HỒ CHÍ MINH: NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN
(HO CHI MINH: THE MISSING YEARS)
1919-1941 Sophie Quinn-Judge Người Dịch: Hoài An University of California Press
2002
Lời cảm tạ Tôi xin chân thành cảm ơn John D. và Catherine T. tại quỹ McAthur vì đã tài trợ cho những nghiên cứu của mình và năm 1994 tại Moscow và Aix-en-Provence. Quỹ nghiên cứu của đại học trung tâm London đã là nơi tài trợ cho nghiên cứu của tôi ở Aix-en-Provence vào năm 1998. Tôi rất biết ơn những người quản thư tại trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại của Nga, những người đã hết lòng giúp đỡ trong những điều kiện khó khăn.
Chính bạn bè của tôi tại Việt Nam, Nga, Mỹ, Anh, Pháp đã ủng hộ và khuyến khích tôi thực hiện việc nghiên cứu về Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, một dự án nghiên cứu tưởng như viển vông mà ban đầu tôi đã không lường hết được. Trong những năm tháng học tại khoa Châu Phi học của trường đại học tổng hợp London, tôi đã có được nhiều trao đổi về mặt học thuật với bạn bè qua các hội thảo về lịch sử Việt nam. Tôi cũng muốn cảm ơn chồng và hai con gái của mình vì đã hỗ trợ hết mình cho công việc nghiên cứu này.
Quyển sách này giành để tặng cho những người quá cố là Huỳnh Kim Khánh, người đầu tiên khơi gợi sự tò mò của tôi về mối quan hệ giữa Nguyến Ái Quốc và Quốc tế III; và Ralph B. Smith, một người bạn với nhiều lời khuyên chân thành, một tấm gương về sự lao động quên mình của một học giả.
Nội dung sách Chương 1: Paris: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc (1919-23)
Chương 2: Gia nhập Quốc tế III (Comintern) (1923-4)
Chương 3: Thời kỳ ở Quảng Châu và sau đó (1924-8)
Chương 4: Từ con đường cũ đến con đường mới (1927-9)
Chương 5: Sóng triều cách mạng (1930-1)
Chương 6: Chết ở Hồng Kông chôn tại Moscow?
Chương 7: Sự trở lại của Hồ Chí Minh và con đường đến hội nghị tám. (1937-41)
Qui ước viết tắt trong sách ACP: Annam Communist Party (An nam Cộng sản Đảng)
AOM: Archives d’Outre-Mer
BNTS: Hồ Chí Minh: Biên Niên Tiểu Sử
CC: Central Committee (Trung Ương)
CCP: Chinese Communist Party (Đảng Cộng Sản Trung Quốc)
CYL: Communist Youth League (Liên đoàn Thanh niên Cộng sản)
DDSCD: Đông Dương Cộng Sản Đảng
ECCI: Executive Committee of the Communist International (Ban chấp hành quốc tế cộng sản).
FCP: French Communist Party (Đảng Cộng sản Pháp)
FEB: Far East Bureau (Viễn Đông Cục)
GMD: Guomindang (Quốc Dân Đảng)
ICP: Indochinese Communist Party (Đông Dương Cộng Sản Đảng)
MAE: Ministère des Affaires Etrangères
NCLS: Nghiên cứu Lịch sử (Tạp Chí)
NXB: Nhà xuất bản
OMS: Bộ phận liên lạc quốc tế
RS: Trung tâm bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga
SHAT: Service Historique de l’Armée de Terre
SLOTFOM: Service de Liaisons avec les Originaires des Territoires de la France d’Outre-Mer.
SMP: Hồ sơ cảnh sát Thành phố Thượng Hải.
SPCE: Service de Protection du Corps Expéditionaire
VNQDD: Việt Nam Quốc Dân Đảng
VNTNCMDCH: Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội
CHƯƠNG 0: GIỚI THIỆU Huyền thoại kép Nhân viên trong bóng tối của Quốc tế III được thế giới bắt đầu biết đến từ năm 1945 dưới cái tên là Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt nam nhiều năm sau ngày ông lên nắm quyền với tư cách là chủ tịch đầu tiên của đất nước mình. Trong cuộc chiến giữa Mỹ và Việt nam, ông nổi lên như một hình tượng của chủ nghĩa cộng sản “hai mặt” điển hình Á châu (nghĩa là mặt cộng sản và mặt dân tộc – ND), và đối với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson ông là một kẻ thù. Hình tượng này phần nào được dựng lên do các chiến dịch tuyên truyền thời chiến tranh lạnh, mà ở đó ông được mô tả như một kẻ cuồng tín, đam mê quyền lực, một người từng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng cuối cùng đã phản bội lại chính những người theo chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản (1). Ông Hồ phải chịu trách nhiệm cho những khổ đau mà đất nước ông phải hứng chịu do chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản đem lại.
Hình ảnh trên của Hồ Chí Minh được đưa ra bởi phe chống cộng ngược hẳn lại với hình ảnh được xây dựng kỹ lưỡng về ông của những người cộng sản Việt Nam trong đó ông được mô tả như một người chủ tịch, một người cha của nước Việt nam độc lập, một người sống mẫu mực, khổ hạnh như thầy tu, một người đã cống hiến trọn đời mình cho dân tộc. Từ sau năm 1945, những người cộng sản Việt nam đã sử dụng ông như một phương tiện để tạo ra một lịch sử của một Đảng cộng sản thống nhất, đoàn kết và luôn luôn sáng suốt. Ở một mức độ nào đó, bản thân ông Hồ cũng khuyến khích việc xây dựng hình tượng mình như một người yêu nước giản dị theo chủ nghĩa dân tộc. Việc sử dụng hình ảnh Hồ Chí Minh theo kiểu này càng trở nên rõ hơn sau năm 1947, khi quân đội Pháp đã tái chiếm thuộc địa và chính phủ Mỹ tỏ ra nghi ngờ tính dân tộc của Việt Minh. Trong lời giới thiệu đầu quyển sách tiểu sử đầu tiên về Hồ Chí Minh xuất hiện ở Paris 1949, đã mô tả ông như “biểu tượng của khát vọng dân tộc”; trái tim ông được cho là “cùng đập một nhịp với những người dân Việt nam”; những lời dạy của ông tràn đầy “sự nhân ái cao cả” nhưng lại “cực kỳ gần gũi giản đơn” (2). Một bài trên báo Nhân Dân số ra ngày 25 tháng 3 năm 1951 lại mô tả một vai trò khác của ông Hồ. Bài báo đó xem Hồ chủ tịch như “linh hồn của cách mạng Việt nam và cuộc kháng chiến” , trong khi đó lại xác nhận vai trò của Trường Chinh, lúc đó là tổng bí thư Đảng Cộng sản, như là “người kiến thiết và lãnh đạo cách mạng” (3).
Cho đến năm 1964, khi những người cộng sản Việt nam đang bị kéo ngày càng sâu hơn vào cuộc đối đầu với Mỹ, thì một hình ảnh thống nhất về chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử Đảng càng trở nên hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết, thời điểm năm 1963 là thời kỳ căng thẳng trong Đảng với cuộc đấu tranh nội bộ xem nên theo đường lối quốc tế nào (giữa theo Liên Xô và Trung Quốc – ND). Vì vậy bài báo xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số ra tháng 2 năm 1964 trong đó mô tả vai trò của Hồ Chí Minh trong việc hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt năm năm 1930 mang một thông điệp quan trọng. Đó là thông điệp về một hình ảnh thống nhất về phẩm chất chính trị được xác nhận và hình tượng hoá bởi chính Hồ Chí Minh (4). Đồng thời Đảng cũng tự mô tả mình như một Đảng có sức mạnh vô địch nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Hồ Chí Minh. Mỉa mai là ở chỗ, vào thời điểm năm 1964, quyền lực cá nhân thực sự của Hồ Chủ Tịch trong Đảng lại đã bị giảm đi đáng kể (5). Trong lần xuất bản thứ 5 cuốn tiểu sử “chủ tịch Hồ Chí Minh” do Trường Chinh viết năm 1973, lần đầu tiên xuất hiện một đoạn dài nói về những “chiến lược cách mạng” của Hồ Chí Minh và một đoạn khác nói về “Đạo đức và phẩm hạnh” của ông (6). Tuy vậy cho đến năm 1989 khi khối XHCN ở Đông Âu sụp đổ, những người Cộng sản Việt nam mới bắt đầu hệ thống hoá lại “tư tưởng Hồ Chí Minh” và dùng nó như một kim chỉ nam tư tưởng hệ.
Theo quan điểm của tôi, cả hai quan điểm dập khuôn về Hồ Chí Minh như là một người cộng sản theo Machiavelli (theo thuyết “mục đích biện minh cho hành động – ND), hay là một vị thánh có tinh thần dân tộc đều gây cản trở cho việc nghiên cứu nghiêm túc một hình tượng lịch sử. Lấy ví dụ chúng có thể gây ra những cuộc tranh cãi rất vô bổ như liệu Hồ Chí Minh có phải là một kẻ mạo danh? Hay một kẻ đóng kịch? (7) (Rõ ràng là Hồ Chí Minh có thể là một người đối thoại rất trung thực và thẳng thắn, đồng thời lại có thể là một người rất xảo quyệt luôn biết tự cảnh giác). Hình ảnh quá thực tế cuộc sống của Hồ đã làm nhiều học giả nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam phóng đại quá mức về tầm quan trọng của ông trong việc tạo dựng tình hữu nghị cộng sản quốc tế. Lấy ví dụ cuốn tiểu sử viết bởi Jean Lacouture, một người ái mộ ông Hồ, đã mô tả rằng ông là một người bạn mật thiết của những trí thức cánh tả nổi tiếng của Pháp như Boris Souvarine (8). Mặc dù vậy những tài liệu từ Nga và Pháp mà chúng tôi đã nghiên cứu lại cho thấy thực ra ông Hồ là người cầu cạnh các mối quan hệ với họ chứ không phải bạn thân. Souvarine, có lẽ hầu như không có mấy quan hệ với ông Hồ cho đến tận năm 1923, vì ông ở Pháp rất ngắn sau khi bị bỏ tù vào các năm 1920, 1921, và cho đến khi ông ta bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp năm 1924 (9). William Duiker thì mô tả ông Hồ như “một diễn giả chính của phương Đông và giúp làm tăng sự chú ý đến các vấn đề của nông dân” tại phiên bế mạc của hội nghị lần thứ năm của Quốc tế III năm 1924 (10). Tuy nhiên trong thực tế, ông Hồ chỉ là một diễn giả phụ nói về vấn đề thuộc địa và thậm chí không phải là đại diện của một Đảng Cộng sản Á châu nào. Charles McLane cho rằng, sau khi trở lại Moscow từ Trung Quốc năm 1927, ông Hồ đã bàn định lại chính sách đối với các nước Đông Nam Á với các nhà lãnh đạo Quốc tế III, “Thậm chí có lẽ là với chính Stalin” (11). Mặc dù vậy, hiện chưa có một bằng chứng nào cho thấy điều đó ngoài việc ông Hồ nộp một bản báo cáo cho Krestintern (Quốc Tế Nông Dân) và bàn bạc với cấp trên của mình ở ban chấp hành quốc tế Cộng sản trong khoảng thời gian ông ở Moscow năm 1927. Charles Fenn cho rằng ông Hồ là một trong hai đại diện tham dự hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế III tham gia ủng hộ mặt trận bình dân (12). Thực ra ông Hồ không có quyền bỏ phiếu, các các chiến lược chính sách đã được Dimitrov chuẩn bị kỹ lưỡng trước dưới sự hỗ trợ của Stalin. Vai trò của một nhà tuyên truyền cách mạng của ông Hồ nhiều khi cũng bị thổi phồng một cách quá đáng. Ví dụ như trong bài báo viết về tiểu sử của ông đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 17 tháng 5 năm 1970, năm sau khi ông mất, đã mô tả tờ báo chống đế quốc Le Paria, mà ông Hồ làm chủ biên ở Paris, là “đã tạo nên một cơn gió cách mạng thổi bùng trên toàn Đông dương và các nước khác”. Theo quan điểm cá nhân của chúng tôi, đó là sự nói quá về vai trò của Le Paria trong những năm đầu thập niên 20.
Những học giả chống cộng thường có xu hướng chấp nhận một phiên bản của cách nhìn trên về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Tôn Thất Thiện trong bài luận có tựa đề “Sự thật và giả dối: Chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh đến Nga năm 1923 và sự thất sủng của ông trong Quốc tế Cộng sản III”, đã đặt vấn đề nghi ngờ về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong phong trào cộng sản quốc tế. Ông cho rằng bài phát biểu của ông Hồ tại đại hội 2 Đảng Cộng sản Pháp đã gây ấn tượng mạnh đối với đặc phái viên của quốc tế cộng sản 3 Dmitry Manuilsky, và ngay tại đó Hồ đã được mời tham dự Đại hội 5 quốc tế Cộng sản III tại Moscow (13). Trong thực tế, các tài liệu tại các tàng thư của Nga và Pháp lại cho thấy vấn đề phức tạp hơn một chút. Trong chương 2, chúng tôi sẽ chỉ ra rằng thực tế ban đầu ông Hồ chỉ dự định ở lại Moscow có 3 tháng và không có ý định tham dự hội nghị 5. Theo Lacouture, ông Hồ đã tham dự một hội nghị phản đế quan trọng vào đầu năm 1928 nơi ông gặp gỡ Nehru và các nhà dân tộc chủ nghĩa khác (14). Nhưng thực ra hội nghị này diễn ra tháng 2 năm 1927, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Quảng Châu. Trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi phát hiện ra nhiều chuyện thú vị về việc rất nhiều việc được gán cho ông Hồ nhưng thực tế ông không làm do hoặc là ông không có mặt tại địa điểm diễn ra hành động, hoặc ông không có đủ tầm ảnh hưởng để làm.
Một trong những ví dụ kiểu này là việc cho rằng ông là tác giả bài báo:”The Party’s Military Work among the Peasants” in trong tập tái bản của cuốn sổ tay Quốc tế Cộng Sản III, “Armed Insurrection”. Bài báo gốc được in vào năm 1929 dưới bút danh A. Neuberg, mặc dù đã có một bài viết với tiêu đề tương tự của Alfred Langer, xuất hiện ở Đức năm 1928. Những học giả như William Duiker và Huynh Kim Khanh đã dung bài luận này để lý giải về quan điểm của ông Hồ về nông dân và cuộc nổi dậy của Soviet Nghệ Tĩnh năm 1930-1.(15) Trong phần giới thiệu của bản in năm 1970, Erich Wollenberg, người tự nhận là một trong các tác giả gốc, đã chỉ rõ Hồ Chí Minh là tác giả của chương cuối, về khởi nghĩa của nông dân (16). Wollenberg cũng cho rằng chính Hồng quân đã cử Hồ Chí Minh đến Trung Quốc năm 1924. Việc thừa nhận ông Hồ như một chuyên gia về quân sự như nhiều tài liệu báo chí phương Tây sau này, hiện chưa được minh chứng trong các tài liệu và chứng cứ chúng tôi đã nghiên cứu. Trong Quốc tế Cộng sản III, ông Hồ chỉ hoạt động như một phiên dịch, một chuyên gia tuyên truyền và vận động cách mạng. Khi trở về Moscow từ Trung Quốc vào tháng 6 năm 1927, ông có báo cáo về phong trào nông dân ở tỉnh Quảng Đông, nhưng bài báo cáo ở dạng mô tả cụ thể chứ không có dáng điệu phân tích sâu sắc như bài báo trên. Ở Berlin năm 1928, ông đã viết bài mô tả về phong trào nông dân Pen Pai. Nhưng tại thời điểm của cuộc nổi dậy Nanchang, Sô viết Hai-Lungfeng, hay khởi nghĩa ở Quảng Châu, ông không có mặt tại đó mà những sự kiện này lại được phân tích rất kỹ lưỡng trong bài luận năm 1929 kia. Theo tài liệu của Quốc tế III, Hội đồng quân sự của ban thư ký Đông phương của quốc tế 3 đã giao nhiệm vụ cho A. Gailis, một người Litva (biệt danh là Tom khi làm việc tại Trung Quốc), và Y. Zhingur một người làm việc làm việc trong lực lượng tình báo quân đội ở Nam Trung Quốc từ năm 1926 đến 1927 nghiên cứu các chiến thuật cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Quyết định này được đưa ra trong cuộc họp ngày 22 tháng 3 năm 1928, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Berlin (17). Cuốn sách của Gailis về chủ đề này đã được in ở Moscow vào ngày 20 tháng 6 năm 1929 (18). Do đó có lẽ sự xác nhận ông Hồ là tác giả bài luận cuối của lần tái bản năm 1970 có lẽ chủ ý muốn đề cao vai trò của ông Hồ như là một lý thuyết gia Cộng sản. (Sự thực thì quan điểm của bài báo cũng chính là quan điểm chính thống của quốc tế 3 năm 1928 , và cho dù ông Hồ có đồng quan điểm với nó thì cũng khó có khả năng ông Hồ lại có thể sử dụng giọng kẻ cả như vậy đối với sự thất bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc).
Những tiểu sử đầu tiên của phương Tây về Hồ Chí Minh (như của Lacouture, Fenn) là những tiểu sử mang đậm dấu ấn của trường phái ấn tượng (ý muốn nói có nhiều điều không thật – ND), do thiếu tư liệu lịch sử. Bản thân ông Hồ cũng rất khéo léo trong việc che dấu quá khứ của mình. Trong nhiều năm thông tin về tiểu sử của mình mà ông cung cấp phần nhiều là những mẩu chuyện hư cấu với những ngày tháng lộn xộn không rõ ràng chứ không phải những sự kiện thật trong cuộc đời của ông. Cuốn tiểu sử lần đầu in tại Paris năm 1949, trước đó đã xuất hiện năm 1948 bằng tiếng Trung Quốc, sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”. Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng hiện mọi người đều đã công nhận đó là tự do ông Hồ viết (19). Cuốn sách là tập hợp những khắc hoạ mờ ảo trong trí nhớ về ông của các đồng chí của ông với ngày tháng lộn xộn. Mặc dù nó có dựa trên những sự thật những sự thiếu hụt thông tin, sự trang hoàng và tiền đề thuyết phục người đọc về những phẩm chất vô sản của ông Hồ chỉ làm quyển sách này có tác dụng xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh chứ không phải là một cuốn sách có giá trị lịch sử cao. Tiểu sử Hồ Chí Minh bằng tiếng Nga của Kobelev là tác phẩm của một nhà báo hơn là của một lịch sử gia (20). Cuốn tiểu sử này phần lớn dựa trên cuốn tiểu sử viết bởi Hồng Hà, một người mà qua cách đánh giá về việc cẩn trọng trong việc sử dụng tài liệu tham khảo nên cũng được xem là một nhà báo hơn là một sử gia thực thụ (21).
Những thông tin tiểu sử về thời trai trẻ của Hồ Chí Minh trong những năm tháng đầu tiên ở Paris được phát hiện trong tàng thư của Pháp bởi, Nguyễn Thế Anh, Thu Trang Gaspard, và Daniel Hémery sau khi cuốn sách của Lacouture được in đã làm mạnh thêm quan điểm về nguồn gốc dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ (22). Đặc biệt trong bài báo in năm 1992 của mình với tựa đề “Jeunesse d’un Colonisé genèse d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911”, Hémery đã chỉ ra sự nghiệp của bố ông Hồ (cụ Nguyễn Sinh Huy – ND) và việc ông bị cách chức quan đã ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. Cuốn tiểu sử gần đây của William Duiker đáng tiếc đã không lưu ý đến nghiên cứu này của Hémery. Duiker chỉ sử dụng những tài liệu về thời trẻ của ông Hồ được xuất bản ở Hà nội. Mặc dù Duiker cũng đưa các quan điểm ngược chiều vào cuốn tiểu sử của mình và sử dụng một số tài liệu của Quốc tế III, nhưng ông cũng cho rằng Kobelev đã hơi thổi phồng quá vai trò của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản III.
Tìm kiếm hình ảnh lịch sử thật của Hồ Chí Minh Với việc Tàng thư Quốc tế Cộng sản được mở công khai năm 1992, hiện đã có thể có đủ dự kiện để phác hoạ về sự thật cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm trước 1945, thay vì những huyền thoại như trước đây. Nghiên cứu trong cuốn sách này là về những năm tháng hoạt động chính trị của ông từ năm 1919, khi ông lần đầu tiên xuất hiện tại Paris dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc; cho đến năm 1941 trước cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2, khi liên hệ giữa những người Cộng sản Việt Nam với Quốc tế III chấm dứt. Nghiên cứu trong cuốn sách này dựa trên nghiên cứu các tàng thư tại Trung tâm bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga, trước đây là Học viện Marx-Lenin, (23) và tại Centre d’Archives d’Outre-Mer tại Aix-en-Provence. Chúng tôi cố gắng nhất trong mức có thể giữ nguyên trạng những sự thực do chúng tôi phát hiện được trong những tàng thư này mà không biến chúng thành một chuỗi các sự kiện rời rạc. Chúng tôi có chỉnh lý những tự chuyện, hồi ký của người Việt và cố gắng so sánh với nguồn tài liệu chính thống của Đảng Cộng sản Việt nam với các tài liệu chúng tôi tìm thấy tại các tàng thư về cùng một sự kiện mỗi khi có thể. Cũng cần chú ý rằng đối với các tài liệu về thời kỳ từ năm 1941 trở về trước trong kho tài liệu của Đảng Cộng sản Việt nam, trừ các hồi ký, và những tài liệu đã được in lại trong Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập đều được thu thập đầy đủ từ các tàng thư của Nga và Pháp nói trên (Xem thêm chi tiết tại phần tài liệu tham khảo).
Mục đích của nghiên cứu này không phải là để huỷ hoại thanh danh của Hồ Chí Minh, mà chỉ là để làm rõ sự thực những gì ông đã làm trong thời kỳ ông làm việc cho Quốc tế III. Những năm tháng hoạt động bí mật và được cải trang kỹ lưỡng đã đưa ông Hồ trở thành một huyền thoại kiểu Phantomat. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thực là mặc dù cuộc đời ông trong giai đoạn này đẫy rẫy những sự nguy hiểm, thì một trong những công việc mà ông cũng thường xuyên phải làm là ngồi gõ thật nhiều các bản báo cáo với mục đích thuyết phục người Nga cung cấp thêm nhiều tiền cho các hoạt động của ông. Ông Hồ thực sự không có cuộc sống của nhà tu hành, ông có hai mối quan hệ với phụ nữ được chứng minh bằng các tài liệu chúng tôi tìm được trong khoảng thời gian hoạt động mà cuốn sách này đề cập đến (24). Ông là một sinh vật chính trị phức tạp chứ không phải là một vị thánh. Tài liệu chính thống của Việt nam thường đặt trọng tâm vào tấm gương lãnh đạo của ông và thường xem ông như là người khởi nguồn của mọi tình huống – ông được khắc hoạ như một nhân vật đạo đức cao cả hàng đầu. Chúng tôi muốn khắc hoạ hình ảnh của ông khách quan hơn trong một ngữ cảnh rộng hơn trong đó ông chỉ là một trong số nhiều nhân vật chứ không phải là nhân vật trung tâm duy nhất.
Sự nghiệp của Hồ Chí Minh trong những năm đó đóng vai trò một cầu nối giữa Việt Nam và Quốc tế Cộng sản III. Nghiên cứu của chúng tôi sẽ làm rõ tiến trình quan hệ này, bắt đầu từ việc Quốc tế III cố gắng khuyến khích và đỡ đầu các cuộc cách mạng ở các thuộc địa cho đến thời kỳ của cuộc đấu tranh giai cấp quốc tế từ năm 1928 đến 1935, và quay lại phòng trào giải phóng dân tộc bắt đầu từ đầu những năm của cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai.
Những năm tháng mà ông Hồ có ảnh hưởng nhất chính là những năm tháng của mặt trận dân tộc thống nhất. Còn trong những năm 1930s ông không có được ảnh hưởng đáng kể và do đó đã tạo điều kiện để những lãnh đạo khác như Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần Văn Giàu, Lê Hồng Phong, và Nguyễn Văn Cừ chiếm lĩnh sự ảnh huởng. Tất cả các lãnh đạo trên, trừ Nguyễn Văn Cừ, đều được học tập và huấn luyện tại Moscow. Đây có lẽ là cách tiếp cận nghiên cứu Top-down về ảnh huởng lãnh đạo, một xu hướng có phần lỗi thời trong nghiên cứu lịch sử. Nhưng trừ phi chúng ta có đầy đủ tài liệu, bằng chứng về những người và những tư tưởng đã giúp hình thành nên chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam thế kỷ 20, mà không cần đến những kiến thức về nguồn gốc kinh tế và nhân chủng học của các cuộc nổi dậy chống thực dân, thì khung lịch sử của chúng ta chỉ mang tính thuần tuý lý thuyết.
Để hiểu được mối liên quan giữa các chính sách tại Moscow và những sự kiện ở Việt nam chúng tôi đã phải nghiên cứu lại kỹ lượng các cuộc tranh luận và tài liệu chính yếu trong việc thiết lập các chính sách của Quốc tế III đối với các nước thuộc địa. Một trong những thứ quan trọng nhất đó là cuộc tranh luận về bản luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin năm 1920, năm Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Một cuộc tranh luận quan trọng nữa là cuộc tranh luận diễn ra từ năm 1928 đến năm 1929, mà các tài liệu về chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam thường diễn giải sai. Cuộc tranh luận về các chính sách cấp tiến hơn cho phong trào cộng sản quốc tế, thay thế các chiến thuật giành cho các nước thuộc địa mà Lenin đề ra năm 1920. Để phân tích quá trình cấp tiến hoá của phong trào cộng sản tại Việt nam những năm cuối thập niên 20, chúng ta cần xem xét trình tự thời gian mà chính sách của Quốc tế III chuyển sang “giai cấp-đấu-giai cấp” mà thường được gọi là “giai đoạn 3” của chủ nghĩa tư bản sau năm 1918. Trong chương 3, 4, và 5 chúng tôi cũng sẽ phân tích những con đường khác nhau mà những chủ nghĩa cực đoạn kia có thể đã được truyền vào Việt nam. Hơn nữa các sự kiện ở Việt nam được đặt trong một ngữ cảnh rộng hơn đó là ngữ cảnh của toàn bộ Đông Nam Á. Dường như lịch sử ít đề cập đến vai trò của Hội Đồng Nam Hoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Việt Nam trong những năm cuối thập niên 20, mà trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ra rằng nó đã tồn tại ở Việt Nam và có lẽ đã hoạt động độc lập ngoài tầm kiểm soát của Quốc tế III.
Có thể có người sẽ cho rằng, đến thời điểm này đã có thể quét sạch những thứ lịch sử bị chính trị hoá, những tuyên truyền thuần tuý về Hồ Chí Minh. Nhưng thực tế, mọi tài liệu đều có vấn đề riêng của nó và cần được diễn giải cẩn thận. Về khía cạnh tích cực mà nói, các sự kiện được đề cập đến trong các tài liệu của Quốc tế III, thường được khẳng định và minh hoạ bởi các tài liệu trong tàng thư của Pháp, nhưng để xác định tác giả, nguồn gốc, ngày tháng của các tài liệu trong tàng thư của Quốc tế III không phải là chuyện dễ dàng. Trong các bản báo cáo gửi về Moscow của mình các lãnh đạo của Đảng CS, nhất là Hồ Chí Minh, thường cố gắng tránh không sử dụng tên thật của mình. Đôi khi có thể xác định chính xác ngày viết và ngày nhận của các bản báo cáo tại Moscow nhưng không phải lúc nào cũng xác định được như vậy.
Một vấn đề khác nữa, không chỉ của riêng Nga, là không phải tất cả các tài liệu đã được bạch hoá. Lấy ví dụ phần tài liệu liên quan đến hoạt động của các bộ phận của Quốc tế III dưới sự điều khiển của NKVD (lực lượng mật vụ Sô Viết, hậu thân của Cheka) vẫn còn đóng kín. Do đó nếu chỉ dựa vào nguồn tài liệu đã bạch hoá ở Moscow, có lẽ còn quá sớm để khẳng định rằng mối quan hệ giữa Quốc tế III và những người cộng sản Việt Nam đã được làm sáng tỏ hoàn toàn. Ví dụ cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa có đủ cứ liệu về cuộc điều tra của Quốc tế III về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc cho đến thời điểm ông bị bắt năm 1931. Mặc dù nguồn tài liệu phụ khác cho chúng tôi thấy, Hồ Chí Minh đã bị loại khỏi Đại hội Quốc tế III năm 1935 và trong khoảng thời gian từ năm 1934-1938. Ông “gần như không hoạt động chính trị gì” trong thời gian sống tại Moscow. Vì vậy ta chỉ có thể phỏng đoán rằng đã có một sự nghi ngờ và điều tra từ phía Quốc tế III đối với Hồ Chí Minh tại thời điểm này và có lẽ thông tin về cuộc điều tra này có trong các tài liệu còn đang chưa được bạch hoá kia. Ngay bản thân Hồ Chí Minh, khi khai báo với Quốc tế III cũng thường xuyên đưa những thông tin mơ hồ và trái nghịch về chính bản thân mình. Ví dụ khi nhập học tại trường quốc tế Lenin năm 1934, ông đã khai báo kiến thức nghề nghiệp của mình là “không có gì”. Hay như năm 1938, ông tự khai lý lịch của mình là sinh năm 1903, khoảng 10 tuổi trẻ hơn so với tuổi thật của mình. (25)
Việc sử dụng các nguồn tài liệu từ tàng thư của Pháp cũng có thể gây tranh cãi. Độ tin cậy trong những nguồn tin và phân tích của lực lượng mật vụ Pháp không có gì đảm bảo là chính xác. Hơn nữa các tài liệu tại SPCE được sử dụng ít hơn vì chúng mới chỉ được bạch hoá vào những năm 90. SPCE chỉ lưu trữ các hồ sơ chủ yếu của Phòng nhì liên quan đến các hoạt động của từng nhà cộng sản hay chủ nghĩa dân tộc đơn lẻ. Nguồn tài liệu này lưu trữ những bản cung khai vô giá lấy được của cảnh sát Pháp từ những người Cộng sản bị giam cầm, hoặc các báo cáo của các điệp viên, chỉ điểm của Pháp trong hàng ngũ những người cộng sản.
Mặc dù những nguồn tài liệu này cần được sử dụng một cách hết sức thận trọng, nhưng trong một số tình huống chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng các nguồn tài liệu này. Chúng tôi dựa vào những khai báo trung thực đối với cảnh sát Pháp của những người cộng sản từ bỏ hàng ngũ do bất đồng và thường kiểm tra chéo bằng cách so sánh với các lời khai của những người khác về cùng một sự kiện. Điều này đặc biết có lý trong khoảng thời gian từ năm 1930 đến 1931, khi mối bất đồng trong việc lựa chọn chiến lược giữa các lãnh đạo Đảng cộng sản lên đến đỉnh điểm. Đối với những điệp viên và chỉ điểm của Phòng nhì, thì rất có thể họ phóng đại những thông tin, liên hệ và hiểu biết bên trong của họ nhằm lấy lòng chủ của họ là Phòng nhì Pháp. Mặc dù vậy chúng tôi thường chỉ lựa chọn thông tin cung cấp bởi những người chỉ điểm lâu năm và dường như đã chiếm được niềm tin của Phòng nhì Pháp vì điều đó chứng tỏ tài liệu và thông tin của họ cung cấp chính xác hơn những người chỉ điểm khác.
Lấy ví dụ, một điệp viên chỉ điểm thành công nhất của Phòng nhì Pháp chính là Nguyễn Công Viên hay còn được gọi là Lâm Đức Thụ (trong cuốn Wiliam Duiker , Lâm Đức Thụ được mô tả như là một người bạn thân thiết của Nguyễn Ái Quốc, lúc đó là Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ cưới vợ người Hoa, và theo Hoàng Tranh chính là người cùng với vợ giới thiệu Tăng Tuyết Minh làm vợ Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ bị Việt Minh bắn chết năm 1945 tại quê nhà Thái Bình vì tội Việt gian – ND), người không chỉ gửi các báo cáo đều đặn đến phòng nhì về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Quảng Đông từ năm 1925 trở đi mà còn thường xuyên gửi các tài liệu và thư gốc. Lấy ví dụ ông ta chuyển cho Phòng nhì Pháp gần như toàn bộ các số báo Thanh Niên của Hồ Chí Minh, mà bản dịch hiện vẫn đang được lưu trữ ở tàng thư nói trên. Giá trị của các bản báo cáo này đối với các sử gia là ở chỗ ông Hồ đã cố gắng dấu kín các mối quan hệ với cả phía cộng sản lẫn không cộng sản, mà vào những năm 1950 điều này có thể nguy hiểm cho cả hai bên, nên không được bên nào nhắc tới. Điều đó cho thấy sự trái ngược với cách nhìn nhận thời kỳ chiến tranh lạnh rằng đã có sự chia rẽ sâu sắc giữa các nhà hoạt động cộng sản và phi cộng sản những năm 20 ở Nam trung hoa.
Mặc dù quãng thời gian đề cập đến trong nghiên cứu này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của thời kỳ chiến tranh lạnh, nó cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm nhìn nhận diễn giải của thời kỳ phân cực này. Do đó nhất thiết cần phải nắm vững những tập quán của “lịch sử chính tranh lạnh mới” khi xem xét lại thời kỳ đầu trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của John Lewis Gaddis, có ba điểm cần nhấn mạnh (26). Đầu tiên cần phải “thấy được đoạn sản phẩm cuả đời sau không phản ánh giai đoạn lịch sử giai đoạn trước”. Chính vì vậy mà các nguồn tài liệu hiện có về Hồ Chí Minh được chúng tôi xem xét cẩn thận kết hợp với sự nghiên cứu về mức độ kiến thức, hiểu biết trực tiếp của tác giả nguồn tài liệu về các vấn đề đề cập trong tài liệu . Quan điểm thứ hai của Gaddis là phải “ xem xét kỹ lưỡng tầm quan trọng của lý tưởng”. Điều đó buộc chúng tôi phải đặt địa vị của mình vào để hiểu được những gì diễn ra trong suy nghĩ của những người chiến đấu chống lại thực dân Pháp, và cố thấu hiểu sức mạnh của những lý tưởng Marxit-Leninit trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Để có được sự tôn trọng và duy trì được quyền lực trong phong trào quốc tế cộng sản, những nhà lãnh đạo cộng sản cần phải chứng tỏ họ nắm vững những lý tưởng này như thế nào trước Quốc tế III.
Quan điểm thứ ba của Gaddis là phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu từ nhiều tàng thư, và chúng tôi đã cố gắng đạt được điều này thông qua việc nghiên cứu các tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ các tàng thư ở Nga và ở Pháp. Lẽ dĩ nhiên sẽ còn nhiều phát hiện thú vị khác về các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này từ các tàng thư của Trung Quốc và Việt Nam khi chúng được bạch hoá đối với các nhà nghiên cứu. Thậm chí ngay cả các tài liệu còn chưa được bạch hoá ở Nga, Pháp, Anh, hay Mỹ sẽ có thể cung cấp thêm cho chúng ta những hiểu biết mới về những năm tháng mà Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù vậy hy vọng rằng tài liệu này cho thấy được giá trị của nguồn tài liệu từ Quốc tế 3 và cho thấy được sự ảnh hưởng của những thay đổi trong chính sách diễn ra ở Nga lên các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.
____________________________
Chú thích cho chương 0 1. Thái độ này phần nào là do gán ghép về sự phản bội của Hồ Chí Minh đối với nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc Phan Bội Châu năm 1925. Vấn đề này sẽ được bàn luận trong chương 3.
2. Tran Ngoc Danh, Tiểu Sử Hồ Chủ Tịch, Paris, chi hội Liên-Việt tại Pháp, 1949, trang 6.
3. Trích trong Thai Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism, Institute of South East Asia Studies, Singapore, 1985, trang 20.
4. Nguyen Nghia, Công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt nam và vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số tháng 2, năm 1964.
5. Judith Stowe, “Revisionism in Vietnam”, paper for AAS conference, Washington DC, 03/1998, trích cuộc trò chuyện với Hoàng Minh Chính tháng 2 năm 1995, về việc Trường Chinh thú nhận năm 1963 ông Hồ Chí Minh đã bị “vô hiệu hoá”.
6. Trường Chinh, Hồ Chủ Tịch: Lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam, Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1973, trang 66.
7. Xem ví dụ trong, Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Paris: Presses de Sciences Po, 2000, trang 55-71.
8. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Hamondsworth, Penguin, 1968, trang 33.
9. Branko Lazitch, A Biographical History of the Comintern, Standford, CA: Hoover Institution Press, 1973, trang 378.
10. William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000, trang 102.
11. Chales B. McLane, Soviet Strategies in South-East Asia: An Exploration of Eastern Policy under Lenin and Stalin, Princeton University Press, 1966, trang 137.
12. Chales Fenn, Ho Chi Minh, New York, Chales Scribner’s Sons, 1973, trang 59.
13. Ton That Thien, Vérités et Mensonges: Le voyage clandestine de Ho Chi Minh en Russie en 1923 et sa disgrâce Au Komintern en 1933-1939, in Ho Chi Minh: L’homme et son héritage, Paris: La Voie Nouvelle, 1990, trang 51-52.
14. Lacouture, sách đã dẫn trang 48.
15. William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder, CO: West View Press, 1996, trang 21-23; Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism 1925-1945, Ithaca, NY: Cornell University Press, 1968, trang 168-170.
16. A.Neuberg, Armed Insurrection, London: NLB, 1970, Dịch bởi Quentin Hoare từ bản tiếng Đức năm 1928 và bản tiếng Pháp năm 1931.
17. Titerenko, Leunert et al., VKP, Komintern I Kitai (dokumenti), Vol III, 1927-1931, phần 1), Moscow Russien Center, 1999, trang 35.
18. Titarenko et al. Tài liệu đã dẫn, trang 572-574, Letter from Berzin and Sudakov to Shifres.
19. Trần Dân Tiên, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch, NXB Chính trị Quốc gia, 1994. Việc gán ghép tác giả bản xuất hiện năm 1949 cho Trần Ngọc Danh có gì đó không rõ ràng. Sự thực Trần Ngọc Danh đã bị trục xuất khỏi Đảng Cộng Sản Đông Dương (ICP) năm 1949, có thể sự gán ghép này nhằm làm dịu những thắc mắc bên trong Đảng về tác giả thật của cuốn sách.
20. Yevgeny Kobelev, Ho Chi Minh, Moscow: Progress, 1989 dịch từ bản tiếng Nga năm 1983.
21. Hong Ha, Ho Chi Minh v Strane Sovietov (Hồ Chí Minh trên đất nước Xô viết), Moscow Polit. Literatury, 1986, dịch từ bản tiếng Việt, Hồ Chí Minh trên đất nước Lenin, Hanoi: NXB Thanh niên, 1980.
22. Xem Nguyen The Anh, ‘How did Ho Chi Minh become a Proletarian? Reality and Legend’, Asian Affairs, Vol. 16, Part II; Thu Trang Gaspa, Ho Chi Minh à Paris (1917-1923), Paris: L’Mahattan, 1992; and Daniel Hémery, ‘Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil, etc.’, Approcies Asie, no. 11, 1992.
23. Trong năm 2001, Tàng thư này được đổi tên thành “Tàng thư quốc gia Nga về lịch sử chính trị xã hội”.
24. Người phụ nữ thứ nhất là “Tuyết Minh”, một cô gái sinh viên hộ lý người Quảng Châu, người bắt đầu cuộc sống vợ chồng với Hồ Chí Minh từ tháng 10 năm 1926. Bà không được đề cập đến trong chương 3 của cuốn sách này vì mối quan hệ đã chấm dứt ngay khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Trung Quốc năm 1927. (Xem AOM, SPCE 367, Renseignements fournis par Lesquendieu au sujet de Tuyet Minh, femme chinoise, maitresse de Nguyen Ai Quoc, Hanoi, 28/10/1931). Người phụ nữ thứ 2 là Nguyễn Thị Minh Khai, có tầm quan trọng chính trị lớn hơn người trước (xem chương 5,6, và 7).
25. Các form khai báo hồ sơ nhân sự của ông có tại RC, 496 201/1. Năm sinh khả dĩ nhất của ông là vào khoảng năm 1892 hoặc 1893 theo lời khai của chị ông (bà Thanh) với cảnh sát Pháp năm 1920 (SPCE 364 Note conf. 711, Hue, 7/05/1920). Còn theo nguồn chính thống của Hà Nội thì ông sinh năm 1890.
26. John Lewis Gaddis, We know how: rethinking cold war history, Oxford Clarendon Press, 1997; đặc biệt chương cuối: “The New Cold War History”