiểu như vậy.
                Trần sao, âm vậy; Có đổ xăng thì ôtô mới chạy được, cứ có lễ lạt là sẽ có báo ứng! - Theo ý của cô bán vàng hương ở bên trái lều chỗ tôi ngồi - Chẳng có ai đi làm những việc mà sau đấy mình chả hy vọng được gì ! Chẳng vì tiền thì cũng muốn được danh được vọng, mà danh với vọng thì ... chậc ... nghĩ cho cùng thì cũng vẫn là tiền thôi. Tiền nong mua được cả những cái ... đếch có ! Tôi đố các ông tìm được ai đó đến đây đặt lễ thắp hương mà không cầu cái này, xin cái nọ ... có họa điên ! Thì đấy, thấp kém như loài gia cầm, thử vứt nắm thóc ra sân mà xem, chúng không bâu ngay lại à ? Còn mổ nhau choang choác ấy chứ ! Rồi con nào cũng cố nhặt, cố xúc cho thật nhanh trước khi chẳng còn hạt nào sót lại trên sân, không cần truy cứu nguồn gốc, và sau đó mới khoan thai đứng thẳng, vươn cổ cho số quả thực vừa tranh giành được trôi hẳn xuống diều, rồi lé mắt sang hai bên ước lượng độ căng của những cái bọc diều khác và khoái trá vì cho rằng mình cũng không phải hạng đần độn, cù lần, rồi ... biến ! Nhưng mà - cô nàng thở dài - chỉ tội cho mấy con gà nhép, chả biết có mổ được hạt nào không, cứ kêu chiếp chiếp sốt cả ruột ! ... Còn cái này nữa - chợt nhớ ra điều gì, cô nàng hăm hở nói tiếp như chỉ sợ quên mất - mỗi khi ông về nhà mình, con chó nhà ông nó chạy ra đón, đuôi vẫy rối rít; Còn nếu như tôi đến nhà ông ... ?  Này, nói cho nhanh, không có đoạn đấy đâu nhớ ! Mà không chừng còn bị nó cắn cho ấy chứ ! Thế thì tại sao ? Cái việc này thì lũ chó chúng nó hiểu lắm. Ông: Đã cho nó ăn và nó thấy chưa có lý do gì để điều đó phải "sít tốp"; Còn tôi: Chưa bao giờ cho nó ăn và cũng không có lý do gì để cho nó ăn. Mà nó sủa tôi chẳng phải vì nó thù ghét gì tôi, nó chỉ muốn trình diễn lòng trung thành của một con chó đối với ông chủ của nó là ông; Nói cho nhanh - cô nàng từ từ xoay khuôn mặt đang ở hình thái một chiếc bánh đa nướng chưa gặp nước, hỗ trợ cho đôi mắt lẻ mí nhỏ nhắn và sắc lẹm để có thể dễ dàng duyệt hết một lượt các thính giả của mình, hạ giọng rành rọt - đó là động tác bổ trợ cho tính bền vững của bát cơm chó ! (Nghe nói trước đây cô ta là vận động viên Quốc gia trong lĩnh vực bắn các loại súng; Khi giải nghệ, thi vào Tổng hợp văn; Đỗ, nhưng không nhập học bởi đột nhiên nhận ra rằng trong hoàn cảnh cụ thể của mình, làm nghề bán vàng hương này mới có thể có điều kiện kiếm đủ để duy trì cái tế bào xã hội mà cô đang quản lý và cho cậu con trai ham học của mình bước vào cổng trường đại học một cách đường hoàng. Hy sinh đời mẹ củng cố đời con ... cho đời nó đỡ khổ, vì rốt cục - cô nàng kết luận - rồi xã hội nào cũng vẫn phải cần đến những người có chữ có nghĩa !). Nghe đến đây tôi không thể không phì cười vì cái lối tư duy cập cà cập kênh, gán gán ghép ghép nhưng lại có vẻ khá ngăn nắp ấy, nhưng đồng thời tôi lại cũng có cái cảm giác mơ hồ như bị xúc phạm.
                            "Này, cô! - Ông chủ quán cá ở lều đối diện với tôi, từ tốn đưa ra ý kiến - Tôi vốn là người nhà quê, nhà tôi lúc nào cũng nuôi chó, từ bé tôi đã đánh bạn với chó, tôi hiểu chúng lắm. Trong hệ thống Luân Thường, các đồng chí Nho học tiền bối đã đưa ra ba-rem Ngũ thường [1] - Ông quay sang tôi, ý chừng như muốn thông báo: Tôi đang chia xẻ điều này với anh đó - và gọi đó là Đức của người Quân tử để con người ta lấy đó làm mực mà tự sửa lấy bản thân mình. Nhưng đối với tôi, điều thứ hai tôi lại học được từ chính mấy anh bạn này... Chớ nói thế, phải tội đấy ! Không tin, cô thử nuôi chó đi. Rồi đến một ngày nào đó, cô "sì tốp" cho chúng ăn và thử xem xem ... Có lẽ cô sẽ ngước mắt và nhận ra chúng là một loài cao quý chăng ?!". "Vớ vẩn, Nho với chả nhe ! - Cô nàng nguýt dài - phức tạp, bố ai mà biết được !? Chó bao giờ mà chả là chó, nếu không tại sao thiên hạ vẫn gọi chúng là chó !  Mà kìa - cô nàng hốt hoảng chỉ tay vào chảo chả cá đang sôi mỡ - có mùi hơi khét ! Nó mà cháy thì có Luân Thường giời cũng chẳng cứu được !"
                Vậy mà mỗi khi có đám tranh chấp, cãi vã ... trong cái xã hội dịch vụ ăn uống, vàng hương, bói toán ... hối hả và nhốn nháo ấy, họ lại kéo bà cụ đến và, chỉ sau mấy câu thô sơ của cụ, mọi việc lại ổn thoả cho dù chủ trì của vụ lộn xộn đó có là một gã hay một ả "đầu gấu" có hạng. Còn chính quyền sở tại thì cho rằng trong việc giữ gìn trật tự an ninh, cụ có tác dụng còn hiệu quả hơn cả chục nhân viên an ninh phường. Dù sao, ở khu vực cổng phủ này, cụ vẫn là người được nể trọng nhất. Bởi xét cho cùng, cụ đến đây không phải để giành để giật miếng cơm manh áo từ cái dòng bất tận, đủ loại những người đi lễ, đi cầu ấy, mà chỉ đem lại cái lợi cho công cộng, chỉ làm những việc và nói những điều dở hơi vô hại mà "những người lành mạnh" chẳng bao giờ để tâm. Nghe mấy cụ cùng thời nói chuyện thì ngày xưa vợ chồng cụ cũng có của ăn của để. Xưởng tiện gỗ của gia đình lúc nào cũng có hơn ba chục người thợ làm việc. Bà cụ là người chăm chỉ và tiếc việc, chính mình cũng ngồi lỳ trên một bàn tiện và tay nghề cũng chẳng kém cạnh gì so với đám thợ giỏi. Sau đó, thời thế thay đổi, cụ hiến toàn bộ gia sản cho nhà nước, chỉ cốt sao cầu được hai chữ bình yên cho chồng con. Trong thời gian chiến tranh, anh con trai đi bộ đội, những người thợ đã từng làm cho gia đình cụ ngày trước vẫn đi lại thăm hỏi, giúp đỡ và quí hoá cụ lắm.
                Thế nhưng vì cơn cớ gì mà cụ lại chán sống ?
                Do nghèo khó ? Có lẽ cụ nghèo thật, nhưng cụ thuộc loại người làm lụng suốt ngày không hết việc, và hơn nữa, lại thấm nhuần cái tinh thần cam phận vốn đã xưa như Phật - Thứ tinh thần mà những người cách mạng chân chính đã thẳng thắn phê phán và cảnh báo rằng: ... rất tiêu cực ! ... thủ tiêu đấu tranh ! Và chính thứ tinh thần đó đã từng bị lũ thực dân cùng một bộ phận phong kiến lưu manh lợi dụng triệt để như một tiêu chí chiến lược hàng đầu trong cuộc "trâu ngựa hoá" đồng loại của mình, nhằm củng cố và duy trì một nền thống trị đề cao gươm súng và có đủ điều kiện để có thể thoả mãn tối đa ngay cả những khát vọng phát sinh từ những cảm xúc tài chính lãng mạn nhất của một tầng lớp xã hội có thuộc tính là ngại lao động nhất và muốn nhiều nhất ! Vậy đây không phải là lý do. 
                Do bị xúc phạm ? Cũng không phải, bởi một người luôn biết rõ mình là ai, đã từ lâu không còn cảm giác ngạc nhiên và có sẵn trong máu cái tố chất cam phận thì không bao giờ nhậy cảm với các sự thuộc về "xúc phạm".
                Do buồn phiền vì con cái đối xử tệ bạc ?... 
                Vấn đề có thể là ở đây chăng ?!
                Tôi chăm chú nhìn cụ, dò xét và chợt hiểu rằng mình không nên và không có quyền chất vấn cụ về việc này. Nhưng nếu muốn kết thúc đời mình, thì sao cụ không tự thực hiện điều đó? Việc này nằm trong khả năng của mình, vậy tại sao cụ phải nhờ đến Trời Phật ?
                Mà có thực là có Trời Phật hay không ? Điều đó có lẽ chỉ có Trời Phật biết ! Về phần mình, tôi chỉ lờ mờ cảm thấy dường như vẫn tồn tại một cái gì đấy - quán xuyến, xuyên suốt toàn bộ vũ trụ - siêu phàm, công bằng, nghiêm khắc và chính xác đến rợn người; Mọi ý tưởng, mọi sáng tạo mà con người ta có thể có được, dù được chính con người đánh giá là lớn lao đến đâu, so với nó, cũng chỉ khiêm tốn như một chú đại bàng bé bỏng và đáng thương trước vũ trụ bao la không cùng; Cũng như một cậu bé, đến một ngày nào đó, tự cảm nhận được một cách sâu sắc rằng Bố-Mẹ mình rất thương yêu mình nhưng lại không và không bao giờ biết được đâu là bờ của cái biển yêu thương rất đỗi trần tục, thánh thiện và có kích thước vũ trụ ấy !
                Trong cái đám hỗn mang, mông muội của nền văn minh tin học sơ khởi, tôi thuộc tầng lớp gần như  "áp chót". Tuy vậy, dù sao tôi vẫn là một thực thể sống, và do đó, vẫn chứa chất đâu đó trong bản ngã một chút cái thuộc tính hiếu sinh của tự nhiên. Tức là trong tôi luôn thường trực một bản năng về sự tồn tại. Hơn nữa, hồi tôi còn nhỏ, ông nội tôi thường dạy tôi rằng "Điều mình không muốn thì chớ làm với người khác !"
                [2]. Và cuối cùng cái phần bản năng về sự tồn tại và một chút giáo dục không mới không cũ ấy đã chỉ cho tôi thấy cách giải quyết vấn đề, dù đó chỉ là một giải pháp tình thế.
                Vậy là tôi viết cho cụ một lá sớ với tất cả những điều cầu mong tốt đẹp nhất có thể có nhưng đọc lại cho cụ nghe lại theo đúng nội dung mà cụ đã nhờ tôi viết. Tất nhiên là Cụ cảm ơn tôi và hài lòng cầm lá sớ, đi vào ban thờ chính của phủ để làm các "thủ tục" tâm linh mà cụ cho là cần thiết.
                 
                *
                 
                Hoá ra, nghề nghiệp nào cũng có những cái hay ho và những vấn đề đau đầu của nó, kể cả cái nghề chẳng ra nghề của tôi; Cái nghề mà buổi đầu, vì sinh kế, tôi đã bất đắc dĩ phải làm.
                Hồi đó, khi cuộc Kháng chiến chống Mỹ còn chưa kết thúc, tôi đã là một thương binh ở chiến trường B. Một mảnh đạn pháo sắc lẹm, vô tư lự đã găm ngoéo vào chân tôi, hồn nhiên hoàn thành cái nhiệm vụ chính trị - tuy không suất sắc lắm - mà nó đã được Richard Nixon cùng các ê-kíp của ngài ở Washington và Sài Gòn giao cho. Sau khi được xử lý tại một trạm phẫu thuật tiền phương, tôi được chuyển về tuyến sau trong trạng thái lơ mơ, thiếp dần đi trên nền một ca khúc đang được chuyển tải bằng những giọng thanh nữ trong trẻo, khoẻ mạnh, hồn nhiên và say sưa, phát ra từ một chiếc máy thu thanh bán dẫn của ai đó ... "Quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ ... yêu như đứa trẻ ... đứa trẻ ... trẻ ... "
                Do điều kiện hạn chế về vệ sinh và thuốc men ở mặt trận, khi được chuyển ra một quân y viện ở Hà Tĩnh, tôi được các bác sỹ thông báo: "Chân đồng chí bắt đầu bị hoại thư, cần phải tháo khớp háng để tránh sự lan nhiễm nguy hiểm không cần thiết !". Thế là hết - tôi ngán ngẩm ước lượng nhanh cái tương lai không có chút mầu hồng nào của mình. Mà cũng lạ, chỉ ngán ngẩm vầy vậy thôi, tôi không hề bị sốc, bị khủng hoảng như một số người trong cùng hoàn cảnh. Có lẽ do tôi không có cao vọng gì trong tương lai; Tôi thuộc hạng người - vô phép cụ Nam Cao ! - sinh ra để  "hưởng thái bình" chăng ?
                Như người ta vẫn nói: Hoạ phúc vô cùng, trong cái rủi có cái may. Và trên thực tế, Đức Di Lặc béo tốt, nhẹ lâng và vô cùng hỷ xả đã mỉm cười rất tươi với tôi. Một cô y sỹ trẻ - tình nguyện vào công tác tại tuyến lửa - có đôi mắt trong veo (cảm ơn trời vì người đã cho tôi được gặp nhiều người có đôi mắt trong veo đến thế !) chẳng hiểu lùng ở đâu ra một cái mật gấu tươi, cố thuyết phục tôi và các bác sỹ điều trị rằng nếu dùng nó tiêm trực tiếp vào vùng vết thương thì có nhiều khả năng tránh được vụ tháo khớp bởi chính ông cụ thân sinh ra cô, cũng là thày thuốc, cũng bị hoại thư sau một lần mổ, đã quyết định tự chữa cho mình theo cách ấy và kết quả đã rất hoàn hảo. Quả nhiên sau đó, mọi việc tiến triển rất tốt. Các bác sỹ thì hài lòng, tác giả của cái mật gấu thì mỉm cười, còn tôi thì không phải chia tay với cái chân tội nghiệp của mình.
                Sau bốn tháng điều trị - ngày nào cũng được trông thấy "Đôi mắt trong veo" -  người ta chuyển tôi ra một trại điều dưỡng ở Sơn Tây. Trở thành một gã chân đi tập tễnh, thường bị đau nhức kinh khủng vào những khi trở trời và mất khả năng thực hiện các hành vi lao động đòi hỏi phải tiêu hao năng lượng cơ bắp cao, tôi không thấy có điều gì phải phàn nàn ngoại trừ tình trạng lúc nào cũng như nhìn thấy "Đôi mắt trong veo" ấy và kèm theo đó là một cảm giác chống chếnh; cái chống chếnh của một chú chim lạc đàn, của một con thuyền trên cạn. Lần này thì chẳng phải là "thái bình" nữa rồi - tôi tự nhủ - "thuyền"  phải đi tìm "biển" thôi !
                Tôi xin phép trại điều dưỡng mấy ngày về thăm nhà, nhưng lại bay thẳng một mạch vào quân y viện, nơi có "Đôi mắt trong veo". 
                Kể ra cũng khó khăn thật, bởi từ bé tôi đã làm cái việc này lần nào đâu, nhưng cuối cùng thì tôi cũng trình bày được điều tôi muốn nói với cô, rằng tôi buồn và rất nhớ "Đôi mắt trong veo" và thế là "Thuyền" đánh liều đi tìm "Biển" ! Còn cô nói cô cũng nhớ "Đôi mắt trẻ thơ" lắm; Nhưng đó là "Ao" đấy, không phải "Biển" đâu !
                Nói thì ra dáng lắm, trữ tình lắm, nhưng sau này, khi đã nên vợ nên chồng, Thuyền kia mới bộc lộ hết những yếu kém mà chính bản thân nó trước đó cũng không nhận thức hết được.
                Chúng tôi làm lễ cưới vào mùa xuân năm 1974 và năm sau đó bắt đầu cuộc sống đoàn tụ tại một làng ngoại thành Hà Nội. Tôi trở lại trường Đại học sư phạm để học tiếp, còn cô ấy chuyển công tác về một bệnh viện thành phố. Sau khi tốt nghiệp, chúng tôi đã có hai cháu. Kinh tế gia đình cũng tạm ổn. Biển thỉnh thoảng cũng gợn sóng tí ti. Trong cái cuộc sống gia đình lằng nhằng tem phiếu ấy, tôi còn phát hiện ra thêm một điều là cô ấy cũng thuộc loại nghịch ngầm ... có kỹ năng; Hai đứa con tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội trong việc thừa hưởng trọn vẹn bộ gien đó của mẹ chúng và, rốt cuộc, tôi thường là nạn nhân của cái liên minh đồng tố và biến hoá khôn lường ấy.
                Cho đến năm 1987, cuộc sống đã bắt đầu có chiều hướng khó khăn. Đã bắt đầu xuất hiện những đợt gió mạnh và ngày càng dữ dội từ cuộc sống thị trường hối hả, công bằng và vô tình cùng đời sống viên chức so dụi, chật trội, bon chen và sát phạt. Một số người, như bừng tỉnh sau một giấc mộng dài, chợt mừng rỡ nhận ra rằng "Quê hương" đích thị là "Cây khế ngọt", được ông Trời tạo ra theo cùng công nghệ dùng để chế tạo chiếc niêu Thạch Sanh từ thời cổ tích (!). Người ít lời thì bảo đó là sự ngộ nhận, kẻ riết dóng thì cho đó là một thứ xảo tưởng bởi họ cho rằng không thể đem công nghệ chế tạo ra một vật vô cảm để cho ra đời một thực thể có khả năng cảm nhận toàn bộ những cảm xúc trần tục. Một số chính khách có tâm và đám dân chúng thuộc huyết hệ Âu lạc thì nhìn cây khế xác sơ mà than rằng: Ôi, thảm họa !
                Và, trái với cái lẽ thường từ ngàn đời nay, tôi - một gã đàn ông - đã không làm cho vợ con của chính mình được sống no đủ. Vậy mà "Biển" chẳng hề nổi sóng. Tôi thầm biết ơn và kính trọng vợ tôi vì điều đó. Một đêm, khi lũ trẻ nhà tôi đã ngủ tít, vợ chồng tôi cũng đã tắt đèn lên giường, nàng nắm tay tôi thì thầm:
                - Cuộc sống ngày càng tồi tệ, liệu có thay đổi được không anh?
                - Đúng là như thế, nhưng chúng ta có thể làm gì ? ... mà khối người còn khổ hơn mình ... rồi có lúc cũng phải khá lên chứ ... Nước lên thì thuyền lên, nghĩ làm gì cho mệt !
                - Không được đâu anh ơi - nàng nhỏm dậy - các con mình bắt đầu bước vào độ phát triển mạnh cả về thể chất và trí tuệ; chúng cần có đủ chất để không bị thấp lùn như chúng mình; Mà cũng nên tạo một điều kiện vật chất tối thiểu nào đó về giáo dục để tránh cho chúng tình trạng chỉ biết mà không hiểu như mẹ chúng. Đấy anh xem, chúng nó vẫn lớn dần và mọi cái cứ diễn ra tuần tự mà không chờ nước lên đâu ... "Ai chậm rì rì, nó đi chẳng đợi", vì thế  ...
                - "Ong vàng ơi, hãy bay đi !" - Tôi bật cười, nối lời nàng bằng câu tiếp theo của một bài hát trẻ thơ mà mấy mẹ con rất thích đó.
                Thực ra tôi cũng đã nghĩ nhiều về chuyện này, nhưng bài toán thật nghiệt ngã. Lúc bấy giờ, ngoài một số đi chạy "mánh", "đánh quả", hầu hết mọi người đều làm thêm ngoài giờ hành chính bằng chính cái nghề của mình. Nhưng tôi thì không thể, bởi tôi xấu hổ. Bởi một lần, trong lúc uống bia cùng với mấy người bạn học cũ trong một quán cóc dọc đường cao tốc Thăng long - Nội Bài, tình cờ tôi nghe một cậu sinh viên - cõ lẽ đang học năm cuối - đang la đà cùng mấy cậu bạn, cao hứng đọc mấy câu nhại thơ của cụ Tú Xương: 
                "Đạo học ngày nay khác xưa rồi.
                 Văn minh, phong hoá cũng vậy thôi "   
                Láo toét !
                Nhưng đau quá!
                Còn vợ tôi, nàng nói nàng cũng không thể, bởi cứ trông thấy bệnh nhân từ các tỉnh về, đau đớn, nghèo túng, cần sự giúp đỡ thì nàng không thể không cố làm cái gì đấy cho họ. Mà cái giống cứ hay đi thương người khác, nếu giàu có được thì cũng còn vất vả lắm !
                Sau đó mấy hôm, vào một buổi chiều, trên đường từ trường về nhà, khi tôi đang thong thả đạp xe dưới hàng tán lá xà cừ xanh mướt và đắm mình trong làn nắng chiều vàng nhẹ tràn ngập tiếng chim, bỗng ... réo ... réo ... hai chiếc xe máy, một chiếc bên phải một chiếc bên trái, phóng vượt sát người tôi. "Tốc độ của thế hệ mới !". Chưa kịp mỉm cười vì cái nhận xét theo lối marketing đó thì ... "roẹt" ...  tôi bị bạt ngang sườn và thấy mình bay ra khỏi xe, rồi hình như có một chiếc xe khác nữa trườn qua người ... trong khoảnh khắc đó, tôi mở mắt và chợt nhận ra những tiếng chim vừa rồi đã khiến tôi say mê phơi phới đang tiếp tục phát ra từ một hệ thống những chiếc lồng bóng láng, sạch sẽ, treo ngăn nắp phía bên trên cái ban công inox sáng choang tầng hai của nhà ai đó. Ôi, lại "tiếng chim của thế hệ mới ! ... "
                Trong khi vợ chồng đang loay hoay, chưa tìm ra lối thoát về tài chính thì kiếp nạn này lại giáng xuống đầu tôi, lấy mất nốt cái khả năng di chuyển khập khiễng và chuyển đổi tôi thành một gã tàn tật thực sự, bổ sung một cách hoàn hảo cho khúc ca trần ai muôn thuở của cái thế giới mà Nhà Phật cho rằng việc hiện diện của con người ở đó chỉ để hoàn thành giai đoạn sống gửi, tạo ra một bước ngoặt về lượng - và do đó về chất - đưa cuộc đời tôi tiến thẳng đến cổng phủ Tây Hồ, làm chiếc cầu nối giữa những con người thực về mọi nhẽ và một thế giới mù mờ nhưng rất đỗi cao cả và đầy quyền năng bởi chính cái sự mù mờ rất thực của nó !
                Tiến thẳng ! Ấy là cách xài chữ như một thứ mỹ phẩm để làm dáng cho câu nói vậy thôi. Trên thực tế, chỉ có ánh sáng và những gì thuộc về nó thì mới đi thẳng. Còn con đường dẫn tôi đến cổng phủ thì lại chỉ liên quan tới phạm trù "Đấu tranh sinh tồn" (theo cách nói của các nhà Thiên nhiên học) hoặc "Sinh kế" (theo cách nói của các nhà Dự án học chuyên thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo) hoặc "Kiếm cơm" (theo cách nói nôm của đám dân gian dông dài, chẳng quan tâm gì về bộ môn lý luận học).
                Sao không kiếm một việc gì khác mà làm ... như viết văn, viết sách, vẽ tranh, điêu khắc, làm âm nhạc, hoạt động xã hội ... và, có thể, thể thao ? - chắc hẳn bạn sẽ kín đáo đưa tay lên miệng che cái ngáp, lắc đầu mà hỏi như vậy ! Quả thực, những người tàn tật nổi tiếng đã làm như thế ! Nhưng đấy là họ, mà họ lại dường như là tinh hoa của giới tàn tật và giới có vẻ như không hoặc chưa tàn tật ! Còn tôi, tôi chỉ là tôi và tôi phải trả lời được câu hỏi "Làm gì?" trong phạm vi các dữ kiện rất khiêm tốn về hoàn cảnh và năng lực của bản thân; Phải làm một việc cụ thể để tiếp tục góp sức với đồng chí vợ, thực hiện cái nghĩa tao khang trong giai đoạn mới, duy trì con thuyền gia đình và phát triển thế hệ mới của nó.
                Thú thực, buổi đầu tôi cũng thấy ngài ngại, ngường ngượng. Đường đường là một cựu chiến binh, một giáo viên thời đại computer ! ... ấy thế mà lại đi làm cái anh thày nho viết sớ ! Nó cứ thế nào ấy ... , có vẻ không ổn ! ...  Song, dù sao thì cũng đã ở thế trận xoay lưng ra sông rồi. Chỉ có duy nhất một hướng tiến. Vậy là tôi xung phong.
                Rồi, như một con người bình thường và theo thói thường, bao giờ cũng cho rằng công việc hắn đang làm là hay ho, là cần thiết, là quan trọng. Và có không ít trường hợp, hắn đã chứng tỏ điều đó với thiên hạ bằng cách bí hiểm hoá thậm chí cả những công việc được phân loại thuộc hệ lao động giản đơn, khiến cho tiếng cười bị tắt ngấm và mọi việc trở nên cực kỳ nghiêm trọng ... , mang hình hài của cuộn len bị một chú mèo đang lớn làm cho sổ tung, không tìm thấy đầu mối và có khả năng khiến cho những người liên quan, kể cả những hạng có bản chất nền nã nhất, được giáo dục nhiều nhất, cũng phải bất giác mà ... văng tục ! Tôi đã thi vị hoá cái việc kiếm cơm thấp tè của mình bằng cách chọn Văn miếu làm điểm hành nghề; Bởi tôi cho rằng đã đến nơi đây thì chỉ có những người hiếu lễ hiếu học, cầu chữ xin nghĩa, khát khao cái đức cái thiện cho mình, cho con cháu mình mà thôi. Và vì vậy, do đó, hoá cho nên: ít nhất tôi cũng được là kẻ trung gian giữa những công dân tao nhã, trong sáng và đức Khổng Tử chí thánh cùng cụ Chu Văn An chí đức, chí thiện !
                Quả là tôi đã được gặp những người như tôi mong muốn: Những ông già bà lão, những ông bố bà mẹ có đôi mắt trong veo, luôn mong mỏi cái sự "con hơn cha, trò hơn thày"; Là những nam thanh nữ tú, những khát vọng về tri thức không gì ngăn cản nổi, có nguyện vọng làm chủ cuộc sống bằng trái tim và ánh sáng. Những đoá sen thuần khiết tinh khôi đó được nuôi dưỡng bằng tinh tuý của một lớp bùn hôi tanh và nhẫn nhục, bao dung và ấm áp, luôn bị che khuất bởi một lớp nước trong sõng, nhạt thếch nhưng rất đỗi óng ánh, lung linh; Thứ vật chất mà bao đời nay vẫn là nguồn thi hứng trực tiếp và mạnh mẽ cho dòng các thi sỹ vốn tràn trề tư chất hành chính sự nghiệp.
                Nhưng chẳng có cái gì được không bao giờ. Số người đến đây không nhiều và thảng hoặc mới có vài bà mẹ trong số đó nhờ đến cái năng lực viết chữ nho của tôi. Tình trạng này kéo dài có đến nửa năm, cho đến khi một anh bạn cũ lắc đầu ái ngại bảo tôi rằng nên chọn địa điểm hành nghề ở những nơi có nhiều người lui tới, ví như đền Bà chúa kho, phủ Tây Hồ hay chùa Hà ... Tuy có luyến tiếc, nhưng cuối cùng, tôi cũng buộc phải cúi đầu mà thừa nhận rằng cơm gạo và sự lãng mạn - kể cả loại hình lãng mạn tài chính - là hai thứ luôn hình khắc lẫn nhau. Rồi nghe theo lời khuyên đó, tôi không thi vị và nghiêm trọng hoá công việc của mình nữa. Và bây giờ, tôi đang ngồi đây, trước cổng phủ Tây hồ, làm dịch vụ thể hiện các lá sớ với đủ loại nội dung cho đủ loại khách hàng đáng kính và sẽ đáng kính và đang phải đối mặt với câu hỏi hóc búa về bà cụ.
                Tuy vậy, cũng chẳng có gì mất không bao giờ. Đổi lại việc không được thường xuyên chiêm ngưỡng những đoá Sen tràn ngập ánh sáng trí thiện, tôi lại có cơ hội hiểu thêm về cái lặng lẽ, khiêm cần và bé nhỏ-lớn lao của các loài hoa lúa, hoa cam ...; Cái tuy hữu sắc vô hương nhưng lại khiến cho người ta vui mắt của các loài đồng tiền, thược dược ...; Cái nghiêm uy, huy hoàng nhưng lại chẳng bao giờ kết nổi được trái nào của các loài hồng, dơn, huệ, cúc ...... Và tuy không muốn, nhưng cũng không phải là thừa khi không thể tránh được việc phải hiểu về cả những loài hoa ác độc nghiệp chướng hoặc những loài hoa tầm gửi vô hại đáng thương, nguyên nhân của không ít những vướng víu, phiền toái không đáng có. Cũng nhờ đó, dần dà, với chút kinh nghiệm nho nhỏ có được trong khi tiếp xúc với khách hàng, tôi được thấy và bắt đầu hiểu ra một phần cái điều mình đã được nghe trước đó có đến hàng trăm lần rằng bản chất con người ta vốn cũng yếu đuối lắm ! Và trong cái bể trầm luân vô thường được tạo thành từ một hỗn hợp tả-pí-lù những yêu thương-căm giận, bao dung-đố kỵ, sung sướng-khổ đau, ham hố-thờ ơ, trung chính-phản trắc, tội ác-điều lành ... ấy, con người luôn cảm thấy thảng thốt, bất ổn .... Sau khi thấy chẳng có điều gì là ngẫu nhiên cả, con người nhận ra rằng khởi nguồn của cái bể trầm luân ấy chính là cái bản năng sinh tồn nội tại của mình mà hai đại diện mũi nhọn là cái bao tử và vật sinh thực khí; Hạnh phúc hay khổ đau, cao thượng hay thấp hèn, điều thiện hay cái ác, nhạc thơ hay gươm súng ... tất thảy cũng đều khởi từ đó. Giê su, Thích ca mầu ni, Mô ha mét, Khổng tử, ... đã tập hợp phần ánh sáng của những bộ đôi đó mà chế ra tôn giáo. Còn những kẻ khôn ngoan thì dùng phần còn lại để tạo nên và không ngừng hoàn thiện các dòng công nghệ "Sống chết mặc bay !" cùng các kỹ năng "Bẩm cụ bây giờ thì thối lắm rồi ạ !". Và sau rốt, nhờ các công nghệ và kỹ năng ấy, con người đã vươn dậy, vững vàng, chững chạc tách hẳn ra khỏi quần thể các loài động vật hoang dã thấp kém trên cái hành tinh xanh đáng yêu này.
                 
                *
                 
                Kể từ lần viết cái lá sớ khác thường đó, tôi còn viết thêm cho cụ mấy lá nữa; Tất nhiên, đều là những nội dung tốt đẹp. Nhưng có điều, chẳng thấy ở cụ có gì khá lên, mà thậm chí, về mặt sức khoẻ, cụ còn có vẻ như yếu đi. Có lần, cụ buồn bã bảo tôi: "Bác chỉ xin có thế mà các Ngài không cho!".
                Đã mấy ngày cụ không đến Phủ rồi. Thêm nữa, do không thể lý giải được chuyện này, tôi càng cảm thấy áy náy, dấm dứt, bồn chồn không yên. Nhận thấy cô bán vàng hương và ông chủ quán cá cũng rất quý bà cụ, tôi bèn đem chuyện này ra nói với họ. Quả nhiên, họ cũng sững sờ khi nghe câu chuyện.
                Sớm hôm sau đó, sau khi dọn hàng tinh tươm, cô hàng hương vẫy ông chủ quán cá sang lều của tôi và nói với chúng tôi bằng cái giọng rất quán xuyến: "Anh bán hàng cho tôi, còn ông lúc nào rỗi thì phụ với anh ấy. Để tôi đi xem bà cụ thế nào !". Nói rồi cô nàng le te dắt chiếc xe đạp cà tàng ra và chỉ loáng sau, đã mất hút giữa dòng đám công chức đang rào rào di chuyển tới các nhiệm sở của họ.
                Buổi trưa, cô nàng sầm sập trở về cùng với một trận bão:
                - Nói cho các vị biết: các vị chỉ được cái lo bò trắng răng !
                - Tìm thấy rồi à ?
                - Thấy !
                - Ở đâu ?
                - Trong nhà thương !
                - Cái gì ?!
                - Trong nhà thương và có công an canh gác !!
                - Cái gì ... ??!!
                - Trong Nhà thương và sau đó là trong Nhà giam !!!
                - Bố láo ! Ăn nói cho cẩn thận ! - Ông chủ quán cá bắt đầu nổi xung.
                - Thì đấy, ông đến mà xem, người ta tìm thấy có Heroin trong chiếc làn của bà ấy đấy ! Gớm ! ... Càng xấu xa thì càng làm ra vẻ đạo đức cao cả; Tin cho lắm vào rồi mà vỡ mộng nhiều ! Chấp nhận đau thương đi ! Còn bây giờ - cô khoát tay, giễu cợt - tất cả về vị trí kiếm ăn !
                Nói rồi, cô nàng trở về với gánh công cụ giao cảm trần-linh của mình, mặt và cổ đỏ tía, ngồi dạng chân quạt phành phạch. Ông chủ quán cá cũng phẩy tay, hùi hụi trở về quán, vớ lấy con dao phay, bổ một nhát, làm toác đôi chiếc thớt vốn đã mòn lõm vì bị khai thác quá niên hạn, khiến các dụng cụ chế biến vật liệu giao cảm giữa đức Bao tử và Thiên nhiên tươi đẹp bị xô lệch, nghiêng ngả, lăn vỡ tung toé.
                Không thể tin được !
                Tôi thuê xe ôm đến ngay bệnh viện. Quả là ở đấy người ta không cho tôi gặp bà cụ vì lý do đương sự đang trong thời gian điều trị chờ điều tra xét hỏi. Khó khăn lắm tôi mới gửi được cho cụ một túi hoa quả nhỏ sau khi phải để lại họ tên và số chứng minh thư của mình.
                Không thể tin được !
                Tôi lần tìm đến công an phường, nơi quản lý hộ khẩu của gia đình cụ, định bụng hỏi xem có biết được thêm điều gì không thì lại tình cờ nhận ra người tiếp mình chính là Đăng móm, thằng bạn ồn ào cùng trung đội năm xưa; Một lần trong khi xung phong, bị một mảnh đạn bay sượt ngang mồm, gẫy mất hai chiếc răng cửa và sau đó được các bạn ngũ đặt cho cái biệt hiệu Đăng móm. Sau một hồi cuống quýt, tíu tít hỏi han, thông báo tình hình của nhau như hai gã học trò, Đăng hỏi tôi:
                -  Mày còn nhớ thằng Bằng không ?
                -  Thằng Bằng-quân-tử-gàn-tiên-sinh-mọi-nhẽ chứ gì ? Mày gặp nó à ?
                -  Hoá ra quả đất cũng chẳng to lắm đâu; Nó ở ngay trong địa bàn phường bọn tao quản lý đây này: Làm nghề dạy học tư, sống với mẹ và con gái ...
                -  Thế còn vợ ...?!
                -  Nó không lấy, cái thằng gàn ấy mà, chấp gì !
                -  Vậy là nuôi con nuôi ?
                -  Ừ  ! Con bé thông minh và ngoan ngoãn hiếm thấy.
                -  Thế sao nó không lấy vợ ? Hay nhỉ, đúng là Đăng móm, mà "móm" nó vừa vừa thôi bố ơi !
                -  Tao không có "móm" ! Việc là như thế này... sau khi mày bị thương và chuyển đi lần ấy, trung đoàn mình được lệnh chuyển quân vào sâu hơn. Trong một lần Bằng được cử đi trinh sát ở khu vực Kon Hà Nừng, không may nó lại nằm đúng toạ độ tuyến rải chất độc hoá học của tụi nó và ... bị dính. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Bằng trở về đơn vị và có bị khật khừ mất chục hôm rồi trở lại bình thường. Chuyện chỉ có vậy và sẽ chẳng có ai nhớ lại nếu sau đó người ta đã không phải quặn lòng chứng kiến những hậu quả thương tâm dai dẳng của thứ hoá chất màu da cam đáng nguyền rủa đó... đấy là lý do khiến nó không dám lấy vợ.
                -  Bây giờ nó thế nào ? Tôi sốt ruột ngắt lời.
                -  Thì đấy, tao nói hết rồi, có điều nó nghèo lắm và bà mẹ đang gặp chuyện rắc rối: Cụ bị tai nạn xe lửa, tý nữa thì nguy hẳn, hiện thời phải nằm bệnh viện, nhưng ... thật không thể hiểu được ... - Đăng ngừng nói, nhìn tôi chằm chằm, vẻ đau đớn, dúm dó hiện rõ trên khuôn mặt - mà làm sao cụ lại dính vào ba cái vụ này chứ ...?
                -  Này, ... có phải bà cụ tên là cụ Thảo, vẫn đi bán quà rong, mắt sáng, nước da ngăm đen, nhân trung sâu, vóc người thấp bé, tóc vấn khăn, tuổi khoảng bảy nhăm bảy sáu, hiền hậu nhưng nói năng rất rành rẽ ... hiện giờ đang nằm ở phòng cấp cứu Khoa nội, bệnh viện Bạch Mai ? - Tôi thận trọng đưa ra câu hỏi.
                -  Đúng... chính xác ! Hoá ra mày cũng biết cụ từ trước à ?
                -  Ừ, thế là đúng rồi ! Ngày nào Cụ chả đến Phủ, cụ hay cho tao lộc lắm, nhưng điều tệ hại nhất là tao không hề biết cụ chính là mẹ thằng Bằng. Thế mày đã có cách gì giúp bà cụ chưa ?
                -  Chuyện này nhất định là có uẩn khúc ! Cho đến lúc này, tao chưa dám khẳng định điều gì ... nhưng rõ ràng bà cụ đã nhận mình là chủ chiếc làn nhựa và chi tiết này đã được ghi lại đầy đủ trong biên bản hiện trường. Có lúc, tao nghĩ ... - Đăng dừng lại, thở dài đánh sượt, phẩy tay chán nản và bước lại khuôn cửa sổ. Những tia nắng chiều yếu ớt chiếu xiên vào căn phòng làm việc, tạo nên một vành sáng vàng viền quanh đôi vai vạm vỡ và mái tóc thô cứng của cậu - mà mày còn lạ gì cái thằng hâm ấy ! Đôi khi, thậm chí, tao còn đồ rằng nó mắc chững vĩ cuồng, nó định vô lối trở thành cái bóng của các bậc hiền sư. Nhưng xem ra ... nhiều lúc tao thấy xấu hổ với chính mình, xấu hổ vì cái cách nhìn công chức chật chội của mình. Thấy người âm thầm làm việc nghĩa cử, chấp nhận sự thấp bé nghèo túng thì cho là dở hơi hoặc cao hơn thì cũng chỉ là một thứ cuồng danh; Còn bản thân, ở công sở thì luôn cố tươi cười mềm mỏng với các đồng sự; Đối với cấp trên thì hèn một chút lại cho là tốt và rất cần thiết bởi đấy là cái xương sống trong toàn bộ chiến lược kinh điển tiến bộ cá nhân; Thấy việc không làm, mà uyển chuyển pát-sê cho người khác để tránh các lỗi phát sinh thì lại tự cho mình là khôn ngoan kín kẽ hơn người ...  Cái thằng Bằng này chưa hề tốt nghiệp đại học, nhưng được cái đọc nhiều biết nhiều. Học trò của nó đông lắm, toàn đứa tử tế, thi đâu đỗ đấy. Dân vùng này đều nói về nó với một thái độ kính trọng. Chỉ phải cái nghèo và bệnh tật dai dẳng. Cách đây ba tháng, đám học sinh của nó có làm một cái đơn gửi các cấp, xin mở một trường tư thục ngay trên khu đất của bà cụ; Tất nhiên, chúng nó đề nghị thầy giáo Bằng đứng ra phụ trách; Kinh phí do những học sinh đã tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm và đám dân chúng hâm mộ sự học hành tự nguyện đóng góp. Bọn mình cũng nhận được một bản; toàn đơn vị đều nhất trí ủng hộ và đã trình sang Uỷ ban Quận để giải quyết. Tao biết, Bà cụ vẫn ngấm ngầm xót xa cho bố con nó nhưng lại cho rằng mình chẳng giúp được gì cho con cháu mà chỉ là cái gánh nặng, làm chúng vất vả thêm. Ôi, mẹ bao giờ chả là Mẹ !
                Tôi thuật lại chuyện bà cụ nhờ viết lá sớ cho Đăng nghe. Cậu ta thần mặt ra:
                -   Lại thế nữa à ?! ... Một bà mẹ như thế, có một người con như thế ... mà lại liên quan đến một chiếc làn ... như thế ?! Chẳng lẽ vì thương con cháu quá, cụ tính chuyện làm liều ?!
                -   Thoạt nghe chuyện tai nạn xảy ra ở đường tàu, tao lại nghĩ ngay đến chuyện bà cụ quẫn quá nên cố tình làm chuyện quyên sinh, nhưng sự việc lại ra thế này ... Ôi, đầu tao muốn vỡ !
                 
                *
                 
                Đã sang ngày thứ chín kể từ khi bà cụ gặp nạn.
                Bà cụ nằm một mình một phòng. Bên trong có một y tá thường trực coi sóc. Bên ngoài, ngồi ngay bên cửa ra vào, là một cảnh sát thường trực bảo vệ, ngăn cản tất cả các cuộc tiếp xúc từ bên ngoài với bà cụ.
                Buổi sáng hôm ấy, cha con Bằng, Đăng, tôi, hàng xóm của bà cụ, đám học trò của Bằng và một số người làm ăn ở cổng Phủ ..., kẻ đứng người ngồi trong dãy hành lang sực mùi thuốc sát trùng trước cửa phòng bệnh, chẳng ai nói với nhau lời nào. Khoảng 9 giờ, cánh cửa phòng bệnh kẹt mở, vị bác sỹ già bước ra. Cả đám chực dồn lại hỏi thăm tình hình sức khoẻ của bà cụ bỗng khựng lại bởi người thầy thuốc còn trao đổi điều gì đó với viên cảnh sát. Lát sau, họ tiến lại phía chúng tôi, vẻ ái ngại pha chút cảm thông: "Bà lão yếu lắm rồi ... với sự giám sát của ông đây - ông bác sỹ chìa tay về phía viên cảnh sát - các vị được phép vào thăm, nhưng chớ làm điều gì kinh động".
                Chúng tôi bước vào phòng. Bà cụ nằm đó, nước da tái nhợt, hai mắt nhắm nghiền, khuôn mặt dúm lại như vừa trải qua một cơn đau dữ dội. Con bé con nhào đến bên giường, áp hai tay vào má bà, mếu máo: "Bà ơi, bà về nhà với con đi ... rồi bố con con lại bóp chân cho bà ... bà ơi  ... !". 
                            Tiếng khóc của đứa cháu gái, như liều thuốc thần diệu, kéo bà lão thoát khỏi trạng thái đắm lịm lạnh lẽo. Cụ từ từ mở mắt. Bằng nắm lấy tay mẹ, đau đớn xót xa. Cụ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người con trai, tay kia cố vòng vào đứa cháu gái, hai giọt nước mắt đặc quánh ứa ra và dừng lại trên đôi gò má nhăn nheo thấm đẫm nỗi đời nhọc nhằn: "Đừng khóc nữa các con - cụ nói, giọng khó nhọc - ai chả phải chết. Chớ làm việc quá sức. Bố con lo chăm sóc cho nhau. Nếu có điều kiện, giúp cho mẹ con cô Dậu ...". Cụ quay sang phía Đăng: "Cháu nói giúp bác với công an ... cái làn ấy đúng là của bác đấy, đừng điều tra nữa ...". Cụ lại nhìn tôi: "Cháu ơi ... Trời Phật đồng ý rồi đấy ...".  Rồi cụ đưa mắt nhìn tất cả một lượt: "Rồi bác sẽ cố ... làm gì đấy cho ... tất cả ... các ... con ! ...".  Sau đó cụ lịm đi, trên môi vẫn còn đọng lại nụ cười.
                Đám tang bà cụ đơn sơ nhưng rất đông. Bước chầm chậm trong dòng người, bất giác tôi nghe thấy ai đó nói ngay phía sau:"Thật đáng tiếc, không hiểu vì sao bà cụ lại tham gia vào một việc như thế !" "Có lẽ ... " - người thứ hai toan giải thích, nhưng rồi không hiểu sao lại im bặt. Suýt nữa tôi đã quay phắt lại và bật ra một phản ứng đáng tiếc nào đó, bởi không bao giờ tôi tin vào cái điều mà người ta đang bàn tán. Thật may, tôi đã kịp trấn tĩnh lại.
                            Trong đám tang người ta thấy chị Dậu ốm yếu và đữa con gái mười ba tuổi gầy nhẳng nheo của chị cũng đội khăn tang. Trên khuôn mặt họ là tình cảm đau đớn thường chỉ thấy ở những người cùng huyết thống.
                Lúc hạ huyệt, tôi nhận ra ông chủ quán cá, cô hàng hương và mấy tay anh chị cổng Phủ đứng bên cạnh, mắt đỏ hoe.
                Sau đám tang mấy hôm, Đăng ào đến chỗ tôi như một cơn lốc, mặt mũi hân hoan như cậu bé tìm thấy người mẹ tưởng như không bao giờ còn được gặp lại. Thì ra: chị Dậu - Một hàng xóm của Bằng, vốn là một Thanh niên xung phong thời chống Mỹ, lỡ làng chuyện hôn nhân - ốm lay lắt đã lâu không khỏi. Do quá khó khăn, đứa con gái phải nghỉ học đi giúp việc cho một gia đình khá giả để đỡ tiền thuốc thang cho mẹ. Buổi sớm hôm xảy ra tai nạn, trên đường đi chợ, con bé được một người lạ mặt cho khá nhiều tiền và nhờ nó đưa chiếc làn đó đến trao cho một người đang đợi gần một cửa hiệu thời trang khu Kim liên. Cô bé đã cảm thấy có gì đấy không bình thường nhưng vì thương mẹ và quẫn quá nên đã nhận lời làm liều. Và cũng do biết mình đang làm một việc không bình thường nên nó bước đi trong tâm trạng hốt hoảng, thiếu tỉnh táo và suýt nữa đã bị đoàn tầu hoả đang ầm ầm kéo đến cán phải nếu không có bà cụ tình cờ vừa đi đến đó nhanh tay cứu giúp. Khi kéo giật con bé ra, bà cụ mất đà, va vào tấm chắn của đầu tầu và bị hất ngã ra lề đường, chiếc làn lăn đi mấy vòng làm văng ra những gói nhỏ màu trắng. Hai viên cảnh sát chạy lại. Không hiểu sao lúc ấy, mặc dù bị đau nặng nhưng bà cụ rất tỉnh táo. Sau khi xem xét nhanh hiện trường, một viên cảnh sát hỏi bà:"Chiếc làn đựng thứ ma tuý này là của bà ?". Bà cụ há mồm kinh ngạc, toan cất lời nhưng chợt chững lại ... khoảnh khắc ngắn ngủi trôi qua, nét mặt bà dần giãn ra, bình thản: "Vâng !". Trong khi mọi người hối hả gọi xe cấp cứu, cụ quay sang nhìn con bé vẫn đứng đó, mặt mày xanh xám, run rẩy sợ hãi, nói khẽ: "Con bé kia, có cái gì mà nhìn ? về đi !"
                Chị Dậu cùng con gái đã đến đồn cảnh sát kể lại hết với Đăng mọi chuyện, khẩn khoản xin minh oan cho bà cụ và chịu tội trước pháp luật.
                 
                *
                 
                Hôm bốn mươi chín ngày của bà cụ, các cụ trong Hội bảo thọ khuyên chúng tôi đưa bà cụ lên chùa cho mát mẻ. Các cụ còn nhắc thân chủ nên để cái bát hương thờ lơn lớn một chút. Chúng tôi cười thầm cho rằng các cụ vẫn còn mê tín quá, chắc các cụ tưởng bát hương lớn thì cái sự phúc đức cho con cháu cũng lớn theo vậy. Một thời gian sau - đúng là "Cá không ăn muối cá ươn ..." - chúng tôi phải thay vào đó một bát hương mới như lời các cụ đã dặn để khắc phục tình trạng có quá nhiều chân hương cắm chồng chất cao lên, che khuất cả tấm ảnh thờ.
                Lớp học của Bằng năm ấy có bảy mươi bảy cháu theo học thì đỗ đại học bảy mươi sáu đứa. Con bé nhà Bằng đoạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi môn văn của thành phố. Cuộc sống của chúng tôi đều đỡ khó khăn và ai cũng cảm thấy phấn chấn ra.
                Trường học đã xây xong. Hôm khánh thành, tất cả học sinh cũ và đám dân chúng thèm khát sự học tập đều về dự. Một năm học mới bắt đầu. Con bé con nhà chị Dậu được nhận vào học và nhận thêm việc lo nước uống cho học sinh để có thêm tiền đỡ mẹ.
                 
                *
                 
                Hôm nay là ngày rằm, tôi vào chùa thắp hương cho cụ. Trên đường về tôi bắt gặp một con cá quả đang quằn quại trên đám cỏ bên bờ một cái ao nhỏ, kiến bâu đầy mình. "Ôi, chim sa cá nhảy !". Tôi dừng lại và đang cảm thấy không vui vì điều đó thì bỗng xoạch một cái, con cá đã vằng xuống ao. Những con kiến bắt đầu nổi lên như váng trên mặt nước và sau đó là lép tép ... lép tép, đàn rồng rồng màu đỏ thẫm nổi lên, đua tranh nhau đớp kiến. Con cá ban nãy ngoi lên mặt nước đớp khí rồi nhẹ nhàng bơi xuống, nấp gọn bên dưới một chùm rễ bèo tây đen sậm, quay đầu sang canh chừng cho lũ con háu ăn, ngốc nghếch của nó. Và đúng khoảnh khắc đó, thời gian như ngưng lại, đầu óc như rỗng không, vạn vật như bừng sáng, tôi chợt ngộ ra: ý nguyện được chết của bà cụ là một nguyện vọng hoàn toàn thực. Cụ cho rằng cụ giúp cho con cháu chẳng được bao nhiêu. Cụ tin là nếu một người suốt đời chẳng làm điều gì ác độc, khi chết đi phần hồn sẽ trở nên linh thiêng bền vững và có khả năng phù hộ được cho con cháu và những người mình yêu quí nhiều điều tốt đẹp, phúc đức. Có phải đó là sự thăng hoa của tình mẫu tử, là đạo lý của những bậc cha-mẹ ?! Mà đã là đạo lý thì không bao giờ là mới hoặc cũ. Chỉ có điều, chúng ta - những kẻ luôn nghĩ và yên tâm rằng mình là người tốt - lại không mấy khi nhận ra !
                Giờ đây, mỗi khi nhớ tới cụ, tôi lại thấy nụ cười của cụ lúc lâm chung hiện lên rõ mồn một, dịu dàng toả sáng. Có lẽ, trước khi bước lên thọ nạn trên cây thập ác, chúa Giê-su cũng đã mỉm cười như vậy ./.  

                Tháng 08/2003

                [1] Ngũ Thường gồm năm điều Nho giáo đòi hỏi ở người Quân tử: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.
                [2] Trọng Cung, một học trò của Khổng Tử, khi hỏi về điều Nhân, được ngài trả lời: "Xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" (Ra cửa phải như tiếp khách lớn. Trị dân phải như làm lễ lớn. Điều gì mình không muốn ai làm cho mình thì chớ làm cho ai"
                 


                 

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.11.2007 17:08:33 bởi Nghiêm Lương Thành >
                #8
                  Ct.Ly 20.11.2007 01:02:47 (permalink)
                  #9
                    Nghiêm Lương Thành 24.11.2007 06:13:50 (permalink)
                    Nghiêm Lương Thành



                    SĂN TIỀN
                     
                                Vào một chủ nhật, đang đi lững thững dọc hè phố Hàng Bạc, đầu óc lang bang, tâm sự chống chếnh, tôi chợt nhận ra, phía bên kia đường, một thằng bạn đã mấy tháng không gặp đang ngơ ngơ ngáo ngáo như tìm ai. Sướng quá, tôi réo lên: 
                    -    Đinh Ngọc Xuân !
                    -    Đi đâu đấy ? – Xuân tạt nhẹ xe sang phía tôi, cười toét miệng.
                    -    Thả bộ, tiêu dao nơi lòng đường hè phố, đắm mình trong tràn ngập bụi đời - Tôi ỡm ờ -  còn mày ?
                    -    Đi săn tiền ! - Xuân thì thào, nháy mắt bí hiểm. Thấy mặt tôi thộn ra, hắn cười phá lên - Là đùa vậy. Cái tạng tao, có mà “ăn cơm với vợ lại nài vét niêu” !
                    Sau đó, cả hai xà vào một quán bia bình dân gần đấy. Trong lúc đợi chủ quán lấy bia, Xuân rút từ trong cái ống nhựa đặt gần đấy ra hai chiếc đũa tre, ngồi lại ngay ngắn, rồi bắt đầu gõ nhịp ròn rã xuống cạnh chiếc bàn gỗ, toàn thân đu đưa, giọng chẳng khác gì lệnh vỡ, ngất ngưởng mấy câu chầu văn:
                                                                       Cô đầu thời các cụ chơi
                                                             Ta đây cơm bụi bia hơi lè phè
                                                                      Cực kỳ gốc sấu bóng me
                                                             Cực ngon, cực nhẹ, cực nhoè em ơi.
                                                 Đừng chê anh khoái bụi đời
                                                             Bụi dân sinh ấy bụi người đó em
                                                   Xin nghe anh nói cực nghiêm
                                                    Linh hồn cát bụi ở miền trong veo… [1]
                          Ông chủ quán, trạc tuổi chúng tôi, lúc đem bia ra, thấy thế dừng lại nghe rồi cười khoái chí: “Hai bác vui quá xá ! Những người lãng đãng du dương thường sống lâu, sống hết cả phần của thiên hạ. Nhưng, … giầu nghèo thế nào không cần biết, xin được đãi hai bác tuần bia đầu tiên vì vừa được hưởng thụ mấy câu chầu văn xịn ! Xin cho một tràng pháo tay ạ !”. Cả ba chúng tôi cùng hoan hỷ bộp bộp, chẳng khác gì đám khán giả đang ngự trong trường quay chương trình “Làm giàu dễ ợt !”.
                    Tợp một tợp, khà một tiếng, hắn quay sang nhìn tôi, định bốc phét cái gì đấy nhưng chợt ngừng lại, ngạc nhiên:
                    -         Có chuyện gì mà mặt đần thối ra thế ?
                    -         Có gì đâu. Là tao xúc động quá. Lần đầu được nghe hai chữ săn tiền mà !
                    -         Trời, tưởng gì - khuôn mặt Xuân dãn ra - ấn tượng là phải, có chó gì lạ ! Tiền là thứ dễ làm cho đại chúng xúc động nhất ! Thì đấy … chỉ nguyên cái mùi của nó cũng đủ để mấy bố cả luận, rách chuyện, uống hết cả “bom” bia, tán cả ngày không hết !  Nó là cái giống lang bang vô định, đến rồi lại đi, đi rồi lại đến; lúc đến thì khụng khạng buồn thiu, khi đi thì háo hức hối hả hớn hở. Trước khi trở lại cái túi của ta, nó đã chu du những đâu đâu thì không thể biết. Đến với hạng công chức như mày, nó nhiễm mùi ẩm mốc của văn phòng, trộn thêm cái thum thủm của những thứ mẹo vặt; chui vào tiệm karaoke, nó ám mùi son phấn và một chút  khen khét của mùi thịt người; qua tay các băng đảng, nó đẫm mùi thậm thụt và hơi tanh lạnh của những thứ dao nhọn sắc lẹm để trong tay áo; đến với chị hàng thịt, nó có mùi gây gây; lại với ông quai búa, nó mang hơi than hơi sắt; ở với bác trồng lúa, nó thơm mùi ruộng đồng; vào túi của những người mẹ thì thấm đẫm hơi ấm của tình mẫu tử ... Ôi dào, thôi thì hàng tỷ loại, thượng vàng hạ cám, chả thiếu mùi gì ! Nếu chúng biết nói, tao cam đoan với mày, mỗi tờ giấy bạc đích thực là một kho tư liệu nhân văn cực xịn luôn ! Mà sao lại phải săn ? - Ngừng một lát như để lấy hơi, hắn say sưa nói tiếp - Bởi tiền là thứ hữu hạn, mà mong ước của chúng ta thì chỉ có vũ trụ mới đựng nổi; ta mê mẩn nó, ta phải lòng nó, ta tương tư nó, còn nó luôn lạnh lùng khách quan lảng tránh ta. Ta luôn thích nó tích tụ trong hầu bao, còn nó không thích bị dồn cục bí dị ở đâu cả. Bản vị của con người là Ngũ thường, bản vị của chủ nghĩa là học thuyết và sự thành tựu, bản vị của tiền là kim ngân, bản vị của kim ngân là mồ hôi. Tiền lạnh, linh động, trơn tuột, hướng ngoại nên tính thuỷ; con người hướng nội, thích tranh khôn tranh giỏi, thường bốc đồng khoe khoang, nửa tấc đã ngùn ngụt lên đến giời nên tính hoả ... Thuỷ cường thì hoả vong, hoả cường thì thuỷ kiệt. Từ cường đến vong, kiệt có một điểm thuỷ hỏa cân bằng. Người đứng được vào điểm đó là Thánh nhân.
                    Chợt, hắn hốt hoảng đưa tay lên xem đồng hồ.
                    -   Thôi chết, khất lỗi mày, đến giờ rồi, tao phải đi đón thằng con ở lớp học thêm môn Hoá, cho nó ăn uống tý chút, rồi buổi chiều lại xoay sang lĩnh hội thêm mẹo giải Toán thi đại học. Chậc … cũng là trang bị cho nó chút ít, để sau này có thể vào cuộc săn thôi mà ! Nghề săn xem ra cũng đoạn trường, cũng trần ai lắm. Nhưng không lao vào thì thiên hạ nó sẽ làm trong sạch xã hội bằng cách hè nhau trói nghiến thằng bé lại, đưa thẳng sang Trâu Quỳ nhốt tịt, thì … thôi rồi !
                    Dứt lời, hắn vội vã bước ra lấy xe, rồ máy và, trong khoảnh khắc, biến vào dòng người muôn mầu của phố phường tưng bừng hoa lệ.
                     
                    *
                     
                    Tôi trả tiền bia, rồi lững thững đi tiếp và đầu óc cứ bị ám ảnh mãi về hai cái chữ săn tiền và bài diễn thuyết của hắn.
                    Săn là lùng tìm, rình, tiếp cận và chiếm đoạt; tính chất của nó khá quyết liệt và không thể nói là không thô bạo. Khỉ thật ! Lâu nay chỉ nghe đến săn thú, săn chim, câu cá chứ đã bao giờ nghe đến săn tiền !
                    Thú, chim, cá là do Giời làm ra, là của Giời và lưu thông không ngừng trong đại tự nhiên. Những người theo phái tu tiên chỉ nói “phí của Giời !” khi nào lỡ miệng. Giời dùng phép bù trừ để kiểm soát hành vi ứng xử của con người đối với những tạo vật của mình. Chính con người cũng là một tạo vật của Giời.
                    Tiền là do nhà nước in ra, liên tục tung hoành lưu thông dưới ánh sáng dịu dàng mềm mại, đanh thép vô tư của luật pháp và cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ phép bù trừ của Giời. Về mặt này, có thể thẳng thắn mà phàn nàn rằng ông Giời đã can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của giống người !
                    Vì thú, chim, cá là của giời nên, trước đây, ai săn thì săn, ai bắt thì bắt, mặc sức thả dàn, hồn nhiên vô áy náy. Cũng bởi cái tâm trạng hồn nhiên đó nên cầu có xu hướng vượt cung. Trong xã hội, nghĩa là chỉ có quan hệ người - người, và nói theo khoa kinh tế chính trị  học, cầu luôn đi đằng trước để hướng dẫn cung. Trong quan hệ Giời – người, quy luật này không sao vận hành được. Giời quen ứng xử theo lối từ trên dội xuống (Top-down): Chúng mày cầu nhưng Giời không cung. Giời thây kệ chúng mày ! Và thế tất, lập tức, hàng loạt các Sách đỏ được in ra và các Công ước quốc tế về bảo vệ động vật hoang dã cũng lần lần xuất hiện, làm khó cho đội ngũ các thợ săn chuyên nghiệp, nghiệp dư và gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cho trùng điệp những người sành điệu, hảo nhậu hảo sài trên phạm vi toàn thế giới .
                    Ở nước nào cũng vậy, của giời thì không thể đếm được, còn những người thợ săn thú, chim, cá chỉ chiếm một tỷ lệ cực thấp trên tổng dân số; ngược lại, tiền là thứ hữu hạn và hoàn toàn có thể kiểm soát được, nhưng tình hình số lượng thành viên trong đội ngũ những người săn tiền dường như không giống thế. Hình như chưa có ai thống kê thử xem đã có bao nhiêu cuốn sách các loại, có bao nhiêu học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc đã viết về đồng tiền. Người ta, hầu như ai cũng nói rằng mình không quan tâm nhiều đến vấn đề tiền nong (Tiền là cái gì ? - Tiền là cái đinh !!), nhưng một số lượng không nhỏ những sách báo dạy cách kiếm tiền và một số lượng khổng lồ những lá sớ, những lời khấn khứa cầu xin - có nội dung liên quan đến những mong ước thầm kín và tế nhị về vấn đề tiền nong của các chúng sinh tội nghiệp và vô hại - hiện đang được tồn lưu trong các dãy nhà kho lưu trữ của các Nhà Thánh, Nhà Phật - đã, đang và sẽ ngày càng mâu thuẫn ghê gớm với chính họ.
                    Săn thú, săn chim, săn cá thì dùng cung nỏ, súng ống, gươm giáo và bẫy lưới. Cần câu thực ra cũng chỉ là một loại bẫy. Dùng bẫy thì trí tuệ hơn nên sức lực bỏ ra ít hơn. Nhưng đã có bẫy tất phải có mồi, bởi mồi là cái để quyến con vật. Bản chất của mồi là lấy cái ham thích của vật để nhử để quyến, thâm độc đánh vào hai chỗ yếu đuối nhất của tự nhiên: Cái dạ dày và vật sinh thực khí.
                    Tiền không phải là của Giời, chúng sinh lương thiện có được tiền là do đem mồ hôi của mình đổi lấy. Và vì thế, Tiền luôn có chủ sở hữu. Đối với một người mẹ, trên đời này có gì quí hơn con cái ? Vì sao ? Vì người mẹ đã dứt ruột đẻ ra chúng. Đã có bao nhiêu cô gái ”chiều chiều ra đứng ngõ sau, ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều” ? Một danh nhân trong lịch sử ngó kẻ cướp nước ngạo ngược ức hiếp vua và dân nhà mình thì vật vã “Nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mất đầm đìa”… Chỉ chừng ấy, cũng thấy được vị trí của ruột quan trọng như thế nào trong đời sống tinh thần của chúng sinh. Và cũng thật đáng suy nghĩ khi người ta bảo “Đồng tiền liền khúc ruột”. Nhiều người đã hỏi: Tại sao ở cửa các kho bạc không đề chữ Kho bạc mà lại đề Kho bạc nhà nước. Cánh rách chuyện vẫn lấy đó mà cười đùa, cợt nhả. Người chín chắn thì không thế, bảo: “Ấy cũng là sự cẩn thận, sở hữu phải rõ ràng phân miêng và quyết liệt; “yêu nhau” thì phải “rào giậu cho kỹ”, phòng xa cái đám hậu duệ nhà Xuân tóc đỏ lỡ có túng bấn quá hoặc mơ ước lãng mạn thái quá mà sinh làm ẩu, mất hết cả tình cảm !”.
                    Những người căn cơ, lo xa, lại may mắn được giàu có, khi sắp qua đời, không còn năng lực hành vi dân sự trong việc sở hữu nữa, lại muốn để của nả cho con cháu nhưng, hoặc là chúng còn thơ dại, hoặc là chúng đang trong giai đoạn phá gia chi tử, chưa thể tin tưởng mà giao phó ngay được, bèn cất tiền xuống dưới lòng đất và, theo một cách nào đó, tạo ra một thần giữ của cho mình. Khối kẻ săn tiền đã phải bỏ mạng như giống thiêu thân bởi những thần giữ của lạnh lẽo và cực kỳ nguyên tắc này. Đó là kiểu của những người đã có cái để mà sở hữu. Những người chưa có thì cố mà có. Cố rồi mà vẫn chưa được thì mơ ước. Luật pháp không kiểm soát mơ ước. Một vài người mơ ước, cả tỉnh mơ ước, cả nước mơ ước và khi miềm mơ ước đã đạt đến độ thăng hoa, sự thăng hoa đã đạt đến đủ lượng thì nó bèn kết tinh lại thành hình tượng ông phỗng đang tích cực tham gia phong trào rèn luyện thân thể bằng cách suốt ngày ngoác miệng ra cười và dùng hai tay cử một tảng vàng ròng lên cao quá đầu. Nghe nói, loại tượng này thời gian gần đây bán rất chạy; nhiều nhà mua về, đặt ngay tại phòng khách; mỗi khi về đến nhà, đi ngang qua ông phỗng, người ta không quên đưa bàn tay lên, dịu dàng thổn thức xoa xoa vào cái tảng vàng ròng bí ẩn phía trên đầu ông. Tháng trước, đến một ngôi chùa dự lễ cầu siêu cho người anh mới qua đời, tôi giật mình thảng thốt vì nhận ra môtíp ông phỗng này cũng đã có mặt ở sân chùa từ bao giờ rồi ! Về điểm này, so với phương đông, phương tây dường như kém lãng mạn hơn. Thay vì tạo ra những biểu tượng nghệ thuật biểu lộ niềm khát vọng nhớn lao của mình, họ lại lao đầu vào những thứ tầm thường tẻ nhạt như khoa học, công nghệ và máy móc. Ngẫm lại, trong lĩnh vực tạo ra biểu tượng nghệ thuật cho mình, họ chỉ có tượng thần Tự do là đáng để tâm chút ít. Có lẽ họ đang bị thiếu hụt ghê gớm thứ tinh thần đó.
                    Nghe thì có vẻ vô lý, nhưng quả thực, ngày xưa, để săn tiền người ta đã từng dùng đến cung nỏ, súng ống, gươm giáo. Những thứ vũ khí này có liên quan đến các bè đảng, các đạo quân và có đặc tính không bao giờ nhằm trực tiếp vào đồng tiền (rách hỏng mất, còn tiêu được ư ?!) mà chỉ nhằm vào da thịt, thân xác các ông chủ của chúng. Nhưng đấy là thời trung cổ mông muội và sau đó là thời thực dân ít mông muội hơn. Bây giờ, văn minh tươi sáng rồi, ai làm thế ! Ngoại trừ bọn trộm cướp trấn lột còn sót lại từ những thời kể trên, giờ đây hầu như người ta săn tiền bằng bẫy. Vậy, cái bẫy này, hình thù nó như thế nào ? Trong bẫy, mồi là gì ? Một câu hỏi hóc búa, khó ai có thể đưa ra được câu trả lời đầy đủ, hầu làm thoả mãn số đông những người ham hiểu biết. Chỉ có câu trả lời trọn vẹn mới cho ta khả năng thống kê, phân tích và hệ thống hoá thành lý luận được. Đối với con người, đây là lĩnh vực mênh mông nhất trong các lĩnh vực mà khoa học đã từng tiếp cận. Vậy thì phải, lần lần, tự tìm câu trả lời trong chính cuộc sống thôi. Chỉ biết chắc một điều, trong cái bẫy này, miếng mồi cũng mang bản chất triết học tương tự như miếng mồi dùng để bẫy thú, chim và cá. Có điều, xét về giá trị văn minh, hình thức biểu cảm ngày nay của mồi đã được nâng lên một tầm cao mới, phải dùng phép nội suy để lĩnh hội mới được, bởi chúng đã được mã hoá theo phong cách đường truyền Đại phong - Lọ tương của cụ Trạng Quỳnh. Một cách vô cùng hời hợt, cực kỳ thiếu tinh tế, có thể lấy ra vài ba ví dụ: Một nụ cười mở (chữ mở trong thuật ngữ Quy hoạch mở); một cái bắt tay, vỗ vai vô cùng thân mật của xếp bự trước đám đông; một “Ngời sáng tương lai” nào đó; ... thậm chí, một cử chỉ khống chế lịch thiệp nhưng đầy ắp những bất trắc khả đáo …
                     
                    *
                     
                    Tiền là tài. Tài là tiền. Tài cũng là cái giỏi giang lương năng, nhân năng của con người ta. Nguyễn Du từng khái quát: “Chữ tài cùng với chữ tai một vần”. Chúng ta, ngày nay, rất ít người biết đọc chữ hán chữ nôm, bèn xuê xoa hiểu chữ tài của cụ với cả hai nghĩa. Hiểu như thế, xét về mặt văn tự, là ẩu; thậm ẩu ! Nhưng đứng về khoa Bể khổ học mà nói thì lại dường như rất uyên thâm. Đã biết thế, tại sao phải hao tâm tổn lực để lao vào cuộc săn này làm vậy ? Rất đơn giản, như một bài vè, xuất hiện trong dân gian vào khoảng thập niên tám mươi thuộc thế kỷ trước, đã rao giảng:
                                            Đồng tiền:
                                            Là tiên là Phật
                    Là sức bật tuổi trẻ
                    Là sức khoẻ tuổi già
                    Là cái đà danh vọng
                    Là cái lọng che thân
                    Là cán cân công lý
                    Là hết ý cuộc đời !
                     
                                 Có người, sau một trận ốm thập tử nhất sinh, kể rằng đã từng thấy các ngài Tiên, Phật, Lý Nhĩ, Mai Thúc Loan, Đinh Bộ Lĩnh, Bao Chửng, Nguyễn Trãi, Lưu Dung, Hoàng Diệu … bá vai nhau cười rũ cười rượi, cười đến bò cả ra chiếu sau khi chụm đầu, thì thầm đọc cho nhau nghe cái bài vè ấy. Điều này có thể đúng, cũng có thể là bịa đặt. Nhưng tệ nhất là ở chỗ: các ngài ấy đều là những người đã quá xưa; thậm chí, họ không thể tưởng tượng nổi tại sao mối giao hoà lớn nhất của trời đất lại có thể xảy ra ở trong một cái ống thuỷ tinh.
                    Thường bảo: Có tiền mua tiên cũng được. Thú thực, tôi thì chưa tin lắm, nhưng nếu giãi bày ra, e người ta biết mình dốt nát, không thèm quan hệ nữa thì cô độc lắm, có khác gì thân phận ở tù ? Mà ở tù vẫn còn sướng hơn vì không phải lo kiếm ăn, không phải lo tiến bộ. Một số người - có thể thần kinh không được vững lắm - tuy đã thừa nhận công năng siêu phàm của đồng tiền, song vẫn còn băn khoăn, bứt rứt chút đỉnh về một câu hỏi chẳng có gì là mới, là hay ho: Tiền có làm cho người thành Người được không ? Nếu đi thi viết chính tả ngạch tiểu học, chữ Người này sẽ bị bắt lỗi và, tất nhiên, bị trừ phéng một điểm là điều không cần phải bàn cãi.
                            Trong bộ môn chính trị kinh tế học thế kỷ 19, hình như có một nhà lý luận kinh điển đã từng đưa ra một nhận xét, đại loại là: Nhà tư bản, nếu thu được lãi suất 200% thì dù phải treo cổ bố hắn lên, hắn cũng làm ! Thực tế, đã có nhiều người rất tâm đắc với nhận xét đó. Theo mạch logic này, một câu hỏi đặt ra là: Một kẻ nào đó, nếu thu được những món lợi mà giá trị của nó khiến bất cứ gã tư bản nào cũng phải thèm muốn ước ao mà không phải bỏ ra một cắc vốn đầu tư (Phép tính phần trăm lãi suất cho trường hợp này, khoa toán học hiện giờ vẫn chưa đủ công lực để xử lý), không phải vật vã ngày đêm để lo nghĩ xem nên sản xuất hàng hoá gì ? Bán cho ai ? Dùng công nghệ nào, tổ chức sản xuất ra sao cho hàng làm ra có chất lượng cao nhất, giá thành thấp nhất ? …  thì, nếu cần, hắn sẽ có gan treo những gì lên xà nhà ?
                     
                    Tháng 10 năm 2006
                     

                    [1] Thơ Nguyễn Duy. Tình tang … Nxb Văn học. 1995
                    #10
                      Nghiêm Lương Thành 24.11.2007 06:16:33 (permalink)
                      Nghiêm Lương Thành



                      ĐƯỢC VÀ MẤT
                       
                                 
                                  Tối chủ nhật, ngày 9 tháng 10 năm 2006, theo dõi chương trình Người đương thời mà vị khách mời là nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Tây - Một người đang rất không hài lòng với tình trạng hủ hoá của không ít người đang tham gia vào công cuộc “vì cái lợi trăm năm” của nền trồng người Việt Nam đương đại và đang nhận được sự cảm phục chân thành từ đông đảo những người đồng bào của anh - thấy người dẫn chương trình hỏi đi hỏi lại Người khách mời ấy một câu, đại ý là: Trước khi làm việc tố cáo và lên án này, Thày đã tính đến cái được cái mất ? Không hiểu sao, sự lặp lại cụm chữ cái được cái mất ấy của người dẫn chương trình lại gây nên trong tôi một ấn tượng khác thường, một cảm xúc khó chịu, dấm dẳn và âm ỉ không dứt. Vẫn biết cái cảm xúc ấy là phi lý, vẫn biết đó chỉ là một cụm từ phổ thông nhưng thực sự không hề dễ chịu, và nói thẳng ra, đấy là cảm xúc ngấm ngầm hổ thẹn, phảng phất chút vị đắng của một cái gì đấy na ná như sự nhục nhã. 
                                  Cuộc sống cũng có nghĩa là hành động. Không hành động sẽ không có cuộc sống. Còn hành động như thế nào, đó lại là chuyện khác. Đối với con người, gốc của hành động là vì cái lợi; vì thế, trước khi hành động, dù là đã suy nghĩ kỹ càng, đắn đo xuôi ngược hay chỉ thoáng qua, trong sâu thẳm, thực ra ai cũng đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: Làm việc này ta được gì ? mất gì ? Quá trình này hoàn toàn tự nhiên và quá bình thường, bình thường đến gần như bản năng, không có ai ngạc nhiên và để ý đến nó.
                      Đứng trước câu hỏi được gì, mất gì, tuỳ theo từng loại tư chất, thường ta ở vào một trong hai dạng tâm thế: hoặc chủ động hoặc bị động. Người chủ động sẽ là ông chủ, còn kẻ bị động tất thành nô lệ. Gia súc, vốn trước là động vật hoang dã, đã bị ta thuần hoá theo nguyên lý lấy cái được để bắt chúng theo. Cái được của chúng là không phải kiếm ăn và tự vệ bảo toàn mạng sống, nhưng cái mất là phải làm việc và thậm chí còn bị biến thành thực phẩm cho người. Chính con người cũng đã, đang và có lẽ sẽ còn tiếp tục thuần hoá lẫn nhau trên nguyên lý đó.
                      Các đảng xã hội đen dùng cái được để phát triển số lượng thành viên và dùng nguyên lý được mất để kiểm soát và khống chế lẫn nhau. Vua chúa dùng nguyên lý được mất để điều hành hệ thống quan lại. Quan lại dùng nguyên lý được mất để chăn dắt thảo dân. Thảo dân dùng nguyên lý được mất để thuần hoá động vật hoang dã, gia tăng sản xuất, tạo thêm nhiều lúa gạo thực phẩm nuôi sống mình và toàn bộ hệ thống cai trị.
                                  Hành động của con người cũng tựa như chuyển động của những hạt bụi trong không khí, nhưng có tinh thần. "Hòn đá nặng" thì "một người khiêng không đặng", nhiều người khiêng cũng chưa chắc đã đặng. Cần có thêm hai điều kiện: Tất cả đều thực bụng muốn khiêng và một hiệu lệnh thống nhất để cùng định thời, định hướng, tập trung khí lực; lúc đó mới thực sự là đặng. Đấy là lý do, là nền tảng và động lực thôi thúc các nhà tư tưởng làm ra tôn giáo và các học thuyết xã hội chăng ? Nhưng, trong việc này, các nhà tư tưởng có đặt ra câu hỏi được mất cho mình không ? Khi học thuyết chưa được đông đảo thừa nhận thì họ chỉ là những kẻ gàn dở. Và lúc được thiên hạ ngộ ra (có khi phải mất đến cả trăm năm) thì té ra ... họ là Thiên tài ! Nguyễn Trường Tộ đã từng là một người gàn dở và cô đơn, Allbert Einstein cũng vậy. Nghe nói, ở một số quốc gia, những người gàn dở - vốn là trí thức - thường được nhốt riêng và luôn được cung cấp đầy đủ giấy trắng và bút chì; sau đó người ta thu lại những tờ giấy đầy những nét nguệch ngoạc ấy, chuyển cho những chuyên gia xem xét; những chuyên gia ấy được gọi đùa là những nhà đãi vàng. Vì thế, xét theo một khía cạnh nào đó, gàn dở và thiên tài có vẻ như một cặp song sinh cùng trứng.
                                  Kẻ ưu tú và người thường, thực ra, khác nhau là ở thái độ nhìn nhận cái được cái mất: Được cho ai và mất của ai ? Kẻ ưu tú là người hiểu sâu sắc đạo lý: Trong được có mất, trong mất có được. Họ là những "cô nhạn xuất đầu", đè gió sải cánh, rẽ mây mở đường, kiêu dũng trong lớp lớp muôn trùng hiểm nguy.
                                  Dù thế nào, Carl Marx và Friedrick Engels vẫn là những người anh hùng. Điều này không có gì mới. Năm 1848, giữa bầu không khí ngột ngạt của một xã hội nô lệ kiểu mới, về cái được và cái mất, hai ông đã viết trong bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản như thế này: "Hãy mặc cho giai cấp thống trị run sợ trước cách mạng cộng sản. Giới lao động không có gì để mất ngoài xiềng xích của họ. Họ được cả một thế giới để chinh phục".
                       
                      Tháng 10 năm 2006
                      #11
                        Nghiêm Lương Thành 24.11.2007 06:23:16 (permalink)
                        Nghiêm Lương Thành

                        GIA ĐÌNH  
                         
                                    Trong Ngôi nhà chung, mà chúng ta đang hè nhau tìm cách dọi lại cái mái ôzôn đang bị tổn thương này, có tới sáu châu lục. Trong đó, vì rét quá, có một châu lục không có người ở. Tại sao vậy ? Bởi giống người chúng ta phàm cứ gặp cái sự gì ở trạng thái có kèm theo chữ "quá" thì đều không chịu nổi. Dưới Địa ngục thì có nhiều quỷ sứ quá, e không thoát khỏi các nhục hình phổ thông. Trên Thiên đường, tuy không phải lo kiếm ăn, tậu đồ đạc nhưng rượu chẳng bao giờ được uống thoải mái, trông thấy Hằng Nga lộng lẫy thì phải cố nén lòng, thở dài mà quay mặt đi; cái gương tày đình của ngài Thiên bồng nguyên suý chẳng phải vẫn còn đó sao ? Vậy, tốt hơn cả vẫn là sống trong cái nhà chung có sáu châu này, thứ gì cũng có nhưng, được cái, cấm có thứ nào bị hoàn hảo, bị cực kỳ cả !
                         Trong mỗi châu lục (trừ châu Nam Cực) lại có nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia lại có nhiều tỉnh, nhiều bang. Rồi, cứ thế, chia nhỏ dần thành các huyện, xã, thôn, xóm, ấp vá cuối cùng là các gia đình. Nếu vậy, chắc chắn sẽ có người nhắc nhở: Dưới gia đình còn có cá nhân nữa ! Cá nhân, tức là hoặc liền bà, hoặc liền ông. Mà bất luận là liền bà hay liền ông, dẫu có mạnh như Thánh Tản, có sắc bén như Trạng Quỳnh, có mẫn tiệp như Hồ Xuân Hương, có nghiêng nước nghiêng thành như Mỵ Nương công chúa, có siêu việt như Nguyễn Trãi, có tài hoa như Lương Thế Vinh ... nếu đứng tách riêng một mình, lập tức sẽ chả là cái gì cả, còn vô nghĩa hơn cả một mảy vàng (Au) trong đám tinh vân đang lang thang vô định trong cái vũ trụ mịt mùng này ! Và sự diệt vong "cấp loài" là điều không thể tránh khỏi ! Huống hồ, chúng ta chỉ là hạng thảo nhân yếu đuối, vật dục sa đà, nhút nhát đáng thương. Vậy, xin thưa: Không thể được, gia đình là sự phân chia tột cùng rồi !
                        Vì thế, mối liên sinh liền ông - liền bà vĩnh viễn là một thể thống nhất, không có gì trọn vẹn hơn. Người xưa bảo đấy là đạo lý lớn nhất của trời đất. Trừ những trường hợp đặc biệt, những liền ông và liền bà thiết tha cấu kết với nhau cho đến đầu bạc răng long thì gọi là vợ chồng, thêm con cái của họ nữa thì gọi là gia đình. Các gia đình có tam, tứ đại đồng đường, lại thêm cả các "gia đình thứ cấp" đồng gia thì được gọi là Đại gia đình. Thời nay, khi mà dòng công nghệ ma-phi-a đang lăm le có xu hướng toàn cầu hoá, người ta còn mượn chữ này để gọi các băng đảng, các cá nhân có thế lực hoặc được xếp loại cự phú địch quốc là Đại gia. Còn các "Đại gia" thì hoàn toàn hài lòng với cách gọi dân dã mà bề thế đó bởi tính hợp đạo và tính vĩnh viễn của khái niệm Gia đình khiến các ngài liên tưởng đến sự trường tồn và rất muốn tin hoặc đã hồn nhiên mà tin là như vậy.
                        Gia đình hoà mục thì làm cho xã hội vui tươi. Xã hội vui tươi thì khiến cho đất nước giầu có và hùng mạnh . Đất nước hùng mạnh, giàu có thì không bị nước lớn ăn hiếp theo lối Xã trưởng - Mẹ Đốp. Những người tử tế, ai mà chả muốn thế. Nhưng cái gốc để làm cho gia đình hoà mục bền vững thì cho đến nay người ta vẫn còn đang loay hoay, nghiên cứu chưa xong, dù chỉ là trên bình diện lý thuyết. Cái ngành khoa học này, xem ra, vẫn còn nhiều đoạn trường lắm. Và vì thế, Thượng đế thì ắt hẳn sẽ vẫn còn cười dài dài ! Ngài sướng thật ! Cái sướng của ngài, không thể biết tự bao giờ, đã đạt độ viên mãn; và cái độ căng tròn hoàn hảo này lại được đặt lên trên cả luật của vũ trụ, bởi nó được ấn định là vĩnh viễn. Dù tuyệt đối không dám tơ tưởng đến hai chữ vĩnh viễn, nhưng cái ngành khoa học kia của chúng ta cũng vẫn lấy cái "sướng" của Trời để làm mục đích. Từ giờ cho đến lúc thành tựu, không ai có thể nói là thời gian cần thiết sẽ dài là bao nhiêu, nhưng lạ thay, người ham hố nhất cũng chỉ mơ ước làm vua một xứ chứ chưa hề thấy ai mơ ước làm ông Trời ! Vẫn biết rằng sớm muộn gì thì sự nghiên cứu của con người cũng đi đến đích, và lúc ấy, giữa cái sướng của con người và cái sướng của Trời sẽ được đặt một cái dấu đẳng thức to lừng lững. Nếu thế thì sau đó sẽ thế nào ? Câu đố hiểm hóc của con Spin đã được giải, chẳng còn gì để làm, để mơ ước nữa, mọi thứ bỗng dưng trở nên nhạt thếch, chán phèo ! Một trường thiên mông muội lại đang đợi chúng ta ở phía trước chăng ?!  
                        Gần đây, người ta gọi Gia đình là Tế bào xã hội. Không thể chuẩn xác hơn được nữa ! Các tế bào khoẻ sẽ cho một cơ thể lành mạnh. Nếu được chăm sóc đầy đủ, chu đáo, các tế bào sẽ luôn khỏe mạnh. Một vết thương nhỏ, nếu quan tâm đúng mức thì chỉ vài ngày là khỏi. Nhưng nếu không được chú trọng, lơ là bê trễ thì có khả năng dẫn đến nhiễm trùng. Và đỉnh cao của nhiễm trùng là trạng thái hoại thư. Lúc ấy, sự tàn phá còn khốc liệt hơn cả chiến tranh và sóng thần cộng lại. Khổng Tử, một "Phương đông đệ nhất thần y" là người rất chú trọng đến vấn đề sức khỏe gia đình, đã quyết liệt chủ trương phòng bệnh hơn chữa bệnh. Đạo Nho với những bài thuốc Luân và Thường, Lễ và Nhạc được ông và các học trò đưa ra, cho đến nay, trải đã mấy ngàn năm rồi mà người đời vẫn còn kính chuộng.
                        Gia đình là cái thứ mà mọi người khó có thể thống nhất với nhau về cách nhìn nhận. Người bảo: Gia đình là cái cũi, là cái trại giam có một chiếc loa phóng thanh không được lắp công tắc ! Kẻ nói: Không có gia đình thì ta sẽ chẳng là cái gì, cuộc đời của ta có khác nào một véctơ vô hướng. Có người lại nhận xét chồng mình rằng: Nhìn ông ấy dắt xe ra cửa đi làm cứ như đang đi hội, còn lúc về nhà thì cứ như vào đồn cảnh sát ! ... Nhiều lắm, có kể đến tết cũng không hết được. Nhưng có điều, dù là "vớ vẩn" "rầy rà" thế đấy, nhưng khi đưa ra nhận xét này thì không ai có ý kiến gì cả: Nó là cái tổ toả ra hơi ấm của những nụ cười, của những cử chỉ, từ những cái nồi đen nhẻm nghi ngút ngào ngạt bưng ra từ căn bếp; nó cũng chính là cái bến đậu bền vững, giúp cho người ta yên lòng, bình quân mà sống qua những khó khăn sóng gió của cái cuộc đời hoạ vô đơn chí này. 
                        Gia đình là nơi lưu tồn nguồn gien, là nơi sản ra và cung cấp những chất liệu cơ bản để tạo nên những tế bào mới cho xã hội. Gia đình cũng là nơi lưu giữ những gì là tinh tuý văn hoá của một dân tộc. Thời thế không ngừng thay đổi với bao thăng trầm, thịnh suy; Bể dâu, vũng đồi đắp đổi khôn lường, nhưng tố chất và nguyên khí của một dân tộc vẫn luôn được bền bỉ lưu trữ một cách kỳ diệu trong từng gia đình bé nhỏ vô danh. Những gia đình ưu tú thì sinh ra những người con ưu tú. Những người ưu tú của các dòng họ kết hợp với nhau thì khiến cho nguyên khí quốc gia được sinh sôi, tráng kiện. Những người ưu tú kết hợp với những người chưa yêu tú khiến mặt bằng ưu tú của một dân tộc được dâng lên. Bởi thế, xứ Kinh Bắc của những liền anh liền chị và đất Châu ái của những phường vải phường Cấy đã hò hẹn giao duyên để tạo nên một gia đình Nguyễn Nghiễm, và đến lượt nó, danh gia Tiên Điền này lại hiến cho đời một Nguyễn Du mẫn tiệp cao minh, khôn nguôi đau đáu nỗi đời !
                        Gia đình thì cũng có nhiều kiểu lắm, có kể ra cũng không hết được.
                        Có những gia đình, vợ chồng lười biếng, vật dục ám trì, chỉ thích giầu nhanh, nên tâm trí, sức lực của họ bị dồn cả vào các thứ cờ gian bạc lận, bán buôn chao chác, bê trễ trau dồi, khiến cho con cái coi thường chữ nghĩa, ham hố vui chơi, mê làm người hùng, nổi danh đao búa, rồi kết cục trở thành những thứ đồi bại nhân luân, hoả lò nhập cục. Không may thay những gia đình không có khả năng tiếp thụ ánh sáng, tự coi cái dụng của mình là rất tinh xảo ! Bất hạnh thay cho những quốc gia có những ông vua chung thân kỵ sáng nhưng lại không ngừng tin rằng phép trị quốc của mình là thiên hạ nhất tuyệt !
                        Cũng có những gia đình mà thức ăn chỉ là râu tôm nấu với ruột bầu mà vợ chồng      không ngừng say mê lẫn nhau, còn con cái thì cứ luôn khoẻ mạnh, ngoan lành, thông sáng. Cũng có những gia đình, vợ chồng cứ rủ rỉ bàn bạc, củ mỉ làm ăn, bạt đồi trồng trỉa, thóc lúa tràn bồ, và đôi lúc cao hứng cũng muốn bắt hết cá tôm ở Bể Đông bằng cách tát quách hết nước đi. Cũng may mà họ không tìm ra chỗ chứa cho cái mênh mông nước ấy, chứ tìm được thì cũng chưa biết chừng ! Lớn lao thay sức mạnh của một gia đình đàng hoàng, hoà mục ! Hùng mạnh thay cho những quốc gia chỉ có những gia đình vui tươi !
                         
                        Tháng 05/2005
                        #12
                          Nghiêm Lương Thành 24.11.2007 06:37:01 (permalink)
                          Nghiêm Lương Thành

                          DANH LỢI  
                           
                          Trong cuộc tồn sinh vĩ đại, các loài vật đều có xu hướng tìm đến những nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp với mình. Đó là những nơi có khí hậu hiền hoà, thức ăn phong phú, ít phải cạnh tranh ... Tất nhiên, cái hiền hòa đối với loài này không chắc là thích hợp với loài khác; Chim cánh cụt không thích định cư ở vùng Đông Nam Á và lạc đà không khoái miền Bắc Cực. Tuy nhiên những yếu tố kể trên không bao giờ tồn tại đồng thời một cách hoàn hảo trên bất cứ nơi nào trong cái ngôi nhà chung này: Lợi lực thì thiệt đường đi, cái tài cái mệnh dễ gì ưa nhau ! Nhưng tất cả các loài đã khéo léo tiến hành giải bài toán đó một cách khôn ngoan, cái hơn cái thiệt đã được cân đối một cách rất hài hoà. Đấy là nói về vĩ mô. Còn về vi mô, cũng dễ dàng nhận thấy các dạng thức tranh cướp nhau trong cộng đồng cùng loài. Trừ những động vật còn non nớt, đang được bố mẹ chở che, chăm nuôi bú mớm, còn lại, đều phải lo kiếm ăn, kiếm chỗ ở. Nếu có miếng ăn, đã có chỗ ở thì phải lo mà giữ gìn, tu tạo. Tìm đến chỗ phù hợp với mình tức là tìm đến cái lợi. Giữ lấy miếng ăn, chỗ ở tức là lo giữ lấy cái lợi.
                          Con người cũng là một loài vật, vậy tất phải mang lấy cái đặc tính chung của loài vật. Có điều, loài của chúng ta nhờ năng lực tư duy và đôi bàn tay khéo léo, lại có nhiều loại Kinh Thánh, Kinh Phật nên đã vượt lên trên muôn loài như một vị chúa tể hùng mạnh nhất. Mặc dù đã có nhiều đạo luật, công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, vậy mà cái giống người, sức vóc có được bao lăm, đang làm cho các giống hổ, voi, tê giác, cá mập ... có nguy cơ bị tuyệt chủng; Các cánh rừng nguyên sinh đại ngàn có nguy cơ bị xóa sổ ! Vì sao vậy ? Cũng là vì cái lợi !
                          Hành động vì lợi, đó là cái lý chung ! Nhưng đối với những người lo xa, còn có một đạo lý cao hơn, đó là: Hành động vì cái lợi bền vững ! Có những dân tộc không bao giờ bắt cá vào mùa cá sinh đẻ. Người làm vườn, khi thu hoạch, thì dùng kéo mà cắt quả và họ biết mình phải đặt kéo vào vị trí nào mà cắt để cây không bị tổn thương, để mùa sau và sau nữa, sau nữa ... cây vẫn cho trĩu trịt quả. Nhà nông rất quan tâm đến việc chọn giống và cũng rất kỵ việc "đổ thóc giống ra mà ăn". Nhà công nghiệp thực thụ, trước khi vận hành một công nghệ mới, thì luôn muốn biết chắc rằng những chất thải của mình khi xả ra sẽ không làm tổn hại đến môi trường sống. Điều đáng mừng là khoảng một vài chục năm trở lại đây, trong các báo cáo tổng kết cuối năm, viết theo thể xã luận, người ta không thấy ngành lâm nghiệp đưa vào một loại thông tin với tư cách là thành tích "đã đưa ra khỏi rừng mấy chục vạn mét khối gỗ tròn" nữa.
                          Không ít người chỉ vì cái lợi mà làm những việc quá đáng, có hại cho đồng loại, cho xã hội. Cũng không ít người, ở vào cái cực còn lại, lại được sự cổ suý của những triết lý duy nghĩa Nho giáo (đành rằng là rất tốt !), đã xoay vào say sưa kể tội, lên án những hoạt động nhằm vào cái lợi: Cái giống doanh nhân chỉ thấy có cái lợi (!) Nhưng, hỡi ôi, người ta cứ hè nhau mà a dua, mà nghị luận, quên phắt đi rằng mình cũng có cái đầu đủ công năng độc lập suy xét, để cùng nhau tham luận mà tìm cho ra cái lý phải ! Vẫn biết rằng ở đâu chẳng có kẻ hay người dở nhưng nếu không có họ - những doanh nhân - dân Bắc có được ăn sầu riêng, măng cụt không ? dân Nam có được thưởng thức nhãn lồng, vải thiều hay không ? Không có họ, liệu ta có vải vóc, tủ lạnh, nồi cơm điện, máy giặt ... cùng mọi thứ vật dụng tiện nghi để thành người văn minh hay không ?
                          Nghĩ cho cùng, lợi là điều kiện tiên quyết để mọi loài vật có thể tồn tại và phát triển được. Người châu Âu, cũng vì muốn cái lợi, muốn nhàn hạ, muốn làm ít mà hưởng nhiều, muốn thực hiện những việc vượt quá công suất cho phép của cấu tạo cơ bắp, nên mới bắt cái đầu nghĩ ra khoa học kỹ thuật, ra công nghệ, máy móc. Chỉ dùng một lực nhẹ, nhẹ hơn cả khi nhấn xuống phím dương cầm để diễn tả cái thần của một chiếc lá mỏng mảnh đang nhẹ chao xuống mặt ao thu cô tịch, để ấn vào một cái nút bé bằng cái khuy áo là đã có thể nâng bổng cả một vật nặng hàng chục tấn lên trời. Lùa gia súc vào đầu này dây chuyền sản xuất thì lúc sau, ở đầu cuối dây chuyền đã có những khoanh súc xích nóng hôi hổi, thơm phức tuôn ra.
                          Vậy, nếu muốn phán xét về cái hành vi kiếm lợi thì phải xem xét về cái thái độ và phương pháp của nó. Cái sự lười biếng nghĩ ngợi, ngại lao động, lấy điều dối trá làm căn bản cho phép hành xử, lại biết cách sử dụng khá thành công giọng "Teno" để véo von hoài hoài những nhời cao nhẽ cả, mê hoặc lòng người của cánh tà đạo; Hoặc cái sự lừa lọc, trôm trỉa, chộp giật, ...  dù là thô bỉ hay sang trọng, của phường lưu manh tinh quái thì đương nhiên là rất không được hoan nghênh ! Trái lại, dùng trí khôn sáng, lấy cái tâm chính ý thành kết hợp với cơ bắp và mồ hôi mà lao động đường hoàng để kiếm lợi thì đương nhiên là đáng để cho người người ngưỡng mộ và noi theo không biết chán ! Những người như thế, cũng kể như đã thành Danh.
                          Về chuyện Danh, trong cái cộng đồng cùng loài, con người ta luôn có xu hướng và luôn khao khát được nổi bật như những ngôi sao trong bầu trời xã hội của mình. Đó là tính háo danh ư ? Hay là khát vọng tự khẳng định mình, một ước mơ hoàn toàn lành mạnh và chính đáng ?  Khoan hãy kết luận ! Hãy bắt đầu bằng những gì ta quan sát được trong đời sống nội tâm của chính mình cùng những gì đang xảy ra trong đời sống quanh ta.
                          Ở Việt Nam, ngày xưa, xem phim chiến đấu vệ quốc, chống phát-xít của Liên-xô, có bạn nhỏ nào lại không ước mơ mình trở thành một chính uỷ sư đoàn, một chiến sỹ mặt đen khói súng, quắc mắt hiên ngang trước quân thù dã man hung bạo ? Ngày nay, xem phim Tác-giăng, có bạn nhỏ nào lại không ước mơ mình trở nên người hùng thời đại ! Dù là chính uỷ sư đoàn hay là Tac-giăng thì cũng đều là những người bảo vệ chính nghĩa, nâng đỡ kẻ yếu, an ủi chở che cho người bất hạnh. Mơ về những điều như vậy, liệu có thể gọi là háo danh được không ?
                          Khi đã ngấp nghé tuổi thanh niên, những ước mơ tốt đẹp vẫn còn. Có điều chúng  không ngừng vận động, phong phú dần, giản dị hơn theo năm tuổi và kiến thức tiếp nhận được, nhưng trở nên kín đáo hơn, bởi sự trưởng thành trong quá trình tự nhận thức đã bắt đầu cho phép hé lộ, báo cho đương sự biết rằng năng lực của mình có còn phù hợp với ước mơ của mình không ? Từ một bác học nào đó đã có công đem lại một phần ánh sáng cho nhân loại cho đến một bạn trong lớp đã tốt bụng, khiêm nhường lại còn học giỏi hoặc một anh ở lớp trên vừa cứu được một người thoát khỏi chết đuối ngoài sông cái ... tất thảy đều làm cho cả đám học trò thán phục, ngưỡng mộ và không khỏi kín đáo đỏ mặt, tự xỉ vả mình là đồ dốt nát, kém cỏi (!). Tự xỉ vả mình vì những điều như vậy, liệu có thể gọi là háo danh được không ?
                          Khi đến tuổi trưởng thành, người ta bắt đầu tham gia vào các hoạt động xã hội: để kiếm sống và để đóng góp phần của mình cho xã hội. Tới đây, các ước mơ đã được thu gọn hơn nhiều, thậm chí có cái biến mất, không để lại chút dấu vết. Người ta bắt đầu có những suy nghĩ thực tế hơn, nhưng vẫn không ngoài cái mong ước tự khẳng định mình. Người thì quyết tâm phải đạt được một số bằng cấp học vấn nào đó. Kẻ thì đặt cho mình mục tiêu phải trở thành một trưởng phòng hoặc hơn thế. Có người thì đơn giản hơn, họ chỉ khoái làm giàu. Người đó đã nói với bạn hữu của mình: "Tao sẽ phải giàu có. Có tiền là có tất cả ! Không tin ư ? Vậy hãy quan sát Maphia Italia đi ! Còn nữa, Giăng Van-giăng là người chân thiện, nhưng Ma-đơ-len mới là một ông thánh !". Nỗ lực để trở thành người chân thiện, có hiệu suất sống cao, mang lại cái lợi cho cộng đồng và được cộng đồng yêu quý ngưỡng mộ là ước mơ của tất cả những người tử tế. Đó là Chân Danh.
                          Tất cả đều đúng, đều chính đáng. Thế thì cái cụm chữ "háo danh" kia, theo lý, phải tự biến mất đi chứ ? Xin thưa: vẫn còn nguyên, mà lại còn kềnh kễnh là đằng khác !
                          Kim cương vì hiếm và vì đẹp khác thường nên quý. Sâm Cao Ly vì hiếm và vì những đặc tính dược liệu vô song nên quý. Chân nhân là những người mang nhiều chất thánh hiền, rất hiếm nên quý. Học vị là danh hiệu sinh ra để xác nhận và phân loại các mức năng lực của con người, giúp cho những nhà điều hành nắm được và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Một nhà nọ, sau khi đã chốt cửa kỹ càng, ông bố bèn nói với các con: "Từ nay nhà ta sẽ gọi thằng Cả là Tiến sỹ, thằng Hai là "Mát tơ" ... thằng Cả và thằng Hai phải có trách nhiệm đào tạo thằng Ba thành Nhà tư tưởng !". Trong phạm vi gia đình thì ... vô tư đi ! Chẳng hề phạm pháp, hoà bình thế giới vẫn còn nguyên ! Vấn đề ngôn từ thì có quan trọng gì, thế nào cũng được, nhưng nhớ nói nho nhỏ, đủ nghe thôi ! Có điều, xin nhớ rằng, trong cái nghề cơ khí dở hơi nhất trần đời này, sẽ là vô cùng thảm khốc nếu cứ khăng khăng "ấn định" cho một cỗ máy công cụ, vốn có độ chính xác cấp 4, là có độ chính xác cấp 7. Và, hơn nữa, lại cứ nhất định bắt nó phải tạo ra bằng được những sản phẩm có độ chính xác cấp 7 hoặc hơn thế ! Thời bao cấp, hàng làm ra thế nào cũng xong. Tự mình làm ra, tự mình dùng mà. Lúc bấy giờ, không ai hơi đâu mà quan tâm xem quả bồ hòn vốn có vị gì. Nhưng thời thị trường mở cửa, người ta không mua hàng theo cái danh quảng cáo trên ti vi của nhà chế tạo đặt ra đâu; Lại càng không thể "ép đẹp" người ta mua cho được, bởi khi đi mua hàng người ta phải dùng tiền thật và có nhiều hãng để lựa chọn ! Gọi là tiền thật vì người dân đã tạo ra nó bằng mồ hôi mồ kê. Đồng tiền thật biết khóc, biết cười, biết yêu thương và biết cáu tiết. Còn nhà nước thì dùng các máy móc tinh vi để chế tạo ra tiền. Nhưng nếu chỉ mải mê in tiền thì, cũng vẫn là những đồng tiền như thế, chúng sẽ dần trở thành tiền giả, bởi chúng làm gì có tâm hồn. Hồn của tiền chính là mồ hôi của con người đọng lại trong nó. Cách đây mấy năm, tôi có được dự một cuộc hội thảo về nội dung khởi động cho một dự án đầu tư nhóm A. Theo trình tự thủ tục, người điều phối chương trình bắt đầu giới thiệu các nhân vật chủ chốt của hội thảo: "Tiến sỹ Lại Hữu Dũng: Giám đốc dự án. Kỹ sư  Andrew Capenter: Cố vấn trưởng ...". Một anh già, có mấy sợi lông, cái đen cái bạc, lơ thơ vươn ra từ cái nốt ruồi to tổ bố phía dưới cằm, ngồi cạnh tôi cau có lẩm bẩm: "Đ ... mẹ mấy cái thằng Tây giả cầy. Cậy có tiền viện trợ, làm ăn bát nháo, không còn trật tự, thể thống chó gì nữa !".   
                          Người ta bảo đồ vật thì mua được, còn danh dự thì không thể. Nhưng danh thì cũng có lúc trở thành hàng hoá. Trong bài thơ Chúc tết, cụ Tú Xương bảo:
                                                                    "Nó lại chúc nhau cái sự sang
                                                                     Đứa thời mua tước đứa mua quan ..."
                                      Tại sao lại phải mua danh ? Danh làm cho người ta oai ! Vả lại, danh làm ra lợi. Tích luỹ cái lợi thu được từ cái danh nhỏ, làm tiếp cuộc tái sản xuất mở rộng để sinh ra cái danh nhớn hơn, và cứ thế ... cứ thế. Người Úc đã cho thấy tái sản xuất mở rộng chính là cách để một người nhặt rác ngẩng cao đầu tiến lên vị trí một nhà tỷ phú (Đô la Mỹ); Đây chính là con đường đi của những nhà kinh doanh chân chính !     
                                      Danh, tuy là ai cũng muốn, nhưng không phải là thứ thuần vinh sáng chói. Danh bao giờ cũng đi liền với trách nhiệm, như hình với bóng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm, mỗi suy nghĩ của người đã đắc danh đều có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực khôn lường đến cộng đồng của mình. Đó chính là tính lãnh tụ của danh.
                          Nhưng cái giá trị của Danh cũng thất thường lắm, nó cũng theo thời theo thế, hệt như ngày xửa ngày xưa vậy. Bình thường thì "nhất sỹ nhì nông". Lấy được một tấm chồng kẻ sỹ, mà nhất là sỹ điều, luôn là niềm mơ ước thầm kín và chính đáng của biết bao cô gái có chút nhan sắc và hằng tâm niệm lời ông bà, cha mẹ dặn dò: Lấy chồng thì phải xem giống ! Phải rồi: các nhà tư tưởng thì tìm ra lối đi cho con người; còn các nhà khoa học thì chính là những cái then cái chốt trong lịch sử phát triển vĩ đại của nền kỹ nghệ nhân loại. Thế nhưng, khi "hết gạo chạy rông" thì tình hình lại không giống như thế nữa. Tôi có được nghe người ta kể lại, vào những năm của thập kỷ tám mươi thuộc thế kỷ trước, có một bà cụ, trong một cơn bức xúc cao quý, đã xỉa xói không thương tiếc vào mặt chàng rể thộn của mình: "Đồ bịp bợm ! Mày lừa bà ... hồi chưa cưới con bà, mày bảo mày làm lái xe ... hoá ra ... mày lại ... là cái giống ... phó tiến sỹ ! Giời ơi ... con gái tôi ăn ở hiền lành ... phúc đức ... mà sao lại ra đến nông nỗi này hở Giời !". Đọc báo hình Trung quốc vào những năm 1967, 1968, thấy có những bức ảnh chụp các giáo sư và sinh viên đại học đang bị đày đoạ bằng những nhục hình đường phố hoặc đang phải tập trung ngồi tại ruộng, cùng ngước những khuôn mặt ngơ ngác, sợ hãi, vừa thành khẩn vừa thành kính, lên nghe nông dân Đại trại đứng giảng bài. Cũng đọc báo, thấy nói vào thời gian Liên-xô mới tan rã, lương của một nhà khoa học ngành nguyên tử còn thấp hơn lương một người lái xe buýt. Xem chương trình truyền hình của Đài trung ương về Nạn Khơ me đỏ ở Campuchia, thấy người dân phải tập trung lại, sợ hãi, nghe, học tập và nhất nhất tuân theo những điều do các cán bộ Khơ-me đỏ truyền giảng; thấy hàng đống đầu lâu người cái lành cái vỡ... Một số người dân phải trốn khỏi quê hương đến một chỗ không ai biết mình và không dám nhận mình là trí thức nữa. Chưa có nơi nào trên thế giới, nhân cách con người lại bị đày đoạ đến phi lý, nhục nhã như ở đất nước này. Đấy là một vết nhục trong lịch sử của một dân tộc đã từng có một nền văn minh Ăngco toả sáng một thời. Nhưng những chuyện ấy chỉ là thời sự !
                          Đọc sách xưa, thấy các cụ hay nói đến cụm chữ "công danh". Phải chăng các cụ nhà mình cũng lại rất háo danh ? Nếu để ý một chút, thấy trước chữ "danh" bao giờ cũng là chữ "công". Công ở đây chính là quá trình hy sinh, lao động nghiêm túc cho cộng đồng: Đánh giặc giữ nước, mở mang bờ cõi, chấn chỉnh phong hoá, phát triển văn học, thúc đẩy kỹ thuật, cải cách kinh tế ... cho nước nhà; Danh ở đây là do thành tựu đạt được của quá trình đó mà có. Vậy công danh chính là sự lao động lập công để thành danh. Đấy là một con đường đầy khó khăn, gian khổ, thậm chí hiểm nguy, nhưng cao quý để người ta tự hoàn thiện bản thân ! 
                          Chân Lợi là động lực phát triển của mọi nền kinh tế. Chân Danh là chứng chỉ khẳng định phẩm chất cao quý của một người ưu tú. Cứ mỗi khi có một người thành danh, dù là trong lĩnh vực nào, ta lại biết chắc rằng kho lẫm tri thức của đất nước ta lại thêm phong phú, thêm hoàn chỉnh; nguyên khí của dân tộc ta lại thêm trong sáng, mạnh mẽ ! Khắp nơi, tiếng cười trở nên trong hơn, nhiều hơn và ngày càng có nhiều người tuyệt đối không tin rằng cuộc đời của chúng ta vốn chỉ là một giai đoạn vật vờ "sống gửi" ở "cõi thế mù mờ" này !
                          Vậy, thử hỏi, có người Việt bình thường nào lại không luôn cầu mong cho nước Việt ta mỗi ngày lại có thêm nhiều người thành Danh ?!
                           
                          Tháng 6 năm 2005
                          #13
                            Nghiêm Lương Thành 24.11.2007 06:43:20 (permalink)
                            Nghiêm Lương Thành

                            NGƯỜI TÂY  
                                        Trong đời sống xã hội, ta thường dùng từ "thằng" để diễn tả sự coi thường, khinh bỉ, thậm chí ghét bỏ, căm thù: Thằng ba láp, thằng lưu manh, thằng giết người, thằng xâm lược ... Nhưng, hoàn toàn trái ngược, nhiều khi từ này được dùng trong các quan hệ thân mật, xuồng xã, thậm chí trìu mến: thằng bạn, thằng phải gió, thằng chó cún ... 
                                        Cách đây khoảng mười lăm năm, một đồng nghiệp của tôi đã trình bày phát hiện của anh như sau: ở đời chỉ có hai hạng bị gọi là thằng, đó là ăn mày và Tây ! Tất nhiên, phát hiện này không thể gọi là chuẩn, nhưng có cái gì đấy vừa tếu vừa thực, khiến người nghe không khỏi mỉm cười, gật gù ngẫm nghĩ. Ngày xưa, nếu không kể những tu sỹ đi truyền đạo, Tây sang ta chủ yếu là thực dân Pháp, còn lại thì cũng là những kẻ đánh thuê cho kẻ xâm lược, gọi là thằng thì đúng rồi. Nhưng ngày nay, từ những năm cuối thế kỷ trước đến giờ, trừ mấy "anh bạn" gián điệp ra, Tây sang ta là bạn bè, là những người tình nguyện đến giúp ta, là những người làm thuê cho các tổ chức quốc tế quan tâm tích cực đến Việt Nam, là những doanh nhân sang hợp tác làm ăn, là những người đi du lịch sang hèn đủ loại ... Vậy mà, cũng chẳng phải hữu tình hay ác ý gì, khi nói chuyện với nhau, ai cũng dùng chữ thằng để chỉ những người ngoại tộc này. Không phải vì coi thường, khinh bỉ, căm ghét; cũng chẳng phải vì thân mật, trìu mến hay suồng sã, vì thực ra phần lớn họ là những người không hề quen biết với ta. Tại sao vậy ? Do thói quen tình cảm còn rớt lại từ thời gian trước năm 1954 ? Hay nói chỉ cốt cho nó oách, để khoả lấp những gì trong sâu thẳm còn đang thiếu hụt, yếu kém ? Rằng ta cũng bình đẳng, cũng chẳng thua kém gì họ, thậm chí còn khối cái vượt trội, ngay cả khi chưa hề uống bất cứ loại sữa nào đang quảng cáo trên các đài truyền hình của nhà nước ! Thực ra, trong công việc, khi phải tiếp xúc với họ, phần đa chúng ta đều tỏ ra rụt rè, thiếu tự tin, thậm chí thiếu tự tin đến mức đáng thương, rồi đâm ra lúng túng, trình ra những lối hành sử không xững đáng một chút nào với công dân của một đất nước có bộ hiến pháp luôn được cập nhật theo tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại !
                                        Tại sao lại như vậy ?
                                        Vì họ là những người có kích vóc hình học lớn hơn ?
                            Không phải ! Thực tế cho thấy tỷ lệ thành đạt ở những người có tầm vóc thấp bé bao giờ cũng cao hơn những người bình thường. Về vấn đề này, người phương Tây đã có những công trình nghiên cứu rất nghiêm túc.
                                        Vì họ là những người có thu nhập cao hơn ? 
                            Điều này có thể đúng trong phạm vi hẹp, với những người ít may mắn, chưa được thụ hưởng đúng mức những gì mà nền giáo dục phổ thông mang lại; hoặc chưa có năng lực để nghĩ tới và thực hiện quá trình tự giáo dục, lại thêm vật dục trì ám, đau đáu khôn nguôi. Còn lại, phần lớn, đều hoặc đã biết, hoặc đã thấm nhuần đạo lý nghèo mà không hèn, thiếu thốn mà không dúm dó. Đây không phải là lời giải thích hợp lý.
                                        Vì họ là những người có học vấn cao hơn ?
                            Họ, cũng như ta, cũng như bất cứ dân tộc nào, trong những người đồng bào của mình cũng có những người học vấn thấp kém, cũng có những người học vấn cao và ưu tú. Thực tế cho thấy không hiếm những người thuộc các nước nhược tiểu, lạc hậu (Developing countries - theo cách gọi của những người có văn hoá) chiếm được các học vị và vị trí cao trong các cơ quan khoa học, nghệ thuật cấp cao tại những nước tiên tiến (Developed countries), có một nền văn hoá rực rỡ, liên tục và bề thế. Nói Mỹ là một quốc gia trẻ thì đúng, nhưng vì thế mà có ai đó cho rằng nền văn hoá của họ cũng mới chỉ có hơn hai trăm năm thôi thì e rằng có phần bộp chộp. Thực ra đó là một cây chiết, được chiết từ cây mẹ Anh Quốc và sau đó, với tư cách là cây chủ, nó được ghép thêm vào rất nhiều loại chồi của rất nhiều cây dân tộc khác trên khắp thế giới.
                                        Trong ngót chục năm gần đây, nhờ được làm việc trong một Dự án đầu tư, có điều kiện tiếp xúc và làm việc với một số cố vấn người nước ngoài, tôi có cơ hội tốt để hiểu thêm về họ. Đến đây, chắc chắn bạn sẽ đặt ra một câu hỏi cho tôi: "Trong khi làm chung với những người này, quý bạn có thấy kém tự tin như đã nói ở trên không ?". Xin thưa là: Có ! Bởi tôi là một người bình thường (nói như thế, xét cho công bằng, thì cũng đã có phần kiêu ngạo rồi !). Tại sao ? Vì họ nhanh nhẹn, hoạt bát, được đào tạo kỹ, có bài bản về công việc của mình và, hơn cả, là những con người luôn tự tin vào bản thân mình. Trong số họ, có những người thông thạo đến ba ngoại ngữ thông dụng của thế giới. Bất cứ công việc gì, dù là nhỏ, họ đều có thói quen lập kế hoạch chi tiết. Các kế hoạch này bao giờ cũng trả lời cho những người cộng tác đầy đủ về những gì họ quan tâm: Làm gì ? Phương pháp thực hiện ? Với ai ? ở đâu ? Bao giờ ? Mục tiêu đặt ra ? Kết quả mong đợi ? Và những khó khăn có thể lường trước ?. Đó là thời gian đầu.
                            Thời gian tiếp theo, qua thực tế làm việc, qua quan sát các đồng nghiệp Việt Nam trong môi trường "Hợp tác lao động", tôi nhận ra hai điều: Một là, cái kim, dù được bọc cất cẩn thận chu đáo đến mấy, cũng có lúc bị lòi ra ngoài. Trong một số trường hợp do bất cẩn, hoặc do quá mỏi mệt vì cái sự luôn phải để ý điều chỉnh hành vi trong giao tiếp, lúc này lúc kia, trong lời nói, cử chỉ của họ đã có dấu hiệu coi thường người Việt. Điều này, bất cứ người nào có nhãn quan nhậy cảm ở mức trung bình là có thể nhận ra được. Vậy là, thực ra, trong sâu thẳm, họ chưa bao giờ xếp người mình ở tầm ngang hàng với họ (tôi viết câu này mà cảm thấy cây bút trên tay đang bị nghẹn mực). Đó là một thực tế không mấy dễ chịu, khiến lòng tự ái bị tổn thương, mà lâu nay ta vẫn lẩn lờ, không đủ công lực để nói huỵch ra. Hai là, trong khi xử lý các công việc kỹ thuật cụ thể, các đồng nghiệp người Việt đã tỏ ra hơn hẳn các cố vấn trong một số vấn đề. Đó là một thực tế, dù ở dạng thức nào, các chuyên gia này cũng buộc phải thừa nhận. Bằng chứng là, trong phạm vi nhóm làm việc, họ không tái phạm những suy nghĩ, những hành vi bất cẩn như trước nữa; họ bắt đầu hỏi ý kiến, chăm chú lắng nghe các kiến giải từ phía ta và hồ hởi áp dụng ngay vào công việc. Ưu điểm lớn của họ là: thấy phải, thấy được việc thì áp dụng ngay mà không hề chen vào, dù chỉ là một chút, tư ý lệch lạc. Thực tế này đã giúp tôi tự đánh giá lại bản thân, đánh giá lại các đồng nghiệp người mình và có cái nhìn khách quan hơn, đúng đắn hơn với những cố vấn nước ngoài đó; nó cũng giúp tôi đạt được trạng tái tự tin cần thiết trong công việc. Tôi vẫn coi trọng họ, nhưng không ở cái mức như hồi đầu, khi mới làm việc cùng họ nữa.
                            Thời kỳ thứ ba là thời gian tôi vỡ ra được nhiều cái mà trước đây mình chưa bao giờ biết. Trong khi thực hiện một số việc, khó khăn phát sinh; có cái gỡ được nhanh nhóng, có cái ách tắc ứ ự, khiến công việc trở nên ì ạch, không thoát. Họp bàn, phân tích, tìm ra nguyên nhân, xác định và quyết định phương pháp giải quyết, cho đến thời gian này, vẫn là một công cụ đắc lực khi lâm sự ách tắc. Trong những tình huống như vậy, thư ký cuộc họp tha hồ mà thoả chí tốc ký: rất nhiều ý kiến, rất nhiều tìm tòi. Các giải pháp đưa ra cũng tựa như khi ta thấy một thiếu nữ đang bị dòng sông nước chảy băng băng cuốn đi thì tất nhảy xuống cứu. Rất tốt ! Nhưng lát nữa ... lát nữa lại thấy ... lại thấy những thiếu nữ khác xuất hiện tiếp trên dòng sông trong tình trạng tương tự. Lại cứu ... lại cứu và cứ thế. Cứu một mạng phúc đẳng hà sa mà ! Và do đó không ai là không hoan hô thán phục. Chúng ta thường bị ngợp trước những vấn đề phức tạp trong công việc như lùng bùng trong những mớ bòng bong, không biết bắt đầu từ đâu, thành thử vấn đề thảo luận cứ bị loanh quanh, luẩn quẩn mãi; đi một hồi, cứ tưởng đã tiến được xa lắm nhưng thực ra lại chợt nhận ra mình đã trở về chỗ xuất phát từ lúc nào không biết. Vấn đề vẫn chưa được giải quyết và dường như không có lối thoát. Vậy mà khi mấy ông bạn Tây phát biểu, lời lẽ ngắn gọn, ngữ điệu điều hoà, mọi người đều thấy sự việc trở nên rất đơn giản, sáng sủa; giải pháp được đề nghị cũng vậy: đơn giản, gọn gàng và khả thi. Cũng giống như - xin trở lại câu chuyện - những người tham gia cứu nạn nói trên liền cử một nhóm nhỏ tiếp tục trực bên sông, phòng khi còn cô gái nào không may bị trôi xuống hạ lưu nữa; toàn bộ số còn lại thì lên đầu nguồn tìm hiểu xem tại sao lại có tình trạng như vậy. Thì ra một bản người dân tộc thiểu số vẫn còn mê tín, cho rằng thần sông nơi họ sinh sống đã nổi giận mà gây dịch bệnh, chết chóc cho dân bản. Họ quyết định ném các trinh nữ vô tội xuống dòng sông dữ tợn để tế Ngài. Người ta liền báo với chính quyền sở tại, huy động lực lượng y tế địa phương đến cứu chữa kịp thời. Bệnh dịch bị đẩy lùi, không còn người bị chết nữa và, đương nhiên, chấm dứt vĩnh viễn nỗi khiếp sợ đến cùng cực của các trinh nữ và những người có công sinh thành ra họ.
                            Đến lúc này, dù muốn hay không, tôi lại phải đặt họ lên cao mà ngưỡng mộ, học tập; dù ai đó bảo rằng tôi mắc bệnh sùng ngoại cũng đành vậy ! Tôi ngưỡng mộ là ngưỡng mộ lái lối nhìn nhận vấn đề, lối tư duy bao quát, sáng sủa và chặt chẽ của họ. Tại sao họ lại có được cái nhìn như vậy ? Người mình, xét về tư chất thì có kém gì họ ? Chương trình học phổ thông của ta so với họ là nặng hơn (là nói về số ki lô gam sách vở) và lối rèn rũa trí tuệ cũng có phần cầu kỳ và tinh vi hơn. Có lần, một đồng nghiệp Ta đem đến cơ quan một bài toán "sao" lớp bốn. Thấy hay hay, một anh bạn Tây (chuyên gia có hạng về bản đồ và giải đoán ảnh vệ tinh) cũng thử làm, nhưng chau mày, nhăn trán, vật vã mãi cũng không giải được và, cuối cùng, lắc đầu ngượng ngịu xin thua. Một lần khác, chúng tôi cùng đi hiện trường ở một tỉnh Tây Nguyên. Người dân địa phương đề nghị Dự án xây một ngôi trường học cho con em họ khỏi phải đi bộ quá xa. Để có thể đưa ra một khái toán nhanh, cần phải nhân diện tích ngôi trường với định mức của nhà nước cho một mét vuông xây dựng. Ngài cố vấn của chúng tôi (hôm ấy quên không mang theo máy tính) với chiếc bút và tờ giấy, loay hoay đến toát cả mồ hôi mà vẫn cứ nhầm lẫn hoài. Qua những chuyện đại loại như vậy, một số ít người dương dương tự đắc mà cho rằng Tây kém Ta. Cũng có một số người lại không cho là như vậy. Họ bảo đó chỉ là những kỹ năng: Kỹ năng giải toán, kỹ năng nhân chia cộng trừ. Học là được, làm thì quen, chứ đâu có gì giỏi giang. Mùa đông, gió bấc hun hút, mưa phùn lây rây, cái lạnh chỉ chực thấm vào tận xương; một cái áo mỏng mảnh, dù có diêm dúa, sặc sỡ thì cũng phỏng có tích sự gì ?! Giỏi giang thì tự làm lấy các việc, hà cớ gì lại phải chịu tốn kém tiền của thuê người ta từ tít đẩu đâu đến làm thầy giúp mình ?!
                            Cái chết của người ta là: Bản thân mình thì vốn bình thường (là lẽ thường) nhưng khi đưa con vào học lớp một, trong lòng lại tràn trề hy vọng: Rằng rồi ra nó sẽ là đứa giỏi giang, làm được những kỳ tích này kia, làm cha mẹ mở mày mở mặt với bạn bè, thiên hạ. Khi con mới được vài điểm tốt đã vội vã tin rằng nó sẽ là thiên tài đích thực. Khi nó mới bị một điểm kém thì niềm hy vọng tụt xuống hố sâu và quay ra sỉ vả, chửi bới, mắng nhiếc ... cho hả nỗi quan tâm, yêu thương cao quý của các bậc phụ mẫu hết lòng vì tương lai con cái. Có người cho rằng, xét đến cùng những kẻ làm cha mẹ đó cũng chỉ vì chính cái sỹ diện xám ngoét của họ mà thôi, và đối với những "cái búp trên cành" còn non nớt, dễ bị tổn thương kia, đó là một áp lực tâm lý có cường độ thô bạo không kém gì lối cư sử từ thời trung cổ xa lắc. Thấy trường này dạy nhiều bài toán khó, lắt léo thì cho rằng đó là trường tốt. Vì thế đã có tình trạng có cô giáo còn ra cả toán đố khi học trò lớp một chưa học hết các âm vần chữ quốc ngữ; chắc là để "tạo mẽ thương hiệu". Thấy thày cô giao quá nhiều bài tập về nhà thì liền khen là nghiêm túc, có lương tâm nghề nghiệp, biết lo lắng cho học trò; trong khi chính những người tán thành những việc đó thuộc làu làu một cổ ngôn phổ thông: "Thái quá bất cập lợi !".
                            Vậy thì tại sao những người Tây, không làm nổi một bài toán lớp bốn trong chương trình dạy học của ta, không thực hiện được thành thạo một phép tính nhân quá bình thường, lại giải quyết được những khó khăn ách tắc trong công việc điều hành quản lý của chúng ta một cách dễ dàng và khúc triết đến như vậy ? Đào tạo nhân tài cho ngành toán là việc cần thiết, nhưng lại là chuyện khác. Việc giải những bài toán lắt léo, ghi nhớ những mẹo mực có tính tiểu xảo, không thuộc dòng kiến thức cơ bản, tiêu tốn nhiều nơ ron thần kinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự phát triển thể chất học sinh thì sẽ giải quyết được vấn đề gì ? Trong một thế hệ học sinh, chỉ có một bộ phận rất (rất) nhỏ sau này theo các ngành khoa học cơ bản. Số còn lại, phần đa, làm việc trong tất cả các ngành khác. Về môn toán, những người có trình độ đại học, đang làm việc trong các bộ, ngành, công sở, trong các công ty kinh doanh hiện đang thường xuyên đang sử dụng công cụ gì, ở mức độ nào và thực tế, trong công việc, họ đang phải đối mặt với những vấn đề gì ? họ đã có gì ? và đang thiếu gì trong tư trang tri thức của mình ? Điều đó, tất cả chúng ta đều rõ. Thời Trần, trong Hịch tướng sỹ, chẳng phải cụ Trần Quốc Tuấn đã nói: Mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh đó sao ?  ở đây không có chuyện cờ bạc, binh đao gì cả, vì thế, câu này, nhiều người đã hiểu theo cái nghĩa rộng mà cụ Trần muốn gửi gắm vào đó. Trong bộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của người Tàu, đoạn Trương Tùng vâng mệnh chủ là Lưu Chương đi sứ sang Nguỵ, nhân Tào Tháo hỏi về học vấn của Lưu Chương, ông đáp: Chủ của tôi là người đọc rộng biết nhiều, đọc sách chỉ cốt nắm lấy cái nghĩa lý của nó, chứ không tra từng câu, dò từng chương như bọn hủ nho !
                            Đã bao giờ chúng ta, nghiêm túc và chính thức, đặt ra câu hỏi: Những công dân của các nước Tây đã học những gì, đã được dạy như thế nào để họ làm cho đất nước của chính mình giàu mạnh đến thế ?
                            Năm 1946, trong một bức thư gửi cho các cháu thiếu niên nhi đồng cả nước nhân Tết trung thu, Nguyễn Ái Quốc đã viết: "Non sông ta có được vẻ vang hay không, đất nước ta có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không là nhờ ở một phần công sức học tập của các cháu". Chúng ta may mắn vì đã từng có một nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng. Nhưng - Nói theo lối của ngài Bá Dương - nếu thế hệ nào cũng lặp lại câu ấy, thì liệu đó có phải là điều may mắn cho người Việt ta không ?!
                                        Hay chúng ta còn thiếu cái gì đó nữa ?!
                            Về mặt lịch sử, không phải bàn cãi gì nữa, người Việt hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu là một dân tộc tự cường, có ý chí độc lập chưa hề bị khuất phục. Theo vó ngựa của mình, người Đại Hãn đã lần lượt chinh phục phần lớn châu á, châu âu, trong đó có nhiều cường quốc nổi tiếng; Nhưng khi đến xứ Việt thì bị đánh cho tơi bời, thê thảm. Ngọn cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ bay trên nắp hầm của tướng Pháp Đờ-cát-tờ-ri là một biểu tượng sáng chói, là lời kêu gọi đứng lên tự giải phóng, có sức thuyết phục nhất đối với các nước thuộc địa khác cùng thời. Khúc khải hoàn ca Giải phóng Điện Biên rộn rã hào hùng là cái ngòi nổ thời đại, đã làm rung chuyển và xụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của các Đế chế hùng mạnh nhất.
                            Vậy mà, so với người phương tây, tại sao chúng ta vẫn nghèo nàn, yếu kém ? Vấn đề này, không chỉ ngày nay, mà từ thời Nguyễn, các đại trí thức có tâm huyết, có tư tưởng cấp tiến đã từng chong đèn, vật vã nghĩ suy, tìm hiểu để tìm cho ra cái gốc rễ, cái nguyên uỷ của nó. Một trong những đại diện của lớp người ấy là cụ Nguyễn Trường Tộ với bản tấu "Bảy điều trần" trình lên vua Tự Đức sau khi đã được tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh kỹ nghệ phương tây tại chính quê hương của nó. Cụ đã dũng cảm phê phán thẳng vào cái tinh linh của nền tảng xã hội mình đang sống rằng người Việt ta chỉ biết có Nho giáo, tự cho mình là "Hoa Hạ" (thực ra nó lại ở tít đâu tận miền Hoa Trung phương Bắc) cao siêu, còn ba cái anh mắt xanh mũi lõ tối tăm mông muội đáng thương kia thì chỉ biết có vẽn cái lợi (!) Lẽ sống duy nghĩa phiến diện của những giáo lý Nho học đó đã không khuyến khích con người ta tìm ra cái lợi, thậm chí không cho phép người ta nghĩ đến cái lợi, ngay cả khi đó là chân lợi. Nhưng trên thực tế bao đời, quan lại là tầng lớp thấm nhuần nền học thuật Nho gia nhất, hơn nữa lại là những kẻ luôn ra rả tuyên giảng những nghĩa lý của Nho gia đến đám dân đen con đỏ, lại chính là tầng lớp quan tâm đến cái lợi và thu lợi nhiều nhất. Vì thế người ta mới thích làm quan, mới cứ nhất định là phải ra rả chi hồ dã dã bền bỉ trong nhiều năm ròng để mong đạt được điều gì đó trong khoa cử đặng được làm quan. Bởi vậy, trong dân gian mới có câu "Lập thân tối hạ thị văn chương"; thật mỉa mai và đau lòng thay ! Và đáng tiếc là hai thành phần trực tiếp, được coi là điều kiện cần để tạo ra một nền sản xuất tiến bộ là Công và Thương lại không được hoan nghênh mà bị xếp vào hai bậc cuối trong ba rem phân hạng giai tầng của xã hội.
                            Thực ra, điều này ai cũng thấy, văn chương đích thực bao giờ cũng cao quý bởi nó được chiết xuất công phu khó nhọc từ ngay trong đời sống; Bởi nó là thứ hoa thường hữu xạ, xa lạ với tất cả những gì sặc sỡ, sinh ra từ trí tuệ con người, luôn khát khao bừng nở giữa đời, là ngọn đuốc nâng đỡ con người ta trong quá trình tự bồi đắp và hoàn thiện nhân cách của mình trong cái cõi "Thế thượng nan vô sự" này.
                            Ngày nay, những người được sinh ra vào đầu những năm bảy mươi đổ về trước, trong đó có những người đã trải qua hai ba chế độ, có những người chỉ sống trong một chế độ mới, đều có chung một sự ngưỡng mộ với hình tượng cây tùng, cây trúc, biểu tượng của những phẩm chất văn hoá cứng cỏi, trung thực, ngay thẳng, chợt hoảng hốt nhận ra rằng mình đang ngày càng trở nên lạc lõng, cô đơn trong cái thế giới vừa mới đây thôi, còn rất gần gũi, bỗng nhiên nảy nở và phát tác ra một thứ hội chứng, không ai hoan nghênh, khuyến khích nhưng đang có xu hướng từ một hội chứng hạn hẹp tiến lên thành một loại văn hoá; Nếu mượn chữ của người Trung Quốc thì đó là loại Văn hoá thân mềm; Một thứ văn hoá Uriahíp [1], kỵ sáng, nhớp nháp, độc ác, hạ tiện và vô nhân ... khiến cho người ta phải rùng mình ớn tởm, gớm giếc như nhìn thấy loài rắn độc uốn éo khoe mềm !
                            Một đất nước liệu có thể phát triển được không, khi người ngay đang có xu hường phải khiếp sợ kẻ côn đồ, dù là hạng côn đồ thô bỉ hay sang trọng; Khi kiến nghĩa mà phải nghiến răng hoặc đành ngoảnh mặt mà bất vi để rồi trở thành một lũ vô dũng, ê chề, bạc nhược ?!
                            Một dân tộc có thể mở mặt được không, một khi còn phải thuê những kỹ sư, cử nhân ngoại đến hướng dẫn, bảo ban công việc cho những tiến sỹ nội ?
                            Kinh Thi có viết: Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử (Văn hoá vật chất dồi dào, sau đó mới có người tử tế). Về điểm này, trên quan điểm cá nhân, trộm nghĩ: Đó chỉ là những người tử tế thụ động (thứ cấp). Còn những người tử tế chủ động (sơ cấp) mới chính là động lực để tạo ra một xã hội có văn hoá và vật chất dồi dào !
                            Ngày nay, những người Nhật Bản - Đã từng bị kiệt quệ vì chiến tranh, vì thua trận và chịu thảm hoạ bom nguyên tử hồi năm 1945 - khi đi ra ngoài thế giới đều được các dân tộc khác thực lòng kính nể và ngưỡng mộ.
                             - Tại sao vậy ?
                            - Hỏi vớ vẩn !


                               Tháng 07 năm 2005




                            [1] Một nhân vật trong Đê vit  Cô pơ phin của Đich Ken.
                             
                             
                            Những truyện ngắn của Nguyễn Lương thành
                            Đã được mang vào thư viện
                            Chúc Tác Giả LNT luôn vui và vạn sự như ý
                            Thân ái


                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2007 04:10:25 bởi Ct.Ly >
                            #14
                              Nghiêm Lương Thành 28.11.2007 14:50:03 (permalink)
                              Nghiêm Lương Thành

                              KÝ ỨC TUỔI THƠ  
                               
                                          Ngược dòng thời gian, hình ảnh xa xôi nhất, tính đến thời điểm tôi đang ngồi viết những dòng này, mà tôi có thể nhớ được là cảnh bố bế tôi đi qua cái nhà đang xây dở dang với những cây chống, giàn giáo, xiên, thẳng đan chéo nhau giữa đống gạch ngói vôi vữa tứ bề lộn xộn. Mẹ bảo ngôi nhà ấy được xây khi nhà tôi chuyển từ Cầu Bố vào trong thị xã sau ngày hoà bình lập lại.
                                          Trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá là tỉnh thuộc vùng tự do. Những tỉnh còn nằm trong sự kiểm soát của Pháp thì gọi là vùng tề. Do chủ trương tiêu thổ kháng chiến, người dân thị xã Thanh Hoá đã từng thực hiện một việc chưa từng có trong lịch sử chống ngoại xâm của mình. Những ngôi nhà gạch mà người dân xây được do lao động vất vả và sự tích cóp bền bỉ trong nhiều năm, phút chốc đã thành đống gạch vụn. Những gì thuộc cơ sở hạ tầng thiết yếu đều bị phá trụi, phòng khi giặc tràn vào chiếm được thì cũng chẳng còn gì. Khi ấy, cái thị xã bé nhỏ ấy đã chỉ còn là một cái bãi hoang. Làm ăn, buôn bán, phải nhặt nhạnh từng hào từng xu thật đấy nhưng vì nghĩa lớn, không cái gì mà dân mình không làm được.
                                          Bấy giờ, cả cái thị xã nhỏ bé ấy chỉ toàn là nhà làm bằng luồng nứa và lợp bằng lá kè. Những vì kèo liền với những cái cột, được liên kết với nhau bằng những cái giằng kèo làm bằng cây duỗn, một thứ cây cùng họ tre nứa nhưng nhỏ và đặc nên vừa chắc vừa dẻo dai. Những cây duỗn này luồn qua các lỗ tròn đục trên thân cột của các vì kèo và được định vị liên kết bằng những cái chốt tre già. Những đận gió lào, trời nóng hầm hập và không khí khô nỏ. Đặt lưng xuống tấm phản, dù đã được lau trước bằng nước cho mát, mà vẫn thấy nóng đến rùng mình. Vào những cữ ấy, thỉnh thoảng lại xảy ra một vụ hoả hoạn. Mỗi lần như vậy, đi liền dăm sáu nhà là cái chắc. Người ta phải dùng câu liêm để kéo đổ cả những ngôi nhà chưa bị cháy để tạo ra khoảng trống, cách ly ngọn lửa đang rừng rực vô tình lan lần lượt sang các nhà tiếp theo. Để hạn chế cái hoạ ấy, thị xã đã có sáng kiến mỗi tối, vào khoảng chín giờ, mỗi phố lần lượt cử hai gia đình đi các nhà, vào tận bếp khám lửa. Nhà ai quá giờ đấy mà bếp đun vẫn chưa dội nước thì bị đưa ra phê bình ở khu phố.
                               Nơi nhà tôi ở là phố Vườn Hoa. Tôi rất thích cái tên ấy bởi nó vừa đẹp vừa nhã. Khu đất của phố tôi, nghe người lớn nói, hồi trước khi thực hiện tiêu thổ kháng chiến, vốn dĩ nó là một công viên, vì vậy, trong khi chưa được Uỷ ban hành chính đặt tên cho, người dân gọi thế cho tiện, rồi về sau cũng thành tên phố chính thức luôn. Mãi tít ở đầu xóm 3 cùng phố mới có một ngôi nhà hai tầng của hiệu kem An Hưng. Lúc ấy trông nó thật cao sang, đẹp đẽ biết chừng nào. Sau này, khi đã lớn, nhìn lại thấy nó bé đến tức cười. Đấy là ngôi nhà hai tầng duy nhất của thị xã lúc bấy giờ. Bọn trẻ kháo nhau rằng nhà ông An Hưng này là giàu lắm ! Năm thì mười hoạ, có được trong túi năm xu một hào, lũ trẻ chúng tôi kéo nhau đến hiệu kem "sang trọng" ấy, rụt rè đưa tiền ra, mua một vài cái kem que; thứ kem bình dân, que làm từ cây nứa ngâm, đôi khi vẫn còn cái mùi thum thủm, rồi kéo nhau ra vỉa hè, thằng cắn, đứa mút, đứa chưa đến lượt thì bồn chồn nôn nóng: "Cắn chi [1] mà to rứa [2], tau với !". Mấy năm sau, hiệu kem bị nhà nước đóng cửa. Người ta bảo ông An Hưng là tư sản. Ngôi nhà hai tầng cao sang đó liền biến thành cửa hàng bách hoá của nhà nước, còn gia đình ông thì dọn lên sống cả trên tầng hai. Thỉnh thoảng tôi có đến đấy để mua vài thếp giấy viết năm hào hai và tranh thủ ngắm nghía cho vợi bớt niềm mơ ước được sở hữu một hộp bút chì Hồng Hà với 12 vòng tròn đồng tâm được tô 12 màu khác nhau vẽ trên vỏ hộp. Về sau, một lần cậu Dụ, em thứ năm của mẹ tôi, nhân vào Sầm sơn tắm biển cùng mấy người bạn, khi quay trở lại Hà Nội, đưa cho tôi cái phong bì và dặn: "Khi nào cậu đi mới được mở". Tôi làm theo và nhận được mấy chữ viết vội trên giấy "Nhớ chăm chỉ học tập" cùng ba đồng bạc kẹp giữa tờ giấy. Tôi mừng quá, lần đầu tiên trong đời, tôi có được một số tiền lớn như thế, vừa đủ mua được hộp bút chì màu mà tôi vẫn hằng khát khao đó. Thế là tôi chạy ngay một mạch lên nhà ông An Hưng để hiện thực hoá ước mơ của mình.
                              Ngày tôi còn chưa đi học vỡ lòng, nhà tôi vẫn mở một cửa hiệu vàng bạc để sinh sống như ngày còn kháng chiến. Khách hàng của nhà tôi khá đông, trong đó có khá nhiều người nước ngoài. Mỗi khi có khách nước ngoài vào nhà, mẹ tôi thường gọi: "Con ơi, có mấy ông Liên Xô vào nhà đây này !". Mẹ gọi là để tôi ra xem. Lúc bấy giờ, đã sạch bóng thực dân, tất cả những người nước ngoài có nước da màu trắng đều được mẹ tôi gọi là Liên Xô tất; còn lại, trừ mấy người ấn Độ, thì đều gọi là Tây đen. Mẹ tôi thường đứng sau cái quầy kê giữa nhà, làm công việc giao dịch: mua, bán, nhận, giao hàng gia công với khách hàng. Việc gia công các thứ như nhẫn, dây chuyền, hoa tai, vòng cổ ... được bốn người thợ, ngồi sau bốn chiếc bàn kê thành một dãy sát tường bên phải, đảm nhiệm. Bố tôi thường ở nhà trong với tốp thợ cán vàng lá và gia công đồ "Mỹ ký". Đó là những cái găm con bướm cài cà vạt, bộ khuy măng sét, những chiếc gọng kính, những chiếc lược gài đầu ... được chế tác một cách tinh sảo, sau đó đem mạ vàng, trông rất đẹp và sang trọng. Lâu lâu, mua được vàng cám của những người đãi vàng hoặc những vàng kém tuổi của khách hàng, bố tôi lại làm công việc của người "phân kim", biến những loại vàng đó thành vàng cao tuổi (rất ít tạp chất), đạt tiêu chuẩn chất lượng giao dịch. Hồi dân Hòn Mê Ba Làng, Tĩnh Gia di dân vào Nam, nhà tôi lại càng đông khách. Những khi không đủ hàng bán, họ cũng cố chờ, kể cả phải ngủ lại qua đêm, thậm chí đông quá không đủ chỗ trong nhà, phải ngủ cả ngoài vườn nhà tôi. Tôi hỏi:
                              - Bố ơi, tại sao khách không sang hiệu khác mà mua, mà lại cứ phải mua của nhà mình, phải ngủ cả ngoài vườn khổ quá ?
                               Bố cười, nói với mẹ:
                              - Ôi, thì ra thằng bé cũng biết thương người ! - rồi xoa đầu tôi - Việc này, bố đã bảo khách, nhưng họ không nghe, cứ phải mua bằng được hàng của nhà mình cơ. Thôi, khách đã tin mình thì mình lại càng phải cố gắng để không phụ lòng người ta con ạ !
                              - Thế sao khách lại tin mình ? 
                              - Chả phải riêng cái nghề này, làm việc gì cũng thế, phải lấy cái tử tế lương thiện làm đầu. Người ta cũng như mình, phải lao động vất vả mới có được đồng tiền, nên hàng thế nào mình thì nói thế ấy, giá thị trường thế nào thì mình bán thế ấy. Cái nghề này rất dễ lừa khách (ngày ấy chưa có máy móc xác định hàm lượng vàng tinh vi như bây giờ. Việc định tuổi vàng chỉ dựa trên các quan sát trực quan thông qua độ bóng và màu sắc của phần bề mặt chi tiết bị chảy ra khi đưa đèn khò vào), vì vậy càng phải cố gắng, nhất định không được nghĩ đến chuyện lừa đảo, không được bắt chẹt khách những khi hàng hiếm. Có như vậy thì trong người mới thảnh thơi mà làm ăn sinh sống lâu dài được. Khách hàng tin và đến với nhà mình thì cả hai bên đều được lợi: khách thì yên tâm, thoải mái; còn nhà mình thì có thêm việc làm, thêm thu nhập.
                              Lúc bấy giờ bố tôi chỉ khoảng bốn mươi bốn mốt, người phương phi đẫy đà nhưng cân đối, nước da hồng sáng. Những lúc không ở trong xưởng, thường ăn mặc rất chỉnh. Mẹ tôi bảo bố mặc gì trông cũng đẹp và lịch sự. Tôi chỉ còn nhớ được, về mùa nực, mỗi khi có việc ra ngoài, ông thường mặc bộ đồ màu trắng may bằng thứ vải Toan voa dê dày dặn: quần soóc và cái áo có hai chiếc túi to phía dưới vạt;  Đầu đội mũ phớt, chân đi giày tây cũng trắng nốt. Chỉ có chiếc can là màu nâu. Các bà các cô đến nhà tôi mua hoặc đặt hàng, không hiểu sao, cứ hay đứng gần và cười đùa với ông, răng và mắt cứ thi nhau lấp lánh. Điều đó khiến tôi phiền lòng và chỉ mong sao cho họ chong chóng đi ra khỏi nhà và không bao giờ trở lại nữa. Nhưng thường không được toại nguyện.
                              Một lần, có một bác nào nào đó ở uỷ ban hành chính thị xã, khuôn mặt phúc hậu, đôi mắt sáng hiền vui, ăn mặc giản dị nhưng nom lịch sự như các thày cô có tuổi là giáo viên từ thời Pháp thuộc chuyển sang dạy chúng tôi, đến nhà nói chuyện với bố tôi khá lâu. Lúc ấy, tôi ngồi gần đó, đang loay hoay vót cái que tre cắm vào một hạt vải để làm con quay, nên nghe được lõm bõm câu chuyện. Bác ấy bảo từ ngày hoà bình lập lại, thị xã ta vẫn chưa có rạp chiếu bóng, rạp hát ... các sinh hoạt văn hoá của nhân dân bị hạn chế và rất nghèo nàn. Mới ra khỏi chiến tranh, nhà nước vẫn còn nghèo, chưa lo được việc này. Rồi bác ấy thuyết phục, vận động ông đứng ra lo dựng lên cái rạp chiếu bóng. Vốn là người hoạt bát, thích các hoạt động xã hội nên cuối cùng bố tôi đã vui vẻ nhận lời. Thế là ông bắt đầu đi vận động tiếp các bạn bè, người quen, cùng góp cổ phần để thực hiện cái công trình ấy.
                              Thời gian sau, bên một cái hồ nhỏ mà người dân vẫn quen gọi là hồ Máy Đèn, một rạp chiếu bóng đã sừng sững mọc lên, phía trên cùng là hai chữ Hoà Bình đắp nổi chân phương, tên của rạp. Nhà tôi chỉ cách rạp chưa đầy ba trăm mét. Từ đấy thành lệ, cứ chiều chiều, khoảng từ năm giờ trở đi, hai chiếc loa nén của rạp bắt đầu phát ra những bài hát, đại loại như Nắng Ba Đình, Gái thôn Đoài ... và một bài, tôi không biết tên là gì, nhưng có câu: "Đời mới ai ơi, đời mới tuổi thanh xuân như máu đang căng như nhựa sống dâng trào ...". Cuộc sống như được truyền thêm sinh khí. Không khí một vùng quanh đấy trở nên phơi phới, náo nhiệt hẳn lên: Người đi thả bộ hóng mát, kẻ đi xem phim cùng hớn hở, dắt díu, len lỏi giữa những cái xe bán nước mía, sô đa, giữa những gánh hàng rong bán hoa quả, thuốc lá, kẹo, ô mai ... Thuở ấy, trong cái đám quà bánh bán trước cửa rạp, tôi thích nhất là món chè lam Phủ Quảng cứng ngắc, thơm dịu và ngọt phao phảo, thứ nhì là loại bánh đậu thơm bùi màu vàng nhạt, được nén chắc thành hình vuông hoặc tròn, trên bề mặt có một chữ gì đó, giống chữ thọ viết theo khối tròn thường thấy trên áo dài của các cụ ông.
                              Bố tôi đề nghị dành hẳn ra một hàng ghế tốt nhất trên gác, cấp cho mỗi cổ đông một tấm vé đặc biệt để họ có thể đi xem miễn phí tuỳ thích. Lúc bấy giờ, cầm tấm vé bằng bìa cứng màu hồng trong tay, tôi vui mừng khôn xiết, chẳng thiết ăn uống gì, chỉ ngóng cho mau tối để được đến rạp xem phim. Mỗi bộ phim thường được chiếu từ bốn ngày cho tới một tuần. Khách vào xem phim bao giờ cũng được phát mỗi người một tờ giấy in ti pô giới thiệu các thông tin cơ bản về tác phẩm và tác giả. Tôi rất thích những tờ giấy đó bởi dùng để gấp máy bay thì rất nhẹ và vừa cỡ. Cũng có phim tôi xem đến ba bốn lượt rồi quay ra ngủ lăn lóc trên ghế, đến nỗi có lần, bác soát vé phải đánh thức tôi dậy để về nhà. Tỉnh dậy thấy khách đã về hết, rạp thì mênh mông vắng ngắt, tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng ngượng ngịu, bỏ chạy một mạch về nhà, xấu hổ, hàng tuần liền không dám mò đến rạp.
                              Cùng thời gian người ta bảo ông An Hưng là tư sản, bố tôi và các cổ đông cũng được gọi đi học tập cải tạo. Học tập những gì thì tôi không rõ, chỉ thấy hôm nào về đến nhà, ông cũng thở dài và mặt buồn rười rượi. Mẹ bảo: "Mình phải đến uỷ ban hành chính thị xã tìm lại nhà cái bác ngày ấy đến nhà mình vận động xây rạp thì người ta mới rõ là mình làm theo kêu gọi của nhà nước chứ !". Bố buồn bã lắc đầu: "Tôi đã tìm rồi, người ta bảo bác ấy là người tư tưởng lạc hậu, có vấn đề, không được làm nữa, bây giờ chuyển đi tỉnh nào sinh sống cũng không biết nữa". Cửa hàng của nhà tôi bị đóng cửa, rạp chiếu bóng cũng không được hoạt động. Bố tôi không mặc bộ đồ trắng nữa, cả nhà tôi chuyển sang mặc quần áo ta màu gụ, đi dép cao su bốn quai. Không hiểu sao, một thời gian sau, người ta ập đến khám nhà, quát sẵng và, trừ ngôi nhà đang sống và những đồ dùng thiết yếu, mang đi toàn bộ dụng cụ, đồ làm cùng toàn bộ tài sản đáng giá của gia đình. Tiếc nhất là cái máy cán, là thứ tôi vẫn dùng để cán nắp chai bia cho phẳng ra để đánh đáo. Còn mẹ tôi cứ như ngẩn ngơ vì bỗng chốc bị mất hết tất cả thành quả trong lao động, dè sẻn, tích cóp được trong mấy chục năm trời đằng đẵng. Thời gian ấy, bố tôi trở nên lặng lẽ, ít nói, ít cười, tóc gần như bạc trắng. Bố bảo mẹ:
                              - Nhà còn ít vốn gửi ông, mình ra Hà Nội lấy rồi đem vào nộp cho xong đi !
                              - Nhưng có ai biết mà phải khai ra !
                              - Mình có muốn người ta đưa tôi đi Sơn La Tây Bắc rừng thiêng nước độc không ?! Khi không còn gì nữa, người ta muốn nghĩ gì thì nghĩ, còn tôi thì thấy thanh thản, chẳng còn gì phải giấu diếm cả.
                              - Trời ơi, nhà mình là người làm ăn tử tế, có làm điều gì thất đức đâu mà phải đến nông nỗi này ! - Mẹ kêu lên, nghe mà ruột gan tôi cứ thắt cả lại.
                                Trừ các bác thợ có tuổi như bác Dậu, bác Cược và chú Hoàng kế toán, mấy chú thợ làm cho nhà từ trước, còn bè bạn, những người quen, kể cả nhà bác Vĩnh Tiến được bố tôi giúp vốn giúp thợ mở cửa hàng vàng, thoát khỏi cảnh mùa đông chỉ đắp có manh chiếu lạnh, không thấy ai lai vãng đến nhà tôi nữa. Bố mẹ tôi lại càng buồn nhưng lại quý các bác thợ hơn bao giờ hết. Các bác các chú ấy, hôm người này, lúc người khác, thường hay đến nhà tôi vào buổi tối, khi thì đem đến cho một quả mít, lúc thì mang cho nồi cá trích kho, cũng có bác còn mang cho tôi cả mấy thếp giấy viết nữa ... rồi ngồi lặng lẽ bên cái bàn kê giữa nhà, uống nước, hút thuốc lào và thở dài cho đến khuya. Còn mẹ tôi thì cứ rơm rớm nước mắt mỗi khi như vậy. ở trường học, bọn trẻ cùng lớp dường như cũng xa lánh tôi; cái nhìn của chúng đối với tôi có cái gì đấy như nghi kỵ, thái độ của chúng đối với tôi có cái gì đấy như phải cảnh giác trước một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Giờ ra chơi, tôi thường chơi lủi thủi một mình bên dãy hàng rào găng ngoài cổng trường. Khi tan học, về nhà, ngoài cái Thông con ông Phúc Thịnh, thằng Thọ con ông Phở Đắc ở cùng phố và thằng Phúc con ông Tài Ban ở phố bên, tôi không còn đứa nào thân thiết nữa. Sau này, khi đã lớn hơn và qua các chi tiết chắp nhặt đây đó, tôi biết được thái độ của bọn trẻ cùng lớp ngày ấy là có thật và nguyên nhân là do bố mẹ chúng ngăn cấm, sợ ảnh hưởng xấu về chính trị. Nhưng thật lạ: biết là thế, nhưng trong lòng tôi lúc ấy không hề thấy có một thứ tình cảm xấu nào, dù chỉ là na ná như sự thù hận.
                              Một hôm, buổi trưa, bố tôi vui vẻ trở về, ào vào nhà, nụ cười sáng rỡ trở lại trên môi, làm ấm lại căn nhà lâu nay đã trở nên lặng lẽ, lạnh ngắt và buồn thảm. Mẹ tôi cũng vui hẳn lên, hỏi: "Hôm nay bố thằng bé có gì vui thế ?". Ông hồ hởi, phấn khởi tuyên bố: "Từ nay mình được là giai cấp công nhân rồi, cán bộ cải tạo đã gọi tôi là đồng chí ! Tôi và hai cổ đông nữa được trên cho làm công nhân ở rạp Hoà Bình !". Từ đấy, bố tôi trở thành người bán vé chính thức của rạp chiếu bóng. Còn mẹ tôi trở thành xã viên của hợp tác xã thủ công nghiệp Sao Đỏ. Do là con gái Nhị Khê, tỉnh Hà Đông cũ, từ bé đã có nghề tiện gỗ trong tay nên được hợp tác cho làm thợ tiện. Cuộc sống gia đình đã ổn định trở lại.
                              Trước đấy khoảng hai năm, mẹ tôi mắc bệnh tim, phải nằm ở bệnh viện Phủ Doãn. Đến khi lên bàn mổ, người ta thấy mạch vẫn còn nhanh quá, nên hoãn mổ. Sau đó, phần vì sợ, phần vì sốt ruột, bà quyết định không mổ nữa. Ông Tôn Thất Tùng, bác sỹ nổi tiếng của khoa tim mạch, thuở ấy còn đang trẻ, bảo: "Chị mà không mổ, chỉ sáu tháng nữa là chết !". "Chết cũng được, xin cho tôi về với con tôi !" - Bà trả lời và dứt khoát rời khỏi viện trước sự ái ngại của nhà danh y.
                              Có một hôm đi học về sớm, không có chìa khoá vào nhà, tôi phải lên hợp tác xã tìm mẹ. Lúc đến xưởng tiện, thấy mẹ đang ngồi đánh vật với cái phôi tang trống gõ gá trên ụ quay của cái bàn tiện dọc: Hai chân ì ạch đạp máy, ngực bên phải tỳ vào cái vồ (vừa là cái vồ để lắp phôi, vừa là dụng cụ để tỳ người, tỳ dao tiện khi làm việc) hai tay đang ghì lấy mũi soi mà khoét  sâu vào lòng cái phôi gỗ có đường kính đến hơn hai mươi phân ấy, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tôi suýt bật khóc oà lên. Hình ảnh người mẹ nhỏ bé, yếu ớt, bị bệnh tim vật lộn kiếm tiền nuôi tôi ăn học lúc ấy, sau này vẫn còn đọng mãi, không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi. Từ đấy, ngoài tiền học phí và giấy bút, tôi không bao giờ xin tiền ăn kem hoặc để tiêu cho những thứ vớ vẩn như trước nữa. Mà nghĩ cũng thấy lạ, con người ta càng vất vả càng chứng tỏ được sự ngoan cường của mình. Mẹ tôi cứ loẻo khoẻo vậy thôi, nhưng rất bền bỉ dẻo dai và từ đó không còn thấy ốm nặng nữa. Đúng như người đời vẫn nói: Ông Trời cũng có mắt, không bao giờ cho ai tất cả nhưng cũng không bao giờ lấy của ai đi tất cả !
                              Lúc ấy, mọi thứ vật dụng, thực phẩm đều phải mua bằng tem phiếu, nhà nước định lượng cho mỗi người theo từng tháng, từng năm. Vì vậy, thực phẩm trở nên khan hiếm và không được tươi ngon như trước nữa. Có những hôm, thương hai bố con kham khổ lâu ngày, mẹ tôi bèn cho ăn món thịt luộc. Trong bữa ăn, hai bố mẹ, người nào cũng chỉ ăn quấy ăn quá và bảo là đã ngấy lắm, rồi người nọ gắp nhường cho người kia, và cuối cùng, tôi luôn là kẻ vô phúc đắc lợi. Khó khăn, thiếu thốn cũng có cái hay của nó, vì chỉ khi ấy, cái tình của con người mới được vô tình bộc lộ, cảm động mà ấm áp biết bao. Sau này, khi học đại học, tôi được xem một bộ phim tài liệu - bây giờ không còn nhớ được tên của nó nữa - nói về cuộc sống, tình cảm của bộ đội và người dân vùng Vĩnh Linh khói lửa trong những năm thuộc nửa cuối của thập kỷ sáu mươi: Bom đạn, hiểm nguy, cực nhọc, chết chóc, yêu thương, sinh nở, nuôi nấng, niềm vui, nỗi buồn, nhường nhịn, san sẻ ... tôi cũng gặp lại cảm giác ấm áp, nồng hậu, tươi thắm tình người đó. Cho đến cái tuổi ngoài năm mươi, tôi vẫn thầm biết ơn những người đã làm ra bộ phim đó và vẫn không ngừng thắc mắc rằng tại sao, cho đến bây giờ, không thấy chiếu lại và cũng không thấy ai nhắc nhở gì đến những bộ phim như thế nữa. Sự thật, dù chỉ nhỏ nhoi như một mầm sống, luôn có sức thuyết phục hơn cả một trời khẩu hiệu !
                              Với tôi, có những câu chỉ nghe bố nói một lần, mà cứ nhớ mãi. Một lần, vào một buổi chiều mùa hè nắng nóng, hai bố con đang đứng trước cửa nhà, thấy mấy người công nhân đang dùng cuốc chim sửa mặt đường, tôi bảo: "Họ khổ bố nhỉ ?". Bố quay sang tôi, vẻ không bằng lòng: "Lần sau con đừng dùng chữ "họ" như thế nữa; nghe nó xa cách mà có vẻ như là đặt mình lên cao hơn người khác mà nhận xét. Theo bố thì nên nói là "các bác ấy", như thế thì mới phải đạo mà lại có tình !". Một lần nữa, hồi ấy tôi đang học lớp bốn, trong lúc đưa tôi đi thăm một người bạn của gia đình, bố bảo tôi: "Trong lớp, các thầy giáo đã mất công giảng giải thì con phải tập trung mà nghe. Một là không phụ cái công của người thày, hai là không bỏ sót kiến thức. Ngày xưa, có những người học một biết mười, bây giờ bố mong con học một biết một rồi sau đó tiến lên biết ba bốn". Sau đấy, tôi cố gắng thực hiện, nhưng cũng chỉ dừng ở mức học một biết một là khá lắm rồi và không thể hiểu được tại sao người ta chỉ học có một mà lại có thể biết gấp mười cái mà thày dạy cho. Khi lên lớp bảy, do phải thi chuyển cấp, tôi lo lắng tìm tất cả những đề thi của những năm trước để làm, thử sức mình xem được đến đâu. Trong quá trình đó, tôi mới gặp những vướng mắc, những điều mà thầy không thể nói hết trong chương trình. Cứ sau mỗi lần âm ỉ, vật vã suy nghĩ mà tìm ra được cách làm, so sánh với đáp số đã cho thấy khớp là tôi sướng đến phát điên lên. Sau này, theo cái đà ấy, khi đã được vào cấp ba, tôi thử "học trước" xem sao. Ví dụ như môn toán, tôi thường xem trước phần lý thuyết, sau đó giải hết các bài tập cho phía dưới. Khi đến lớp, học đến chương ấy, tôi chỉ việc ngồi nghe giảng lại và đối chiếu lời giải của thày với bài giải của mình. Những chỗ làm sai thường sau đó không quên nữa. Khi đã vào tuổi thanh niên, một lần, tôi đòi bố dạy cách thắt cà vạt. Bố nghiêm nét mặt, thoáng chút lo lắng: "Cái đó thời này không thích hợp, học làm gì ?!". Sau này, tôi thường nghĩ lại và không thể không thán phục và thầm biết ơn bố về những chỉ bảo, gợi ý của người.
                              Chưa bao giờ tôi nghe bố nói về Phật về Chúa, nhưng mỗi khi được ăn miếng ngon, bố lại thẫn thờ: "Giá mà ông bà nội còn sống nhỉ !". Thấy một bà, trông hom hem vất vả, không hề quen biết - trạc tuổi hơn mẹ tôi một chút - ngồi gục trước cửa, ông ra hỏi han và đưa vào nhà giã nước gừng cho uống. Khi thấy đỡ thì lấy xe đạp, đạp mấy chục cây số chở bà về tận nhà. Thỉnh thoảng, nhà có thứ gì ngon ngon, bố lại bảo tôi: "Đem sang cho anh em thằng Hùng cùng ăn !". Hùng là đứa thường chơi với tôi dạo ấy, con nhà bác Mậu Thịnh, ngày trước cũng mở hiệu vàng, bác trai lúc ấy đã mất, bác gái làm ở hợp tác xã cơ khí Hợp Tiến, ở vậy nuôi ba anh em nên cũng vất vả, thiếu thốn. Một lần, lúc ấy đang là kỳ nghỉ hè, hứng chí lên, tôi rủ lũ trẻ cùng chơi: "Về nhà tao làm thịt gà !". Cả bọn vô cùng khoái chí, cười tít cả mắt rồi lập tức kéo về nhà tôi. Giữa lúc thằng Hùng "Rê-néc-béc-ga-mốt" (Đầu nó giống hình quả lê có cái tên đó, được in trong sách giáo khoa thời đó) đang loay hoay cắt tiết gà, thằng Tuấn "mè" đang lúi húi đánh vật với cái bếp mùn cưa, thằng Tỉnh "già" thì đang hăm hở trộn bột mỳ với nước để làm bánh rán, mặt mũi lem nhem bột trắng với nhọ nồi ... tất cả đang lăng xăng bận rộn thì ... bố tôi về ! Cả bọn mặt mũi tái xanh tái xám. "Vui quá nhỉ. Nhớ để phần bác cái phao câu nhé !". Bố cười, nói và vào buồng lấy cái xe đạp dắt ra cửa. Trước khi đi ông còn vẫy tôi và thằng Hùng lại dặn: "Cẩn thận củi lửa kẻo hoả hoạn. Lòng gà nhớ phải xát muối lúc rửa !". Thấy vậy, thằng Cu trọc, mặt vẫn chưa hết tái, thì thào nhận xét: "Bố thằng ni [3] dễ tính thật đấy, nếu ở nhà tao thì cứ gọi là đi đời rồi ! Thằng ni sướng thật !". Buổi chiều, mẹ đi làm về, lấy ngô cho gà ăn thì không thấy gà đâu nữa. Bố thấy thế, cười bảo: "Chúng nó làm thịt ăn rồi !". "Chết thật ! - mẹ tôi lo lắng - có biết đường làm không, hay lại ăn sống ăn xít. Đến ngay nhà chúng nó hỏi xem có đứa nào bị đau bụng đau bão gì không !". Khi tôi trở về nói là không có đứa nào bị làm sao cả thì bà mới thở phào: "Lần sau nếu các con muốn ăn thì bảo mẹ làm cho. May mà không đứa nào làm sao. Bố anh ! - mẹ lấy ngón tay dúi nhẹ vào trán tôi - nếu có đứa nào bị làm sao thì tôi cứ bảo cho !".
                              Ngày ấy không đun nấu bằng dầu hoả hay bằng ga như bây giờ. Các nhà thường xuống nhà máy cưa Mật Sơn mua mùn cưa ở phân xưởng xẻ và những đầu thừa đuôi thẹo của phân xưởng đóng đồ mộc thải ra đem về đun thay củi. Có cả bìa bắp nữa, nhưng chẳng ai mua; vì để làm củi được, còn phải cắt ngắn và bổ nhỏ ra, rất mất công và rất phiền phức. Nhìn đống bìa bắp chất đống ngồn ngộn, theo thời gian mục dần thành đất, bố tôi thấy xót ruột và không đành lòng bỏ đi. Bố quay lại, tìm ông giám đốc nhà máy góp ý rằng nên tìm cách gì đấy, xẻ gỗ cho tiết kiệm hơn. Ông giám đốc cười nhạt, nhìn bố tôi như một nhìn một kẻ ngớ ngẩn, trả lời: "Nhà nước làm ăn lớn, đàng hoàng, chứ đâu lại đi để tâm vào mấy cái chuyện lặt vặt !", rồi hai tay chắp sau lưng, lững thững quay vào phòng làm việc, bỏ mặc cái người ngớ ngẩn, là bố tôi, đứng ngây người ra ở trước cửa căn phòng phía trên có đề hai chữ Giám Đốc to khụ. Thời gian sau, thấy mức sống trong nhà khá hẳn lên, tôi ngạc nhiên hỏi mẹ. Mẹ cười, bảo:
                              - Thì mẹ vẫn bảo với con là bố nhà mình kiếm tiền giỏi mà !
                              - Thế bây giờ bố lại kiếm giỏi hả mẹ ?
                              - Bố mua bìa bắp ở Nhà máy cưa, đem đi thuê thợ xẻ lại những cái bìa còn dày, rồi lấy gỗ đem đóng thành bàn tủ để bán cho người cần dùng. Tốt không kém đồ của nhà nước đóng mà lại rẻ, lại có phần đẹp hơn, kỹ hơn. Người cần là mua được ngay, không cần phải làm các thủ tục xin tiêu chuẩn phân phối, phiền phức mới lại khó khăn lắm.
                              Lâu lâu sau đó, nhà chức trách phát hiện ra và tìm đến làm việc. Bố tôi trình ra đầy đủ các hoá đơn mua củi bìa bắp của nhà máy và giải thích rằng do bìa bắp to và dày quá, người dân không ai chịu mua, nhà nước lại không dùng, để mục rất lãng phí, lại làm chật bãi tập kết gỗ tròn của nhà máy, nên ông mua về tận dụng đóng đồ cho đỡ phí phạm;  rằng có phải bỗng chốc mà rừng cho ta được ngay một cây gỗ đường kính trên dưới một mét ?!  Không thể hợp lý hơn ! Vì vậy nhà chức trách không thể bắt bẻ được gì. Nhưng vẫn bắt đóng cửa vì đấy là "phương thức làm ăn cá thể", bị nghiêm cấm về nguyên tắc; Thu nhập cao cho riêng mình như vậy là tự mình tách rời khỏi cộng đồng, tập thể; Lập trường tư tưởng có vấn đề, cần phải được giáo dục (!).
                              Bây giờ, đến thời đổi mới, những người làm như kiểu của bố đều được tặng danh hiệu Năng động, tiết kiệm nguồn nguyên liệu tự nhiên, tự cứu mình và tìm việc làm cho người khác ! Tuyệt đối, từ trẻ nhỏ đến người già, không ai nghi ngờ về tính cao quý của danh hiệu đó !  éo le vốn là tính của đời sống. Vậy, thật khó mà nói trước được điều gì. Hôm qua nấm Lim vẫn còn là một thứ nấm độc, tuyệt đối không dùng thì hôm nay đã là Linh chi đặc dược, rất bổ dưỡng và ngừa được nhiều ác bệnh cho người đời ! Điều đó đã được một số viện nghiên cứu khoa học và những nhà công nghệ dược học bổ sung kịp thời vào kho tàng tri thức chung để mọi người cùng biết và - sẽ mãi mãi, cả những thế hệ sau này - không phải nhùng nhằng bàn cãi, nổi sung, nổi đoá, đôi khi còn làm tổn thương đến cả tình đồng bào nữa. Thì giờ và công sức quý báu dành để làm những việc hiền lành và thiết thực khác: cho mình và cho nhau.
                               
                               
                              Tháng 06 năm 2005
                              [1]
                              [2] thế
                              [3]  này
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 27 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9