MÁ - Truyện ngắn
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 27 trên tổng số 27 bài trong đề mục
Nghiêm Lương Thành 28.11.2007 15:26:56 (permalink)
Nghiêm Lương Thành

KHEN CHÊ  
Khen và chê là hai vị, tuy là trái ngược nhau, nhưng tuyệt đối không thể thiếu được trong bữa tiệc cuộc đời. Với trẻ nhỏ: Khen là vị ngọt luôn mới mẻ của kẹo, còn chê là cảm giác chán ngắt khi ngày ngày đến trường cứ bị hàng chữ màu vàng khổ lớn trên nền đỏ "Thi đua lập thành tích chào mừng ngày ……" cứ nhơn nhơn dội thẳng vào cặp mắt đen láy vốn đang thèm ngủ vì luôn phải thức khuya để làm cho hết bài. Do lời khen, có những đứa đang học giỏi có thể trở thành bình thường, có những đứa đang học bình thường lại trở nên suất xắc. Đối với những đứa trẻ có cá tính, lời chê nhiều khi có tác dụng như một liều thuốc bổ; số còn lại, cũng tựa như bánh đa gặp nước, nếu không có ai đó kịp thời đem phơi thì cũng chỉ còn cách cho vào nồi nấu lên mà ăn cho khỏi hoài của. Người lớn cũng chả khác gì.
Khen tức là hài lòng. Chê thì ngược lại. Nhưng cái nguồn cơn làm cho ta hài lòng hoặc không vừa ý lại là chuyện khác; Đây là chuyện tâm tính, chuyện tư chất và thậm chí là quan niệm về đạo đức của từng cá nhân, hoàn toàn thuộc về cõi tâm tư sâu kín và không nên can thiệp. Bởi vậy, đối với cùng một sự việc, đôi khi, cái sự khen chê cũng khó thống nhất lắm và nảy lửa là điều khó có thể tránh khỏi nếu cả hai phía đều tỏ ra kiên định. Mà lửa thì biết rồi đấy, là thứ mà - Ngay từ thời trước công nguyên và khắp thế giới - các nhà trường ca đã luôn lấy nó ra để diễn tả các cảnh chiến tranh hùng tráng và tàn khốc, đó đây ngổn ngang thây xác của những kẻ vốn chỉ thích sống phong lưu vui vẻ và ch ưa bao giờ sáng kiến ra chiến tranh.
Bọn thò lò mũi xanh, quần đùi trễ rốn, thấy thích thì khen liền, thấy không khoái thì chê bai ngay tắp lự, không thương tiếc; Và lát sau, đã thấy chúng đang chụm đầu vào mà bắn bi mà cười như nắc nẻ với nhau. Chúng ta, những người lớn, đâu có nhẹ dạ, khinh suất như chúng, cái loại vắt mũi chưa sạch và đang còn phải ăn cơm của bố mẹ.
Khen ư ? Để xem đã: Nếu hắn là thuộc cấp và thường làm ta hài lòng, làm ta đẹp mặt, làm ta vẻ vang thì khen quá đi chớ ! Nhưng phải luôn nhớ một nguyên tắc: Không được để thiên hạ hiểu là hắn có năng lực hơn ta và nhất là không được lơi là cảnh giác, bởi cái hạng này vốn ranh, hoạt, nhão nhoét và hăng hái như thứ dây bìm bìm. Còn những đứa bình thường khác, thậm chí cứ sống, cứ hành xử theo cái lối lưng thẳng đuồn đuỗn thì còn phải xem; nếu có khen thì chỉ nên khen khi hắn làm được việc (để hắn tiếp tục được việc cho ta), mà cũng chỉ khen tay đôi, khen khe khẽ trong phòng kín thôi. Nhưng nếu đó là cấp trên thì ... vô tư đi, lời nói đâu có phải bỏ "đồng tiền liền khúc ruột" ra mua, có điều câu chữ phải thể hiện được sự kính cẩn, trung thành và hình thức thể hiện phải hợp với khẩu vị của đối tượng. Trong bàn tiệc cuộc đời, khen tặng là món ăn được cả đại chúng lẫn tiểu chúng ưa thích nhất. Nhưng phải đặc biệt thận trọng với những bố cấp trên sáng dạ; Hạng này quyết không thể khen ẩu; khen ẩu là tự sát; bao công lao phấn đấu, tiến bộ có thể phút chốc tan phèo ra mây khói. Cũng may là hạng này không nhiều. Với loại thực khách chẳng mấy dư dật và rất sành ăn này, gần thì chẳng có lợi lộc gì mà không chừng còn mang họa vào thân; Tốt nhất là lấy câu "Kính chi viễn nhi" làm kim chỉ nam, là tránh, tránh càng xa càng an toàn, càng tốt đẹp.
Dùng lời khen cũng có thể sơ trắc được tư chất, tâm tính của người ta. Khi nhận được lời khen: Kẻ ngu đần chỉ cười nhạt, nhưng cứ khen mãi thì lâu dần hắn cũng thấy đúng và sau đó còn thành thật tin là như thế. Người khiêm nhường thoạt nghe thì lấy làm xấu hổ, bèn xua tay cuống quít, bảo đừng nói nữa. Kẻ thông minh thì lập tức kín đáo thu nhỏ tròng mắt, thận trọng dương vây cảnh giác, xem có chuyện gì đây. Gã hợm hĩnh thì cười hô hố, lấy làm tâm đắc và trong bụng thầm khen kẻ tri âm bất đắc dĩ: Chỉ được cái nói đúng !
Lời khen có lẽ là thứ xa xỉ nhất trần đời. Trong lĩnh vực hỷ xả, chúng ta vốn là những kẻ luôn túng bấn; mà đã túng bấn thì thường rất kiệm và rất không ưa sự xa xỉ. ấy thế mà không hiểu tại sao, đối với những kẻ ta không hề quen biết, thậm chí còn chưa biết cả mặt ngang mũi dọc thế nào, chỉ do thấy thiên hạ nói đến nhiều quá, khen nhiều quá, ta bỗng quên phắt mất cái đức thường kiệm của mình, hào phóng vung vãi không tiếc những lời khen tặng, tán tụng, và trong những thời khắc thăng hoa, sự ngợi ca đã vút lên đến đỉnh cao sùng bái. Sùng bái đến thành thực. Phép tự kỷ ám thị của trường phái Yôga ấn độ cũng chỉ mầu nhiệm đến thế là cùng; Bằng chứng là ở trên đỉnh cao ấy, ta đâm ra lãng mạn: Người thường thì sao xuyến bồi hồi, kẻ nghệ sỹ thì bèn lấy vần điệu hoặc nốt nhạc lắp ráp vào, chắp cánh cho những lời ngợi ca để chúng có thêm công năng bay bổng. Cho đến một ngày nào đấy, một sự kiện xảy ra và cho thấy rằng không phải như thế thì thiên hạ bỗng ngẩn mặt và im bặt, các nhà vần điệu và các nhà nốt nhạc kia thì bỗng tẽn tò, nghiêng mặt, vặn vẹo đôi bàn tay, làm các khớp xương của chúng kêu răng rắc và lảng đi, không bao giờ muốn ai nhắc lại những thành tựu xuất thần của những cảm xúc nhẹ dạ nhất thời ấy nữa. Không biết ai đã nghĩ ra chữ "a dua", nghe âm điệu thì có vẻ như không phải tiếng Việt, nhưng quả là nghiệt ngã, chua chát quá thể !
Còn chê ư ? Vẫn biết là không nên chê người, nhưng quái lạ: những điều như thế không hiểu sao lúc nào cũng có sẵn và luôn đầy ắp trong đầu ta. Lắm lúc, có chủ định trước gì đâu, thế mà cái lời chê không hiểu sao cứ trôi tuồn tuột ra khỏi miệng. Mà những lúc chúng trôi ra ấy, ta cũng thấy khoái đáo để. Đã có một số ý kiến cho rằng nên bổ sung hành vi này vào bộ "Tứ khoái" của dân gian. Việc nâng cấp từ "Tứ khoái" lên "Ngũ khoái" cho đến giờ vẫn còn nhùng nhằng, chưa ngã ngũ vì vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược, chưa thể dung hoà được. Nhưng cái sự khen chê cũng phải có định hướng và chọn lọc, quyết không thể lúc nào cũng hồn nhiên được. Cũng may, sự định hướng chọn lọc này lại luôn có sẵn trong ta như một thứ bản năng. Thì đây: Riêng đối với những kẻ có thể có ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ căng túi tiền và sự tiến bộ của ta thì ta luôn có một phản xạ điều tiết nhậy cảm và chính xác đến thần tình. Các Bố già thuộc các băng đảng xã hội đen là những kẻ hiểu rất sâu sắc và vận dụng rất thành công đặc điểm này trong việc làm cho các đàn em, không còn cách nào khác, buộc phải nhất tề tôn sùng mình như bậc thánh và loại bỏ không thương tiếc các đối thủ có ý kiến bất đồng trong nội bộ.
Khi được cất nhắc lên ghế trưởng phòng hoặc giám đốc một cái gì đó thì đấy là do năng lực, tài cán của ta; còn người khác, dù có ngồi vào ghế vụ trưởng, thứ trưởng thì cũng thường thôi, có gì đáng nói, chẳng qua hắn chỉ ăn may thôi: "Được thời, đồ điếu thành công lạ" ! Khi ta có sẵn tiền trong túi thì điều đó cũng có nghĩa là do tài ba năng động, còn đối với kẻ khác thì ... có nhiều vấn đề lắm ! Nhưng nếu ta chung thân là thường dân hay từ ghế giám đốc rớt bệt xuống hàng thường dân hoặc phó thường dân, thậm chí phó thường dân dự khuyết, thậm chí không còn quyền thường dân; Hoặc giả, đang xông-xênh-xang bỗng trở nên túng bấn so dụi thì điều đó có nghĩa là do diễn biến của số phận: "vận khứ, anh hùng ẩm hận đa" mà ! Phàm những gì thuộc về ta thì đều là tốt đẹp, là kỳ tích, thuộc về người thì ... có đáng gì !
Cái sự khen chê cũng có lắm màu, nhiều vẻ. Kẻ sảo quyệt thì dùng nó như một thứ công cụ tiến thủ: Khen để dọn dư luận, dễ bề gây dựng vây cánh; cũng có khi khen là để tạo nền đẹp, chuẩn bị đập chết ăn thịt kẻ làm gai mắt mình mà không bị người đời xăm soi nghị luận. Loại này lại ít khi dùng lời chê, nhưng đã dùng thì thường để chốt hạ loại bỏ đối thủ, để lấy đi sự kính trọng tin cậy của bà con cộng đồng với một người bình dị, trong sáng và tri thức đầy mình. Người phúc đức thì dùng lời khen để khích lệ, ngợi ca người tốt, việc tốt; dùng sự chê cười để hạn chế việc xấu, người chưa tốt; thậm chí còn làm cho lòng tự ái bị trọng thương để rồi giúp nhau nên người. Đấy là trường hợp kinh điển của cặp Dương Lễ - Lưu Bình.
Nhưng thích được khen, ghét bị chê đâu phải là lỗi; nếu buộc phải nói là lỗi thì đấy là lỗi của ông Xanh, tác giả thiết kế ra chúng ta ! Vẫn biết có câu "Hữu xạ tự nhiên hương" nhưng cái chặng từ "vô xạ" đến "hữu xạ" nó dài lắm, công phu lắm, lao lực lắm. Tránh cái nhọc, tìm cái nhàn vốn là "lương năng" của chúng ta. Vậy, không ai khen ta thì ta tự khen lấy; Đấy là cách được ta ưa dùng nhất, vì chỉ mất công nói chứ không khó nhọc. Người đời hay nói: Tính tôi bộc trực, tôi là người thẳng thắn, chân thật ... chứ có thấy ai khoe rằng tôi là người uốn éo, trí trá bao giờ ? Với bản thân thì ta muông chiều, vuốt ve, dù lúc vô tình hay khi hữu ý, cũng đều phát ngôn hoặc hành động ra những điều tự tác đề cao. Với người thì giữ rịt lời khen trong bụng mình như sợ mất tiền, mặc dù khi mở ví trao tiền "bo" cho đào chơi, chưa thấy ai chê ai là kẹt xỉn bao giờ, cũng hào phóng như khi mở miệng nói lời chê vậy. Thế mới biết cái tôi và cái đức tự sủng ái lớn lao và đại chúng biết chừng nào ! Nhưng, thiết tưởng, cũng cần phân biệt chữ tôi ở đây với chữ Tôi của một phẩm chất độc lập, ngay ngắn, tự tin, sáng tạo và vị nhân. Theo nghĩa của chữ Tôi thứ hai này, khi làm cải cách về tiền tệ, thuế khoá và giáo dục, Hồ Quý Ly đã có cái Tôi như thế. Lương Thế Vinh cũng đã viết Đại thành toán pháp và Hý phường phả lục một cách rất Tôi, trong khi vua Lê Thánh Tôn chí kính chỉ coi trọng văn thơ bác học chứ không đánh giá cao toán pháp - dù là cũng bác học - và dòng âm nhạc dân gian.
Các nhà nước cũng dùng khen chê để bổ sung vào hệ thống công cụ trị dân của họ. Lịch sử còn ghi lại: Thời vua sáng, dương thịnh âm suy, kẻ sỹ ngay thẳng đua nhau thi thố tài kinh bang ích nước lợi dân, kẻ ác hiểm thân mềm chui lủi như rắn mồng năm, thiên hạ thái bình thịnh trị: khen nhiều mà chê ít. Thời vua tối, âm cường dương nhược, kẻ sáng láng chuyển sang cày ruộng, làm thơ, kẻ thiểu trí thân mềm đua nhau tìm kẽ chui vào chốn quan trường, bóp nặn dân lành, vơ vét công khố,  nhiễu nhương thiên hạ: chê nhiều mà khen ít. Sự khen chê của nhà nước thể hiện ra ở chỗ tưởng thưởng và nhà tù. Sự tưởng thưởng đem lại cho các đối tượng làm hài lòng nhà nước các loại tước lộc vinh gia và nhà tù đem lại cho những kẻ có hành vi nghịch thần (khiến nhà cầm quyền thấp thỏm lo âu) những chuỗi tháng năm ngồi đếm lịch dài vời vợi bằng cả nhiều ngàn thu. Xử án mà thiếu luật, cứ theo tư ý mà tuỳ hứng thì xã hội trở nên nhố nhăng; tệ nạn, cái ác như muôn loài nấm độc đua chen bùng phát. Hình phạt khắt khe thì sinh lòng oán hận, không khuyến khích được kẻ có lòng từ ác cầu thiện. Hình phạt sơ sài thì không ngừa được tội ác nảy nở. Sự thưởng dễ dãi thì vinh dự như làn khói mỏng manh nhạt thếch, sinh bụng khinh nhờn, không khuyến khích được kẻ muốn lao động lập công vì cộng đồng. Ban danh cẩu thả thì thứ bậc nhập nhèm, muôn người như một, không người cầm chịch, thì cuối cùng chỉ thành điều hài hước, bông phèng thường nhật cho mấy gã "Ba Giai, Tú Xuất" thông minh, bạt tuỵ quấy quá giải khuây.
Sách cổ nói: Sự vật ở thế ổn định, hài hoà, tươi thắm khi âm dương cân bằng. Khen và chê là hai thể đối nghịch, có thể coi là dương và âm. Vậy mà cuộc đời sao thường thấy chê nhiều hơn khen ? Có lẽ, vì vậy, chúng ta mới có khát vọng hướng tới cái đức độ lượng, hỷ xả ? Và, Phật với Chúa Trời, phải chăng là sự thoát thai của cái khát vọng tràn đầy ánh sáng ấy ?
 
 
          Tháng 8 năm 2005
#16
    Nghiêm Lương Thành 30.11.2007 05:12:53 (permalink)
    Nghiêm Lương Thành

    CÁI MẶT KHÔNG XÀI ĐƯỢC  !  
     
                Phan Hữu Nghĩa, sinh năm 1965, kỹ sư công nghệ kín khít, tốt nghiệp đại học Bách Khoa, xuất thân từ một gia đình trí thức, bố mẹ là những giáo viên thế hệ tốt nghiệp vào những năm sáu mươi. Là quản đốc phân xưởng cắt gọt của nhà máy Hữu Nghị chuyển về. Đấy là tất cả những gì Năng biết về anh chàng tân giám đốc mới hai mươi chín tuổi của nhà máy.
                Quan sát, săm soi, xì xào "nghị luận", thì thầm bàn tán, chả được cấp nào quy định, nhưng nó cứ hồn nhiên xảy ra ở bất cứ đơn vị nào khi có một thủ trưởng mới về. Cũng phải thôi, bởi đấy là kẻ đứng đầu mà tài năng và đạo đức sẽ quyết định chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong toàn đơn vị.
    - Mới ngần ấy tuổi đầu mà "qua mặt", vượt lên trên cả các bậc lão thành, chắc là phải có ô dù hay chạy chọt, vận động chi đây !
    - Thà cứ để y nguyên tay giám đốc cũ, hắn no kễnh rồi, ít làm hại hơn. Tuy là có vấn đề (mà ở đâu chả thế, có gì mới lạ đâu !) nhưng hắn ăn mười cũng còn biết để lại cho anh em vài ba phần. Còn tay này chưa biết thế nào, cứ để xem ...
    - Không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, về nhà máy mới có hơn hai tháng đã thay ngay Trưởng phòng tài vụ. Cái lão Thịnh ù lỳ, nói năng cứ đuồn đuỗn như dở hơi ấy, ngoài cái khoản "vở sạch chữ đẹp" thì có gì nữa, liệu có kham nổi cái chân ấy không ? Nguyên tắc là thứ chỉ dùng khi phát biểu thôi, thời buổi này mà cứ khư khư cái thói ấy thì đến cám cũng chả có mà ăn !
    - Nghe nói lại sắp thay cả Trưởng phòng kỹ thuật nữa đấy.
    - Ai thế ?
    - Thằng Hiệp !  Cái loại lúc nào cũng khôi hài, mê chuyện tiếu lâm, cười nắc nẻ như trẻ ranh, chẳng coi việc gì là quan trọng, thì thử hỏi liệu có đủ độ nghiêm chỉnh để làm cái việc hệ trọng nhất của nhà máy không ?
    ...
    Đấy là một trong rất nhiều những mẩu đối thoại đã diễn ra trong cái nhà máy này. Năng nghe vậy, thì biết vậy; hắn nghe không sót một tiếng nào, mỉm cười với mọi người, không tỏ ý tán thành, cũng chẳng có biểu hiện phản đối. Như thế, hắn nghĩ, luôn đảm bảo được tính "bền vững" trong quan hệ mà không bị mắc vào những xung đột không đáng có, cũng chẳng bị cuốn vào vòng nhảm nhí mà vẫn duy trì được tình cảm thân ái với các đồng nghiệp, vẫn còn có "cửa" để tiếp cận với tay giám đốc mới này và biết đâu lại chẳng vào được "cạ" với hắn. Vào được cạ mới thì cũng có nghĩa là không những tiếp tục được cuộc sống ung dung mà còn được nhiều người vị nể. Thực ra, hắn cũng chỉ học theo những người khôn ngoan và đứng đắn thôi.
    Năng nghĩ, dù sao thì cũng vẫn phải tiến hành thăm dò để có cơ sở xác định và thiết lập một mối liên sinh chiến lược. Liều thuốc thử cụ thể và có hiệu quả nhất là thiết kế ra một "phi vụ" béo bở gì đấy.
    Vậy là, vào một buổi sáng đẹp trời, khi nắng vàng và gió sớm rủ nhau ùa vào hành lang toà nhà hành chính, khiến những nhánh lá non trong mấy chậu cây cảnh cứ thi nhau lấp la lấp lánh khoe tươi, Năng, với tư cách phó giám đốc phụ trách tổ chức hành chính, rón rén đẩy cửa, bước vào phòng tân giám đốc.
    - Thưa anh, sắp đến kỷ niệm ngày thành lập nhà máy. Như anh đã biết, đây là lần kỷ niệm thứ bốn mươi, tôi đã gửi Tờ trình và nhà máy chúng ta đã được cấp trên chấp thuận tặng thưởng huân chương. Đây cũng là dịp, là cơ hội động viên cán bộ công nhân và quảng bá cho nhà máy mình, ta không nên bỏ lỡ - Năng kín đáo quan sát nét mặt tân giám đốc.
    - Cụ thể, ý anh thế nào, cứ trình bày, rồi ta bàn thêm - Ngài tân giám đốc chống hai khuỷu tay xuống bàn, người hơi chúi về phía Năng, có vẻ bị thu hút bởi vấn đề Năng vừa đưa ra.             
    - Thưa anh, đây là lễ trọng, Ban giám đốc nên quan tâm đúng mức ...
    - Biết rồi ! - Giám đốc ngắt lời Năng, háo hức - anh cụ thể công việc đi.
    - Về thời gian, chúng ta tiến hành trọn vẹn trong một ngày ...
    - Khoan đã - giám đốc lại nôn nóng ngắt lời - tôi muốn biết ... những việc như thế này, những năm trước, nhà máy thường sử dụng nguồn kinh phí nào ?
    -  Thưa, quỹ phúc lợi hoặc mục tiếp khách ...
    - Tốt ! - Ngài ngả người tựa vào lưng ghế, hai bàn tay nhè nhẹ vỗ nhịp lên mặt bàn giấy, nét mặt ngài giãn ra với một nụ cười đặc sệt phong cách "ơrêca" [1] - Vậy anh lo việc này đi. Chiều mai cho tôi xem chương trình và dự toán kèm theo. 
    Cắn câu rồi - Năng nghĩ  thầm - Biết mà, cái hơi đồng là ghê gớm lắm, chỉ có Tiên Phật mới may ra thoát khỏi được. Ta chỉ sợ anh nào không có dạ dày thôi !
                Đúng hẹn, Năng đặt tay lên tay nắm cửa, xoay mạnh, bước những bước chắc nịch vào phòng giám đốc với tập dự toán trang trọng trên tay. Ngài giám đốc lật ngay trang cuối, ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:
    - Như vậy, tổng cộng là năm mươi nhăm triệu ?
                Năng chột dạ, khẽ khàng:
                - Thưa anh, riêng khoản phong bì phong bao cho đại biểu, khách mời đã chiếm quá nửa ...
                - Không ! - Ngài giám đốc nở một nụ cười độ lượng - tôi muốn nói là anh đã tính hết   các khoản phải chi chưa ? ... Liệu còn sót mục nào không ?
                Năng thở phào, nghĩ rồi lắc đầu:
                - Quả tình là tôi chưa phát hiện ra sơ suất của mình. Xin anh cứ chỉ bảo !
                - Tôi thấy, về những việc tương tự thế này - ngài giám đốc nheo mắt, cười ranh mãnh với người cộng sự - ở các cơ quan khác, người ta còn mời cả truyền hình và các ca sỹ ngôi sao đang nổi về cơ quan biểu diễn nữa đấy ...
                - Ôi, xin lỗi anh - mắt Năng sáng lên, tràn trề tình cảm thán phục - tôi thật đoảng quá, có thế mà không nghĩ được. Tôi sẽ bổ sung ngay bây giờ.
                Té ra thằng cha này còn là bậc sư phụ của mình - Năng lắc lắc cái đầu, ngẫm nghĩ - Thông minh ! Quả là thông minh, thật đáng mặt giám đốc ! Rồi ra mình cũng được ăn theo đây ! Vấn đề là phải cúc cung tận tuỵ và làm cho hắn thấy được phẩm chất trung thành và dễ bảo của mình. Chỉ cần mình làm tốt điều đó thì dẫu hắn có là mác thép crôm hay niken gì đi nữa thì cũng phải mềm nhũn như sáp ong hơ lửa.
                Sáng hôm sau, họp giao ban toàn thể các lãnh đạo phân xưởng, phòng ban của nhà máy. Trước khi kết thúc cuộc họp, ngài giám đốc nói thêm:
                - Còn gần hai tháng nữa là đến kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập nhà máy của chúng ta. Hiện giờ tôi đã có trong tay bản tổng dự toán cho việc này. Tổng chi phí là một trăm hai mươi ba triệu, không trăm, ba mươi chín nghìn đồng với các mục chi chính như sau ...
    Ngài giám đốc, sau khi công bố toàn bộ các mục chi, thản nhiên quan sát thái độ nhăn nhó của các thành viên cuộc họp, và nở ngoác một nụ cười:
    - Tôi có dự kiến như thế này: Lễ kỷ niệm dứt khoát phải được tiến hành thật long trọng, chu đáo, động viên kịp thời toàn thể cán bộ công nhân viên của nhà máy. Phần kinh phí dùng cho buổi lễ sẽ chi theo các mục 1,3 và 6 là hai mươi mốt triệu đồng. Số còn lại sẽ chuyển đến tận tay chị Trần Thị Thân phân xưởng nhiệt luyện, vợ của liệt sỹ Nguyễn Văn Hùng là công nhân phân xưởng lắp ráp của nhà máy ta, để chị làm lại ngôi nhà đã quá xập xệ. Ban kiến thiết cơ bản của nhà máy chịu trách nhiệm về kỹ thuật và tiến độ thi công. Hạn trong hai tháng phải hoàn thành ! Có vị nào có ý kiến khác không ?
    Tức thì, cả phòng họp ồ lên và tiếng vỗ tay nổi lên rào rào, mãi không dứt. Khắp phòng họp, những khuôn mặt, chỉ vừa mới một phút trước, đang khó đăm đăm và rất mực nghiêm trọng, bỗng chuyển phắt sang trạng thái vừa hân hoan vừa ngạc nhiên. Năng ớ mặt ... nhưng cái phút ấy cũng qua đi nhanh chóng để rồi cùng hoà vào với nỗi ngạc nhiên chung. Nhưng cái ngạc nhiên nhân tạo thổ tả đó, khó mà lái cho nó giống với mọi người. Cái hân hoan của Năng là một sản phẩm đã được lập trình, lúc nào cũng giắt sẵn  trong người: Cường độ thì hơn mọi người đấy, nhưng nụ cười lại không được cân đối lắm. Năng đang ở trong một cộng đồng, vậy thì Năng cũng vỗ tay (ngu gì mà không vỗ !); đôi bàn tay trắng trẻo của hắn đập vào nhau loạn xạ, tạo nên những tiếng bành bạch như âm thanh phát ra từ một dàn đồng ca có người hát lỏi. Và tất cả những điều đó, chỉ có một người nhận ra.
    Căn nhà hoàn thành trước ngày lễ kỷ niệm của nhà máy một tuần. Vào ngày lễ trọng ấy, mọi người đem hoa, đem rượu kéo đến nhà chị Thân chúc mừng. Bàn thờ anh Hùng khói hương nghi ngút, Trên bàn thờ, trong khung ảnh, anh cũng đang ngậm cười. Chị Thân lúc khóc, lúc cười, chạy đi chạy lại. Vui vẻ, náo nhiệt hết cả một buổi chiều. Mấy chú thợ học việc thì thầm với nhau: Lúc bước vào nhà, nhìn thấy tấm biển đồng gắn ngoài cửa đề dòng chữ "Nhà tình nghĩa của nhà máy cơ khí số 9 ..." hình như ông giám đốc có hơi nhăn mặt.
    Hôm sau, đầu giờ làm việc, Năng bước ra khỏi phòng giám đốc, nét mặt không được vui. Hắn bước huỳnh huỵch dọc theo hành lang, vẫn cái lối đi chan hoà ánh nắng và có những chiếc lá non lấp lánh vui vẻ ấy, miệng lẩm bẩm: Cái mặt không xài được !
    Buổi chiều, ở nhà để xe, thấy mấy cô thợ bên phân xưởng cơ điện kháo nhau:
    - Giám đốc không ký thanh toán chi phí cho tấm biển đồng !
    - Biển đồng nào ?
    - Nhà tình nghĩa cho mẹ con chị Thân ấy !
    - Ai làm cái "Êtêkét" đó ?
    - Lão Năng !
    - Vẽ !
    - Thế là phải ! Người ta mất cả chồng còn chẳng kể lể, nữa là ...
    - Suỵt ! Be bé cái mồm ... !                                       
     
                    Tháng 9 năm 2005

    [1] Tìm thấy rồi ! - Khi phát hiện ra lực đẩy trong lòng chất lỏng, Ac Xi Mét đã quên mặc cả áo quần, từ dưới hồ chạy lên và reo ầm lên như vậy.
    #17
      Nghiêm Lương Thành 30.11.2007 05:21:39 (permalink)
      Nghiêm Lương Thành

      CHỢ BÚA  
       
                  Không ai biết đích xác chợ có từ bao giờ, nhưng bất cứ ở đâu, dù là nơi phồn hoa đô hội hay nơi lâm sơn cùng cốc, phàm nơi nào có người ở thì đều thấy có nó. Đấy là nơi, theo cách nói của các nhà kinh tế, để người ta trao đổi lao động với nhau. Hoạt động của chợ, thoáng trông thì có vẻ hỗn độn, nhưng, cũng như vũ trụ, chợ vẫn có lề luật, trật tự nhất định của nó. Khác hẳn với thiên nhiên hoang dã hồn nhiên tự phát: Hổ đói thì tìm hươu nai chồn cáo mà vồ, mà phanh thây xé xác, mà ăn thịt... ăn không hết thì tìm cách giấu đi, lúc đói có cái mà ăn, tránh không để cái bọn khoẻ mạnh lười biếng khác dùng sức mà cướp đi mất. Cũng như vậy, chồn cáo lại tìm bắt gà vịt, hươu nai thì tìm cỏ; Hươu nai chỉ gặm một phần, chứ không làm cho cỏ bị chết; Và xét trên một khía cạnh nào đó, chúng còn kích thích sự phát triển cho loài cỏ. Còn cỏ thì nhẫn nhục toả bộ rễ nhỏ bé, nhẫn nại bòn mót, hút lấy chút sinh chất của đất mà sống. Đất thì vốn là Mẹ rồi !
                  Khi nghĩ về chợ ta thường liên tưởng ngay đến cái ồn ào không thể kiểm soát, cái xô bồ chen chúc, rác rưởi tanh ủng, tục tĩu ô trọc, dối trá lọc lừa, thật giả lẫn lộn, giành giật quyết liệt, mặt mũi đỏ gay, tay năm tay mười cùng những mưu toan, thủ đoạn hầu chém đẹp vào hầu bao của những người đồng bào, ... đến nỗi, có người đã mượn cái tên của nó như một điển cố văn chương mà thốt lên: "Chợ trời thật giả đâu chân lý !". Cái lối mượn chữ để phát biểu như vậy đôi khi cũng không khỏi có phần bất công. Đành rằng cái sự thật giả nhập nhằng ấy là có thật, nhưng chính chợ lại là nơi dạy ta nhiều đạo lý và chính cái sự nhập nhằng ấy đã làm cho chợ trở thành Trường Tu cao nhất, là nơi sát hạch vừa nghiệt ngã vừa minh bạch, khẳng định chính xác hàm lượng chất Người chứa trong tâm của mỗi chúng sinh. Gian truân thật đấy, nhưng là con đường ngắn nhất để những người phát tâm hướng Thiền, hoặc là tiếp cận nhanh chóng với vầng hào quang thanh thoát ngời ngời của xứ Tây trúc, hoặc chui tọt ngay xuống âm tào địa phủ, ngồi đánh "Tá lả" với lũ quỷ đầu trâu mặt ngựa. Phật mẹo lắm, Ngài thường giả làm chúng sinh, đi lang thang trong các chợ để tìm kiếm nhân sự, phát hiện và bồi dưỡng các chúng sinh ưu tú thành các môn đồ của mình, nhằm kiện toàn bộ máy tổ chức mà chất lượng xem ra cũng không được đều đều theo thời gian. Nghe đâu, Ngài đã cho thôi việc, kỷ luật hai thủ thư đã nhận hối lộ của thày trò Đường Tăng chiếc bát tộ đựng cơm và hạ phóng hai vị này xuống trần gian bắt làm kiếp chúng sinh để cải tạo tư tưởng. Việc này hình như có gây ra vài phản ứng phụ; Nếu không, tại sao bây giờ, bên Trung Quốc, chính phủ lại xử án nhiều người ham "bát tộ" đến thế ? Và chúng sinh, dầu có sợ sệt và kính trọng Phật đến đâu, cũng không khỏi ít nhiều có sự bất mãn: Tại sao Phật lại đưa các môn đồ kém phẩm chất của Ngài xuống sống lẫn với chúng con để cải tạo ? Như thế, chẳng hoá ra chúng con, từ lúc mới sinh ra, đã mang cái án cải tạo chung thân trên đầu ?! Mà cũng chỉ là ấm ức ngấm ngầm vậy thôi, chúng sinh vốn đã thuộc lòng và quá hiểu chữ nhẫn. Phật có nhiều quyền năng lắm, nói ra biết đâu Ngài lại chẳng nổi giận, sau này không cho vào xứ Niết Bàn cư trú nữa mà phê một câu "Chuyển Diêm vương xử lý" thì khốn !
      Và, nếu như cuộc đời này không có chợ, thì đố có ai mà sáng chế ra được các loại luận thuyết xã hội, hiện đang được lưu giữ một cách bề thế trong các thư viện quốc gia bằng đủ loại công nghệ tân thời và đang không ngừng tăng thêm về số lượng trong từng thập kỷ ! Và con người, dù có tài bằng "Giời" thì cũng không có cách gì mà bén mảng được đến Mặt Trăng, sao Hoả hay mò mẫm xuống tận đáy các đại dương bao la sâu thẳm như bây giờ.
                  Chợ vốn ồn ào, bởi linh hồn của chợ là con người. Không có người, chợ chỉ là cái bãi đất trống hoặc là cái nhà hoang. Có một số nhà giáo, bất lực trước tình trạng học trò mất trật tự trong lớp, không giữ được bình tĩnh, đã phải quát lên: "Đây là lớp học hay là cái chợ vỡ !". Chợ thì ồn rồi, nhưng chợ vỡ thì ghê gớm lắm; Thậm chí lúc ấy có người còn không giữ nổi cả tính mạng, nói chi đến hàng đem đi bán hoặc mua sắm được ! Dân gian vẫn quen nghĩ rằng liền bà vốn lắm điều và chợ búa là việc của họ; Liền ông còn bận nghĩ nhiều việc nhớn ! Ở chợ, về số lượng, bao giờ liền bà cũng nhiều hơn là liền ông, nên mới có câu: "Hai người đàn bà và một con vịt thành một cái chợ !". Lợi dụng thành ngữ này, bọn có học hành chút ít đã dùng sảo luận để chứng minh rất hùng hồn rằng một người đàn ông đích thực là một con vịt (cũng còn may chưa phải là vịt trời) ! Chuyện thế này: Có hai gã, thuộc trường phái cờ "vồ" đang tỷ thí với nhau; Cạnh dó, đứng chầu rìa là một gã ham cờ và cùng trường phái. Một người quen đi qua, thấy ồn ã quá, bảo: "Hưng và Mão, thêm Phan "loe" thành ra cái chợ !". Lúc trở về, vẫn đi qua đấy và nhận ra độ hào hứng của đám cờ vẫn liên tục phát triển; Phan "loe" đang hò hét, gà một nước "đậm đà tâm hồn ăn uống", người ấy lại bảo: "Bây giờ là thời đại văn minh, nam nữ ngang bằng, do đó Hưng và Mão tương đương hai người đàn bà; Câu khi nãy có thể nói lại là Hai người đàn bà với Phan loe thành một cái chợ. Mặt khác, lại biết Hai người đàn bà và một con vịt thành một cái chợ. So sánh hai câu trên: Phan loe đích thị là một con vịt ![1]"
      Thủ đô của nước ta, nơi có hàm lượng văn hiến cao từ ngót một thiên niên kỷ nay, đã bắt đầu bằng một cái chợ ven sông Hồng. Dân Việt ta vốn thuần phác và đầy bản lĩnh bèn, chẳng ngại ngùng gì, gọi luôn kinh đô là đất Kẻ chợ; người kinh đô là dân Kẻ chợ. Tất nhiên, cũng còn nhiều cái khiến ta không khỏi phân vân. Tỷ như: Cái tinh tế, sự lịch lãm, cái nếp nền nã nhã nhặn ... của dân kẻ chợ, từ lâu lắm, đã đạt đến tầm cao của mỹ học, được cả nước ca tụng và ví với phẩm chất của hoa nhài. Nhưng không hiểu thế nào, các cụ - kể cả các cụ Kẻ chợ - lại dặn con cháu chớ có dùng hoa nhài để thờ cúng, dù đó là thờ ông bà tổ tiên hay các bậc linh thiêng siêu việt, có sắc phong và đền thờ của nhà nước ban tặng, tưởng thưởng. Hỏi tại sao, thì bảo: Nó là loài hoa chỉ nở vào lúc mặt trời đã đi ngủ ! Và nữa: "Chả biết thế nào mà thủ đô thường là nơi vua ở chứ không phải là nơi vua phát tích" [2].
                  Người chưa có thì đến chợ tìm mua cái mình cần, kẻ có thì đến chào mời để bán cái mình có. Chỉ cần chất lượng trung thực, tiền nào của ấy, cái gì đem đến cũng đều bán được; Cái gì người ta cần, đến chợ đều tìm được; Thượng vàng hạ cám, không gì là không có. Hàng chất lượng thấp, giá bán lại không trung thực thì dẫu người bán có khéo léo niềm nở chào mời đến thế nào, thiên hạ cũng chỉ lơ láo cười nhạt rồi đi qua cho nhanh. Hàng chất lượng cao, giá cả phải chăng thì dù người bán có thái độ khủng khỉnh, kênh kiệu, người mua vẫn nhẫn nại tìm đến. Đôi khi, những kẻ có hàng cũng làm cao lắm, họ chẳng thèm ra chợ chào mời như mấy cái con mẹ sắn váy quay cồng, tất tất tưởi tưởi, chua ngoa gay gắt (bán hàng thì cũng phải giữ lấy phẩm giá chứ !). Còn những kẻ muốn mua thì cứ phải dò dẫm, hỏi han địa chỉ và cách thức mà tìm đến; Lắm khi còn phải lạy lục, cung kính đến gẫy cả lưng mới mua được. Hàng đặc biệt cũng có khác ! Nhưng mà, rốt cuộc, loại hàng nào cũng vậy, vẫn tuân theo luật chung "Tiền nào của đấy", chất lượng hàng sẽ được định đoạt theo túi tiền của kẻ mua. Mua được rồi thì phải lo để được bảo hành. Bình thường, nếu ta mua một cái máy giặt, một cái ti vi, một cái xe máy hoặc có khi chỉ là cái cối xay hoa quả ... nhà cung cấp phải ghi thời hạn bảo hành vào hoá đơn; độ dài thời hạn này và chất lượng dịch vụ sau bán hàng sẽ quyết định sự hài lòng của người mua, điều mà tất cả các nhà cung cấp nghiêm túc luôn mong muốn. Trong quá trình sử dụng, nếu máy móc bị trục trặc và vẫn còn trong thời hạn bảo hành, chỉ cần nhấc điện thoại, ới một cái, là chỉ lúc sau sẽ có thợ đến xem xét, xử lý thoả đáng, sao cho các "Thượng đế" không còn gì để phàn nàn. Nhưng đối với thứ hàng mua được của những kẻ làm cao này thì - tuyệt đối - chớ có nghĩ như thế, khôn hồn thì phải bắc "Cầu Kiều" mà rước nhà phân phối ! Người tiêu dùng phải cáng đáng toàn bộ các chi phí bảo hành - mà chi phí và thời hạn cho việc này cứ lên lên xuống xuống, đỏng đảnh thất thường như gái mười tám có chút nhan sắc - Nhưng được cái, nếu khéo làm hài lòng nhà phân phối, phần lớn các trường hợp đều được gia hạn bảo hành dài dài. Và trong thời gian đó, người tiêu dùng không những thu hồi được vốn ban đầu mà còn tích luỹ dư dả, thừa sức để có thể làm một cuộc lên đời cho thiết bị và công nghệ của mình.
                  Người bán hàng ở chợ phần lớn hay nói thách. Cái chiếu trải giường đáng giá ba mươi ngàn thì nói tếu lên tám mươi ngàn ! Thực ra, cũng chỉ tại bởi người ta chỉ quen và thích dùng "cuốc", có mấy ai thích dùng "xẻng" ! Người mua bao giờ chả muốn chỉ phải trả ít tiền và hiện tượng này lại sảy ra từ trước khi có bộ Tư bản rất lâu. Nói vống lên như thế để người mua hạ xuống là vừa, người bán không bị lỗ vốn mà vẫn có chút lãi. Trường hợp gặp người không có kinh nghiệm, tức là mấy con "gà", có khi lại bán được với giá rất cao. Cứ thế, lâu dần, thấy lối nói thách cũng không phải là không hay và cuối cùng đâm thành thói quen. Các công chức ngày nay cũng đem trọn vẹn thói quen nói thách này vào các công sở nhà nước. Điều này thấy rất rõ trong nền kinh tế có kế hoạch tập trung: Nhu cầu vốn của các dự án, các chương trình mua sắm, xây dựng cơ bản ... đều được kê vống lên để cấp trên ... cắt đi là vừa. Nhưng cũng có một số cấp trên tự nguyện làm "gà" và một số cấp dưới "biết đều" và "sáng dạ", lập tức nhận thức sâu sắc được sự hy sinh cao cả đó và trong xã hội, cũng lập tức, xuất hiện những “cặp trời sinh". "Châu" không tìm về "Hợp phố" thì đi đâu ?!
      Mỗi cái chợ là một cuốn lịch sử, là một pho truyện đặc sắc, nhiều vẻ của một tiểu vùng dân cư. Chợ phát triển không ngừng cả về quy mô lẫn hình thái: Từ một khoảng trống ngã ba đường hoặc một bến sông lộng gió, nó tiến lên quy mô nhà cao tầng có nhiều khung nhôm cửa kính, điện đóm sáng trưng kèm theo hệ thống điều hoà không khí trung tâm; Từ phạm vi tiểu vùng tiến lên đẳng cấp khu vực và hiện đang có xu thế tiến lên toàn cầu hoá. Về hình thái, do yêu cầu của thực tế, nó từ chợ phiên tiến lên chợ ngày, từ chợ thông thường bổ sung thêm các loại chợ trời, chợ chuyên ngành, chợ "sex", chợ nhân công, chợ chứng khoán, chợ trên mạng (internet) và - ở một số quốc gia có nền chính trị lạc hậu, độ dân chủ mới chỉ đạt mức bằng một phần triệu nước ta - ... có cả chợ Hành lang (Lobby) nữa. Trong loại chợ này, người ta có thể thương thảo, mặc cả, cò kè, thoả thuận, thậm chí mua bán, đổi chác tất cả những gì thuộc về quan trường, chính trường: Từ nhân sự, lá phiếu, ghế ngồi trong nghị viện hoặc trong chính phủ ... đến việc cho ra đời một chính sách, một đạo luật cốt chỉ mưu lợi riêng cho một vài nhóm người "ưu tú" nào đó.
      Nhưng không hiểu tại sao, trong ngôn từ, dân chúng lại luôn ghép chữ chợ với chữ búa: Chợ búa. Là tiếng đệm cho thuận mồm, cho thuận tai để làm tăng hiệu ứng truyền cảm ư ? Nếu thế, sao lại không phải là Chợ cheng, chợ phéng, chợ rợ ... ? Vậy búa là gì ? Cứ như theo kho chữ của dân ta, nó là tên vài loại dụng cụ, khi sử dụng phải dùng lực mạnh: để Ngu Công đập đá dời non, để Ngô Quyền đóng cọc xuống lòng sông Bạch đằng chống quân Nam Hán, để người thợ ghép hai loại vật chất ở thể định hình vào với nhau, để Thạch Sanh đốn cây, bổ củi ... để lũ Pôn Pôt đập vào đầu những người đồng bào không đồng chính kiến với chúng, giản đơn kết thúc mạng sống của những cái đầu trong đó chứa những bộ não. Vì vậy người ta mới cảnh báo nhau: Đừng đao to búa lớn với nhau như vậy ! Hoặc giả khinh bỉ: Cái phường đao búa ấy mà ! Búa đi một mình thì là dụng cụ gia đình, đi với đao thì lại thành dụng cụ giết chóc.
      Nhớ lại, một lần đi chợ, được chứng kiến cảnh: Một chị nạ dòng, sau khi mua thịt, đi hàng khác nhờ cân lại xem có đủ lạng không. Thấy thiếu, chị ta quay lại hàng thịt mình vừa mua, giận dữ đùng đùng, đòi người bán phải cân bù cho đủ. Người bán thịt, cũng nạ dòng nốt, tay huơ huơ chiếc búa chặt xương, tiến gần lại kẻ khiếu nại chính đáng kia, thủng thẳng: "Mày trả giá bèo như thế thì bà bán cho mày bằng cái cân như thế. Phắn ngay cho nhẹ vía !". Nhìn cái lưỡi búa, được mài rất kỹ, cứ lấp la lấp lánh làm duyên dưới ánh nắng mùa xuân rạo rực, đang lăm lăm trên tay của một kẻ vốn quen xả thịt chặt xương, kẻ khiếu nại kia, mặt mũi tái nhợt, lùi dần lùi dần, rồi xoay lưng rảo bước. Khốc liệt quá ! Chả trách, người ta hay nói một câu rất khó nghe: "Lẽ phải thuộc về kẻ nào có đao búa trong tay !". Vòng vèo hoa mỹ quá thể !
      Nhưng nếu không có chợ thì biết mua gạo muối ở đâu ? biết mua nồi niêu ở đâu ? biết mua sách vở giấy bút và đàn sáo ở đâu ? Ai chả có cha già mẹ héo, phải có chỗ nào đấy để mua thuốc thang cho cha mẹ chứ ?!
      Liệu có thể sống mà không có chợ không ? Sống không có chợ thì xin mời quý vị cứ việc "bồng bế nhau lên" mà "ở non". Trên non có vô khối là hang là hốc. Mà như thế thì thà ...  đi tu tiên cho rồi !
      Chợ búa, cũng như một nhà máy điện nguyên tử, một thứ cây ngũ cốc; phải thành tâm, nghiêm cẩn chăm sóc, nhất định không thể nông cạn mà xem thường được.
       
       
       
      Tháng 8 năm 2005
      [1]     Nếu diễn đạt theo ngôn ngữ toán học thì như thế này:   
          Hưng và Mão đánh cờ + Phan loe = cái chợ (1)
      Vì Nam nữ bình đẳng nên viết được: Hưng và Mão = hai người đàn bà (2)
      Thay (2) vào (1) được  Hai người đàn bà + Phan loe = cái chợ (3)
      Lại biết Hai người đàn bà + một con vịt = cái chợ (4)
      Trừ vế cho vế của hai đẳng thức (3) và (4) cho nhau, ta có: Phan loe - một con vịt = 0.
      Chuyển vế, được  Phan loe = một con vịt.
      [2] Nguyễn Triều. Người Hà Nội gốc "Hàng" và người Hà Nội gốc "Lội".
      #18
        Nghiêm Lương Thành 30.11.2007 05:31:16 (permalink)
        Nghiêm Lương Thành

        PHẬT ƠI, SAO LẠI THẾ  
         
                    Chiều mùa hè. Nóng bức. Mệt bã sau một ngày làm việc, về đến nhà, hắn vứt huỵch cái túi "đi làm" vào góc giường, nằm vật xuống, thiếp đi lúc nào không biết. Tiếng động cơ, mùi khói ống xả của cái ô tô chở rác đang đỗ trước cửa xông vào nhà và tiếng léo xéo của mấy chị công nhân môi trường đang ca thán về nỗi giá cả sao lại lên nhanh thế, làm hắn tỉnh dậy. Đầu óc ong ong như có cả đàn muỗi đang bay lượn bên trong hộp sọ. ừ, thảo nào ! Giờ thì hắn đã hiểu vì sao còn đến gần chục hôm nữa mới đến ngày lĩnh lương mà sáng nay vợ hắn đã phàn nàn hết tiền đi chợ. Hắn thở dài, thấu hiểu nỗi khổ của vợ bởi, nhân một lần vợ hắn đi công tác xa hơn nửa tháng, hắn đã hiểu thế nào là tiêu tiền, thế nào là quán xuyến một gia đình. Trăm thứ đều trông vào một cái hộp xinh xinh vợ hắn vẫn để trong cái tủ áo xập xệ, không khoá bao giờ. Tiền chợ, tiền học phí, tiền học thêm cho các con, tiền điện, tiền nước, tiền an ninh, tiền chống bão lụt, tiền "lá rách đùm lá rách hơn", tiền công đức ... tất tật các kiểu. Đấy là chưa kể những lúc gặp hoạn nạn, bệnh tật không hẹn mà đến hoặc họ mạc, khách khứa, bè bạn xa gần, nhớ nhau thì gặp gỡ, thăm hỏi thân mến, hồn nhiên vui vẻ.
        Thấy nguy thì phải tránh, thấy hết thì phải kiếm, có bệnh thì phải chữa, thấy người gặp khó thì phải đỡ, làm người thì phải có bạn ... Đạo lý vốn là như vậy.
                    Hắn buồn rầu, thở dài não cả ruột. Kiếm thêm cái nghề gì mà làm thêm ngoài giờ thì hắn lại không biết. Hắn không đủ độ tinh nhạy thực tế, không có phẩm chất láu cá trong các quan hệ xã hội. Nhưng hắn cũng không ngu đến nỗi không biết cách nói năng trí trá, không biết cách kiếm tiền trong môi trường làm việc của mình bởi hắn có mắt, hắn có tai, đầu óc cũng thuộc loại trung bình. Vậy hắn quan sát, hắn nghe các đồng nghiệp của mình, hắn phân tích và cũng nắm được một số "bài" kiếm chác cơ bản. Ví dụ: Dùng ngay các quy định của nhà nước để xoay, để hãm tốc độ của những việc, những công trình mà các cơ quan cấp dưới đang cần phải khẩn trương hoàn thành, hoặc các công việc đó đang ách tắc, cần được khai thông, mặc dù những cái sơ suất nho nhỏ trong thủ tục của họ hoàn toàn có thể châm chước được, và người giải quyết không thể bị bắt bẻ là sai nguyên tắc. Bí dị lâu ngày, công việc bê trễ, công quỹ thiệt hại, công nhân thiếu việc, có khả năng bị cấp trên khiển trách và đánh giá tệ hại về năng lực, thế là người ta đành phải kiếm cái "bì thơ", nhắm mắt dúi liều vào cái địa chỉ mà chỉ có thằng ngớ ngẩn mới không biết, đặng cho công việc được chạy. Còn để hợp pháp hoá số tiền đã tham gia vào cái dòng "văn hoá bì thơ" này thì "thủ trưởng đã có cách !". Kiểm toán là cái đinh gỉ ! Hòn đất đặt lên ca bin ô tô còn biết nói năng, huống hồ lại là những tiến sỹ đời mới - ra lò trong khoảng cuối thế kỷ trước đầu thế kỷ này - được đặt vào ghế quản lý của các cơ quan nhà nước !
        Nhưng cái tạng của hắn lại không thể thật giả lập lờ, ỡm ờ đùa dai, đổi trắng thay đen, nói cười xí xoá. Vả, thêm nữa, chết ở chỗ là hắn lại cứ hay nghĩ đến cái danh dự của dòng họ nhà hắn nên dù biết rất rõ, rõ lắm, hắn cũng không thể tự quán triệt mà triển khai cho được. Tạng nào, phận ấy. Nghèo là phải, là rất đáng kiếp, là hợp nhẽ đời !
        Hắn lừ đừ đứng dậy, trút bộ quần áo đi làm vào chiếc chậu nhựa to tướng để trong buồng tắm, rồi uể oải đi vào bếp lấy gạo ra vo. Sao hôm nay bà xã về muộn thế nhỉ, mà cả hai đứa con nữa ! Vừa nghĩ đến đấy thì hắn nghe có tiếng xao xác, tiếng cười của ba mẹ con từ ngoài cửa vọng vào.
        - Bố ơi ! Nhà mình có thiếp mời đám cưới !
        Con bé con tay xách cặp, tay cầm chiếc phong bì màu hồng hua lên theo nhịp chân sáo, vừa chạy vào bếp vừa loan báo cái tin ... - ít nhất, tại thời điểm ấy, đối với hắn - như một tia sét đánh ngang... tiền để mua cá chuyển sang "đàm cười". Hắn chẳng nói gì, người như muốn rũ hẳn xuống.
        - Cưới thằng bé thứ hai con nhà bác Xuân đấy mình ạ. - Vợ hắn bước theo vào, đặt mớ rau mồng tơi lên bệ nấu - Không biết bây giờ thay đổi thế nào, chứ ... thằng bé ấy ngày xưa là ngoan nhất khu tập thể đấy ! Mình ạ, các bác ấy là người sống có tình, nhất định phải đi mà mừng cho thằng bé !
        - Thật sao ? - Thoắt cái, bao nhiêu cái sự não nề trong người hắn không hiểu biến đi đâu hết - Đưa thiếp cho tôi xem nào. Trời ơi, hay quá ! Mình nói đúng. Hai bác ấy quý người lắm, ngày còn ở cùng khu tập thể công ty ngoài Đông Triều, Quảng Ninh, mình cũng biết còn gì.
        - Vâng, em quên sao được. Người đâu mà tốt thế, lại được cả vợ lẫn chồng !
        - Nhưng mà ... - Bất giác, hắn nhìn mớ rau mồng tơi đang nằm chỏng trơ trên bệ nấu, ngập ngừng.
        - Em hiểu rồi ! - vợ hắn nhìn hắn, mỉm cười thương cảm - Đừng lo, chốc nữa em sang giật tạm cô Linh. Cô ấy bảo khi nào bí, chị cứ sang em; hàng xóm với nhau, chuyện nhỏ. Sắp đến kỳ lương rồi, mình lại trả ngay; tháng sau, bớt ăn bớt tiêu đi một chút, lo gì !
        Hắn mừng quýnh, mặc dầu trong bụng vẫn còn lấn cấn, ái ngại cho vợ cho con. Thế là hắn sắp được gặp lại vợ chồng bác Xuân, hắn sắp được thăm lại cơ quan cũ và gặp lại những người quen ngày xưa. Không hiểu sao, độ này có tuổi, đầu óc hắn lại đâm ra lẩn thẩn; hay nhớ lại, hay nghĩ về những người thân thiết, quen biết, những nơi hắn đã từng sống từ hồi còn trai trẻ và rất mong có dịp được gặp lại, thăm lại.
        Thời bây giờ sướng hơn thời còn chế độ bao cấp thật; hắn chỉ cần đứng bên đường, phẩy nhẹ tay là đã có xe dừng lại, đón rước nhã nhặn. Ngồi êm ái trên chiếc xe chất lượng cao, có điều hoà không khí, có khăn mặt ướp lạnh, đầu óc hắn như dãn ra, tâm hồn trở lại bình ổn, thư thái.
        Khi xe chạy qua khu nhà máy điện Phả Lại, hắn không thể xác định được chính xác đâu là cái thị trấn bé nhỏ nhưng khá sầm uất ngày xưa nữa. Nơi mà từ ngày hắn còn chưa lấy vợ, mỗi lần có dịp đạp xe đi công tác qua, không bao giờ hắn quên mò vào cái quán phở gà phía đầu dốc bến phà, đánh liền một lúc hai bát. Sao lại phải ăn tới hai bát ? Có gì đâu, không giống với mậu dịch quốc doanh vốn nghiêm túc và công bằng, cái giống tư thương ấy chỉ thích bán cho được nhiều hàng, nên đối với bát thứ hai bao giờ cũng được nhà chủ trình diễn rất hậu hĩnh, cả chất lẫn lượng.
        Đã đến địa phận thị trấn Đông Triều, xe chạy chậm lại. Tuy thay đổi đã nhiều, nhưng về cơ bản, hắn vẫn nhận ra khoảng đất xưa kia là khu Chợ Cột nổi tiếng với món rươi tươi rói, với những quả na dai núc nỉu nây tròn và ít hạt đến kinh ngạc; Cái cửa hàng ăn uống mậu dịch toạ lạc ở ngay ngã tư thị trấn, có bán thứ phở lợn mà miếng thịt bao giờ cũng có đủ cả bì, mỡ, nạc và phía trên có rắc mấy nhánh húng, nhánh răm để nguyên lá, nguyên cuộng; hoà vị tuy là không được nền nã lắm, tựa như một gia đình lúc nào cũng ông chẳng bà chuộc nhưng lại không thể sống rời nhau ra lấy một ngày. Tâm tính cái nhà bác Xuân này cũng vậy - hắn nghĩ - lúc nào cũng ồn ào, tuế toá, thô thô, thậm chí nếu là người không quen tính còn có thể thấy khó chịu, nhưng bác cứ làm như bác nghĩ, rất tận tình và chu đáo với bất cứ ai, thậm chí cả với những người lạ hoắc.
        Xe chạy qua khu bệnh viện huyện. Hắn nhớ lại, ngày ấy, hầu hết những người trong cơ quan bị ốm đau, bệnh tật, phải đi cấp cứu, đều do một tay bác ấy đưa đi. Đến nỗi, sau đấy, người ta quen đi, hễ có chuyện đau ốm, cấp cứu, tang hiếu là đều gọi đến bác. Bình thường, với những người có tuổi xấp xỉ hoặc có khi hơn hắn đến dăm tuổi, hắn vẫn gọi là anh, thậm chí còn xuồng xã cậu cậu tớ tớ; nhưng đối với trường hợp bác Xuân, hắn lại không thể như thế được. Không phải vì hắn sợ. Bác ấy hiền mà tốt như thế, lại chẳng phải là giám đốc giám điếc gì, có làm gì hắn mà hắn sợ ! Chẳng qua đấy là sự kính trọng, là tình yêu quý tự nhiên phát tác ra tự đáy lòng người ta mà thôi.
        Đã gần trưa. Xuống xe, hắn lục tìm tấm thiếp trong túi áo để xem lại địa chỉ phòng cưới. Thị trấn có nhiều thay đổi, nhưng hắn cũng chẳng phải hỏi thăm nhiều. Bước vào sảnh chính của toà khách sạn có vẽ những ngôi sao xếp thành hàng ngang, hắn nhận ra tấm biển dán giấy đỏ thông tin về đám cưới. Vậy là chính xác rồi. Hắn bèn nhập vào toán người ăn vận tươm tất đang vui vẻ đi vào phòng tiệc.
        - Ối, thằng "Lùn" ! - Một tiếng reo vui vẻ vút lên.
        Một anh chàng từ phía trong chạy à ra, ôm chầm lấy hắn mà quay, mà lắc. Thằng "Sếu" ! Thằng bạn nhẹ nhõm, ham vui, ở cùng phòng tập thể năm xưa với hắn. Thế rồi anh chàng "Sếu" kéo hắn lại phía những người đang đứng hai bên cửa ra vào. Thì ra toàn người quen cả. Sau khi hỏi thăm đại cương về nhau, hắn bảo: "Thôi, ta vào ngồi một bàn đi, nói chuyện cho sướng !". "Không được đâu, mấy thằng này lãnh nhiệm vụ đón khách, gặp nhau sau". Đám người quen cũ tạm chia tay, hắn và "Sếu" kéo nhau vào trong. Nhìn sâu vào góc trong, từ chỗ ngồi, hắn nhận ra vợ chồng bác Xuân đang đi lần lượt các bàn để cảm ơn thực khách. "Lùn" và "Sếu" hồ hởi hỏi han về tình hình gia đình, về công việc của nhau.
        - Mấy thằng đấy bây giờ đều là trưởng hoặc phó phòng cả đấy - "Sếu" khoe.
        - Còn mày ?
        - Vẫn "pình phường", một chủ tịch công đoàn có thâm niên cao !
        - Công ty mình bây giờ chu đáo thật, các đám cưới đều được cấp phòng đích thân đứng ra tiếp khách cho ! - Tôi trầm trồ.
        - Không hẳn đâu, lần này là đám cưới con của "Sếp" ...
        - Thế ra bác Xuân bây giờ ...
        - Là giám đốc công ty. Mày ở xa, không biết là phải.
        - Chúng mày vẫn sang nhà bác ấy bù khú, quấy rầy bác gái đấy chứ ?
        - ... Cũng ít thôi ... độ này, ai cũng bận cả. Với lại, cũng phải giữ thể diện cho bác ấy chứ.
        Vừa lúc ấy, vợ chồng bác Xuân tiến lại phía bàn hắn. Mọi người rào rào ẩy ghế, nhất loạt đứng dậy, nâng cốc chúc mừng. Có bao nhiêu cái vui, cáo háo hức, hắn vận hết cả lên mặt, lên nụ cười, để tỏ tình nồng ấm với hai bác, những người hắn vẫn hằng kính trọng và yêu mến, đã lâu mới gặp lại. Đáp lại cái tình cảm náo nức, cháy bỏng của hắn là nụ cười thời "công nghệ" của bác gái và cái bắt tay lờ vờ, nhũn nhẽo của bác trai. Rồi họ tiếp tục đi sang bàn khác. Hắn cảm thấy bứt rứt, không yên, bèn chạy theo, níu bác trai lại: "Em là "Lùn" đây, bác không nhận ra em sao ?". Bác gật đầu, như cố xoá một cảm giác bực bội vừa mới nhu nhú manh nha: "Có !" - cái tiếng "có" ấy bay ra, như tiếng xì ở van một chiếc xăm xe đạp đã gần hết hơi - "Cảm ơn, cậu vẫn khoẻ chứ ? Thôi, về bàn uống với mọi người đi !". Bác gật đầu, đường bệ quay đi, rồi rảo bước đuổi kịp bác gái.
        Như một kẻ ngoài nắng bất ngờ lạc bước vào buồng đông lạnh, lại vốn không có phẩm chất của những kẻ lừa đảo bẩm sinh, tâm tư thế nào, đều bày hết lên nét mặt, hắn, tay vẫn cầm chiếc cốc, lõng thõng bước trở lại bàn tiệc.
        - Lâu quá rồi không được bù khú, tao với mày ra ngoài kiếm chỗ nào uống với nhau. OK ? - "Sếu" ghé vào tai hắn, thì thầm.
        Hai gã vào một quán bia phía cuối thị trấn. Cảnh vật ở đấy tràn đầy chất thơ. Ngồi tại bàn có thể ngắm những bông sen đang độ hé cánh, hồng ngát, toả hương mang mang trên mặt nước hồ trong vắt; cây cối tốt tươi quanh bờ cùng những chiếc búp nõn lóng lánh, xoà bóng xuống sát mặt hồ. ở đấy, hắn được hít thở thoải mái bầu không khí không gợn chút bụi trần đương đại; Trong lành đến mức bất cứ người ở thành phố lớn nào đến, dù trong lòng đang có điều phiền muộn, buồn bã đều thấy tự nhiên sạch bong, không còn chút gì gợn bận.
        - Té ra mày vẫn là một thằng trẻ con, người ta là sếp, trách nhiệm lớn, phải lo nghĩ nhiều, còn đâu sức mà để tâm đến những cái vụn vặt. Thôi, thông cảm đi ! Rồi, đến lúc nào đó, mày làm sếp, cũng thế thôi. Nào, trước hết, trăm phần trăm cái đã !
        - Thế sao ?! - Hắn cầm cốc lên, vẫn chưa hết ngạc nhiên.
        - Chứ gì ! - "Sếu" phẩy tay, nhăn mặt chán nản vì cái chứng chậm hiểu của bạn - Đơn cử một việc viết thiếp mời cho cái đám cưới này này, làm sao ông ấy có thì giờ, tỷ mẩn mà làm nổi ? Vậy là việc này phải giao cho Chủ tịch công đoàn. OK ! Tao mới phân làm hai loại, loại trong công ty giao lại cho bọn kế toán tài vụ, cứ chiếu theo sổ lương mà nã, không trật đi đâu hết; loại đã về hưu hoặc đã chuyển công tác đi nơi khác, tao khắc đích thân làm. Tất nhiên, người đầu tiên tao nghĩ tới phải là mày. Hai thằng ở cùng phòng với nhau có đến hơn năm năm chứ ít à ? Hồi ấy, lắm lúc nhìn cái mặt của mày cũng thấy bực mình bỏ mẹ, nhưng xa rồi lại nhớ ... Nhìn gì tao, mày cũng thế thôi, khác đếch gì !
        À, ra thế ! Hắn há hốc mồm, đờ đẫn, ngây thộn. Thì ra là do cái thằng "giời đánh" này nó gửi thiếp cho mình. Cảm ơn mày ! - Hắn thầm nghĩ và cảm thấy đỉnh Yên Tử trước mắt như rùng rùng, chao nhẹ, như muốn rời ra làm mấy mảnh.
        - Cảm ơn mày !
        Hắn vươn tay qua bàn. "Sếu" cũng đưa tay ra đáp lại. Cả hai nắm tay nhau hồi lâu, rất chặt. Hắn thì hiểu tại sao hắn lại có cử chỉ ấy, còn "Sếu" thì chỉ làm động tác ấy như một cái máy, vậy thôi. Hắn mở túi, lấy ra những món quà nhỏ định bụng biếu mấy người bạn:
        -  Quà của mày đây ... ngần ngừ cái gì ... của một đồng, công một nén của tao đấy ! Mày thông cảm, tao có việc phải về ngay. Lần sau nhất định sẽ ở lại qua đêm với chúng mày. Nếu có dịp công tác qua chỗ tao, nhất định phải vào đấy !
                "Sếu" nói thế nào cũng không được, thậm chí phải dùng đến món võ "sửng cồ" cũng không được. Rồi mặc cho bạn làu bàu, mặt đầy bất mãn, hắn nhất quyết leo lên xe, trở về với những người thân yêu của mình.
           Gần bảy giờ, mùa hè ngày dài, trời chưa tối hẳn, hắn đẩy cửa bước vào nhà.
        - A, bố về ! - Đứa lớn reo lên và chạy vào bếp lấy thêm bát đũa cho bố.
        - Có quà cho con không bố ơi ? - Con bé con sốt sắng, nũng nịu. May mà "Sếu" cũng kịp mua cho hắn một túi na dai.
        - Hai bác ấy có khoẻ không ? Có vui không mình ?
        - Khoẻ ... vui ! - Hắn trả lời nhát gừng, vẻ như muốn đi vào buồng.
        - Ăn đi một ít rồi hãy đi nằm, mình !
        Nhìn mâm cơm của những người hắn yêu quý nhất chỉ có nhõn bát rau muống xào và đĩa cà muối, hắn thấy buồn, thấy xót xa đến muốn bật khóc.
        - Tôi vẫn chưa đói, mình với các con cứ ăn đi. Xong rồi ăn na. Na Đông Triều của chú "Sếu" gửi cho đấy !
        Rồi hắn lặng lẽ đi vào buồng, khép nhẹ cánh cửa lại, nằm vật xuống giường và cảm thấy thảng thốt như vừa bị người ta lấy đi, một cái gì đấy, bình thường nhưng rất quý, không quan trọng nhưng rất hệ trọng. Hồi lâu, hắn buột miệng, rầu rĩ thốt lên:
         - Phật ơi, sao lại thế ?!
         
         
        Tháng 05/2005
        #19
          Nghiêm Lương Thành 30.11.2007 05:40:42 (permalink)
          Nghiêm Lương Thành



          MÙA MƯA
           
           

          Tây Nguyên,
          Tháng 7,
          Mùa mưa đã vào sâu mà sao mặt đất vẫn khô khốc. Cầm một hòn đất lên tay, thấy nóng hầm hập, tựa như có hơi thở của gió Lào; bóp vụn ra; phần bột đất nhẹ tơi theo không khí bay toả ra, xộc vào mũi, nóng khé cổ; phần còn lại lọt qua kẽ tay rơi lả tả, vô hồn. Đất vốn là gốc sinh ra và nuôi dưỡng vạn vật mà sao cảm thấy thiếu vắng sinh khí.
          Nẵng rát, chói chang. Bầu trời cao cứ xanh ngằn ngặt, không một gợn mây. Thảng hoặc mới có một sợi gió mỏng mảnh, không đủ lay động cả một ngọn cỏ.
          Những cánh rừng khộp thở dốc, gần như kiệt sức. Những vạt cỏ vàng úa, táp nắng, xác xơ, kiệt lả. Ngay tán lá của những cây Kơ nia vốn đượm mát, dẻo bền là thế cũng bắt đầu trở nên tai tái, rũ cụp, thoi thóp và khắc khoải.
          Thỉnh thoảng lại có một vài người mẹ miệng ngậm tẩu, mình để trần, trên ngực lõng thõng đôi bầu sữa "thi gan cùng tuế nguyệt". Những chiếc váy đen họ mặc đã sờn bạc, đường chỉ đỏ viền nơi gấu đoạn mất đoạn còn, lua tua, phập phồng theo từng bước chân trên con đường đất đỏ lổn nhổn sỏi cát dẫn vào rừng. Người nào cũng mang trên lưng một chiếc gùi rỗng không và một con dao đi rừng nắm chắc trong lòng bàn tay mảnh mai, răn reo xạm nắng. Họ đi kiếm cái ăn cho con.
           Không một tiếng chim. Chẳng có lấy một âm thanh sột xoạt. Lũ thú rừng cũng đã tìm đường vào sâu tít trong rừng già, ngược lên thượng nguồn mong tìm được chút nước uống cầu sinh.
          Những bản cưa xăng, những chiếc máy kéo, những chiếc xe Reo, những chiếc máy nâng, những đoàn ô tô sơ mi rơ moóc dài ngoẵng đã từng đi qua đây, lấy đi, chở xuống các thành phố, cảng biển những cây gỗ lớn đại ngàn và để lại phía sau chúng những chói chang nắng lửa, đỏ đọc đất đai.
          Dưới tán cây to một người ôm ven đường, có một toán người đang ngồi nghỉ, êm đềm tránh nắng. Không rõ từ bao giờ, gốc của cây đã bị lột trọn một khoanh vỏ. Nghe nói, người ta thường làm như vậy cho nhựa sống của cây không thể dâng lên từ gốc mà đi nuôi dưỡng cành lá, cây tất sẽ chết khô và đấy là lúc đem dao búa đến hạ cây đem về dùng. Thế mà, không hiểu có một sức mạnh kỳ diệu nào đó khiến cây vẫn xanh tươi, xùm xoà, toả bóng che mát cho toán người ngực áo đang mở phanh, lao xao trò chuyện, nói cười vô tư kia.
          Xa hơn, về phía triền một quả đồi lớn, một bãi đất mới rộng hoác hơ đang dần hình thành. Một lũ máy ủi trùng trục, vàng khè, ầm ì phun khói diezen, thi nhau nạo xục, san phẳng, gạt phăng đi từng lớp thảm thực vật mầu mỡ sinh chất; có lẽ để xây dựng một công trình văn hoá gì đó. Bên rìa bãi, còn sót lại một cây dầu còi cọc, mảnh khảnh, đang xoà cái tán ốm o của mình, trong nỗi lo lắng vô vọng, cố che chở cho một cỗ máy ủi mấy trăm sức ngựa cao to lừng lững được người thợ nào đó đỗ vào tránh cái nắng bỏng buổi trưa.
          Ngược lên phía tây, ở chân một vạt đồi nhỏ khuất sau quả núi trông giống đỉnh Phú Sỹ nhưng không có tuyết, là một nương ngô đã bị khô cháy. Có vẻ chủ của nó đã từ lâu không còn ngó ngàng gì đến đây. Giữa đám đồng loại đã bị khô cháy ấy, vẫn còn sót lại một thân ngô thấp bé, loeo khoeo, gầy guộc. Giữa những nách lá khắc khổ, úa vàng của nó vẫn nhận ra một cái bắp còi cọc, phía trên loi thoi những sợi râu màu nâu bạc phếch. Cái bắp, dù là còi cọc, dù được sinh ra từ một thân ngô gầy guộc loẻo khoẻo, bé mọn, đang phải vận hết phần sức lực cuối cùng của mình chống lại cái chói chang khốc liệt kia, cũng vẫn được bao che đầy đủ bằng những lớp áo mỏng mềm, hiền dịu. Tại sao vậy ? Đơn giản là vì nó có mẹ. Người đàn ông đứng trước cây ngô, nghĩ đến người mẹ của mình và hai giọt nước mắt tự nhiên cứ ứa ra. Hỡi bà mẹ thiêng liêng và cao quý, hãy nhận lấy những giọt nước mắt của con trai mình; đó là phần tinh tuý nhất của lương tri và trái tim con trẻ, là thứ phần thưởng phàm tục tinh khiết nhất, toả sáng lấp lánh, dành cho người Mẹ !
          Đến đây, người đàn ông nhớ tới cái thân cây ven đường đã bị ai đó lấy đi khoanh vỏ, nhớ tới cái tán lá ốm o của cây Dầu khẳng khiu rìa bãi, bất giác thốt lên hai tiếng: Mẹ ơi !  
          Năm ấy đã có một con lũ quét tràn qua vùng này. Thân ngô đổ rạp dưới một lớp bùn mỏng. Mùa sau, người dân địa phương nhận ra, trên vạt đồi nhỏ ấy, đã mọc lên một vạt ngô xanh mướt, tươi tốt lạ lùng. Đến khi bắp đã chắc hạt, bẻ về ăn thử. Thấy có hương thơm vị lạ, họ bèn lấy giống. Từ đó trở đi, người dân vùng ấy chỉ trồng trỉa giống ngô này. Họ bảo tuy năng suất không cao, nhưng thơm thảo và, hơn nữa, lại có khả năng chịu khô hạn rất cao, người nông dân không phải lo bị đói nữa.
           
          *
           
          Mùa xuân đi qua để lại hoa thơm trái ngọt và đoạn kết ngọt ấm cho những khúc tình ca. Đàn ong đi qua để lại những mùa quả núc nỉu, trĩu chịt cùng những bọng mật kết hương từ muôn loài hoa đồng nội ...
          Cơn bão đi qua để lại hoang tàn đổ nát. Con lũ quét đi qua để lại sói lở, xụp trôi và bùn lầy đè lấp bên dưới nó tất cả những gì của một cuộc sống vốn đã chật vật, lao lung.
           Còn con người đi qua thì để lại gì ?
           

                      Gia Lai, 08 tháng 7 năm 2005
           
          #20
            Ct.Ly 04.01.2008 06:38:13 (permalink)
            #21
              Nghiêm Lương Thành 10.01.2008 14:00:02 (permalink)
              Nghiêm Lương Thành




              MÂY BAY TRÊN ĐẦU VÀ NẮNG TRÊN VAI …
               
              Đã sáu rưỡi tối. Triệu khoá cửa phòng làm việc, sách cặp ra về. Bước xuống sảnh lớn của cơ quan, đã thấy một chậu đào to tướng, có dễ phải cao đến ba mét. Khắp các cành to cành nhỏ, nhằng nhịt những sợi trang kim xanh đỏ và các thứ quả, lẵng, gói nhỏ, đèn lồng, chuông, khánh, nơ, đăng ten ... treo nhũng nhẵng la liệt. Đúng là một thứ văn hoá lẩu mắm – Triệu thầm nghĩ - Nói, thì lại bảo là hay xét nét. Thôi, miễn đừng có ai cho vanilla vào món cháo lòng là được. 
              Đánh vèo một cái, thế là lại hết một năm. Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là sang năm mới. Thời gian gớm thật - Triệu nghĩ - vừa mới đấy mà mình đã ngoài năm mươi rồi. Con cái thì vẫn còn nhỏ dại, nhà cửa thì trông chẳng khác gì cái hố rác. Cuối năm tới, phải cố xây lấy cái nhà tử tế cho vợ con đỡ tủi với bạn bè. Ơn phật, được cái, cô vợ béo ịch của mình, tiếng là xoe xoé suốt ngày thế thôi, chứ chưa bao giờ so sánh chồng mình với chồng người và cũng chưa bao giờ chê bai chồng mình là kẻ đần nghệch, không biết đường kiếm tiền, chẳng biết cách giao lưu sâu sắc với các sếp.
                Có lẽ thần kinh của Triệu có vấn đề thật. Ngày trước, ngay cả những lúc tiền không bén túi, gã chưa bao giờ có mặc cảm vì mình là kẻ nghèo túng; thậm chí, khi mới tốt nghiệp đại học, gã còn nghĩ mình là người ít nhiều có tư chất cao quý và thường duy trì một khuôn mặt ngưỡng thiên mỗi khi đi ra khỏi nhà. Điều này có thể hoàn toàn thông cảm được, bởi đó là thường tật của tuổi trẻ, sự ngộ nhận tức thời của một gã trai mới ngoài hai mươi tuổi đầu, đôi mắt trong veo ngạo mạn luôn cả gan cười cợt cái chân lý "Có tiền mua tiên cũng được".
              Thế rồi, thời gian trôi đi, lẽ tự nhiên vốn hết mưa thì đến nắng, và con thuyền cuộc đời Triệu đã đi qua khúc ngoặt hiểm trở, dương buồm đón gió dong thẳng vào khúc sông êm ả bằng lặng, rộng rãi và trù phú. Hồi đầu năm ngoái, sau một hồi đấu đá khá quyết liệt của mấy sếp, không hiểu thế nào, bỗng dưng thấy mấy sếp đó cùng cầm tay nhau "hạ cánh khẩn cấp" và Triệu - vốn chỉ là một trưởng phòng kỹ thuật quèn - nhận được cái Quyết định bổ nhiệm làm giám đốc công ty. Tuy chỉ là công ty cấp thấp, nhưng điều này đã làm gã bị sốc thực sự. Gã sốc không phải bởi "Tốc hỷ lâm môn" mà bởi gã chưa hề sẵn sàng đón nhận; bởi trước đó, gã chỉ cắm cúi làm việc như bất cứ công chức tử tế nào, đơn giản chỉ là để khỏi phải xấu hổ khi chìa tay ra nhận đồng lương cuối tháng từ tay bà thủ quỹ oai phong như nhân viên văn thư phường.
              Sinh ra ở xứ đồng chiêm mênh mang nước bạc, lớn lên nhờ củ giong củ ráy và tiếng sáo trúc ngân nga bay bổng lưng tầng trời xanh, nên đầu óc gã cũng có phần nào thênh thang, mướt mát. Với một cơ sở hạ tầng triết học như vậy, gã không hề để tâm quen biết, cũng chẳng xách túi rượu ngoại đi lại thành khẩn trung trinh với "sếp nhớn" nào; Nghĩa là không được xếp vào hàng ngũ đông đảo của những bậc "quân tử tuỳ thời mà thông biến". Vậy, sốc là phải ! Nhưng nghĩ lắm làm gì cho nó chóng chết, bởi cái ông Tạo kia vốn cũng đa sự lắm, chỉ thích bày đặt ra những trò trái khoáy trêu ngươi.
              Gã cả gan "kháng chỉ", phăm phăm đem tờ quyết định trả lại phòng tổ chức Tổng công ty. Phòng tổ chức tổng công ty lại cho người đưa xuống. Gã lại gặp thư ký công đoàn của Tổng công ty nhờ hậu thuẫn thì thư ký công đoàn cũng kiên quyết không ủng hộ. Bức xúc quá, gã lên gặp thẳng ngài Tổng giám đốc thì liền bị ngài "nâng quan điểm". Đã thế, nhận thì nhận ! Sợ chó gì cái nghề giám đốc ! Người ta cứ nhất định dúi cờ vào tay gã thì gã phất, phất thật lực; cố mà phất cho đẹp, cho hào hùng.
               
              *
               
              Thực tế, gã không phải là hạng suất sắc, nhưng cũng chẳng bị ai chê là dốt bao giờ, nghĩa là cũng như phần lớn trong số những kẻ đồng hạng. Gã thừa hiểu rằng cứ vận hành công ty một cách thẳng băng, trong sáng thì công ty sẽ đi đến chỗ phá sản, sẽ đắc tội với anh em dưới quyền. Còn ngược lại, sẽ đắc tội với công cộng ! Mà có doanh nghiệp nào dám không làm sai không ? Suy đi tính lại, gã có làm cho gã đâu ?
              Vậy là, điều đầu tiên, sau khi nhận bàn giao, gã nghĩ ngay đến Nhân, thằng bạn cùng học, nghèo khó và ranh như cáo, đã từng sát cánh, cùng gã vật lộn trong các cuộc kiếm cơm bèo bọt trên cái khúc sông quanh co nhọc nhằn vừa qua. Thời buổi này, không khôn ranh để tạo công ăn việc làm cho anh em thì chỉ còn nước ... kính chuyển Bồ tát giải quyết ! Chẳng gì cũng được tiếng khi phú quý không quên bạn thuở hàn vi mà lại còn được Nhân bổ sung một cách hoàn hảo cho những khoảng trống kỹ năng thời tục đang thiếu hụt nghiêm trọng trong gã.
              Quả thật là Nhân đã rất được việc. Nhân chạy đôn chạy đáo, chạy đi chạy lại như một con thoi giữa công ty và các cơ quan liên quan. Với bộ sưu tập tinh tuyển các kiểu cười đã được ghi vào bộ nhớ trong đầu không rõ tự bao giờ, cộng với cách sử dụng thành thạo đôi bàn tay như một nghệ sỹ công huân kịch câm, khi xoa vào với nhau khiêm cung cảm động, khi nắm chắc lại đanh thép trung trinh, lúc chém trong không khí hùng hồn cảm khái ... và với đẳng cấp cao trong dòng văn hoá "bì thơ" đang say xưa cuộn trào trong cõi nhân gian, Nhân đã rất thành công trong việc xây dựng các mối quan hệ, các liên minh chiến lược, chiến thuật, cùng Triệu đưa về cho công ty hết gói thầu này đến gói thầu khác. Nhân đã thành "người nhà" của nhiều bộ ngành, nhiều tổng công ty và nhiều ngân hàng lớn, luôn bổ sung kịp thời nguồn vồn cho công ty và làm cho công ty nổi như cồn với kỳ tích luôn luôn đạt tiến độ thi công ghi trong thiết kế và hợp đồng trao thầu.
              Vả lại, hắn là người cũng rất biết điều, luôn biết cách chăm lo và đối sử với xếp sao cho phải. Cái chữ "phải", đố có tìm thấy sách nào dạy, nhưng người ta đã phải học từ cách đây nhiều ngàn năm, vậy mà có phải ai cũng học được đâu ! Mới chiều nay, ở cơ quan, Nhân bước vào phòng Triệu, nụ cười nhăn nhở nở toác ra từ cái miệng trông như móm trên cái bản mặt trông như gẫy, đưa cho Lợi một chiếc phong bì mỏng teo: "Tôi đã chuẩn bị tiền Tết cho anh em trong cơ quan và chúc mừng năm mới cho các đơn vị liên quan như đã thống nhất với ông. Đây là phần của ông. Thành thật xin lỗi vì công việc cập rập quá !".
              "Đại táo" là bếp dành cho đại bình dân. Thời buổi bây giờ, phong bì mỏng mới là nhã, là tinh. Triệu bỏ cái "bì thơ" vào ngăn kéo, mỉm cười hài lòng: "Cảm ơn sự hỗ trợ của ông trong công việc. Nhưng đừng làm cái gì quá, để anh em người ta kêu là không được đâu !".
              Hồi đầu mới nhận cái chức giám đốc này, Triệu vẫn giữ cái nếp chỉ chăm chăm vào công việc, miễn sao cho bạn bè, người quen và các cấp trên khỏi đánh giá là người kém cỏi, hoặc vô trách nhiệm. Thấy vậy, Nhân bảo: Chả nhẽ ông cứ để vợ con ông phải sống lay lắt mãi như thế. Người ta sẽ cười vào mũi và gọi ông là thằng cám hấp cố chấp, chẳng ai muốn quan hệ, không ai dám hợp tác. Nào, thử nghĩ xem, nếu ông trong sáng thì ông sẽ được gì ? Ông: được tiếng trong sáng, vâng, cái ánh trong của nước lã ! Vợ ông: mặt lúc nào cũng khó đăm đăm, đi qua cửa hiệu mỹ phẩm phải quay mặt đi, còn đầu thì nóng lên vì phải tính toán cân nhắc đến từng nửa ngàn mỗi khi đi chợ. Các con ông: Mỗi ngày phải cuốc bộ ngót chục cây số, lưng oằn xuống, khốn khổ với cái cặp sách cải cách để đến trường và về nhà. Cả gia đình ông: Biết bao giờ mới có một ngôi nhà bình thường để sống cho ra hồn con người bình thường ? Ông tưởng là ông còn sống lâu lắm à, có được nổi hai giáp nữa không ? Ông làm thế, về lý thuyết, đồng ý là người tốt, nhưng xã hội được gì ? Một que diêm cỏn con, nhiệt độ thì cao đấy, nhưng có đủ nhiệt lượng để đun sôi một thìa nước không ?! Nếu ông trong sáng thì, chí ít, ngày lễ ngày tết, rồi đến cuối năm sẽ chẳng có gì để chúc tết các sếp và lập tức lâm vào tình trạng chẳng giống ai. Điều này có nghĩa là, không chóng thì chày, ông sẽ nhận được câu nhận xét từ các phía trên: "Năng lực rất kém !". Bạn bè, đồng nghiệp, nào ai biết đấy là đâu. Tiếp theo là cái gì thì ông biết rồi. Cái ghế của ông lúc nào cũng có ba vạn chín nghìn thằng thường trực mơ tưởng ! Mà chúng nó thì "kinh doanh", “quy hoạch” náo nhiệt, dữ dằn lắm, chứ không như ông tưởng. Bấy giờ, những việc ông tránh làm, thằng thay ông nó sẽ làm, thậm chí còn làm tàn bạo; thiệt hại cho nhà nước còn cao hơn ! Và trên thực tế, nói đến cùng, xin lỗi, thực ra ông là kẻ chỉ có trong mà không có sáng !
              Mà nghĩ cho hết nhẽ, Triệu đâu có phải là thủ tướng thủ tiếc gì cho cam, gã chỉ là một "vĩ tướng" siêu mọn mà thôi. “Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân”. Những lời của Nhân, ít nhiều có phần chí tình, tuy đầy nghịch lý; và, oái oăm thay, cái nghịch lý ấy lại dường như thuận thời lý ! Vậy là Triệu tặc lưỡi, tự nguyện, rón rén, đứng nép mình vào hàng cuối trong đội ngũ của những kẻ sáng dạ và thuận thời lý đó.
               
              *
               
              Thành thật xin lỗi vì những điều lang bang, chẳng ăn nhập gì với câu chuyện. Hãy trở lại không khí ngày tết.
              Vào giờ trước giao thừa, từ lâu, Triệu có cái thú đi lang thang ngắm nhìn thiên hạ náo nức đón xuân, xem đốt pháo và dừng chân bên bờ hồ Gươm, ngửa mặt lên mà nhìn trời, mà hít căng lồng ngực cho đến no nê làn không khí xuân tươi mới trong lành. Năm nay các con của Triệu cũng đã cứng cáp. Gã muốn được đi du xuân cùng vợ và các con. Nhưng khi nhìn đến thì chúng đã - đứa nằm xuôi, đứa gác ngược - nhắm tít mắt tự lúc nào rồi. Gã ngắm hai đứa con đang ngủ mê mệt mà trong lòng bỗng rưng rưng dâng lên một nỗi thương cảm của người cha: Khổ thân, bằng ấy tuổi đầu mà chưa hề biết chơi bi, đánh đáo, đánh chuyền, vầy vọc đất cát là gì. Học, học và học ... đến nỗi, xểnh ra được mấy ngày nghỉ tết là lăn ra ngủ, ngủ như chưa bao giờ được ngủ ! Gã quay sang vợ, ướm hỏi:
              - Hay là ... tôi với mình đi chơi giao thừa đi !
              - Vẽ ! Cứ làm như còn trẻ trung lắm ấy. Phố xá thì toàn những người là người, có gì mà chơi !
              Sực nhớ lại một bài viết vừa đọc được trong tạp chí Hạnh phúc gia đình hôm trước, thị cảm thấy câu trả lời của mình có cái gì đấy thực dụng đến hơi ... thô bạo; Cần phải đưa ra một dấu hiệu cảm thông với phần hồn nhậy cảm của chồng và nhân thể thông báo rằng cái chất lãng mạn của thị vẫn còn nguyên đấy:
              - Mà thôi, quanh năm vất vả, cả năm có một tý giao thừa ... mình cứ đi đi, em còn phải làm thịt con gà cho kịp cúng giao thừa đã.
              Thấy gã còn dùng dằng chưa nỡ, thị, tay cầm con dao, tay xách cánh con gà sống choai, nghiêng mặt mỉm cười, nhẹ liếc xéo một cái:
              - Thôi, lại còn làm khách nữa cơ đấy ! Mình đi đi, không em lại đổi ý bây giờ !
              Triệu bước ra khỏi nhà, liền thấy đèn đóm sáng trưng, hoa giăng đầy phố, xe cộ đan nhau, quần áo muôn màu, trai thanh gái sắc, thích cánh chen vai, con trẻ nô đùa, xe hơi êm ái, giai nhân êm đềm, hương xuân sực nức ... thì thấy trong lòng rất là khuây khoả. Đi hết dãy phố, qua một ngã tư rộng, gã đã đến đầu phố tiếp theo. Từ ngã tư này, gã vô tình nhìn chéo sang bên kia đường, liền nhận ra cái chỗ trước kia là một dãy nhà tập thể lụp xụp của một cơ quan nào đó, nay đã là một dãy những ngôi nhà ống hun hút bốn năm tầng cao, tháp nhọn tháp tròn, nguy nga ngất ngưởng. Thế mới biết thiên hạ tài ba mà kín đáo làm sao - Gã nghĩ và không khỏi phân vân, thán phục - Chẳng gì, dù là quẻn quèn quèn, thì mình cũng là giám đốc một doanh nghiệp "mậu dịch" có thâm niên đến mấy năm, cũng có điều kiện nhặt nhạnh hơn khối kẻ dân thường tay bo, vậy mà ky cóp hạt bột, bóp mồm bóp miệng mãi, nếu sang năm làm nhà thì cũng còn phải đi vay la liệt. Ấy thế mà cái đám công chức rúm ró khốn khổ, chân cẳng tong teo, mắt trố mồm giô, may ô lỗ rỗ, chui ra chui vào như cua đồng ếch ộp trong cái dãy bị lạm dụng gọi là nhà ấy, chỉ chờ nhận được tờ giấy bán hoá giá một cái là tức thì, tất thẳy đồng khởi, vươn mình Phù Đổng, đổi mới phi thường luôn !
              Hè phố quãng này hơi chật, gã xoải chân bước xuống lòng đường. Có ai đấy,  đạp xe vội vã, cành đào sắm muộn buộc phía sau xe quệt nhẹ phải vai gã, vương lại mấy cánh hoa phớt hồng phía trên mép túi ngực. Hai thiếu nữ đi ngược chiều trông thấy mấy cánh hoa đậu trên miệng túi áo của gã thì khúc khích, nghịch ngợm chỉ trỏ: "Ôi, thế mới lãng mạn chứ !". Gã bật cười theo và thấy niềm vui đã trở lại, không thiếu một ly mà có phần còn trong trẻo hơn cả lúc trước.
              Nhà nào cửa cũng mở toang. Từ ngoài đường nhìn vào gã có thể thấy tất cả những gì họ làm để đón xuân và đón khách trong những căn buồng mặt tiền. Vẫn là công thức truyền thống: Cành đào, chậu quất, có nhà còn có cả chậu mai trắng, rồi đèn nến, câu đối đỏ, bánh chưng xanh, chai rượu, ngũ quả, hương khói, khăn trải bàn, hộp mứt, âu trầu ... nhưng gã cứ nhìn mãi, không biết chán. Theo hướng hồ Gươm, gã đi cả vài cây số, vừa đi vừa quan sát vừa ngắm nghía và, trong thâm tâm, cố tìm xem có bao nhiêu khuôn mặt cau có để thử làm một phép thống kê đơn giản. Nhưng gã đã uổng công: phép chia phần trăm, xét trên khía cạnh toán học, vẫn có nghĩa, nhưng trị số lại là một con số không màu hồng. Bỗng gã nghe thấy tiếng gì đó, quen lắm ... A, phải rồi: Tiếng pháo ! tiếng pháo nổ ở đâu đó, đích thị là nó: Tạch tạch ... tạch tạch đùng tạch tạch ... Đốt pháo a ? Có lệnh cấm nhiều năm nay rồi mà; nhà nào lại dám coi thường chủ trương của nhà nước như thế ? Ngông cuồng, ngông cuồng quá ... ! Ôi, nhưng khuôn mặt gã chợt đỏ rần lên trong ánh điện: Không phải ! Từ phía phố Hàm long, mấy đứa trẻ con trạc trên dưới mười tuổi, túm tụm đi với nhau, trên tay một đứa là cái cátxét. Tiếng nổ vui vẻ vẫn không ngừng phát ra từ cái vật ấy, làm khối người đi đường phải quay đầu ngoảnh lại, lắc đầu vui vẻ. Một cụ già, đầu đội mũ phớt dạ xám rộng vành, khoác trên người một cái măng tô cũng bằng dạ đã cũ lắm, tay chống lọc cọc chiếc can có tay nắm bằng sừng, đi ngược chiều và qua cặp kính dày cộp, nhận ra nét mặt băn khoăn của gã: "Thưa - cụ chìa tay về phía có tiếng "pháo điện tử" - thế cũng vui ông ạ. Méo mó có hơn không. Giá thử có chút mùi diêm sinh nữa, chậc  ... cái mùi tết ấy nhỉ, thì cũng kể như gần giống ngày xưa !". Rồi ông ngoái lại, nhìn lũ trẻ đang đi xa dần về phía phố Ngô Thì Nhậm, miệng cứ lẩm bẩm: "Thương quá, thương quá !". Ôi, người già thường hay xúc động quá mức đấy mà. Nếu về nông thôn, chắc cụ phải khóc mất ! Mà nông thôn thì rộng lớn thế, nước mắt nào cho đủ ? Triệu cười, tặc lưỡi, rồi lại đi tiếp.
              Xa hơn, vẫn còn một dãy bàn của mấy nhà ai đó kê ra trước cửa bán hàng tết. Chắc là họ tranh thủ bán cố trước giờ giao thừa. Thế mà cũng có khối người mua. Thiên hạ bây giờ bận bịu thật. Đến gần, Triệu nhận ra ở đó có hai bàn bánh chưng, một bàn giò chả thịt quay, một bàn bán xôi cúng và mấy bàn bán bóng bay, túi lì xì. Cách đó mấy bước, trước cửa một văn phòng giao dịch thương mại đã đóng cửa nghỉ tết, gã nhận ra, khuất trong bóng tối của một gốc cây xà cừ lớn là hai đứa bé rách rưới, tiều tuỵ. Thằng anh, vai đeo một cái hộp kính nhỏ; phía trong hộp chỏng trơ mấy phong kẹo cao su, mấy thỏi kẹo hoa quả và mấy bao thuốc lá bóc dở; nó đứng ngẩn người, đôi mắt đen thẳm đang nhìn chăm chắm vào cái bàn xếp ngồn ngộn những bánh chưng, không hề biết là gã đang quan sát chúng. Trời rét căm căm, cái áo vi ni lông mỏng dính không giúp được gì cho nó lắm. Thỉnh thoảng, một đợt gió ùa tới, khiến đôi vai còm nhom, mỏng dính của nó bất giác xo lại cùng với mẩu vải bị rách phía bả vai cứ chìa ra, phất phơ như một cánh bướm ma. Con em gái, cũng lem luốc, bù xù, hốc hác như thằng anh; nếu có khác là khác ở cái áo nó mặc có vẻ dày dặn hơn và ấm hơn. Hình như nó bị tật nguyền ở chân. Nó ngồi trên một mảnh gỗ hình chữ nhật, bốn góc của mảnh gỗ là bốn cái vòng bi cũ, một sợi giây dù buộc luồn vào cái lỗ khoét ở mảnh gỗ, đầu kia của sợi giây đang nằm trong tay anh nó. Con em cầm lấy sợi giây, giật giật, mếu máo:
              - Anh ơi !
              Thằng anh quay lại:
              - Gì ?
              - Em đói lắm !
              Nó ngồi thụp xuống bên em:
              - Ừ, anh quên mất.
              Rồi nó móc ở túi áo ra một mẩu bánh mì nham nhở, thong thả xé từng miếng nhỏ bón cho em.
              - Anh ơi, anh cũng ăn đi.
              - Anh còn no lắm.
              -Ứ, anh đói thì có. Từ sáng đến giờ anh toàn uống nước lã !
              - Anh no thật mà. Thôi, em ăn đi. Hết chỗ này, chắc em vẫn còn đói đấy - Thằng anh đưa bàn tay lem luốc, dịu dàng vuốt tóc con em, vỗ về - Ngoan, rồi lúc nào có tiền, anh mua cho quả bóng bay màu hồng.
              Con em nhất định không ăn nữa, phụng phịu quay mặt đi. Thằng anh đành phải véo một mẩu nhỏ, cho vào miệng, vờ ngồm ngoàm, con em mới chịu ăn tiếp.
              - Mấy hôm nay chẳng thấy ai mua cái gì cho mình cả.
              - Chắc là tại tết đấy. Thế lấy gì mà ăn hả anh ?
              - Ừ, để anh nghĩ ... Mà có khi phải chuyển sang ngành đánh giầy thôi, chó con ạ !
              - Vâng, cũng được - Con em đáp, vẻ yên lòng hiện rõ trên ánh mắt.
              Chợt nhận thấy Triệu đang đứng nhìn chăm chú thì con em có vẻ sợ, liền dáo dác giật áo thằng anh: "Anh ơi đi đi !". Thằng anh quay lại, thấy Triệu, liền nhoẻn miệng: "Bác ơi, bác có mua thuốc lá không ?". Triệu không hút thuốc, nhưng gã đã nghe thấy hết. Gã đưa tay lên móc túi ngực, làm mấy cánh hoa đào màu hồng nhạt rớt xuống trước mặt con bé. Con bé rón rén, gượng nhẹ nhặt từng cánh lên, cẩn thận bỏ vào lòng bàn tay, cặp môi xinh xắn của nó khẽ reo lên, trầm trồ như bất ngờ gặp một kỳ quan: "Anh ơi, cánh đào !".
              Gã lấy ra hai tờ giấy năm nghìn đưa cho thằng anh:
              - Bác cho hai anh em này.
              Thằng bé, sau một thoáng ngỡ ngàng rồi hiểu ra, nó nhìn chăm chăm vào mặt gã cứ như thể gã không phải là giống người vậy:
              - Cháu không lấy  !
              - Sao lại thế ? - gã ngạc nhiên.
              - Cháu đi bán thuốc lá chứ có phải đi ăn xin đâu ! - Thằng bé mặt lạnh tanh, xoay ngoắt người ra phía đường.
              - Ăn xin cũng lương thiện chứ ?
              - Cũng có cả ăn xin lưu manh đấy !
                Thì ra thế. Gã cũng đã từng gặp một thằng bé tương tự ở một quán bia.
              - Vậy bán cho bác một bao đi.
              - Bây giờ cháu lại không bán.
              - Sao thế ?
              - Trông kỹ, bác không phải là người hút thuốc !
              Sau đó, dường như không để ý đến Triệu, thằng bé chỉnh đốn lại cái cửa hiệu (cái hộp thuốc lá) của nó, hất hàm về phía con bé: "Chú ý, khởi hành !". Và dứt khoát kéo cái tấm gỗ đưa con em đi, đôi vai ngúc ngoắc, cái đầu nghênh nghênh, ngang tàng lãng tử. Rồi, từ cái miệng non nớt của nó, nghêu ngao một câu hát nghe quen quen:
              Mây bay trên đầu và nắng trên vai
              Đôi chân ta đi sông còn ở lại
              Con tim yêu thương vô tình chợt gọi
              Lại thấy trong ta hiện bóng con người ...[1]
              Trên tay vẫn cầm hai tờ giấy năm nghìn, Triệu đứng như hoá đá, nhìn theo. Con bé, đầu lắc lư theo nhịp xe khấp khểnh, đôi bàn tay vẫn khư khư ấp lấy mấy cánh đào, thỉnh thoảng quay đầu lại, nhìn gã bằng khuôn mặt nhem nhuốc có đôi mắt to đen láy và một mẩu vụn bánh vẫn còn vương bên khoé môi non tơ.
              Bóng dáng của hai đứa bé lẫn dần vào dòng người tưng bừng muôn sắc, lúc ẩn lúc hiện, lãng đãng xa dần, xa dần ...
              Hai tiếng Con người, buông giữa không gian nơi kẻ chợ tân thời mà sao lại trong trẻo như tiếng chuông chùa làng quê, ngân nga da diết, khắc khoải ngẹn ngào ...

                          Từ nơi khoé mắt gã, đã lâu lắm rồi, lại ứa ta hai giọt nước trong trẻo ấm lành ...

              Tháng 01 năm 2008
              Đánh máy: Thiện Văn
              [1]  Trịnh Công Sơn
              #22
                Nghiêm Lương Thành 10.01.2008 14:10:02 (permalink)
                Nghiêm Lương Thành



                ĐI GIẬT LÙI
                 
                 
                            Ngày nào cũng vậy, trên đường đến nơi làm việc, tôi được đi qua khu vực một quảng trường rộng. Nói được ở đây không có nghĩa là bị ai cấm đoán. Hiểu như thế thì thiếu lương thiện, hoặc chưa đọc Hiến pháp Nước nhà, không biết trong đó có ghi rõ rằng mọi người dân đều được tự do đi lại, huống hồ đây chỉ là một sự di chuyển trong chốc lát, là nhu cầu thường ngày và hoàn toàn nằm trong khuôn khổ của luật biện chứng. Dùng chữ được ở đây có nghĩa là tạm thời tôi thoát khỏi cái căn buồng diện tích 18 mét vuông, ở một con phố ba phần cổ bảy phần kim; trong một ngôi nhà có 6 hộ độc lập cư trú, có số nhà được ghi trong sổ hộ khẩu giống nhau với tư cách là địa chỉ thường trú. Đó là tổ ấm của năm con người thuộc ba thế hệ, suốt mười hai tháng trong năm không được ông mặt trời và nàng gió đoái hoài tới. Thoát khỏi căn buồng ẩm thấp, suốt ngày được soi sáng bằng ánh sáng của một ngọn đèn không đủ điện áp, nước da xanh trong như bụt của tôi như được thỏa chí hồi sinh trong một không gian khoáng đãng tràn ngập dưỡng khí trong lành và ánh dương ấm chói. Mỗi khi đi qua nơi này, tôi thường tranh thủ hít căng lồng ngực làn không khí ban mai, vén ống tay áo cho cao thêm và tạm thời bỏ chiếc mũ ra khỏi cái đầu chớm hói để bộ da công chức của mình có điều kiện "quang hợp" thực sự lành mạnh trong nắng gió của thiên nhiên vô tư hào phóng.
                            Những người ít khi có việc phải đi qua vẫn nghĩ rằng khu vực này thường vắng vẻ vào sáng sớm. Thực ra không phải như vậy. Vào cái giờ tôi đi qua, bao giờ cũng thấy đã đông người. Mà họ là ai, ra đây để làm gì ? Đó là những khách du lịch thập phương dậy sớm, tay cầm máy ảnh, chân dận giày thể thao trắng bốp, đi tản bộ ngó nghiêng. Đó là những cụ già mặc áo lụa cổ tròn, cúc dây hạt đậu, dậy sớm ra tập thể dục dưỡng sinh. Quả thật, để tập thể dục thì khó có nơi nào trong thành phố hơn được nơi này.
                            Mà tại sao chỉ thấy các cụ già tập thể dục ?
                            Thực ra, còn có cả thanh niên nữa, nhưng không nhiều, mà họ tập ngay trong phố chứ không ra đây. Có vẻ như là một nghịch lý: Thanh niên là thời kỳ duy nhất trong đời người có khả năng bẻ gẫy sừng trâu. Thử nói xem, cho thêm một nhúm muối xuống biển liệu có phải là thành tích không ? Còn với các cụ già thì dễ hiểu hơn: Các cụ muốn nối dài tuổi thọ trong cảnh "Một cây cù mộc, đầy sân quế hoè", để chung hưởng hạnh phúc với con cháu và, hơn nữa, để hướng dẫn và uốn nắn đám con cháu vốn ít hoặc chưa từng trải, chưa thạo việc đời, nên thường mắc cái tật kinh người là chỉ dùng có nửa con mắt để nhìn đời. Một số người, tuy cũng đồng ý với cách hiểu này, nhưng không tán thành các cụ, họ bảo: Hay hớm gì cái thạo việc đời. Có thể họ bị gàn đấy, bằng chứng là khoa Tử vi đã từ chối việc lấy họ làm đối tượng nghiên cứu của mình.
                Cánh trung niên thì hầu như không thấy xuất hiện trên các nơi tập, họ chỉ ló mặt ra khỏi nhà để đi làm hoặc đi uống bia với bò tùng xẻo và ăn cơm nấu trong niêu đất không có nhọ nồi và bụi rơm. Chắc họ còn nhiều việc quan trọng hơn là rèn luyện. Khắp thiên hạ, ai cũng bảo sức khoẻ là quý, nhưng cấm có thấy ai đem lòng kính nể những người cường tráng. Thảy thảy, ai cũng bảo không màng tiền bạc, chức tước, nhưng … cũng là nói thế ! Tôi thì tôi mê cả hai, mê lắm ý, nhưng không dám thổ lộ, chỉ sợ không khớp với đạo đức xã hội, rồi người ta lại cười cho; bỉ lắm. Người đời, phần lớn, ai cũng quý trọng và muốn cầu thân với các nhà văn thơ, nhưng khi con cháu trong nhà mà chót dại le lói lên một chút thiên hướng văn chương thì liền nghiêm nét mặt, xua tay quầy quậy, lắc đầu quả quyết: "Chớ, chớ ... rách lắm đấy !". Tất nhiên, phỏng theo lối chia của dân gian, nhà văn thơ cũng có tới những ba mươi sáu hạng kia. 
                            Lâu dần, đâm thành thói quen, ngày nào mà không qua đây được một lần thì cảm thấy trong người ấm ức, bứt rứt khó chịu, công việc khó thông. Sáng nào tôi cũng đi làm sớm, để có được khoảng nửa tiếng đồng hồ ở quảng trường, lang thang hít thở, khua khoắng chân tay, trau dồi da dẻ. Vào buổi sáng của những ngày cuối tuần, tôi thường dậy sớm hơn để có thể nấn ná, giao lưu với những người tập ở đấy vài giờ đồng hồ liền. Và cũng nhờ đấy mà tôi có thêm được khối bạn, tất nhiên đều là bạn vong niên vì đều đã nghỉ hưu trí. Trong số những người bạn quảng trường này tôi có cảm tình đặc biệt với một người; đấy là một cụ ông trạc ngoài bảy mươi, đôi mắt vẫn còn tinh nhanh. Tuy dáng người hơi đậm, râu ria luôn được cạo nhẵn nhụi, nhưng đôi lông mày bạc với mấy sợi mọc dài vượt trội, vươn xoải về phía đuôi mắt trên nền nước da trắng hồng có những nếp nhăn trí tuệ vừa đủ, luôn khiến tôi liên tưởng đến những bậc cao minh, hình tiên vóc hạc được miêu tả trong những cuốn sách thời xưa. Ông nghiện đọc báo và biết rất nhiều chuyện. Có những chuyện ông kể cho tôi nghe chưa hề thấy báo chí nào đăng bao giờ. Ông thường bảo: Nếu không đọc báo thì đầu óc người ta chóng bị cũ lắm. Không có báo chí thì sao có thể hiểu thời, biết thế. Báo chí là thứ phân hoá học bón cho đầu óc con người, còn từ đầu óc lại mọc lên những cây trí tuệ xum xuê. Văn chương chỉ làm cho người ta bay bổng, mà bay bổng thì được tích sự gì chứ ? Lơ mơ và nguy hiểm ! Ở trên cao ấy chung chiêng lắm, chỉ thấy có vẽn chim trời với nắng gió. Dưới đất có cả thực phẩm lẫn triết học.
                            Nói chuyện với ông quả là thú vị. Ông là người khá tinh tế trong môn ẩm thực học nhưng thường không thể chịu đựng được những loại quà bánh được gói bằng các thứ lá chuối, lá sen quê mùa, không có giấy chứng nhận tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ của khoa học. Ông là người đọc nhiều, biết rộng, thông hiểu và nắm được một cách sâu sắc tinh thần cơ bản của nhiều dòng triết học chính của nhân loại. Ông luôn nói đến chữ Nhẫn với một tình cảm đặc biệt âu yếm. Và ông rất tâm đắc với ý tưởng vô vi của Lão Tử nhưng lại nhiệt thành khâm phục những tư tưởng của Friedrick Engels trong Phép biện chứng của tự nhiên. Ông dạy tôi những bài tập luyện thân giống như Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông từng tập trong các phim của Trung Hoa đại lục; ông bảo đấy là môn Thái cực quyền. Mỗi lần ngồi nghỉ, được nghe ông nói, tôi cảm thấy đầu óc mình giàu có lên trông thấy. Có những cái tôi chỉ nhìn nhận một cách lớt phớt và không hề để tâm, nhưng được ông dẫn dắt một cách có hệ thống và đưa ra những phân tích sâu sắc tôi mới ngớ người ra về cái sự thiển cận đến ngô nghê của mình. Ví dụ: trước đây tôi vẫn nghĩ hãy làm tốt công việc của mình, thế là đủ. Mọi điều còn lại, tự kết quả công việc sẽ nói. Nhưng, "chao ôi !” - Cụ nghiêng đầu, nheo mắt giễu cợt – “Thế thì ngành công nghệ mỹ phẩm và ngành sản xuất trống phách, thanh la não bạt đã cáo chung từ lâu rồi !".
                 
                *
                 
                            Không hiểu sao, độ này người ta lại đua nhau luyện tập theo kiểu đi giật lùi. Cụ già bảo: "Tôi đã tập thử rồi, tốt lắm, sức khoẻ tăng lên rõ rệt, hơn cả Thái cực quyền và kiểu đi bộ bình thường. Mà rất tuyệt là cái tâm trạng của ta, cứ tưởng là độc lập với chân tay mình mẩy, vậy mà cũng thấy khác mới lạ chứ, thư thái lắm. Tập càng nhiều càng thấy tinh thần nhẹ nhõm, tâm lý bình ổn, nhìn con bươm bướm ma cũng thấy lấp la lấp lánh là !".
                            Nhưng, để ý ở những nơi công viên, vườn hoa thì hình như không thấy thanh niên họ tập theo kiểu này; thậm chí đi bộ bình thường cũng không. Tôi hỏi:
                - Tại sao mấy cậu không tập theo kiểu đi giật lùi ? Nghe nói kiểu này hay lắm đấy.
                Đáp:
                            - Kiểu ấy khó chịu lắm, thần kinh căng thẳng, đầu óc chỉ muốn phát rồ phát dại; vả lại, con mắt lúc nào cũng chỉ nhìn thấy quá khứ, chưa kể cái môn đi bộ này nhẹ quá, không đủ độ để làm tăng nhịp đập của tim và đẩy nhanh nhịp hô hấp. Chỉ có cách chạy về phía trước, vừa đơn giản vừa sảng khoái – Cậu trai nháy mắt hóm hỉnh – vừa luôn luôn thấy trước được những gì ở phía ta đang đi đến !
                Đúng là chỉ nhìn người khác đi giật lùi tôi cũng đã thấy bức bối rối mù lên rồi, thậm chí những ngày trong người không được khoẻ còn thấy chóng cả mặt, về nhà đo huyết áp có hôm lên tới 190/160. Nhưng biết làm thế nào được, tôi không phải là nhà khoa học để có thể đưa ra những chứng cứ, những lập luận đanh thép để chứng minh tác hại của kiểu tập này; lại càng không phải là lãnh tụ trong giới thể thao để có thể dùng uy tín mà khuyên can phong trào. Thôi thì, trong ba mươi sáu chước, tôi chọn lấy cách tự điều chỉnh chính mình. Từ đấy, tôi chuyển hành trình đến cơ quan của mình bằng con đường khác; nếu do quen chân mà vô tình đi vào đường cũ thì cũng cắm cúi, đạp vội cho nhanh qua cái khúc chóng mặt ấy. Những lúc thấy uể oải, muốn trau dồi dưỡng khí và nắng gió thì chịu khó đạp xe về phía đầu cầu Thăng Long; Ở đấy tuy độ này cũng nhiều bụi, nhưng được cái kề sát dòng sông Hồng thơ mộng, so với nội thành vẫn còn sang chán.
                            Tôi nhớ, hôm ấy là ngày đầu tuần trăng, trời đất đã vào sâu tiết cuối thu. Từ bầu trời xanh ngắt, nắng sớm đã kịp rải một lớp vàng mỏng tang, nhóng nhánh lên những tán sà cừ xanh rì hai bên đường. Không gian trong trẻo tựa tiết thanh minh, lại pha chút heo may khô lạnh khiến ta bất giác dừng xe buông tay áo. Cảm giác dễ chịu đến mức khiến ngay cả những người đang bị cơn đau dạ dày hành hạ chắc cũng phải bất giác mỉm cười. Thế mới biết là cái thói quen nó ghê gớm làm sao, giống như một gã đang quyết tâm cai bỏ thuốc lá mà, đôi khi, vẫn vô tình đưa tay lên túi ngực rờ rẫm tìm bao thuốc và cái bật lửa, tôi nhận ra mình, ngựa quen đường cũ, không hiểu bằng cách nào, đã đang ở trên đoạn cuối của con phố dẫn vào quảng trường rồi. Đang mỉm cười tự diễu mình thì thấy thoang thoáng có ai đó mặc bộ đồ trắng đang đứng cạnh đường giơ tay lên vẫy vẫy. Tôi nhận ra người bạn vong niên của mình.
                            - Lâu nay cậu đi công tác à ?
                            - Hm ... m ... vâng ! - Tôi bối rối, đỏ mặt ấp úng trả lời.
                - Thảo nào, trông rắn rỏi lên đấy. Này, tớ có chuyện này hay lắm, muốn nói với cậu - Ông cụ chỉ tay về phía cây cột đèn góc quảng trường - Cứ lại đấy, chờ tớ đi nốt quãng này cho nó đủ cữ.
                Nể quá, tôi đành đạp xe lại phía tay cụ chỉ, ngồi xuống bên cạnh tờ báo và chiếc khăn bông để trên chốc.
                Ông cụ đang đi giật lùi về phía tôi ngồi, phía sau ông có một cụ bà, tay dắt đứa cháu khoảng lên bốn lên năm, tay kia xách chiếc làn mây thò ra mấy thẻ hương. Chắc là hai bà cháu đi lễ chùa sớm cho thanh tịnh đây. Cầm tờ báo lên, đang đảo mắt lướt qua những hàng tít chính thì bỗng nghe thấy có tiếng kêu ối và sau đó là tiếng trẻ con khóc ... Tôi ngẩng lên ... đích thị là ba người: Người bạn vong niên của tôi và hai bà cháu đi lễ đã ngã lăn chiêng cả ra đất. Cụ già của tôi đã cứ hồn nhiên giật lùi hoài mà không hề biết đằng sau mình có hai bà cháu ... Tôi hốt hoảng chạy lại. Đứa bé đã ngồi dậy, miệng vẫn đang mếu máo, hai tay ôm lấy đầu gối. Còn hai người già vẫn nằm bất động. Rõ là cả hai cụ đều bị va đầu xuống vỉa xi măng bao thảm cỏ. Ngay lập tức, nhận ra mức độ nghiêm trọng của sự việc, tôi nhanh chóng chặn được một cái xe bốn chỗ và đưa tất cả tới bệnh viện gần đó. Cháu bé chỉ bị xước nhẹ và đau có một lúc. Còn hai ông bà lúc sau mới tỉnh. Bác sỹ yêu cầu cả hai phải nằm bất động để theo dõi. Phúc của các cụ cũng còn lớn, chắc là được linh hồn của các liệt sỹ vô danh độ cho. Ngay chiều tối hôm đó bệnh viện đã cho phép người nhà đón cụ bà về nhà.
                Sớm hôm sau, tôi chủ tâm đi làm sớm để ghé qua bệnh viện thăm người bạn vong niên đáng kính. Cụ đã ngồi dậy được, trông thấy tôi thì tỉnh hẳn lên.
                - Bác thấy trong người thế nào ?
                - Không sao cả, phúc vẫn còn bằng cái đình chú ạ. Hai bà cháu mà làm sao thì có chết tôi cũng không nhắm được mắt ...
                - Bác cứ cả nghĩ ! Một rủi ro thông thường thôi mà.
                - Thông thường là thế nào ? Bậy, bậy hết chỗ nói !
                - Vâng - Tôi lúng túng - Cháu xin lỗi !
                - Ô, không - Chợt nhận ra sự hiểu lầm của tôi, cụ liền chữa lại - là nói tôi ấy chứ !  Xấu hổ, xấu hổ quá ... Giời sinh ra con vật nào cũng đi tiến, giống cua giống cáy ngang phè phè thì cũng chỉ đến đi ngang là cùng, thế mà tự dưng lại sáng kiến ra cái trò đi giật lùi ... không giống tự nhiên, hại người, hại cả chính mình ... nhục nhã quá, già rồi mà không trót đời !
                Đến đó, cụ già ngừng bặt, xây mặt ra phía cửa sổ, ngồi lặng. Đôi mắt, ngày thường vốn tinh nhanh là thế, chợt trở nên đờ đẫn, xa xôi.
                Quả, cái sự đi kiểu ấy là không thuận lẽ tự nhiên thật. Một lần nữa cụ già của tôi lại đúng !
                Tôi ngồi im, mắt cũng dõi về phía cửa sổ, nơi có muôn ngàn những hạt bụi li ti đang hân hoan bay lượn trong làn nắng sớm dịu lành.
                   Tháng 9 năm 2007
                Đánh máy: Thiện Văn
                #23
                  Nghiêm Lương Thành 12.01.2008 07:38:52 (permalink)
                  Nghiêm Lương Thành

                  THẰNG BỜM  

                              - Thằng Bờm là ai? 
                              - Thằng Bờm là thằng bờm !
                  Thời ông Lý Bơm, sổ đinh của làng ghi là Lý An Bờm; sang thời ông Lý Nhõn ghi là Trần Bờm, rồi sau đó, không hiểu thế nào, lại chữa ra Lê văn Bờm; đến thời ông Lý Cai, năm chạy lụt, sổ đinh không biết đi đằng nào, sau lập lại không biết ghi là gì; hỏi dân làng, người nào mặt cũng thộn ra, bèn cứ đề phứa là Nguyễn Quốc Bờm cho nó đẹp đẽ, phân miêng sổ sách ... Rốt cuộc, chính Bờm vẫn chẳng biết họ của mình là gì.
                  Bình thường, nếu là người đọc sách, dạy học như ông đồ Tú cuối làng, đều được cả làng gọi là ông Đồ Nguyễn hoặc bạn bè đồng môn trước đây gọi là Nguyễn tiên sinh. Còn người thường, không có gì nổi bật, thì chí ít cũng được gọi là anh cu, bố hĩm. Nó chẳng có gì na ná như vậy ngoài cái đầu bù xù khét nắng nên dân làng, vốn giản tiện, gọi béng là Bờm. Bờm chỉ khoái tắm sông thả diều, đốt rác ngoài đồng, ngủ trên bãi cỏ, nô với trẻ trâu ... thấy cái thứ gọi là họ ấy cũng không có lợi hại gì, nên cũng chẳng để ý. Sau này, có ai trêu chọc mà hỏi, Bờm bảo họ của nó là Thằng. Ấy là tự Bờm nói; người khác nói thì e đã có chuyện lớn. Thỉnh thoảng, đi qua lớp học của ông Đồ Nguyễn, ghé mắt nhòm vào thấy trên mặt giấy rặt có một thứ loằng ngoằng, dọc ngang chéo giật, Bờm tự thấy mừng cho mình vì chả có ai bắt nó đến đấy ngồi suốt ngày, còng cả lưng, rồi vẽ ra giấy những thứ chết tiệt như vết chân gà choai bới đất, đọc lên nghe lạ hoắc lạ huơ đến nẫu cả ruột.
                  Nghèo thì nghèo, Bờm cũng hữu sản đấy. Tài sản của Bờm là một cái quạt mo. Với người bình thường thì đồng tiền liền khúc ruột; với Bờm, cái quạt mo là vật bất ly thân. Xem diễn chèo ở sân đình làng, thấy vua quan ông nào cũng cầm một cái quạt trên tay. Thế thì Bờm đâu có ý chơi trội. Người ta bảo Bờm dở hơi, Bờm dốt, Bờm mù chữ, Bờm ăn no vác nặng, ăn đói cũng vác nặng. Ừ thì dở hơi, nhưng Bờm lại biết bơi, và riêng cái khoản bơi lặn này thì cả làng đừng hòng có ai bì kịp.    
                              Trong làng - trừ thằng mõ, thỉnh thoảng lén các cụ ngoài đình, dúi cho nó nắm xôi - Bờm chẳng thân với ai. Cả làng, từ người già đến con trẻ, chẳng ai coi nó vào đâu. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ai cũng có thể tự cho mình cái quyền chính đáng lấy nó ra mà chấm phá vui vẻ, mà làm những trò cười cợt bỉ ố rồi cười ré lên với nhau cả một lượt. Từ bé, Bờm đã quá quen với những trò đó nên nó chẳng giận, lắm lúc còn thấy vui vui là khác. Cái cảm giác thấy mình vẫn còn hơn chán vạn một cái mụn cơm cũng không phải là xoàng. Vừa hiền lành, vừa ngố ngá, ai nói gì cũng chỉ ngẩn ngơ cười, lại không có tính dỗi giận, nó chẳng bao giờ có thể trở thành một kẻ hay ho đến mức khiến người khác phải đem lòng tỵ hiềm mà ghen ghét hãm hại nên nó không có kẻ thù. Và, cũng vì thế nó chẳng thể có bụng ghét ai cho được. Tuy vậy, đôi lúc, như có Mẫu nhập, cái mồm của nó cũng không phải vừa ! Kẻ hẹp lòng, thường khó chấp nhận những cái hay ho của người khác, thì bảo: Điếc hay ngóng, ngọng hay nói, chó ghẻ có mỡ ở đuôi. Người rộng bụng, lại có được ít chữ thánh hiền thì bảo: Bờm nhập đồng đấy !  Tất nhiên, ngày nay, khi khoa vật lý chất rắn đã khá phát triển, thay vì dùng chữ nhập đồng, người ta hay nói thăng hoa; của đáng tội, cái chữ ấy nghe có gì đấy rất tinh thâm, bay lượn đáo để và, điều quan trọng nhất, không phải ai cũng có thể lập tức hiểu được.
                   
                  *
                   
                  Mấy năm trước, người Tàu rầm rộ đem quân sang định cai trị nước Nam. Chẳng cần biết nếu kẻ ngoại bang đến thì cuộc sống của nó có trở nên tồi tệ hơn hay không, Bờm cũng cứ nằng nặc xin quan cho được xung vào lính. Rồi Bờm cũng băng rừng vượt núi, cũng màn trời chiếu đất, cũng cầm giáo xách khiên xung trận, cũng hò hét vang trời, hùng tráng chẳng kém ai: "Đả bỏ bu mấy thằng con giời đến cướp làng nước người ta đi !".
                              Giặc tan, vua trở về cung, quan trở về phủ, còn Bờm thì về làng, đầu đội nón đấu, chân quấn xà cạp. Trẻ con thấy lạ chạy theo hàng đàn. Người lớn dí dủm tò mò, quây lấy Bờm hỏi chuyện trận mạc. Được ngày đầu còn oai phong vui vẻ; sang ngày thứ hai thì đã nhàn nhạt; đến ngày thứ ba thì Bờm đã thấy cái bụng của mình đang réo lên từng cơn từng hồi. Rốt cuộc, vẫn phải có cái gì đấy mà nhét vào bụng. Và như vậy, xem ra, vị thế của nó cũng chẳng có gì đổi thay. Vẫn chẳng ai coi nó vào đâu; người ta đã quen mất cái nếp ấy đi rồi. Bờm cũng có bị hẫng hụt chút đỉnh. Nhưng sự hẫng hụt của cái tâm trạng hân hoan đại tráng ấy rồi cũng qua ngay, bởi chính Bờm cũng chấp nhận và nhanh chóng trở về với cái nếp cũ rất quen thuộc ấy. Cuộc sống lại tiếp diễn, đều đều, đơn điệu như tiếng sáo diều ve vắt, trầm nhẫn ngoài bãi sông, bến nước. Vẫn như trước, ngoài cái quạt mo đã lên nước bóng láng ra, trong người Bờm chẳng có thêm vật gì, thậm chí chỉ là một cái dùi. Bờm không thích dùi; nó bảo dùi là cái có thể làm đau người; vả lại, trên cái giang sơn gấm vóc mà nó vừa đem thí cả cái thân thể hôi hám yêu quý của nó để khỏi bị người Tầu cướp mất, Bờm cũng chẳng có chỗ nào để có thể đàng hoàng cắm cái dùi đó xuống cho được. Cũng chỉ tại Bờm không có tiền, Bờm chỉ có độc cái thân xác. Thân xác của Bờm, chủ yếu, cũng chỉ có xương với máu. Nhưng thức gì cũng có mùa của nó: Thứ này rất cao quý trong những đận trận mạc, nhưng đến lúc thái bình vãn hồi thì chỉ có thể bán cho Thiên Lôi ! Nhưng, khốn nỗi, Thiên Lôi lại là thần tiên. Thần tiên thì chỉ dùng loại tiền vàng mã.
                              Tiếp tục cuộc sống cũ: Ai thuê cày thì Bờm cày, ai thuê tát nước thì Bờm tát nước, ai dựng nhà làm bếp thì Bờm đến khuân vác phụ giúp. Được cái, những nhà có việc hiếu việc hỷ, chẳng bao giờ người ta quên Bờm, bởi nó xăng xái và được việc, lại chỉ bảo ăn thì mới ăn, và không bao giờ mở miệng nói chuyện công xá. Mà dù nhà chủ có tử tế trả công thì nó cũng nhất định không nhận; nó bảo: "Bờm nhận thì Bờm đếch dám nhìn mặt người làng nữa !". Nếu trời cứ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt thì thỉnh thoảng Bờm mới bị đói. Trong làng, Bờm là người lao động tự do; và xét trên một ý nghĩa nào đó, ít nhiều, Bờm là kẻ góp phần khai sáng ra một hình thái xã hội mà nhiều trăm năm sau hậu duệ của Bờm gọi là xã hội công nghiệp.
                              Trong làng còn có Phú ông. Phú ông là người khoẻ mạnh, da nâu râu rậm, mặt tựa chữ điền, giọng nói oang oang, thích rượu ngon gái đẹp, lắm vợ nhiều con và nổi tiếng là kẻ tham công tiếc việc, thường hay tính toán lo xa quá đáng, tự mình đày đoạ cái thân mình, trần lưng làm lụng như trâu húc mả; lại thêm bệnh hạt tiện kinh niên, bóp mồm bóp miệng, hay tiếc của giời, nên cũng có lúc trả công cho người làm cũng sát sao quá lắm. Tiếng là hùng hục, là bóp mồm bóp miệng, nhưng trời lại phú cho lão cái giọng nói sang sảng, cái lối đi đứng oai vệ; oai vệ đến nỗi lý trưởng và các chức dịch trong làng trong xã cũng phải vô tình mà học theo. Lão quen thấy được mọi người trọng vọng nể vì. Kể cả kẻ chức dịch hàng xã, tuy đã cố lấy cái vẻ công quyền nghiêm nhã để đãi giao mà vẫn không sao giấu được vẻ khúm núm dúm dó trước kẻ phú hào ngỗ ngược đó.
                  Hồi quân Tàu tràn sang, Phú ông lúc ấy tuổi cũng đã cưng cứng, chẳng có lệnh nào bắt mà cũng cứ nhất quyết đòi xung lính một lần với Bờm. Trong quân, Lão và Bờm là người cùng làng, lại được phiên vào cùng một ngũ, cùng xa nhà và sống giữa bao người khác xứ, nên có phần gần gũi nhau hơn. Trong trận hỗn chiến Bắc Thạch Sơn, trong lúc hò hét, đâm tả chém hữu, Phú ông bị trúng một mũi tên vào bả vai; chính Bờm đã dìu lão ra xa nơi gươm giáo loạn xạ, nhổ mũi tên đó ra, nhai lá thuốc đắp vào vết thương và xé toang cái áo mới tinh mà thằng mõ dúi cho hôm lên đường xuất chinh, vừa buộc thuốc vừa cắm cảu:
                  - Đánh nhau mà mặt mày cứ hơn hớn lên dư thế thì nó bắn cho thế cũng là phải !
                  Phú ông ớ mặt, lấy tay trỏ vào mặt Bờm:
                  - Thằng này láo ! Sao mày dám hỗn với ông ?!
                  Đến lượt Bờm ớ mặt, rồi nó cũng nhớ ra Phú ông là ai. Nó bèn chắp hai tay lại, bảy phần hối, ba phần nhả nhớt:
                  - Nhà cháu nhỡ mồm, ông tha cho, từ rày không nói nữa ! Nhưng ... - Như chợt nhớ ra điều gì, Bờm hét tướng lên - đếch được !
                  - Sao lại không được ?
                  - Có mồm mà đếch được nói thì hoá ra cái giống trâu bò à ? Làm trâu bò để suốt ngày bị ông hết vắt rồi lại diệc à ? Còn xơi nhá ! Nhà cháu đếch phải là cái giống ấy đâu nhá, đừng có mà mơ !
                  - Thế những thằng câm thì chúng nó là trâu bò cả đấy ?
                  - Bị câm thì kể làm chó gì ! Còn Bờm đây đếch bị câm. Đếch bị câm mà không được nói thì chết cụ nó đi cho khoẻ ma ! Dưng mà Bờm đây lại … - nó đưa tay lên gãi gáy, ngoẹo đầu, cười tinh quái - … ngại chết lắm !
                  Một lần, trong một đêm ngủ rừng, Phú ông bảo:
                              - Mày đúng là thằng dớ dẩn, đéo ai bắt lính thằng dở hơi mà phải tớn vào lính cho nó khổ ải ?!
                              - Nhà cháu cứ tưởng ông là người giàu có thì tinh khôn lắm, hôm nay mới thấy hoá ra đếch phải.
                              - Tiên sư thằng ranh ! Mày tinh khôn thì nói ông nghe tại sao tự dưng lại đâm đầu vào chỗ khổ ải ?
                              Bờm cười nhăn nhở, gãi bụng xồn xột, rồi vỗ đùi đánh đét một cái:
                              - Có nhẽ nhà ông tối dạ thật ! Thôi, để nhà cháu giảng cho mà nghe nhá: Khổ ... thì cũng chả khổ hơn lúc ở làng, dưng mà nhà cháu được no cái bụng, được đối xử ngang phân với nhà ông ! Ối giời ơi, thế mà cũng đòi vác mặt làm người giàu cơ đấy giời ạ !
                  -  Mày có thể bị bỏ mạng nơi trận mạc !
                  -  Chậc … chết thì cũng có khác chi người đi ngủ tít thò lò, mà lại được cái oai phong vẻ vang với thiên hạ làng nước !
                  Rồi Bờm cứ thế nằm ngửa, giơ hai chân lên trời quậy đạp nhung nhăng mà cười ngặt cười nghẽo. Cười chán, rồi nó hỏi lại:
                  - Thế dưng nhà ông có nhiều thóc lúa, tiền của, vua lại chửa bắt đến, sao không ở nhà mà hưởng cho nó phè phỡn cái thân xác mà lại không dưng đâm đầu vào chỗ đâm chém nhau đến nỗi toé cha nó cả máu ra ?
                  - Cái thằng ... hỗn như ranh ! Ngu như mày thì hiểu thế chó nào được ! Để ông giảng cho mà nghe: Nếu người Tàu nó thắng, nó bắt Vua mình đi thì mày có thấy bẽ không ?
                  - Ừ nhỉ ! - Bờm ngẩn mặt, thôi không cười nữa.
                  - Nhục cái mặt lắm con ạ ! Mà Tàu nó thắng thì nó đến nó cướp ráo đi ấy chứ; nhà tao còn giữ được thóc lúa của tiền à ? Còn cái chó gì nữa mà phè phỡn cái thân xác ? Có mà cả làng cả nước hoá ráo thành cái giống bờm nhà mày hết thôi con ạ ! Nhục lắm ! Nhục lắm ! - Phú ông ngán ngẩm lắc đầu - Mỗi làng chỉ có một thằng bờm đã là quá nhiều rồi. Hoá nên tao mới chủ tâm đi đánh cho bỏ con mẹ cái lũ chúng nó đi !
                              Khi giặc tan, cả hai khăn gói quả mướp về làng.
                              Một buổi sớm, nhân lúc việc đồng vừa vãn, ngồi trong nhà nhìn ra sân thấy rặng cúc đại đoá đua nhau nở rộ; trên những tán lá rặng mít mé bếp, chim chóc chuyền nhảy sào xạc, chít chiu vui vẻ, trong người thấy mười phần thư thái; sực nhớ có ấm trà ngon, Phú ông bèn sai người làm gọi Bờm đến cùng uống.
                              Cầm cái chén Phú ông đưa cho, Bờm dốc ngược làm một ực, rồi nhẩy cẫng lên, xuýt xoa nhăn mặt. Phú ông nhìn Bờm, cười rộng ngoác:
                              - Thôôấct bảo, tội chó gì mà phải ngủ đường ngủ chợ, nắng mưa muỗi rệp nó hành cho; lại bữa no bữa đói, chẳng ra làm sao; về ở cho nhà tao, tao không bắt làm nhiều đâu, tao lo cho mày lúc nào cũng no như khi còn ở lính.
                              - Ông cứ đùa nhả - Cái cổ Bờm rụt lại, hai tay xoa vào nhau, cười nhăn nhở - Có đời thuở nhà ai làm ít mà lại được ăn no bao giờ ? Nhà cháu mà làm người giàu thì nhất định đếch chơi như thế.
                              Phú ông ngây mặt:
                  - Ơ hay … tao nói thật đấy !
                  - Thật cái phải gió đùng lăn !
                  - Tiên sư cái thằng … mày thấy ông thất tín bao giờ chưa ?
                  - Nói ông tha lỗi, giá kể nhà ông nói thực, nhà cháu cũng đếch thèm ! Ở một mình tiếng là phất phơ lơ lửng, dưng mà nó tự tiện đủ bề: ngủ nghê bằng thích, ưng làm thì làm, khoái chơi thì chơi, chả bị ai chửi bới mắng nhiếc liên hồi kỳ trận, thập phương khí gió bao giờ.
                  - Gàn lắm con ạ. Thế thì tao bảo thế này, mày xem có được không: Mày đến ở hẳn nhà tao, làm sòng phẳng, lấy công sòng phẳng; chẳng thằng đéo nào nợ thằng nào. Trừ tiền ăn đi, còn bao nhiêu tao giữ hộ. Tích cóp đến khi nào đủ mua được ruộng, tao cắt ruộng cho mày ra làm riêng.
                  - Vớ vẩn - Bờm lừ mắt, liếc xéo sang Phú ông - Có hoạ trạch đẻ ngọn đa !
                  Phú ông ớ mặt, vỡ nhẽ:
                  - Cái giống bờm nhà mày ... Đúng là cái thứ tự chủ tự tác ăn mày, có hôm nay không nghĩ tới ngày mai. Thôi tuỳ ! - Lão lắc đầu, thở dài rồi nhoài người với lấy cái tráp để trên nóc tủ chè, mở nắp lấy ra mấy nén bạc - Chỗ chiến binh với nhau, cầm lấy một ít, phòng lúc không có ai thuê làm gì, thêm vào mà ăn. Khi nào ngặt quá thì lại bảo tao một tiếng.
                  - Nhà Bờm đếch thèm ! Nếu ông có việc gì thì thuê Bờm. Bờm làm Bờm lấy công. Ông bỏ tiền ra ông được việc. Úm ba la hai ta cùng khoái.
                  - Tiên nhân cha thằng này, nghênh ngang khệnh khạng quá thể ! - Phú ông đập tay xuống bàn cái rầm, đứng phắt dậy, mặt đỏ lựng, hầm hầm trỏ tay ra phía cổng - Cái giống đã ngu mà còn khái hão thế thì suốt đời là con chó ! Cút ngay ! Từ rày cấm chỉ lảng vảng quanh đây làm khổ mắt tao !
                  Bờm bị bất ngờ, vai hơi so lại, không cười nữa, nhìn Phú ông một lúc rồi lừ lừ đi ra. Đến giữa sân, nó dừng lại, không biết nghĩ thế nào liền vén quần tè một bãi lênh láng, rồi cúi người buông hai ống quần xuống, nguyềnh ngoàng bước qua cổng. Từ đó, Phú ông chẳng bao giờ cho người gọi Bờm đến nhà nữa. Phần Bờm, nó cũng chẳng bao giờ lảng vảng đến gần khu nhà của Phú ông. Hai gã cựu chiến hữu, kẻ giàu người nghèo ấy, đã tuyệt giao một cách huy hoàng !
                   
                  *
                   
                              Năm ấy gặp nạn châu chấu, mùa màng cả một vùng rộng lớn mất trắng. Bếp núc nhà nào cũng nguội tanh, mạng nhện giăng ngang miệng các loại nồi đồng nồi đất. Nhìn vào, nhà nào cũng tựa nhà hoang. Dân tình vật vờ xiêu vẹo, trông ra ngoài đồng chỉ thấy vàng mơ, nhìn vào trong nhà chỉ tổ mờ mắt; khắp chợ cùng quê, đâu đâu cũng thấy cảnh ấy. Năm thì mười hoạ, được ít thóc gạo ân đức mưa móc của Vua đem đến cứu tế thì bị quan nha, sai dịch cuỗm mất đến quá bảy phần. Củ ráy, củ chuối đã bị đào tới gốc cuối cùng; lá sung, rau dại bói cả ngày cũng không ra nổi một lấy một chét. Giặc dã, trộm cướp nổi lên tứ tung khắp nơi như ong như rươi. Dân gian cùng khổ, phấp phỏng nơm nớp, lo hãi còn hơn cả cái đận giặc Tàu tràn sang.
                              Nghe nói ở vùng trên có một nhóm tự động kết đảng, tự xưng là Dân Nghĩa, chuyên đến cướp của nhà giàu đem chia cho kẻ khó, ai ai cũng mừng vui, mong chờ khắc khoải. Bờm cũng mừng vui, nhưng Bờm chẳng chờ; Bờm thích thì Bờm mần luôn. Bờm đã tự đi lính, tự chém được giặc thì Bờm cũng khắc tìm đến chỗ có đám người ấy được. Vậy là Bờm đi, chỉ khác với lần ra đi trước là trên chéo vai không có khăn gói quả mướp và thằng mõ chí cốt thì đang vàng mắt vật vờ.
                  Trèo đèo lội suối, thất thểu xiêu vẹo, tưởng đã chết mất xác, cuối cùng Bờm cũng tới được Nghĩa trại. Một cô gái xinh đẹp như hoa tươi cười xúc cho Bờm ba bát gạo. Bờm lừ mắt, phẩy tay: "Đằng ấy có mắt cũng như không. Tớ đến đây là để cùng đi lấy thóc chia cho kẻ khó chứ đếch xin cứu đói đâu nhá !".
                  Cuối cùng, Bờm cũng trở thành người của Nghĩa trại. Tuy là loại nói chẳng nên lời, nhưng Bờm làm việc năng nổ, quyết liệt, không khoan nhượng, được trưởng trại cả khen: "Đáng mặt anh hùng !". Nhưng rồi, dần dà, Bờm nhận thấy thóc lúa, của cải chia cho dân chỉ được có vài phần, số còn lại được chở tất về trại. Mỗi khi ra quân, đi hành sự ở các làng, tất cả, ai cũng ăn mặc rách rưới, nét mặt căm phẫn chí công. Nhưng hễ về đến trại liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo lụa, ăn thịt gà luộc, uống rượu nếp cái, cùng nhau chén chú chén anh đến bí tỷ mới thôi.  Khi đó, mấy cô trẻ măng nõn nà, vẫn ngồi bên đong đưa chuốc rượu, mới dìu các đàn anh về buồng nghỉ ngơi và ở tịt luôn trong đó. Vì thế Bờm đâm thấy chán. Khi cái chán đã dâng đến mang tai, Bờm bảo với mọi người:
                  -  Bờm nhớ quê lắm, đếch bè đảng nữa. Bờm về quê thôi.
                  Một đàn anh ngạc nhiên, hỏi:
                  -  Đã kết đảng sao giữa chừng lại bỏ ?
                  Bờm cười, chán nản đay từng tiếng:
                              -  Đã bảo, tớ kết đảng là để lo cho các làng thoát nạn đói, chứ đếch phải để kiếm chác !
                  Mấy đàn anh có vẻ kém vui, không nói gì. Trong bữa tiệc tiễn Bờm, Nghĩa trại trưởng nâng chén rượu, bi tráng nói cùng anh em: "Bờm về quê là một tổn thất lớn cho đại nghĩa, đại sự. Anh em mất đi một bạn hữu trung hậu, chí tình; Nghĩa Trại ta mất đi một người ưu tú giỏi giang; dân lành mất đi một chỗ dựa vững chắc ... !".
                  Thế là Bờm về làng thật, nhưng không làm khách, khi đi vẫn nhớ mang theo một đẫy đầy gạo về cho Thằng mõ. Trên đường về, đang buồn bã men theo một sườn dốc thì đột nhiên nghe tiếng soạt … một gã vận đồ nâu, đầu chít khăn lưỡi rìu, tay lăm lăm lưỡi mác sáng loáng nhảy vọt từ trong bụi ra, chắn ngang lối đi. Bờm chột dạ, định thần nhìn kỹ thì nhận ra đó là thằng Quảng Chuột, đệ tử ruột của Nghĩa trại trưởng. Bờm dừng chân:
                  -  Có việc gì ở đây ? Sao lại phải nấp trong bụi dư thế ?
                  Quảng Chuột mặt lạnh tanh, đôi tròng mắt trắng dã, cười nhếch mép:
                  -  Để giữ thanh danh cho Nghĩa Trại, bất đắc dĩ mới phải làm thế này. Đây cũng chỉ tuân thượng lệnh thôi. Xin đắc tội !
                  Dứt lời, Quảng Chuột vung mạnh thanh mã tấu, bay thẳng vào người Bờm. Do được huấn luyện trong lính và có chút ít kinh nghiệm đánh quân Tàu trước đây, Bờm, nhanh như một con chèo bẻo, thoắt né người về phía vách núi, tiện tay ném luôn cái đẫy gạo vào người gã sát thủ. Quảng chuột lạc đà hẫng người, lại bị sức đẩy của cái đẫy gạo, cứ thế lao thẳng xuống vực.
                   
                  *
                   
                  Thằng mõ gặp lại Bờm, lại được một đẫy ngọc thực nên càng mừng mừng tủi tủi. Nó vội đem gạo chia cho mấy nhà hàng xóm. Nhưng cũng chỉ mát mặt được dăm hôm. Cuộc sống cả làng vẫn vật vờ, ngày ngày vẫn lũ lượt vác bát đến cổng nhà Phú ông nhận vài môi cháo cầm hơi, khắc khoải mong ngày lúa chín. 
                  Một hôm, Bờm đang cùng đám trẻ trâu đang nướng quả khủng khẳng ăn với nhau ngoài rịa núi, bỗng thấy xao xác trong làng. Vốn hiếu sự và thích hóng hớt, Bờm bỏ cả mẻ khủng khẳng, lúc ấy đã bắt đầu toả ra một mùi thơm ngọt ngai ngái, cắm cổ chạy một mạch về làng.
                  Bờm nhanh chóng đánh hơi được đám đông đang có sự và, tức khắc, nó đã có mặt. Đó là bãi đất nhỏ trước cổng nhà Phú ông. Cảnh tượng bày ra trước mắt nó là: Phú ông, mặt mũi tím bầm rớm máu, đang bị trói giật cánh khuỷu vào cái cọc cây rơm, râu tóc dựng ngược, gò má dựng ngược, mắt cũng trợn ngược, nhìn trừng trừng vào tay thủ lĩnh, miệng chửi toáng lên: "Chúng mày là tuồng xiêng ăn nhác làm, chỉ có thể đi làm kẻ cướp ! Có giỏi, có sòng phẳng thì cùng tao một chơi một ! Lũ hèn chúng bay mà dám ư ?!". Xế về phía cổng nhà là đám vợ con đang khiếp hãi kêu khóc như nhà có tang. Giữa đám đất là một đống những bao lúa căng ních, chất cao ngồn ngộn. Bên đống bao lúa là toán người mã tấu tuốt trần, mặt mũi hằm hằm, toả ra nhiều sát khí. Khép kín xung quanh bãi đất là đám dân làng đang nhớn nhác sợ hãi, nhưng không biết phải làm gì. Tay thủ lĩnh đứng ra giữa khoảng trống, ưỡn ngực chí công:
                  - Mời bà con vào lĩnh phần !
                  Cả làng đứng im, không một cử chỉ đáp lại. Thấy vậy, thủ lĩnh lấy tay trỏ vào mấy người đứng ở hàng đầu, bảo vào lấy trước. Vẫn không có ai đụng đậy. Hắn liền nắm lấy cánh tay chị cu Tuất mà kéo vào. Chị cu Tuất cố vằng ra nhưng không được, liền tru tréo lên:
                  - Ơ hay, có buông ra không, sái cả tay người ta rồi đây này ! - Tay thủ lĩnh tẽn tò buông tay ra, chị chàng hẫng đà, lảo đảo rồi đứng chững lại, đưa hai tay sửa lại cái độn tóc bị xệch sang một bên đầu - Ngày nào cả cái làng này chả ăn cháo của ông ấy. Ông ấy là người tử tế, chăm chỉ; của người ta là của mồ hôi nước mắt, lấy sao được !
                   Có nhiều tiếng xì xào trong đám đông: "Phải !"; "Ai mà làm thế được !"; "Có hoạ là ăn cướp !" ... Không hiểu tay thủ lĩnh có nghe thấy gì không, chỉ thấy hắn thoáng lúng túng rồi yếu ớt tuyên bố:
                  - Vậy là dân chúng ở đây không có nhu cầu. Anh em đâu, chuyển số thóc này đi chia cho làng khác ! Đem theo cả thằng Phú ông này về Nghĩa trại để xử nó về tội dám bôi nhọ, dám choảng lại những người thay giời hành đạo !
                  Từ trong đám đông, nhanh như cắt, Bờm văng người vào phía trong vòng người, trụ chân, đứng sừng sững; gió thổi lộng phồng hai vạt áo trước, lừ lừ nhìn tay thủ lĩnh từ đầu đến chân:
                  - Không được đâu nhá !
                  - A, anh Bờm cũng ở đây à ? Đã xa nhau mấy tháng nay ! - Thủ lĩnh tươi cười, mộc mạc nói với Bờm.
                  Bờm, nhanh như một con chim chả, bất thần đoạt lấy thanh mã tấu của một kẻ trong toán, nhảy liền hai bước đến chỗ cái cột rơm, đứng chắn trước mặt Phú ông, khom người, hướng mũi mã tấu về phía tay thủ lĩnh:
                  - Nhà chúng bay là thế nào chẳng qua tao đã biết hết tiệt cả rồi. Thế hoá nên tao mới sinh ra chán ở với chúng bay. Tạnh ngay những cái nhời tử tế lừa đảo ấy đi nhá ! Nói cho mà biết, khi Phú ông cầm giáo xách mộc đi đánh giặc Tàu thì chúng bay đang phiêu lưu ở tận tít dững đéo đâu ? Muốn đưa Phú ông mấy lại dững cái bao lúa này đi thì phải đâm chết được tao đã !
                  Dân làng ồ lên đồng tình và trong đám đông dường như đang ngầm có sự vận động ... có mấy người nhanh nhẹn đã lấy được gậy, được dao đang chạy trở lại bãi đất. Nhận thấy tình thế không ổn, tay thủ lĩnh kín đáo đưa mắt cho đồng bọn và cả toán lặng lẽ, thận trọng rút lui.
                  Bờm dùng cái mã tấu cướp được cắt giây trói cho Phú ông. Phú ông bị trói lâu, đánh phũ, tê dại cả chân tay mình mẩy thì không đứng vững được và ngã queo xuống đất. Bờm cõng phú ông vào nhà, bảo vợ con lão chăm nom, rồi xoay lưng toan bước ra.
                  - Bờm ơi ! - Phú ông gọi giật - đừng đi vội, có điều này ... quay vào đây !
                  - Nhà ông bảo gì nhà cháu ? - Bờm quay vào.
                  - Bờm ở lại mấy hôm chữa vết thương cho ta. Hồi ở lính ta biết Bờm có nhiều bài thuốc mà. Thấy người bị nạn mà làm ngơ thì còn chó gì là Bờm nữa !
                  Nghe vậy, Bờm thấy thích lắm, bèn ở lại, đi hái lá chườm và đắp cho Phú ông. Cái lão rậm râu này, lúc nẫy thì dũng khí ngất giời, thế mà lúc này sao lại mềm yếu thế. Bờm thấy ngồ ngộ nhưng chẳng nói gì, thỉnh thoảng nhớ đến lại cười một mình. Hôm sau Phú ông kêu trong người nóng nực. Người nhà đem quạt đến quạt cho. Phú ông bảo thứ quạt đó không mát. Hỏi thứ quạt nào mới mát, Phú ông bảo Quạt mo của Bờm. Bờm lấy cái quạt vẫn giắt đằng sau cổ áo ra. Người nhà cầm lấy, quạt cho Phú ông, hỏi:
                  -  Mát chưa ?
                  Phú ông bảo:
                  -  Chưa !
                  Lại hỏi:
                  -  Tại sao ?
                  Phú ông đáp:
                  -  Phải Bờm quạt thì mới mát !
                  Bờm đón lấy quạt, phe phẩy quạt cho Phú ông. Phú ông mỉm cười, khen:
                  -  Bây giờ thì mát thật !
                  Được mấy hôm, Phú ông khoẻ lại. Bờm về, tất nhiên là mang theo cả cái vật bất ly thân của mình. Bấy giờ, không hiểu sao, trông bộ mặt phú ông mới thực thểu não. Thấy vậy, Bờm hỏi:
                  - Nhà ông làm sao thế ?
                  Phú ông lấy giọng thều thào:
                  - Ta dùng cái quạt của Bờm quen rồi. Máu ta nhiệt lắm, không có quạt của Bờm có lẽ ta chết yểu mất !
                  Bờm trố mắt. Và sau một thoáng do dự, Phú ông nói tiếp, giọng điệu giông giống như kẻ đang có việc phải cầu cạnh:
                  - Thế này ... hay Bờm đổi cho ta lấy cái gì đi !
                  Bờm thở dài, ngán ngẩm:
                  - Giời ạ, tưởng gì, nhà cháu cho luôn ông đấy !
                  Phú ông giẫy nẩy:
                  - Không được ! Ta thà chết nóng chứ không thể lấy không của Bờm được.
                  Bờm có vẻ sốt ruột, cáu kỉnh:
                  - Nhà ông dở hơi à ? Đã bảo cho là cho !
                  Phú ông lập nghiêm:
                  - Cái quạt ấy không phải vật tầm thường. Phú ông ta là bậc cha chú, không thích chơi chạc của hạng con cháu.
                  Cái lão này có lẽ dở hơi thật … Mà không chừng, cái quạt của mình cũng có giá thật. Bờm cầm lấy cái quạt ngắm nghía hồi lâu rồi mỉm cười ranh mãnh:
                  - Ừ, thì đổi ! Nhưng đã nói đến chuyện đổi chác là phải sòng phẳng luôn đấy. Ông muốn đổi cái gì ?
                  - Ba con bò mới chín con trâu ?
                  - Nhà ông định lỡm Bờm đấy à ?
                  - Đứng đắn đấy !
                  Bờm ớ người, nghĩ: Ba voi còn chẳng được bát nước xáo, nữa là ba bò chín trâu
                  - Đếch chơi ! Bờm chẳng lấy Trâu.
                  - Thế thì ao sâu cá mè nhé ?
                  Bờm nghĩ: Lấy ao sâu ... thì có mà cấy lúa vào vạt áo à ? Mà cá thì biết lấy đếch gì ra mà bắt ?
                  - Đếch chơi ! Bờm chẳng lấy mè.
                  - Thế ... một bè gỗ lim vậy ?
                  Bờm nhớ tới câu hát ru cháu của bà cả Hợi ở thôn dưới hôm nào: "Bao giờ rau diếp làm đình, gỗ lim ăn gém thì mình lấy ta". Ái dà ! Giá lão bảo là ba mớ rau diếp !
                  - Vẫn đếch chơi ! Bờm chẳng lấy lim.
                  - Thế thì con chim đồi mồi ?
                  Bờm nhẩm tính: Cũng được đấy. Nhưng thế thì dửng mỡ quá. Đang phải lo ăn bỏ u đi, chơi bời đếch gì !
                  - Vẫn đếch chơi ! Bờm chẳng lấy mồi.
                  Phú ông lúc này thấy bí. Cau mày suy nghĩ một lúc, rồi bỗng cười tinh quái:
                  - Hòn sôi nhá ?
                  Bờm nghe thấy thì liền toét miệng ra cười, gật đầu ngã giá.
                  - Nhưng gượm đã - Phú ông xoè bàn tay làm hiệu ngăn lại - Ta và Bờm đều là người đứng đắn. Việc mua bán trao đổi giữa những người đứng đắn bao giờ cũng phải lập văn tự. Hơn nữa, cái quạt này không phải vật tầm thường; hòn sôi của ta là ngọc thực, cũng không phải thứ tầm thường. Phải tìm đến chỗ thanh sơn nhã khí, giời đất tươi đẹp mà lập mới được.
                  - Chỗ ấy ở đâu ?
                  - Hòn Non Nước ! Cách làng mình có một quãng đồng.
                  - Đi thì đi. Sợ chó gì thanh sơn nhã khí !
                  Sau đó, ông đồ Nguyễn được mời cùng đi làm chứng. Văn tự được lập như sau:
                  Ngày…  tháng ... Năm Kiến Thiện thứ sáu.
                  Văn tự giao Kèo
                  Phú ông có một hòn sôi. Bờm có một cái quạt mo. Hai bên cùng đồng ý đổi ngang cho nhau. Bờm sẽ nhận lấy hòn sôi của phú ông mà tuỳ ý sử dụng. Sôi sẽ được giao dần dần cho đến lúc đủ một hòn thì mới thôi. Phú ông sẽ nhận cái quạt mo của Bờm mà tự ý sử dụng.
                  Người nào thất tín sẽ mãi mãi phải chịu mọi phép sai khiến của người kia suốt quãng đời còn lại.
                  Giấy này lập tại hòn Non Nước, An Sơn huyện, Sơn Nam xứ, có ông đồ Nguyễn hiện diện thực chứng.
                  Lập xong, trước khi điểm chỉ, ông đồ Nguyễn đọc lại cho cả hai cùng nghe. Bờm bật cười, nghĩ thầm: Đúng là cái giống vắt cổ chày ra nước, rán sành ra mỡ; chỉ có vẽn hòn sôi mà không giao được một lần ! Ôi dào, có chó gì đâu, thực ra từ đầu ý mình là muốn cho không lão kia mà !
                  Hôm sau, Phú ông sai người đem đến cho Bờm một đĩa sôi. Bờm há hốc mồm:
                  -   Chỉ có một hòn thôi mà !
                  -  Chỗ này làm sao gọi là một hòn được - Người nhà Phú ông, trỏ vào đĩa sôi thơm phức đang nghi ngút khói, nói - mới chỉ là một phần rất nhỏ của hòn thôi !
                  Thật rách chuyện nhà cái lão Phú ông này. Chắc một hòn trông nó chỏng trơ quá, lão ngượng, nên mới bảo người nhà đơm hẳn một đĩa. Biết ngượng thế là được !
                  Hôm sau: Lại một đĩa to như hôm trước. Thế là thế quái nào ? Nhưng mà thôi. Nể tình chiến hữu nhận cho lão, không lại lằng nhằng.
                  Hôm sau nữa: Lại vẫn như thế. Lần này thì Bờm giật lấy cái đĩa trên tay anh người nhà Phú ông, đùng đùng đem sang nhà Phú ông trả lại.
                  -  Nhà ông quá thể ! Nhà ông là hạng nhả nhớt cả với cả hạng con cháu ít tuổi ! Nhà ông không tử tế ! Trả đấy ! Từ rày tạnh hẳn trò này đi nhá ! - Nói, rồi Bờm hầm hầm đi ra.
                  -  Gượm đã. Đừng nóng. Ta chỉ thực hiện đúng giao kèo thôi mà. Chẳng qua chỉ là ta không muốn bị nhà Bờm sai khiến suốt đời thôi, chứ ai dại gì mà mất của !
                  Bờm không thèm nghe, cứ đùng đùng ra về. Hôm sau đấy, lại vẫn một đĩa sôi thơm phức, bốc khói nghi ngút. Bờm chửi um lên, quyết không nhận. Phú ông đích thân sang tận nhà. Bờm vẫn không thèm nhận. Phú ông doạ sẽ kiện lên quan, cũng không sao lay chuyển được Bờm.
                  Phú ông kiện lên quan thật. Lính huyện đem trát của quan xuống đọc cho Bờm nghe và lệnh phải theo lên công đường hầu kiện ngay. Bờm đi mà thấy trong bụng hoang mang quá chừng. Không dưng lại lôi người ta vào những chuyện lằng nhằng. Rốt cuộc là cái trò quái quỷ gì vậy ? Bờm không tự trả lời được. Tại công đường hôm ấy có đủ cả ba người: Phú ông, Bờm và người làm chứng là ông đồ Nguyễn. Phú ông thưa: 
                  -  Bẩm quan, trong văn tự có ghi rõ là đổi hòn sôi lấy cái quạt mo. Văn tự cũng ghi rõ được lập tại hòn Non Nước. Sôi là một hòn, Non nước cũng là một hòn. Cùng là hòn thì phải bằng nhau chứ ạ. Vì là bằng nhau nên quả là tiện dân không thể giao hết ngay một lần. Điểm chỉ của Bờm vẫn rành rành còn đây, người làm chứng cũng đang ở đây. Nếu Bờm kia không chịu làm theo văn tự thì xin quan xử theo giao kèo là Bờm phải chịu để cho tiện dân sai khiến suốt đời !
                  Quan xử cho Phú ông thắng.
                  Quả đúng như vậy thật - Bờm nghĩ - Bị sai khiến suốt đời, mất u nó hết cái tự tiện cuộc đời thì sống làm chó gì cho nó khổ. Nghĩ đi nghĩ lại, cũng chẳng có cách nào hơn. Thôi đành ! Vậy là Bờm phải chấp nhận thực hiện theo cái giao kèo trả dần hòn sôi đó.
                  Trên đường từ huyện về làng, Phú ông bảo Bờm:
                  -  Không dưng lại giở chứng. Làm ta mất toi mẹ nó mấy quan tiền với nhà quan !
                  -  Mặc xác nhà ông ! Bờm đếch biết ! ... Cho đáng kiếp !
                   
                  *
                   
                  Cũng bởi chuyện này, về sau, mỗi khi đêm về trăng thanh gió mát, thường nghe con trẻ trong dân gian hát một bài vè:
                      Thằng Bờm có cái quạt mo
                  Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
                      Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,
                  Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
                      Bờm rằng: Bờm chả lấy mè,
                  Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim.
                      Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,
                  Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
                      Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,
                                                  Phú ông xin đổi hòn xôi Bờm cười.

                  Tháng 8 năm 2006

                  Đánh máy: Thiện Văn

                  #24
                    Nghiêm Lương Thành 12.01.2008 07:42:50 (permalink)
                    Nghiêm Lương Thành



                    HOA TƯƠI
                     
                               
                     
                    Trong thành phố, nơi đẹp đẽ nhất, tươi thắm nhất là quầy bán hoa tươi Tràng An. Quầy hoa trông tựa một trích ngang của cõi bồng lai tiên giới, nơi tụ hội của ngàn hoa, của muôn hồng nghìn tía, mặc sức khoe hương. Trong quầy có nhiều loài hoa giống bản địa, cũng có nhiều loài hoa giống nhập nội, thậm chí có cả những loài được chở về bằng tàu bay, từ xứ sở của những chiếc cối xay gió huyền thoại hiền lành tít tận trời Tây xa lắc. Có những loại hoa rất đắt tiền, giá trị một bông bằng mấy bữa ăn trưa. Cũng có những loại hoa giá rất bình dân, bỏ ra dăm ngàn mua được cả ôm.
                    Bà chủ quầy bảo: "Những bông hoa to là những bông hoa đẹp nên đắt tiền, nhưng đứng một mình thì trơ trẽn lắm, nhạt nhẽo như đám cưới không có phù dâu, vô duyên như bát phở ngon thiếu rau thơm chanh ớt. Còn những chùm hoa bé li ti, nếu đứng một mình, trông chẳng khác gì búi cỏ dại. Những bông to muốn duyên dáng đậm đà, muốn sang trọng, muốn nổi bật thì phải có những chùm hoa li ti kia làm nền. Đổi lại, được cắm chung với những bông hoa to trong một bình, những bông hoa li ti kia lại được phần danh giá, chẳng ai bảo chúng là loài cỏ dại rẻ tiền nữa"
                    Thu nhập chính của quầy hoa là nhờ vào việc kinh doanh những bông hoa to, đặc biệt là những giống hoa mới nhập nội, bởi chúng là của độc và do đó: thời thượng. Công chức có thu nhập khá hoặc người giàu có thường bày những loại hoa ấy trong nhà để tỏ rõ cái khí đại gia vĩnh phú. Các chàng trai thường mua tặng người yêu để mối quan hệ thêm phần lãng mạn thanh sang. Cánh ngũ tuần bóng mượt mua tặng bồ nhí để biểu thị trữ lượng tài chính dào dạt khôn lường của mình với các nhà khai mỏ mới vào nghề. Các em nhỏ, đôi lần trong năm, thường nhắc cha mẹ mua tặng thày cô để tỏ tấm tình chân thành kính ái. Vào những dịp lễ tết, quầy hoa thường bị "cháy hàng". Ấy là nói về những bông hoa to, còn những búi hoa lin din kia thì chưa thấy "cháy" bao giờ; thường không bán hết và đến khi kém tươi liền bị bà chủ hắt hủi, tấp cả đống ra ven đường hoặc quẳng vào nơi tập trung rác thải.    
                     
                    *
                     
                    Hôm ấy là một ngày nắng đẹp ấm áp. Đây đó, trên những cành cây khô trụi, đã thấy lấp ló, lấm tấm những lộc xuân non tơ mơn mởn; cây cỏ chợt dụi mắt bừng tỉnh sau những ngày đông tháng giá đằng đẵng ảm đạm. Hình như tiếng hót líu lo của lũ chim đã đánh thức và làm bừng lên những lộc xanh ấy.
                    Bà chủ mở cửa dọn hàng. Một làn gió nhẹ bay tới, lọt vào nhà, lướt nhẹ trên những bông hoa, khiến chúng vui sướng đến nỗi cứ rung lên nhè nhẹ, e ấp toả hương. Bà cảm thấy trong lòng vui vẻ, nhẹ nhõm khác thường và miệng những chỉ muốn cười muốn nói. Bà thay chén nước. Bà bầy đĩa hoa quả. Bà thắp mấy nén hương ở khoang thờ thần tài đặt dưới đất. Rồi thổn thức, bà thành tâm xít xoa khấn vái và thầm nghĩ: Hôm nay chắc bán được hàng đây, Giời Phật bao giờ cũng độ cho người tử tế.
                    Có tiếng lạch cạch từ ngoài cửa vọng vào. Bà ngoảnh lại và nhận ra đấy là một cô gái. Đây là người khách đầu tiên trong ngày. Người mở hàng buổi sớm, theo kinh nghiệm mấy chục năm bán hàng của bà, sẽ quyết định chất lượng buôn bán của cả ngày. Gặp được người nhẹ vía, mua bán dễ dãi và sộp thì suốt ngày khách vào khách ra, luôn chân luôn tay, trao hàng nhận tiền. Vớ phải kẻ cau có, ki bo, cò kè thêm bớt thì cũng kể như gặp hạn, cả ngày chỉ còn mỗi một việc là tiếp khách xuông và ngồi ngáp vặt.
                    Cô gái tựa xe vào gốc cây, bồng bềnh trong tà áo dài trắng nhẹ bay trong gió, nhẹ bước vào cửa hàng, đôi mắt trong veo bừng sáng. Cô đứng giữa gian hàng, lặng người mê mải ngắm nhìn những giá những bình tràn ngập hoa tươi. Làn da trắng mịn của cô làm ta liên tưởng đến làn nước suối buổi ban mai, cặp môi hồng nhạt xinh xắn hé cười khiến ta nghĩ đến những gì trần gian còn thiếu. Lúc ấy, những cánh hoa dường như ngừng rung rinh; chúng sao xác hướng cả về phía cặp môi hồng, chụm đầu thì thầm với nhau: Kìa, trên mặt cô bé cũng có một bông hoa đấy !  
                     - Hôm nay có đủ cả đấy cô ạ: Ly Đà Lạt, Tuylíp Hà Lan và Lan Thái nữa ... - Bà chủ tươi cười, đon đả, săm sắn chào mời.
                    - Cháu cảm ơn bác.
                    Cô gái tiến lại góc gian hàng, cúi xuống, nhẹ nhàng rút lấy mấy nhánh Violette từ một cái xô nhựa màu đỏ để dưới đất. Cô đưa những ngón tay nhỏ nhắn mơn man lên những cánh hoa bé bỏng, mỏng mảnh. Rồi cô nhẹ áp mặt vào đám hoa tím biếc, nồng nàn hít hà, hệt cử chỉ của một người mẹ yêu con.
                    - Cô chọn thêm loại gì nữa đi.
                    - Cảm ơn bác, cháu mua hoa này thôi.
                    Người trông như thế mà hoá rán sành ra mỡ - Bà chủ hậm hực không vui - Ky kiết quá thể. Vừa sáng ra mà đã vớ phải cái của này thì cả ngày rõ là ăn cám rồi ! Bình thường, với vài cành hoa vớ vẩn ấy, bà thì cho không, nhưng vừa sáng bảnh mắt, mở hàng mở họ gì mà đã ám quẻ người ta thế này thì bố ai chịu được !
                    - Mười lăm ngàn ! - Bà nói thủng thẳng, chắc đanh, cho bõ tức.
                    - Cao quá bác ạ ! - Cô gái ngẩn mặt, ngạc nhiên.
                    - Nhưng hàng của tôi rất tươi ... tuỳ cô ! - Hai tay vòng trước ngực, xây mặt ra ngoài phố, bà đủng đỉnh giải thích.
                    Cô gái tròn mắt, thất vọng, trả mấy cành hoa về chỗ cũ, chào bà chủ rồi đi ra. Nhưng, không hiểu sao, đến cửa, cô dừng lại, ngoái đầu nhìn về phía mấy cành hoa tím, không giấu được vẻ tiếc rẻ, thèm khát. Rồi cô quay vào:
                    - Vâng, đúng là tươi quá. Bác bớt cho cháu một chút có được không ạ ?
                    - Tôi nói đúng giá đấy ... Mà tôi có ép cô đâu ?! - Bà thong thả nhìn cô, vẻ mặt đầy kiên định.
                    Tần ngần một lát, cô gái toan chào bà chủ, nhưng dường như có cái gì đấy níu cô lại, vừa dùng giằng, vừa đắn đo, cân nhắc. Cuối cùng, bằng vẻ háo hức của một người đi mua ti vi trước ngày World Cup, cô quả quyết trả tiền và đi ra; vừa bước vừa hớn hở vùi mặt vào giữa cái "búi cỏ" tím biếc ấy  mà âu yếm xít xoa. Còn bà chủ thì vội lấy một tờ giấy gói hàng, châm lửa và huơ loạn xạ mấy lượt khắp cả gian hàng ...
                    Đến gần chỗ để xe đạp, cô gặp một bà lão vừa đi tới, tay chìa cái mẹt nhỏ về phía cô:
                    - Cô ơi, cô mua cho già một phong kẹo đi !
                    Nhìn bà lão lọm cọm, tay gậy tay mẹt, vai khoác một chiếc túi nhỏ cáu bẩn, khuôn mặt nhăn nheo xạm lại vì nắng, gió và bụi, cô lục túi lấy ra một tờ hai ngàn.
                    - Cháu không ăn kẹo cao su cụ ạ - Cô dúi đồng tiền vào tay bà cụ - Cháu biếu cụ.
                    Bà cụ nhìn cô, vẻ không bằng lòng, đưa trả lại tờ giấy bạc:  
                    - Cô ơi, sao lại làm thế ?
                    Cô gái, chừng đã hiểu ra, ngập ngừng nài nỷ:      
                    - Cháu ... biếu cụ thật mà - Cô mỉm cười, lúng túng như kẻ mắc lỗi.
                    Bà lão, sau giây lát ngạc nhiên, rồi lưỡng lự, nói:
                    - Vâng ... già xin cô. Cô thật phúc đức quá !
                    Bà lão quay lưng đi tiếp. Cô nhìn theo, vẻ chưa hết băn khoăn, rồi đột nhiên chạy theo bà cụ.
                    - Cụ ơi, khoan hãy đi ... thế cụ là người ở đâu ạ ?
                    Bà cụ dừng bước, lại càng ngạc nhiên. Có lẽ chưa ai hỏi bà câu ấy.
                    - Già ở Phú xuyên.
                    - Thế các anh chị con cụ đâu mà để cụ phải đi bán kẹo thế này ?
                    - Chả giấu gì cô, già chỉ có một đứa con gái mà không may nó lại bị ... dở hơi. Bây giờ người ta nuôi nó bên Trâu Quỳ ấy cô ạ. Thôi, cũng tốt cho nó. Xã hội cũng còn khối người tốt quá cô ạ ! Cứ nghĩ đến nó già lại thấy thắt cả ruột cả gan mà không làm gì được cho nó.
                    Hai giọt nước mắt ứa ra, chảy dài theo những nếp nhăn trên khuôn mặt dầu dãi của bà lão. Hình như đôi mắt trong veo của cô gái cũng ươn ướt. Cô lập cập mở túi, cuống quít vét voi được hơn hai chục bạc, để cả vào mẹt kẹo của bà lão, không nói gì, rồi vội vã cắm cổ chạy đi. Còn bà lão thì dường như chưa kịp hiểu ra điều gì, đứng ngẩn người, nhìn theo tà áo trắng ngần và tấm lưng thon thả, trong suốt của cô gái ...
                    Lát sau, bà lão bưng mẹt kẹo đi tiếp và miệng cứ lầm rầm mãi:
                    - Mô Phật ... Mô Phật ... !
                     
                       Tháng 10 năm 2005
                    Đánh máy: Thiện Văn
                    #25
                      Nghiêm Lương Thành 12.01.2008 07:57:26 (permalink)
                      Nghiêm Lương Thành



                      XUÂN TÀN HOA NỞ



                      Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                      Tối qua, vườn trước một nhành mai. 
                      Mãn Giác Thiền Sư 
                       
                                  Tháng bảy. Mưa dầm dề. Mây đầy trời, xám xịt, xốp ẩm, bả lả xoà xuống tận những ngọn tre đang còng xuống, ủ rũ, xác xơ như mái tóc của kẻ chán đời, đầy ứ tâm sự. Nước mắt của vợ chồng nhà Ngâu làm đất đai muốn ủng.
                      Họ, vợ chồng cái nhà ông bà Ngâu ý, có con không nhỉ ? Chắc là có đấy, mà dễ thường cũng đông lắm, họ chăm chỉ với lại thương nhau đến thế kia mà ! - Sinh nằm dài trên chiếc chõng tre bên cửa sổ, hai tay để dưới gáy, nhìn bầu trời màu chì não nề, dõi theo những giọt gianh trông tựa những giọt nước mắt đang tí tách đơn điệu rỏ xuống từ đầu các cuống rạ, làm thành một hàng vết lõm dọc theo mái chảy trên cái sân đất nện, buồn bã nghĩ - Cái ông giời, thà rằng cấm hẳn ... cái lối ở đâu lại rẽ duyên nửa vời, sao nỡ ác thế, oái oăm thế ? Dưng mà ... có khi thế lại hoá ra thắm, chứ lúc nào cũng ở cạnh nhau thì có dễ ... cũng như nước lã ao bèo. 
                       
                      *
                       
                      Tiếng cười, tiếng tròng ghẹo nhau của lũ trẻ, tiếng quèn quẹt hấp tấp rộn ràng của đôi đũa trong chảo rang, tiếng nổ bụp bụp của những hạt ngô nở mạnh, tiếng khóc của thằng cu Hợi và tiếng cô vợ anh cu Mùi đang hát ru dỗ dành đứa bé mới sáu tháng tuổi vọng sang, ùa vào, sục sạo len lỏi làm đau nhói cõi lòng lạnh trống của Sinh. Chàng đưa mắt nhìn suốt mấy gian nhà: Cái bàn thờ không một vết bụi, vài cái chân hương lơ thơ ngao ngán trong cái bát hương lớn có vẽ hình tròn nửa trắng nửa xanh; bộ tràng kỷ bằng gỗ mít kê ngay ngắn chính giữa, ngay phía trước bàn thờ; phía dưới gậm bàn là cái điếu cày mà ngày nào vợ chàng cũng cọ rửa và thay nước. Gian cuối là khung cửi, xa quay sợi của vợ. Nhài có lẽ không có tay dệt vải, vải đem ra chợ không bán được thành thử chỉ dùng để may áo quần cho hai vợ chồng. Trên bức tường đầu hồi, tấm tranh Đám cưới chuột đã bạc phếch và ngả sang màu vàng xỉn. Trước đây Sinh còn treo cả tranh mẹ lợn với đàn con và bức thằng bé má phính hồng, tóc để chỏm đào đang ôm con gà sống mào đỏ tươi dựng đứng, nhưng không hiểu sao Nhài bảo trông chán lắm và đã lột xuống từ bao giờ. Mọi thứ, mọi chỗ đều sạch sẽ, ngăn nắp, yên ắng đến quạnh lẽo. Hình như nhà cửa sạch sẽ quá hoặc hôi hám quá thì đều ít có người đến. Cái gì quá cũng làm người ta ngại. "Môn vô khách đáo" thì thà ở đến ở chùa cho xong. Mà quạnh quẽ đến như chùa thì vẫn còn có hương, có hoa, có đèn, có nến, có tiếng mõ khua, có tiếng chuông ngân; Ngày rằm, mùng một vẫn có khối kẻ đến thắp hương, xít xoa khấn vái, cùng mỉm cười chào nhau một câu Mô phật ! 
                      Có tiếng hát từ trong buồng vọng ra. Đấy là điệu Vào chùa. Giọng hát của Nhài vẫn mềm, vẫn ngọt. Người làng đi qua nghe thấy, vẫn bất giác dừng chân lắng nghe, tần ngần không nỡ rời bước. Ngày trước Sinh cũng vậy. Chàng đã chết mệt vì giọng hát ấy, đôi mắt lúng liếng ấy. Chỉ có điều, chưa bao giờ Sinh thấy má Nhài ửng hồng như má của Thắm.
                      Nhài biết chữ và đẹp như một bông hoa. Bông hoa ấy cũng như bông nhài, sinh ra chỉ để phô sắc khoe hương chứ không phải để kết quả. Lấy nhau đã mười mấy năm rồi mà cửa nhà vẫn chưa hề có mùi nước đái trẻ con. Sinh thèm, lắm lúc như phát ngẩn, tiếng choành chọe của những thằng cu con hĩm má phính, mặt mũi nhem nhuốc như tiên đồng trần gian. Nhiều lần, người làng bắt gặp anh cúi xuống nhặt những mảnh bình tích, mảnh bát lũ trẻ nhà Mùi làm vỡ, vứt ra rặng tre ngoài cõi mà mân mê lặng ngắm.
                       Anh cu Mùi bên hàng xóm vốn bằng tuổi Sinh. Cả hai cùng cầm tinh con dê. Thuở bé cùng chăn trâu cắt cỏ, cùng chơi với nhau, cùng mài mực cắp quyển đến học chữ ông đồ Nghĩa. Rồi loạn lạc, đói kém, cả hai cùng bỏ học. Anh cu Mùi quý Sinh lắm. Khi cả hai đã trở thành những chàng trai vạm vỡ, anh bảo Sinh: "Con cái Thắm nhà tao không đẹp nhưng được cái chăm chỉ mà ít nhời. Ông đồ Nghĩa bảo nó là loại đàn bà vượng phu ích tử. Mà có lẽ thế thật cũng nên. Nom cái dáng của nó, lưng cũng chỉ ong đến thế là cùng, chồng chỉ đi qua đầu giường cũng đủ có chửa. Xem cách ăn cách nói, tao thấy nó có ý thương mày. Lấy nó đi, tao gả cho !". Nhưng đầu óc Sinh lúc ấy lại dồn cả vào cái nhà cô Nhài này. Biết chuyện, Thắm gầy rộc, ít khi thấy cười. Những lúc rỗi rãi, cô thường ở tịt trong buồng, khâu vá và khe khẽ hát điệu Người đi đâu, nghe buồn và ai oán đến nẫu cả ruột. Thế rồi Mùi lấy vợ. Mấy tháng sau Sinh cũng đốt pháo đưa Nhài về nhà mình. Thắm buồn, gói gém áo quần, xách tay nải lên Niềm ở với ông chú ruột, học nghề bốc thuốc, thỉnh thoảng mới về làng thăm anh chị. Nhiều đám đến hỏi, cô chỉ lắc đầu, buồn bã từ chối. Anh cu Mùi buồn và thương em lắm nhưng cũng không biết làm thế nào.
                      Trời đã tạnh mưa. Sinh uể oải ngồi dậy, vươn vai, kéo một điếu thuốc lào, nhăn mặt nói vọng vào buồng:
                      - Đã bảo lâu lâu hãy thay nước một lần mà mình không nghe, ngày nào cũng thay thế này, hút thuốc nó nhạt nhẽo vô vị lắm.
                      - Dưng mà cái mùi nó hôi lắm, tôi không chịu được - Nhài từ trong buồng nói vọng ra.
                      - Mình đi thổi cơm đi, tôi thấy đói lắm rồi.
                      - Tôi đang giở tay khâu lại cái áo lấy cái mặc ngày mai đi lễ chùa, hãy còn ít cơm nguội với muối vừng để trên chạn ấy, mình lấy mà ăn.
                      Sinh thở dài, đi xuống bếp, bưng nồi cám bèo ra chuồng lợn. Nhìn hai con lợn, chỉ mới bằng quả dưa hấu, áp xườn ẩy nhau, vục mõm vào chậu xúc cám tòm tọp ai mà không thích. Nhưng thật lạ, cám cứ như đổ xuống sông xuống ngòi, lứa nào cũng thấy còi đanh còi đét, nuôi đến gần năm giời mới được bán, khách đến chê ỏng chê eo, phải nói khó người ta mới chịu mua cho.
                      Sinh đi ra mảnh vườn sau nhà, định bụng nâng những gốc rền tía bị mưa gió làm cho đổ rạp. Nhìn vườn tược xác xơ queo quắt, Sinh lại thở dài. Ngó sang vườn nhà anh cu Mùi, thấy cây cối mướt mát, tốt tươi lạ lùng. Trong chuồng, năm sáu con lợn trùng trục đen bóng đang loay hoay sục mõm vào đống rạ mới, khụt khịt khụt khịt liên hồi. Quái thật, trần lưng ra mà làm, có phải mình lười biếng đâu, cùng trên một rẻo đất mà lại khác nhau đến như thế thì thật vô lý quá ! Một lần, ngồi uống nước với anh cu Mùi, Sinh buồn bã phàn nàn thì anh cu Mùi liền an ủi: "Cũng chẳng phải tôi chăm chỉ hay tinh khôn hơn bác đâu, âu nó cũng là cái số thôi bác ạ. Thật đấy, tôi chẳng có ý gì, nói bác chớ để bụng, chẳng qua là tôi may mắn lấy được bà vợ có chữ dưỡng trong bản mệnh. Ngày trước, nghe ông đồ Nghĩa nói, tôi không tin. Bây giờ ngẫm lại, thấy cũng phải. Quả là từ ngày có bà ấy, không hiểu sao cây trồng tự dưng cứ xum xuê hẳn lên, lợn gà thì cứ như cho ống đu đủ vào đít mà thổi. Trước đây làm một ăn một, còn bây giờ làm một lại ăn những hai, có khi ba. Chỉ phải cái, bà ấy mắn quá, chậc ... tại cái chữ dưỡng ấy đấy, chúng nó cứ thi nhau sòn sòn mà chui ra, lít nha lít nhít, lắm lúc giức cả đầu !"
                      Đang nghĩ vẩn vơ thì nghe tiếng gọi. Sinh quay lại, nhận ra bên kia bờ rậu cái cười rộng ngoác, thật như hàng cau trước sân của anh cu Mùi: "Hôm nay giời mưa, không làm gì hết, sang tôi làm tí cay bác Sinh ơi !".
                      Sinh gật đầu, lấy tay nhẹ rẽ đám rậu cúc tần, lách sang vườn nhà anh cu Mùi. Bước vào nhà, mùi khai nồng nước đái trẻ con thoảng vào mũi, cảnh tượng giường chiếu xốc xếch, rác rơm vương vãi, áo tã tứ tung ... khiến anh nhẹ cả người. Lũ trẻ nhận ra Sinh thì reo cả lên, tranh nhau chạy lại ôm chặt lấy chân, đòi hôm nào bác làm diều cho chúng cháu. "Hư nào, để bác ngồi !" - Anh cu Mùi lừ mắt nhìn lũ trẻ, hai tay lẽ mễ bưng cái vò sành đựng rượu: "Con hĩm xuống bếp rang cho thày đĩa lạc !". "Thôi, thày em để tôi làm cho" - Chị cu Mùi, áo sống thốc thếch, từ trong buồng bước ra, vừa đi vừa đưa tay lên sửa lại cái vành khăn quấn tóc, mỉm cười ngượng nghịu: "Bác sang chơi ạ !" rồi đi thẳng xuống bếp. Loáng một cái, đã thấy bưng lên đĩa thịt gà luộc bốc khói nghi ngút.
                      - Ôi, u em ... - Anh cu Mùi ngước mắt nhìn vợ, lòng đầy biết ơn.
                      - Tiếng là bác với thày em chơi với nhau từ thuở nhỏ, nhà lại cạnh nhau mà có mấy khi ngồi uống được với nhau chén rượu đâu. Thôi, bác với thày em nhắm đi cho nó nóng. Hôm nay giời mưa, tôi thổi cơm sớm, tôi mới các cháu nó ăn cả rồi.
                      Nói, rồi chị đi vào buồng. Lũ trẻ cũng theo chân mẹ lón són đi vào, rúc rích lục sục với nhau mãi trong ấy như lũ chuột nhắt. Rượu được vài tuần, anh Cu chống đũa xuống mâm, nhìn Sinh:
                      - Này, tôi nói có gì không phải bác bỏ quá cho, chậc ... lấy thêm bà nữa đi !
                      - Tôi cũng buồn lắm bác ạ. Lắm lúc nghĩ chả nhẽ vợ chồng cứ son mãi đến già sao ? “Bất hiếu” thì “hữu tam”, mà “vô hậu” thì “vi đại” ... Vẫn biết vậy, nhưng lấy vợ nữa thì tôi lại không đành. Vợ chồng ăn ở với nhau đã ngần ấy năm ...
                      - Bác nghĩ như thế cũng phải, dưng mà ... lấy thêm bà nữa ... cũng chả phải là bạc bẽo gì. Thiên hạ người ta có mấy vợ là chuyện thường, cốt sao đừng có mới mà ruồng rẫy cũ, bà nào cũng quý hoá cả là được. Rồi ra có con bế con bồng, phúc đức cũng theo về ấm nhà ấm cửa ...
                      Sinh cúi mặt, thở dài, không nói gì.
                      Kể từ hôm đó, ý nghĩ lấy thêm một vợ nữa cứ lớn dần, luẩn quẩn trong đầu Sinh. Nghĩ cũng phải, các cụ chả bảo “Trai khôn năm thê bảy thiếp” là gì ! Mình thì chả khôn được với ai, dưng mà cái cảnh nhà nó thế.
                      Rồi một buổi tối, cơm xong, hai vợ chồng ngồi uống nước, Sinh lựa lời bảo vợ:
                      - Nhà mình vắng vẻ quá, mình xem thế nào ...
                      - Thì có phải là tôi không muốn đâu, chẳng qua ... - Nhài có vẻ khó chịu.
                      - Mình muốn có đứa gọi là u không ?
                      - ...
                      - Tôi thấy chỉ còn một cách.
                      - Cách gì ? - Nhài lạnh lùng nhìn chồng.
                      - Mình xem … có ai mình thấy ưng ý, hỏi rồi cưới thêm cho tôi !
                      - Thật hay đùa đấy ? - Nhài ngước mắt, ngạc nhiên.
                      - Thật mà ! - Sinh tròn mắt, thành thực.
                      - A ! - Nhài đứng phắt dậy, một tay chống lên bàn, thoắt cái, mắt quắc lên nanh nọc, giọng trì miết - Tôi biết mà, biết từ lâu rồi, thể nào rồi cũng đi đến nước này mà ! Dửng mỡ, học đòi thiên hạ ... cái thói đứng núi này trông núi nọ, ruồng rẫy vợ, chứ có trung thành gì đâu, tình nghĩa gì đâu ! Muốn bôi gio trát trấu vào mặt tôi à ! Giời ơi là giời ... Thôi thì tôi cũng nói một nhời cho mình biết: Muốn tử tế hẳn hoi thì không có thay đổi gì hết ! Chỉ một vợ là đủ, còn không, đừng có trách tôi ác !
                      - Thôi, giận thì mình nói thế, chứ nhẽ nào ... - Sinh xoa dịu.
                      - Nói thế là thế nào, tôi làm thật đấy. Không thì cái nhà này lộn xộn, không thì mất nghiệp, rồi làng nước người ta lại không cười cho a, bẽ lắm !
                      - Tôi là tôi lấy thêm bà nữa đấy !
                      - Đừng có bắt tôi phải xuống tay. Rồi lúc ấy lại bảo tôi ác !
                      - Thế mình định ác với tôi thế nào ? - Sinh bắt đầu cảm thấy máu chảy lên mặt.
                      - Đã đến nước này, thiết tưởng cũng không còn gì phải úp mở nữa: Cha tôi trước đây đã từng có thời khét tiếng giang hồ. Sau đó không hiểu thế nào quẳng gươm bỏ nghiệp, đưa cả nhà đến vùng này sinh sống, mai danh ẩn tích. Một lần, tình cờ thấy một quyển sách trong cái rương gỗ, tôi giở ra đọc, nhớ được một bài độc dược. Người bị hạ độc, độc tụ ở gan, chỉ hơn nửa năm sau thì chết mà không ai biết được tại làm sao. Nói cho mình hay, trong người mình đang có thứ độc ấy đấy !
                      Sinh ngớ người, không tin. Lát sau mới hỏi:
                      - Vậy sao tôi vẫn chưa chết.
                      - Chết thì tôi sống với ai - Nhài nhếch mép, đôi mắt đã hơi dịu lại, chua chát - Tôi đã ngầm cho mình thuốc bế độc, lẫn trong rượu.
                      - Bế được bao lâu ?
                      - Nửa năm. Sau đó, muốn sống phải uống tiếp liều nữa, cứ thế. 
                      - Tôi không tin ! Thôi, đừng dọa nữa, tôi đã nhất định như thế rồi.
                      - Đã nói rồi, ở đâu không biết, chứ ở cái nhà này không thể có cảnh đa thê. Mình tưởng cái mạng của mình là quý lắm hả ? - Nhài bỗng thừ mặt - ... Ừ, mà cũng quý thật, không có mình thì tôi biết nương vào đâu. Nhưng nếu mình cứ nhất định phá cái nếp này, tôi cũng chả còn cách nào nữa.
                      Lúc này, Sinh đã ngờ ngợ. Điều Nhài nói có vẻ không hẳn là đùa, chỉ để doạ chơi, cho bõ cái hờn ghen thường tình.
                      - Mình không sợ tôi đi báo quan à ?
                      - Chẳng có gì làm bằng - Nhài thủng thẳng - chẳng có quan nào tin, mà không chừng mình còn bị phạt trượng vì dám cả gan đùa với phép quan ấy chứ. Mà chết thì cùng chết, đến nước này thì tôi cũng chả thiết sống làm gì. Chỉ có cái là khi tôi còn sống, không có con đàn bà nào được bước vào cái nhà này !
                      - Tôi sẽ giết mình !
                      - Mình chả làm thế đâu ! Mình không phải hạng người có thể nhẫn tâm bỗng dưng giết vợ - Nhài bình thản cười nhạt - Mà liền ông nào cũng chỉ muốn thêm chứ có thấy ai muốn bớt vợ. Mấy lại, giết tôi thì lấy ai ra để bế độc cho mình ? - Nhài nhìn Sinh, diễu cợt, thách thức.
                      Nhìn mắt Nhài, bấy giờ Sinh mới thật hiểu đó không phải là chuyện đùa. Thì ra cô nàng đã tính trước từ lâu rồi.
                      Sau đó, cuộc sống vẫn trôi đi như cũ: bằng lặng, nhạt nhẽo và quạnh lẽo. Sinh buồn và có vẻ như muốn cam phận. Chàng ngày càng buồn bã, trầm ngâm và uống rượu nhiều. Nhài thì trở nên càng lặng lẽ, mặt đanh lại, không chút nhân nhượng. Với Nhài, rõ ràng đây là cuộc đấu hoặc là còn hoặc là mất hết. Anh cu Mùi thỉnh thoảng sang chơi, nhìn gia cảnh chỉ biết lắc đầu ái ngại.
                       
                      *
                       
                      Năm ấy, mùa xuân đến sớm. Mưa bụi giăng một lớp mỏng như sương sa, chỉ vừa đủ để làm con đường đất trở nên mịn màng hơn. Cây cối bắt đầu cựa mình sau giấc ngủ đông dài đằng đẵng; Đó đây, trên lớp vỏ xám xịt xù xì của chúng đã bắt đầu nứt rạn, nhú ra những lộc là lộc. Màu xanh tươi mới của những thửa ruộng lúa cấy mới bén rễ, của những mầm cây xanh non nõn nuột; Những búp hoa gạo nở sớm đỏ rực bên những cánh sáo đồng đang sao xác tìm đôi; Đám khói đặc quánh cuộn lên từ mấy đống lửa đốt chơi ngoài đồng của đám trẻ trâu đưa lên mùi ngái nồng của cỏ khô lẫn với rạ ẩm ... hương xuân thoảng ngọt phảng phất từ những chùm hoa xoan li ti tím nhạt khiến Sinh vô cớ thẫn thờ và cảm thấy trong lòng có một cái gì đấy, cũng giống như lớp vỏ xám xịt xù xì của những cây cối kia, đang cựa mình ngơ ngác ... Theo con đường phủ đầy hoa xoan, sinh bước đi, như người mộng du.
                      Con đường ấy là con đường lên Niềm. ở Niềm hôm ấy đang có hội hát. Nam thanh nữ tú của các quan họ trẩy về từng đám, từng đám như nước chảy mùa xuân. Những nếp áo dài the đen, những vành khăn xếp gọn gàng lịch lãm; Những tà áo tứ thân, những mớ ba mớ bảy, những giải yếm đào tươi thắm, những nụ cười nghịch ngợm tươi khoẻ, những cặp môi đỏ thắm sắc cốt trầu, những cặp mắt lúng la lúng liếng như sao trên trời ... thấp thoáng sau những vành nón thúng còn thơm mùi lá mới.
                      Đứng trong đám hội, Sinh chợt nhận ra mình đang lạc lõng trong bộ áo quần ngày thường. Sinh lùi dần, lùi dần ra phía ngoài lúc nào không hay. Rồi, thấp thoáng trong một đám quan họ nữ, chàng nhận ra Thắm, cũng trong bộ trang phục ngày thường như chàng. Thắm không hát. Thắm là người ứng lời cho đám quan họ ấy. Trông cô vẫn như ngày nào, vẫn thắm nhưng đằm và thong thả hơn nhiều. Cô nhận ra Sinh và cúi xuống, má chợt ửng sáng. Sinh cảm thấy chơi vơi, đất dưới chân như chao nhẹ. Chàng muốn hát điệu Con nhện giăng mùng, nhưng đã lâu không hát, sợ lỗi giọng nên lại thôi. Nhưng kìa, Thắm đã bước lên phía trước. Ăn mặc thế mà hát ư ? Mà Thắm hát thật. Cô hát, giọng thì buồn mà tình lại đượm: Người (ư) người đi đâu (ấy mấy) người (ư) đi đâu (ờ ớ ơ là) đâu, bỏ vắng (ôi a) tình tang. (Luông ơ lính tang tình linh tình cái tang tang tình ừ hư hừ) nói có (a) đèn dầu (ừ hư hừ). Cái đèn, cái đèn dầu, rằng cũng có (ôi à) ai khêu. Cái đèn, cái đèn dầu, rằng cũng có (ôi à) em khêu. Hát xong, trông cô lại càng buồn và trong ngực Sinh chợt dâng lên một cái gì đấy, nao nao, khắc khoải, buồn bã và vô vọng. Tối hôm ấy, về nhà, Sinh thẫn thờ, bỏ bữa và đi nằm sớm, nhưng cứ trằn trọc mãi, không sao chợp được mắt.
                      Hôm sau, vẫn theo con đường đó, như kẻ lạc lối nhận ra đường cũ, Sinh lại trôi đến hội, lòng những muốn hát điệu Ngồi tựa mạn thuyền cho vợi bớt niềm khắc khoải dịu ngọt đang đầy dần trong lòng. Nhưng để mắt tìm cả buổi mà không thấy bóng dáng Thắm đâu. Chàng hỏi thăm một cô gái trong đám quan họ đó, cô bảo chị Thắm xin lỗi quan họ chúng em hôm nay mệt không đi được. Sinh thẫn thờ, rồi, như người nhập đồng, đôi chân cứ tự nhiên đưa chàng về nơi Thắm ở.
                      Ở gian giữa, Sinh thấy chỉ có Thắm. Cô đang cho thuốc vào các ô kéo. Thắm quay lại, nhận ra Sinh ... Cái mẹt thuốc buột khỏi tay cô, rơi xuống nền nhà. Thắm khuỵu xuống, bàn tay run bắn, luống cuống nhặt những lát thuốc vàng thẫm rơi tung toé trên nền nhà. Sinh, như có giời khiến, cũng ngồi xuống nhặt giúp. Chưa bao giờ chàng gần Thắm đến thế. Đôi mắt đen láy, cái hương hoi nồng, ấm sực toả ra từ làn da, từ mái tóc trần, từ bên trong lần vải yếm của Thắm khiến Sinh cảm thấy choáng váng. Tay chàng díu lại, không thật nữa. "Anh làm sao thế?" - Thắm nhìn Sinh, thương cảm - "Nước da anh dạo này xấu lắm, khổ !". Rồi cô đứng dậy đi vào buồng. Lát sau, ông chú đi ra, bắt mạch cho Sinh. "Nhà anh can nhược lắm. Tôi cắt mấy thang dưỡng can, chịu khó mà uống, không rồi để quá đi thì khổ".    
                      Uống hết thuốc, Sinh lại đến cắt thêm. Nhưng những lần sau đó chàng không gặp được Thắm. Một lần, từ xa, thoáng thấy bóng Thắm ngoài vườn, trong lòng đã thấy rộn ràng, nhưng khi vào thì chỉ gặp ông chú. Chàng vờ hỏi thăm, nhưng ông cụ bảo Thắm có việc phải đi xa lâu ngày. Sinh biết ý, trong lòng càng thấy buồn bã và từ đấy không đến cắt thêm thuốc nữa. Nỗi buồn bám lấy Sinh như cái bóng, chẳng những không buông tha mà còn lớn dần, nặng trĩu, não nề. Những lúc không có việc, Sinh chẳng thiết đi đâu. Những thang thuốc đem về vứt chỏng trơ, đã lên mốc xanh mốc vàng. Nhìn chồng ngày càng rộc đi, Nhài lạnh lùng: "Bệnh của mình không ai chữa được đâu. Phải bỏ cái thói đứng núi nọ dòm núi kia đi thì mới mong khỏi được !". Chàng không nói gì, nhìn Nhài mà cứ như nhìn đi đâu, xa lắm.
                      Đến cuối thu, Sinh đổ bệnh thật. Anh cu Mùi sang nhà, thấy bạn nằm còng queo, da mặt xám ngoét, võ vàng thì giật mình hốt hoảng. Nhìn Sinh chằm chằm, Mùi lùi dần lùi dần ra cửa, quay lưng, bỏ chạy ra ngoài sân, chật chưỡng lốc thốc như có ma đuổi. Đến quá trưa, Mùi trở về cùng với ông chú và cô em gái. Sinh vẫn nằm im, thiếp đi mê mụ. Bắt mạch xong, ông cụ lật đi lật lại bàn tay Sinh ngắm kỹ rồi quay sang Thắm - khuôn mặt trắng bệch, vẫn đứng như hoá đá từ lúc vào nhà - nói gì đấy. Thắm lập cập đi ra ngoài. Lát sau quay vào với một chén nước màu hồng nhạt trên tay. Ông cụ thận trọng trích đầu ngón tay người ốm, nặn ra một giọt máu, rỏ vào chén nước. Màu hồng nhạt trong chén, thoắt cái, biến thành màu xám chì. Ông cụ ngẩng mặt nhìn Thắm, nhìn anh cu Mùi rồi nhìn Nhài:
                      - Trong người có độc ! - Ông nói sau một thoáng đắn đo - Đây là loại độc chỉ thấy dùng trong giới quan trường và trên giang hồ chứ không phải là thứ độc thường do ẩm thực bất cẩn. Trong người lại bị suy nhược lâu ngày nên càng nguy lắm.
                      Ông cụ quay sang Nhài:
                      - Gần đây thường thấy người bệnh giao du với những ai ?
                      - Dạ, nhà cháu cũng không biết ạ. - Nhài lễ phép trả lời.
                      - Nhưng thôi, sự ấy bây giờ không phải là hệ trọng.
                      - Chú ơi - Thắm níu riết lấy áo ông cụ - có cách nào giải được không ?
                      - Có đấy, nhưng trong bài thuốc có một vị chủ mà ta lại không có.
                      - Thưa, vị gì, chú mau nói đi ! - Thắm bồn chồn.
                      - Huyết của một người nữ ...
                      - Thế thì không thiếu ... - Thắm hấp tấp ngắt lời ông cụ.
                      - Ta nói đã hết đâu - Ông quay sang Thắm, nghiêm khắc - Làm nghề này nhất định không được hấp tấp. Ta nói là huyết của một người nữ, nhưng đó là một người nữ thực lòng yêu thương người bệnh kia.
                      - Thưa cụ, cháu là vợ của chàng, cụ không lấy huyết của cháu thì lấy ở đâu nữa ?
                      - Tốt ! Uống thuốc rồi, sau hai canh giờ tất thấy hiệu nghiệm.
                      Rồi ông cụ hài lòng, cầm bút kê vị cho Thắm làm thuốc.
                      Nhưng hơn ba canh giờ đã trôi qua, Sinh vẫn nằm mê mệt, trì lịm, khí sắc tịnh vẫn không có gì biến chuyển. Ông cụ lắc đầu thở dài, đứng dậy bỏ về bên nhà anh cu Mùi. Thắm cũng đứng dậy, hai bàn tay cứ bện vào nhau, chậm rãi bước theo ông chú.
                      - Chú ơi - Thắm run run, thì thào - Thử lấy huyết của cháu xem có được không ?
                      Ông cụ dừng chân, mỉm cười:
                      - Chú cũng đoán ra và vẫn chờ câu này của cháu. Nhưng cháu không sợ người làng dị nghị sao ? Đời cháu còn dài, phải lấy chồng nữa chứ ?!
                      - Thì cứ cứu người cho được đã, còn họ muốn nói gì thì nói ... cháu mặc kệ !
                      - Ôi, cái nhà cậu Sinh này mới thật là người tốt phúc !
                      Rồi, quả nhiên, mọi cái diễn ra thật tốt đẹp. Sinh bình phục nhanh chóng đến kinh ngạc. Nhài vẫn thế, không vui, cũng chẳng buồn. Người làng ai cũng đến mừng cho Sinh. Ai cũng khen cô Thắm là người nết na, phúc đức; Ai cũng bảo cái nhà cô Thắm ấy sao mà kín đáo lạ !
                      Sau đó không lâu, các bô lão trong làng kéo đến nhà Sinh nói với hai vợ chồng rằng làng sẽ đứng ra làm đám cưới cho Sinh. Cô dâu mới là Thắm. Nhài choáng người, đầu óc sa xẩm. Nhưng làng đã nói vậy, không nghe không được. Không nghe làng thì ở với ai ?! Vậy là Nhài cũng buộc phải thuận lòng.
                      Đám cưới diễn ra suôn sẻ. Trẻ con trong làng đứa nào cũng nhảy chân sáo. Người lớn trong làng ai cũng bận rộn và nói cười râm ran.
                      Sau đám cưới, Nhài vẫn như cái bóng trong nhà mặc dù Sinh và Thắm, không ai bảo ai, luôn để ý để không làm điều gì khiến Nhài phải nghĩ ngợi.
                      Năm sau, trong nhà đã có tiếng trẻ con khóc. Mùi nước đái tè dầm của thằng cu như liều thuốc thần diệu, khiến Sinh trở lại hoạt bát, cái tay lúc nào cũng muốn làm, cái miệng lúc nào cũng muốn cười.
                      Người đời vẫn bảo “Phúc bất trùng lai”. Nhưng, giờ đây, đối với Sinh, điều đó hình như không phải. Nhài tò mò đến bên thằng bé, cô cầm lấy bàn chân hồng nõn của nó, cô sờ cặp má lấm tấm mụn sữa của nó ... cô ẵm nó lên; rồi cô thơm tho hít hà, rồi cô "níu nô" cưng nựng  ... rồi cô đâm ra nghiện thằng bé, quý nó như thóc như gạo; lắm lúc còn tức giận mắng Thắm vì cái tội lơ đễnh, xuýt làm thằng bé ngã, khiến Thắm nhiều khi không khỏi ngạc nhiên, sững sờ đến ấm lòng. Tiếng khóc, mùi nước đái trẻ, mùi thơm hoi ngọt nồng từ thằng bé toả ra, truyền hơi ấm cho cả nhà, khiến Nhài dần dần biến đổi lúc nào không hay. Cái lạnh lẽo cô quả dần nhường chỗ cho những nụ cười, cho hơi ấm, cho sinh khí của tình mẫu tử đang ngỡ ngàng nảy nở tràn ngập trong cô. Và năm kế sau đó, thật không thể tưởng tượng nổi: Nhài cũng lại có mang !
                       Rồi, đúng như lời anh cu Mùi nói, vườn ruộng tự dưng cứ tốt bời bời, cây cối quanh nhà thì sum xuê mướt mát ... Vải vóc do hai bà vợ dệt ra nhiều thế, cũng chẳng đẹp hơn như thứ vải Nhài đã từng dệt trước đây, mà chưa bao giờ đủ bán; còn lũ trẻ thì cứ thế mà thi nhau chào đời, choành choẹ, trêu chọc, khóc mếu, cười đùa, chạy nhảy, vòi vĩnh, kiện cáo ... đến muốn vỡ nhà. Chỉ có một điều anh cu Mùi đã nói không đúng: Sinh chưa bao giờ thấy giức đầu vì lũ trẻ mắt đen láy, lốc nhốc, nhem nhuốc nhà mình cả.
                       
                                                                                                                      Tháng 12 năm 2005
                       
                      Đánh máy: Thiện Văn
                      #26
                        Ct.Ly 16.01.2008 17:51:53 (permalink)
                        #27
                          Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 27 trên tổng số 27 bài trong đề mục
                          Chuyển nhanh đến:

                          Thống kê hiện tại

                          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                          Kiểu:
                          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9