rongxanhag
-
Số bài
:
195
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 01.04.2007
|
RE: Nhớ về một vương quốc xa xưa: Phù Nam
-
06.10.2007 06:04:49
V. Thủy Chân Lạp (Phù Nam thuở nào) dần dà thuộc về các chúa Nguyễn: Rất nhiều bài viết đã nói khá kỹ tiến trình này, ở đây tôi chỉ xin điểm lược lại một số ý : Từ đầu thế kỷ XVII, đã có lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của Chúa Nguyễn đến Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hoà) khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ. Thế rồi vào năm 1620, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu của Vương triều Chân Lạp Và Ngọc Vạn, người công nữ đức hạnh & xinh đẹp này, đã hai lần dẫn đường cho người Việt mở đất về phương nam. Lần thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620, lần thứ nhì trong cuộc tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658, thời trị vì của Batom Reacha Pontana Reja ( tức hoàng thân So, con Ngọc Vạn - xin xem thêm bài soạn cũng cùng người viết: Ngọc Vạn, người không có “truyện” trong sử nhà Nguyễn). Lý do vương triều Chân Lạp dễ dàng nhượng vùng hạ lưu sông Cửu Long, vì nguyên thủy vùng đất nầy không phải là đất của họ, mà là của nước Phù Nam (Funan) thủa xa xưa. ( Xin bạn đọc xem chi tiết trong bài Trước khi lưu dân Việt Nam tới, đất Sài Gòn xưa thuộc cư dân nào? của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, sách Địa chí văn hóa Tp HCM, nxb Tp HCM, năm 1987) Vì không phải là đất của mình, lại rất ít dân sinh sống, không có người đủ tài đức cai quản, nguồn lợi thu về không là bao; nên vua chúa Chân Lạp dễ dàng dùng đất nầy làm quà tạ lễ các chúa Nguyễn đã giúp họ lên ngôi, hoặc giúp họ chống lại Xiêm La. Vả lại, trong lịch sử, chuyện cắt đất để cầu phong, để củng cố thế lực hoặc cầu bình an cho vương triều là chuyện thường xảy ra ở chế độ phong kiến. Bạn đọc dễ dàng tìm thấy ví dụ trong các sách, nhất là ở sử Tàu … Như thế có nghĩa, người Việt đã không giành chiếm mà chỉ đến (cùng vài dân tộc khác như Hoa, Champa chẳng hạn) cộng cư với dân bản địa, đơn thuần buổi đầu chỉ là lý do mưu sinh với sự đồng thuận của cả hai vương triều. Nhưng do tập quán sinh hoạt, canh tác của mỗi dân tộc ít nhiều có điểm khác nhau, như dân bản địa thích chọn ở nơi đất cao (giồng), trồng khoai sắn, làm ruộng chỉ cầu đủ ăn và ít muốn khai thác gì thêm; người Hoa thì thích buôn bán hơn. Riêng người Việt,vì bấy lâu bẩn chật nơi mảnh đất miền Trung nhỏ hẹp, nghèo khó, lắm thiên tai; giờ được đứng trước vùng đất phương nam mênh mông nhiều sông nước này; nên cha ông ta với lòng hăm hở cộng thêm đức tính cần cù, không ngại khó; vì thế chẳng bao lâu nơi trước đây còn hoang vu, nhiều đầm lầy, rừng rậm, thú dữ…trở thành vô số những cánh đồng ngút ngàn màu mỡ, trĩu xanh. Và cũng vì thói quen sống nên người bản địa thường lánh đi nơi khác... Mãi về sau, năm 1698, nghĩa là đã tròn 40 năm, nếu tính từ năm1658, thời trị vì của Batom Reacha Pontana Reja ( tức hoàng thân So, con Ngọc Vạn), Minh Vương Nguyễn Phúc Chu mới cử Nguyễn Hữu Cảnh đến thiết lập chủ quyền nơi vùng đất mới để bảo vệ cuộc sống bình an, sự làm ăn mua bán của cư dân mình vì chính quyền Chân Lạp thời bấy giờ cứ liên tiếp xào xáo, không ổn định. Vậy có thể nói gọn: Trước mắt của người Đàng Trong là một vùng đất mênh mông hoang vu cần khai khẩn để biến nó thành kho lương thực, thành tài sản quí giá cho người dân và quốc gia. Với lòng khao khát này, tất nảy ra “Cái khó ló cái khôn”: Đấy chính là kế sách “tầm ăn dâu” khôn khéo của các chúa Nguyễn, là đường lối “dân đi trước, làng nước theo sau”, là tài thao lược khiến đối phương thì qui phục, dân thì tin yêu của các danh tướng như Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại vv… Và đặc biệt hơn cả, chính là tấm lòng son của một phận má hồng: Ngọc Vạn. Cho nên chỉ sau hơn một thế kỷ, tính từ đầu thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XVII toàn bộ khu vực Nam Bộ đã hoàn toàn thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng động. Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất cả các cộng đồng dâncư trong guồng máy phát triển chung của đất nước, trong đó vai trò của các lớp cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm và người Hoa… VI. Phù Nam & Chân Lạp là hai quốc gia khác nhau: Cho tới nay, vẫn còn không ít người cho rằng nước Phù Nam là tiền thân của nước Chân Lạp. Quan điểm nhầm lẫn này được nêu ra đầu tiên trong các công trình nghiên cứu của các học giả của trường Viễn Đông bác cổ từ nữa đầu thế kỷ XX. Sau này, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc, vì họ phân biệt rất rõ, ta mới có đủ bằng chứng để xác định hai quốc gia này không phải là một. Tùy thư, trong q.82 tờ 3, viết: “Chân Lạp ở về phía Tây nam nước Lâm Ấp. Nguyên trước là thuộc quốc của Phù Nam. Sau họ ngày một hùng cường, vua Chân Lạp là Ksatriya Citrasena chiếm được Phù Nam và bắt thần phục…” Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Kỳ biên soạn trong Q.222, tờ 2, cũng mô tả tương tự: “Nước Phù Nam ở cách quận Nhật Nam ( tức phía nam đất Trung bộ của nước ta) bảy ngàn lý về phía nam.Vua của họ đóng đô ở thành Đặc Mục. Thành ấy bị Chân Lạp đánh bất ngờ…” Còn nhiều tư liệu khác nữa, nhưng chỉ cần 2 đoạn trích trên, ta cũng có thể rút ra được 3 điểm: 1/ Vị trí mỗi nước đều được xác định khá rõ ràng. 2/ Ban đầu, nước Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam 3/ Sau một thời kỳ bị lệ thuộc, không biết kéo dài bao lâu, Chân Lạp dần lớn mạnh. Không những họ dứt bỏ được ách thống trị mà còn đánh lại và bắt Phù Nam thần phục lại mình. Sự kiện này xảy ra vào giữ thế kỷ thứ VI. Từ đấy trở đi, Phù Nam bị diệt vong hẳn và đất nước của họ bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Một vấn đề cần lưu ý nữa, đó là có người cho rằng: “ Ở đâu có người Khơme cư trú, thì nơi ấy là lãnh thổ của nước Campuchia ( tức Chân Lạp xưa)”. Thực tế của thế giới cho chúng ta thấy: Biên giới sắc tộc không nhất thiết trùng hợp với biên giới quốc gia. Như tộc người Xlavơ ở Đông Âu trong quá trình lịch sử, họ đã thành lập nên nhiều quốc gia khác nhau. Như tộc người Thái ở Thái Lan, họ cũng có mặt tại Lào, miền Nam Trung Quốc, miền Bắc Việt Nam… Vì vậy, nếu ta chưa thấu hiểu Phù Nam, Chân Lạp là 2 quốc gia khác nhau; và nếu ta chỉ căn cứ vào yếu tố sắc tộc để nói rằng: Cư dân Phù Nam, Chân Lạp cùng là tộc người Khơme nên 2 quốc gia này chỉ là một, thì đó là một qui kết không đúng với thực tế lịch sử. GS Hà Văn Tấn, nguyên là viện trưởng Viện khảo cổ học Việt Nam, qua những gì tìm thấy sau nhiều đợt khai quật tại nhiều địa điểm khác nhau, đã khẳng định: Ngoài khu vực tứ giác Long Xuyên…từ năm 1993 đến nay các nhà khảo cổ học đã tiến hành điều tra, khai quật và tìm thấy các chứng tích thuộc văn hóa Phù Nam tại di tích tháp Vĩnh Hưng (Minh Hải), tháp Bình Thạnh (Tây Ninh), di chỉ Gò Cây Trung ở An Giang, Gò Cao Su ở Long An vv… Các nhà khảo cổ đã bằng cứ liệu khoa học đang làm sáng tỏ lịch sử của vùng đồng bằng Nam Bộ, một phần đất có tinh hoa của nền văn hóa Oc Eo (Phù Nam) Nay việc phát hiện thêm di tích Cát Tiên (cũng thuộc Phù Nam cổ)cùng những thư tịch xa xưa, có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định chủ quyền lãnh thổ của đất nước. …Trong Trần Đường Thư có ghi: Chân Lạp có tên là Cát Nhật, Cát Nhật tức là Khơme. Phù Nam là vương quốc rộng lớn, phồn thịnh tồn tại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VII. Theo thư tịch Trung Quốc, vào thế kỷ thứ VII, một phần đất đai của Phù Nam bị Chân Lạp thôn tính. Với những tư liệu về các quốc gia cổ ở Nam Việt Nam, tôi khẳng định Chân Lạp đúng là Khơme, Phù Nam không phải là Khơme, Khơme cũng chỉ là người xâm lược đất của Phù Nam mà thôi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2007 06:12:27 bởi rongxanhag >
|